BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ BẢO KHANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ BẢO KHANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9340403
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết 2. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Vân
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ
ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Nghiên cứu sinh
i
Trần Thị Bảo Khanh
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia, tôi
đã hoàn thành luận án tiến sĩ quản lý công. Tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới tập thể nhà khoa học đã tận tình hướng dẫn trong
suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận án: PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết và
PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Vân, Học viện Hành chính Quốc gia.
Đồng thời, tác giả luận án xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Ban Lãnh đạo
Học viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học, Khoa Quản lý nhà nước về xã
hội, các thầy, cô là giảng viên tại Học viện Hành chính Quốc gia và các tổ chức,
cá nhân liên quan khác đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình giúp đỡ, góp ý về
chuyên môn trong suốt quá trình tác giả học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận án xin gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo Trường Đại học Công
đoàn và Khoa Quản trị nhân lực Trường Đại học Công đoàn nơi tác giả công tác
đã tạo mọi điều kiện để tác giả tham gia học tập, nghiên cứu tại Học viện Hành
chính Quốc gia. Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và các đồng
nghiệp đã luôn động viên, chia sẻ, hỗ trợ và tạo điều kiện tốt nhất giúp tác giả
vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan, chắc chắn kết quả nghiên
cứu của luận án vẫn còn những thiết sót nhất định. Tác giả rất mong tiếp tục nhận
được những ý kiến đóng góp để giúp cho luận án được hoàn thiện hơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Nghiên cứu sinh
ii
Trần Thị Bảo Khanh
DANH MỤC CHỮ VIÊT TẮT
STT Chữ viết tắt Nội dung
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1
2 CNTT Công nghệ thông tin
3 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐHQG-HCM Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 4
5 ĐNGV Đội ngũ giảng viên
6 ĐTBD Đào tạo, bồi dưỡng
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo 7
8 GDĐH Giáo dục đại học
9 GVĐH Giảng viên đại học
10 KHCN Khoa học - công nghệ
11 KTXH Kinh tế - xã hội
12 NCKH Nghiên cứu khoa học
13 NNL Nguồn nhân lực
14 NNL GVĐH Nguồn nhân lực giảng viên đại học
15 NXB Nhà xuất bản
16 QLNN Quản lý nhà nước
iii
17 UBND Ủy ban Nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng STT Trang
1. Bảng 3.1. Dân số khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 82
2012 – 2016
2. Bảng 3.2. Quy mô và loại hình trường đại học Việt Nam giai 85
đoạn 2012 – 2017
3. Bảng 3.3. Quy mô đại học khu vực đồng bằng sông Hồng 86
theo tỉnh/thành giai đoạn 2012 – 2017
4. Bảng 3.4. Quy mô đại học công lập trong tổng số các trường 87
đại học khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012 –
2017
5. Bảng 3.5. Quy mô sinh viên đại học khu vực đồng bằng sông 88
Hồng giai đoạn 2012 – 2017
6. Bảng 3.6. Quy mô giảng viên đại học công lập khu vực đồng 89
bằng sông Hồng giai đoạn 2012 – 2017
7. Bảng 3.7. Quy mô giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ 90
khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012 - 2017
8. Bảng 3.8. Cơ cấu trình độ giảng viên đại học công lập trực 94
thuộc Bộ tại mỗi tỉnh/thành khu vực đồng bằng sông Hồng
giai đoạn 2012 – 2017
9. Bảng 3.9. Cơ cấu trình độ giảng viên đại học công lập trực 95
thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012 –
iv
2017
10. Bảng 3.10. Tỷ lệ giảng viên có học hàm Giáo sư, Phó Giáo 99
sư các trường đại học công lập trực thuộc Bộ của các
tỉnh/thành khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012 –
2017
11. Bảng 3.11. Mục tiêu quy hoạch phát triển nguồn nhân lực 102
giảng viên đại học công lập năm 2020
12. Bảng 3.12. Kết quả khảo sát các tiêu chí cần được chú trọng 112
trong tuyển dụng giảng viên đại học
13. Bảng 3.13. Kết quả khảo sát hình thức tạo nguồn làm hạn 113
chế chất lượng đội ngũ giảng viên
14. Bảng 3.14. Chế độ tiền lương đối với giảng viên đại học 118
công lập
15. Bảng 3.15. Kết quả khảo sát khả năng tạo động lực để giảng 120
viên tự phát triển năng lực của các chính sách đối với giảng
viên đại học hiện nay
16. Bảng 3.16. Kết quả khảo sát nội dung cần chú trọng nhất 124
trong đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học
17. Bảng 3.17. Kết quả khảo sát nguyên nhân dẫn tới những hạn 125
v
chế trong phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
MỤC LỤC
Trang
I LỜI CAM ĐOAN
ii LỜI CẢM ƠN
iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
iv DANH MỤC CÁC BẢNG
1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 8
7. Những đóng góp mới của luận án 9
8. Cấu trúc của luận án 10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
11 QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 11
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục đại học 11
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực giảng
viên đại học và phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học 16
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về phát
triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực giảng viên đại học 24
1.2. NỘI DUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐỀ CẬP VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 29
1.2.1. Những nội dung các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã
đề cập 29
vi
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 32
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
33 TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 33
2.1.1. Giáo dục đại học 33
2.1.2. Đại học công lập 34
2.1.3. Nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 36
2.1.4. Phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 42
2.1.5. Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập 49
2.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 56
2.2.1. Định hướng sự phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 56
2.2.2. Điều chỉnh sự phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 57
2.2.3. Bảo đảm sự hỗ trợ và tạo điều kiện của Nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực giảng viên đại học 57
2.2.4. Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giảng viên
đại học công lập 58
2.3. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 61
2.3.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập 61
2.3.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phát
triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 62
2.3.3. Tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 64
2.3.4. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền lương và phụ cấp đối
với nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 65
2.3.5. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 66
vii
2.3.6. Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính phát triển nguồn nhân lực
giảng viên đại học công lập 67
2.3.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong phát triển nguồn nhân
lực giảng viên đại học 68
2.4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 69
2.4.1. Thể chế quản lý 69
2.4.2. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất 69
2.4.3. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý 70
2.4.4. Điều kiện phát triển của quốc gia, khu vực, địa phương 71
2.4.5. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa 72
2.5. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN
ĐẠI HỌC CỦA MỘT SỐ VÙNG TRONG NƯỚC 73
2.5.1. Kinh nghiệm quản lý nguồn nhân lực giảng viên đại học một số
vùng trong nước 73
2.5.2. Bài học kinh nghiệm đối với quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng 78
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 80
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
81 KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1. KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ HỆ
THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC ĐỒNG 81
BẰNG SÔNG HỒNG
3.1.1. Khái quát về khu vực đồng bằng sông Hồng 81
3.1.2. Khái quát về hệ thống các trường đại học công lập ở khu vực đồng
bằng sông Hồng 84
3.2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 89
viii
3.2.1. Quy mô và cơ cấu nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu
vực đồng bằng sông Hồng 89
3.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực
đồng bằng sông Hồng 96
3.3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Ở VIỆT NAM 100
3.3.1. Thực trạng quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực
giảng viên đại học công lập 100
3.3.2. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 103
3.3.3. Thực trạng tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập 110
3.3.4. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền lương và
phụ cấp đối với nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập 118
3.3.5. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập 120
3.3.6. Thực trạng hỗ trợ và huy động các nguồn lực phát triển nguồn nhân
lực giảng viên đại học công lập 126
3.3.7. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong phát triển
nguồn nhân lực giảng viên đại học 129
3.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 131
3.4.1. Những kết quả đạt được 131
3.4.2. Những hạn chế 134
3.4.3. Nguyên nhân của thực trạng 141
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 144
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
ix
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG
VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG
145 HỒNG
4.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 145
4.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục và phát triển khu vực
đồng bằng sông Hồng 145
4.1.2. Định hướng của ngành Giáo dục về phát triển nguồn nhân lực giảng
viên đại học 149
4.1.3. Quan điểm của tác giả luận án trong việc hoàn thiện quản lý nhà
nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực
đồng bằng sông Hồng 150
4.1.4. Bối cảnh, yêu cầu hoàn thiện quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng 152
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 154
4.2.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập phải gắn với yêu cầu phát triển giáo dục đại học và phát triển
khu vực đồng bằng sông Hồng 154
4.2.2. Tăng cường sự phối hợp trong tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học 156
4.2.3. Tuyển dụng và sử dụng giảng viên đại học công lập theo đúng tiêu
chuẩn chức danh và vị trí việc làm 158
4.2.4. Cụ thể hóa, điều chỉnh và triển khai thực hiện chính sách tiền lương
và phụ cấp cho nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng
bằng sông Hồng 160
4.2.5. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
theo chuẩn và theo yêu cầu thực tế của đại học công lập ngành và khu vực
x
đồng bằng sông Hồng 162
4.2.6. Huy động, phân bổ hợp lý và đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực
tài chính, cơ sở vật chất cho phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập 164
4.2.7. Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
quy định pháp luật liên quan đến phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập 167
4.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 168
4.3.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo 168
4.3.2. Đối với các Bộ và chính quyền các địa phương khu vực đồng bằng
sông Hồng 169
4.3.3. Đối với các trường đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng 170
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 172
173 KẾT LUẬN
176 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
177 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
xi
188 PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
Giáo dục đại học có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân Việt Nam, có nhiệm vụ cơ bản là đào tạo đội ngũ NNL trình độ
cao phục vụ phát triển KTXH của đất nước. Tại Việt Nam, GDĐH đã cung cấp
hàng triệu nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, hàng vạn lao động có trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt của quá trình
CNH, HĐH đất nước, của phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập
quốc tế.
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu phát triển và
hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay đòi hỏi các cơ sở GDĐH phải cung cấp đội
ngũ NNL chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển đất nước. Bối cảnh đó cũng
đang đặt ra nhiều thách thức đối với GDĐH, đặc biệt phải coi trọng lực lượng
nòng cốt và quyết định chất lượng đào tạo, khẳng định giá trị, thương hiệu của
cơ sở đại học đó là nguồn nhân lực GVĐH.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, trong đó xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
góp phần nâng cao chất lượng NNL là một trong ba khâu đột phá để bảo đảm
cho thắng lợi của chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ 2011 đến
2020”. Nghị quyết chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với sự nghiệp
đào tạo NNL cho đất nước.
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã xác định phát triển NNL, nhất là NNL chất
lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã
hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững”.
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
1
Để có được NNL chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội đòi hỏi phải bắt đầu từ việc nâng cao chất lượng NNL giảng viên đại học vì
đây được coi là “máy cái” sản sinh ra NNL bậc cao của đất nước. Ở Việt Nam,
các trường đại học công lập vẫn đang chiếm số lượng áp đảo trong hệ thống các
cơ sở giáo dục đại học. Chất lượng NNL GVĐH công lập do đó sẽ có vai trò
quyết định đối với chất lượng NNL phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển NNL
GVĐH cho cả nước nói chung và cho khu vực ĐBSH nói riêng. Trong chiến
lược đổi mới giáo dục, có rất nhiều nhiệm vụ cần được thực hiện đồng bộ, trong
đó phát triển ĐNGV có chất lượng cao là một nhiệm vụ cần được quan tâm
hàng đầu.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI xác định: “Phát triển đội ngũ nhà
giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”. Một số nhiệm vụ cụ thể cần
triển khai gồm: xây dựng quy hoạch, kế hoạch ĐTBD đội ngũ nhà giáo gắn với
nhu cầu phát triển KTXH; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo; giảng viên cao
đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được ĐTBD nghiệp vụ sư
phạm; có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo; lương của nhà giáo được ưu tiên xếp
cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ
cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ
phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,
đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất. Tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
Hoạt động QLNN về phát triển NNL giáo dục – đào tạo nói chung và
NNL GVĐH nói riêng là một trong những hoạt động đảm bảo cho giáo dục đào
tạo phát triển bền vững, chất lượng ngày càng cao đáp ứng được những yêu cầu
của xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn, QLNN về phát triển NNL GVĐH nói
chung và NNL GVĐH khu vực ĐBSH còn nhiều hạn chế. Thể chế pháp luật về
2
phát triển NNL GVĐH còn phức tạp, chồng chéo. QLNN về phát triển NNL
GVĐH còn phân tán giữa cơ quan có chức năng QLNN về giáo dục và cơ quan
chủ quản. Chưa có quy hoạch riêng cho phát triển NNL GVĐH nói chung và
NNL GVĐH công lập nói riêng gắn với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH
của cả nước và của khu vực ĐBSH. Các chính sách về tuyển dụng, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng, trả lương và phụ cấp chưa đủ mạnh để tạo động lực cho đội ngũ
GVĐH và chưa tính đến các yếu tố đặc thù của môi trường hàn lâm.
Khu vực ĐBSH, nơi tập trung nhiều trường đại học công lập có uy tín và
ĐNGV và các nhà khoa học tinh hoa của cả nước, nơi đào tạo nhiều ngành nghề
kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội quan trọng cho cả nước, là một trong những
địa bàn quan trọng nhất trong việc cung cấp NNL chất lượng cho đất nước. Tuy
nhiên, chất lượng và hiệu quả GDĐH tại khu vực ĐBSH chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự mong đợi của nhân dân. Có nhiều
nguyên nhân cho thực tế này, trong đó có nguyên nhân từ công tác QLNN về
phát triển NNL GVĐH các trường đại học công lập còn hạn chế. Việc nghiên
cứu, phân tích, đề ra các giải pháp về QLNN nhằm phát triển NNL GVĐH công
lập khu vực ĐBSH do đó có ý nghĩa thực tiễn cao.
Xuất phát từ những lý do trên nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Quản lý
nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực
đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam” để thực hiện. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp thiết hiện nay. Những giải pháp của luận án có thể góp
phần hoàn thiện QLNN đối với các trường đại học công lập cũng như nâng cao
năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận án góp phần hoàn thiện QLNN về phát triển
NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu như trên, luận án tập trung thực
hiện các nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
3
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận QLNN về phát triển NNL GVĐH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở nước ta
hiện nay.
- Tổng hợp các quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở Việt Nam trong
giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu nội dung QLNN về phát triển NNL GVĐH
công lập.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Quản lý nhà nước về phát triển NNL GVĐH công lập gồm
nhiều nội dung nhưng Nghiên cứu sinh chỉ tập trung nghiên cứu 07 nội dung: (1)
Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển NNL GVĐH công lập; (2) Xây dựng và tổ
chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phát triển NNL GVĐH công lập;
(3) Tuyển dụng và sử dụng NNL GVĐH công lập; (4) Tổ chức thực hiện chính
sách tiền lương và phụ cấp đối với NNL GVĐH công lập; (5) Đào tạo và bồi
dưỡng NNL GVĐH công lập; (6) Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính phát
triển NNL GVĐH công lập; (7) Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong phát
triển NNL GVĐH công lập.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu QLNN về phát triển NNL GVĐH
công lập ở khu vực ĐBSH ở Việt Nam. Trong đó, phần thực trạng tập trung nghiên
cứu đối với nhóm trường đại học công lập trực thuộc sự quản lý của các Bộ.
Không nghiên cứu đối với các trường đại học công lập trực thuộc cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu và phân tích thực trạng QLNN về phát
triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở Việt Nam từ khi có Luật Giáo dục
đại học 2012 (Luật số 08/2012/QH13 của Quốc hội), trong đó, phần số liệu được
sử dụng để phân tích thực trạng lấy từ năm 2012 đến 2017. Các giải pháp và
4
khuyến nghị được đề xuất cho giai đoạn tiếp theo, chủ yếu từ năm 2018-2025.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu và thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lê nin về phép duy vật biện chứng và lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực các ngành, lĩnh vực; quan điểm của
Đảng, định hướng của ngành Giáo dục về phát triển NNL và NNL giáo dục.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng
các phương pháp cụ thể như sau:
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Luận án đã sử dụng các phương pháp phân tích, xử lý thông tin và tổng hợp
khi nghiên cứu các văn kiện của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, tài
liệu, giáo trình, công trình, bài viết có liên quan nhằm hệ thống hóa, khái quát hóa
lý luận cũng như xác định cơ sở thực tiễn của QLNN về phát triển NNL GVĐH.
Luận án cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng, bổ sung và phát triển
các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài.
4.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học
- Để đảm bảo tính xác thực của đề tài, tác giả luận án sử dụng phương pháp
điều tra xã hội học thông qua bảng hỏi đối với người có thẩm quyền QLNN về
GDĐH; người có thẩm quyền quản lý tại các trường đại học công lập khu vực
ĐBSH và đội ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH. Cơ cấu 3 mẫu phiếu như sau:
+ Phiếu dành cho giảng viên: Tác giả thiết kế phiếu dành cho giảng viên
gồm các phần chính với nội dung như sau: Phần thông tin của giảng viên bao gồm:
thông tin về hạng giảng viên, trình độ, thâm niên công tác. Phần nội dung chính
bao gồm: (i) Hoạt động phát triển giảng viên của các cơ sở đào tạo, (ii) Phương
thức phát triển nguồn nhân lực giảng viên, (iii) Các tiêu chuẩn của giảng viên, (iv)
Nâng cao năng lực giảng viên, (v) Các chính sách phát triển giảng viên.
+ Phiếu dành cho vị trí lãnh đạo thuộc trường đại học: Phần thông tin của
giảng viên bao gồm: Thông tin về cán bộ lãnh đạo, trình độ, thâm niên công tác.
Phần nội dung chính bao gồm (i) Nhận thức về tầm quan trọng phát triển giảng
5
viên, (ii) Hoạt động phát trển đội ngũ giảng viên; (iii) Cách thức tạo nguồn giảng
viên có chất lượng, (iv) Tiêu chuẩn tuyển dụng, (v) Nâng cao năng lực giảng viên,
(vi) Các chính sách phát triển giảng viên.
+ Phiếu dành cho người công tác tại cơ quan QLNN về GDĐH: Phần thông
tin chung bao gồm: Thông tin về cán bộ lãnh đạo, trình độ, thâm niên công tác.
Phần nội dung chính bao gồm (i) Nhận thức về tầm quan trọng phát triển giảng
viên, (ii) Đánh giá về hoạt động phát trển đội ngũ giảng viên (iii) cách thức tạo
nguồn giảng viên có chất lượng, (iv) tiêu chuẩn tuyển dụng, (v) Nâng cao năng lực
giảng viên, (vi) Các chính sách phát triển giảng viên, (vii) Kiểm định chất lượng
giảng viên.
- Tác giả thực hiện khảo sát tại 20 trường ĐHCL vùng ĐBSL, với đối tượng
và số lượng các phiếu như sau:
- Đội ngũ giảng viên: Tác giả đã lựa chọn và đảm bảo đủ về cơ cấu trình độ
đội ngũ GV từ trình độ cử nhân đến học hàm giáo sư.
Tác giả đã phát ra 700 phiếu, thu về được 660 phiếu có chất lượng được đưa
vào phân tích. Trong đó cử nhân 48 người, thạc sĩ 542 người, tiến sĩ 56 người, giáo
sư, phó giáo sư là 32 người.
- Cán bộ quản lý tại các trường đại học: tác giả đã lựa chọn các cán bộ lãnh
đạo cơ sở đào tạo từ cấp lãnh đạo, quản lý nhà trường đến cấp bộ môn, cụ thể như
sau: Số phiếu phát ra 215 phiếu, thu về được 200 phiếu, trong đó lãnh đạo trường
(19 phiếu), khoa (46 phiếu), bộ môn (135 phiếu).
- Cán bộ, công chức làm ở cơ quan QLNN về GDĐH: Tác giả lựa chọn các
cán bộ công chức giữ các ngạch từ chuyên viên đến chuyên viên cao cấp đang làm
việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, bao gồm Vụ Giáo dục Đại học, Cục Nhà giáo và
Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (nay là Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục),
Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (nay là Cục Quản lý chất lượng),
Bộ GD&ĐT, cụ thể như sau: Số phiếu phát ra 90 phiếu, thu về được 86 phiếu,
trong đó, 45 người ở ngạch chuyên viên, 37 người ở ngạch chuyên viên chính và
04 người ở ngạch chuyên viên cao cấp.
4.2.3. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
Trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu hồi cứu thu thập được và thông tin thống
6
kê chính thức từ cơ quan QLNN về GDĐH (Bộ Giáo dục và Đào tạo) và cơ quan
thống kê của Việt Nam (Tổng cục Thống kê), nghiên cứu sinh đã sử dụng phương
pháp này trong tính toán, đánh giá, phân tích thống kê thứ cấp các số liệu liên quan
được sử dụng trong luận án, để minh chứng cho số lượng, quy mô, mạng lưới các
trường đại học tại khu vực ĐBSH và số lượng, chất lượng, cơ cấu, trình độ của đội
ngũ GVĐH tại khu vực này.
Luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để phân tích và
tổng hợp hệ thống quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, định
hướng và mục tiêu của ngành GD&ĐT về phát triển NNL giảng viên và NNL
GVĐH công lập, phân tích và tổng hợp các số liệu minh chứng cho tình hình, thực
trạng QLNN, tổng hợp những kết quả đạt được trong QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập, phân tích nguyên nhân của những kết quả đạt được hay những
tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế của QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập, từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập khu vực ĐBSH.
4.2.4. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp
chuyên gia, trực tiếp trao đổi, tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản
lý thuộc lĩnh vực nghiên cứu, những người có kinh nghiệm về các vấn đề liên quan
tới đề tài luận án. Việc tham khảo ý kiến chuyên gia giúp tác giả tập hợp được các
quan điểm, nhận định thực tế về QLNN đối với phát triển NNL GVĐH công lập từ
các góc nhìn khác nhau, từ đó tác giả phân tích, nghiên cứu theo định hướng hợp
lý, khoa học để đề xuất các giải pháp QLNN phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
4.2.5. Kỹ thuật xử lý thông tin, số liệu
Để xử lý số liệu thu thập được thông qua các bảng hỏi điều tra đã tiến hành
trong quá trình nghiên cứu và số liệu thống kê chính thức của cơ quan QLNN về
GDĐH, tác giả luận án đã sử dụng phần mềm Excel, phần mềm chuyên dụng xử lý
số liệu SPSS.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- QLNN về phát triển NNL GVĐH đã được nghiên cứu như thế nào?
7
- QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập được thực hiện dựa trên những
cơ sở lý luận nào?
- Thực trạng QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập ở khu vực ĐBSH
đã đạt được những kết quả và hạn chế như thế nào? Nguyên nhân của những kết
quả đạt được và hạn chế là gì?
- Để hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH
ở Việt Nam hiện nay cần dựa vào quan điểm, định hướng nào và cần những giải
pháp gì?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Nguồn nhân lực GVĐH luôn đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng
đào tạo của bất kỳ cơ sở GDĐH nào. Phát triển NNL GVĐH công lập khu vực
ĐBSH ở Việt Nam thời gian qua vẫn chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức.
Trình độ, năng lực đội ngũ GV vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và
nâng cao chất lượng GDĐH. Có nhiều nguyên nhân của thực tế trên, trong đó
nguyên nhân cơ bản là do quản lý nhà nước về phát triển NNL GVĐH công lập
khu vực ĐBSH chưa được thực hiện hiệu quả. Vì vậy, cần nghiên cứu đề xuất các
giải pháp hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH
theo hướng tập trung vào các nội dung cơ bản: quy hoạch và kế hoạch hóa, thể chế,
chính sách tuyển dụng và sử dụng, chính sách tiền lương và phụ cấp, chính sách
đào tạo và bồi dưỡng, huy động và sử dụng nguồn lực tài chính. Nếu các giải pháp
được đề xuất trên cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ góp phần phát triển NNL GVĐH
công lập khu vực ĐBSH, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo đại học
phục vụ phát triển KTXH khu vực ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Luận án đã hệ thống hóa, bổ sung và phát triển được cơ sở lý luận QLNN
về phát triển NNL GVĐH công lập.
6.2. Về thực tiễn
- Luận án đã phân tích, đánh giá được thực trạng QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập khu vực ĐBSH.
- Luận án đã tổng hợp được các quan điểm, định hướng phát triển khu vực
8
ĐBSH và GDĐH, đồng thời đề xuất được 07 giải pháp hoàn thiện QLNN về phát
triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH trong thời gian tới, đó là: (i) Quy
hoạch, kế hoạch hóa phát triển NNL GVĐH công lập phải gắn với yêu cầu phát
triển GDĐH và yêu cầu phát triển của khu vực ĐBSH; (ii) Tăng cường sự phối
hợp trong tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển NNL
GVĐH; (iii) Tuyển dụng và sử dụng GVĐH công lập theo đúng tiêu chuẩn chức
danh và vị trí việc làm; (iv) Cụ thể hóa, điều chỉnh và triển khai thực hiện chính
sách tiền lương và phụ cấp cho NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH; (v) Đào tạo
và bồi dưỡng NNL GVĐH công lập theo chuẩn và theo yêu cầu thực tế của đại học
công lập ngành và khu vực ĐBSH; (vi) Huy động, phân bổ hợp lý và đảm bảo sử
dụng hiệu quả nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cho phát triển NNL GVĐH công
lập; (vii) Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm quy
định pháp luật liên quan đến phát triển NNL GVĐH công lập.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích
đối với các nhà quản lý, hoạch định chính sách phát triển GDĐH trong cải cách
GDĐH thời gian tới, đồng thời, có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu
tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy trong QLNN về giáo dục và chính sách
công.
7. Những đóng góp mới của luận án
- Tổng quan được nội dung công trình đã được nghiên cứu của các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước về GDĐH, NNL GVĐH, phát triển NNL GVĐH và
QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập.
- Hệ thống hóa, phân tích, bổ sung và làm rõ những cơ sở lý luận QLNN về
phát triển NNL GVĐH công lập trong bối cảnh đổi mới, cải cách QLNN về giáo
dục ở nước ta hiện nay.
- Hệ thống, phân tích và đánh giá được thực trạng các trường đại học công
lập và NNL GVĐH công lập trực thuộc Bộ tại khu vực ĐBSH cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá được thực trạng QLNN về phát triển NNL
giảng viên trong các trường đại học công lập khu vực ĐBSH ở nước ta, xác định
được kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
9
- Tổng hợp các quan điểm của Đảng, định hướng, mục tiêu của ngành Giáo
dục và Đào tạo, đề xuất được 07 giải pháp và một số khuyến nghị đối với các cơ
quan chức năng liên quan nhằm hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH
công lập khu vực ĐBSH ở nước ta trong những năm tới.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
giảng viên đại học công lập.
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng
viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về phát
triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng.
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục đại học
Giáo dục đại học có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong những năm qua, các nghiên cứu liên quan đến
GDĐH đã được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện và được
công bố dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong tác phẩm “Self-Study processes: A guide to self-evaluation in higher
education (Các tiến trình tự học: Hướng dẫn tự đánh giá trong giáo dục đại học)”,
Phoenix, AZ: Oryx Press, tác giả Kells, H. R. (1995) giới thiệu khía cạnh tự đánh
giá trong GDĐH, một nội dung trong quá trình đo lường và bảo đảm chất lượng
GDĐH [125]. Các nội dung trong cuốn sách mô tả cụ thể các bước và hướng dẫn
cách thức thiết kế, xây dựng một chương trình tự đánh giá trong GDĐH phù hợp
với điều kiện của tổ chức GDĐH.
Báo cáo “Greater Expectations: A New Vision for Learning as Nation Goes
to College-National Panel Report (Kỳ vọng lớn: Tầm nhìn mới về học tập khi tiếp
cận báo cáo của Hội đồng giáo dục đại học quốc gia)” (2002) của American
Association of Colleges and Universities đã tóm tắt những nội dung và nguyên tắc
cho việc tổ chức GDĐH trong tương lai cần được hướng tới của hệ thống GDĐH
[117]. Tài liệu “Characteristics of excellence in higher education (Những đặc
trưng tốt của giáo dục đại học)”, Philadelphia, PA, Middle States Commission on
Higher Education (2002) cũng đã làm rõ những vấn đề cơ bản và hiện đại trong
xác định đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của GDĐH trong xã hội hiện đại [127].
Southeast Asian Ministers of Education Organization (2003) trong tác phẩm
“Framework for regional quality assurance cooperation in higher education
(Khuôn khổ hợp tác đảm bảo chất lượng giáo dục đại học khu vực)” đã đề cập tới
khía cạnh quản lý, hợp tác giữa các chủ thể và phạm vi khác nhau trong bảo đảm
11
chất lượng GDĐH. Với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho GDĐH có thể đến từ
các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ chức phi chính
phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện. Nguồn kinh phí dồi dào mang lại cho các
trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng viên giỏi cũng như
xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên [132].
Đứng trước bối cảnh của quá trình toàn cầu hóa và sự bùng nổ của tri thức,
các trường đại học ở Hoa Kỳ, một quốc gia được xem như có hệ thống đại học tiên
tiến nhất thế giới cũng đứng trước những khủng hoảng. Hệ thống giáo dục bậc cao
đã và đang có những thay đổi to lớn để thích ứng với môi trường mới. Tác giả
Donald E. Hanna (2003) trong tác phẩm “Building a Leadership Vision: Eleven
Strategic Challenges for Higher Education (Xây dựng tầm nhìn lãnh đạo: Mười
một thách thức chiến lược đối với giáo dục đại học)” đã phân tích 11 thách thức
chiến lược trong phát triển các trường đại học và chỉ rõ những xu hướng thay đổi
trong văn hóa hàn lâm của các trường đại học trong bối cảnh của toàn cầu hóa và
sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đang diễn ra trên toàn thế giới [121].
Ngân hàng thế giới World Bank trong báo cáo “Việt Nam: Giáo dục đại học
và kỹ năng cho tăng trưởng” (2008) đã phân tích những vấn đề từ thực tiễn GDĐH
ở Việt Nam dưới góc nhìn quốc tế. Báo cáo đã chỉ ra những bất cập, hạn chế của
GDĐH Việt Nam hiện nay trong mối tương quan so sánh trên nhiều số liệu về
GDĐH của các quốc gia trên thế giới gắn với những thiếu hụt về kỹ năng của
NNL. Đồng thời, báo cáo đã chỉ ra mối quan hệ của trình độ NNL với mức thu
nhập của họ và làm rõ lợi ích mà NNL có trình độ kỹ năng cao có thể đem lại trong
chiến lược chung về phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, báo cáo đưa ra những
khuyến nghị quan trọng để phát triển GDĐH hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế quốc
gia [98].
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu trong nước về lĩnh vực này cũng rất
phong phú, bao gồm các nhóm công trình sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về giáo dục đại học Việt Nam trong xu
hướng cải cách giáo dục.
Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI.
Tác giả cuốn sách đã giới thiệu chung về lịch sử văn hóa Việt Nam, bối cảnh môi
12
trường thế kỷ XXI, tính chất và nguyên lý của nền giáo dục, hệ thống giáo dục
Việt Nam hiện nay, vấn đề cải cách giáo dục, các cấp giáo dục ở Việt Nam [74].
Trong phần GDĐH, tác giả đã giới thiệu lịch sử, mục tiêu, nội dung, phương pháp,
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng hiện nay, nội dung quản lý sinh viên và
quản lý sau đại học, vấn đề tổ chức quản lý NNL và phương hướng phát triển giáo
dục ở nước ta.
Tác giả Bùi Thị Ngọc Lan (2002) với cuốn “Nguồn lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam” đã chỉ ra vai trò quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối
với sự phát triển của xã hội, đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng và xu hướng
phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó khẳng định sự cần thiết phải chăm lo
phát triển và phát huy cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp như: nâng cao nhận thức của
toàn xã hội về sự cần thiết phải phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi
mới; cải cách hệ thống GD&ĐT nhằm tạo nguồn cho quá trình phát huy nguồn lực
trí tuệ; tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy nguồn lực trí tuệ; xây dựng môi
trường văn hóa, xã hội lành mạnh thúc đẩy sự phát triển cao và bền vững của
nguồn lực trí tuệ Việt Nam [90].
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai: Vấn đề và giải pháp. Các tác giả đã giới thiệu tổng quan tình hình chung
của giáo dục Việt Nam hiện nay và chỉ ra những bất cập, hạn chế của hệ thống
giáo dục, trong đó có GDĐH trước yêu cầu của xã hội và thế giới. Từ đó, các tác
giả đưa ra một số giải pháp cơ bản đề hoàn thiện hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng
xu hướng hội nhập [53].
Đối với việc tiếp cận với các xu hướng cải cách giáo dục, tác phẩm “Kinh
nghiệm một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn
với xây dựng đội ngũ trí thức” của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2010) đã
phân tích chính sách phát triển GD&ĐT, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng
đội ngũ trí thức của các nước Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Công trình nghiên cứu này đã làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát
triển của đất nước, đã phân tích những kinh nghiệm phát triển giáo dục đào tạo gắn
với xây dựng đội ngũ trí thức phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, tác phẩm
13
đã phân tích một số bài học kinh nghiệm nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ở Việt
Nam: Nhà nước đóng vai trò quyết định nhất tới việc phát triển đội ngũ trí thức
khoa học và công nghệ; cần đưa việc phát hiện và bồi dưỡng, thu hút và sử dụng
nhân tài thành một chiến lược hết sức quan trọng trong thời kỳ CNH, HĐH; cần
thiết lập môi trường khoa học thuận lợi cho việc phát hiện, đào tạo, phát triển và
trọng dụng nhân tài, tạo thuận lợi cho tự do tư duy, tự do sáng tạo của trí thức
[100].
Tác giả Hàn Viết Thuận (2014) trong báo cáo khoa học “Đổi mới nền giáo
dục đại học Việt Nam hướng đến sự phát triển của nền kinh tế tri thức” đã phân
tích vai trò của GDĐH trong nền kinh tế tri thức thông qua việc đào tạo một lực
lượng lao động có thể tiếp thu các kỹ thuật mới, có khả năng thúc đẩy sáng tạo và
phát triển công nghệ. Trong điều kiện hạn hẹp về ngân sách, không thể giải quyết
tất cả mọi vấn đề trong cùng một lúc, tác giả đã đề xuất tập trung vào một trong
những “mũi nhọn” có tính đột phá là hội nhập quốc tế, con đường ngắn nhất để
các trường đại học Việt Nam tiếp cận được với trình độ của các trường đại học có
uy tín trên thế giới bằng con đường chuyển giao công nghệ giáo dục [107].
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về chất lượng và kiểm định chất lượng
giáo dục đại học.
Tác giả Nguyễn Đức Chính (2000) trong đề tài khoa học độc lập cấp nhà
nước: “Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo dùng cho các
trường đại học Việt Nam”, đã phân tích thực tiễn công tác đánh giá giảng viên của
các trường đại học trên thế giới và Việt Nam bao gồm hệ thống tiêu chí đánh giá
và phương pháp đánh giá giảng viên. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất bộ tiêu chí
đánh giá năng lực giảng dạy của GVĐH. Về phía Nhà nước, trước hết, cần có
chính sách về chất lượng đối với GDĐH Việt Nam [58]. Chính sách này thực chất
là một tuyên ngôn về chất lượng nhằm tạo động lực cho các trường không ngừng
phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và NCKH. Tiếp đến là sớm hình thành một
tổ chức chuyên trách về bảo đảm và đánh giá chất lượng đào tạo, có thể của Bộ
GD&ĐT, của Chính phủ hay của Hội đồng Quốc gia về giáo dục. Thứ ba, cần có
bộ công cụ và quy trình để thực hiện. Hệ thống bảo đảm chất lượng buộc các
trường phải luôn có ý thức xây dựng điều kiện bảo đảm chất lượng, đồng thời
14
nhằm tạo điều kiện để các trường hội nhập với nền giáo dục thế giới.
Trong cuốn “Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học”, tác giả
Nguyễn Đức Chính (2005) đã chỉ ra sự cần thiết của thực hiện kiểm định chất
lượng GDĐH, cơ sở nâng cao tính trách nhiệm trong quản lý chất lượng GDĐH,
cơ sở lý luận khoa học về đánh giá và kiểm định chất lượng GDĐH. Tác giả cũng
đã giới thiệu bộ tiêu chí đánh giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng, đưa
ra một số hướng dẫn kiểm định chất lượng dùng cho các trường đại học ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, tác giả đã phân tích và đánh giá mức độ thực hiện kiểm định
chất lượng GDĐH ở Việt Nam và đưa ra một số đề xuất đổi mới công tác kiểm
định chất lượng GDĐH [57].
Các tác giả Nguyễn Phương Nga và Nguyễn Quý Thanh (2009) trong cuốn
sách "Giáo dục đại học: Một số thành tố của chất lượng" đã giới thiệu các nội
dung của quá trình đào tạo từ những yếu tố đầu vào cho đến những yếu tố bảo đảm
chất lượng bên trong các trường đại học. Các nội dung chính của cuốn sách gồm:
đào tạo và phát triển NNL chất lượng cao thông qua GDĐH; cải tiến thi tuyển sinh
đại học sau 4 năm nhìn lại; kết quả nghiên cứu chỉ số thông minh (IQ) của sinh
viên Đại học Quốc gia Hà nội; sinh viên đánh giá giáo viên-thử nghiệm công cụ và
mô hình; Internet và hoạt động học tập của sinh viên; quan hệ giữa học vị khoa học
của giáo viên và kết quả học tập của sinh viên [97].
Nguyễn Văn Tuấn (2011), Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội
nhập. Tác giả cuốn sách đã nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống các nội
dung liên quan đến chủ đề chất lượng GDĐH. Tác giả quan niệm để nâng cao chất
lượng GDĐH không thể đứng ngoài những chuẩn mực về giáo dục đại học đã
được các nước tiên tiến thừa nhận từ lâu. Và như vậy, trên con đường hội nhập với
thế giới, cần thiết phải xem xét lại và thay đổi sao cho phù hợp với chuẩn mực
quốc tế từ quan niệm về đào tạo, các tiêu chuẩn về chất lượng dạy học, NCKH, về
hệ thống học hàm học vị cho đến nguồn cung cho đại học.
Các công trình trên nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn trong thực
hiện các biện pháp quản lý chung nhằm nâng cao chất lượng GDĐH trong đó có nội
dung quản lý và phát triển NNL GDĐH. Đây là các nội dung có liên quan gần với
đề tài luận án, tuy nhiên chưa phải là những vấn đề chính mà đề tài luận án nghiên
cứu, đó là QLNN đối với phát triển NNL GVĐH.
15
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực giảng
viên đại học và phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
Tác phẩm “Human Resource Management (Quản trị nguồn nhân lực)” của
Dolan, Shimon and Randall S. Schuler (1994) giới thiệu những vấn đề chung về
quản lý NNL, vai trò của NNL, các nội dung và phương pháp quản lý NNL nhằm
đạt được hiệu quả và tạo động lực làm việc đối với NNL trong môi trường tổ chức
[120].
Cùng nội dung này có các tác phẩm: “Human Resource Managemen (Quản
trị nguồn nhân lực)” của Ivancevich, John M (1998) [123]; tác phẩm “Personnel
Management and Industrial relations (Quản trị nhân lực và quan hệ công
nghiệp)”, Seventh Edition của Yoder, Dale and Paul D, Staudohar (1986) [137];
tác phẩm “Human Resource Management: Theory, skills, application (Quản trị nguồn nhân lực: Lý thuyết, kỹ năng, ứng dụng)”, 3rd Edition của Dessler, Griffiths,
Loyd Walker (2007) [122]; tác phẩm “Strategic Human Resource Management
(Quản trị nguồn nhân lực chiến lược)”của Jeffrey A. Mello (2006) [124]; tác
phẩm “Human Resource Management-Essential Perspectives (Quản trị nguồn nhân lực-Các hướng tiếp cận cần thiết)” 7th Edition của Robert L. Mathis và các
cộng sự (2015) [130]; tác phẩm “Human Resource Management: Contemporary
Issues, Challenges, and Opportunities (Quản trị nguồn nhân lực: Các vấn đề
đương đại, thách thức và cơ hội)” của Sims, Ronald R (2007) [131].
Trên thế giới hiện nay đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến cuộc chiến giành
người tài trong bối cảnh hội nhập, những yêu cầu trong đầu tư phát triển NNL chất
lượng cao trong chính sách nhân lực của các tổ chức, sự cần thiết của việc giữ chân
người tài, sử dụng và phát huy giá trị của nhân tài đối với sự thành công của các tổ
chức. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu này đề xuất việc xây dựng các chiến lược
tuyển dụng, khen thưởng, giữ chân và tạo động lực cho người tài.
Một số tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực này có thể kể đến gồm: “Make your
people before you make your products: Using Talent Management to Achieve
Competitive Advantage in Global Organizations (Xây dựng nguồn nhân lực trước
khi tạo ra sản phẩm hàng hóa: Sử dụng quản trị nhân tài để đạt được lợi thế cạnh
tranh trong các tổ chức có phạm vi hoạt động toàn cầu)” của Paul Turner và
16
Danny Kalman (2014) [128]; tác phẩm “The Talent Management Handbook:
Creating a Sustainable Competitive Advantage by Selecting, Developing, and
Promoting the Best People (Sổ tay quản trị nhân tài: Tạo lợi thế cạnh tranh bền
vững thông qua tuyển dụng và phát triển những người tài năng nhất)” của Lance
Berger và Dorothy Berger (2003) [126]; tác phẩm “Smart Talent Management:
Building Knowledge Assets for Competitive Advantage (Quản trị nhân tài thông
minh: Tạo dựng tài sản tri thức để có lợi thế cạnh tranh)” của Vlad Vaiman và
Charles M. Vance (2010) [134]; tác phẩm “The Talent Factor: Key Strategies for
Recruiting, Rewarding and Retaining Top Performers (Nhân tố tài năng: Chiến
lược tuyển dụng, đãi ngộ và giữ người tài)” của Terry Lunn (1992) [133]; tác
phẩm “The War for Talent (Con đường tìm kiếm nhân tài)” của Ed Michaels và
các cộng sự (2001) [119].
Các tác phẩm nói trên tập trung giới thiệu nội dung quản lý và phát triển
NNL trong các tổ chức nói chung, làm rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của quản lý NNL
và khuyến nghị các tổ chức cần phải tập trung nâng cao chất lượng NNL, coi chất
lượng NNL là lợi thế cạnh tranh cơ bản trong thích ứng với môi trường luôn biến
đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển.
Đối với các công trình nghiên cứu trong nước, có một số nhóm công trình
sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, thực trạng chất
lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Giáo trình “Quản trị nhân sự” của Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh (1993)
giới thiệu những vấn đề lý luận chung về quản trị nhân sự, các yếu tố tác động đến
quản trị nhân sự, các nội dung cơ bản trong quản trị nhân sự và mối quan hệ giữa
quản trị nhân sự với hiệu quả hoạt động của tổ chức. Một số nội dung cơ bản trong
quản trị nhân sự được tác giả đề cập tới gồm lập kế hoạch, tuyển dụng, sử dụng,
quản lý, đánh giá nhân sự trong tổ chức [69].
Trong giáo trình “Quản trị nhân lực”, các tác giả Nguyễn Ngọc Quân và
Nguyễn Vân Điềm (2012) đã giới thiệu những kiến thức cơ bản và hệ thống về
quản trị nhân lực trong tổ chức (Chính phủ, các tổ chức kinh doanh, các tổ chức về
giáo dục, các tổ chức bảo vệ sức khỏe, các tổ chức phục vụ vui chơi giải trí và các
17
tổ chức xã hội khác) từ khi người lao động bước vào làm việc đến khi ra khỏi quá
trình lao động tương ứng với ba giai đoạn: hình thành NNL; duy trì (sử dụng) NNL
và phát triển NNL trong tổ chức [104].
Các tác giả Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (2004) trong tác phẩm
“Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã tập
hợp các bài nghiên cứu, bài viết, bài tham luận tại Hội thảo của Đề tài KX.05.11
thuộc Chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước KX.05 (giai đoạn 2001-
2005), với các vấn đề về lý luận, kinh nghiệm và những khuyến nghị chính yếu
trong quản lý NNL Việt Nam. Công trình có ý nghĩa quan trọng để các cơ quan
Nhà nước tham khảo nhằm quản lý hiệu quả NNL Việt Nam, góp phần đẩy mạnh
CNH, HĐH và thực hiện công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
[99].
Đối với các bài viết đăng tạp chí chuyên ngành, bài viết “Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế” của tác giả Nguyễn Hữu Dũng (2002) trên Tạp chí Lý luận
chính trị số 8, T8/2002 đã đưa ra quan niệm về NNL chất lượng cao, sơ lược về
thực trạng NNL chất lượng cao ở nước ta hiện nay [66]. Trên cơ sở đó, tác giả đã
đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực này ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới.
Tác giả Bùi Thị Ngọc Lan (2007) với bài viết “Một số bổ sung, phát triển
trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam” đăng trên Tạp chí Lý luận
chính trị T2/2007 đã hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam về NNL qua các kỳ Đại hội của Đảng; làm rõ cơ sở lý luận của việc phát
triển NNL chất lượng cao theo tinh thần của Đại hội X của Đảng [91].
Tác giả Phan Thanh Khôi (2008) trong bài viết “Đóng góp của đội ngũ trí
thức vào chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế” đăng trên Tạp chí Lý
luận chính trị tháng 3/2008 đã làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng
của đội ngũ trí thức trong việc xây dựng luận cứ khoa học; bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật; đào tạo NNL; góp phần vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn. Đồng thời, tác giả đã đưa ra một số những giải pháp nhằm phát huy vai
18
trò của đội ngũ trí thức trong bối cảnh thực hiện CNH, HĐH hiện nay [88].
Trong giáo trình “Kinh tế nguồn nhân lực” của Trường Đại học Kinh tế
Quốc, các tác giả Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2008) đã hệ thống hóa các
vấn đề lý luận về quản lý NNL, ý nghĩa của quản lý NNL trong phát triển KTXH.
Các tác giả khẳng định đào tạo và phát triển NNL là yếu tố quyết định tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Một số nội dung cơ bản của quản lý NNL được giới thiệu
trong cuốn sách gồm: lập kế hoạch và quản lý năng suất lao động; đào tạo và phát
triển NNL; lập kế hoạch và quản lý năng suất lao động; chính sách, chế độ tiền
lương, các hình thức trả lương, trả thưởng; vấn đề bảo hiểm, an sinh xã hội; thị
trường lao động và các nhân tố ảnh hưởng [56].
Giáo trình “Quản lý học đại cương” của Học viện Hành chính (2008) giới
thiệu các vấn đề cơ bản liên quan đến quản lý tổ chức và quản lý NNL trong tổ
chức. Trong nội dung về quản lý NNL, giáo trình có đề cập đến các hoạt động
quản lý cơ bản đối với người làm việc trong tổ chức như tuyển dụng nhân sự, quản
lý nhân sự, đánh giá nhân sự, phát triển nhân sự. Các nội dung này gắn với chức
năng nhân sự trong tổng thể các chức năng cơ bản của quản lý [77].
Tác giả Hoàng Văn Châu (2009) có bài viết “Phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho hội nhập kinh tế-vấn đề cấp bách sau khủng hoảng”, Tạp chí
Kinh tế đối ngoại số 38/2009. Trong bài viết của mình, ở góc độ tiếp cận NNL có
trình độ cao - lực lượng lao động có học vấn, có trình độ chuyên môn cao được
đào tạo chủ yếu ở các trường đại học, tác giả đã đề cập tới thực trạng thị trường lao
động chất lượng cao ở Việt Nam, tác động của khủng hoảng tài chính tới thị
trường NNL chất lượng cao của Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp phát triển NNL
chất lượng cao cho các trường đại học [60].
Giáo trình “Quản lý nguồn nhân lực xã hội” của Học viện Hành chính
(2011) đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất về NNL như cơ sở hình thành NNL,
đặc điểm của NNL, phát triển và sử dụng NNL và chế độ chính sách đối với NNL
xã hội gắn với nền kinh tế quốc dân trong sự nghiệp CNH, HĐH. Giáo trình cung
cấp kiến thức cơ bản nhất về NNL xã hội và quản lý NNL xã hội, làm cơ sở
phương pháp luận cho việc tham gia hoạch định và phân tích các chính sách về
NNL xã hội [80].
19
Giáo trình “Nguồn nhân lực” của Đại học Lao động - Xã hội (2008) giới
thiệu các vấn đề chung và vai trò của NNL. Giáo trình nhấn mạnh nội dung đào tạo
NNL và vị trí của NNL trong quá trình CNH, HĐH và sự thiếu hụt NNL chất
lượng cao trong nền kinh tế thị trường, làm rõ các vấn đề QLNN về NNL như hệ
thống quản lý NNL, cơ cấu lao động - việc làm, quy hoạch NNL, kế hoạch hóa
NNL, các nội dung quan trọng trong xây dựng NNL có trình độ phục vụ quá trình
CNH, HĐH đáp ứng yêu cầu của QLNN [70].
Tác giả Nguyễn Hữu Thân (2012) trong tác phẩm “Quản trị nhân sự” đã đề
cập đến tổng thể các hoạt động liên quan đến quản trị nhân sự trong các doanh
nghiệp bao gồm 5 nội dung cơ bản: tổng quan về tài nguyên nhân sự; hoạt động
hoạch định, tuyển chọn nhân viên; phát triển nhân sự; lương bổng và đãi ngộ; công
tác giao tế nhân sự. Cuốn sách cung cấp cách tiếp cận tổng thể về toàn bộ các quá
trình diễn ra trong quản lý NNL như tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, tạo động lực
cho NNL trong môi trường tổ chức và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong quá
trình thực hiện công việc hỗ trợ cho việc tăng năng suất và chất lượng công việc
[108].
Cuốn sách chuyên khảo “Quản trị nguồn nhân lực” của tác giả Trần Kim
Dung (2011) giới thiệu những cách thức cơ bản để quản trị NNL trong các tổ chức
một cách hiệu quả nhất đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về năng lực của nhân viên trong nền
kinh tế thị trường. Cuốn sách đề cập tới cả hai phương diện lý luận và thực tiễn
trong quản lý NNL tạo cơ sở để áp dụng các nội dung này trong hoạt động cụ thể
của các tổ chức [64].
Cùng nội dung này có các nghiên cứu như: "Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Văn Khái
(2005) [85]; “Đào tạo và quản lý nhân lực” của tác giả Nguyễn Duy Dũng (2008)
[65]; “Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-
2020” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011). Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
tập trung làm rõ các nội dung về hiện trạng phát triển NNL Việt Nam; phương
hướng phát triển NNL Việt Nam đến năm 2020 và những vấn đề đặt ra; các giải
pháp chủ yếu thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-
20
2020; tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 [55].
Tác phẩm “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” của tác giả Mai Quốc Khánh
(1999) giới thiệu vai trò quan trọng của NNL và sự cần thiết của việc nâng cao
chất lượng NNL ở nước ta trong sự nghiệp CNH, HĐH nhằm đáp ứng yêu cầu về
chất lượng đầu ra của NNL [86].
Tác giả Bùi Ngọc Lan (2002) trong cuốn “Nguồn nhân lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam” đã làm rõ vai trò và tầm quan trọng của NNL trí tuệ
trong việc đóng góp vào quá trình phát triển KTXH của đất nước. Từ đó, tác giả
đánh giá thực trạng phát triển NNL trí tuệ ở nước ta và đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện việc phát triển NNL trí tuệ ở Việt Nam [90].
Tác giả Trần Khánh Đức (2010) trong cuốn “Giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực trong thế kỷ XXI” đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục trong phát
triển NNL trong bối cảnh quốc tế hóa. Tác giả đã phân tích, làm rõ các vấn đề
trong phát triển NNL và một số định hướng hoàn thiện theo các nội dung: phát
triển chương trình giáo dục hiện đại, quản lý và quản lý giáo dục, chính sách và
chiến lược giáo dục, chất lượng giáo dục và quản lý chất lượng giáo dục, NNL và
quản lý phát triển NNL, khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo
dục [72].
Báo cáo khoa học của tác giả Đàm Đức Vượng (2008) tại Hội thảo quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba với chủ đề “Việt Nam: Hội nhập và phát triển, thực trạng
và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam”, đã phân tích thực trạng
NNL Việt Nam và đề ra 10 giải pháp phát triển NNL ở Việt Nam. Trong đó, một
số giải pháp quan trọng nhất gồm: cần coi NNL là tài nguyên quý giá nhất của
Việt Nam; nâng cao chất lượng con người và chất lượng cuộc sống; Nhà nước
phải có kế hoạch khai thác, ĐTBD, sử dụng các NNL cho đúng; hàng năm, Nhà
nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về NNL ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt
được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó xây dựng
chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về NNL ở Việt Nam [116].
21
Thứ hai, các công trình nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực
ở các quốc gia.
Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta. Các tác giả đã luận giải một số vấn đề lý luận
cơ bản về NNL; giới thiệu công tác quản lý NNL, trong đó nhấn mạnh vai trò của
phát triển NNL thông qua hệ thống các chính sách tạo động lực cho NNL cống
hiến tối đa năng lực cho tổ chức. Từ việc khái quát một số kinh nghiệm phát triển
NNL của một số cường quốc trên thế giới trong những thập kỷ gần đây và thực
tiễn phát triển NNL ở Việt Nam, các tác giả đã chỉ ra những vấn đề bất cập trong
quản lý NNL nước ta và đưa ra một số định hướng học tập kinh nghiệm các nước.
Các tác giả chỉ ra rằng sự phát triển thành công và cất cánh của mỗi quốc gia luôn
gắn chặt với chính sách và chiến lược phát triển NNL, đặc biệt là chiến lược phát
triển GD&ĐT [110].
Tác giả Nguyễn Hữu Dũng (2003) trong cuốn sách chuyên khảo “Sử dụng
hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” đã giới thiệu tổng quan các vấn đề cơ
bản về phân bổ, sử dụng và phát triển NNL trong nền kinh tế thị trường. Tác giả
đánh giá 15 năm đổi mới trong thực hiện phát triển NNL ở Việt Nam và giới thiệu
kinh nghiệm quản lý NNL của các nước Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển, phân bổ và sử dụng hiệu quả
NNL trong phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2010 [67].
Tác giả Trần Văn Tùng (2005) trong tác phẩm “Đào tạo bồi dưỡng và sử
dụng nguồn nhân lực tài năng” đã giới thiệu kinh nghiệm trong phát hiện, đào tạo
và sử dụng tài năng KHCN trong sản xuất kinh doanh, quản lý của Mỹ, một số
quốc gia châu Âu (Đức, Pháp, Anh) và châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc
và một số nước châu Á khác), Từ những kinh nghiệm này, tác giả đưa ra vấn đề:
Việt Nam cần đổi mới các chính sách ĐTBD và sử dụng nguồn tài năng hiện có
[111]. Công trình nghiên cứu của tác giả có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nước ta
trong việc phát hiện, đào tạo, sử dụng tài năng KHCN phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH và công cuộc đổi mới đất nước.
Tác giả Đoàn Văn Khái (2005) trong tác phẩm “Nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” đã làm rõ vai trò của nguồn
22
lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH; thực trạng nguồn lực con
người ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu CNH, HĐH.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những phương hướng, quan điểm chỉ đạo và
những giải pháp cơ bản: nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn
lực con người; nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người; nhóm giải pháp
xây dựng môi trường xã hội thuận lợi nhằm khai thác và phát triển hiệu quả nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam [85].
Tác phẩm “Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Phạm Thành Nghị (2006) đề cập
các nội dung về những vấn đề lý luận cơ bản, những nhận thức mới và hiện đại về
quản lý NNL như vấn đề vốn con người và phát triển vốn con người; các mô hình
quản lý NNL; các yếu tố tác động đến quản lý NNL và các chính sách vĩ mô tác
động đến quản lý NNL [100]. Tác giả cũng giới thiệu kinh nghiệm quản lý NNL
của các nước phát triển như Hoa Kỳ, Thụy Điển, một số nước Đông Á và các nước
có nền kinh tế chuyển đổi. Tác giả đã kiến nghị áp dụng những mô hình quản lý
NNL phù hợp thay thế cho các mô hình đã lạc hậu và đề xuất hệ thống các giải
pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý NNL trong ba khu vực: hành chính
nhà nước, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh.
Tác giả Nguyễn Duy Dũng (2008) trong tác phẩm “Đào tạo và quản lý
nhân lực - kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam” đã
giới thiệu một số lý thuyết và mô hình chủ yếu về phát triển NNL doanh nghiệp,
giới thiệu kinh nghiệm đào tạo sử dụng và quản lý nhân lực tại các công ty Nhật
Bản và Hàn Quốc. Từ đó, tác giả phân tích thực trạng NNL ở Việt Nam và so sánh
vấn đề đào tạo, sử dụng và quản lý nhân lực của các công ty tại ba quốc gia Nhật
Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý có tính thiết thực và
hữu ích đối với Việt Nam trong việc đào tạo, sử dụng và quản lý NNL từ kinh
nghiệm các nước [64].
Thứ ba, các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực giảng viên
đại học và phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
Các tác giả Phan Thanh Khôi và Nguyễn Văn Sơn (2011) có bài viết “Xây
dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
23
nước”, Tạp chí Tuyên giáo số 7/2011. Các tác giả đã khẳng định vai trò của trí
thức - lực lượng sáng tạo đặc biệt quan trọng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước. Từ đó các tác giả đưa ra những quan điểm mang tính giải
pháp cơ bản nhất để xây dựng đội ngũ trí thức, đặc biệt là việc thực hiện xây dựng
đội ngũ trí thức theo nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI [89].
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Anh Đào (2013), Quản lý đội ngũ giảng
viên ở các trường đại học tư thục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Tác giả đã
nghiên cứu thực trạng quản lý ĐNGV ở các trường đại học tư thục ở Việt Nam,
cho thấy bức tranh phát triển hệ thống giáo dục Việt Nam còn nhiều bất cập như số
lượng ĐNGV chưa đủ, chất lượng ĐNGV chưa theo kịp nhu cầu xã hội, cơ chế
quản lý của các cấp vĩ mô chưa sát với thực tiễn, chưa có giải pháp chiến lược giúp
hệ thống các trường đại học tư thục phát triển. Luận án đề ra giải pháp quản lý
ĐNGV cơ hữu ở các trường đại học tư thục từ góc độ quản lý của nhà trường và
giải pháp quản lý ĐNGV thỉnh giảng theo phương thức liên kết mạng lưới giảng
viên thỉnh giảng vùng thông qua lập hội các trường đại học tư thục [71].
Luận án tiến sĩ của Đoàn Thị Thu Hương (2018), Phát triển nguồn nhân lực
trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập Việt Nam hiện nay. Luận án đã
phân tích, đánh giá thực trạng phát triển ĐNGV các trường đại học, cao đẳng ngoài
công lập Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm phát triển ĐNGV các trường đại học, cao đẳng ngoài công
lậpViệt Nam đến năm 2030, chủ yếu là các giải pháp được thực hiện ở cấp độ quản
lý của nhà trường [82].
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực và nguồn nhân lực giảng viên đại học
Ngân hàng thế giới World Bank (1994) trong tác phẩm “High Eduation:
The lessons of experience (Giáo dục đại học: Bài học kinh nghiệm)” đã đúc kết
kinh nghiệm qua nghiên cứu GDĐH ở các quốc gia phát triển, từ đó chỉ ra chìa
khóa thành công trong cải cách GDĐH là xác định lại vai trò của Chính phủ trong
xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, hạn chế can thiệp và tăng cường tự chủ
cho các trường đại học [135].
Tác giả Arthur M. Haupman (2006) với tài liệu “Higher Education
24
Finance: Trends and Issues (Tài chính giáo dục đại học: Xu hướng và Vấn đề)”
cung cấp cách tiếp cận về chính sách tài chính cho GDĐH, sự hỗ trợ của Nhà nước
cho các trường đại học. Tác giả cũng đã giới thiệu và phân tích sự chuyển đổi các
quan điểm về GDĐH trên thế giới và những tác động của nó đến nền GDĐH của
các quốc gia [118].
Đối với các công trình nghiên cứu trong nước, có một số các nhóm công
trình sau:
Một là, các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về phát
triển nguồn nhân lực.
Trong Tạp chí Nghiên cứu con người số 2 (41) năm 2009, tác giả Phạm
Thành Nghị (2009) có bài “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở những quốc
gia và vùng lãnh thổ Đông Á”. Tác giả đã tập trung làm rõ kinh nghiệm phát triển
NNL của Nhật Bản và một số nước Đông Á như: Hàn Quốc, Hồng Kông,
Singapore, Đài Loan với những nội dung cơ bản, toàn diện: luôn coi con người,
nhân lực là yếu tố quyết định nhất; phát triển NNL theo nhu cầu của quá trình phát
triển KTXH, theo chiến lược đón đầu; kết hợp đào tạo nghề đại cương và đào tạo
nghề chuyên sâu; vai trò của Nhà nước và trách nhiệm của doanh nghiệp [101].
Trong cuốn sách chuyên khảo “Quản lý nguồn nhân lực chiến lược khu vực
công và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”, tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải (2013)
đã giới thiệu những vấn đề chung về quản lý chiến lược NNL, các mô hình quản lý
NNL chiến lược trên thế giới. Nhóm tác giả cuốn sách đã phân tích, luận giải các
yếu tố ảnh hưởng đến quản lý NNL chiến lược như các yếu tố về tổ chức, về cá
nhân, về nhà nước. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đặt vấn đề của sự chuyển đổi xu
hướng từ quản lý nhân sự kiểu truyền thống sang tiếp cận quản lý NNL chiến lược
trong khu vực công qua thực tiễn các quốc gia. Cuốn sách cũng dành nhiều nội
dung cho việc giới thiệu thực trạng quản lý NNL, sự cần thiết quản lý NNL mang
tính chiến lược ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp để thực hiện [76].
Với đề tài khoa học cấp Bộ “Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam: Vấn đề và giải pháp” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương, tác giả Ngô Minh Tuấn (2013) đã giới thiệu các vấn đề về QLNN đối
với phát triển NNL, đánh giá thực trạng QLNN về phát triển NNL theo một số nội
25
dung: định hướng và điều tiết phát triển NNL, tạo khung khổ pháp luật và môi
trường cho việc phát triển nhân lực, can thiệp trực tiếp vào phát triển NNL, thanh
tra, kiểm tra và giám sát thực thi các chính sách về phát triển NNL. Trên cơ sở đó,
đề tài xác định các vấn đề đặt ra trong phát triển NNL và đưa ra một số định
hướng, giải pháp thời gian tới, gồm nhóm giải pháp đổi mới vai trò QLNN về định
hướng và điều tiết phát triển nhân lực, nhóm giải pháp hoàn thiện khung khổ pháp
luật và môi trường pháp lý cho phát triển nhân lực, nhóm giải pháp đổi mới can
thiệp của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công cho phát triển nhân lực, nhóm
giải pháp về tăng cường kiểm tra, giám sát sự phát triển và chất lượng các cơ sở
giáo dục-đào tạo nhân lực, nhóm giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy
QLNN về phát triển NNL [109].
Hai là, các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về giáo
dục và phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học.
Tác giả Bùi Văn Quân (2007) trong Giáo trình “Quản lý giáo dục” đã giới
thiệu các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý giáo dục, các nội dung cần thực hiện
trong quản lý giáo dục, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý giáo dục [105].
Để bồi dưỡng kiến thức về QLNN, trong đó có quản lý giáo dục, Học viện
Hành chính (2012) xuất bản Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước
chương trình chuyên viên chính phần III (QLNN đối với ngành, lĩnh vực). Giáo
trình dành chuyên đề số 24 để giới thiệu và làm rõ một số vấn đề trong QLNN về
văn hóa, giáo dục và y tế. Trong QLNN về giáo dục, giáo trình giới thiệu chung về
hệ thống giáo dục, đào tạo ở Việt Nam trong đó có GDĐH. Giáo trình trình bày
quan điểm cơ bản và mục tiêu của Nhà nước về GD&ĐT, các hoạt động QLNN
trong lĩnh vực đào tạo như xây dựng cơ chế chính sách, chiến lược phát triển
GD&ĐT, tổ chức bộ máy quản lý, công tác kiểm tra giám sát trong GD&ĐT [81].
Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo
dục đại học Việt Nam. Các tác giả đã đi sâu phân tích, đánh giá đặc điểm, vai trò
của trí thức GDĐH đối với sự phát triển KTXH và hội nhập của quốc gia, đánh giá
thực trạng NNL GDĐH ở nước ta. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số giải
pháp xây dựng, phát triển ĐNGV trước yêu cầu hội nhập quốc tế, trong đó có
26
khuyến nghị Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển ĐNGV
các trường đại học, cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào
phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của các trường đại học [59].
Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo tác giả Nguyễn Văn Sơn, đội ngũ trí
thức GDĐH Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản: trực tiếp tham gia vào quá trình
đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, đối tượng tác động chủ
yếu của người trí thức GDĐH là sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh,
mục đích lao động là đào tạo ra những con người lao động sáng tạo, có phẩm chất
đạo đức tốt, trí thức GDĐH vừa là nhà giáo vừa đảm nhiệm vai trò nhà khoa học,
ngoài ra còn có vai trò là nhà chính trị. Trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng của đội
ngũ trí thức trong GDĐH, đánh giá thực trạng về cơ cấu, chất lượng của đội ngũ trí
thức GDĐH, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp cơ bản để phát triển đội ngũ
trí thức GDĐH nhằm nâng cao chất lượng GDĐH ở nước ta và đáp ứng yêu cầu về
NNL phục vụ quá trình CNH, HĐH đất nước [106].
Tác giả Ngô Văn Hà (2005), với tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người
thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay”, đã giới thiệu những
nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy. Trên cơ sở đó, tác giả
đánh giá số lượng và chất lượng đội ngũ GVĐH trong những năm đầu thế kỷ XXI,
chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân đặc biệt là về cơ chế chính sách
của Nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra một số biện pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về người thầy trong xây dựng đội ngũ GVĐH trong giai đoạn hiện nay.
Những biện pháp này gồm: đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ giảng dạy; làm tốt
công tác quy hoạch phát triển ĐNGV; hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực
cho giảng viên nâng cao trình độ chuyên môn [74].
Lê Thị Phương Nam (2012) với Đề tài khoa học cấp cơ sở “Thực trạng và
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH giai đoạn 2010 - 2015” đã giới
thiệu những vấn đề chung về chất lượng đội ngũ GVĐH và các tiêu chí đánh giá
chất lượng đội ngũ này. Căn cứ vào các tiêu chuẩn đó, đề tài phân tích thực trạng
đội ngũ và chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về chất lượng giảng
27
viên như quy hoạch của các trường đại hoc, văn bản pháp luật về GDĐH, cơ chế
bao cấp, công tác ĐTBD, công tác quản lý và đánh giá hoạt động giảng dạy và
NCKH, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo. Từ những nguyên nhân này,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH: đổi
mới công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các
quy định về tuyển dụng GVĐH; xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp đối với đội
ngũ GVĐH; đẩy mạnh công tác NCKH trong các trường đại học; đổi mới công tác
quản lý và sử dụng giảng viên trong các trường đại học; điều chỉnh các chính sách
đãi ngộ đối với ĐNGV [96].
Luận án tiến sĩ triết học “Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Lan (2014). Trong luận án, tác giả đã
đánh giá, phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động
của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay. Tác giả đề ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH hiện nay như: nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các cơ
sở đào tạo đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH; hiện đại hóa
GDĐH; tạo chuyển biến căn bản trong công tác ĐTBD đội ngũ trí thức GDĐH đáp
ứng chuẩn nghề nghiệp; đổi mới chính sách trọng dụng, đảm bảo đãi ngộ xứng
đáng đối với lao động của trí thức GDĐH; đổi mới căn bản công tác quản lý, coi
trọng kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH [92].
Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học” của
Đoàn Văn Dũng (2015) đã phân tích thực trạng QLNN về chất lượng GDĐH ở
Việt Nam đối với các nội dung: thực trạng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển GDĐH; xây dựng và thực hiện thể chế QLNN về chất lượng
GDĐH; tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý chất lượng GDĐH; hoạt động thanh
tra, kiểm tra, giám sát trong QLNN về chất lượng GDĐH và hợp tác quốc tế trong
đảm bảo chất lượng GDĐH. Trên cơ sở đánh giá những mặt tích cực và hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế, tác giả luận án đã đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam.
28
1.2. NỘI DUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐỀ CẬP VÀ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CHO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.2.1. Những nội dung các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề
cập
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu ngoài nước về NNL và phát triển NNL
nói trên đã tập trung làm rõ nội dung quản lý và phát triển NNL trong các tổ chức
nói chung. Các nghiên cứu này chỉ ra vai trò, vị trí, ý nghĩa của quản lý NNL và
đều đi đến một nhận thức chung: các tổ chức cần tập trung nâng cao chất lượng
NNL và coi chất lượng NNL là lợi thế cạnh tranh cơ bản trong thích ứng với môi
trường luôn có khả năng biến đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của mình. Các
nghiên cứu này tập trung giới thiệu và phân tích các chức năng cơ bản của quản lý,
phát triển NNL như tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, trả lương, tạo động lực, đào tạo
phát triển, quản trị sự thay đổi, xây dựng môi trường xã hội thuận lợi nhằm khai
thác nguồn lực con người, v.v. Các nội dung này có ý nghĩa quan trọng để nghiên
cứu sinh tiếp cận, nghiên cứu luận án gắn với yêu cầu phát triển NNL giáo dục phù
hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến GDĐH và đội ngũ GVĐH
ở các nước tiếp cận về GDĐH ở một số khía cạnh khác nhau nhưng đều hướng tới
việc cần có hệ thống bảo đảm chất lượng và hiệu quả của GDĐH. Đây là cơ sở để
tác giả kế thừa các cách tiếp cận mới về GDĐH và các vấn đề về chuẩn mực
GDĐH, năng lực GVĐH trong xã hội hiện đại ngày nay, đồng thời bổ sung các
vấn đề lý luận trên cơ sở các công trình nghiên cứu trong nước.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trong nước về NNL đã giới thiệu những
vấn đề lý luận cơ bản về quản lý NNL và một số cách tiếp cận mới nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ chức thông qua các biện pháp quản lý và phát triển
NNL, gồm có: tổng quan về NNL và những đặc điểm của NNL Việt Nam; vai trò
của NNL và phát triển NNL chất lượng cao; phát triển NNL phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sử dụng có hiệu quả NNL xã hội; thực trạng NNL
nước ta hiện nay; các giải pháp phát triển NNL trong nền kinh tế tri thức, kinh
nghiệm phát triển NNL của một số nước. Các nghiên cứu này là cơ sở lý luận quan
trọng để luận án tiếp tục kế thừa và phát triển nhưng đi sâu hơn vào nội dung quản
lý NNL trong lĩnh vực GDĐH.
29
Thứ tư, các công trình nghiên cứu liên quan đến NNL GVĐH và phát triển
NNL GVĐH trong xu hướng quốc tế hóa, tiếp cận về quản lý và phát triển NNL
trong bối cảnh hội nhập gắn với mục tiêu CNH, HĐH ở nước ta. Số lượng các
công trình nghiên cứu liên quan đến hoặc chuyên sâu về NNL GVĐH, đặc biệt là
GVĐH công lập chưa có nhiều. Các công trình này nghiên cứu các vấn đề về phát
triển đội ngũ GVĐH ở nhiều góc độ khác nhau có liên quan đến đề tài nghiên cứu
của luận án. Các công trình này đã nghiên cứu, đánh giá thực trạng, cơ cấu, chất
lượng của đội ngũ GVĐH ở nước ta và đề ra các giải pháp xây dựng, phát triển
ĐNGV ở cấp quản lý vi mô dành cho các trường đại học.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu liên quan đến QLNN về phát triển
NNL GDĐH hiện chưa có nhiều. Các công trình này tập trung nghiên cứu vấn đề
chất lượng GDĐH và giải pháp nâng cao chất lượng GDĐH và chất lượng NNL
GDĐH. Một số giải pháp chính được đề xuất gồm: Nhà nước cần tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho tất cả các trường đại học; cần có chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của các trường đại
học; đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ giảng dạy; làm tốt công tác quy hoạch
phát triển ĐNGV; hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho giảng viên nâng
cao trình độ chuyên môn; sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về tuyển dụng
GVĐH; xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp đối với đội ngũ GVĐH; đẩy mạnh
công tác NCKH trong các trường đại học; đổi mới công tác quản lý và sử dụng
giảng viên trong các trường đại học; hoàn thiện chiến lược và chính sách phát triển
GDĐH; hoàn thiện thể chế QLNN về chất lượng GDĐH; hoàn thiện công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát trong QLNN về chất lượng GDĐH.
Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, NNL GVĐH công lập chưa được
nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên biệt, mới chỉ được nghiên cứu như là
một bộ phận của nguồn lực trí tuệ, NNL chất lượng cao, đội ngũ trí thức GDĐH,
hoặc đội ngũ GVĐH nói chung trong phạm vi cả nước. Do đó, cho tới nay vẫn còn
thiếu vắng các công trình nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và chuyên sâu
về QLNN đối với phát triển đội ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH trong bối
cảnh đổi mới, cải cách QLNN về giáo dục ở nước ta hiện nay. Những công trình
nghiên cứu được đề cập ở trên của các tác giả trong thời gian qua đã có nhiều đóng
góp quan trọng về mặt khoa học để tác giả luận án tiếp cận, nghiên cứu, tham khảo
30
phục vụ cho công trình nghiên cứu của tác giả luận án.
Với các nội dung đặt ra như trên có thể khẳng định mặc dù các nghiên cứu
đã công bố có liên quan là các tài liệu quý báu sẽ được tác giả kế thừa nhưng đối
tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là không trùng lặp với các công trình đã
có và có hướng tiếp cận mới.
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu đã công bố đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về quản
lý và phát triển NNL, có nhiều đóng góp quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn.
Đây là nguồn tài liệu tham khảo phong phú và có giá trị tốt để tác giả luận án tiếp
cận, nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho luận án của tác giả. Trên cơ sở tìm hiểu
các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể thấy một số vấn đề cần
tiếp tục đặt ra để nghiên cứu trong luận án tiến sĩ của tác giả như sau:
Một là, nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về vai trò, sự cần thiết và nội
dung của QLNN đối với phát triển NNL GVĐH công lập trong bối cảnh đổi mới,
cải cách QLNN về giáo dục ở nước ta hiện nay, nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã
hội và nâng cao vị thế quốc gia trong quá trình hội nhập.
Hai là, đồng bằng sông Hồng là khu vực trọng điểm phát triển kinh tế - xã
hội, có nhiều trường đại học công lập có uy tín, là nơi đào tạo và cung cấp nguồn
lao động dồi dào cho nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong khu vực và cả
nước. Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống các trường đại học công lập khu vực
ĐBSH, các yếu tố tác động, phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về phát triển
NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH, những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân của những hạn chế, làm cơ sở để tìm ra giải pháp phù hợp cho
việc phát triển đội ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH, gắn với quy hoạch phát
triển khu vực, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Ba là, nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập khu vực ĐBSH, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH công
lập khu vực ĐBSH, góp phần nâng cao chất lượng GDĐH, đáp ứng yêu cầu cải
cách, đổi mới giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển của khu vực ĐBSH và của cả
nước. Các giải pháp này cần được nghiên cứu trên cơ sở gắn kết với đặc điểm
KTXH, điều kiện phát triển và nhu cầu phát triển KTXH của khu vực ĐBSH.
31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả đã tham khảo, phân
tích, đánh giá công trình nghiên cứu đã có của các tác giả trong nước và ngoài nước
liên quan đến đề tài luận án. Các công trình này bao gồm các công trình nghiên cứu
liên quan đến GDĐH, các công trình nghiên cứu về NNL, NNL GVĐH và phát
triển NNL GVĐH, các công trình nghiên cứu liên quan đến QLNN về phát triển
NNL và NNL GVĐH. Các công trình nghiên cứu liên quan đến QLNN về phát
triển NNL GDĐH hiện chưa có nhiều và chủ yếu tập trung vào vấn đề chất lượng
NNL GDĐH. Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, NNL GVĐH công lập
chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên biệt, mới chỉ được nghiên
cứu như là một bộ phận của nguồn lực trí tuệ, NNL chất lượng cao, đội ngũ trí
thức GDĐH, hoặc đội ngũ GVĐH nói chung trong phạm vi cả nước.
Các công trình nghiên cứu đã công bố đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về quản
lý và phát triển NNL, về vấn đề chất lượng NNL GDĐH, có nhiều đóng góp quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu có giá trị để tác giả luận án tham
khảo các cách tiếp cận mới, kế thừa, phát triển và đi sâu hơn vào nội dung QLNN
về phát triển NNL GVĐH công lập, phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của luận án.
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
có thể thấy một số vấn đề cần tiếp tục đặt ra để nghiên cứu trong luận án tiến sĩ của
tác giả như sau: (i) Nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về sự cần thiết và nội dung
của QLNN đối với phát triển NNL GVĐH công lập trong bối cảnh đổi mới, cải
cách QLNN về giáo dục ở nước ta hiện nay; (ii) Nghiên cứu hệ thống các trường
đại học công lập khu vực ĐBSH, các yếu tố tác động, phân tích, đánh giá thực
trạng QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH, những kết quả
đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; (iii) Nghiên cứu các giải
pháp hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH, nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH, góp phần nâng cao
chất lượng GDĐH, đáp ứng yêu cầu cải cách, đổi mới giáo dục, đáp ứng yêu cầu
phát triển của khu vực ĐBSH và của cả nước.
32
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
2.1.1. Giáo dục đại học
Tại Hội nghị Thế giới về Giáo dục đại học (World Conference on Higher
Education) năm 1998, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc
(UNESCO) đã đưa ra khái niệm về GDĐH trong “Tuyên ngôn thế giới về giáo dục
đại học cho thế kỷ XXI: Tầm nhìn và hành động (World Declaration on Higher
Education for the twenty-first century: Vision and action). Theo UNESCO, GDĐH
là toàn bộ các loại hình nghiên cứu, đào tạo, hoặc đào tạo nghiên cứu ở bậc sau
trung học phổ thông, được thực hiện bởi các trường đại học hoặc các cơ sở giáo
dục khác như các viện đại học được các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước công
nhận. Cho tới nay, nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank),
Tổ chức ‘Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và một số tổ chức khác
đều sử dụng cách hiểu này khi nói về GDĐH.
Từ điển Cambridge định nghĩa GDĐH là hình thức giáo dục đào tạo được
thực hiện tại trường cao đẳng hoặc đại học, nơi mà các môn học được nghiên cứu
ở một mức độ chuyên sâu [142].
Ronald Barnett (1990) trong cuốn “The Idea of Higher Education (Ý tưởng
về giáo dục đại học)” đưa ra bốn khái niệm thông dụng về GDĐH: (i) GDĐH là
một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là NNL đạt chuẩn. Theo quan điểm này,
GDĐH là một quá trình trong đó người học được quan niệm như những sản
phẩm được cung ứng cho thị trường lao động; (ii) GDĐH là đào tạo để trở thành
nhà nghiên cứu. Theo cách nhìn này, GDĐH là thời gian chuẩn bị để tạo ra những
nhà khoa học và nhà nghiên cứu thực thụ, những người sẽ không ngừng
tìm những chân trời kiến thức mới; (iii) GDĐH là quản lý việc tổ chức giảng dạy
một cách hiệu quả. Do vậy, các cơ sở GDĐH thường chú trọng quản lý một cách
hiệu quả các hoạt động dạy và học bằng cách nâng cao chất lượng giảng dạy và
nâng cao tỷ lệ kết thúc khóa học của sinh viên; (iv) GDĐH là mở rộng cơ hội trong
33
cuộc sống cho người học. Theo cách tiếp cận này, GDĐH được xem như một cơ
hội để người học được tham gia vào quá trình phát triển bản thân bằng các thể thức
học tập thường xuyên và linh hoạt. Có thể thấy, bốn khái niệm về GDĐH của
Ronald Barnett có sự liên quan và tích hợp với nhau để tạo ra bức tranh toàn cảnh
về tính chất riêng biệt của GDĐH [129].
Theo Từ điển Giáo dục học (2001), GDĐH được hiểu là “bậc học đào tạo
trình độ học vấn chuyên môn cao có mục tiêu đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương ứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [114, tr. 122].
Ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có định nghĩa chính thức về GDĐH. Điều 7
Luật Giáo dục đại học 2012 xác định cơ sở GDĐH trong hệ thống giáo dục quốc
dân gồm: (i) trường cao đẳng; (ii) trường đại học, học viện; (iii) đại học vùng, đại
học quốc gia (sau đây gọi chung là đại học); (iv) viện NCKH được phép đào tạo
trình độ tiến sĩ.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất được thừa nhận rộng rãi, có thể hiểu
giáo dục đại học là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học sau giai đoạn bậc
phổ thông với các trình độ đào tạo gồm: trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình
độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
2.1.2. Đại học công lập
Luật Giáo dục đại học 2012 định nghĩa đại học là cơ sở GDĐH bao gồm tổ
hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên
thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các
trình độ của GDĐH. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, đại học là cơ sở giáo
dục bao gồm các khoa, bộ môn và tương đương thuộc các lĩnh vực chuyên môn
khác nhau phục vụ mục tiêu đào tạo sinh viên có trình độ đại học. Cơ sở GDĐH
gồm đại học công lập và đại học tư thục. Đại học công lập có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây
dựng cơ sở vật chất. Đại học công lập quản lý, sử dụng các nguồn lực vật chất và
nhân sự theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản và nhân sự của Nhà
nước.
34
Thứ hai, đại học công lập có tư cách pháp nhân và chịu sự QLNN của Bộ
GD&ĐT về các vấn đề liên quan đến GDĐH. Một số trường đại học có thể trực
thuộc về cơ cấu và chịu sự quản lý của một cơ quan chủ quản khác nhưng về mặt cơ
chế, chính sách vẫn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của Bộ GD&ĐT. Chính phủ
quy định nội dung, phương pháp xác định mức học phí, lệ phí tuyển sinh. Đại học
công lập có quyền tự chủ nhưng không được trái với quy định do Bộ GD&ĐT đã
xác định. Trong khi đó, các trường đại học tư thục hoàn toàn được tự chủ các nội
dung trên theo quy định của pháp luật, phần chênh lệch thu chi từ hoạt động đào tạo,
NCKH của trường đại học tư thục dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển trường, các
nội dung phân phối cho nhà đầu tư và người lao động phải nộp thuế theo quy định
của pháp luật.
Đại học công lập ở Việt Nam có một số loại sau đây:
- Đại học quốc gia là trung tâm đào tạo, NCKH, công nghệ đa ngành, đa
lĩnh vực chất lượng cao, được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển. Đại học quốc gia
có quyền chủ động cao trong các hoạt động về đào tạo, NCKH, tài chính, quan hệ
quốc tế và tổ chức bộ máy. Đại học quốc gia chịu sự QLNN của Bộ GD&ĐT, của
các Bộ, ngành khác và UBND các cấp nơi đại học quốc gia đặt địa điểm, trong
phạm vi chức năng theo quy định của Chính phủ và phù hợp với pháp luật. Ở nước
ta hiện nay có hai đại học quốc gia là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại học vùng bao gồm các đại học thành viên, các đơn vị trực thuộc đại
học vùng, tổ chức theo hai cấp, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực các trình độ của
GDĐH và thực hiện công tác NCKH, chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu phát
triển KTXH của vùng, miền và cả nước. Đại học vùng trực thuộc Bộ GD&ĐT và
chịu sự quản lý của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
UBND cấp tỉnh) nơi đại học vùng đặt trụ sở trong các lĩnh vực được phân công
theo quy định của của pháp luật. Nước ta hiện nay có các đại học vùng như Đại
học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng.
- Đại học trực thuộc Bộ, ngành: bao gồm 2 nhóm
+ Đại học chịu sự quản lý toàn diện của Bộ GD&ĐT: Đại học Bách khoa
Hà Nội, Đại học Giao thông - Vận tải, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại
35
thương.
+ Đại học chịu sự quản lý liên bộ (Bộ chủ quản và Bộ GD&ĐT). Ví dụ: Đại
học Y trực thuộc Bộ Y tế, Học viện Ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước,
Học viện Tài chính trực thuộc Bộ Tài chính.
- Ngoài ra, còn có một số đại học trực thuộc tỉnh/thành phố.
Từ những đặc điểm trên đây, có thể rút ra: Đại học công lập là cơ sở
GDĐH do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Trong đó, nguồn
kinh phí vận hành hoạt động tùy thuộc vào loại hình cơ sở giáo dục đại học và cơ
chế trao quyền tự chủ tài chính do Nhà nước quy định.
2.1.3. Nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Nguồn nhân lực
Khái niệm NNL là một khái niệm phức tạp và được nhìn nhận, xem xét
dưới nhiều góc độ khác nhau tùy theo mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Trên thế giới có
nhiều quan niệm về NNL khác nhau của nhiều tổ chức và học giả nghiên cứu về
NNL. Liên hiệp quốc xác định NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của
mỗi cá nhân và của đất nước [95, tr. 8]. Ngân hàng thế giới quan niệm NNL là toàn
bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp, của mỗi cá nhân
[95, tr. 8]. Tổ chức Lao động quốc tế nhìn nhận NNL của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động [95, tr. 8]. Theo David
Begg, NNL là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con người tích luỹ được, nó được
đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn
lực vật chất, NNL là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập
trong tương lai [61, tr. 282].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng NNL là tổng thể các tiềm năng lao động
của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức
độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng
được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH” [75, tr. 269]. Theo tác giả Đoàn Văn Khái thì trong thực tế khái niệm
“nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn lực con người” nghĩa là
36
“số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí
tuệ, năng lực phẩm chất” [85, tr. 328] hay đó là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho
thấy khả năng, sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát
triển của con người.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng (2003), NNL được xem xét dưới hai góc độ
là năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, NNL là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả
năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét NNL dưới dạng tiềm
năng giúp định hướng phát triển NNL để bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực
xã hội của NNL thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ
dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải chuyển
NNL sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã
hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng triệt để tiềm
năng con người [66, tr. 5].
Nguồn nhân lực xã hội
Theo tác giả Bùi Văn Nhơn (2011), NNL xã hội, hay còn gọi là nguồn lao
động xã hội, là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động [102, tr. 63].
Theo quy định của Tổng cục Thống kê, khi tính toán NNL xã hội còn bao gồm
những người ngoài tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Một số quốc gia quan niệm NNL quốc gia là toàn bộ những người từ độ tuổi bước
vào tuổi lao động trở lên, có khả năng lao động. Theo quan điểm của Tổ chức Lao
động quốc tế, lực lượng lao động là dân số trong độ tuổi lao động thực tế có việc
làm và những người thất nghiệp.
Nguồn nhân lực của tổ chức
Theo các tác giả Đinh Thị Minh Tuyết và Phạm Đức Chính (2016), nghiên
cứu về nhân sự trong các đơn vị sự nghiệp thực chất là nghiên cứu về NNL trong
một tổ chức. NNL trong một tổ chức (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã,
trường học, bệnh viện) là tổng số cán bộ, viên chức có trong danh sách, hoạt động
theo các nhiệm vụ của tổ chức và được tổ chức trả lương. Số lượng cán bộ, viên
chức của một tổ chức phụ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động cũng như chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức đó và thường xuyên được xác định thông qua hệ thống
37
các định mức lao động hay quy chế định biên. NNL trong tổ chức được cơ cấu
theo chức năng, theo trình độ chuyên môn và theo thời gian làm việc [111, tr 98].
Từ các cách tiếp cận và phân tích trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận
án, có thể hiểu một cách khái quát nhất: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và
chất lượng tạo nên năng lực con người mà các tổ chức huy động vào quá trình lao
động sáng tạo vì sự phát triển của xã hội.
Giảng viên
Giảng viên là một cán bộ khoa học, nắm vững các phương pháp khoa học
về giảng dạy và giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật trong
giảng dạy, thường xuyên rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy của mình,
tham gia tích cực vào NCKH và đời sống xã hội. Giảng viên trong cơ sở GDĐH là
người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ được quy định tại điều 77 của
Luật Giáo dục năm 2005 [45]. Chức danh của giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng
viên, giảng viên chính, Giáo sư, Phó Giáo sư. Trình độ chuẩn của chức danh giảng
viên giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở một số
ngành chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định.
Giảng viên giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy
đủ, có chất lượng chương trình đào tạo; nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và
chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo; định kỳ học tập, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng
dạy; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên; tôn trọng nhân cách của
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người học; tham gia quản lý và giám sát cơ sở GDĐH, tham gia công tác Đảng,
đoàn thể và các công tác khác; được ký hợp đồng thỉnh giảng và NCKH với các cơ
sở GDĐH, cơ sở NCKH theo quy định của pháp luật; được bổ nhiệm chức danh của
giảng viên, được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được
khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm: Giảng viên là người thực
hiện nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, được bổ nhiệm vào chức danh
nghề nghiệp giảng viên và làm việc tại cơ sở giáo dục đại học.
38
Giảng viên đại học công lập
Nói đến GVĐH công lập là nói đến đội ngũ những người đáp ứng đầy đủ
các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực giảng dạy, NCKH và đáp ứng được tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ đặc thù của cơ sở GDĐH công lập trên cơ sở các quy định
của Nhà nước.
Điều 2 Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập bao gồm:
Giảng viên cao cấp (Hạng I, Mã số: V.07.01.01); Giảng viên chính (Hạng II, Mã
số: V.07.01.02); Giảng viên (Hạng III, Mã số: V.07.01.03).
Qua việc nghiên cứu, phân tích nội hàm các khái niệm có liên quan như
giáo dục đại học, đại học công lập, giảng viên, có thể rút ra khái niệm về giảng
viên đại học công lập như sau: Giảng viên đại học công lập là viên chức chuyên
môn, được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giảng viên, đang làm việc tại các
cơ sở giáo dục đại học công lập.
Nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Nguồn nhân lực GVĐH công lập thực chất là ĐNGV làm việc trong các cơ
sở GDĐH công lập. Kế thừa các khái niệm nêu trên, tác giả luận án rút ra khái
niệm và một số nhận xét về NNL giảng viên đại học như sau: Nguồn nhân lực
giảng viên đại học công lập là tổng thể số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giảng
viên đại học công lập đang làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, NNL GVĐH công lập chịu sự quản lý trực tiếp của cơ sở GDĐH
công lập. Trường đại học có thẩm quyền tổ chức bộ máy, tuyển dụng, quản lý, xây
dựng, bồi dưỡng ĐNGV; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của giảng viên. Đồng
thời, trường đại học được tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ
chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc
tế, bảo đảm chất lượng GDĐH theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, NNL GVĐH công lập phải bảo đảm yêu cầu về tiêu chuẩn chức
danh giảng viên theo quy định của Luật Giáo dục đại học 2012. Theo đó, giảng
viên trong cơ sở GDĐH là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có
39
sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật Giáo dục. Chức danh của giảng viên bao gồm
trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, Phó Giáo sư, Giáo sư. Trình độ chuẩn của
chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc
biệt ở một số ngành chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định. Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT ban hành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, quy định
việc bồi dưỡng, sử dụng giảng viên.
Điều 2 Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập gồm các
hạng: Giảng viên cao cấp (Hạng I); Giảng viên chính (Hạng II); Giảng viên (Hạng
III). Điều 4,5,6 Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
28/11/2014 quy định mỗi hạng giảng viên có những yêu cầu, đòi hỏi riêng về trình
độ chuyên môn, tính chất công việc nhưng bao gồm các nhóm yêu cầu chính về
trình độ đào tạo, giảng dạy, NCKH và các hoạt động chuyên môn có liên quan.
Thứ ba, NNL GVĐH công lập là viên chức và hưởng chế độ, chính sách
theo quy định của Luật Viên chức. Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển
dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp
đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật [44]. Trong khi đó, trường đại học công lập với chức năng giáo
dục, đào tạo do Nhà nước thành lập được xác định là đơn vị sự nghiệp công lập.
Do đó, GVĐH là viên chức. Các nội dung của Luật Viên chức về quyền, nghĩa vụ
của viên chức; tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập cũng áp dụng chung đối với GVĐH.
Thứ tư, NNL GVĐH công lập có hai chức năng chủ yếu là giảng dạy và
NCKH.
Về giảng dạy, Điều 55 Luật GDĐH quy định 9 nhóm nhiệm vụ và quyền
của giảng viên. Trong đó, nhiệm vụ hàng đầu được xác định là giảng dạy theo mục
tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có chất lượng chương trình đào tạo.
Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ GD&ĐT quy định chế
độ làm việc đối với giảng viên, trong đó nhiệm vụ của các chức danh giảng viên
40
thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV
ngày 28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập. Định
mức giờ chuẩn cho giảng viên trong một năm học là 280 giờ chuẩn, trong đó giờ
chuẩn trực tiếp trên lớp chiếm tối thiểu 50% định mức quy định. Đối với giảng
viên có chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư ngoài việc thực hiện nhiệm vụ của giảng
viên còn phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Quyết định số 174/2008/QĐ-
TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, thủ
tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư; Quyết định số
20/2012/QĐ- TTg ngày 27/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh Giáo
sư, Phó Giáo sư ban hành kèm theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày
31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Về NCKH, nhiệm vụ của giảng viên là nghiên cứu, phát triển ứng dụng
khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo. Giảng viên phải
dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ
NCKH. Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ NCKH được giao tương
ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm. Kết quả NCKH của
giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm NCKH cụ thể, tối thiểu là một
đề tài NCKH cấp cơ sở hoặc tương đương được nghiệm thu từ đạt yêu cầu trở lên
hoặc một bài báo được công bố trên tạp chí khoa học có phản biện hoặc một báo
cáo khoa học tại hội thảo khoa học chuyên ngành. Đối với những giảng viên không
hoàn thành nhiệm vụ NCKH theo quy định, thủ trưởng cơ sở GDĐH căn cứ mức
độ, hoàn cảnh cụ thể để xem xét khi đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong
năm học, xếp loại thi đua và giải quyết các chế độ, chính sách liên quan.
Ngoài ra, theo quy định pháp luật hiện hành, GVĐH công lập còn có các
nhiệm vụ: định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của
giảng viên; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; tham gia quản lý và giám sát
cơ sở GDĐH, tham gia công tác Đoàn, đoàn thể và các công tác khác.
41
2.1.4. Phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Phát triển nguồn nhân lực
Theo nguyên lý về sự phát triển của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, phát triển là
một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Phát triển
liên quan đến hai khía cạnh: gia tăng về số lượng, chủng loại và thay đổi về chất
lượng. Trong phạm vi luận án, có thể hiểu phát triển là sự gia tăng về số lượng,
điều chỉnh về cơ cấu và nâng cao chất lượng.
Phát triển NNL là một thuật ngữ khá phổ biến trong giao tiếp và trong nhiều
văn kiện. Phát triển NNL được nhiều tác giả bàn đến và đã có nhiều cách hiểu khác
nhau từ các cách tiếp cận khác nhau.
Theo các tác giả Nguyễn Minh Đường và Phan Văn Kha (2006), phát triển
NNL là phát triển nhân cách, sinh thể/thể lực, đồng thời tạo dựng một môi trường
xã hội thuận lợi, gìn giữ một môi trường sinh thái bền vững cho con người phát
triển để cùng nhau lao động và chung sống, nhằm mục tiêu phục vụ cho sự phát
triển bền vững của xã hội và phục vụ cho con người [73]. Cũng theo Phan Văn
Kha, phát triển NNL là sự tạo ra tiềm năng của con người thông qua đào tạo, bồi
dưỡng, tự bồi dưỡng và đào tạo lại, chăm sóc sức khỏe về thể lực và tinh thần, khai
thác tối đa tiềm năng đó trong các hoạt động lao động thông qua việc tuyển dụng,
sử dụng, tạo điều kiện về môi trường làm việc, môi trường văn hóa, xã hội kích
thích động cơ, thái độ làm việc của con người, để họ mang hết sức mình hoàn
thành nhiệm vụ được giao [84].
Từ cách tiếp cận NNL xã hội, tác giả Bùi Văn Nhơn (2011) cho rằng phát
triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho NNL nhằm đáp ứng đòi hòi về NNL cho sự
phát triển KTXH trong từng giai đoạn phát triển [100, tr. 86].
Theo các tác giả Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh (2008), phát triển
NNL là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến
thức tay nghề, tính năng lao động xã hội và sức sáng tạo của con người. Với cách
tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, phát triển NNL là quá trình tăng lên về mặt số
42
lượng (quy mô) NNL và nâng cao về mặt chất lượng NNL, tạo ra cơ cấu NNL
ngày càng hợp lý. Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ cá nhân, phát triển NNL
là quá trình làm cho con người trưởng thành, có năng lực xã hội (thể lực, trí lực,
nhân cách) và tính năng động xã hội cao [56, tr. 104].
Tham khảo, kế thừa các quan điểm trên, tác giả luận án đề xuất quan điểm
của mình về phát triển NNL như sau: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia
tăng số lượng, hoàn thiện cơ cấu, nâng cao chất lượng và năng lực của nguồn lực
con người nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ việc
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức nhất định hoặc đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của khu vực, của địa phương.
Do đó, phát triển NNL đòi hỏi có sự quan tâm và can thiệp của nhà nước
bằng các chính sách, phương pháp và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao sức
lao động xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển KTXH trong từng
giai đoạn phát triển.
Đối với tổ chức, phát triển NNL tập trung vào các nội dung cơ bản: đánh
giá NNL hiện có, hiện trạng tổ chức và công tác quản lý phát triển NNL; hoạch
định phát triển NNL; thực hiện phát triển NNL. Nội dung đánh giá bao gồm: phân
tích, đánh giá về số lượng, cơ cấu, chất lượng NNL hiện có; đánh giá về tổ chức bộ
máy và quản lý phát triển NNL. Hoạch định phát triển NNL nhằm xác định
phương hướng, quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL để đạt được mục tiêu chiến
lược và kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh. Muốn vậy, cần dự báo được số
lượng, cơ cấu NNL hợp lý cần phát triển cho từng giai đoạn. Đặc biệt, yêu cầu của
hoạch định phát triển NNL là đưa ra được yêu cầu về năng lực cho các vị trí công
tác của NNL trong tương lai. Cơ sở để hoạch định phát triển NNL bao gồm: chiến
lược và kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của tổ chức; phương hướng, điều
kiện của phát triển KTXH, của lĩnh vực liên quan và ngành nghề mà tổ chức đang
hoạt động; kết quả đánh giá thực trạng NNL và tổ chức quản lý phát triển NNL của
tổ chức. Trong thực hiện phát triển NNL, đào tạo và bồi dưỡng là biện pháp chủ
yếu nhất nhằm nâng cao năng lực thực hiện của NNL. Ngoài ra cần phải hoàn
thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý và các quy định, cơ chế, chính sách về quản
43
lý. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý phát triển NNL cần rà soát, xem
xét tính hợp lý về mô hình tổ chức các bộ phận chức năng giúp quản lý và triển
khai thực hiện phát triển NNL ở các cấp trong tổ chức. Từ kết quả rà soát, đánh giá
cần có những điều chỉnh, bổ sung cần thiết để bộ máy quản lý và thực hiện phát
triển NNL đáp ứng được yêu cầu công tác phát triển NNL.
Quản lý NNL của một tổ chức gắn liền với việc hoàn thiện các quy định, cơ
chế nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả phát triển NNL từ công tác hoạch
định, xây dựng kế hoạch phát triển NNL đến triển khai các hoạt động ĐTBD.
Trong quản lý, công tác kiểm tra và đánh giá có vai trò quan trọng. Kiểm tra, đánh
giá phát triển NNL nhằm rà soát, xem xét tính hợp lý và đúng đắn của quá trình
thực hiện phát triển NNL, từ đó rút kinh nghiệm để bổ sung và hoàn thiện công tác
phát triển NNL của các đơn vị và của tổ chức.
Các tiêu chí về phát triển NNL của tổ chức, của khu vực, địa phương bao
gồm:
- Đảm bảo số lượng cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển của tổ chức, yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, địa phương;
- Đảm bảo cơ cấu NNL được duy trì hợp lý (cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi,
cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ) phục vụ hiệu quả mục tiêu phát triển của tổ
chức, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, của địa phương;
- Đảm bảo chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu phát triển của tổ chức, của khu
vực, địa phương. Chất lượng NNL được thể hiện thông qua các tiêu chí về thể lực,
trí lực, phẩm chất đạo đức, tâm lý, nghề nghiệp.
Thể lực là trạng thái sức khỏe của người lao động, là sự phát triển hài hòa
của con người cả về thể chất và tinh thần. Sức khỏe tinh thần là khả năng vận động
của trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực tiễn.
Trí lực của NNL thường được xem xét đánh giá trên ba giác độ: trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động thực hành. Trình độ học
vấn là trạng thái hiểu biết cao hay thấp của người lao động đối với những kiến thức
phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ học vấn là khả năng về học vấn để có thể
tiếp thu những kiến thức cơ bản và tri thức chuyên môn kỹ thuật. Trình độ chuyên
44
môn kỹ thuật là sự hiểu biết, kiến thức về một nghề nghiệp nhất định. Kỹ năng lao
động thực hành thể hiện kỹ năng lao động, sử dụng các phương tiện của quá trình
sản xuất.
Phẩm chất đạo đức, tâm lý, nghề nghiệp là tác phong, tinh thần, ý thức
trong lao động sáng tạo, gồm những nội dung như: có ý thức công dân, lòng yêu
nước, có tinh thần trách nhiệm với công việc, có tác phong làm việc khẩn trương,
đúng giờ, có ý thức tổ chức kỷ luật, sự tự giác, có niềm say mê nghề nghiệp, có
đạo đức nghề nghiệp, có tính chủ động, sáng tạo, năng động trong công việc.
Theo Giáo trình Nguồn nhân lực của Trường Đại học Lao động - Xã hội
(2008), chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL, là tố chất, bản chất bên
trong của NNL, nó luôn có sự vận động và phản ánh trình độ phát triển KTXH
cũng như mức sống, dân trí của dân cư. Chất lượng NNL được thể hiện ở các mặt:
sức khỏe; trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn-kỹ thuật; năng lực thực tế về tri
thức, kỹ năng nghề nghiệp; tính năng động xã hội (khả năng sáng tạo, thích ứng
v.v.); phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi trường làm
việc; hiệu quả hoạt động lao động của NNL [68, tr. 9].
Phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Từ các khái niệm nguồn nhân lực, nguồn nhân lực giảng viên đại học công
lập, phát triển nguồn nhân lực nêu trên, tác giả luận án đề xuất quan điểm của mình
như sau: Phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập là quá trình gia
tăng số lượng, hoàn thiện cơ cấu, nâng cao chất lượng và năng lực đội ngũ giảng
viên của các trường đại học công lập nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực
chất lượng cao cho hệ thống giáo dục đại học công lập. Nội dung này bao gồm
tăng trưởng về quy mô, hoàn chỉnh về cơ cấu, gia tăng về trình độ và năng lực, để
đội ngũ giảng viên đại học công lập nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào
tạo và nghiên cứu khoa học.
Phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập cần đảm bảo các
yêu cầu sau:
Thứ nhất, phát triển về số lượng NNL GVĐH công lập. Đó là lực lượng lao
động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho phát triển chất lượng GDĐH.
Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của GDĐH. Nếu số
45
lượng NNL không tương xứng với tốc độ phát triển như hoặc thừa hoặc thiếu hay
không cân bằng về giới tính đều tác động xấu tới sự phát triển của GDĐH. Phát
triển số lượng NNL GVĐH công lập được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô
và tốc độ gia tăng NNL giảng viên.
Thứ hai, đảm bảo cơ cấu NNL GVĐH công lập ngày càng hợp lý và hoàn
thiện hơn, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ luôn biến động. Cơ cấu ĐNGV
có thể được xác định theo các nội dung: tỷ lệ đạt chuẩn về trình độ ĐTBD; tỷ lệ
ngành nghề đào tạo; tỷ lệ giới tính; tỷ lệ theo độ tuổi để đảm bảo tính kế thừa và
phát triển; tỷ lệ giảng viên/sinh viên theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Phát triển
cơ cấu ĐNGV cần bám sát mục tiêu chiến lược phát triển của ngành, mục tiêu phát
triển KTXH của khu vực, của đất nước theo từng giai đoạn.
Thứ ba, phát triển về chất lượng NNL GVĐH công lập. Theo tác giả Đinh
Thị Minh Tuyết (2011), chất lượng NNL GVĐH được hiểu là chất lượng ĐNGV
trong các cơ sở GDĐH, cần đáp ứng 3 tiêu chí [112, tr. 80-85]:
Tiêu chí về thể lực đối với nguồn nhân lực giảng viên đại học:
Các giảng viên phải đảm bảo một số yêu cầu về các thông số nhân chủng học
như chiều cao, cân nặng, ngoại hình, phải có đủ sức khỏe để đảm nhiệm công việc
theo quy định của pháp luật, phải có giọng nói chuẩn để đảm bảo việc truyền tải
thông tin chính xác cho học viên.
Tiêu chí về trí lực đối với nguồn nhân lực giảng viên đại học:
(i) Về trình độ giáo dục phổ thông, giảng viên phải có trình độ học vấn cao
nhất trong các hệ giáo dục phổ thông (12/12);
(ii) Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giảng viên phải tốt nghiệp đại học
loại khá trở lên, có học vị từ thạc sĩ trở lên, có chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ sư
phạm và tương đương, về chuyên môn phải đúng chuyên ngành hoặc có liên quan
tới chuyên ngành giảng dạy, có kinh nghiệm làm việc thực tế liên quan đến chuyên
môn giảng dạy, có thâm niên giảng dạy;
(iii) Về trình độ ngoại ngữ, tin học, giảng viên phải biết sử dụng thông thạo ít
nhất một ngoại ngữ để có thể giao tiếp được bằng ngoại ngữ đó và có thể tham khảo,
nghiên cứu độc lập tài liệu bằng tiếng nước ngoài hoặc có thể viết bài nghiên cứu
46
bằng tiếng nước ngoài. Về trình độ tin học, giảng viên phải sử dụng thành thạo tin
học văn phòng và sử dụng thành thạo các phần mềm phục vụ cho công tác giảng dạy
và NCKH;
(iv) Về trình độ lý luận chính trị, GVĐH phải có trình độ lý luận chính trị từ
trung cấp trở lên;
(v) Về năng lực làm việc, giảng viên cần có năng lực giảng dạy tốt để không
chỉ truyền thụ kiến thức giỏi mà còn giúp học viên phát triển những kỹ năng phát
hiện vấn đề và kỹ năng phân tích, qua đó họ có thể phát triển suy nghĩ của riêng
mình.
Năng lực giảng dạy lại được đánh giá qua các tiêu chí nhỏ hơn như số lượng
giờ giảng (đối với giảng viên là 280 giờ chuẩn, đối với giảng viên chính là 300 giờ
chuẩn, đối với giảng viên cao cấp là 320 giờ chuẩn); chất lượng giảng dạy (thiết kế
và trình bày bài giảng phù hợp với trình độ của sinh viên; cung cấp cho sinh viên
kiến thức mới, cập nhật, tham gia tích cực vào các hoạt động liên quan đến giảng
dạy như tư vấn cho sinh viên, hướng dẫn sinh viên xây dựng mục tiêu, kế hoạch học
tập. có khả năng dạy nhiều môn học, co khả năng thu hút học viên, luôn có sáng
kiến trong giảng dạy); năng lực hướng dẫn, đánh giá sinh viên; năng lực đánh giá và
phát triển chương trình đào tạo, tài liệu học tập.
Bên cạnh năng lực giảng dạy, giảng viên phải có năng lực NCKH, được xác
định thông qua các tiêu chí nhỏ hơn như số lượng và chất lượng các công trình
NCKH được công bố (việc phát triển và tìm tòi các kỹ năng và quy trình nghiên cứu
mới; kết quả nghiên cứu, sáng kiến khoa học được áp dụng vào thực tiễn, vào giảng
dạy); số lượng sách và tài liệu tham khảo được xuất bản, sử dụng; mức độ tham gia
vào các hoạt động NCKH, tham gia các hội thảo khoa học, tham gia khảo sát,
nghiên cứu thực tế.
Trong năng lực giảng dạy, GVĐH còn phải có năng lực phục vụ, đóng góp
cho sự phát triển của xã hội và cộng đồng, gồm các nội dung như tham gia đóng góp
để phát triển nhà trường và cộng đồng; tham gia vào các Hội đồng chuyên môn;
phục vụ xã hội, cộng đồng thông qua việc đầu tư thời gian, trí tuệ cho các hoạt động
của các tổ chức xã hội ở địa phương; giúp đỡ các nhà khoa học của các địa phương
thực hiện các công trình NCKH.
47
Tiêu chí về phẩm chất đạo đức, tâm lý nghề nghiệp đối với giảng viên đại
học:
Giảng viên phải có phẩm chất chính trị tốt, thể hiện ở sự trung thành với mục
tiêu và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trung thành và vận dụng
sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng và ý thức chính trị cao.
Giảng viên phải có phẩm chất đạo đức, tâm lý nghề nghiệp tốt để không chỉ
hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn truyền thụ những phẩm chất, tâm lý này cho
các thế hệ học viên. Các phẩm chất đạo đức, tâm lý nghề nghiệp này thể hiện ở trách
nhiệm, thái độ đối với người học (nghiêm túc về giờ giấc, tác phong sư phạm chuẩn
mực, gần gũi, cởi mở với học viên), thái độ đối với công việc và đồng nghiệp (say
mê nghề nghiệp, có kỷ luật lao động, ý thức không ngừng học tập, giúp đỡ, hợp tác
tích cực với các đồng nghiệp), thái độ, trách nhiệm đối với xã hội.
Kế thừa quan điểm của tác giả Đinh Thị Minh Tuyết, tác giả luận án cho rằng
chất lượng của NNL GVĐH, ngoài chất lượng của từng cá nhân và của cả đội ngũ
GVĐH được đánh giá trên các khía cạnh thể lực, trí lực, tâm lý nghề nghiệp, chất
lượng của NNL GVĐH còn được biểu hiện ở mức độ hợp lý trong cơ cấu NNL
giảng viên, trong đó có cơ cấu về độ tuổi, trình độ, giới tính. Chất lượng NNL
GVĐH chịu sự tác động từ trình độ phát triển KTXH và chính sách đầu tư phát triển
NNL của Chính phủ. Giữa số lượng và chất lượng của NNL GVĐH có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng NNL quá ít sẽ gây khó khăn cho quá trình
phân công lao động trong hệ thống GDĐH và do vậy chất lượng GDĐH sẽ bị hạn
chế. Chất lượng NNL giảng viên nếu được nâng cao sẽ góp phần giảm số lượng
người lao động trong một trường đại học mà kết quả vẫn bảo đảm yêu cầu đặt ra.
Ngược lại, nếu NNL giảng viên đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp sẽ
không thúc đẩy được sự phát triển của GDĐH.
Thứ tư, tạo môi trường làm việc công bằng, bình đẳng, thu hút và khích lệ,
tạo động lực cho GVĐH công lập gắn bó, có tâm huyết với nghề nghiệp, yên tâm
làm việc và cống hiến cho nhà trường và xã hội. Nhà nước và các trường đại học
cần có các chính sách phù hợp về tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, trả
48
lương và các khoản thu nhập ngoài lương, đánh giá, khen thưởng, v.v. đảm bảo
công bằng, minh bạch và trả thù lao xứng đáng cho giảng viên.
Với các yêu cầu như trên, công tác phát triển NNL GVĐH công lập của
từng trường, khu vực, quốc gia được đánh giá theo các tiêu chí sau:
- Quy mô giảng viên: đảm bảo đủ số lượng giảng viên, đảm bảo tỷ lệ giảng
viên/sinh viên hợp lý.
- Chất lượng ĐNGV: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ sư phạm,
trình độ lý luận chính trị, năng lực ngoại ngữ, tin học, năng lực NCKH, năng lực
phục vụ, đóng góp cho cộng đồng và xã hội, phẩm chất tâm lý nghề nghiệp.
- Cơ cấu ĐNGV: đảm bảo cơ cấu ĐNGV về trình độ, giới tính, độ tuổi cân
đối và hợp lý, có thể phát huy hiệu quả ở mức cao nhất.
- Môi trường làm việc của ĐNGV: thu nhập, văn hóa tổ chức, chính sách
tạo động lực, cơ sở vật chất-kỹ thuật, cơ hội giao lưu học hỏi.
2.1.5. Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công
lập
Thuật ngữ quản lý có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Fayol trong tài
liệu của Đinh Thị Minh Tuyết và Phạm Đức Chính (2016), quản lý là một hoạt
động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, gồm 5 yếu tố tạo
thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực
hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát ấy [113, tr. 20]. Theo định
nghĩa của giáo trình “Hành chính công” của Học viện Hành chính Quốc gia, quản
lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên khách
thể và đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ
của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Quản lý duy trì được năng suất người lao động, các điều kiện làm việc tối ưu, tận
dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời quản lý cũng bao gồm việc dự đoán các vấn
đề và giải quyết được các vấn đề đó. Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy,
phối hợp và kiểm tra [78, tr. 21].
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại
cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước. Theo định nghĩa trong tài liệu bồi
dưỡng ngạch cán sự và tương đương của Bộ Nội vụ, QLNN là một dạng quản lý xã
49
hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều
chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các
cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của
con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội [143]. QLNN, hiểu theo
nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp,
QLNN là hoạt động chấp hành - điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ
chức. QLNN do bộ máy hành chính nhà nước thực hiện, để thực hiện quyền hành
pháp, còn được gọi là quản lý hành chính nhà nước. Đó là sự tác động có tổ chức
và điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quá trình xã hội và hành vi của con người
do các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước tiến hành nhằm duy trì và phát
triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thỏa mãn nhu cầu của con người.
QLNN có những đặc điểm như sau: Thứ nhất, chủ thể QLNN là các cơ
quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước được trao quyền (gồm cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp). Thứ hai, đối tượng quản lý của Nhà nước là tất
cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Thứ ba, QLNN là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Thứ tư, QLNN
mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật nhà nước, chính sách để
quản lý xã hội. Thứ năm, mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn
định và phát triển của xã hội. Thứ sáu, QLNN mang tính khu vực. Ở phạm vi quốc
gia, QLNN có hiệu lực đối với toàn bộ đối tượng quản lý trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia. Ở phạm vi khu vực, địa phương, QLNN có hiệu lực đối với khu vực, địa
phương. Do đó, QLNN đòi hỏi có sự kết hợp giữa quản lý các ngành, lĩnh vực đặc
thù với quản lý theo lãnh thổ, khu vực địa lý.
Xuất phát từ những đặc điểm trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý
xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật và chính sách để
điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do
các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự
ổn định và phát triển của xã hội, có phạm vi hiệu lực mang tính toàn quốc hoặc
theo khu vực.
Từ những khái niệm và phân tích trên đây, tác giả luận án rút ra: Quản lý
50
nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng
bằng sông Hồng là quá trình tác động có tổ chức và có định hướng nhằm phát
triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập về số lượng, cơ cấu, chất lượng
để có thể đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống giáo
dục đại học công lập tại khu vực đồng bằng sông Hồng.
QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập có sự khác biệt với QLNN về
đội ngũ GVĐH nói chung. GVĐH công lập là viên chức nên trong công tác
QLNN, ngoài các yêu cầu đối với một giảng viên nói chung, QLNN đối với đội
ngũ GVĐH công lập phải tuân thủ các quy định về quản lý viên chức. Ví dụ: đối
với GVĐH công lập, Nhà nước có quy định riêng về mã số và tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập. Việc
tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức phải theo quy định của Luật Viên chức.
Nhà nước có chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển NNL GVĐH công lập. Nhà nước
có định hướng phát triển đội ngũ GVĐH công lập để đảm bảo cơ cấu ĐNGV theo
ngành nghề chuyên môn đáp ứng yêu cầu đào tạo lực lượng lao động cho xã hội.
Trong khi đó ĐNGV nói chung chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Giáo dục, Luật
Giáo dục đại học và các văn bản hướng dẫn liên quan về các nội dung như ĐTBD,
định mức trả lương, phụ cấp, tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chức
danh giảng viên, định mức thời gian giảng dạy, NCKH.
QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH có những điểm
đặc thù so với QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập của cả nước và của các
khu vực khác ở nước ta hiện nay. Sự khác biệt chủ yếu ở đối tượng quản lý, chính
sách quản lý và điều kiện, môi trường quản lý. Về đối tượng quản lý, đội ngũ
GVĐH công lập khu vực ĐBSH có số lượng lớn hơn rất nhiều và mặt bằng trình
độ chuyên môn cao hơn so với ĐNGV của các khu vực khác. Theo số liệu của Bộ
GD&ĐT, năm học 2016-2017, tổng số giảng viên của khu vực ĐBSH là 30.842
giảng viên, chiếm 42,4% tổng số giảng viên của cả nước, trong đó số lượng giảng
viên có trình độ tiến sĩ là 8.384 giảng viên, chiếm 50,8% tổng số giảng viên có
trình độ tiến sĩ của cả nước (Phụ lục 3). Với số lượng giảng viên đông hơn các khu
vực khác, nhu cầu về đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở GDĐH công lập phục vụ
nghiên cứu và giảng dạy, đầu tư cho hoạt động ĐTBD giảng viên, ngân sách cho
51
quỹ lương và phụ cấp chi cho đội ngũ GVĐH công lập tại khu vực ĐBSH cũng sẽ
lớn hơn và cần được Nhà nước ưu tiên.
Tại khu vực ĐBSH tập trung nhiều trường đại học trọng điểm, đầu ngành,
đào tạo các ngành nghề KTXH then chốt ở quy mô và tầm cỡ quốc gia. Về môi
trường phát triển, ĐBSH là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa đầu não của cả
nước, có điều kiện phát triển KTXH thuận lợi hơn so với các khu vực khác. Trong
bối cảnh kinh phí ngân sách nhà nước chi cho các trường đại học công lập còn hạn
chế, đây là điều kiện quan trọng để Nhà nước tăng quyền tự chủ cho các trường đại
học công lập, khuyến khích các trường xã hội hóa các nguồn thu để huy động thêm
nguồn lực cho việc đầu tư cơ sở vật chất, tăng lương và thu nhập cho ĐNGV, đặc
biệt là giảng viên tài năng, có thành tích tốt, góp phần tạo động lực cho ĐNGV yên
tâm làm việc và cống hiến cho xã hội.
Trong phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học, quản lý nhà nước có
vai trò khác với quản lý của các trường đại học.
QLNN có vai trò định hướng và điều tiết sự phát triển NNL GVĐH ở cấp vĩ
mô, thông qua việc ban hành, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các văn bản
chính sách như các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án liên quan
đến phát triển NNL GVĐH ở phạm vi cả nước, từng ngành hoặc địa phương.
QLNN đảm bảo việc thiết lập khung khổ pháp luật và môi trường pháp lý thuận lợi
cho việc phát triển NNL GVĐH. Các văn bản luật liên quan đến phát triển NNL
GVĐH đã được ban hành, sửa đổi gồm Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật
Viên chức. Tiếp theo, Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thực hiện các luật trên, cùng với nhiều chính sách liên quan đến tuyển
dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương và phụ cấp, đánh giá, khen thưởng,
thanh tra, kiểm tra nhằm mục đích phát triển NNL GVĐH. Hệ thống các văn bản
luật, văn bản dưới luật, các chính sách, hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về GDĐH
từng bước được kiện toàn và ngày càng hoàn thiện hơn đã tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho phát triển NNL GVĐH về quy mô, cơ cấu, chất lượng nhằm mục tiêu
đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của đất nước và các địa phương. Các cơ quan
QLNN về GDĐH cũng đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn, tổ chức việc thực
hiện chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển NNL GVĐH tại các trường đại
52
học, đảm bảo hiệu lực thực thi của các văn bản này. Bên cạnh định hướng, điều tiết
gián tiếp, Nhà nước cũng có sự can thiệp trực tiếp để phát triển NNL GVĐH thông
qua phân bổ ngân sách chi cho giáo dục trong đó có GDĐH, dành kinh phí thực
hiện các đề án đào tạo, bồi dưỡng GVĐH. QLNN còn giữ vai trò đảm bảo cơ cấu
ĐNGV hợp lý, cân đối theo ngành nghề kinh tế, xã hội trên phạm vi cả nước và
theo khu vực, địa phương. Để đảm bảo hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật,
Nhà nước tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật
của các trường đại học và của đội ngũ GVĐH.
Các trường đại học có vai trò quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên ở cấp
vi mô, thông qua các hoạt động quản lý trực tiếp đội ngũ giảng viên như quy hoạch
phát triển số lượng và cơ cấu ĐNGV của trường, tổ chức tuyển dụng, phân công
nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá năng lực thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên,
sàng lọc đội ngũ giảng viên, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động
giảng dạy và NCKH của giảng viên, tạo cơ hội thăng tiến cho giảng viên. Các
trường đại học giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra môi trường công tác thuận
lợi để giảng viên phát huy tối đa năng lực, sở trường của mình và đóng góp vào sự
nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của nhà trường. Các trường đại học sử dụng
các biện pháp vật chất và phi vật chất để tạo động lực cho giảng viên, đảm bảo chi
trả lương và phụ cấp trên cơ sở định mức của Nhà nước, đồng thời tăng thu nhập
cho giảng viên từ các nguồn tự huy động được. Các trường đại học trực tiếp giám
sát hoạt động chuyên môn của giảng viên, kiểm tra việc giảng dạy và nghiên cứu
khoa học của giảng viên như giờ lên lớp, giáo trình, giáo án... Ngoài các quy định
của Nhà nước, để thực hiện mục tiêu, sứ mệnh của trường, các trường có thể đặt ra
các quy định riêng cho trường mình trong việc quản lý đội ngũ giảng viên, nhưng
không được vượt quá các quy định khung mang tính nguyên tắc của Nhà nước và
phải trong khuôn khổ pháp luật.
Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
có chủ thể xác định.
Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý-luôn là con người
(cá nhân hoặc tổ chức). Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các
53
công cụ với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định. Trong
khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào QLNN theo nghĩa hẹp,
tập trung vào các trường đại học công lập trực thuộc Bộ, chủ thể QLNN về phát
triển NNL GVĐH công lập được xác định bao gồm các cơ quan có thẩm quyền
QLNN về GDĐH, tập trung vào các chủ thể sau [24]:
Một là, Chính phủ thống nhất QLNN về GDĐH. Chính phủ giao cho Bộ
GD&ĐT là cơ quan tham mưu cho Chính phủ về QLNN đối với ngành giáo dục
trong đó có GDĐH.
Hai là, Bộ GD&ĐT. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện QLNN về GDĐH [45]. Bộ GD&ĐT là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng QLNN đối với GDĐH về: mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; quy
chế thi, tuyển sinh và văn bằng, chứng chỉ; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; cơ sở vật chất và thiết bị trường học; bảo đảm chất lượng, kiểm
định chất lượng giáo dục; QLNN các dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi
QLNN của Bộ [37].
Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục giúp Bộ trưởng thực hiện chức
năng QLNN về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục; về hệ thống các
cơ sở ĐTBD nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục; thực hiện các dịch vụ
công về công tác ĐTBD nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục.
Ba là, các Bộ chủ quản và chính quyền địa phương cấp tỉnh nơi có trụ sở
của cơ sở GDĐH công lập. Các trường đại học công lập không chỉ chịu sự QLNN
của Bộ GD&ĐT về lĩnh vực mà còn chịu sự quản lý bởi các cơ chế, chính sách về
bộ máy và nhân sự của cơ quan chủ quản. Đồng thời, các trường đại học công lập
cũng chịu sự chi phối bởi cơ chế quản lý phối hợp giữa ngành và lãnh thổ tại địa
phương nơi trường có trụ sở. Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ GD&ĐT thực
hiện QLNN về GDĐH theo thẩm quyền. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện QLNN về GDĐH theo phân cấp của
Chính phủ; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của các cơ sở GDĐH
trên địa bàn.
Theo Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 quy định trách nhiệm
QLNN về giáo dục, các Bộ có cơ sở giáo dục trực thuộc có trách nhiệm xây dựng
54
và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm
về đào tạo, phát triển nhân lực của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý, phù
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực quốc gia, đáp ứng yêu
cầu nhân lực của ngành và của xã hội; xây dựng quy hoạch, ĐTBD, thực hiện
chính sách với nhà giáo theo quy định của pháp luật; quyết định bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức người đứng đầu, cấp phó người
đứng đầu các cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ; quản lý, hướng dẫn, kiểm tra việc sử
dụng ngân sách nhà nước và các khoản thu hợp pháp khác đối với các cơ sở giáo
dục; thực hiện xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực xã hội để phát triển
giáo dục; bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trực
thuộc theo quy định của pháp luật; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị về lĩnh vực giáo dục, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
Cũng theo Nghị định này, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước
Chính phủ về phát triển giáo dục, thực hiện chức năng QLNN về giáo dục trên địa
bàn tỉnh: xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, dự án, chính sách phát triển giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự
án, chính sách phát triển giáo dục sau khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
quản lý hành chính theo lãnh thổ các trường đại học trực thuộc các Bộ đóng trên
địa bàn; quản lý các trường đại học công lập trực thuộc tỉnh; quyết định bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại, luân chuyển, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức và thực hiện chính
sách đối với hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường đại học công lập trực thuộc tỉnh
theo tiêu chuẩn quy định tại Điều lệ trường đại học do Thủ tướng Chính phủ ban
hành.
Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
có đối tượng xác định.
Đối tượng quản lý là tổ chức, cá nhân tiếp nhận trực tiếp sự tác động của
chủ thể quản lý. Đối tượng QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập chính là các
trường đại học công lập và ĐNGV của các trường đó. Thông qua hệ thống công cụ
quản lý là hệ thống chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về phát
triển NNL nói chung và NNL GVĐH nói riêng, cùng với các quy định nội bộ có
55
liên quan thuộc ngành, lĩnh vực đặc thù, các chủ thể sử dụng hệ thống công cụ này
để tác động lên đối tượng quản lý nhằm phát triển về số lượng, điều chỉnh cơ cấu,
nâng cao chất lượng ĐNGV. Đồng thời, các chủ thể sử dụng phương pháp quản lý
là các cách thức thực hiện để hoạt động QLNN, cơ chế chính sách được áp dụng
đúng người, đúng việc, đảm bảo hiệu quả, hiệu lực, nhằm mục tiêu nâng cao chất
lượng đội ngũ, tạo động lực thu hút người có tài năng cống hiến tri thức khoa học
cho GDĐH.
2.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.2.1. Định hướng sự phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Để triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển, đổi mới
GDĐH, các cơ quan thực hiện chức năng QLNN về phát triển NNL GVĐH công
lập thông qua hệ thống các công cụ quản lý đã triển khai các hoạt động QLNN
nhằm bảo đảm các mục tiêu, sứ mệnh, yêu cầu, trách nhiệm của nền GDĐH được
thực hiện đầy đủ, đúng hướng, hiệu quả; đảm bảo phát triển đội ngũ GVĐH công
lập về quy mô, cơ cấu và chất lượng một cách hợp lý, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của khu vực và cả nước. Để làm được
điều đó, cần có một hệ thống chính sách đủ mạnh để tạo nguồn cho ĐNGV đại học
công lập, duy trì và phát triển ĐNGV về số lượng, chất lượng, đảm bảo cơ cấu
trình độ, giới tính, độ tuổi hợp lý, cân đối giữa các ngành nghề.
Quy hoạch phát triển nhân lực ngành giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 đặt ra
nhiệm vụ tập trung đẩy mạnh công tác bồi dưỡng GVĐH: bồi dưỡng các chuyên
đề trong nước và ngoài nước cho đội ngũ GVĐH nhằm tiếp cận với tri thức và
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Kết hợp chặt chẽ công tác bồi
dưỡng giảng viên với công tác NCKH và phục vụ sản xuất theo hướng đưa kết quả
NCKH, phục vụ sản xuất thành một tiêu chí ĐTBD và đánh giá giảng viên; đổi
mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp ĐTBD giảng viên gắn
với quy hoạch ĐNGV, bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu
cầu đổi mới GDĐH. Đây chính là định hướng phát triển ĐNGV về chất lượng
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GDĐH.
Do đó, QLNN về phát triển NNL GVĐH có ý nghĩa rất quan trọng để định
56
hướng phát triển NNL GVĐH theo các mục tiêu của đổi mới và nâng cao chất
lượng GDĐH ở nước ta hiện nay. Chức năng định hướng của QLNN được thực
hiện thông qua việc ban hành quy hoạch, kế hoạch, xây dựng mục tiêu và giải pháp
để phát triển số lượng, chất lượng, cơ cấu ĐNGV trong đó có GVĐH công lập.
2.2.2. Điều chỉnh sự phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Đối với các cơ quan QLNN về GDĐH, điều chỉnh sự phát triển NNL
GVĐH công lập gắn với nhu cầu đổi mới, hoàn thiện tổ chức, sự vận hành của hệ
thống GDĐH trong điều kiện hội nhập quốc tế trên quan điểm sức mạnh của tổ
chức phụ thuộc vào yếu tố con người, con người chính là nguồn gốc của các nguồn
lực khác và là cơ sở cho mọi thành công hay thất bại của tổ chức. Chiến lược phát
triển hệ thống GDĐH đến năm 2020 ở nước ta có thực hiện được hay không, điều
quan trọng và cốt lõi phụ thuộc vào việc hệ thống GDĐH của chúng ta có phát
triển được ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng hay không.
Điều chỉnh sự phát triển NNL GVĐH được thực hiện thông qua việc xây
dựng, ban hành và thực hiện các quy định pháp luật và chính sách liên quan đến
các nội dung tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tạo động lực, đãi ngộ, đánh
giá, khen thưởng, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với NNL GVĐH. Theo đó,
về mặt pháp lý, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật đối với các
hoạt động GDĐH trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ quan QLNN, trực tiếp
là Bộ GD&ĐT cần thay đổi cách tư duy về quản lý đối với các hoạt động GDĐH,
thay vì trực tiếp quản lý toàn diện đối với các cơ sở GDĐH, chỉ nên đóng vai trò là
cơ quan “tài phán”, định hướng và đảm bảo các cơ sở GDĐH hoạt động theo luật
pháp, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở GDĐH được độc lập, tự chủ hơn trong
các hoạt động, phát huy tiềm năng của ĐNGV trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay.
2.2.3. Bảo đảm sự hỗ trợ và tạo điều kiện của Nhà nước đối với phát triển
nguồn nhân lực giảng viên đại học
Hệ thống GDĐH ở khắp nơi trên thế giới phụ thuộc vào sự kết hợp giữa các
nguồn lực nhà nước và tư nhân nhằm cung cấp tài chính cho hoạt động của các
trường. Ở nhiều nước, nguồn tài chính chủ yếu của các trường là do Nhà nước
57
cung cấp, dưới hình thức hỗ trợ của chính phủ, học phí và các nguồn hỗ trợ tư
nhân khác thì không đáng kể hoặc không hề có. Ở nhiều nước khác, các nguồn lực
tư nhân đóng góp hơn một nửa tổng số các nguồn lực dành cho GDĐH. Tại Việt
Nam, các trường đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây
dựng cơ sở vật chất. Đội ngũ GVĐH công lập được xác định là viên chức, hưởng
chế độ, chính sách theo quy định của Luật Viên chức. Do đó, QLNN về phát triển
NNL GVĐH công lập cũng có nghĩa là đảm bảo sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho
việc phát triển ĐNGV thông qua các chính sách lương và phụ cấp, chính sách đầu
tư cho ĐTBD giảng viên, đầu tư cho NCKH của giảng viên, đầu tư cho cơ sở vật
chất của các trường đại học.
NNL GVĐH là yếu tố quyết định chất lượng GDĐH. Do đó, các chủ thể
quản lý có thẩm quyền cần phải đánh thức những khả năng còn tiềm ẩn trong đội
ngũ GVĐH thông qua cơ chế khuyến khích, động viên và đãi ngộ xứng đáng. Đây
là động lực then chốt để các nhà giáo - nhà khoa học trên giảng đường đại học tâm
huyết với nghề. Do đó, nghiên cứu QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập góp
phần hình thành và hoàn thiện hơn nữa các cơ chế hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều
kiện về cơ sở vật chất và môi trường làm việc phù hợp.
Trong bối cảnh kinh phí ngân sách còn hạn chế, đầu tư của Nhà nước cần có
trọng điểm để hình thành một số cơ sở GDĐH chất lượng cao, theo định hướng
nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành
nghề kinh tế - xã hội then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Nhà
nước đặt hàng và bảo đảm kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ KHCN đối với cơ
sở GDĐH có tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ, có chế độ thu hút, sử dụng
và đãi ngộ thích hợp để xây dựng và nâng cao chất lượng ĐNGV, chú trọng phát
triển ĐNGV có trình độ tiến sĩ và chức danh Phó Giáo sư, Giáo sư của các cơ sở
GDĐH [45].
2.2.4. Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập
2.2.4.1. Phát huy vai trò của nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Quản lý nhà nước thông qua các chính sách về sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
58
trả lương, v.v. có tác dụng khuyến khích và tạo động lực cho đội ngũ GVĐH công
lập phát huy các vai trò quan trọng của mình trong việc truyền tải chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; đào tạo thế hệ chủ nhân tương lai
của đất nước và góp phần vào thành tích khoa học công nghệ, nâng cao vị thế của
đất nước trên trường quốc tế.
Thứ nhất, NNL giảng viên ĐHCL là lực lượng có ảnh hưởng rất quan trọng
trong việc truyền tải chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho
các thế hệ học viên. Đội ngũ GVĐH công lập trước hết là những viên chức nhà
nước, phải có nhận thức tốt và luôn quán triệt mọi quan điểm, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển KTXH, xây dựng và bảo vệ
đất nước. Trong quá trình thực hành nghề nghiệp tại các cơ sở GDĐH công lập,
ĐNGV có thể được coi là kênh thông tin, truyền tải nhiều nhất, liên tục và hiệu
quả nhất về các chủ trương, đường lối của Đảng, cơ chế, chính sách, pháp luật của
Nhà nước liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật,
thể thao, an ninh, quốc phòng cho các thế hệ học viên. Đội ngũ GVĐH công lập
phải truyền tải được tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước mà Đảng đã vạch
ra cho các thế hệ học viên sau này sẽ trở thành chủ nhân của đất nước, đồng thời
phải cụ thể hóa các nhiệm vụ này vào công việc của mình thông qua xác định mục
tiêu cho hoạt động giảng dạy và NCKH của cá nhân mỗi giảng viên.
Thứ hai, NNL GVĐH công lập, thông qua công tác giảng dạy, hướng dẫn
khoa học, đào tạo về chuyên môn và phẩm chất đạo đức cho học viên, là lực lượng
trực tiếp và chủ yếu cung cấp, truyền đạt tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, thái độ
sống tích cực cho lực lượng lao động kế cận của xã hội tương lai trong hầu hết các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Vai
trò của giảng viên còn được thể hiện ở việc góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước, tạo ra lớp trí trức tài năng thông qua việc truyền đạt những
kiến thức tiên tiến của văn minh nhân loại. Tất cả những trí thức ấy sẽ góp phần
xây dựng đất nước, nâng cao nội lực của quốc gia, tạo nên vị thế mới của quốc gia
trên trường quốc tế.
Thứ ba, NNL GVĐH công lập thông qua các sản phẩm khoa học của mình
59
góp phần khẳng định vị thế của trí tuệ Việt Nam và góp phần nâng cao vị thế của
GDĐH Việt Nam ở tầm quốc tế. Trong những năm qua, đội ngũ nhà khoa học
trong các cở sở GDĐH tăng cả về chất lượng và số lượng. Các công bố khoa học
quốc tế của các cơ sở GDĐH tăng, chiếm hơn 80% công bố khoa học của các cơ
sở NCKH. Đáng chú ý, nhiều sản phẩm đã được thương mại hóa ở thị trường trong
nước và thế giới. Vị thế các cơ sở GDĐH của Việt Nam đang từng bước xuất hiện
trên bản đồ khoa học và công nghệ của khu vực và thế giới. Theo thống kê từ trang
“Web of Science”, giai đoạn 2011-2015, tổng số công bố quốc tế của Việt Nam
trong ISI là 10.034 bài, trong đó số công bố của các nhà khoa học thuộc các trường
đại học có 5.738 bài, chiếm trên 50% số công bố quốc tế trong cả nước [138].
2.2.4.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giảng viên
Tình trạng thiếu hụt GVĐH trình độ cao hay những yếu kém về năng lực ở
một bộ phận giảng viên đang đặt đội ngũ GVĐH ở nước ta trước nguy cơ tụt hậu
về chất lượng NNL giảng viên so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một
trong những mục tiêu của QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập là nhằm nâng
cao chất lượng NNL GVĐH công lập để có thể đáp ứng yêu cầu về NNL chất
lượng cao cho hệ thống GDĐH công lập hiện nay. Để nâng cao chất lượng NNL
GVĐH công lập cần có sự quan tâm và can thiệp của Nhà nước bằng các chính
sách và biện pháp nhằm phát triển NNL giảng viên về thể lực, trí lực, tâm lực, đáp
ứng yêu cầu phát triển KTXH của đất nước, của khu vực, của địa phương trong
từng giai đoạn phát triển. Nhà nước phải tập trung vào các chức năng cơ bản: chỉ
đạo chính sách chung, quy định, kiểm tra, giám sát chất lượng và chất lượng lao
động của đội ngũ GVĐH. Nhà nước xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng
ĐTBD, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra chất lượng đào tạo, chính sách tiền
lương của các cơ sở GDĐH. Nhà nước đầu tư nguồn lực cho các cơ sở GDĐH
công lập để hiện đại hóa cơ sở trường lớp, phòng thí nghiệm, trang thiết bị giảng
dạy, góp phần giúp nâng cao chất lượng khoa học của việc giảng dạy, nghiên cứu
của giảng viên. Để xây dựng ĐNGV đáp ứng chuẩn nghề nghiệp, Nhà nước chỉ
đạo việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp ĐTBD giảng viên, tạo
chuyển biến căn bản trong chất lượng lao động chuyên môn, nghiệp vụ của ĐNGV
60
trẻ, tập trung hình thành các năng lực mà đội ngũ GVĐH công lập đang thua kém,
tụt hậu so với các nước, nhất là năng lực sáng tạo.
2.3. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.3.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập
Theo nghĩa hẹp, quy hoạch có thể hiểu là quá trình sắp xếp, bố trí các đối
tượng quy hoạch vào một không gian nhất định nhằm đạt được mục tiêu của kế
hoạch đề ra. Tại Việt Nam, ngành Giáo dục đã triển khai xây dựng quy hoạch phát
triển nhân lực ngành Giáo dục và quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục.
Quy hoạch phát triển NNL GVĐH công lập là việc xác định nhu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực của đội ngũ GVĐH công lập, góp phần đảm bảo
lực lượng để tiến hành công cuộc đổi mới cơ bản và toàn diện nền GDĐH, góp
phần quan trọng thực hiện mục tiêu của kế hoạch phát triển KTXH của của khu
vực, của địa phương, của ngành theo từng giai đoạn phát triển.
Kế hoạch hóa phát triển NNL giảng viên là cơ sở cho các hoạt động nâng cao
chất lượng NNL giảng viên và hoàn thiện cơ cấu ĐNGV. Đây là quá trình dự báo,
nghiên cứu, xác định nhu cầu NNL GVĐH của các trường đại học công lập, của địa
phương, của khu vực hoặc của ngành ở phạm vi cả nước, để từ đó đưa ra các chính
sách, chương trình hành động cho tương lai, đảm bảo cho nhà trường, khu vực, địa
phương, ngành GDĐH có đủ NNL, với phẩm chất và năng lực phù hợp để thực hiện
các nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, cung ứng dịch vụ giáo dục công, nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển của trường, của địa phương và của ngành, lĩnh vực đã đề ra, đảm
bảo sử dụng hiệu quả NNL và lường trước các tác động KTXH.
Kế hoạch hóa phát triển NNL giảng viên cần có tầm nhìn chiến lược, phải xuất
phát từ nhu cầu xã hội, phải căn cứ thực trạng NNL và phải gắn kết chặt chẽ với các
quy hoạch phát triển nhân lực của khu vực, của địa phương, của ngành; gắn kết với
các quy hoạch phát triển KTXH của địa phương, của khu vực, gắn kết với các quy
hoạch liên quan khác trong lĩnh vực GDĐH như quy hoạch mạng lưới các trường đại
học, cao đẳng, chiến lược phát triển giáo dục, đề án đổi mới GDĐH.
Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển NNL GVĐH liên quan đến xây
61
dựng các định hướng lớn mang tính then chốt cho tổng thể hệ thống. Căn cứ vào
đó, các kế hoạch triển khai cụ thể được xây dựng. Các chiến lược, quy hoạch
thường do các chủ thể có thẩm quyền của ngành, lĩnh vực xây dựng và ban hành.
Lập kế hoạch là quá trình xác định những mục tiêu tương lai và các cách
thức thích hợp để đạt mục tiêu đó. Lập kế hoạch phát triển NNL GVĐH công lập
là quá trình nghiên cứu, phân tích để xác định nhu cầu nhân lực, đưa ra các kế
hoạch, chương trình nhằm đáp ứng đủ số lượng, chất lượng, loại nhân lực giảng
viên cho từng lĩnh vực, ngành đào tạo, lĩnh vực NCKH cụ thể, theo từng thời điểm
nhất định để đạt hiệu quả cao nhất. Lập kế hoạch phát triển NNL GVĐH công lập
bao gồm các nội dung:
- Đánh giá thực trạng NNL GVĐH công lập về quy mô, cơ cấu và chất
lượng. Phân tích, dự đoán, dự báo nhu cầu đối với NNL GVĐH.
- Từ mục tiêu, nhiệm vụ của trường, hệ thống trường, của địa phương, của
khu vực, của ngành, xác định nhu cầu nhân lực trong kỳ kế hoạch. Lập kế hoạch
phát triển NNL giảng viên bao gồm: kế hoạch giảm biên chế do chế độ; kế hoạch
luân chuyển; kế hoạch đề nghị thuyên chuyển; kế hoạch đề nghị tuyển dụng; kế
hoạch đào tạo lại và bồi dưỡng; kế hoạch thu hút giảng viên tài năng.
- Xây dựng các biện pháp và phương án thực hiện kế hoạch, bao gồm việc
xây dựng các bước đi cụ thể để thực hiện mục tiêu.
2.3.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phát
triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số
80/2015/QH13 ngày 22/6/2015, văn bản quy phạm pháp luật là là văn bản có chứa
quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục quy định trong Luật. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực
bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước
bảo đảm thực hiện.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước sử dụng để điều
chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, các tổ
chức nhằm thiết lập kỷ cương xã hội. Hệ thống này bao gồm toàn bộ các văn kiện
62
pháp luật: hiến pháp, luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, lệnh, quyết
định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, thông tư của Bộ trưởng và các văn bản dưới luật liên quan khác tạo thành
khuôn khổ pháp luật để bộ máy nhà nước thực hiện chức năng QLNN đối với toàn
xã hội, để cá nhân, tổ chức sống và làm việc theo pháp luật.
Xây dựng pháp luật là việc đặt ra các quy tắc pháp lý làm chuẩn mực cho
cách xử sự của công dân, tổ chức (quy phạm pháp luật) theo trình tự đã được quy
định chặt chẽ thể hiện các bước, từng công việc phải làm để đưa ra các văn bản
quy phạm pháp luật. Quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bắt đầu từ
khâu hoạch định chính sách pháp luật (nhằm xác định mục tiêu, quan điểm,
nguyên tắc xử lý các quan hệ cần điều chỉnh pháp luật), lập chương trình xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật đến soạn thảo dự án văn bản quy phạm pháp luật,
thẩm định, thẩm tra dự án văn bản quy phạm pháp luật, công bố, tổ chức lấy ý kiến
đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, những tầng lớp dân cư có liên quan
đến việc tổng hợp, phân tích, nghiên cứu tiếp thu ý kiến đóng góp, đến trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến hoặc thông qua dự án văn bản
quy phạm pháp luật. Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật là quá trình
hiện thực hóa pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp
luật vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phát
triển NNL GVĐH công lập gồm các nội dung sau:
- Rà soát, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
phát triển NNL giảng viên ĐHCL, bao gồm các văn bản luật, nghị định, quyết
định, thông tư, quy chế liên quan đến GDĐH, phát triển NNL GVĐH nói chung và
GVĐH công lập nói riêng.
- Tăng cường phân cấp quản lý, tăng cường và nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa các Bộ, ban ngành và địa phương trong quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ
và trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục địa phương, gắn trách nhiệm với
quyền hạn sử dụng nhân sự và tài chính
- Xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi, nhất là chính sách
tiền lương và chế độ đãi ngộ theo khu vực nhằm khuyến khích nhà giáo, đồng thời
thu hút những người có năng lực và trình độ cao, có tài năng gia nhập đội ngũ nhà
63
giáo.
- Hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương triển khai, tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng và triển khai các chương trình, quy hoạch,
kế hoạch phát triển NNL GVĐH 5 năm và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát
triển giáo dục 2011 - 2020, Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020, chiến lược phát triển KTXH của khu vực, địa phương.
2.3.3. Tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
2.3.3.1. Về tuyển dụng
Tuyển dụng NNL GVĐH là việc lựa chọn và chấp nhận một người tự nguyện
gia nhập đội ngũ viên chức giảng dạy tại một cơ sở GDĐH sau khi đã xác nhận
người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện đối với vị trí còn trống. Tuyển dụng giảng
viên là một kênh quan trọng để bổ sung NNL cho trường đại học.
Quản lý nhà nước về tuyển dụng GVĐH công lập bao gồm việc xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến tuyển dụng viên chức và tuyển dụng giảng viên. Để bảo đảm tuyển được
ĐNGV chất lượng cao, hoạt động này phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về tiêu
chuẩn tuyển dụng giảng viên theo quy định pháp luật của Nhà nước và theo quy
định của trường đại học, quy chế thi tuyển, xét tuyển, điều kiện thi, nội dung thi, quy
trình thực hiện, nguyên tắc xác định trúng tuyển.
2.3.3.2. Về sử dụng
Quản lý nhà nước về sử dụng giảng viên bao gồm các nội dung xây dựng,
ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến sử dụng giảng viên. Các nội dung cụ thể trong tổ chức thực hiện quy
định pháp luật và chính sách sử dụng của Nhà nước bao gồm: phân công nhiệm vụ
bảo đảm phù hợp với chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý được bổ nhiệm và
yêu cầu của vị trí việc làm; bổ nhiệm viên chức quản lý; thay đổi chức danh nghề
nghiệp giảng viên; tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp; quy
định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi hoặc xét thăng hạng
chức danh nghề nghiệp đối với giảng viên; đánh giá giảng viên. Việc bố trí, sắp
xếp, sử dụng, đánh giá giảng viên phải được tiến hành một cách khách quan,
khoa học, hợp lý theo yêu cầu của công việc và đáp ứng các yêu cầu, quy định
pháp luật liên quan.
64
Trong sử dụng giảng viên, đánh giá là một nội dung rất quan trọng, không
chỉ gồm đánh giá theo năng lực thực hiện nhiệm vụ, mà còn là đánh giá sự phát
triển theo chiều hướng tiến bộ của cá nhân giảng viên. Đánh giá giảng viên nhằm
duy trì, phát triển tổ chức. Việc đánh giá cần dựa trên các nhóm nhiệm vụ chính
của giảng viên. Nhiệm vụ của giảng viên được quy định tại Điều 46 của Điều lệ
trường đại học [140], giảng viên có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và NCKH được quy định theo giờ chuẩn
do Bộ GD&ĐT ban hành đối với các chức danh và ngạch tương ứng;
- Giảng dạy theo nội dung, chương trình được Bộ GD&ĐT, trường đại học
quy định. Viết giáo trình, bài giảng, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập theo sự
phân công của các cấp quản lý;
- Không ngừng tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến phương pháp
giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo;
- Tham gia và chủ trì các đề tài NCKH, phát triển công nghệ, dịch vụ khoa
học và công nghệ và các hoạt động khoa học và công nghệ khác;
- Chịu sự giám sát của các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương
pháp đào tạo và NCKH;
- Hướng dẫn, giúp đỡ người học trong học tập, NCKH, rèn luyện tư tưởng,
đạo đức, tác phong, lối sống.
2.3.4. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền lương và phụ cấp đối với
nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Tiền lương là một trong những vấn đề trọng yếu của tổ chức và của công tác
nhân sự. Nhà nước cần xây dựng chính sách tiền lương và phụ cấp hợp lý, minh
bạch đối với GVĐH công lập. Việc hoạch định chính sách tiền lương, phụ cấp cần
có căn cứ khoa học, nếu không sẽ triệt tiêu động lực làm việc của người lao động
và không thu hút, giữ chân được "người tài" cho tổ chức. Việc tạo động lực làm
việc chủ yếu liên quan đến chế độ đãi ngộ và môi trường làm việc của giảng viên.
Chế độ đãi ngộ bao gồm đãi ngộ về vật chất (lương và phụ cấp (phần thu nhập
người lao động được hưởng hàng tháng), phúc lợi, bảo hiểm) và khuyến khích về
tinh thần (sự tôn trọng, ghi nhận, động viên, tôn vinh). Phần thu nhập hàng tháng
đòi hỏi phải bảo đảm được cuộc sống của họ cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời
chế độ đãi ngộ phải tương xứng với trình độ học vấn, năng lực, hiệu quả giải quyết
65
công việc cũng như các mức độ uyên thâm nghề nghiệp khác nhau của họ và phải
tùy thuộc vào điều kiện phát triển của khu vực. Chính sách khen thưởng của Nhà
nước cho đối tượng lao động hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cơ sở xếp loại
năng lực và hiệu quả công việc cũng là một nội dung cần lưu ý. Chính điều này tạo
nên sự hấp dẫn, tạo nên động lực cho người lao động tích cực sáng tạo, hăng say
làm việc góp phần đạt được mục tiêu của tổ chức với chi phí thấp nhất.
2.3.5. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
ĐTBD là hoạt động thường xuyên nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của
đội ngũ GVĐH công lập theo chuẩn quy định và để đáp ứng mục tiêu chiến lược
phát triển của khu vực trong thời gian trước mắt và lâu dài. QLNN về ĐTBD
GVĐH công lập bao gồm việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật và các văn bản hướng dẫn liên quan về ĐTBD viên chức, xây dựng các tiêu
chuẩn về chất lượng đào tạo, xây dựng các đề án, chương trình về ĐTBD giảng
viên và tổ chức thực hiện các đề án, chương trình này. Trên cơ sở xác định “lỗ
hổng” năng lực thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân và ĐNGV so với chuẩn nghề
nghiệp và xu thế phát triển của GDĐH tại khu vực và trên thế giới, các trường đại
học công lập và ở tầm cao hơn là các chủ thể QLNN về GVĐH công lập xác định
nhu cầu ĐTBD giảng viên.
Đào tạo giảng viên được hiểu là hoạt động trang bị kiến thức nghề nghiệp
để lấy chứng chỉ trình độ hàn lâm và trang bị, rèn luyện các kỹ năng quản lý, kỹ
năng thực hiện công việc cho giảng viên, bảo đảm cho giảng viên nâng cao trình
độ chuyên môn và quản lý cả về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và thái độ, đáp
ứng được yêu cầu của tổ chức trong hiện tại và chiến lược phát triển trong tương
lai. Đối với đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, lấy bằng cấp thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân thì việc xác định nhu cầu đào tạo của tổ chức căn cứ vào:
(i) kết quả đánh giá tiềm năng và triển vọng của những người sẽ được thăng tiến
trên con đường chức nghiệp nhưng còn thiếu bằng cấp đào tạo chuyên môn, nghề
nghiệp; (ii) bổ sung bằng cấp đào tạo chuyên môn nhằm đáp ứng tiêu chuẩn chức
danh đang đảm nhận; (iii) nguyện vọng của các cá nhân mong muốn có trình độ
đào tạo chuyên môn cao hơn để đảm nhận tốt nhiệm vụ và có điều kiện thăng tiến
trong con đường chức nghiệp.
66
Bồi dưỡng giảng viên nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên
môn cho giảng viên khi những kiến thức, kỹ năng được đào tạo trước đây đã lạc
hậu, không đủ để thực hiện có hiệu quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với
bồi dưỡng nhằm cập nhật kiến thức và rèn luyện kỹ năng hoạt động, quản lý, nhu
cầu bồi dưỡng để bổ sung kiến thức và rèn luyện kỹ năng được xác định căn cứ
vào: (i) kết quả đánh giá giảng viên hàng năm; những thiếu hụt cần được bồi
dưỡng nhằm bổ sung và cập nhật; (ii) điều tra nhu cầu ĐTBD từ chính bản thân
giảng viên trong trường đại học để xác định họ cần được trang bị và bổ sung thêm
kiến thức và kỹ năng gì để có thể hoàn thành có hiệu quả hơn công việc được giao
trong tổ chức.
2.3.6. Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính phát triển nguồn nhân lực giảng
viên đại học công lập
Đảng và Nhà nước ta coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư
giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích
bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
đầu tư cho giáo dục, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng
nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Các nội dung đầu tư, hỗ trợ và huy động các nguồn
lực hỗ trợ phát triển NNL GVĐH bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước trực tiếp đầu tư, dành một phần ngân sách cho hoạt
động ĐTBD đội ngũ GVĐH công lập, nhằm điều chỉnh cơ cấu đào tạo giảng viên
hướng theo yêu cầu phát triển KTXH và đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với doanh
nghiệp và các tổ chức có nhu cầu nhân lực lớn.
Thứ hai, Nhà nước có chính sách khuyến khích về tài chính, trả thù lao phù
hợp để thu hút, huy động thêm lực lượng chuyên gia, nhà khoa học, những người
có kiến thức chuyên môn sâu, ngoại ngữ tốt đang làm việc tại các tổ chức khác
chuyển sang làm việc hoặc tham gia vào công tác giảng dạy tại các trường đại học
công lập, hoặc chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn, chuyển giao công nghệ
cho ĐNGV các trường đại học công lập.
Thứ ba, Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất nhằm hình thành các trường đại học
nghiên cứu mũi nhọn. Sự đầu tư này hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt
động NCKH công nghệ trong các cơ sở GDĐH, giúp các cơ sở GDĐH công lập
67
này có cơ sở vật chất hiện đại nhằm phục vụ phát triển ĐNGV triển khai công tác
NCKH thuận lợi và hiệu quả hơn.
Thứ tư, để huy động thêm các nguồn lực cho phát triển NNL GVĐH công
lập, Nhà nước chủ trương xã hội hóa GDĐH. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp
với xu thế phát triển. Để chủ trương này phát huy vai trò trong thực tế cần rà soát,
sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các văn bản, chính sách, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển
GDĐH. Bên cạnh đó, Nhà nước hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH,
đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có khả năng tự bảo đảm toàn
bộ chi phí hoạt động theo hướng tiếp tục đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, nhân sự. Nhà nước khuyến khích các
doanh nghiệp, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước đóng góp, viện trợ và hỗ trợ
đào tạo GVĐH công lập dưới các hình thức khác nhau, như cấp học bổng đào tạo
tiến sĩ cho giảng viên, hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và NCKH
cho các cơ sở GDĐH công lập.
2.3.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong phát triển nguồn nhân lực
giảng viên đại học
QLNN luôn gắn chặt chẽ với công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
nhằm bảo đảm các nội dung QLNN về phát triển NNL GVĐH được thực hiện
nghiêm túc trên thực tế. Các vi phạm nếu có cần được xử lý nghiêm minh nhằm
duy trì trật tự quản lý trong phát triển năng lực của GVĐH, tạo động lực cho họ tự
nguyện phấn đấu, cống hiến. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm còn nhằm tìm
biện pháp khắc phục kịp thời các lỗi trong thực hiện chức trách về QLNN trong
phát triển NNL GVĐH và đề xuất các biện pháp, cơ chế điều chỉnh phù hợp, qua
đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nhằm các mục đích: (i) thông
qua hoạt động này để đánh giá về hiệu lực, hiệu quả thể chế QLNN về phát triển
NNL GVĐH, giúp các cơ quan QLNN có thông tin về tính hợp lý, tính khả thi của
các quy định pháp luật; (ii) kịp thời phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp
luật trong thực hiện QLNN về phát triển NNL giảng viên; (iii) tạo ra áp lực đối với
các cơ quan QLNN, cơ sở GDĐH và các chủ thể khác phải tuân thủ các quy định
của pháp luật, tạo tiền đề đảm bảo chất lượng GDĐH.
68
2.4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
2.4.1. Thể chế quản lý
Thể chế QLNN về phát triển NNL GVĐH bao gồm hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản QLNN và hệ thống các tổ chức QLNN trong lĩnh vực
GDĐH có liên quan đến nội dung phát triển NNL GVĐH.
Mọi thay đổi của pháp luật đều tác động mạnh mẽ và kéo theo những thay
đổi trong phát triển xã hội. Sự thay đổi này theo hướng tích cực hay tiêu cực và có
đạt được mục tiêu của chiến lược cải cách giáo dục hay không phụ thuộc vào chất
lượng của hệ thống văn bản điều chỉnh về lĩnh vực GDĐH và đội ngũ GVĐH. Để
đưa các văn bản quy phạm pháp luật vào triển khai có hiệu quả trong thực tế, Nhà
nước cần xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý GDĐH
với nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức phù hợp. Việc xây dựng và hoàn thiện bộ
máy quản lý phải tương thích với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
GDĐH, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả QLNN về GDĐH.
Là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể chế QLNN về phát triển
NNL GVĐH bảo đảm sự bắt buộc thực hiện trên thực tế các cơ chế, chính sách đã
được ghi nhận bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Thể chế đó tốt sẽ hỗ
trợ, khuyến khích, tạo điều kiện trong tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhằm phát
triển số lượng, chất lượng giảng dạy và NCKH trong ĐNGV. Nếu ngược lại sẽ
triệt tiêu động lực, suy giảm lòng tin và hạn chế tinh thần cống hiến vì sự phát triển
của sự nghiệp giáo dục.
2.4.2. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
Ở tầm vĩ mô, nguồn lực tài chính có tác động rất lớn đến QLNN về GDĐH,
trong đó có việc phát triển NNL GVĐH. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất phù
hợp là điều kiện cần thiết để các chính sách pháp luật về GDĐH được triển khai
trên thực tế. Công tác xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật về GDĐH, các
chương trình ĐTBD ĐNGV ngắn hạn, dài hạn ở trong và ngoài nước, quỹ lương
và nguồn kinh phí dành cho việc thu hút, giữ chân giảng viên tài năng yêu cầu phải
được dành một nguồn kinh phí ngân sách nhất định, trong điều kiện ngân sách nhà
nước còn khó khăn.
Điều kiện cơ sở vật chất của hệ thống các cơ sở GDĐH công lập cũng có
69
ảnh hưởng không nhỏ tới QLNN về GDĐH, trong đó có nội dung phát triển NNL
GVĐH công lập. Phần lớn đầu tư vào hệ thống cơ sở vật chất của các trường đại
học công lập là từ nguồn vốn nhà nước, phần còn lại do các trường tự chủ hoặc
huy động thêm các nguồn vốn xã hội hóa, nguồn tài trợ. Hiện nay, cơ sở vật chất
của các trường đại học công lập của nước ta còn hạn chế so với các nước trong khu
vực. Hệ thống cơ sở vật chất của các trường đại học còn hạn chế đã phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng ĐTBD đội ngũ GVĐH và hoạt động NCKH của giảng viên.
Như vậy, có thể thấy, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất nếu không đủ sẽ
hạn chế hiệu quả triển khai, thực thi pháp luật về phát triển NNL GVĐH công lập.
Có chính sách nhưng thiếu kinh phí, không đủ nguồn lực, cơ sở vật chất để triển
khai chính sách, sẽ làm hạn chế hiệu quả, tác động của chính sách, cụ thể là việc
thực hiện mục tiêu phát triển về số lượng và chất lượng NNL GVĐH công lập.
2.4.3. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý
Đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ QLNN về GDĐH đóng vai trò chủ chốt trong
việc cải tiến nâng cao chất lượng mọi mặt của GDĐH bởi có đường lối, cách thức
quản lý tốt mới có thể đạt hiệu quả công việc cao nhất. Những cán bộ này hàng
ngày tham mưu cho lãnh đạo Bộ GD&ĐT, lãnh đạo địa phương và Chính phủ
trong công tác xây dựng pháp luật, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển ĐNGV, trực tiếp làm công tác kiểm định, giám sát chất lượng GDĐH, công
tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính sách, pháp luật về GDĐH. Đội ngũ cán
bộ làm công tác QLNN về GDĐH và phát triển NNL GVĐH cần có tâm huyết với
nghề nghiệp, cần có năng lực chuyên môn tốt về QLNN trong lĩnh vực GDĐH, am
hiểu sâu về thực trạng NNL giáo dục, am hiểu tình hình, điều kiện phát triển
KTXH của đất nước, nhu cầu NNL chất lượng cao của các ngành KTXH, của các
vùng miền, địa phương, có khả năng dự báo, đánh giá và nắm bắt tốt các xu hướng
phát triển GDĐH trong khu vực và trên thế giới. Chỉ có như vậy mới có thể làm tốt
công tác tham mưu cho Lãnh đạo trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển GDĐH và phát triển đội
ngũ GVĐH đáp ứng nhu cầu xã hội. Nếu đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về
GDĐH yếu kém thì sẽ có thể kéo theo sự yếu kém của cả hệ thống, vì mọi chủ
trương, chính sách về quản lý giáo dục trong đó có quản lý NNL GVĐH đều từ sản
phẩm của đội ngũ này mà ra.
70
2.4.4. Điều kiện phát triển của quốc gia, khu vực, địa phương
Điều kiện phát triển KTXH của quốc gia, khu vực, địa phương có ảnh
hưởng không nhỏ đến QLNN về phát triển đội ngũ GVĐH. Sự phát triển về
KTXH, năng lực KHCN của khu vực, địa phương, quốc gia sẽ góp phần tạo thuận
lợi cho sự phát triển của hệ thống các trường đại học công lập và đội ngũ GVĐH
công lập. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định giúp tạo việc làm và thu nhập cho
người dân, đảm bảo khả năng đóng học phí ở mức phù hợp của học viên, từ đó làm
tăng nguồn thu cho các trường đại học, đồng thời làm tăng nguồn thu ngân sách
nhà nước mà một phần trong số đó được phân bổ trở lại cho các trường đại học
công lập để trả lương, đào tạo bồi dưỡng giảng viên, chi cho NCKH, xây dựng cơ
sở vật chất. Mối quan hệ giữa phát triển ĐNGV và điều kiện KTXH là mối quan
hệ nhân quả, tác động qua lại. Kinh tế càng phát triển thì khả năng đầu tư của Nhà
nước và xã hội cho phát triển đội ngũ GVĐH càng lớn. ĐNGV được phát triển sẽ
lại đào tạo ra lực lượng lao động mới có chất lượng cao, góp phần đẩy mạnh phát
triển KTXH.
Thực tế cho thấy ở những địa phương, vùng miền có điều kiện KTXH phát
triển hơn, công tác QLNN về phát triển đội ngũ GVĐH công lập ở địa bàn đó sẽ có
hiệu quả hơn, hệ thống các trường đại học công lập tại địa bàn đó cũng phát triển
mạnh hơn, với ĐNGV có ưu thế hơn về số lượng, chất lượng và hợp lý hơn về cơ
cấu. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, mức chi ngân sách dành cho giáo
dục trong đó có GDĐH là rất lớn, ĐNGV ở những nước này có mức lương cao hơn
nhiều so với lao động ở các ngành nghề khác trong xã hội.
Tại các khu vực, địa phương có trình độ dân trí cao, nhu cầu học tập của
sinh viên đại học cũng sẽ cao hơn, đặt ra yêu cầu cao hơn về phát triển hệ thống
các trường đại học công lập và đội ngũ GVĐH công lập. Người dân có trình độ
dân trí cao sẽ quan tâm đến các vấn đề về cơ chế, chính sách và việc thực thi cơ
chế, chính sách đó. Công tác QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập tại khu
vực đó sẽ đứng trước áp lực lớn hơn trong việc đảm bảo hiệu quả, đảm bảo định
hướng phát triển ĐNGV phù hợp với nhu cầu KTXH, chịu ảnh hưởng lớn hơn của
dư luận xã hội và sự giám sát của người dân.
Mức độ phát triển của trình độ KHCN và CNTT của khu vực, địa phương
cũng đặt ra yêu cầu cho QLNN là phải đào tạo được ĐNGV có thể nắm vững và
71
làm chủ các công nghệ, kỹ năng giảng dạy hiện đại, làm chủ các phương tiện kỹ
thuật hiện đại để nâng cao hiệu quả giảng dạy và NCKH. Hệ thống các cơ quan
QLNN về GDĐH cũng phải ứng dụng CNTT trong triển khai nhiệm vụ QLNN.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển nhanh chóng cũng làm tăng năng suất
lao động, có thể tác động đến chính sách phát triển đội ngũ GVĐH công lập. Đó là
có thể giảm về số lượng, nhưng yêu cầu về chất lượng, về cơ cấu đội ngũ một cách
hợp lý lại cao hơn. KHCN phát triển cũng làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu ngành nghề của nhân lực lao động trong xã hội tại địa bàn khu vực, địa
phương, đòi hỏi QLNN phải điều chỉnh cơ cấu trình độ, cơ cấu đào tạo NNL giảng
viên theo lĩnh vực ngành nghề phù hợp với yêu cầu phát triển KTXH của khu vực,
địa phương.
2.4.5. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá tác động đến mọi lĩnh vực KTXH cũng
như công tác QLNN của tất cả các quốc gia. Việc mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết
đào tạo mang lại nhiều cơ hội cho GDĐH Việt Nam nhưng cũng đặt ra không ít
thách thức, bắt buộc giáo dục Việt Nam phải nâng cao chất lượng đào tạo cả về nội
dung chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất cũng như ĐNGV và công tác quản lý
để đáp ứng được mặt bằng chung của giáo dục quốc tế. Trong bối cảnh đó, sự liên
thông giữa các chuẩn mực GDĐH trong nước và quốc tế ngày càng cao. Các
phương pháp đào tạo nhấn mạnh đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống
hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến thức đã có sẵn, việc áp dụng các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học của các trường đại học trên thế giới thường rất
linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho
người học có thể tự học, tự nghiên cứu.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, khi nhu cầu về nhân lực bậc cao ngày càng
tăng cùng với sự cạnh tranh khốc liệt của các nền kinh tế tri thức, GDĐH có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của từng quốc gia, của khu
vực, địa phương. Xây dựng và phát triển đội ngũ GVĐH đáp ứng yêu cầu của đổi
mới GDĐH trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng trở thành một nhiệm vụ then
chốt. Mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế hay quá trình quốc tế
hóa GDĐH và đội ngũ GVĐH là yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo
NNL chất lượng cao, xây dựng uy tín và thương hiệu để thu hẹp khoảng cách phát
72
triển và tiến tới cạnh tranh với hệ thống GDĐH ở khu vực và trên thế giới.
2.5. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN
ĐẠI HỌC CỦA MỘT SỐ VÙNG TRONG NƯỚC
2.5.1. Kinh nghiệm quản lý nguồn nhân lực giảng viên đại học một số vùng
trong nước
2.5.1.1. Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) được thành lập
năm 1995, là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và NCKH - công nghệ đa
ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt cho hệ
thống giáo dục đại học. ĐHQG-HCM đang hướng đến xây dựng một hệ thống đại
học trong tốp đầu châu Á, nơi hội tụ của khoa học, công nghệ, văn hóa và tri thức
Việt Nam. Tính đến hết năm 2017, ĐHQG-HCM có tổng cộng hơn 5.382 cán bộ -
công chức với khoảng 3.284 viên chức giảng dạy (chiếm 61%), 2.098 viên chức
hành chính và 928 cán bộ nghiên cứu. ĐHQG-HCM có 369 Giáo sư, Phó Giáo sư,
1.141 tiến sĩ, 2.133 thạc sĩ.
ĐHQG-HCM luôn coi phát triển NNL chất lượng cao là yếu tố quyết định
sự phát triển bền vững của trường. Một số định hướng lớn trong chính sách phát
triển NNL giảng viên của ĐHQG-HCM gồm: chú trọng đến số lượng, cơ cấu và
tốc độ phát triển của ĐNGV để đáp ứng yêu cầu của đại học định hướng nghiên
cứu; tập trung phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ; tiếp tục đẩy
mạnh thu hút các giảng viên, các nhà khoa học ở nước ngoài có uy tín về làm việc,
trong đó có các Việt kiều, các giáo sư nổi tiếng; quan tâm cơ chế đãi ngộ và môi
trường làm việc thuận lợi cho phát triển chuyên môn để thu hút đội ngũ Giáo sư,
Phó Giáo sư, tiến sĩ làm việc tại ĐHQG-HCM.
ĐHQG-HCM luôn quan tâm đến công tác NCKH của ĐNGV và là một
trong những đơn vị đứng đầu cả nước về công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế
uy tín. So với giai đoạn 2006-2010, số lượng bài báo của trường đăng tạp chí quốc
tế giai đoạn 2011-2015 tăng gấp 3 lần, từ 787 lên 2.142 bài. ĐHQG-HCM đã xây
dựng Đề án “Nâng cao năng lực công bố khoa học quốc tế giai đoạn 2017-2022”
với mục tiêu tăng số lượng công bố khoa học giai đoạn này gấp đôi giai đoạn
2011-2015. Để đạt mục tiêu này, ĐHQG-HCM tập trung xây dựng cơ chế khuyến
73
khích cán bộ nghiên cứu đăng bài báo quốc tế. Theo quy định của Nhà nước và
quy định về giải thưởng của ĐHQG-HCM, các giảng viên đứng tên, chịu trách
nhiệm chính và đồng tác giả công bố bài báo quốc tế trên tạp chí có chỉ số SCI,
SCIE và ISI sẽ được thưởng tiền không quá 30 lần, 20 lần và 10 lần mức lương cơ
sở hoặc thưởng mỗi bài báo quốc tế 500 USD.
Trong xu thế xã hội hóa giáo dục, ĐHQG-HCM cũng đã đề ra nhiệm vụ
huy động nguồn lực từ doanh nghiệp để hỗ trợ phát triển giáo dục đại học. Những
nỗ lực kết nối của ĐHQG-HCM và sự phản hồi tích cực từ xã hội đã giúp ĐHQG-
HCM tận dụng hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng giảng dạy và
NCKH của ĐNGV, nâng cấp và hiện đại hóa nhiều công trình, cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ giảng dạy và NCKH. Đến nay, có hơn 100 nhà tài trợ là tập
thể, đơn vị và cá nhân ở trong nước và quốc tế đang tiếp sức thường xuyên cho các
hoạt động giáo dục tại ĐHQG-HCM.
2.5.1.2. Đại học Đà Nẵng
Đại học Đà Nẵng được thành lập năm 1994, là một đại học vùng trọng điểm
quốc gia, đa ngành, đa cấp, đóng vai trò trọng yếu trong đào tạo nhân lực và
NCKH phục vụ phát triển KTXH khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng và
cả nước nói chung. Đại học Đà Nẵng đang phấn đấu để trở thành một trong những
trường đại học hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Đại học Đà Nẵng hiện có 2.316
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, trong đó cán bộ giảng dạy là
1.454 người, chiếm tỷ lệ 63%. Chất lượng ĐNGV không ngừng được nâng cao qua
các giai đoạn phát triển. Đại học Đà Nẵng hiện có 09 Giáo sư, 102 Phó Giáo sư,
445 tiến sĩ, 1.026 thạc sĩ, trong đó, hơn 50% giảng viên có thể sử dụng ngoại ngữ
trong giảng dạy. Giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên chiếm tỷ lệ 30,6%, có đơn vị
có tỷ lệ này rất cao là Trường Đại học Bách khoa với tỷ lệ tiến sĩ trên 45%. Trong
số 445 tiến sĩ kể trên, có hơn 300 người là những nhà khoa học trẻ được đào tạo từ
các trường đại học danh tiếng ở các nước công nghiệp phát triển.
Để tăng cường đội ngũ cán bộ giảng dạy đủ sức đảm đương nhiệm vụ đào
tạo, NCKH theo định hướng đại học nghiên cứu ứng dụng trong tương lai, những
năm gần đây Đại học Đà Nẵng đã tuyển dụng thêm nhiều giảng viên mới, trong số
74
đó, hầu hết đã học thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài. Nhiều năm qua, Đại học Đà
Nẵng đã có những quyết sách, chủ trương cử giảng viên đi học tập, bồi dưỡng
chuyên sâu ở nước ngoài và có chính sách thu hút, đãi ngộ nhân lực có trình độ
cao về công tác. Đại học Đà Nẵng xúc tiến hỗ trợ các thủ tục hưởng ưu đãi đối với
các ứng viên tài năng, tốt nghiệp ở nước ngoài về như được mua đất với giá ưu đãi
hoặc thuê chung cư, căn hộ của thành phố, nên đã thu hút được nhiều tiến sĩ từ Ca-
na-đa, Pháp, Nga, c, Nhật Bản về công tác. Nhờ đó đến nay, Đại học Đà Nẵng đã
tuyển dụng được nhiều giảng viên trẻ có trình đọ cao, được đào tạo ở nước ngoài.
ĐNGV của Đại học Đà Nẵng đã đạt tỷ lệ hơn 30% giảng viên có trình độ tiến sĩ,
vượt chỉ tiêu của nhiệm kỳ 2015-2020.
Trong những năm qua, công tác tuyển chọn giảng viên được chú trọng đặc
biệt. Giảng viên được tuyển chọn trước hết phải có bằng tốt nghiệp đại học chính
quy tập trung (loại Khá trở lên) phù hợp với ngành dự tuyển, ngoài ra còn căn cứ
vào những thông tin như: ưu tiên những người có bằng tiến sĩ; uy tín, thương hiệu
của trường được đào tạo, đặc biệt những người được đào tạo ở các nước phát triển;
quá trình học tập ở phổ thông, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; khả năng về chuyên môn,
ngoại ngữ để có thể tiếp tục đi đào tạo và bồi dưỡng sau đại học trong thời gian
sớm nhất; khả năng sư phạm và mức độ yên tâm công tác với nghề để có thể phục
vụ lâu dài cho nhà trường. Trong tuyển dụng mới giảng viên, Đại học Đà Nẵng ưu
tiên chọn những ứng viên tốt nghiệp xuất sắc, có nhiều thành tích NCKH và có
điểm tiếng Anh cao.
Đại học Đà Nẵng thường xuyên rà soát, đánh giá và xây dựng kế hoạch
ĐTBD để nâng cao chất lượng ĐNGV nhằm đáp ứng được các yêu cầu phát triển
theo các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Đại học Đà Nẵng đặt ra quy định rất rõ
ràng: giảng viên dưới 45 tuổi phải lập kế hoạch đi học để sau 5 năm phải đạt được
trình độ tiến sĩ; số giảng viên trẻ mới tuyển dụng chậm nhất 30 tuổi phải có trình
độ thạc sĩ và 38 tuổi phải có trình độ tiến sĩ; bắt buộc cán bộ trẻ đi đào tạo sau đại
học ở nước ngoài, trừ những ngành đặc thù. Về ngoại ngữ, đối với giảng viên mới
thì phải tự bồi dưỡng ngoại ngữ để khi hết hạn tập sự phải đạt yêu cầu về tiếng
Anh đạt tối thiểu là 4.5 IELTS hoặc trình độ tương đương ở các ngôn ngữ khác. Về
75
đào tạo nghiệp vụ sư phạm đại học, 100% giảng viên trong thời gian tập sự phải
hoàn thành chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm đại học theo quy định của Bộ GD&ĐT.
Đẩy mạnh NCKH và mở rộng hợp tác quốc tế là hai hoạt động gắn kết chặt
chẽ với công tác đào tạo tại Đại học Đà Nẵng. Các công trình NCKH cơ bản, khoa
học công nghệ mang tính ứng dụng thực tiễn, các bằng phát minh sáng chế của cán
bộ giảng dạy, nghiên cứu tại Đại học Đà Nẵng đã góp phần đáng kể trong giải
quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế sản xuất và đời sống của nhân dân trong
khu vực. Các hoạt động hợp tác quốc tế đã giúp cho Đại học Đà Nẵng đào tạo
hàng trăm cán bộ giảng dạy các ngành, hỗ trợ việc tăng cường cơ sở vật chất phục
vụ NCKH, thu hút được nhiều nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu người Việt Nam
ở nước ngoài (Nhật Bản, Pháp, Ca-na-đa, Xinh-ga-po) cũng như quốc tế tham gia
giảng dạy và hợp tác NCKH. Thời gian qua, Đại học Đà Nẵng đã gửi hơn 1.000
lượt cán bộ/giảng viên ra nước ngoài học tập, nghiên cứu và có hàng trăm cán bộ
tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Chủ trương
của Đại học Đà Nẵng là giảng viên được tuyển dụng phải cam kết đi đào tạo sau
đại học tại các nước tiên tiến để tiếp cận với nền khoa học hiện đại. Đại học Đà
Nẵng tăng cường bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, đào tạo ngoại ngữ cho giảng
viên, nhất là giảng viên trẻ.
2.5.1.3. Đại học Thái Nguyên
Đại học Thái Nguyên được thành lập năm 1994, là đại học vùng, một trong
những trường đại học trọng điểm của cả nước, thực hiện nhiệm vụ đào tạo đa
ngành, đa lĩnh vực, NCKH và chuyển giao công nghệ chất lượng cao, đóng góp
cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của khu vực trung du, miền núi phía
Bắc và cả nước. Tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2017, Đại học Thái Nguyên có
4.317 cán bộ viên chức, trong đó số cán bộ giảng dạy là 2.757 (với 13 Giáo sư, 117
Phó Giáo sư, 586 tiến sĩ (chiếm 21,3% tổng số cán bộ giảng dạy), trên 2.182 thạc
sĩ). Đại học Thái Nguyên đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ
giảng dạy có trình độ tiến sĩ đạt từ 28-30%; có học hàm Giáo sư và Phó Giáo sư từ 7-
10%.
Theo quy định của Đại học Thái Nguyên, căn cứ để tuyển dụng phải xuất
phát từ nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và
76
quỹ tiền lương của đơn vị. Yêu cầu tuyển dụng là phải tuyển đúng, đủ nhân lực
đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đồng thời thu hút được nhân lực có
trình độ cao về làm việc. Ngoài các quy định chung của Nhà nước về điều kiện
đăng ký dự tuyển, tiêu chuẩn tuyển dụng, Đại học Thái Nguyên khuyến khích các
đại học thành viên đưa ra các tiêu chí cao hơn. Đại học Thái Nguyên đưa ra quy
định về xét tuyển đặc cách theo quy định của Nhà nước. Theo đó, đối tượng được
xét để tuyển thẳng vào làm việc không qua thi tuyển gồm: ứng viên có học vị tiến
sĩ đúng chuyên ngành đào tạo, phù hợp với nhu cầu tuyển; ứng viên tốt nghiệp đại
học thủ khoa hệ chính quy tại các trường đại học trọng điểm, tốt nghiệp đại học,
sau đại học loại xuất sắc hoặc giỏi ở các cơ sở GDĐH uy tín nước ngoài.
Về sử dụng, Đại học Thái Nguyên quy định thủ trưởng đơn vị chịu trách
nhiệm bố trí, phân công công tác, bảo đảm các điều kiện cần thiết, chế độ chính
sách và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của ĐNGV theo quy định hiện hành.
Việc phân công công tác cho giảng viên phải bảo đảm phù hợp giữa quyền hạn và
nhiệm vụ được giao với chức danh, chức vụ, ngạch viên chức được bổ nhiệm và
yêu cầu của vị trí việc làm.
Đại học Thái Nguyên luôn chú trọng tìm các giải pháp nâng cao chất lượng
ĐNGV. Đại học đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tập huấn cho cán bộ quản lý
và giảng viên với nhiều nội dung như: xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo; xây dựng chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình đào tạo cho các ngành đào
tạo một cách khoa học đáp ứng nhu cầu xã hội có tham khảo kinh nghiệm một số
trường đại học trong và ngoài nước như mô hình CDIO (Conceive - Design -
Implement – Operate (Ý tưởng - Thiết kế - Triển khai - Vận hành)); nâng cao chất
lượng dạy và học theo hệ thống tín chỉ. Đại học Thái Nguyên đã xây dựng các đề
án “Dạy và học tiếng Anh trong Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015”; đề án
“Chuẩn hoá năng lực ngoại ngữ cho cán bộ giảng dạy và sinh viên của ĐHTN giai
đoạn 2013 - 2015 và 2016 - 2020” nhằm tăng cường khả năng sử dụng ngoại
ngữ trong giao tiếp, tham khảo tài liệu nước ngoài, viết bài báo quốc tế, và
tham dự các hội nghị hội thảo quốc tế cho cho ĐNGV, tiến tới mục tiêu chuẩn
hóa ĐNGV trong thời kỳ hội nhập. Đại học Thái Nguyên cũng đặt ra quy định
về năng lực ngoại ngữ đối với ứng viên tham gia tuyển dụng. Nếu các ứng viên
77
được đào tạo chính quy và có bằng đại học, thạc sĩ hoặc tiến sĩ ở nước ngoài mà
các tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung, Tây Ban Nha, Đức, Nhật, Hàn là ngôn ngữ được
sử dụng trong quá trình học tập thì không phải kiểm tra năng lực ngoại ngữ khi
tuyển dụng.
2.5.2. Bài học kinh nghiệm đối với quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân
lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng
Từ việc nghiên cứu một số kinh nghiệm liên quan đến vấn đề phát triển
NNL giảng viên tại một số trường đại học trọng điểm thuộc một số vùng của Việt
Nam, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho QLNN về
phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH như sau:
Thứ nhất, chính sách tuyển dụng cần xuất phát từ nhu cầu công việc, yêu
cầu của vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Để thu hút và tuyển
dụng được các ứng viên tài năng, có trình độ cao, ngoài các tiêu chuẩn tuyển dụng
theo quy định chung của Nhà nước, khu vực ĐBSH có thể đưa ra tác tiêu chí tuyển
dụng cao hơn, đồng thời cần có chính sách đãi ngộ phù hợp và quan tâm đến việc
tạo lập môi trường làm việc hấp dẫn để thu hút nhân tài. Đối với các ứng viên xuất
sắc có thể áp dụng hình thức xét tuyển đặc cách. Các ứng viên được đào tạo thạc sĩ
và tiến sĩ ở nước ngoài và có nhiều thành tích NCKH nên được ưu tiên trong tuyển
dụng.
Thứ hai, trong sử dụng giảng viên, cần bảo đảm các điều kiện cần thiết, chế
độ chính sách và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định hiện hành. Việc
phân công công tác cho giảng viên phải bảo đảm phù hợp giữa quyền hạn, nhiệm
vụ được giao với chức danh, chức vụ, ngạch viên chức được bổ nhiệm và yêu cầu
của vị trí việc làm. Cần có quy định cụ thể về lộ trình đạt được các bằng cấp, học
vị đối với ĐNGV. Để nâng cao năng lực NCKH cho ĐNGV, một mặt cần đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, mặt
khác, cần có chính sách khuyến khích giảng viên làm NCKH, có cơ chế khuyến
khích nghiên cứu đăng bài báo quốc tế thông qua các mức thưởng tài chính.
Thứ ba, cần quan tâm đến công tác ĐTBD và chế độ đãi ngộ đối với giảng
viên. Có nhiều hình thức ĐTBD giảng viên, trong đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong ĐTBD giảng viên, cử giảng viên đi học tại các nước phát triển là những biện
78
pháp quan trọng và hiệu quả để nâng cao trình độ của ĐNGV, tạo điều kiện để
ĐNGV được tiếp cận với nền khoa học hiện đại và phương pháp giảng dạy tiên
tiến. Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, giảng viên cần được ĐTBD về ngoại ngữ để
thực hiện các chương trình đào tạo bằng tiếng nước ngoài, nâng cao năng lực
nghiên cứu các tài liệu khoa học nước ngoài, viết báo cáo bằng tiếng nước ngoài,
tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế. Bên cạnh yếu tố ĐTBD, kinh
nghiệm từ 3 trường đại học cho thấy một trong những nhân tố dẫn đến thành công
của nhà trường là chế độ đãi ngộ và các chính sách ưu đãi, nhất là chính sách tiền
lương nhằm tạo động lực cho ĐNGV, đồng thời thu hút những người có năng lực,
trình độ cao.
Thứ tư, cần tăng cường hợp tác với các quốc gia có nền GDĐH phát triển.
Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT và nhiều trường đại học đã chú trọng hơn đến
việc giao lưu, hợp tác với các nền giáo dục, trường đại học có uy tín trên thế giới.
Việc tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới giúp các cơ quan
QLNN học hỏi kinh nghiệm phát triển NNL giảng viên giảng viên đại học công
lập, đồng thời tạo cơ hội để các trường đại học từng bước chuẩn hóa trình độ, năng
lực của đội ngũ GVĐH theo tiêu chuẩn quốc tế, ngày càng đáp ứng được yêu cầu
của xã hội trong xu hướng hội nhập.
Thứ năm, trong điều kiện nguồn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước có hạn, Nhà
nước cũng như các trường đại học cần có chính sách huy động nguồn lực từ các
nguồn xã hội hóa, đặc biệt là từ cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua nhiều công trình, cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ giảng dạy và NCKH của nhiều trường đại học đã được nâng cấp và hiện
đại hóa nhờ vào nguồn lực quan trọng này.
79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Giáo dục đại học có hai nhiệm vụ cơ bản là đào tạo nhân lực trình độ cao và
NCKH phục vụ phát triển KTXH. Ở Việt Nam, trong khi các trường đại học công
lập vẫn đang chiếm ưu thế về số lượng, quy mô đào tạo, lĩnh vực, ngành nghề đào
tạo, năng lực khoa học công nghệ, ĐNGV của các trường đại học công lập có vai
trò quyết định trong việc đào tạo NNL có chất lượng phục vụ CNH, HĐH đất
nước.
Quản lý nhà nước về phát triển NNL GVĐH là một nội dung quan trọng của
QLNN về GDĐH. Để có cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
đặt ra đối với QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập, Chương 2 đã đi vào làm
rõ các khái niệm cơ bản về các loại hình trường đại học, đại học công lập, NNL
GVĐH công lập, QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập; sự cần thiết và các
nội dung của QLNN đối với trường đại học và ĐNGV. Đồng thời, tác giả luận án
cũng đã làm rõ vai trò của NNL GVĐH công lập và những tác động, yêu cầu đến
từ môi trường bên trong cũng như môi trường xã hội và quốc tế đối với chất lượng
và sự hình thành ĐNGV chất lượng cao. Đây cũng là xu hướng chung của nhiều
quốc gia trên thế giới trên quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,
đầu tư cho chất lượng GDĐH cần tập trung trước hết vào nâng cao chất lượng
giảng viên. Những nội dung QLNN ở Chương 2 sẽ được áp dụng để phân tích thực
trạng QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở Chương 3.
Bên cạnh đó, Chương 2 đã phân tích các yếu tố tác động đến QLNN về phát
triển NNL GVĐH, làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng QLNN, tìm ra
các hạn chế và nguyên nhân cho các hạn chế trong công tác QLNN về phát triển
NNL GVĐH công lập ở chương tiếp theo. Chương 2 cũng đã giới thiệu một số
kinh nghiệm phát triển NNL GVĐH của một số vùng trong nước có giá trị tham
khảo đối với QLNN về phát triển NNL GVĐH khu vực ĐBSH.
Các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý NNL GVĐH ở Chương 2 là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt để phân tích, luận giải và đánh giá thực trạng chính sách có liên
quan đang được áp dụng trong thực tiễn quản lý NNL giảng viên tại khu vực
ĐBSH ở chương tiếp theo.
80
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1. KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ HỆ
THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG
3.1.1. Khái quát về khu vực đồng bằng sông Hồng
Khu vực ĐBSH bao gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Nam, Nam
Ðịnh, Ninh Bình, là cửa ngõ ở phía biển Đông với thế giới và là một cầu nối trực
tiếp giữa ba trung tâm phát triển năng động của khu vực là Trung Quốc, Đông
Nam Á và Đông Bắc Á.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích khu vực ĐBSH chiếm 7,1%
diện tích đất của cả nước, dân số chiếm 22,7% dân số của cả nước. Mật độ dân số năm 2016 khoảng 994 người/km2, cao nhất so với các khu vực khác trong cả nước (mật độ bình quân của cả nước là 277 người/km2), cao gấp 3,58 lần so với cả nước
và 1,45 lần so với khu vực có mật độ dân số đứng thứ hai là Đông Nam Bộ.
Khu vực ĐBSH có đặc điểm địa hình thuận lợi để phát triển hệ thống giao
thông thuỷ bộ và cơ sở hạ tầng. Điều kiện tự nhiên và khí hậu của khu vực tạo
thuận lợi cho ngành trồng trọt và chăn nuôi phát triển. Đất đai nông nghiệp là
nguồn tài nguyên cơ bản của vùng do phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình bồi đắp. Hiện có trên 103 triệu ha đất được sử dụng, chiếm 82,48 % diện tích
đất tự nhiên của khu vực và chiếm 5,5% diện tích đất sử dụng của cả nước. Mức sử
dụng đất của khu vực cao nhất trong các khu vực trong cả nước.
Điều kiện tự nhiên của khu vực thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển,
dẫn đến tình trạng tập trung dân cư và người lao động đến làm việc lớn hơn các
khu vực khác. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2016, khu vực ĐBSH
có 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội và Hải Phòng); 13 thành phố trực
thuộc tỉnh; 19 quận, 6 thị xã, 92 huyện; 440 phường; 117 thị trấn và 1.901 xã.
81
ÐBSH có tiềm năng to lớn và nhiều lợi thế vượt trội so với nhiều vùng kinh tế
khác; có vị trí rất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển KTXH. ĐBSH có thủ đô Hà
Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan
trọng về chính trị, KTXH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước. ĐBSH còn
có vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ với 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
bao gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh. Đây cũng là vùng kinh tế năng động bậc nhất của cả nước. Với các cơ
quan trung ương, các trung tâm, cơ sở đào tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dựng
lớn của cả nước, khu vực ĐBSH đã, đang và sẽ tiếp tục giữ vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp phát triển của cả nước.
Khu vực ĐBSH có 3 đô thị trung tâm đã được xác định trong quy hoạch
phát triển của khu vực này là các đô thị Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Các đô thị
trung tâm có vai trò lớn trong việc đào tạo bậc đại học cho phần lãnh thổ còn lại
của khu vực ĐBSH. Hàng năm, số lượng người đi học đại học cũng như người tốt
nghiệp đại học ở Hà Nội, Hải Phòng ngày càng tăng. Phần lớn số sinh viên tốt
nghiệp ra trường làm việc tại các tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSH.
Năm 2016 tổng dân số của các tỉnh, thành phố trong khu vực đạt khoảng
21,1 triệu người, chiếm khoảng 22,8% tổng dân số cả nước. Các địa phương có số
dân đông nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Ba địa phương này có tổng dân
số chiếm tới 52,7% tổng dân số của toàn khu vực.
Bảng 3.1. Dân số khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2016
ĐVT: nghìn người
Tỉnh/TP
2012
2013
2014
2015
6.936,9 1.029,4 1.114,0 1.185,2 1.747,5 1.925,2 1.151,6 1.788,4 794,3 1.839,9 927,0
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
6.783,7 1.019,9 1.074,9 1.170,2 1.723,4 1.894,1 1.159,4 1.786,8 787,2 1.836,0 454,0 20.214,6
7.216,0 1.054,5 1.154,7 1.211,3 1.774,5 1.963,3 1.164,4 1.789,2 802,7 1.850,6 944,4 20.925,5
2015 (%) 34,5% 5,0% 5,5% 5,8% 8,5% 9,4% 5,6% 8,6% 3,8% 8,8% 4,5% 100%
2016 (ước) 7.328,4 1.066,0 1.178,6 1.224,6 1.785,8 1.986,8 1.170,2 1.790,0 803,7 1.852,6 953,1 21.133,8
7.095,9 1.041,9 1.131,2 1.199,4 1.763,2 1.946,0 1.158,1 1.788,7 799,4 1.845,6 935,8 20.439,4 20.705,2 Nguồn: Tổng cục Thống kê
82
Khu vực ĐBSH có thế mạnh về cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống, có thế
mạnh về các lĩnh vực kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ (du lịch, tài
chính, ngân hàng, vận tải, logistics, viễn thông), các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế,
giáo dục. Khu vực ĐBSH cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa có sức mua lớn so
với các khu vực khác trong cả nước.
Đặc biệt, về nguồn lực con người, khu vực có có NNL dồi dào, trình độ dân
trí cao hơn các khu vực khác, tập trung đội ngũ trí thức giỏi. Theo số liệu thống kê
của Bộ GD&ĐT, năm học 2016-2017, số lượng sinh viên của ĐBSH là 732.325
sinh viên, chiếm 41,4% tổng số sinh viên cả nước, số lượng giảng viên là 30.842
giảng viên, chiếm 42,4% tổng số giảng viên của cả nước, vượt xa quy mô sinh viên
và giảng viên của các khu vực khác trong cả nước (Phụ lục 3). Thực tế cho thấy,
khu vực ĐBSH dẫn đầu các khu vực trong cả nước về số lượng, chất lượng NNL
và khả năng nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, chăm
sóc sức khỏe nhân dân. Cơ cấu kinh tế của khu vực ĐBSH đang tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tích cực, trong đó, tỷ trọng nông lâm nghiệp, thủy sản giảm, tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh.
Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH khu vực ĐBSH đến
năm 2020 đã đặt ra mục tiêu xây dựng khu vực ĐBSH thực sự là địa bàn tiên
phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi
mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tầu của cả nước về phát triển
kinh tế, đảm đương vai trò to lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và góp
phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Quy hoạch đưa ra định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, trong đó tập
trung phát triển các ngành điện tử, CNTT, viễn thông, cơ khí chế tạo máy; sửa
chữa, đóng tàu; thép và vật liệu mới; hóa-dược phẩm; công nghiệp chế biến thực
phẩm; dệt may, da giày. Về dịch vụ, ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ chất
lượng cao trong các lĩnh vực vận tải, tư vấn, thiết kế, phát minh-sáng chế, tài
chính-ngân hàng, viễn thông, giáo dục-đào tạo, y tế chữa bệnh chất lượng cao,
thương mại, du lịch và khoa học công nghệ. Về nông nghiệp, ưu tiên phát triển các
sản phẩm nông nghiệp sạch, có năng suất cao, giá trị lớn. Về GD&ĐT, đầu tư xây
83
dựng một số trường đại học chất lượng cao đạt chuẩn quốc tế tại Hà Nội, phấn đấu
đưa tỷ lệ số sinh viên đại học, cao đẳng đạt khoảng 5 người/100 dân vào năm
2020. Tập trung đào tạo mới và đào tạo lại trình độ cao cho các ngành công nghiệp
điện tử, chế tạo máy, điện, sản xuất vật liệu, ngân hàng, du lịch, viễn thông, các
ngành công nghiệp hỗ trợ.
Với vai trò, vị trí địa chính trị, địa kinh tế quan trọng, với các điều kiện phát
triển về tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi như trên, khu vực ĐBSH được Nhà nước
đặc biệt quan tâm và ưu tiên trong một số chính sách phát triển, chính sách đầu tư
công, trong phân bổ ngân sách để đầu tư các công trình, dự án có ý nghĩa chiến
lược của khu vực.
3.1.2. Khái quát về hệ thống các trường đại học công lập ở khu vực đồng bằng
sông Hồng
3.1.2.1. Quy mô và mạng lưới các trường đại học công lập ở khu vực đồng bằng
sông Hồng
Trên cơ sở định hướng chung về nâng cao chất lượng GDĐH, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2013
về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn
2006 - 2020. Theo đó, đến năm 2020 cả nước sẽ có 460 trường đại học, cao đẳng
(bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng), giảm 100 trường so với quy
hoạch năm 2007.
Theo quy hoạch này, một số mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là: tỷ lệ sinh
viên/giảng viên đến năm 2020 đạt bình quân từ 17-26 sinh viên đại học và cao
đẳng/1 giảng viên; số giảng viên có trình độ tiến sĩ trong tổng số GVĐH khoảng
21%; đến năm 2015 có 10 trường đại học mà mỗi trường có ít nhất 1 khoa (ngành)
hoặc lĩnh vực đào tạo đạt tiêu chí chất lượng tương đương so với các trường có uy
tín trên thế giới; đến năm 2020 có 20 trường đại học đạt tiêu chí nêu trên và năm
2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế
giới. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ
được đầu tư mạnh để trở thành các trường nghiên cứu hàng đầu tại Việt Nam và
khu vực. Việc thu hút số lượng sinh viên là người nước ngoài đạt tỷ lệ trên 1% vào
năm 2015 và 3% vào năm 2020 so với tổng số sinh viên cả nước học tập, nghiên
cứu tại Việt Nam.
84
Bảng 3.2. Quy mô và loại hình trường đại học Việt Nam giai đoạn 2012-2017
ĐVT: trường đại học, %
Loại hình trường đại học Năm học Tổng Công
2012–2013 2013–2014 2014–2015 2015–2016 2016–2017 Tỷ lệ ĐH công lập trên tổng số trường ĐH (%) 73,9 72,9 72,9 72,9 72,3
Ngoài lập công lập 207 153 54 214 156 58 214 156 58 214 156 58 65 224 159 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Từ số liệu thống kê ở Bảng 3.2, có thể thấy hiện nay số lượng trường đại
học đã đạt tới con số 224 trường (trong đó tác giả luận án tính Đại học Quốc gia
Hà Nội là 01 trường và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là 01 trường).
Với xu hướng mở rộng quy mô mạng lưới trường như hiện nay thì mục tiêu nêu
trong quy hoạch nói trên là đạt 224 trường vào năm 2020 đã được thực hiện ngay
từ năm học 2016-2017.
Số lượng trường đại học công lập năm học 2016-2017 là 159 trường, chiếm
72,3% tổng số lượng các trường đại học, cho thấy quy mô áp đảo của khối trường
đại học công lập so với đại học ngoài công lập và vai trò quyết định của khối các
trường đại học công lập trong việc nâng cao chất lượng GDĐH.
Xét theo khu vực thì hiện nay phân bố của các cơ sở đào tạo đại học vẫn tập
trung chủ yếu ở khu vực ĐBSH (42,9%), sau đó đến khu vực Đông Nam Bộ
(21,4%). Khu vực ít cơ sở đào tạo đại học nhất là Tây Nguyên (2,7%). Sự gia tăng
về số lượng trường đại học đã góp phần đào tạo NNL có trình độ cao cho phát triển
KTXH, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Với số liệu thống kê nói trên có thể nói ĐBSH không những là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước mà còn là khu vực đi đầu về giáo
dục nói chung và GDĐH nói riêng. Với tỷ lệ 42,9 % trên tổng số các trường đại
học của cả nước, đây chính là cái nôi đào tạo và cung cấp NNL không chỉ cho toàn
khu vực mà cho cả nước. Do đó, việc đầu tư vào phát triển đội ngũ GVĐH nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo đại học của khu vực đóng vai trò rất quan trọng đối
85
với chất lượng đầu ra của sinh viên, học viên các trường đại học thuộc khu vực.
Chuẩn năng lực, trình độ của NNL giảng viên của các trường đại học trong khu
vực cần ở mức cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước để bắt kịp và xứng tầm
với vai trò, vị trí là khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước.
Tính đến nay, cả nước có 19 trường đại học đã được Chính phủ đưa vào
danh sách các trường đại học trọng điểm quốc gia (theo địa bàn, lĩnh vực và ngành
trọng điểm quốc gia). Trong đó, số lượng các đại học trọng điểm nằm ở khu vực
ĐBSH chiếm tỷ trọng lớn nhất (9/19 trường), bao gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội;
Đại học Kinh tế Quốc dân; Đại học Sư phạm Hà Nội; Đại học Bách khoa Hà Nội;
Học viện Kỹ thuật Quân sự; Đại học Hàng hải Việt Nam; Học viện Nông nghiệp
Việt Nam; Học viện Quân y; Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ngoài ra, một số
trường đang phấn đấu để trở thành trường đại học trọng điểm quốc gia gồm: Học
viện An ninh Nhân dân; Học viện Cảnh sát Nhân dân; Đại học Thể dục thể thao
Bắc Ninh; Đại học Công nghệ giao thông vận tải.
Theo Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 của
Chính phủ, dự kiến đến năm 2020, khu vực ĐBSH có 91 trường đại học. Thực tế
theo số liệu của Bộ GD&ĐT, năm học 2016-2017, số lượng các trường đại học của
khu vực đã là 96 trường, đã vượt quá mục tiêu số lượng trường trong quy hoạch.
Trong số 96 trường đại học, số lượng trường đại học công lập của khu vực là 72
trường, số lượng các trường đại học công lập trực thuộc các Bộ là 47 trường (Phụ
lục 3).
Số lượng các trường đại học được phân bố theo từng địa phương như trong
Bảng 3.3. Trong số 11 tỉnh, thành của khu vực, các trường đại học tập trung chủ
yếu ở Hà Nội với 69 trường, chiếm 71,9% trong tổng số 96 trường đại học của khu
vực trong năm học 2016-2017.
Bảng 3.3. Quy mô đại học khu vực đồng bằng sông Hồng theo tỉnh/thành giai đoạn 2012–2017
ĐVT: trường đại học, %
ĐBSH
2012-2013 Tỷ trọng 2014-2015 Tỷ trọng
2016-2017 Tỷ trọng
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh
61 3 5
69,3% 3,4% 5,7%
68,8% 3,2% 5,4%
69 2 4
71,9% 2,1% 4,2%
64 3 5
86
Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
1 4 4 2 2 1 4 1 88
1,1% 4,5% 4,5% 2,3% 2,3% 1,1% 4,5% 1,1% 100,0%
2 4 4 3 2 1 4 1 96
2,1% 4,2% 4,2% 3,1% 2,1% 1,0% 4,2% 1,0% 100,0%
1,1% 1 4,3% 4 4,3% 4 2,2% 2 2,2% 2 1,1% 1 4,3% 4 1,1% 1 100,0% 93 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Từ Bảng 3.4 dưới đây có thể thấy tại hầu hết các tỉnh, thành trong khu vực,
các trường đại học công lập vẫn chiếm số lượng áp đảo so với trường đại học
ngoài công lập, ngoại trừ tỉnh Bắc Ninh và Hà Nam, cho thấy các trường đại học
công lập vẫn giữ vai trò quan trọng, thậm chí có tính chất quyết định trong việc
đảm bảo đào tạo ra lực lượng lao động đáp ứng nhu cầu phát triển KTXH của khu
vực. Trong giai đoạn 2012-2017, các trường đại học công lập luôn chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số các trường đại học toàn khu vực. Giai đoạn từ năm 2012-
2017, tổng số lượng trường đại học ngoài công lập của khu vực ĐBSH có tăng lên
8 trường, tuy nhiên xét về tỷ lệ thì số trường đại học công lập trên tổng số trường
không suy giảm nhiều. Năm học 2012-2013, khu vực ĐBSH có 71 đại học công
lập trên tổng số 88 trường đại học, chiếm tỷ lệ 80,7%. Năm học 2016-2017, tỷ lệ
số trường đại học công lập trên tổng số trường đại học của khu vực là 77,1%
(tương đương 74 trường đại học công lập trên tổng số 96 trường đại học).
Bảng 3.4. Quy mô đại học công lập trong tổng số các trường đại học khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: trường đại học công lập/đại học
ĐBSH
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định
2014- 2015 52/64 02/03 02/05 02/02 04/05 03/04 02/03 02/02 00/01 03/04
2015- 2016 55/67 01/02 01/04 02/02 03/04 03/04 02/03 02/02 00/01 03/04
2016- 2017 56/69 01/02 01/04 02/02 03/04 03/04 02/03 02/02 00/01 03/04
2012- 2013 52/63 02/03 02/05 01/01 03/04 03/04 02/03 02/02 00/01 03/04
2013- 2014 52/63 02/03 02/05 01/01 03/04 03/04 02/03 02/02 00/01 03/04
87
Ninh Bình Tổng
01/01 71/88
01/01 72/93
01/01 73/94
01/01 74/96
01/01 71/91 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tại đây, một số trường đại học trọng điểm, đại học vùng đã khẳng định
được hình ảnh và thương hiệu qua nhiều năm hình thành và phát triển như: Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách
khoa, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Ngoại thương. Các tỉnh có nhiều trường đại
học công lập gồm Hà Nội (56 trường), Hải Dương (03 trường), Hải Phòng (03
trường), Nam Định (03 trường). Tỉnh Hà Nam mới có Đại học Hà Hoa Tiên là
trường ngoài công lập và cũng là tỉnh duy nhất trong khu vực chưa có đại học công
lập.
3.1.2.2. Quy mô sinh viên của các trường đại học công lập khu vực đồng bằng
sông Hồng
Quy mô sinh viên hệ cử nhân và sau đại học của các trường đại học khu vực
ĐBSH thuộc sự quản lý của Bộ GD&ĐT luôn có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong
hai năm học 2014-2015 và 2015-2016. So với năm 2012-2013, số lượng sinh viên
năm học 2014-2015 tăng 23,8%, năm học 2016-2017 tăng 14,8%. (Bảng 3.5).
Cũng xuất phát từ thực tế các trường đại học tập trung chủ yếu ở Hà Nội,
nên số lượng sinh viên cử nhân và sau đại học của khu vực ĐBSH cũng tập trung
chủ yếu ở Hà Nội. Năm học 2016-2017 sinh viên học tại Hà Nội chiếm tới 83,6%
tổng số sinh viên trên toàn bộ khu vực ĐBSH (Bảng 3.5). Năm 2016-2017, cả
nước có khoảng hơn 1,76 triệu sinh viên đại học, trong đó, tổng số sinh viên học
tại khu vực ĐBSH chiếm tỷ trọng khoảng 41,4% tổng số sinh viên cả nước.
Bảng 3.5. Quy mô sinh viên đại học khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: sinh viên, %
ĐBSH
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình
2012- 2013 542.588 11.793 5.221 3.058 5.463 37.978 9.697 4.626
85,1% 1,8% 0,8% 0,5% 0,9% 6,0% 1,5% 0,7%
2014- 2015 663.298 16.563 9.288 4.835 12.086 38.995 11.092 6.827
Tỷ trọng 84,0% 2,1% 1,2% 0,6% 1,5% 4,9% 1,4% 0,9%
2016- 2017 611.982 15.065 5.638 3.911 12.225 36.475 14.264 7.654
83,6% 2,1% 0,8% 0,5% 1,7% 5,0% 1,9% 1,0%
88
Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
170 15.260 1.882 637.736
0,0% 2,4% 0,3% 100,0%
264 24.588 1.735 789.571
- 23.546 1.565 732.325
- 3,2% 0,2% 100,0%
33,4% 3,1% 0,2% 100,0% Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số liệu tại Bảng 3.5 cho thấy học viên hệ cử nhân và sau đại học tập trung
chủ yếu tại các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vĩnh Phúc.
Với số lượng sinh viên theo học lớn, các trường đại học tại các địa phương này cần
phải có ĐNGV phát triển tương xứng về quy mô, đảm bảo yêu cầu về chất lượng,
có mặt bằng chất lượng và trình độ cao hơn các địa phương khác. Đây là yêu cầu
cấp thiết nhằm tăng cường chất lượng đầu ra đáp ứng nhu cầu về NNL chất lượng
cao cho khu vực ĐBSH và cả nước.
3.2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG
LẬP KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.2.1. Quy mô và cơ cấu nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực
đồng bằng sông Hồng
3.2.1.1. Quy mô nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng
sông Hồng
Qua các giai đoạn phát triển, đội ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH đã có
những biến động nhất định và có sự gia tăng đáng kể về số lượng. Năm học 2016-
2017, tổng số lượng GVĐH công lập của khu vực ĐBSH là 30.842 GV (chiếm
53,5% tổng số GVĐH công lập cả nước), tăng 27% so với năm học 2012-2013.
Trong đó, đội ngũ giảng viên tập trung chủ yếu ở Hà Nội với 24.342 giảng viên,
chiếm 78,9% tổng số GVĐH công lập của toàn khu vực (Bảng 3.6).
Bảng 3.6. Quy mô giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017 ĐVT: giảng viên
2012-2013
2014-2015
2016-2017
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Đồng bằng sông Hồng
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên
78,5% 1,4% 0,9% 1,2% 3,5% 5,6% 1,5%
19.029 343 221 292 853 1.367 366
75,9% 1,4% 2,0% 1,1% 3,1% 6,6% 2,4%
21.804 404 579 302 904 1.884 701
78,9% 1,3% 1,5% 1,6% 2,8% 5,2% 2,3%
24.342 406 448 482 861 1.589 704
89
374 0 1.198 210
Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
1,5% 0,0% 4,9% 0,9% 24.253 100,0%
448 0 1.460 183 28.730
1,6% 0,0% 5,1% 0,6% 100,0%
529 0 1.286 195 30.842
1,7% 0,0% 4,2% 0,6% 100,0%
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trong số đó, xét về tổng thể, số lượng giảng viên của các trường đại học
công lập trực thuộc Bộ tại các tỉnh/thành thuộc khu vực ĐBSH (47 trường) đang
tiếp tục gia tăng và củng cố về số lượng. Năm học 2016-2017, tổng số lượng giảng
viên các trường đại học công lập trực thuộc Bộ là 18.965 giảng viên, tăng 5,4% so
với năm học 2012-2013 (Phụ lục 3).
Một số trường có uy tín lâu năm có số lượng giảng viên lớn và giữ vai trò
đầu tàu trong phát triển NNL của khu vực. Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, năm học
2016-2017, số lượng giảng viên tại một số trường như sau: Đại học Công nghiệp
Hà Nội có 1.227 giảng viên, Đại học Kiến trúc có 472 giảng viên, Học viện Tài
chính có 478 giảng viên, Đại học Lao động-Xã hội có 453 giảng viên, Đại học Y
Hà Nội có 677 giảng viên, Đại học Bách khoa Hà Nội có 1.166 giảng viên, Đại
học Xây dựng có 676 giảng viên, Đại học Giao thông vận tải có 798 giảng viên,
Đại học Nông nghiệp có 728 giảng viên, Đại học Sư phạm Hà Nội 2 có 364 giảng
viên, Đại học Sao đỏ Hải Dương có 238 giảng viên, Đại học Y Hải Phòng có 266
giảng viên, Đại học Sư phạm kỹ thuật Nam Định có 212 giảng viên (Phụ lục 3).
Bảng 3.7. Quy mô giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên, %
2012-2013
2014-2015
2016-2017
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tỉnh/ thành phố Hà Nội Hưng Yên Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hải Dương Hải Phòng Nam Định Thái Bình Tổng
Tỷ trọng 84,6% 2,0% 1,7% 0,8% 2,6% 5,0% 1,9% 1,6% 100,0%
15.222 366 301 150 472 859 346 279 17.995
83,9% 2,2% 1,8% 1,4% 2,1% 5,1% 2,3% 1,6% 100,0%
15.509 415 339 250 385 950 431 290 18.494
84,7% 2,3% 1,9% 1,3% 1,3% 4,8% 2,2% 2,0% 100,0%
16.061 431 364 251 238 919 411 372 18.965
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hiện nay có 8/11 tỉnh có các trường đại học công lập trực thuộc các Bộ.
90
Ninh Bình và Quảng Ninh chỉ có trường đại học công lập trực thuộc UBND tỉnh
và Hà Nam không có trường đại học công lập. Bảng trên cho thấy ĐNGV các
trường đại học công lập trực thuộc Bộ tại Hà Nội năm học 2016-2017 chiếm số
lượng áp đảo với tỷ trọng 84,7% trong tổng số giảng viên các trường đại học trực
thuộc Bộ của cả khu vực ĐBSH (Bảng 3.7).
Số lượng giảng viên các trường đại học công lập trực thuộc Bộ của khu vực
năm 2016-2017 đạt 18.965 giảng viên, tăng 5,4% so với năm học 2012-2013. Có
thể thấy mức tăng trưởng này thấp hơn so với mức tăng trưởng trong cùng giai
đoạn về số lượng của ĐNGV các trường đại học công lập của khu vực ĐBSH là
27% (Bảng 3.6). Điều này cho thấy quản lý của các Bộ chưa đáp ứng yêu cầu về
phát triển ĐNGV về số lượng.
Cùng với nhu cầu ngày càng tăng, số lượng đội ngũ GVĐH đang từng bước
được đảm bảo trong mối tương quan với số lượng sinh viên ngày càng gia tăng tại
các trường đại học trong khu vực hiện nay. Tuy nhiên, sự phân bố các trường đại
học còn chưa đồng đều dẫn tới tình trạng số lượng sinh viên và giảng viên tập
trung chủ yếu ở Hà Nội trong khi tại một số địa bàn tiềm năng khác, số lượng còn
hạn chế.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, năm học 2016-2017, số lượng sinh viên đại
học của cả nước khoảng 1.767.879 người (trong đó số lượng sinh viên đại học
công lập khoảng 1.523.904), số lượng GVĐH cả nước khoảng 72.792 người (trong
đó, số lượng GVĐH công lập khoảng 57.634).
Tỷ lệ sinh viên/giảng viên của cả nước trong năm học 2015-2016 là 25,2
sinh viên/giảng viên, năm học 2016-2017 là 24,3 sinh viên/giảng viên. Trong khi
đó, tỷ lệ sinh viên/GVĐH công lập của cả nước năm học 2016-2017 là 26,4 sinh
viên/giảng viên. Tỷ lệ này của năm học 2014-2015 là 30,3 sinh viên/giảng viên,
của năm học 2013-2014 là 28,4 sinh viên/giảng viên. Qua so sánh mặt bằng chung
về tỷ lệ sinh viên/giảng viên của cả nước và tỷ lệ sinh viên/giảng viên của khu vực
công lập cho thấy tỷ lệ sinh viên/giảng viên của khu vực công lập luôn cao hơn.
Nguyên nhân của thực tế này là do số lượng sinh viên theo học các trường đại học
công lập lớn hơn rất nhiều so với đại học ngoài công lập. Thực tế này đặt áp lực
lớn hơn cho ĐNGV các trường đại học công lập.
Theo quy định tại Thông tư số 24/2015/TT-BGDĐT ngày 23/9/2015 về
91
Quy định chuẩn quốc gia đối với cơ sở GDĐH của Bộ GD&ĐT, tỉ lệ sinh
viên/giảng viên cơ hữu xác định theo ngành đào tạo đảm bảo không quá 10 sinh
viên/giảng viên đối với nhóm ngành nghệ thuật, thể dục thể thao; 15 sinh
viên/giảng viên đối với nhóm ngành y-dược và 20 sinh viên/giảng viên đối với các
nhóm ngành khác. Nếu đối chiếu với quy định của Thông tư này, tỷ lệ sinh
viên/giảng viên của khu vực công lập như trên vẫn còn cao, đặt ra yêu cầu phải
tiếp tục gia tăng quy mô ĐNGV đại học công lập.
Cũng theo thống kê của Bộ GD&ĐT (Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm
học 2013-2014), trong năm học 2013-2014, tổng số GVĐH cả nước là 65.206
người, tổng số sinh viên đại học cả nước là 1.461.839 người, tỷ lệ sinh viên/giảng
viên của cả nước là 22,4 sinh viên/giảng viên. Trong khi đó, tỷ lệ sinh viên/giảng
viên của cả nước trong năm học 2015-2016 là 25,2 sinh viên/giảng viên, năm học
2016-2017 là 24,3 sinh viên/giảng viên. Qua đây có thể thấy, theo thời gian, tỷ lệ
sinh viên/giảng viên có xu hướng gia tăng, cho thấy mức gia tăng về quy mô, số
lượng ĐNGV chưa theo kịp mức gia tăng về quy mô, số lượng sinh viên theo học.
3.2.1.2. Cơ cấu nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng
sông Hồng
Đối với đào tạo đại học, việc thu hút, hình thành và phát triển đội ngũ
GVĐH cân đối về giới tính, độ tuổi, bảo đảm sự kế cận giữa các thế hệ giảng viên
là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm hạn chế tình trạng thừa hoặc thiếu NNL giảng
viên chất lượng cao. Đặc biệt, việc chú trọng đầu tư để hình thành ĐNGV trình độ
cao có học hàm, học vị là mối quan tâm rất lớn của các trường đại học hiện nay
nhằm nâng cao năng lực giảng dạy, năng lực NCKH, nâng cao chất lượng đầu ra
của trường đại học.
Thực tế, ĐNGV có trình độ tiến sĩ, có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư thường
ở độ tuổi trung bình khá cao, tập trung chủ yếu ở một số trường đại học lớn ở Hà
Nội. Trong đó, tỷ lệ giảng viên nữ có gia tăng qua các năm nhưng vẫn thấp hơn
nhiều so với số lượng giảng viên nam tại các trường khối kỹ thuật. Một số trường
có tỷ lệ giảng viên nữ cao gồm Đại học Ngoại thương, Học viện Quản lý giáo dục,
Học viện Ngoại giao, Học viện Tài chính, Đại học Thương mại, Đại học Hà Nội,
Đại học Văn hóa, Đại học Tài nguyên và Môi trường. Trong khi đó, một số trường,
đặc biệt là trường chuyên về kỹ thuật lại có tỷ lệ giảng viên nữ rất thấp, dao động
92
từ 20%-40%, gồm Đại học Công nghệ giao thông vận tải, Đại học Kiến trúc, Đại
học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Thủy lợi, Đại học Bách khoa, Đại học Xây dựng,
Đại học Giao thông vận tải (Phụ lục 3).
Tính trung bình các trường đại học công lập trực thuộc các Bộ, tỷ lệ giảng
viên nữ năm học 2013-2014 là 45,24 %, năm học 2014-2015 là 57,47 %, năm học
2015-2016 là 53,95%, năm học 2016-2017 là 52,02%. Có thể thấy tỷ lệ giảng viên
nữ giảm dần qua các năm học gần đây, thể hiện xu hướng cân bằng hơn về giới
trong đội ngũ GVĐH xét về tổng thể. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng phân bổ giảng
viên nữ không đồng đều giữa các trường đại học, có trường quá nhiều, có trường
quá ít (Phụ lục 3).
Cùng với sự gia tăng về số lượng đội ngũ, trình độ đào tạo của NNL GVĐH
công lập thuộc Bộ khu vực ĐBSH cũng đang được nâng cao. Số lượng giảng viên
có trình độ sau đại học đang tiếp tục gia tăng, đặc biệt tại một số trường có uy tín
lâu năm như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Sư
phạm Hà Nội, Đại học Xây dựng, Đại học Thương mại, Đại học Mỏ-Địa chất, Đại
học Nông nghiệp Hà Nội.
Tính trung bình các trường đại học trực thuộc Bộ trong khu vực ĐBSH, tỷ
lệ tiến sĩ/trường trong năm học 2012-2013 đạt 62 tiến sĩ/trường, năm học 2013-
2014 đạt 75 tiến sĩ/trường, năm học 2014-2015 đạt 80 tiến sĩ/trường, năm học
2015-2016 đạt 91 tiến sĩ/trường, năm học 2016-2017 đạt 108 tiến sĩ/trường (Phụ
lục 3). Nếu tính tỷ lệ tiến sĩ/tổng số giảng viên, có thể thấy tỷ lệ này còn rất thấp và
chưa đáp ứng yêu cầu về xây dựng ĐNGV trình độ cao. Tính trung bình tỷ lệ giảng
viên có học vị tiến sĩ/tổng số giảng viên của các trường đại học công lập trực thuộc
Bộ của khu vực năm học 2012-2013 chỉ đạt 16,9%, năm học 2013-2014 chỉ đạt
19,6%, năm học 2014-2015 chỉ đạt 20,4%, năm học 2015-2016 chỉ đạt 23,0%, năm
học 2016-2017 đạt 26,9% (Bảng 3.8).
Cụ thể, theo thống kê của Bộ GD&ĐT (Phụ lục 3), năm học 2016-2017, tỷ
lệ giảng viên có học vị tiến sĩ/tổng số giảng viên tại một số trường đại học công lập
trực thuộc Bộ trong khu vực ĐBSH như sau: Học viện Quản lý giáo dục (35,6%%,
có 37 giảng viên có học vị tiến sĩ trong tổng số 104 giảng viên); Đại học Công
nghiệp Hà Nội (10,8%, 133 tiến sĩ/1.227 giảng viên); Đại học Y Hà Nội (39%, 265
tiến sĩ/677 giảng viên); Đại học Y Thái Bình (11%, 41 tiến sĩ/372 giảng viên); Đại
93
học Y Hải Phòng (3%; 8 tiến sĩ/266 giảng viên); Đại học Bách Khoa Hà Nội (61%,
711 tiến sĩ/1.166 giảng viên); Đại học Mỹ thuật Việt Nam (12,8%, 6 tiến sĩ/47
giảng viên); Đại học Nông nghiệp Hà Nội (37,6%, 274 tiến sĩ/728 giảng viên); Đại
học Hà Nội (13,7%, 61 tiến sĩ/445 giảng viên); Đại học Kiến trúc (19,7%, 93 tiến
sĩ/472 giảng viên); Đại học Xây dựng (27,8%, 188 tiến sĩ/676 giảng viên); Đại học
Giao thông vận tải (25,4%, 203 tiến sĩ/798 giảng viên); Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Hưng Yên (18,6%, 80 tiến sĩ/431 giảng viên); Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam
Định (9,9%, 21 tiến sĩ/212 giảng viên).
Số liệu trên cho thấy, trong khi định hướng phát triển ngành, lĩnh vực của
khu vực theo Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH khu vực ĐBSH đến năm 2020
tập trung vào các ngành kinh tế, kỹ thuật, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thực
tế về trình độ giảng viên tại các trường đại học đào tạo các chuyên ngành kinh tế -
kỹ thuật chưa cao, thể hiện ở tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn thấp như Đại
học Kiến trúc, Đại học Xây dựng, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại học Y Hà
Nội, Đại học Y Hải Phòng, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Nam Định.
Bảng 3.8. Cơ cấu trình độ giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ tại mỗi tỉnh/thành khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: %
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017
Tỉnh/ TP
TS (%)
ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
ThS (%)
ĐH (%)
Hà Nội
18,8
50,9
30,3
20,6
55,5
23,9
21,9
59,1
19,0
24,2
61,4
14,3
29,2
60,6
10,2
H. Yên
2,7
34,4
62,8
20,0
68,4
11,6
20,0
68,4
11,6
15,7
77,7
6,6
18,6
78,7
2,8
V. Phúc
16,3
51,5
32,2
31,9
50,1
18,0
31,9
50,1
18,0
24,9
54,0
21,1
29,4
51,6
19,0
13,3
56,7
30,0
14,4
54,7
30,9
14,3
49,1
36,6
21,9
62,1
16,0
21,9
62,1
16,0
7,8
67,2
25,0
6,6
77,5
15,9
6,5
88,1
7,8
7,7
85,8
6,6
2,1
91,2
6,7
B. Ninh H. Dương H. Phòng
7,8
46,4
45,7
16,8
49,0
34,2
11,1
58,5
30,4
16,6
58,8
24,6
11,7
61,8
26,6
N. Định
0,0
33,6
66,4
1,9
47,6
50,5
5,5
62,1
32,4
7,7
74,7
17,5
7,7
67,4
24,7
T. Bình
1,9
39,0
59,1
1,1
42,9
56,0
1,8
42,5
55,6
15,4
70,0
14,6
11,7
55,9
32,4
Tổng
16,9
50,3
32,8
23,0
62,4
14,6
26,9
61,3
11,7
55,6
24,8
59,5
20,1
20,4 19,6 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Thông tin từ Bảng 3.8 cho thấy trong năm học 2015-2016 và năm học 2016-
2017, Hà Nội và Vĩnh Phúc là các địa phương dẫn đầu các tỉnh, thành của khu vực
ĐBSH về tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trên tổng số lượng GVĐH của địa
94
phương, trong đó Hà Nội đạt 24,2% và 29,2%, Vĩnh Phúc đạt 24,9% và 29,4%
(cao hơn mức trung bình chung của cả nước trong năm học 2016-2017 theo thống
kê của Bộ GD&ĐT là 22,6%). Tuy nhiên, về số lượng tuyệt đối thì Hà Nội có
nhiều giảng viên có học vị tiến sĩ hơn Vĩnh Phúc. Ở các vị trí tiếp theo là Bắc
Ninh. Hải Phòng và Nam Định có số lượng các trường đại học công lập ít hơn Hà
Nội nhưng nhiều hơn các địa phương khác (Phụ lục 3). Với các địa phương này, tỷ
lệ giảng viên có học vị tiến sĩ trên tổng số giảng viên chưa cao, chưa đạt mục tiêu
quy hoạch.
Bảng 3.9. Cơ cấu trình độ giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên
Tỉnh/TP
2012-2013 ThS (%)
TS (%)
ĐH (%)
2013-2014 ThS (%)
TS (%)
ĐH (%)
2014-2015 ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
2015-2016 ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
2016-2017 ThS (%)
ĐH (%)
TS (%)
Hà Nội
93,5
84,9
77,5
88,3
83,7 80,6 90,3 83,5 79,1 90,7 84,6 84,2 92,0 83,9 74,1
H. Yên
0,3
1,5
4,1
2,3
2,8
1,1
2,2
2,6
1,3
1,4
2,5
0,9
1,6
2,9
0,5
V. Phúc
1,7
1,8
1,7
3,0
1,7
1,4
2,9
1,6
1,7
2,0
1,6
2,7
2,1
1,6
3,1
B. Ninh
0,7
1,0
0,8
0,7
1,0
1,2
0,7
0,8
1,7
0,9
0,9
1,0
0,7
0,9
1,2
H Dương
1,3
3,7
2,1
0,9
3,6
1,7
0,4
3,1
0,8
0,6
2,6
0,8
0,1
1,9
0,7
H Phòng
2,3
4,6
7,0
4,4
4,5
7,1
2,8
5,1
7,8
2,6
3,4
6,1
2,1
4,9 11,0
N. Định
0,0
1,3
4,0
0,2
1,5
3,5
0,6
2,3
3,5
0,8
2,8
2,8
0,6
2,2
4,2
T. Bình
0,2
1,2
2,8
0,1
1,2
3,4
0,1
1,1
4,1
0,9
1,5
1,3
0,8
1,7
5,1
Tổng
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số liệu tổng hợp tại Bảng 3.9 cho thấy đội ngũ GVĐH công lập có học vị
tiến sĩ tập trung chủ yếu ở Hà Nội. Đội ngũ giảng viên có học vị tiến sĩ của Hà Nội
chiếm 90,7% (năm học 2015-2016), chiếm 92,0% (năm học 2016-2017) tổng số
giảng viên có trình độ tiến sĩ của toàn khu vực ĐBSH. Nguyên nhân chính là do
các trường đại học công lập và đội ngũ GVĐH công lập tập trung chủ yếu ở Hà
Nội.
Số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT cho thấy đã có sự quan tâm, đầu tư nâng
cao trình độ GVĐH công lập khu vực ĐBSH trong thời gian qua, thể hiện ở xu
hướng tỷ lệ tiến sĩ, thạc sĩ tại các trường trong khu vực ngày càng gia tăng. Cụ thể,
năm học 2016-2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ của các trường đại học
trực thuộc Bộ tại khu vực ĐBSH là 5.085 giảng viên, tăng 19% so với năm học
95
2015-2016. Số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ của các trường đại học trực
thuộc Bộ tại khu vực ĐBSH năm học 2015-2016 là 4.274 giảng viên, tăng 14% so
với năm học 2014-2015. Số lượng giảng viên có trình độ thạc sĩ năm học 2015-
2016 là 11.624 giảng viên, tăng 6,8% so với năm học 2014-2015 (Phụ lục 3). Xu
hướng và tốc độ gia tăng này cần được tiếp tục duy trì và thúc đẩy hơn nữa trong
những năm tới, đặc biệt là tốc độ gia tăng trình độ thạc sĩ phải lớn hơn nữa để
ĐNGV của các trường đại học nhanh chóng được nâng cao trình độ và chất lượng,
bắt kịp với nhu cầu của xã hội, cũng như đáp ứng mong đợi từ phía sinh viên ngày
càng cao hơn về kiến thức, kỹ năng.
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy cơ cấu NNL GVĐH công lập trực
thuộc Bộ khu vực ĐBSH chưa hợp lý và cần được tiếp tục điều chỉnh. Tỷ lệ giảng
viên có trình độ tiến sĩ trên tổng số giảng viên còn thấp, đặc biệt là tại nhiều trường
thuộc khối kỹ thuật, vốn rất cần có ĐNGV trình độ cao để phục vụ đào tạo NNL
chất lượng cao cho khu vực ĐBSH và cho cả nước. Giữa các địa phương trong khu
vực và giữa các trường cũng vẫn có sự chênh lệch lớn. ĐNGV có trình độ tiến sĩ
tập trung chủ yếu ở Hà Nội, trong khi đó tại các thành phố lớn như Hải Phòng,
Nam Định, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ còn ít. Tại nhiều trường có tên
tuổi như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà
Nội, tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ khá cao. Trong khi tại các trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội, Đại học Y Thái Bình, Đại học Sư phạm kỹ thuật Nam Định,
tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ lại rất thấp. Tỷ lệ giảng viên nữ tại các trường
khối văn hóa xã hội khá cao trong khi tại các trường khối kỹ thuật lại thấp.
3.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng
bằng sông Hồng
Về chất lượng đầu vào, việc tuyển dụng GVĐH nói chung hiện nay đều trên
cơ sở các tiêu chí chung về văn bằng, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ,
trình độ tin học. Tuy nhiên, năng lực của GVĐH không chỉ được đo lường thông
qua văn bằng chứng chỉ mà còn qua thực tiễn giảng dạy, phương pháp sư phạm và
năng lực NCKH. Việc tuyển dụng GVĐH hiện nay chưa đo lường được đầy đủ các
năng lực này, trong khi đó đầu vào là yếu tố đặc biệt quan trọng để các trường có
96
được NNL GVĐH có chất lượng. Do đó, các trường đại học hầu như mới chỉ tuyển
dụng được ĐNGV đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về năng lực, trình độ chứ chưa
thực sự thu hút và tuyển dụng được NNL chất lượng cao theo chuẩn quốc tế. Đây
là lý do vì sao các trường đại học có số lượng các công trình nghiên cứu được công
bố quốc tế khá thấp theo đánh giá của các tổ chức quốc tế về GDĐH Việt Nam nói
chung.
Về chất lượng NCKH của giảng viên, nếu chất lượng nghiên cứu thể hiện
dưới giác độ công trình là đề tài nghiên cứu, bài báo quốc tế, hiện nay chưa có số
liệu thống kê cụ thể nhưng cộng đồng quốc tế đều coi chất lượng công trình thể
hiện ở tần suất nội dung công trình đó được trích dẫn. Công bố quốc tế có ý nghĩa
quan trọng đối với cá nhân nhà khoa học cũng như các cơ sở đại học với tư cách là
nơi sáng tạo ra tri thức mới. Nhìn nhận chất lượng NNL GVĐH dưới giác độ công
bố kết quả NCKH, có thể thấy đây là khâu còn hạn chế chung đối với các trường
đại học của Việt Nam mặc dù theo đánh giá của các chuyên gia thì ĐBSH là khu
vực có tỷ lệ công trình được công bố quốc tế cao nhất cả nước. Trong đó, top đầu
thuộc về Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội,
Đại học Y Hà Nội.
Xét về học hàm của ĐNGV, ngoài một số trường lâu năm như Đại học
Bách khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Giao thông vận tải đã có
được một đội ngũ Giáo sư, Phó Giáo sư tương xứng, nhiều trường đại học còn khá
mỏng về đội ngũ này. Theo thống kê, số lượng Phó Giáo sư có sự gia tăng đáng kể
từ năm 2012 đến 2017. Năm học 2013-2014, mức trung bình về số lượng Phó Giáo
sư/trường của toàn bộ các trường đại học công lập thuộc Bộ khu vực ĐBSH là 21,1
PGS/trường. Đến năm học 2015-2016, con số này đã được tăng lên mức 22,7
PGS/trường, năm học 2016-2017 đạt 33,3 PGS/trường (Phụ lục 3). Tuy nhiên, số
lượng các nhà giáo có học hàm Giáo sư có xu hướng tăng không ổn định qua các
năm và tỷ lệ còn rất thấp. Năm học 2013-2014 tỷ lệ trung bình về số lượng Giáo
sư/trường của toàn khu vực là 2,6 GS/trường, năm học 2014-2015 giảm xuống còn
1,9 GS/trường, năm học 2015-2016 tăng lên 2,1 GS/trường, năm học 2016-2017
tăng lên 3,3 GS/trường. Sự tăng/giảm không ổn định này có thể do các Giáo sư hết
97
tuổi công tác hoặc chuyển công tác, làm cho đội ngũ các nhà giáo có học hàm cao
không ổn định về số lượng, tạo ra sự chống chếnh về đội ngũ.
Về ĐNGV có học vị tiến sĩ, như đã phân tích ở phần trên, tính trung bình tỷ
lệ giảng viên có học vị tiến sĩ/tổng số giảng viên của các trường đại học công lập
trực thuộc Bộ khu vực ĐBSH năm học 2015-2016 chỉ đạt 23,0%, năm học 2016-
2017 chỉ đạt 26,9% (Bảng 3.8). Tỷ lệ này cho thấy, chất lượng đội ngũ GVĐH ở
khu vực ĐBSH, mặc dù cao hơn mặt bằng chung của cả nước, nhưng rõ ràng còn
rất thấp so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới (tỷ lệ tiến sĩ/tổng số giảng
viên của các trường đại học ở phương Tây là 70%).
Theo số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT, trong năm học 2015-2016, tỷ lệ
giảng viên được công nhận Giáo sư là 0,79% tổng số giảng viên và Phó Giáo sư là
4,8% tổng số giảng viên (năm học 2015-2016, tổng số GVĐH của cả nước là
69.555 giảng viên, trong đó số lượng giảng viên có học hàm Giáo sư là 550, số
lượng giảng viên có học hàm Phó Giáo sư là 3.317). Trong năm học 2016-2017, tỷ
lệ giảng viên được công nhận Giáo sư là 0,8% và Phó Giáo sư là 5,7% (năm học
2016-2017, tổng số GVĐH của cả nước là 72.792 giảng viên, trong đó số lượng
giảng viên có học hàm Giáo sư là 574, số lượng giảng viên có học hàm Phó Giáo
sư là 4.113) [140]. Giảng viên là Giáo sư, Phó Giáo sư thường tập trung ở một số
trường đại học lớn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Sự mất cân đối này đã
tác động đến sự chênh lệch về trình độ đào tạo, sự cục bộ của địa phương, ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác NCKH giữa các trường đại học và đội
ngũ cán bộ khoa học. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm và tính kỷ luật của một
bộ phận giảng viên còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới, nhiệt huyết chưa
cao, cho thấy phẩm chất tâm lý nghề nghiệp của ĐNGV vẫn còn nhiều vấn đề phải
bàn tới.
Số liệu ở Bảng 3.10 cho thấy đội ngũ các Giáo sư, Phó Giáo sư tập trung
chủ yếu ở Hà Nội, chiếm 95,5% đối với Giáo sư và 94,1% đối với Phó Giáo sư
trong năm học 2016-2017. Cũng trong năm học 2016-2017, các tỉnh Vĩnh Phúc,
Hải Dương, Nam Định không có giảng viên có học hàm Giáo sư, ngay cả học hàm
Phó Giáo sư thì hai tỉnh Hải Dương và Nam Định cũng không có giảng viên nào có
học hàm Phó Giáo sư (Bảng 3.10 và Phụ lục 3).
98
Bảng 3.10. Tỷ lệ giảng viên có học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư các trường đại học công lập trực thuộc Bộ của các tỉnh/thành khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên, %
Tỉnh/TP
2012-2013
2013-2014 GS (%)
PGS (%)
2015-2016 GS (%)
GS (%) 97,1 0,0 0,0 1,9 0,0 1,0 0,0 0,0 100,0
96,6 0,0 0,9 0,5 0,1 1,8 0,0 0,1 100,0
96,8 0,0 0,0 1,6 0,0 1,6 0,0 0,0 100,0
Hà Nội Hưng Yên Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hải Dương Hải Phòng Nam Định Thái Bình Tổng
2014-2015 GS (%) 94,5 0,0 0,0 2,2 0,0 3,3 0,0 0,0 100,0
PGS (%) 94,8 0,1 1,2 0,3 0,0 3,2 0,1 0,2 100,0
PGS (%) 95,3 0,1 1,0 0,3 0,0 3,1 0,1 0,1 100,0
2016-2017 GS (%) 95,5 0,6 0,0 1,3 0,0 1,3 0,0 1,3 100,0
PGS (%) 94,1 1,3 1,0 0,5 0,0 2,4 0,0 0,8 100,0
PGS (%) 93,7 0,0 1,3 0,8 0,1 3,2 0,0 0,9 100,0
97,0 0,0 0,0 2,0 0,0 1,0 0,0 0,0 100,0
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Xét theo trường, cá biệt tại nhiều trường đào tạo các chuyên ngành kinh tế-
kỹ thuật, số lượng giáo sư còn rất ít, chưa đáp ứng nhu cầu của khu vực. Năm học
2016-2017, Đại học Công nghiệp Hà Nội không có Giáo sư và có 11 Phó Giáo sư;
Học viện Quản lý giáo dục có 01 Giáo sư và 12 Phó Giáo sư; Đại học Lao động-
Xã hội không có Giáo sư và có 05 Phó Giáo sư; Đại học Tài nguyên và Môi trường
không có Giáo sư và có 02 Phó Giáo sư; Đại học Hà Nội có 01 Giáo sư và 06 Phó
Giáo sư; Đại học Kiến trúc không có Giáo sư và có 26 Phó Giáo sư; Đại học Xây
dựng có 03 Giáo sư và 68 Phó Giáo sư; Đại học Ngoại thương có 01 Giáo sư và 34
Phó Giáo sư; Đại học Mỏ Địa chất có 02 Giáo sư và 54 Phó Giáo sư; Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Hưng Yên có 01 Giáo sư và 20 Phó Giáo sư; Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Nam Định không có Giáo sư và Phó Giáo sư (Phụ lục 3).
Chất lượng NNL GVĐH công lập còn được thể hiện thông qua chất lượng
đầu ra của sinh viên và học viên sau khi tốt nghiệp. Những năm gần đây, ở Việt
Nam, mỗi năm có hàng trăm ngàn sinh viên đại học, hàng chục ngàn học viên cao
học, nghiên cứu sinh. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình độ từ đại học trở lên
ngày một gia tăng, nhưng chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng
công việc và phát huy kết quả đào tạo của số lao động này lại rất thấp. Theo một
kết quả khảo sát gần đây, số lao động qua đào tạo phát huy được tác dụng chưa tới
40%. Vẫn còn tồn tại tình trạng bằng cấp không đúng thực chất. Ngay cả những
trường hợp được học hành, đào tạo rất quy củ, bài bản nhưng khi ra làm việc thực
99
tế vẫn không đáp ứng được yêu cầu, không phát huy được tác dụng. Điều đó cho
thấy quá trình đào tạo cũng như số lượng ĐNGV được bảo đảm mới chỉ là yếu tố
cần chứ chưa phải là yếu tố đủ để nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên, học
viên sau đại học. Muốn vậy, cần phải đầu tư hơn nữa cho chất lượng GVĐH công
lập của khu vực để khắc phục vấn đề học viên ra trường chưa làm được việc ngay.
Từ các số liệu và phân tích nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét chung về
chất lượng NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH như sau: các trường đại học hầu
như mới chỉ tuyển dụng được ĐNGV đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về năng lực,
trình độ, chưa thực sự thu hút và tuyển dụng được NNL chất lượng cao theo chuẩn
quốc tế. Năng lực NCKH và việc công bố kết quả NCKH vẫn còn là một hạn chế
chung đối với các trường. Vẫn còn sự chênh lệch khá lớn về số lượng giảng viên
có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư giữa các trường đại học và giữa các địa phương
khác nhau trong khu vực ĐBSH. Đội ngũ Giáo sư và Phó Giáo sư chủ yếu tập
trung ở các trường đại học lớn ở Hà Nội, tạo ra sự cục bộ và không đồng đều trong
phân bố đội ngũ nhà khoa học trình độ cao giữa các trường và các địa phương.
Nhiều trường đại học khối kỹ thuật, công nghiệp vẫn chưa có Giáo sư và có rất ít
Phó Giáo sư. Tỷ lệ giảng viên được công nhận Giáo sư và Phó giáo sư còn ở mức
rất thấp. Tỷ lệ học viên có trình độ tiến sĩ trên tổng số giảng viên, mặc dù đạt
26,9% trong năm học 2016-2017, nếu so với mặt bằng chung của khu vực và thế
giới thì tỷ lệ này vẫn còn rất thấp. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật,
phong cách làm việc của một bộ phận giảng viên chưa đạt yêu cầu. Thực tế này đặt
ra yêu cầu đối với QLNN phải tiếp tục có sự điều chỉnh trong quy hoạch, kế hoạch
hóa ĐNGV để có sự phân bổ hợp lý hơn về ĐNGV trình độ cao giữa các trường,
các khu vực; tăng cường ĐTBD và có chính sách khuyến khích ĐNGV NCKH để
nâng cao hơn nữa chất lượng ĐNGV.
3.3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Ở VIỆT NAM
3.3.1. Thực trạng quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực giảng
viên đại học công lập
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL GVĐH là một trong những
100
nội dung quản lý quan trọng nhất nhằm phát triển ĐNGV đảm bảo yêu cầu về số
lượng, chất lượng, cơ cấu đáp ứng nhu cầu xã hội, đồng thời tạo nguồn dự trữ cần
thiết cho sự nghiệp ĐTBD NNL. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005
của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006-
2020 đề ra mục tiêu “Xây dựng ĐNGV đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và
lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy tiên
tiến; bảo đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên của cả hệ thống GDĐH không quá 20. Đến
năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ;
đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ
tiến sĩ”.
Chiến lược Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 (được phê
duyệt tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ)
đã xác định mục tiêu xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc
biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương
các nước tiên tiến trong khu vực; đến năm 2015, số lượng GVĐH, cao đẳng là
100.000 người, năm 2020 là 160.000 người; xây dựng một số cơ sở đào tạo bậc đại
học và dạy nghề đạt trình độ quốc tế để cung cấp nhân lực trình độ cao cho hệ
thống giáo dục, đào tạo, NCKH và nhu cầu phát triển KTXH của đất nước.
Quy hoạch Phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (được ban
hành theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ)
đặt ra mục tiêu xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng cao để đào tạo nhân lực
có trình độ cho đất nước, trong đó, phấn đấu đến năm 2015, số lượng giáo viên,
giảng viên bậc đại học khoảng 62,1 nghìn người, trong đó số người có trình độ tiến
sĩ khoảng 23%; đến năm 2020, số lượng giáo viên, giảng viên bậc đại học khoảng
75,8 nghìn người, trong đó số giáo viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 30%.
Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2020 (được
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành tại Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT ngày
29/12/2011) xác định đến năm 2020, nhu cầu giảng viên trong các trường đại học
cả nước khoảng 83.000 người, trong đó giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng
29.000 người (30%), số lượng giảng viên của khu vực ĐBSH là 35.000 người
(thực tế hiện nay khoảng 29.745 người).
Tại Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính
101
phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai
đoạn 2006-2020, mục tiêu đặt ra cho khu vực ĐBSH là đến năm 2020 có 91 trường
đại học, số giảng viên có trình độ tiến sĩ trong tổng số GVĐH khoảng 21%, số sinh
viên/giảng viên bình quân từ 17-26 sinh viên/giảng viên tùy theo ngành nghề đào
tạo. Trước đó, tại Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các Trường Đại học và cao đẳng giai
đoạn 2006-2020, mục tiêu về số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ cho năm 2020 là
trên 75% GVĐH có trình độ tiến sĩ.
Bảng 3.11. Mục tiêu quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập năm 2020 ĐVT: người, %
Số lượng giảng viên đại học
Giảng viên có trình độ thạc sĩ
Giảng viên có trình độ tiến sĩ
Tỷ lệ sinh viên/giảng viên
Mục tiêu năm 2020
Cả nước -
Khu vực ĐBSH -
Số lượng
Tỷ trọng 60%
Số lượng -
Tỷ trọng 35%
20
-
-
-
90%
-
75%
-
-
-
-
-
75.800
30%
-
83.000
35.000
-
-
29.000
30%
-
-
-
-
-
-
21%
17-26 tùy ngành nghề đào tạo
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006-2020 Quyết định số 121/2007/QĐ- TTg ngày 27/7/2007 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các Trường Đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 Quy hoạch Phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2020 Quyết định số 37/2013/QĐ- TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020
Nguồn: Tổng hợp từ các văn bản trên
Thực tế hiện nay, thống kê của Bộ GD&ĐT cho thấy số lượng các trường
đại học của khu vực đang là 96 trường, đã vượt quá số lượng trường theo quy
hoạch (trong số đó, số lượng các trường đại học công lập trực thuộc các Bộ là 47
trường).
Về ĐNGV có học vị tiến sĩ, như đã nêu ở phần trên, tính trung bình tỷ lệ
102
giảng viên có học vị tiến sĩ/tổng số giảng viên của các trường đại học công lập trực
thuộc Bộ khu vực ĐBSH năm học 2015-2016 đạt 23,0%, năm học 2016-2017 đạt
26,9% (Bảng 3.8). Do việc quy hoạch đội ngũ GVĐH công lập Việt Nam chưa
được xây dựng một cách hợp lý, trong quá trình thực hiện chưa được điều chỉnh
kịp thời, đối chiếu giữa mục tiêu trong các văn bản quy hoạch ĐNGV nêu trên và
số liệu thống kê trên thực tế, có thể thấy ngay trong các văn bản QLNN cũng đã có
sự chênh lệch về mục tiêu đặt ra, đồng thời những mục tiêu này cũng chưa thực sự
sát với tình hình thực tế. Nội dung quy hoạch được xác định ở tầm vĩ mô, chưa gắn
với nhu cầu nhân lực của ngành nghề, địa phương cụ thể, chưa gắn kết chặt chẽ với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của khu vực, của địa phương. Quy hoạch phát
triển nhân lực Việt Nam đưa ra mục tiêu cho năm 2015 là 23% tổng số GVĐH có
trình độ tiến sĩ, trong khi Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 xác định
mục tiêu cho năm 2020 là 21% tổng số GVĐH có trình độ tiến sĩ. Trên thực tế tại
khu vực ĐBSH, con số này đang là 26,9% (cao hơn so với mặt bằng chung của cả
nước là 22,7%).
3.3.2. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Trong thời gian qua, Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã xây dựng và ban hành một
hệ thống khá toàn diện các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản QLNN, các
văn bản hướng dẫn liên quan đến các nội dung: quy hoạch, kế hoạch phát triển
GDĐH, mạng lưới các cơ sở GDĐH; tuyển dụng, sử dụng, đánh giá; ĐTBD; đãi
ngộ, tôn vinh đội ngũ giáo viên (trong đó có GVĐH); kiểm định chất lượng
GDĐH, v.v. Hệ thống văn bản này khi đưa vào triển khai thực hiện, về cơ bản đã
mang lại một số kết quả tích cực, bước đầu góp phần phát triển ở một mức độ nhất
định đội ngũ GVĐH công lập về số lượng, chất lượng, cơ cấu, góp phần đào tạo
NNL cho sự nghiệp phát triển KTXH của đất nước.
Luật Giáo dục đại học năm 2012, cùng với nhiều nghị định, thông tư, quyết
định, chỉ thị và văn bản quan trọng khác đã được ban hành như:
Nhóm văn bản liên quan đến quy hoạch, kế hoạch:
- Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính
103
phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn
2006-2020.
- Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT ngày 29/12/2011 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo dục giai đoạn 2011-
2020.
- Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn
2006-2020.
Nhóm văn bản liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng:
- Quyết định số 911/QĐ-TTG ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao
đẳng giai đoạn 2010-2020 (gọi tắt là Đề án 911). Bộ GD&ĐT hiện đang khảo sát
về thực trạng, nhu cầu đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ để phục vụ cho công
tác xây dựng đề án thay thế Đề án nói trên.
- Quyết định số 599/TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước giai đoạn
2013-2020” (gọi tắt là Đề án 599)
- Thông tư số 23/2014/TT-BGDĐT ngày 18/7/2014 ban hành quy định về
đào tạo chất lượng cao trình độ đại học, trong đó có quy định về trình độ, năng lực
chuyên môn, năng lực ngoại ngữ của giảng viên tham gia giảng dạy chương trình
chất lượng cao.
- Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 về tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của GDĐH.
- Quyết định số 1611/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
giảng viên cao cấp (hạng I).
- Quyết định số 1612/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
giảng viên chính (hạng II).
- Quyết định số 1613/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
104
giảng viên (hạng III).
- Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về ĐTBD
cán bộ, công chức, viên chức.
Nhóm văn bản liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục:
- Quyết định số 4138/QĐ-BGDĐT ngày 20/9/2010 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về việc phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống kiểm định chất
lượng giáo dục đối với GDĐH và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011-2020.
- Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học.
- Quyết định số 3568/QĐ-BGDĐT ngày 05/9/2013 của Bộ Giáo dục & Đào
tạo về việc thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục-Đại học Quốc gia
Hà Nội.
- Công văn số 7324/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 08/10/2013 của Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT về hướng dẫn tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động
giảng dạy của giảng viên.
Nhóm văn bản liên quan đến tuyển dụng, sử dụng, chế độ đãi ngộ:
- Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với Nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các
cơ sở giáo dục công lập.
- Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06/6/2011 của
Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính
sách đối với giảng viên tại cơ sở ĐTBD của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ về chế độ
phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo.
- Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ quy định về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
- Thông tư số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 của Bộ Nội vụ quy định
về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức;
- Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 quy định về chế độ
105
làm việc đối với giảng viên;
- Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học (trong đó có
quy định về điều kiện, thời gian, nhiệm vụ, thủ tục, trình tự xem xét việc kéo dài
và chính sách với giảng viên được kéo dài thời gian làm việc).
- Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của
Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập.
- Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày
27/7/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
- Thông tư liên tịch số 28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 06/11/2015 của
Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện bổ nhiệm và xếp lương chức danh
nghề nghiệp đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập.
Nhóm văn bản liên quan đến thanh tra, kiểm tra:
- Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ quy định tổ
chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục.
- Thông tư số 39/2013/TT-BGDĐT ngày 04/12/2013 của Bộ GD&ĐT
hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục.
- Chỉ thị số 5972/CT-BGDĐT ngày 20/12/2016 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
về việc tăng cường công tác thanh tra giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện GD&ĐT.
Nhóm văn bản liên quan đến quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại
học:
- Thông tư số 08/2014/TT-BGDĐT ngày 20/03/2014 của Bộ GD&ĐT ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học vùng và các cơ sở GDĐH thành
viên.
- Nghị quyết 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014, về việc thí điểm đổi mới cơ chế
hoạt động đối với các cơ sở giáo dục công lập, giai đoạn 2014-2017
- Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập.
- Nghị định số 72/2015/NĐ-CP ngày 08/9/2015 quy định tiêu chuẩn phân
106
tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở GDĐH.
- Nghị định số 46/2017/NĐ-CP ngày 21/4/2017 quy định về điều kiện đầu
tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
- Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành Trung ương Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hệ thống các văn bản nêu trên đã tập trung vào các nội dung sau đây:
- Quy hoạch đội ngũ GVĐH công lập đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu về phẩm chất đạo đức, đạt chuẩn nghề nghiệp
của các chức danh giảng viên;
- Đổi mới quy trình và phương thức tuyển dụng NNL GVĐH công lập theo
hướng chú trọng hơn tới yếu tố cạnh tranh theo vị trí việc làm; yêu cầu về tính
khách quan, công bằng; tuyển dụng theo phương thức hợp đồng làm việc;
- Thay đổi cách thức quản lý GDĐH theo hướng tăng quyền tự chủ và trách
nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH;
- Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và cải
cách hành chính;
- Đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của GVĐH công lập, để họ được hưởng
tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên và phụ cấp khác theo quy
định, được tham gia vào quản trị nhà trường;
- Xây dựng tiêu chí về khung trình độ, năng lực ĐNGV, tạo cơ sở pháp lý
để mỗi giảng viên và mỗi trường đại học phải phấn đấu để đạt chuẩn nhằm đảm
bảo chất lượng đào tạo, nâng cao năng lực giảng viên, nâng cao vị thế và uy tín của
nhà trường.
Nhìn chung, các văn bản QLNN về phát triển đội ngũ GVĐH công lập đã
luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn hơn trước và có tính đến yếu tố hội
nhập quốc tế. Các chính sách về tuyển dụng, tiền lương, đãi ngộ, phụ cấp nhà giáo,
quy định về đạo đức nhà giáo, v.v. đã đáp ứng được một phần nhu cầu của đội ngũ
GVĐH công lập về chế độ đãi ngộ. Hệ thống chính sách liên quan đến phát triển
đội ngũ GVĐH công lập đã bước đầu được tạo lập và bao quát nhiều khía cạnh.
107
Chính phủ, Bộ GD&ĐT và các cơ quan liên quan đã tổ chức triển khai hàng loạt
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, thông tư, nghị định, quyết định, v.v.
nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện GDĐH nói chung và phát triển
đội ngũ GVĐH nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH về mọi
mặt. Số lượng ĐNGV mỗi năm một tăng lên, cơ cấu trình độ tuy còn bất cập
nhưng bước đầu có sự cải thiện.
Tuy nhiên, việc xây dựng chính sách còn bị động, cơ bản là dành ưu tiên để
khắc phục những thiếu sót, hạn chế trước mắt, để tránh một số hậu quả xấu, chứ
chưa phải là hướng tới kết quả tích cực, lâu dài và bền vững. Việc ban hành các
văn bản vẫn còn chậm, quá trình thực hiện văn bản phát sinh nhiều vấn đề phải
điều chỉnh, sửa đổi thường xuyên cho thấy sự lúng túng, chưa sát với thực tế và
chưa cụ thể hóa được chủ trương, đường lối và quan điểm của Đảng về phát triển
NNL GVĐH một cách kịp thời, có hiệu quả.
Một ví dụ cụ thể là Luật Giáo dục đại học. Luật GDĐH được ban hành năm
2012. Theo đánh giá của Bộ GD&ĐT và nhiều chuyên gia giáo dục, sau 5 năm tổ
chức thực hiện, Luật đã bộc lộ những bất cập gây trở ngại cho các trường cũng như
cơ quan quản lý. Cụ thể, một số quy định của Luật về tự chủ đại học, quản trị đại
học, quản lý đào tạo và QLNN khiến Luật chưa đi vào cuộc sống. Việc xếp hạng
đại học chưa làm được do chưa thực hiện việc kiểm định trong toàn hệ thống. Việc
phân tầng đại học cũng chưa thực hiện được. Các quy định về xã hội hóa GDĐH
chưa được thể hiện rõ ràng. Đến nay mới chỉ có 23 trường đại học thực hiện tự
chủ. Các chức danh giảng viên (giáo sư, phó giáo sư…) chưa được quy định, định
nghĩa rõ ràng dẫn đến có những quan niệm khác nhau về các chức danh Giáo sư,
Phó Giáo sư và các chức danh giảng viên khác. Cơ chế quản trị đại học, vai trò của
Bộ chủ quản và của Hội đồng trường, quyền và trách nhiệm của các cơ sở GDĐH
chưa được làm rõ. Cơ chế tài chính cho GDĐH chưa được quy định rõ trong luật
gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các cơ sở GDĐH, nhất là khi được giao cơ
chế tự chủ. Trước yêu cầu đặt ra về việc sửa đổi luật, ngày 11/8/2017, Thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định số 1183/QĐ-TTg giao Bộ GD&ĐT xây dựng dự thảo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH. Nội dung trọng tâm sửa đổi,
108
bổ sung Luật Giáo dục đại học sẽ bao gồm 4 nhóm chính sách lớn đã được Quốc
hội thông qua như sau: (i) Tự chủ đại học; (ii) Quản trị đại học; (iii) Quản lý đào
tạo; (iv) Quản lý nhà nước về GDĐH.
Qua khảo sát, trao đổi thực tế với một số cán bộ quản lý, lãnh đạo các
trường đại học, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng chính sách phát triển đội ngũ
GVĐH công lập hiện nay chưa tốt, rất ít các chính sách được ban hành xuất phát từ
ý tưởng, từ những vấn đề bức xúc cần giải quyết của ĐNGV. Mục tiêu của các
chính sách còn dàn trải, khó định lượng, khó kiểm tra, giám sát việc thực hiện, tính
thực thi thấp. Các kiến nghị chính sách được xây dựng chủ yếu từ ý tưởng của các
cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ QLNN về GDĐH (Bộ GD&ĐT), chưa xuất
phát từ chính các trường đại học.
Việc xây dựng chính sách liên quan đến ĐNGV cũng thiếu sự phối hợp
đồng bộ giữa các Bộ, ngành, địa phương liên quan nên chính sách thiếu tính toàn
diện, khách quan. Tại Việt Nam còn tồn tại một thực tế là nhiều trường đại học
trực thuộc các Bộ chủ quản. Sự thiếu phối hợp giữa cơ quan Bộ làm chính sách
(Bộ GD&ĐT) và các Bộ chuyên ngành, cũng như chính quyền địa phương, dẫn
đến sự bất hợp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch hóa NNL GVĐH, sự thiếu
thống nhất, chồng chéo rất dễ xảy ra (đặc biệt là các chính sách phát triển đội ngũ
GVĐH công lập có liên quan đến vị trí việc làm (Bộ Nội vụ làm đầu mối), liên
quan đến kinh phí (Bộ Tài chính làm đầu mối)). Bộ GD&ĐT, một mặt, là cơ quan
QLNN về giáo dục và đào tạo, nhưng thường gặp nhiều khó khăn khi thực hiện
chức năng QLNN trong lĩnh vực đào tạo của mình với các trường thuộc quyền
quản lý của các Bộ khác. Quy trình xây dựng các văn bản, chính sách pháp luật
cũng chưa tạo được động lực và tạo ra kênh thông tin tốt nhất để thu hút cũng như
tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách là
ĐNGV.
Trong thời gian qua, mặc dù mang đặc thù nghề nghiệp là NNL chất lượng
cao vừa giảng dạy vừa NCKH, ĐNGV lại được xếp làm một bộ phận của đội ngũ
viên chức. Do đó, thể chế QLNN về phát triển đội ngũ GVĐH bao gồm cả các quy
định pháp luật áp dụng với đội ngũ viên chức và các quy định đặc thù áp dụng với
nhà giáo ở bậc đại học. Các văn bản quy phạm pháp luật đó bao gồm: Luật Viên
109
chức 2010; Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009. Để cụ thể hóa nội dung QLNN đối
với đội ngũ viên chức, giảng viên trong các luật nêu trên, nhiều nghị định, thông tư
đã được ban hành như: Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính
phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của
viên chức; Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-
BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH
công lập; Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 quy định về chế độ
làm việc đối với giảng viên; Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT
ngày 06/6/2011 của Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế
độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở ĐTBD của Bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
3.3.3. Thực trạng tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập
Về tuyển dụng
Luật Viên chức 2010 quy định: Viên chức là công dân Việt Nam được
tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ
hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật. Như vậy, theo quy định pháp luật, việc tuyển dụng hiện nay
vẫn còn bó hẹp trong tuyển dụng giảng viên là người Việt Nam, không thu hút
được ứng viên là người nước ngoài có năng lực và trình độ, có kinh nghiệm làm
việc trong môi trường quốc tế.
Với tính chất hoạt động là viên chức, việc tuyển dụng GVĐH công lập chịu
sự điều chỉnh của các quy định của Nhà nước về tuyển dụng viên chức tại Nghị
định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý viên chức. Nghị định số 29 đưa ra các quy định về điều kiện đăng ký dự tuyển
viên chức (Điều 4); về thẩm quyền tuyển dụng viên chức (Điều 5); về Hội đồng
tuyển dụng viên chức (Điều 6); về thi tuyển viên chức (Điều 7, 8, 9, 10); các quy
định về xét tuyển viên chức (Điều 11, 12, 13, 14); về trình tự, thủ tục tuyển dụng
110
viên chức (Điều 15, 16, 17); về bổ nhiệm vào ngạch viên chức khi hết thời gian tập
sự (Điều 23). Theo đó, việc tuyển dụng viên chức được thực hiện thông qua thi
tuyển hoặc xét tuyển. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ,
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng viên chức và
chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập chưa
được giao quyền tự chủ, cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện việc tuyển dụng viên chức hoặc phân cấp cho người đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng. Căn cứ vào kết quả tuyển dụng, người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập ký kết hợp đồng làm việc với người trúng
tuyển vào viên chức.
Thực tế, quy trình tuyển chọn cán bộ giảng dạy và nghiên cứu hiện đang
tuân thủ các quy định chung của tuyển chọn viên chức. Quy trình hiện tại hầu như
không có các yếu tố đặc thù cho môi trường hàn lâm, trong khi tính chất công việc
của các nhân sự hàm lâm lại rất khác so với công việc thông thường của một viên
chức nhà nước. Chính sách tuyển dụng giảng viên của nhiều trường đại học công
lập lấy bằng cấp làm tiêu chí quan trọng, rất có thể chỉ tuyển được những người có
chức danh, học vị cao nhưng thiếu năng lực, kiến thức và kỹ năng giải quyết công
việc chuyên môn, thậm chí còn thiếu đạo đức nghề nghiệp.
Một đặc thù quan trọng của môi trường đại học hiện đại là lấy khả năng
NCKH làm tiêu chí số một, và là nền tảng cho mọi hoạt động của giảng viên. Do
đó, tiêu chí hàng đầu cho việc tuyển dụng giảng viên phải là chuyên môn sâu và
khả năng NCKH. Thông qua khảo sát ý kiến của các nhóm đối tượng là giảng viên,
lãnh đạo trường đại học, cán bộ quản lý với câu hỏi: “Theo Anh/Chị, tiêu chí tuyển
dụng GVĐH công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây?” tác giả luận
án tổng hợp được kết quả như sau (Bảng 3.12):
Nhóm đối tượng khảo sát là giảng viên cho rằng khi tuyển dụng cần chú
trọng vào năng lực giảng dạy (87% số phiếu), năng lực chuyên môn (60%) và năng
lực NCKH (47%). Kết quả khảo sát cho thấy bản thân ĐNGV vẫn coi trọng năng
lực chuyên môn hơn năng lực NCKH và tập trung nhiều nhất cho năng lực giảng
dạy để có thể truyền thụ hiệu quả nhất kiến thức cho sinh viên. Nhóm đối tượng
111
khảo sát là lãnh đạo thuộc các trường đại học cho rằng cần tập trung vào năng lực
chuyên môn (100%), năng lực giảng dạy (86%), năng lực NCKH (58%), tiêu
chuẩn học vị (74%). Kết quả khảo sát này cho thấy cán bộ lãnh đạo của các trường
đại học cũng chưa quan tâm nhiều đến năng lực NCKH của ĐNGV tiềm năng của
mình sẽ được tuyển dụng vào làm việc (58%). Nhóm đối tượng khảo sát là các cán
bộ công tác tại các cơ quan quản lý GDĐH (các Bộ) cho rằng cần tập trung vào
năng lực chuyên môn (78%), tiêu chuẩn học vị (74%) và năng lực NCKH (73%).
Kết quả này cho thấy nhóm đối tượng này có tầm nhìn bao quát và cân đối hơn
theo hướng tiếp cận tiêu chuẩn và mặt bằng chung của khu vực và thế giới.
Bảng 3.12. Kết quả khảo sát các tiêu chí cần được chú trọng trong tuyển dụng giảng viên đại học
Tiêu chí tuyển dụng GVĐH
Giảng viên
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Lãnh đạo tại trường đại học
Cán bộ quản lý tại Bộ
Tiêu chuẩn học vị
268
41%
148
74%
74%
64
236
36%
128
64%
49%
42
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy
396 572
60% 87%
200 172
100% 86%
78% 69%
67 59
Năng lực NCKH Tổng số phiếu
312 47% 660 100%
116 200
58% 100%
73% 100%
63 86
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả
Về thành phần hội đồng tuyển chọn giảng viên, để đáp ứng yêu cầu và phù
hợp với tình hình mới, cơ cấu thành phần của hội đồng phải khác với hiện nay.
Quyết định tuyển chọn phải thuộc về những người có khả năng đánh giá trình độ,
năng lực giảng dạy và NCKH của ứng viên. Thành phần hội đồng phải bao gồm
những Giáo sư có uy tín về khoa học. Quy trình tuyển chọn cần phải được minh
bạch hoá, tuyển ứng viên theo một quy trình mở, ai được nộp đơn, ai được tuyển,
dựa trên tiêu chí gì, kết quả như thế nào cần được xác định rõ ràng với những tiêu
chí có thể đo lường được. Trong tuyển chọn phải ưu tiên hàng đầu tiêu chí khoa
học, và trao quyền quyết định cho những người có thẩm quyền khoa học. Trên thực
tế, những nội dung này chưa được cụ thể hóa và triển khai theo tinh thần tự chủ mặc
dù trong quy định của Nhà nước thì đã có.
112
Các nội dung liên quan đến thi tuyển giảng viên còn mang nặng tính hành
chính, căn cứ vào hồ sơ lý lịch chung, tiêu chí tuyển chọn cào bằng, chưa nhấn mạnh
đến các yêu cầu đặc thù của GVĐH là một tổ hợp năng lực chuyên môn, năng lực
giảng dạy và NCKH. Đặc biệt, trình độ ngoại ngữ cũng là yếu tố góp phần đẩy
nhanh quá trình quốc tế hóa chuẩn GVĐH. Việc quy định đầu vào của GVĐH ở
trình độ thạc sĩ ngày càng trở nên lạc hậu so với với yêu cầu về chất lượng đào tạo
NNL chất lượng cao hiện nay.
Quy trình tạo nguồn của các trường đại học công lập hiện nay cũng phản
ánh những điểm yếu nhất trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giảng dạy và
nghiên cứu, đó là sự thiếu hấp dẫn của vị trí việc làm, thiếu tính cạnh tranh trong
tuyển dụng, thiếu tính linh hoạt trong tổ chức cán bộ. Qua khảo sát thực tế, chính
các giảng viên có ý kiến nhất trí với nhận định này. Với câu hỏi khảo sát của tác
giả: “Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây hạn chế khả năng hình
thành được ĐNGV có chất lượng nhất?” đối với nhóm đối tượng khảo sát là giảng
viên, kết quả thu được cho thấy phần lớn các giảng viên được hỏi cho rằng hình
thức tạo nguồn bằng cách tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo là
hình thức làm hạn chế nhiều nhất khả năng hình thành ĐNGV có chất lượng
(78,2%). Không có giảng viên nào phản đối tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ
trong nước hoặc ở nước ngoài (Bảng 3.13).
Bảng 3.13. Kết quả khảo sát hình thức tạo nguồn làm hạn chế chất lượng đội ngũ giảng viên
Hình thức tạo nguồn giảng viên Giảng viên
Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên 140 Tỷ lệ (%) 21,2%
516 78,2%
176 26,7%
Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác Tổng số phiếu 0 0 0 660 0,0% 0,0% 0,0% 100%
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả
Với câu hỏi khảo sát của tác giả: “Cơ quan Anh/Chị tạo nguồn giảng viên
113
bằng hình thức nào?” đối với nhóm đối tượng khảo sát là cán bộ lãnh đạo tại các
trường đại học, kết quả thu được như sau: 166 phiếu trên tổng số 200 phiếu (78%)
cho biết cơ quan của người được khảo sát đang tuyển thẳng người có học vị thạc sĩ
trở lên và tự đào tạo. Chỉ có 08 phiếu (4%) cho biết cơ quan của họ tuyển thẳng
người có học vị tiến sĩ trong nước. 84 phiếu (42%) khẳng định cơ quan của người
được hỏi đang tuyển giảng viên thông qua hình thức giữ sinh viên giỏi ở lại trường
làm giảng viên (Chi tiết tham khảo tại Phụ lục 02).
Kết quả khảo sát phản ánh một thực tế rằng phương pháp tạo nguồn còn
mang nặng tính chủ quan. Vẫn còn phổ biến tình trạng các trường đại học ưu tiên
tuyển dụng chính những người mình đào tạo ra trong khi việc cạnh tranh, chủ động
đi tìm và tuyển những người trẻ được đào tạo từ những “nguồn khác” không được
chú trọng, nên sự so sánh, đối chiếu về chất lượng nguồn cung không cao. Thiếu
cạnh tranh tất yếu dẫn đến chất lượng giảm, dẫn đến một sự trì trệ nhất định trong
nghiên cứu. Thầy và trò cùng ra từ một “lò” sẽ ít có các giao thoa, tương tác cần
thiết trong NCKH. Về mặt quy hoạch nhân sự thì để tạo được nguồn, cần có kế
hoạch dài hơi từ năm đến mười năm. Kết quả của quá trình tạo nguồn dài như vậy
sẽ bị chi phối bởi rất nhiều rủi ro, và trên thực tế không có gì để bảo đảm chất
lượng đầu ra ngoài niềm tin. Bên cạnh đó, kế hoạch dài hơi sẽ hạn chế đáng kể tính
linh hoạt trong chính sách khoa học của các trường đại học phải thích nghi liên tục
với môi trường quốc tế ngày một biến động. Do đó, Nhà nước cần có định hướng
cho các trường, yêu cầu các trường đổi mới công tác xây dựng quy hoạch, kế
hoạch và tạo nguồn. Bên cạnh việc nghiên cứu, xây dựng chính sách nhằm thu hút
đội ngũ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, sinh viên các lớp cử nhân tài năng, kỹ sư
chất lượng cao làm GVĐH; Nhà nước cần có chính sách thu hút cán bộ khoa học
có trình độ chuyên môn cao ở trong và ngoài nước tham gia giảng dạy trong các cơ
sở đào tạo công lập.
Về sử dụng
Theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012
của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, người đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc người đứng đầu đơn vị sử dụng viên chức chịu
114
trách nhiệm phân công nhiệm vụ, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức,
bảo đảm các điều kiện cần thiết để viên chức thực hiện nhiệm vụ và các chế độ,
chính sách đối với viên chức. Việc phân công nhiệm vụ cho viên chức phải bảo
đảm phù hợp với chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý được bổ nhiệm và yêu
cầu của vị trí việc làm.
Theo Luật Viên chức 2010, viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp
đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật. Chức danh nghề nghiệp là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh vực nghề nghiệp.
Theo quy định tại Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính
phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, vị trí việc làm là
công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý
tương ứng; là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực
hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Thực tế cho thấy công tác sử dụng đội ngũ GVĐH theo năng lực chưa được
tạo thành một quy trình chuẩn hóa, thiếu tính chủ động ở cấp khoa và tổ bộ môn,
chưa tạo được động lực cho ĐNGV phấn đấu và phát huy tiềm năng của mình.
Việc phân công nhiệm vụ cho giảng viên chưa chú trọng tuân thủ yêu cầu của vị trí
việc làm, đối với giảng viên là nhiệm vụ giảng dạy và nhiệm vụ NCKH. Nhiều
giảng viên thuộc chuyên ngành này nhưng lại được phân công giảng dạy một
chuyên ngành khác. Việc phân công cho các giảng viên thực hiện các đề tài NCKH
còn mang tính hình thức, chủ yếu là đáp ứng yêu cầu về định mức đặt ra, chưa chú
trọng tới chất lượng công trình NCKH và chưa khuyến khích, tạo động lực để
ĐNGV chủ động, say sưa làm NCKH.
Tình trạng quá tải giờ dạy của đội ngũ GVĐH hiện vẫn đang còn phổ biến
do việc thành lập ồ ạt các cơ sở GDĐH, việc mở thêm các mã ngành đào tạo cùng
với sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đào tạo, trong khi số lượng đội ngũ GVĐH
công lập không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô đào tạo. Thực tế này diễn ra phổ
biến, đặc biệt là đối với giảng viên những môn chung như triết học, ngoại ngữ,
115
kinh tế chính trị và giảng viên thuộc các nhóm ngành hấp dẫn như CNTT, ngân
hàng, tài chính kế toán. Có những giảng viên dạy hàng nghìn tiết/năm trong khi
quy định là 280 tiết/năm. Tình trạng quá tải giờ dạy diễn ra liên tục trong thời gian
dài khiến cho rất nhiều GVĐH không còn thời gian dành cho học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được một cách thường xuyên các
kiến thức, kỹ năng mới khiến cho nội dung bài giảng của họ nghèo nàn, lạc hậu và
không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Trong khi đó, công tác NCKH chưa
được chú trọng, nội dung NCKH không có chất lượng, hiệu quả, không có tính
thực tiễn và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét
thi đua, xét phong danh hiệu.
Về thi thăng hạng giảng viên, căn cứ Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày
12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Thông tư
số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 của Bộ Nội vụ quy định về chức danh nghề
nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức (Thông tư số
12/2012/TT-BNV); Công văn số 1732/BNV-CCVC ngày 15/4/2016 của Bộ Nội vụ
về việc thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức năm 2016, Bộ GD&ĐT
hướng dẫn cụ thể một số nội dung trong việc tổ chức thi thăng hạng từ giảng viên
(hạng III) lên giảng viên chính (hạng II) và từ giảng viên chính (hạng II) lên giảng
viên cao cấp (hạng I) trong các trường đại học, học viện (gọi chung là các trường
đại học) và các trường cao đẳng công lập năm 2016 như sau:
Viên chức được đăng ký dự thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng
viên chính khi bảo đảm đủ các tiêu chuẩn, điều kiện:
a) Trường đại học có nhu cầu;
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian công tác 3 năm liên tục gần
nhất;
c) Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với vị trí việc làm, chuyên ngành giảng
dạy;
d) Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
đ) Có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp giảng viên chính (hạng II) quy định tại Khoản 3 Điều 5 của Thông tư liên
tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội
116
vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong
các cơ sở GDĐH công lập.
e) Viên chức dự thi phải có thời gian giữ ngạch giảng viên, mã số: 15.111
hoặc tương đương tối thiểu là 09 năm đối với người có bằng thạc sĩ, 06 năm đối
với người có bằng tiến sĩ; trong đó thời gian gần nhất giữ ngạch giảng viên, mã số:
15.111 tối thiểu là 02 năm.
Viên chức được đăng ký dự thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng
viên cao cấp khi bảo đảm đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau:
a) Trường đại học có nhu cầu;
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian công tác 3 năm liên tục gần nhất
và tới thời điểm cử dự thi;
c) Có bằng tiến sĩ phù hợp với vị trí việc làm, chuyên ngành giảng dạy;
d) Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
đ) Có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp giảng viên cao cấp (hạng I) quy định tại khoản 3 Điều 4 của Thông tư liên
tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV.
e) Viên chức dự thi phải có thời gian giữ ngạch giảng viên chính, mã số:
15.110 hoặc tương đương tối thiểu là 06 năm, trong đó thời gian gần nhất giữ
ngạch giảng viên chính, mã số: 15.110 tối thiểu là 02 năm.
Quy định tại các văn bản trên cho thấy, việc thăng hạng GVĐH từ giảng
viên lên giảng viên chính và giảng viên cao cấp còn nặng về hành chính, chú trọng
thâm niên công tác, chưa có ưu tiên đối với giảng viên có trình độ tiến sĩ. Điều này
dẫn đến thực tế dù giảng viên có trình độ tiến sĩ nhưng chưa đủ năm công tác, chưa
đủ hệ số lương thì không được thăng hạng. Tương tự, giảng viên sau khi được Hội
đồng Chức danh giáo sư nhà nước công nhận học hàm lại tiếp tục về cơ sở đào tạo
làm rất nhiều thủ tục liên quan đến phiếu tín nhiệm mới được bổ nhiệm Phó Giáo
sư tại cơ sở đào tạo. Và nếu không có được các thủ tục này đồng nghĩa với quyết
định của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước mất tác dụng. Trong khi đó, quy
trình xét duyệt đã rất chặt chẽ và học hàm được bổ nhiệm trên cơ sở công trình
khoa học chứ không dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần đoàn
kết như trong các đánh giá khác của tổ chức. Việc đánh đồng các quy trình đánh
117
giá đã làm phức tạp hóa các thủ tục không cần thiết trên thực tế.
3.3.4. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền lương và phụ
cấp đối với nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Chính sách tiền lương đối với GVĐH công lập được quy định cụ thể tại
Thông tư liên tịch số 28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV hướng dẫn thực hiện bổ nhiệm
và xếp lương chức danh nghề nghiệp đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở
GDĐH công lập. Theo đó, chức danh nghề nghiệp giảng viên cao cấp (hạng I)
được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1 (A3.1) từ hệ số lương
6,20 đến hệ số lương 8,00; chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II) được
áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm 1 (A2.1) từ hệ số lương 4,40 đến
hệ số lương 6,78; chức danh nghề nghiệp giảng viên (hạng III) được áp dụng hệ số
lương của viên chức loại A1 từ hệ số lương 2,34 đến 4,98.
Bảng 3.14. Chế độ tiền lương đối với giảng viên đại học công lập
Thời gian
Từ 01/7/2017
Từ 01/7/2013 đến 30/4/2016
Từ 01/5/2016 đến 01/7/2017
Mã số viên chức
Hệ số lương
Tổng tiền lương 1 tháng
Tổng tiền lương 1 tháng
Tổng tiền lương 1 tháng
Chức danh nghề nghiệp
GVCC V.07.01.01
6,2-8,0
Mức lương cơ sở 1 tháng (VNĐ) 1.150.000
Mức lương cơ sở 1 tháng (VNĐ) 1.210.000
Mức lương cơ sở 1 tháng (VNĐ) 1.300.000
GVC
V.07.01.02
1.150.000
1.210.000
1.300.000
GV
V.07.01.03
1.150.000
1.210.000
1.300.000
4,4- 6,78 2,34- 4,98
7.130.000- 9.200.000 5.060.000- 7.797.000 2.691.000- 5.727.000
7.502.000- 9.680.000 5.324.000- 8.203.800 2.831.400- 6.025.800
8.060.000- 10.400.000 5.720.000- 8.814.000 3.042.000- 6.474.000
Nguồn: Nghị định quy định mức lương cơ sở đối với CB, CC,VC và lực lượng vũ trang (NĐ số 66/2013/NĐ-CP, NĐ số 47/2016/NĐ-CP và NĐ số 47/2017/NĐ-CP)
Về phụ cấp, theo Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của
Thủ tướng Chính phủ, mức phụ cấp 25% áp dụng đối với nhà giáo đang trực tiếp
giảng dạy trong các trường đại học, các học viện của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Mức phụ cấp 40% áp dụng đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các
trường đại học sư phạm, khoa sư phạm của các trường đại học công lập. Nguồn
kinh phí để chi trả phụ cấp ưu đãi theo quy định tại Quyết định này được sử dụng
từ nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp của đơn vị theo quy định và nguồn kinh
phí do ngân sách nhà nước cấp cho các cơ sở giáo dục công lập.
Trường hợp viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp viên chức
giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập có hệ số bậc lương bằng ở ngạch cũ thì
118
thực hiện xếp ngang bậc lương và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) đang
hưởng ở ngạch cũ (bao gồm cả thời gian xét nâng bậc lương lần sau hoặc xét
hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung nếu có ở ngạch cũ) vào chức danh nghề
nghiệp mới được bổ nhiệm. Việc đồng nhất lương GVĐH với lương viên chức nói
chung theo chức danh nghề nghiệp khiến người giảng viên thay vì nỗ lực giảng
dạy tốt, NCKH có chất lượng, tìm tòi sáng tạo thì chạy theo việc có được những
tiêu chuẩn để đủ điều kiện thăng hạng giảng viên.
Chế độ đãi ngộ vật chất đối với GVĐH công lập hiện nay chủ yếu thông
qua chính sách về tiền lương và phụ cấp. Mức thanh toán lương và phụ cấp còn
thấp so với mặt bằng thu nhập trong xã hội, đồng thời chưa tương xứng với lao
động chất lượng cao mà người giảng viên cung ứng cho xã hội (Bảng 3.14). Tiền
lương được xác định theo thang, bậc (thâm niên công tác) dẫn đến thu nhập chưa
đủ tái sản xuất sức lao động và việc tăng lương chưa thực sự dựa vào kết quả công
việc, dẫn đến tình trạng nhiều giảng viên chưa thực sự chuyên tâm với công việc.
Nhiều giảng viên trẻ, có tài năng và triển vọng có xu hướng rời bỏ trường đại học
để ra ngoài làm việc. Qua trao đổi với một số giảng viên và chuyên gia quản lý
giáo dục, tác giả nhận được các ý kiến như: cần có chính sách trả lương thích hợp,
căn cứ khối lượng, chất lượng công việc hoàn thành; lương phải cạnh tranh theo vị
trí việc làm; cần có chế độ lương, thưởng cao và xứng đáng cho những giảng viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ và có thành tích xuất sắc trong giảng dạy và NCKH; mức
thu nhập từ tiền lương, thưởng và phụ cấp phải đủ nuôi sống giảng viên và gia đình
với mức sống trung bình trong xã hội, để họ toàn tâm, toàn ý cho công việc và chỉ
như vậy mới có thể thu hút được nhân tài vào ĐNGV. Với câu hỏi: “Theo Anh/Chị
để nâng cao hiệu quả việc phát triển GVĐH cần tập trung chính vào vấn đề nào sau
đây?” dành cho đối tượng là GVĐH, theo kết quả khảo sát của tác giả, có tới 408
trong số 660 người được hỏi (61,8%) cho rằng cần tập trung vào vấn đề trả lương
(Phụ lục 2, Mẫu phiếu 01).
Khảo sát của tác giả đối với cán bộ công tác tại cơ quan QLNN về GDĐH
với câu hỏi: “Theo Anh/Chị các chính sách đối với GVĐH hiện nay có tạo động
lực để giảng viên yên tâm giảng dạy và NCKH không?” cho kết quả như sau: 33
trong số 86 người được hỏi (38%) cho rằng chính sách hiện nay có tạo động lực để
119
giảng viên yên tâm làm việc, 31 trong số 86 người được hỏi (36%) cho rằng chính
sách hiện nay không tạo được động lực, 22 người (26%) không có quan điểm rõ
ràng (Phụ lục 2). Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các cán bộ làm công tác quản
lý cho rằng chính sách hiện hành đối với GVĐH trong đó có chính sách về tiền
lương và phụ cấp chưa đủ mạnh để tạo động lực cho giảng viên.
Với câu hỏi: “Các chính sách đối với GVĐH hiện nay có tạo động lực để
giảng viên tự phát triển năng lực không?” dành cho chính các giảng viên, kết quả
khảo sát được thể hiện ở Bảng 3.15 dưới đây. Kết quả khảo sát cho thấy chính từ
ĐNGV, phần lớn trong số họ (52,7% tổng số giảng viên được hỏi) cho rằng chính
sách hiện hành đối với GVĐH chưa tạo được động lực để họ tự phát triển năng lực
bản thân. Các kết quả khảo sát phần nào cho thấy sự bất cập của các chính sách
hiện hành, trong đó có chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với giảng viên, đặt
ra yêu cầu các chính sách này phải tiếp tục được rà soát, điều chỉnh để đáp ứng nhu
cầu thực tế của giảng viên.
Bảng 3.15. Kết quả khảo sát khả năng tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực của các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay
Khả năng tạo động lực của chính sách
Giảng viên (phiếu) 280 348 28 660 Tỷ lệ (%) 42,4% 52,7% 04,2% 100% Có Không Khác Tổng số phiếu Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả
3.3.5. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học công
lập
Điều 56, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định: giảng viên trong cơ sở
GDĐH được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; được
hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên và các phụ cấp
khác theo quy định của Chính phủ. Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức xác định mục tiêu của ĐTBD viên
chức nhằm cập nhật kiến thức, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng và phương pháp thực
hiện nhiệm vụ được giao; đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ viên chức có đạo
đức nghề nghiệp, có đủ trình độ và năng lực chuyên môn đảm bảo chất lượng của
120
hoạt động nghề nghiệp. ĐTBD phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp và nhu cầu phát triển NNL của đơn vị sự nghiệp công lập.
Liên quan đến đào tạo ĐNGV, trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã triển
khai thực hiện hai đề án chính: Đề án 911 về đào tạo tiến sĩ cho các trường đại học
và Đề án 599 về đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, trong đó
có đào tạo giảng viên ở nước ngoài.
Quyết định số 599/TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước giai đoạn
2013-2020” (gọi tắt là Đề án 599) có dành chỉ tiêu đào tạo theo ngành/nhóm ngành
mà các cơ sở đào tạo trong nước chưa có khả năng đào tạo hoặc chưa đảm bảo đủ
điều kiện đào tạo chất lượng và theo nhu cầu thực tế cần ưu tiên đào tạo cho các cơ
sở GDĐH, cơ quan NCKH và công nghệ, các Bộ, ngành và cơ quan khác của Nhà
nước.
Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng
giai đoạn 2010-2020 (gọi tắt là Đề án 911) và Thông tư số 35/2012/TT-BGDĐT
ngày 12/10/2012 ban hành Quy định đào tạo trình độ tiến sĩ theo Đề án 911. Đề án
911 hiện đã dừng tuyển sinh từ năm 2017. Đề án đưa ra mục tiêu tăng cường công
tác đào tạo tiến sĩ cả về quy mô và chất lượng; tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến
sĩ trong các trường đại học; phấn đấu đến năm 2020, đào tạo bổ sung được ít nhất
20.000 tiến sĩ góp phần nâng cao chất lượng GDĐH Việt Nam. Mục tiêu cụ thể:
- Đào tạo khoảng 10.000 tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường đại học có uy
tín trên thế giới.
- Đào tạo khoảng 3.000 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa
các trường đại học Việt Nam và trường đại học nước ngoài.
- Đào tạo khoảng 10.000 tiến sĩ ở trong nước.
Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về việc thực hiện “Đề án đào tạo giảng
viên có trình độ tiến sĩ các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020” có một
số đánh giá quan trọng như sau:
Theo kế hoạch triển khai Đề án 911 của Bộ GD&ĐT tại công văn số
121
2702/BGDĐT-GDĐH ngày 05/8/2012 thì tổng chỉ tiêu đào tạo nghiên cứu sinh
của đề án từ năm 2012-2016 là 12.800 chỉ tiêu (đào tạo tiến sĩ trong nước: 5.700
chỉ tiêu; đào tạo tại nước ngoài: 5.800 chỉ tiêu; đào tạo phối hợp: 1.300 chỉ tiêu).
Tính đến hết năm 2016, tổng số nghiên cứu sinh trúng tuyển thực nhập học các hệ
đào tạo là 4.024 nghiên cứu sinh, chỉ đạt 31,4% so với chỉ tiêu của đề án tính đến
năm 2016 và bằng 17,5% của cả đề án. Số nghiên cứu sinh tốt nghiệp được cấp
bằng là 787 người, đạt 6% so với chỉ tiêu của đề án tính đến năm 2016 và bằng
3,4% của cả đề án. 7 nghiên cứu sinh không quay về cơ sở đào tạo, chiếm 1%
nghiên cứu sinh tốt nghiệp được cấp bằng. Về đào tạo tiến sĩ trong nước, tổng số
nghiên cứu sinh trúng tuyển đến hết năm 2016 là 2.062 nghiên cứu sinh, đạt 36%
so với chỉ tiêu đến năm 2016 và bằng 20,6% của cả đề án.
Như vậy, mục tiêu của đề án là từ năm 2010-2016 đào tạo từ 1.000-1.200
nghiên cứu sinh/năm với tổng số 5.700 nghiên cứu sinh đào tạo ở trong nước là
không đạt. Về đào tạo ngoài nước, theo Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm
2016, kết quả thực hiện của đề án đối với nghiên cứu sinh học tập nghiên cứu tại
nước ngoài không đạt được mục tiêu của đề án (tỷ lệ rất thấp). Cụ thể, trong số
2.926 nghiên cứu sinh đã trúng tuyển, đến hết năm 2016, đề án đã làm thủ tục cử
đi học được 1.981 người đạt 67% nghiên cứu sinh trúng tuyển, bằng 34%
(1.961/5.800) so với chỉ tiêu của đề án tính đến năm 2016. Số nghiên cứu sinh đào
tạo ngoài nước bỏ học không theo hết khóa học là 45 người. Số nghiên cứu sinh
hoàn thành khoá học về nước 549 nghiên cứu sinh đạt 75% số nghiên cứu sinh hết
thời hạn nghiên cứu. Trong số người tốt nghiệp có 378 nghiên cứu sinh đúng thời
hạn, 134 nghiên cứu sinh chậm 1 năm; 28 nghiên cứu sinh chậm 2 năm. 186
nghiên cứu sinh hết thời hạn nghiên cứu nhưng chưa tốt nghiệp trong đó đã xin gia
hạn 96 nghiên cứu sinh, quá thời hạn nhưng chưa báo cáo là 90 nghiên cứu
sinh. Như vậy, số nghiên cứu sinh đã hết thời gian nghiên cứu nhưng chưa bảo vệ
đề án hoặc bảo vệ đề án chậm 1-2 năm chiếm tỉ lệ tương đối cao 48% (355/735
nghiên cứu sinh).
Trong những năm qua, hàng nghìn giảng viên đã được đào tạo bằng kinh
phí ngân sách nhà nước theo các Đề án nói trên. Tuy nhiên, bất cập lớn của các đề
122
án này là việc không quan tâm đến cơ chế thu hút, sử dụng và tuyển dụng lưu học
sinh sau khi tốt nghiệp; hoặc người học được Nhà nước đầu tư tốn kém, cử đi học
nhưng sau khi về nước lại không phát huy được năng lực của mình, không có môi
trường để nghiên cứu tiếp; nhiều người ở lại nước ngoài sau khi học hoặc chuyển
việc làm khi về nước. Đề án 911 không hoàn thành được mục tiêu do không tìm
được người có đủ tiêu chuẩn đi học ở nước ngoài. Nhiều học viên theo Đề án 911
có tình trạng chung là không đạt chuẩn kỹ năng, có đầu vào tiếng Anh thấp khi ra
nước ngoài học tập. Để viết được báo cáo và làm nghiên cứu, học viên cần trình độ
IELTS 7.0. Điều này dẫn đến việc nhiều nghiên cứu sinh kéo dài thời gian hoặc
không hoàn thành học tập. Nghiên cứu sinh trong nước thì vừa học vừa phải làm
làm, thời gian tập trung cho nghiên cứu không đủ, vì thế học viên không thể toàn
tâm toàn ý, không đảm bảo chất lượng.
Về bồi dưỡng, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có quy định: ĐTBD phải
căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; vị trí việc làm; gắn với
công tác sử dụng, quản lý viên chức, phù hợp với kế hoạch ĐTBD và nhu cầu xây
dựng, phát triển NNL của cơ quan, đơn vị. Điều 17 của Nghị định quy định
chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức,
thời gian thực hiện tối thiểu là 06 tuần, tối đa là 08 tuần, gồm: (a) Chương trình, tài
liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng IV; (b) Chương trình, tài liệu bồi
dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng III; (c) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức
danh nghề nghiệp hạng II; (d) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề
nghiệp hạng I. Điều 30 của Nghị định có quy định cụ thể về đánh giá chất lượng
bồi dưỡng. Theo đó, mục đích của đánh giá chất lượng bồi dưỡng nhằm cung cấp
thông tin về mức độ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ của viên chức sau khi
được bồi dưỡng. Việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng phải bảo đảm công khai,
minh bạch, khách quan, trung thực.
Theo kết quả điều tra khảo sát của tác giả, đối với câu hỏi: "Theo Anh/Chị,
nội dung đào tạo, bồi dưỡng GVĐH nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng
lực nào sau đây?”, trong số 660 phiếu gửi các GVĐH được trả lời, có tới 484 phiếu
123
(73,3%) cho rằng nên tập trung vào năng lực chuyên môn; 424 phiếu (62,4%) cho
rằng cần tập trung năng lực giảng dạy; 392 phiếu (59,4%) cho rằng nên chú trọng
vào năng lực nghiên cứu. Cùng câu hỏi trên dành cho các cán bộ lãnh đạo tại các
trường đại học, 86% số người được hỏi cho rằng cần tập trung vào năng lực
chuyên môn, 94% cho rằng cần chú trọng năng lực giảng dạy và 96% cho rằng cần
chú trọng năng lực nghiên cứu (Bảng 3.16). Có thể thấy quan điểm của ĐNGV và
cán bộ lãnh đạo của trường đại học có sự khác biệt rõ rệt. Phần lớn giảng viên cho
rằng cần chú trọng đào tạo năng lực chuyên môn, trong khi phần lớn cán bộ lãnh
đạo, quản lý trường đại học cho rằng cần ưu tiên tập trung đào tạo nâng cao năng
lực nghiên cứu và năng lực giảng dạy.
Bảng 3.16. Kết quả khảo sát nội dung cần chú trọng nhất trong đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học
Năng lực Giảng viên Tỷ lệ (%) Lãnh đạo tại trường Tỷ lệ (%)
Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu Tổng số phiếu 484 424 392 660 73,3% 64,2% 59,4% 100% 172 188 192 200 86% 94% 96% 100%
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả
Về đánh giá chất lượng giảng viên sau khi được cử đi đào tạo, theo kết quả
khảo sát của tác giả đối với 660 GVĐH, có tới 484 phiếu (73%) cho rằng cơ quan
không thực hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi được gửi đi đào tạo, bồi
dưỡng (Phụ lục 02, Mẫu phiếu 01), có tới 336 phiếu (51%) cho rằng mức độ đào
tạo, bồi dưỡng GVĐH là tương đối thường xuyên (so với 14% tổng số phiếu cho
rằng rất thường xuyên và 27% tổng số phiếu thừa nhận mức độ thường xuyên). Kết
quả khảo sát cho thấy việc ĐTBD giảng viên đã được các trường đại học chú
trọng, thể hiện ở mức độ thường xuyên nói trên. Tuy nhiên, chất lượng giảng viên
hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Vậy nguyên nhân do đâu.
Tác giả luận án đã thực hiện khảo sát để tìm ra các nguyên nhân này với
câu hỏi “Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên
nhân chính nào?” đối với ba nhóm đối tượng là GVĐH, cán bộ giữ vị trí lãnh đạo
tại trường đại học (lãnh đạo trường, khoa, bộ môn) và người làm công tác QLNN
đối với trường đại học (Bộ GD&ĐT, đơn vị quản lý ĐTBD thuộc Bộ). Kết quả
khảo sát được tổng hợp tại Bảng 3.17.
124
Bảng 3.17. Kết quả khảo sát nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học ĐVT: %
Các nguyên nhân
Trung bình
Giảng viên 45,45
Lãnh đạo Trường/Khoa/ Bộ môn 70,00
Cơ quan QLNN 39,53
51,66
pháp ĐTBD
69,69
100,00
53,48
74,39
39,39
20,00
39,53
32,97
87,87
60,00
48,83
65,57
51,50
10,00
45,34
35,68
39,39
60,00
46,51
48,63
Nội dung ĐTBD giảng viên Phương giảng viên Cơ sở và đội ngũ ĐTBD giảng viên Chính sách của cơ quan triển QLNN về phát giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả
Kết quả khảo sát tại Bảng 3.17 cho thấy phần lớn các cán bộ lãnh đạo tại
các trường đại học nhận định nguyên nhân chính của những hạn chế trong phát
triển giảng viên là do phương pháp ĐTBD giảng viên (100%), do nội dung ĐTBD
chưa phù hợp và do chính sự nỗ lực cố gắng học tập của ĐNGV. Một nguyên nhân
khác là do tình trạng thiếu kiểm soát chất lượng đào tạo, do các trường không thực
hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi được cử đi đào tạo như đã nêu ở trên.
Bản thân ĐNGV thì cho rằng chính sách của cơ quan QLNN về phát triển giảng
viên là nguyên nhân quan trọng nhất tác động đến chất lượng ĐNGV. Thực tế cho
thấy chính sách ĐTBD đội ngũ GVĐH của Nhà nước còn bất cập và chưa phát huy
hết hiệu quả. Các Đề án 911 và 599 nói trên còn quá tập trung vào mục tiêu số
lượng, chưa quan tâm đến tiêu chuẩn cử đi đào tạo và kết quả đào tạo, hay nói cách
khác là chất lượng của giảng viên sau khi được cử đi đào tạo.
Đội ngũ GVĐH được biết đến như một lực lượng cán bộ học thuật có trình
độ, chất lượng cao. Ngoài việc dạy học, GVĐH phải chủ động tham gia NCKH để
bổ sung, cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo. Tại Việt
Nam, những năm gần đây, mặc dù đã có sự quan tâm của nhiều cơ sở GDĐH công
lập trong việc tạo cơ chế khuyến khích các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và
125
công bố các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhưng kết quả vẫn còn hạn
chế, thậm chí có xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn so với nhiều quốc gia trong
khu vực và trên thế giới. Theo thống kê của Dự án Trắc lượng khoa học Việt Nam
(Scientometrics for Vietnam-S4VN), cập nhật từ cơ sở dữ liệu Web of Science của
ISI (Viện thông tin khoa học Mỹ), tính chung cả giai đoạn 2011-2015, tổng số
công bố quốc tế của Việt Nam trên các tạp chí ISI đạt mức 11.791 bài. Việt Nam
xếp ở vị trí thứ 4 trong khu vực ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Từ
năm 2011-2015, Singapore đã có 68.516 công bố quốc tế, cao gấp gần 6 lần Việt
Nam. Thái Lan, nước xếp ở vị trí thứ 3 trong khu vực cũng có 38.953 công bố
quốc tế ISI, cao gấp 3 lần so với Việt Nam. Nếu so sánh với một số quốc gia khác
ngoài ASEAN, số lượng các công bố quốc tế ISI của Việt Nam rất thấp. Trong giai
đoạn 2011-2015, Hàn Quốc có tới 298.986 công bố quốc tế, cao gấp 25 lần so với
Việt Nam. Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần dân số Singapore, gấp 3 lần
Malaysia và gần gấp 1,5 lần Thái Lan. Hàn Quốc. Không chỉ ít về số lượng, chỉ số
ảnh hưởng của các công trình NCKH của Việt Nam cũng thấp nhất so với các
nước trong khu vực.
Theo Báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2016/2017” của Diễn đàn
Kinh tế thế giới (WEF) được thực hiện với 138 nước, tính hiệu quả của hệ thống
GDĐH của Việt Nam được xếp ở vị trí 83/138, sau Xinh-ga-po (thứ 1), Ma-lai-xi-a
(thứ 41), Phi-lip-pin (thứ 58), Thái Lan (thứ 62), In-đô-nê-xi-a (thứ 63). Điều đáng
nói là, trong số 12 tiêu chí then chốt giúp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền
kinh tế, sức khỏe và giáo dục cơ sở được WEF xếp vào tiêu chí thứ 4, chất lượng
GD&ĐT đại học xếp tiêu chí thứ 5 [136].
Một số thông tin nêu trên chưa phản ánh đầy đủ và thực chất về chất lượng
của NNL GVĐH công lập của Việt Nam, nhưng cũng là những tín hiệu cảnh báo
QLNN về phát triển NNL giảng viên đại học công lập ở Việt Nam cần có các giải
pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ GVĐH công lập.
3.3.6. Thực trạng hỗ trợ và huy động các nguồn lực phát triển nguồn nhân lực
giảng viên đại học công lập
Liên quan đến chính sách hỗ trợ và huy động các nguồn lực phát triển NNL
GVĐH công lập, Điều 12, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định: “Tăng ngân sách
nhà nước đầu tư cho GDĐH; đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở
126
GDĐH chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ
bản, các ngành công nghệ cao và ngành KTXH then chốt đạt trình độ tiên tiến của
khu vực và thế giới; thực hiện xã hội hóa GDĐH”. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về “Tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập” cũng đã đặt ra nhiệm vụ: Nhà nước tập
trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, NNL chất lượng cao đối với các trường đại
học công lập ở một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất phù hợp là điều kiện cần thiết để các
cơ chế, chính sách pháp luật về GDĐH được triển khai trên thực tế. Các chương
trình ĐTBD ĐNGV ngắn hạn, dài hạn ở trong và ngoài nước, quỹ lương và nguồn
kinh phí dành cho việc thu hút, giữ chân giảng viên tài năng yêu cầu phải được
dành một nguồn kinh phí ngân sách nhất định, trong điều kiện ngân sách nhà nước
còn khó khăn. Việt Nam hiện có mức chi cho giáo dục khoảng 20% ngân sách,
tương đương 5% GDP, xét về tỷ trọng thì cao hơn mức chi của Hoa kỳ (13% ngân
sách), Singapore (18% ngân sách), Thái Lan (16% ngân sách) nhưng xét về giá trị
tuyệt đối thì con số thực tế rất nhỏ bé do ngân sách của nước ta còn hạn hẹp.
Hiện nay, Nhà nước đang tiếp tục đầu tư trực tiếp, dành một phần ngân sách
cho hoạt động ĐTBD đội ngũ GVĐH công lập, nhằm điều chỉnh cơ cấu đào tạo
giảng viên hướng theo yêu cầu phát triển KTXH và đặt trong mối quan hệ chặt chẽ
với doanh nghiệp và các tổ chức có nhu cầu nhân lực lớn. Như phần trên đã phân
tích, Nhà nước đã bố trí kinh phí ngân sách để thực hiện các đề án ĐTBD NNL
GVĐH công lập, trong đó có Đề án 599 và Đề án 911. Việc thực hiện các đề án
nêu trên, tuy một số mục tiêu không đạt được, nhưng cũng đã góp phần vào việc
phát triển đội ngũ GVĐH công lập về quy mô và chất lượng.
Ngoài kinh phí ngân sách, Nhà nước chủ trương xã hội hóa GDĐH để huy
động thêm nguồn lực từ xã hội và từ người học phục vụ công tác phát triển ĐNGV.
Trong bối cảnh hiện nay, việc điều chỉnh cơ cấu nguồn lực tài chính, nâng cao vai
trò đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH là rất cần thiết. Đây là động lực thúc
đẩy các cơ sở đại học chuyển đổi cách thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu thực tế
trong quá trình phát triển. Hiện nay mô hình hợp tác trường đại học-doanh nghiệp-
chính phủ là xu thế tất yếu khi kết nối giữa công việc đào tạo và nghiên cứu thích
127
hợp với nhu cầu xã hội, doanh nghiệp tài trợ cho đại học thông qua hỗ trợ nguồn
lực tài chính để đổi lấy NNL trí thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Quan điểm của Nhà nước ta hiện nay về điều chỉnh cơ cấu nguồn tài chính
đầu tư cho GDĐH là phải đảm bảo được việc thu hút, quản lý, sử dụng nguồn lực
tài chính hiệu quả, thúc đẩy phát triển GDĐH phục vụ cho mục tiêu phát triển
KTXH. Đầu tư từ ngân sách nhà nước phải được cơ cấu lại theo hướng ưu tiên,
trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên những ngành đào tạo khoa học cơ bản, có nhu cầu
xã hội hạn chế, khả năng xã hội hóa không cao, trong khi tạo điều kiện để khu vực
tư nhân tham gia, giảm gánh nặng cho khu vực nhà nước. Bên cạnh đó, cần tăng
cường đầu tư tài chính công cho việc xây dựng cơ sở vật chất trường lớp để cải
thiện chất lượng, trong khi các khoản chi thường xuyên cần được hỗ trợ từ các
nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước, từ nguồn thu của các trường đại học.
Thực tiễn phát triển GDĐH ở những nước tiên tiến trên thế giới và trong
khu vực đã cho thấy, tự chủ đại học là xu hướng tất yếu. Thông qua việc ban hành
Nghị định 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015, về quy định cơ chế tự chủ đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị quyết 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014, về việc
thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục công lập, giai đoạn
2014-2017, Nhà nước đã xác định tự chủ đại học là xu hướng tất yếu và các trường
đại học công lập buộc phải thích nghi với môi trường hoạt động mới: đào tạo gắn
với nhu cầu xã hội hay nói cách khác là nhu cầu thị trường. Chính phủ cũng đã ban
hành Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
Theo đó, các trường đại học được giao quyền tự chủ cả về chuyên môn, tổ chức
nhân sự, tài chính và tăng cường trách nhiệm giải trình; giảm mạnh sự can thiệp
hành chính của các cơ quan chủ quản, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản.
Trên thực tế, do kinh phí ngân sách còn hạn chế, đầu tư của Nhà nước cho
việc xây dựng cơ sở vật chất cho các trường đại học công lập khu vực ĐBSH trong
thời gian qua vẫn còn hạn chế và cần được tăng cường hơn trong thời gian tới. Ở
nhiều trường đại học, ngay cả Giáo sư, Phó Giáo sư cũng chưa có phòng làm việc
riêng, tình trạng chung là mỗi khoa có vài ba phòng, mỗi bộ môn chỉ có 1-2 phòng
làm việc, giảng viên đến trường nếu không lên lớp giảng dạy thì không có đủ
không gian để làm việc thực sự khi 5-6 người ngồi chung phòng.
128
Tác giả Đinh Thị Nga (2017) trong bài báo “Đầu tư của Nhà nước cho giáo
dục, đào tạo: Thực trạng và một số đề xuất” cho rằng cơ cấu đầu tư cho giáo dục,
đào tạo ở nước ta chưa hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, giữa các bậc
học và nội dung chi trong từng bậc học [141]. Tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên
dưới 82% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường
xuyên, chi cho con người chiếm 80% tổng chi, còn lại là chi cho hoạt động dạy
học, nâng cao chất lượng giáo trình. Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp so với
nhu cầu nâng cao cơ sở trường học, mua sắm thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm.
Trong cơ cấu chi chưa có sự tương xứng giữa các bậc học. Trên thực tế ngân sách
nhà nước dành cho GDĐH còn hạn chế với 12% tổng ngân sách dành cho GD, chỉ
bằng gần một nửa so với kinh phí dành cho bậc tiểu học. Do mức chi chung cho
GDĐH còn thấp, kinh phí ngân sách dành cho phát triển NNL GVĐH cũng sẽ bị
hạn chế.
3.3.7. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong phát triển
nguồn nhân lực giảng viên đại học
Theo Nghị định số 69/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ GD&ĐT, Thanh
tra Bộ có chức năng thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong thực hiện QLNN
về giáo dục, trong đó có GDĐH.
Thanh tra giáo dục có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm nề nếp, kỷ
cương, nâng cao chất lượng giáo dục của toàn ngành. Thời gian vừa qua, Thanh tra
giáo dục có nhiều đổi mới theo Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục. Hoạt động thanh tra giáo
dục đã chuyển mạnh từ thanh tra chuyên môn sang thanh tra quản lý nhằm tác
động vào cả hệ thống. Đội ngũ cán bộ thanh tra, cộng tác viên thanh tra được bổ
sung, kiện toàn, nâng cao chất lượng. Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại,
giải quyết tố cáo từng bước được chuẩn hóa. Tuy vậy, tổ chức và hoạt động thanh
tra giáo dục cũng còn không ít bất cập, nhất là trong bối cảnh đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đổi mới hoạt động ngành Thanh tra hiện nay.
Về thanh tra nội bộ ở cấp cơ sở, Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư số
51/2012/TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra
của cơ sở GDĐH. Hoạt động thanh tra của trường là hoạt động thanh tra nội bộ,
129
giúp Giám đốc, Hiệu trưởng, Viện trưởng (sau đây gọi chung là Hiệu trưởng) phát
hiện sơ hở trong cơ chế quản lý của trường để kiến nghị biện pháp khắc phục;
phòng ngừa, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, nội quy, quy chế của trường;
giúp đơn vị, tổ chức, cá nhân trong trường thực hiện chính sách pháp luật về giáo
dục và chính sách, pháp luật liên quan; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của trường theo quy định
của pháp luật. Trong các năm học, Bộ GD&ĐT đều ban hành các văn bản hướng
dẫn thực hiện công tác thanh tra và văn bản chỉ đạo ở nhiều mặt hoạt động cụ thể.
Các cơ sở GDĐH cũng đã ban hành nhiều văn bản triển khai các văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn của Bộ về công tác thanh tra.
Báo cáo của Hội nghị tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra của Bộ
GD&ĐT tổ chức tháng 8/2017 nêu rõ: trong hoạt động thanh tra hành chính và
hoạt động thanh tra chuyên ngành, từ 01/7/2011 đến 30/6/2017, Bộ GD&ĐT đã
tiến hành 32 cuộc thanh tra hành chính (26 cuộc thanh tra theo kế hoạch, 6 cuộc
thanh tra đột xuất); tiến hành 86 cuộc thanh tra chuyên ngành. Theo đánh giá, công
tác thanh tra hành chính được thực hiện ngày càng đi vào chiều sâu, có hiệu quả.
Hàng năm, Bộ GD&ĐT tổ chức các cuộc thanh tra về dạy thêm, học thêm, thu chi
đầu năm. Qua thanh tra đã phát hiện các sai phạm và kịp thời ngăn ngừa, chấn
chỉnh sai phạm.
Tuy nhiên, theo Thanh tra Bộ GD&ĐT, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cơ
bản như: nhận thức về vị trí, vai trò, cách thức tổ chức và hoạt động của thanh tra ở
nhiều nơi còn hạn chế, nhất là ở các cơ sở GDĐH. Nhiều cơ sở GDĐH vẫn dùng
thanh tra chủ yếu để giám sát, duy trì nề nếp dạy học mà chưa chú trọng thanh tra
mang tính chất quản lý. Việc sử dụng một số công cụ quan trọng như xử phạt vi
phạm hành chính chưa được triển khai ở nhiều nơi. Lực lượng cán bộ thanh tra còn
mỏng, tính chuyên nghiệp chưa cao. Đội ngũ thanh tra nội bộ trong cơ sở GDĐH
thiếu ổn định, thiếu chuyên nghiệp, chưa rõ về quyền và nhiệm vụ; việc thanh tra
cơ sở GDĐH của các bộ, tỉnh còn lúng túng, chưa thường xuyên…
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa bao quát hết nội dung quản lý
GDĐH, chưa có chiến lược tổng thể mà chủ yếu xử lý các vụ việc do dư luận phản
ánh; chế tài xử lý quá nhẹ, không có tác dụng ngăn chặn, răn đe, chưa kịp thời phát
hiện các sai sót, khiếm khuyết của các quy định pháp luật GDĐH để điều chỉnh, bổ
130
sung kịp thời.
Theo kết quả khảo sát của tác giả đối với 200 cán bộ lãnh đạo tại một số
trường đại học công lập thuộc Bộ khu vực ĐBSH, với câu hỏi: “Để nâng cao hiệu
quả việc phát triển GVĐH cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây?”, 188 cán
bộ trong số 200 cán bộ được hỏi (94%) cho rằng cần tập trung vào vấn đề kiểm tra,
đánh giá (Phụ lục 02, Mẫu phiếu 02). Thực tế này cho thấy trong triển khai thực
hiện chính sách phát triển ĐNGV, vấn đề kiểm tra, đánh giá đang được các nhà
quản lý đặt quan tâm hàng đầu. Đây cũng là điểm yếu cần được tăng cường hơn
trong thời gian tới để đảm bảo các chính sách phát triển giảng viên được thực hiện
một cách có hiệu quả và có hiệu lực thi hành cao.
3.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.4.1. Những kết quả đạt được
3.4.1.1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển
giảng viên đại học với số lượng phong phú, mang tính hệ thống
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QLNN về phát
triển NNL GVĐH, trong đó có GVĐH công lập, gồm các nội dung về quy hoạch,
kế hoạch hóa, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm định chất
lượng giáo dục, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thời gian qua đã được xây
dựng và ban hành với số lượng ngày càng nhiều và có tính hệ thống, toàn diện hơn.
Tiếp sau Luật Giáo dục đại học được ban hành năm 2012, nhiều nghị định, thông
tư, quyết định, chỉ thị và văn bản hướng dẫn quan trọng khác đã được ban hành (đã
được trình bày tại mục 3.3.2).
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cơ chế tự chủ đại
học hiện nay đang tiếp tục được hoàn thiện. Các văn bản này đã góp phần hình
thành môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất để các cơ sở GDĐH tự chủ trong
các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản,
đào tạo, KHCN, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng đội ngũ GVĐH.
Về ĐNGV, quá trình xây dựng và ban hành Luật Viên chức 2010; Luật
GDĐH 2012, cùng với các chiến lược, quy hoạch liên quan đến GDĐH, các đề án
đào tạo, bồi dưỡng đã cho thấy có sự cải cách mạnh mẽ, sự quyết tâm của Nhà
131
nước và ngành GD&ĐT trong đổi mới bộ máy và thể chế quản lý, đầu tư nguồn
lực và chú trọng phát triển năng lực GVĐH bước đầu thích ứng với các chuẩn mực
quốc tế. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật điều chỉnh các nội dung về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý viên chức; quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập; chế độ làm việc đối
với giảng viên; xử lý kỷ luật viên chức, v.v., đã góp phần làm rõ và tạo cơ sở pháp
lý để các cơ sở GDĐH có căn cứ cụ thể trong việc triển khai thực hiện thống nhất
chính sách của Nhà nước về phát triển NNL GVĐH công lập trong toàn hệ thống.
3.4.1.2. Thực hiện được một số mục tiêu trong các quy hoạch, kế hoạch của Bộ
GD&ĐT liên quan đến phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập
Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn
2006-2020 xác định mục tiêu cho năm 2020 là 21% tổng số GVĐH có trình độ tiến
sĩ. Trên thực tế, tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ trên tổng số giảng viên của các
trường đại học công lập trực thuộc Bộ tại khu vực ĐBSH năm học 2016-2017 là
26,9%, cao hơn mặt bằng chung của cả nước là 22,6%. Về cơ cấu đội ngũ GVĐH
công lập trực thuộc Bộ khu vực ĐBSH theo giới tính, năm học 2015-2016, tỷ lệ
giảng viên nữ là 53,95% trong tổng số GVĐH, năm học 2016-2017, tỷ lệ này là
52,02%, cho thấy có sự cân bằng hơn về giới trong ĐNGV của khu vực. Số lượng
giảng viên các trường đại học công lập trực thuộc Bộ tại các tỉnh/thành thuộc khu
vực ĐBSH (47 trường) tiếp tục được gia tăng và củng cố về số lượng. Năm học
2016-2017, tổng số lượng giảng viên các trường đại học công lập trực thuộc Bộ là
18.965 giảng viên, tăng 5,4% so với năm học 2012-2013 (17.995 giảng viên).
3.4.1.3. Tuyển dụng được đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu cơ bản về năng
lực, trình độ
Yêu cầu về tiêu chuẩn năng lực, trình độ của giảng viên được quy định tại
Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của Bộ
GD&ĐT và Bộ Nội vụ. Thông tư liên tịch này quy định mã số và tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập, bao gồm:
đại học quốc gia, đại học vùng, học viện, trường đại học công lập thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân. Thông tư liên tịch này là căn cứ để thực hiện viện tuyển dụng
viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập thuộc Bộ của khu vực ĐBSH
132
trong thời gian qua.
3.4.1.4. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần củng cố, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông
Hồng
Trong thời gian qua, một số lượng lớn GVĐH công lập khu vực ĐBSH đã
được cử đi đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở trong nước và ở nước ngoài, góp phần
nâng dần chuẩn giảng viên có trình độ tiến sĩ trong toàn hệ thống theo các đề án có
sử dụng ngân sách nhà nước (Đề án 911 và Đề án 599), các chương trình học bổng
theo các hiệp định hợp tác giáo dục song phương giữa Chính phủ Việt Nam và
Chính phủ các nước. Tính trung bình tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ/tổng số
giảng viên của các trường đại học công lập trực thuộc Bộ năm học 2015-2016 đạt
23%, năm học 2016-2017 đạt 26,5%. Số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT cho thấy
đã có sự quan tâm của Nhà nước trong việc đầu tư nâng cao trình độ đội ngũ
GVĐH công lập khu vực ĐBSH trong thời gian qua, thể hiện ở xu hướng gia tăng
của tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ, thạc sĩ trên tổng số giảng viên cũng như số
lượng tuyệt đối về ĐNGV có học vị tiến sĩ, thạc sĩ tại các trường trong khu vực.
Cụ thể, năm học 2016-2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ của các trường
đại học trực thuộc Bộ tại khu vực ĐBSH là 4.876 giảng viên, tăng 41,6% so với
năm học 2013-2014; số giảng viên có trình độ thạc sĩ năm học 2016-2017 là
11.375 giảng viên, tăng 13,9% so với năm học 2013-2014 (Phụ lục 3).
Phần lớn GVĐH đều đã qua ĐTBD nghiệp vụ sư phạm. Trình độ tin học và
ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên. Đội ngũ nhà giáo nhìn chung có
ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt; hầu hết đều tận tuỵ với nghề,
cần cù chịu khó, có tinh thần trách nhiệm và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao
năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3.4.1.5. Việc huy động các nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực giảng viên
đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng bước đầu triển khai có hiệu quả
Sự hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất của Nhà nước đã góp phần hình thành một
số trường đại học nghiên cứu mũi nhọn tại khu vực ĐBSH, giúp nâng cấp và từng
bước hiện đại hóa cơ sở vật chất của các trường đại học công lập trong khu vực.
Quá trình xã hội hóa GDĐH vừa thu hút được sự tham gia đầu tư về nguồn lực
133
ngoài khu vực Nhà nước, vừa giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng
thời tạo đà cho việc nâng cao năng lực của các trường đại học trong thực hiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đặc biệt là về tài chính.
Nhà nước đã và đang tiếp tục dành một phần ngân sách để đầu tư trực tiếp
cho hoạt động ĐTBD đội ngũ GVĐH công lập trong khu vực, nhằm phát triển
ĐNGV đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH của khu vực. Nhà nước đã bố trí kinh
phí ngân sách để thực hiện các đề án đào tạo, bồi dưỡng NNL GVĐH công lập,
trong đó có Đề án 599 và Đề án 911. Việc thực hiện các đề án nêu trên tuy một số
mục tiêu chưa đạt được nhưng không thể phủ nhận bước đầu có kết quả tích cực,
góp phần phát triển đội ngũ GVĐH công lập về số lượng và chất lượng.
3.4.1.6. Công tác thanh tra, kiểm tra về phát triển nguồn nhân lực giảng viên
đại học công lập đã được sự quan tâm lớn hơn của các cấp quản lý và ngành
giáo dục
Thời gian vừa qua, hoạt động thanh tra giáo dục đã được Bộ GD&ĐT, các
Bộ chủ quản và các cơ sở GDĐH công lập quan tâm hơn. Thanh tra giáo dục có
nhiều đổi mới. Hoạt động thanh tra giáo dục đã chuyển mạnh từ thanh tra chuyên
môn sang thanh tra quản lý nhằm tác động vào cả hệ thống. Đội ngũ cán bộ thanh
tra, cộng tác viên thanh tra được bổ sung, kiện toàn, nâng cao chất lượng. Hoạt
động thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo từng bước được chuẩn hóa.
Các quy định pháp luật về công tác thanh tra, kiểm tra từng bước được hoàn thiện.
Trong các năm học, Bộ GD&ĐT đều ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
công tác thanh tra và văn bản chỉ đạo ở nhiều mặt hoạt động cụ thể. Các cơ sở
GDĐH cũng đã ban hành nhiều văn bản triển khai các văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản hướng dẫn của Bộ về công tác thanh tra. Tổ chức bộ máy của thanh
tra nội bộ ở cấp cơ sở (trường đại học) tiếp tục được kiện toàn.
3.4.2. Những hạn chế
3.4.2.1. Thể chế pháp luật về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công
lập còn phức tạp, chồng chéo, việc xây dựng còn chậm và bị động
Hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến phát triển NNL GVĐH công
lập được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản QLNN khác nhau,
từ Luật, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư
của các Bộ liên quan. Việc triển khai thực hiện các văn bản chưa có sự thống nhất
134
giữa các cơ quan dẫn tới những khó khăn trong thực hiện QLNN về phát triển
NNL GVĐH. Sự phối hợp giữa ngành Giáo dục và các Bộ/ngành, địa phương còn
chưa chặt chẽ, chưa tạo đủ điều kiện để các cơ sở đào tạo thực hiện đầy đủ quyền
và trách nhiệm tự chủ.
QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập cũng đang bị phân tán giữa các
cơ quan có chức năng QLNN về giáo dục và cơ quan chủ quản, cụ thể là giữa Bộ
GD&ĐT và các Bộ chuyên ngành, các địa phương. Bộ GD&ĐT, một mặt, là cơ
quan QLNN về giáo dục và đạo tạo, nhưng thường gặp nhiều khó khăn khi thực
hiện chức năng QLNN trong lĩnh vực đào tạo của mình với các trường thuộc
quyền quản lý của các Bộ khác. Mặt khác, Bộ lại trực tiếp quản lý nhiều trường
dẫn đến tình trạng ôm đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức
trách nhiệm của các trường đại học.
Tại Việt Nam tồn tại một thực tế là nhiều trường đại học trực thuộc các Bộ
chủ quản. Sự thiếu phối hợp giữa cơ quan Bộ làm chính sách (Bộ GD&ĐT) và các
Bộ chuyên ngành, cũng như chính quyền địa phương, dẫn đến sự bất hợp lý trong
công tác quy hoạch, kế hoạch hóa NNL GVĐH, sự thiếu nhất quán về chính sách
rất dễ xảy ra (đặc biệt là các quy định liên quan đến vị trí việc làm (Bộ Nội vụ làm
đầu mối), liên quan đến kinh phí (Bộ Tài chính làm đầu mối). Quy trình xây dựng
chính sách chưa tạo được động lực và tạo ra kênh thông tin tốt nhất để thu hút
cũng như tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính
sách là ĐNGV.
Việc xây dựng và ban hành các chính sách pháp luật về phát triển NNL
GVĐH còn bị động, cơ bản là dành ưu tiên để khắc phục những thiếu sót, hạn chế
trước mắt, để tránh một số hậu quả xấu, chứ chưa phải là hướng tới kết quả tích
cực, lâu dài và bền vững. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn
chậm, quá trình thực hiện văn bản phát sinh nhiều vấn đề phải điều chỉnh thường
xuyên cho thấy sự lúng túng, chưa sát với thực tế và chưa cụ thể hóa được chủ
trương, đường lối và quan điểm của Đảng về phát triển NNL GVĐH một cách kịp
thời, có hiệu quả.
Trong thời gian qua, mặc dù mang đặc thù nghề nghiệp là NNL chất lượng
cao vừa giảng dạy vừa NCKH, đội ngũ giảng viên lại được xếp làm một bộ phận
của đội ngũ viên chức. Do đó, QLNN về phát triển ĐNGV chịu sự điều chỉnh của
135
các văn bản quy phạm pháp luật đối với viên chức ngoài các quy định đặc thù đối
với nhà giáo ở bậc đại học. Thực tế này cho thấy hệ thống văn bản QLNN hiện
hành điều chỉnh phát triển NNL GVĐH chưa tính đến đặc thù nghề nghiệp của
giảng viên, do đó chưa tạo được động lực làm việc cho ĐNGV, chưa khai thác và
phát huy tối đa tiềm năng, hiệu quả lao động, sáng tạo của ĐNGV.
3.4.2.2. Chưa xây dựng được quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giảng viên
đại học công lập gắn với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của khu
vực.
Việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển đội ngũ GVĐH công lập
Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. Các văn bản QLNN liên quan đến công tác
quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL GVĐH còn có sự chênh lệch và thiếu thống
nhất về mục tiêu và nhiều nội dung khác. Công tác kế hoạch hóa NNL GVĐH đã
được triển khai ở quy mô toàn quốc nhưng chưa được thực hiện đối với khu vực
ĐBSH. Việc xây dựng kế hoạch được thực hiện thông qua tổng hợp kế hoạch phát
triển đội ngũ giảng viên của các trường đại học, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa
Bộ GD&ĐT với các Bộ, ngành, địa phương, chưa xuất phát từ nhu cầu nhân lực
của các ngành nghề kinh tế, kỹ thuật và nhu cầu phát triển KTXH của các địa
phương trong khu vực ĐBSH.
Công tác quy hoạch, kế hoạch hóa phát triển NNL GVĐH ở tầm vĩ mô trên
phạm vi toàn khu vực ĐBSH chưa được thực hiện dẫn đến tình trạng trên thực tế
tồn tại sự mất cân đối về cơ cấu giảng viên theo trình độ. Ngay giữa các cơ sở
GDĐH cũng có sự chênh lệch rất lớn về số lượng ĐNGV trình độ cao. Một số ít
trường có đủ số lượng giảng viên có học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư, hoặc có học vị
tiến sĩ theo quy định, nhưng với nhiều trường đào tạo các ngành nghề kinh tế, kỹ
thuật quan trọng, lực lượng giảng viên có học hàm, học vị cao lại rất mỏng.
3.4.2.3. Chính sách tuyển dụng giảng viên chưa khuyến khích các trường đại
học đa dạng hóa nguồn tuyển dụng giảng viên, chưa tính đến các yếu tố đặc thù
của môi trường hàn lâm
Theo quy định của Luật Viên chức 2010, việc tuyển dụng hiện nay vẫn còn
bó hẹp trong tuyển dụng giảng viên là người Việt Nam, không thu hút được ứng
viên là người nước ngoài có năng lực và trình độ, có kinh nghiệm làm việc trong
môi trường quốc tế.
136
Tập quán “tự cung tự cấp” làm cho lực lượng của các trường ngày càng yếu
đi. Phần lớn các trường đại học, đặc biệt là những trường lâu năm, thường chỉ giữ
lại những sinh viên do chính trường mình đào tạo ra để làm giảng viên, trừ một số
trường hợp trúng tuyển đi học nước ngoài sau khi tốt nghiệp đại học. Trong suốt
thời gian học đại học, cao học và làm nghiên cứu sinh, những sinh viên này chỉ
biết các thầy ở trường mình, hầu như không tiếp xúc với những chuyên gia khác,
những trường phái khác. Điều này dẫn đến việc các thế hệ giảng viên và học trò
suy giảm dần năng lực sáng tạo, năng lực tiếp thu cái mới, từ đó làm suy giảm
năng lực chung của trường đại học.
Do quy định của Nhà nước, các trường đại học chưa thể đa dạng hóa nguồn
tuyển dụng giảng viên, chưa tuyển dụng được những người xuất sắc làm giảng
viên. Trong khi đó, nhiều nước khác tại khu vực đã cho phép các trường được linh
hoạt tuyển dụng giảng viên tài năng có quốc tịch nước ngoài, để tạo ra môi trường
làm việc của ĐNGV có sự cọ xát, giao thoa giữa các nền giáo dục, cho phép sự
giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về những thực tiễn tốt nhất (best practices)
trong ngành đang được áp dụng.
Nhà nước chưa xây dựng quy trình tuyển dụng dành riêng cho GVĐH. Quy
trình hiện tại áp dụng đối với tuyển dụng viên chức hầu như không có các yếu tố
đặc thù cho môi trường hàn lâm, trong khi tính chất công việc của các nhân sự hàn
lâm lại rất khác so với công việc thông thường của một viên chức nhà nước. Chính
sách tuyển dụng chưa coi trọng tiêu chí năng lực NCKH, còn tập trung nhiều và
nặng về năng lực chuyên môn, năng lực giảng dạy. Các nội dung liên quan đến thi
tuyển giảng viên còn mang nặng tính hành chính, căn cứ vào hồ sơ lý lịch chung,
tiêu chí tuyển chọn cào bằng, chưa nhấn mạnh đến các yêu cầu đặc thù của GVĐH
là một tổ hợp năng lực chuyên môn, giảng dạy và NCKH. Đặc biệt, trình độ ngoại
ngữ cũng là yếu tố góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa chuẩn GVĐH. Việc
quy định đầu vào của GVĐH ở trình độ thạc sĩ ngày càng trở nên lạc hậu so với với
yêu cầu về chất lượng đào tạo NNL chất lượng cao hiện nay.
3.4.2.4. Việc sử dụng đội ngũ giảng viên đại học công lập trên thực tế chưa sát
với yêu cầu của vị trí việc làm
Theo quy định pháp luật, việc phân công nhiệm vụ cho viên chức phải bảo
đảm phù hợp với chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý được bổ nhiệm và yêu
137
cầu của vị trí việc làm. Trên thực tế, việc triển khai tại các trường đại học chưa
tuân thủ đúng theo quy định. Công tác sử dụng đội ngũ GVĐH theo năng lực chưa
được tạo thành một quy trình chuẩn hóa, thiếu tính chủ động ở cấp khoa và tổ bộ
môn, chưa tạo được động lực cho ĐNGV phấn đấu và phát huy tiềm năng của
mình. Việc phân công nhiệm vụ cho giảng viên chưa đúng yêu cầu của vị trí việc
làm. Việc phân công cho các giảng viên thực hiện các đề tài NCKH còn mang tính
hình thức, chạy theo số lượng, chưa chú trọng tới chất lượng công trình NCKH và
chưa khuyến khích, tạo động lực để ĐNGV chủ động, say sưa làm NCKH. Do quy
mô học viên tăng nhanh, các trường phân công giảng viên đi dạy quá nhiều, hoạt
động nghiên cứu của giảng viên nói chung trên thực tế khá hạn chế do lịch giảng
dạy được phân bổ, phân công không đồng đều, gây quá tải đối với giảng viên,
khiến cho họ không có đủ thời gian đầu tư NCKH. Do phân công chưa sát với yêu
cầu vị trí việc làm, việc quản lý, sử dụng đội ngũ GVĐH hiện nay chưa phát huy
hết tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, chưa kích thích được sự phấn đấu
trong chuyên môn; chưa sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu
kém.
3.4.2.5. Tiền lương và phụ cấp đối với nguồn nhân lực giảng viên đại học chưa
phù hợp với tính chất đặc thù nghề nghiệp, chưa khuyến khích được giảng viên
đại học tâm huyết với nghề
Luật Giáo dục và nhiều văn bản quản lý của Nhà nước đã quy định chính
sách lương và các chế độ phụ cấp đối với nhà giáo. Tuy nhiên, từ quan điểm của
Đảng đến những quy định cụ thể của Nhà nước về chính sách lương, phụ cấp đối
với nhà giáo vẫn còn khoảng cách lớn. Đến nay, lương của nhà giáo vẫn được xếp
chung trong thang bậc lương hành chính sự nghiệp, chưa được xếp cao nhất trong
hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp như Nghị quyết Trung ương 2
Khóa VIII đã đề ra.
Chế độ chính sách cho đội ngũ nhà giáo hiện còn nhiều hạn chế, vướng
mắc, chưa giải quyết triệt để bất hợp lý trong hệ thống thang, bảng lương. Chế độ
phụ cấp cho nhà giáo, thu nhập của nhà giáo ở các trường công lập và ngoài công
lập có khác biệt lớn, trong đó, giảng viên mới vào nghề hưởng lương bậc 1 là 2,34
x 1.210 = 2.831.000 đồng. Sau 3 năm cống hiến mới tăng tiếp 1 bậc lương là 2,67
x 1210 = 3.230.000 đồng. Nếu cộng thêm 25% phụ cấp giảng dạy thì con số này
138
cũng tăng không đáng kể. Do đó, đời sống của phần đông nhà giáo vẫn còn khó
khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công
tác, thậm chí ở một số thành phố lớn đã có hiện tượng giáo viên xin nghỉ việc,
chuyển chỗ, làm nghề khác. Chính sách tiền lương chưa tạo động lực để khuyến
khích giảng viên nâng cao nghiệp vụ sư phạm, tâm huyết với nghề, yên tâm cống
hiến, tự nâng cao năng lực NCKH. Đội ngũ GVĐH là lực lượng lao động chất
lượng cao, làm việc trong môi trường hàn lâm, vừa làm nhiệm vụ giảng dạy, vừa
làm nhiệm vụ NCKH, cần có chế độ lương tốt hơn các ngành nghề khác.
3.4.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đại học công lập chưa chú trọng
đến đánh giá và sử dụng hợp lý giảng viên sau khi được đào tạo
Từ kết quả khảo sát của tác giả luận án, có thể thấy một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất của những hạn chế trong phát triển giảng viên là do
phương pháp, nội dung ĐTBD giảng viên chưa phù hợp và do chính sự nỗ lực cố
gắng học tập của ĐNGV. Nhiều cơ sở GDĐH không thực hiện nghiêm túc quy
định của Nhà nước là phải đánh giá chất lượng giảng viên sau khi được cử đi đào
tạo (Điều 30 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức).
Việc triển khai các Đề án 911 và 599 về đào tạo ĐNGV còn quá tập trung
vào các mục tiêu về số lượng, chưa quan tâm đến kết quả đào tạo, hay nói cách
khác là chất lượng của giảng viên sau khi được cử đi đào tạo. Việc tuyển chọn ứng
viên để cử đi đào tạo chưa nghiêm, nhiều ứng viên được chọn không đạt chuẩn kỹ
năng và ngoại ngữ. Một bất cập lớn khác trong ĐTBD giảng viên là chưa quan tâm
đến thu hút, sử dụng lưu học sinh sau khi tốt nghiệp, hoặc để xảy ra tình trạng
người học được Nhà nước đầu tư tốn kém, cử đi học nhưng sau khi về nước lại
không phát huy được năng lực của mình, không có môi trường để nghiên cứu tiếp,
nhiều người ở lại nước ngoài sau khi học hoặc chuyển việc làm khi về nước.
Không ít cán bộ, giảng viên được cử đi đào tạo ở nước ngoài sẵn sàng chấp nhận
bỏ tiền ra bồi hoàn để ở lại nước ngoài làm việc. Thực tế cho thấy hiệu quả của
chính sách cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn, còn kẽ hở và cần phải được rà soát, điều chỉnh.
139
3.4.2.7. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng viên đại học
công lập còn mang tính hình thức
Bộ GD&ĐT là cơ quan có trách nhiệm chính trong việc thanh tra, kiểm tra,
đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo ở các cơ sở GDĐH. Thời gian qua, Bộ
GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản trong đó có các quy định, tiêu chuẩn liên quan
đến công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng GDĐH. Bộ có đơn vị chuyên
trách thực hiện nhiệm vụ kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục là Cục Khảo
thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (theo Nghị định mới số 69/2017/NĐ-CP
ngày 25/5/2017 được đổi tên là Cục Quản lý chất lượng). Các trung tâm đảm bảo
chất lượng cũng được thành lập ở hầu hết các trường đại học và thực hiện báo cáo
tự đánh giá chất lượng.
Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng phát triển nhân lực và sử dụng nhân lực
vẫn chưa được thực hiện một cách hệ thống và hiệu quả. Các tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng chủ yếu mang tính định tính, cơ sở để đánh giá chưa rõ ràng, thiếu các
chỉ tiêu mang tính định lượng; nặng về đánh giá đầu vào. Về cơ bản, việc đánh giá
vẫn mang tính nội bộ, thiếu các tổ chức kiểm định chất lượng độc lập.
Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức quy định: việc đánh giá phải căn cứ vào
chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Việc đánh giá cần
làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại, hạn chế về phẩm chất, năng lực, trình độ của
cán bộ, công chức, viên chức. Cần bảo đảm khách quan, công bằng, chính xác và
không nể nang, trù dập, thiên vị, hình thức.
Tuy nhiên, đối với đánh giá cuối năm học, việc tự đánh giá, đánh giá của
đồng nghiệp và cấp quản lý trực tiếp còn thiếu các tiêu chí đo lường cụ thể nên khả
năng minh chứng cho các kết luận đánh giá còn thiếu rõ ràng. Trên thực tế, giảng
viên được đánh giá giống như đánh giá viên chức với các mức hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về
năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, tỷ lệ hoàn thành tốt nhiệm vụ khá
cao nhưng lại không rõ đặc thù nghề nghiệp, không đánh giá được cụ thể chất
lượng giảng dạy và NCKH của GVĐH.
Về công tác thanh tra, kiểm tra, theo báo cáo của Thanh tra Bộ GD&ĐT tại
140
Hội nghị tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra của Bộ tổ chức tháng 8/2017, vẫn
còn một số tồn tại, hạn chế cơ bản như: nhận thức về vị trí, vai trò, cách thức tổ
chức và hoạt động thanh tra ở nhiều nơi còn hạn chế, nhất là ở các cơ sở GDĐH.
Nhiều cơ sở GDĐH vẫn dùng thanh tra chủ yếu để giám sát, duy trì nề nếp dạy học
mà chưa chú trọng thanh tra mang tính chất quản lý. Đội ngũ thanh tra nội bộ trong
cơ sở GDĐH thiếu ổn định, thiếu chuyên nghiệp; việc thanh tra cơ sở GDĐH của
các Bộ, tỉnh còn lúng túng, chưa thường xuyên. Hoạt động kiểm tra, giám sát chưa
bao quát hết nội dung quản lý GDĐH, chưa có chiến lược tổng thể mà chủ yếu xử
lý các vụ việc do dư luận phản ánh; chế tài xử lý quá nhẹ, không có tác dụng ngăn
chặn, răn đe; chưa kịp thời phát hiện các sai sót, khiếm khuyết của các quy định
pháp luật GDĐH để điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Thanh tra, kiểm tra việc sử dụng
đội ngũ GVĐH công lập theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm
chưa được chú trọng.
3.4.3. Nguyên nhân của thực trạng
3.4.3.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước đã dành nhiều quan tâm tới phát triển NNL
GVĐH công lập, thể hiện qua chủ trương của Đảng coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đã
tăng từ 15,3% tổng chi ngân sách năm 2001 lên khoảng 20% vào năm 2010 và duy
trì ở mức này cho tới nay. Nhà nước đã tập trung xây dựng thể chế quản lý, tập
trung đầu tư cho ĐTBD NNL GVĐH công lập.
Thứ hai, vai trò, vị trí của khu vực ĐBSH yêu cầu phải phát triển NNL
GVĐH công lập của khu vực ĐBSH xứng tầm với nhiệm vụ phát triển KTXH của
khu vực và của cả nước đặt ra. Đồng thời, chính điều kiện phát triển KTXH của
khu vực ĐBSH cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển NNL GVĐH
công lập của khu vực.
Thứ ba, sự nỗ lực của Bộ GD&ĐT và các Bộ liên quan trong việc thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng đã góp phần vào việc hình thành một hệ thống
khá toàn diện các chính sách và quy định pháp luật liên quan đến GDĐH nói
chung và phát triển NNL GVĐH công lập nói riêng.
141
Thứ tư, kết quả đạt được có sự đóng góp quan trọng từ nỗ lực của chính các
trường đại học và bản thân đội ngũ GVĐH. Các trường và ĐNGV đã cố gắng khắc
phục mọi khó khăn, thiếu thốn, đặc biệt là về cơ sở vật chất và thu nhập, chú trọng
đưa CNTT vào công tác giảng dạy, nghiên cứu, quản lý, đồng thời bám sát nhu cầu
của xã hội, của khu vực, của địa phương để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Thứ năm, chính sách của Nhà nước về giao quyền tự chủ cho các cơ sở
GDĐH trong thời gian qua đã tạo thuận lợi và góp phần thúc đẩy xã hội hóa giáo
dục, tạo điều kiện cho các trường tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cần
thiết cho việc phát triển ĐNGV.
3.4.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, việc thể chế hóa quan điểm của Đảng coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, “ưu tiên” cho giáo dục còn chậm và chưa được Nhà nước cụ thể hóa
trong từng nội dung QLNN về phát triển NNL GVĐH, chưa tạo được động lực
mạnh mẽ cho cải cách GDĐH và tạo động lực cho đội ngũ GVĐH. Lương của nhà
giáo chưa được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp.
Thứ hai, việc xây dựng, kiện toàn thể chế quản lý, bao gồm hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật và hệ thống tổ chức QLNN về phát triển NNL GVĐH
công lập mặc dù đã được Nhà nước quan tâm nhưng chưa hoàn thiện, còn nhiều
bất cập, chồng chéo. Các văn bản như chiến lược, quy hoạch được xây dựng ở các
thời điểm khác nhau, chưa lường hết được những diễn biến, thay đổi nhanh chóng
trên thực tế về sự phát triển của các trường đại học về quy mô đào tạo, quy mô
NNL GVĐH, quy mô sinh viên. Đồng thời quá trình xây dựng văn bản cũng thiếu
sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan QLNN về GDĐH (Bộ GD&ĐT) và các Bộ chủ
quản, các địa phương, dẫn đến sự thiếu nhất quán và chồng chéo. Việc tổ chức bộ
máy QLNN về GDĐH chưa thống nhất và tập trung về một đầu mối, tạo nên tình
trạng cát cứ, thiếu liên kết, phối hợp giữa Bộ GD&ĐT và các Bộ chủ quản của
nhiều trường đại học và các địa phương. Việc quản lý được thực hiện theo cơ chế
cơ quan chủ quản (Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh), quản lý theo địa
phương, quản lý theo ngành dẫn đến thiếu sự điều phối thống nhất chung ở tầm vĩ
mô theo định hướng chiến lược lâu dài.
Thứ ba, các quy định pháp luật, chính sách của Nhà nước về GDĐH và phát
142
triển NNL GVĐH chưa được tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ.
Trong chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của các Bộ, ngành và của các trường
đại học còn có nhận thức khác nhau về nội dung QLNN đối với phát triển NNL
GVĐH, dẫn đến thiếu thống nhất về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các Bộ, ngành,
sự chồng chéo hoặc chưa rõ ràng, chưa hợp lý ở nhiều vấn đề. Sự thiếu phối hợp
trong quản lý giữa ngành và lãnh thổ, cũng như giữa các địa phương trong khu vực
dẫn đến mất cân đối và bất hợp lý trong phân bổ chỉ tiêu tuyển dụng và đào tạo
giảng viên.
Thứ tư, do điều kiện kinh tế của đất nước, nguồn lực tài chính của Nhà nước
đầu tư cho phát triển NNL GVĐH công lập còn hạn chế. Ngân sách nhà nước dành
cho chi thường xuyên chiếm tới hơn 80%, làm hạn chế chi đầu tư xây dựng cơ bản,
hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường đại học, ảnh hưởng đến chất
lượng giảng dạy và NCKH của ĐNGV. Ngân sách chi cho GD về tỷ lệ đã đạt tới
20% nhưng về giá trị tuyệt đối còn ở mức rất thấp so với mặt bằng chung của khu
vực Đông Nam Á.
Thứ năm, chính sách quản lý hoạt động của các cơ sở GDĐH công lập của
Nhà nước trong thời gian qua chưa tạo được động lực khuyến khích các trường
nâng cao chất lượng giảng viên mà thay vào đó là chạy theo tăng trưởng về số
lượng ngành đào tạo và số lượng giảng viên. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động
thực thi pháp luật, chính sách của Nhà nước của các trường đại học đôi khi còn
mang tính hình thức. Trách nhiệm của đội ngũ làm công tác thanh, kiểm tra và
giám sát còn thấp, dẫn tới việc kết quả thanh kiểm tra đôi khi còn chưa khách
quan.
143
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 của luận án đã khái quát về khu vực ĐBSH, hệ thống các trường
đại học khu vực ĐBSH và phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu, chất lượng NNL
GVĐH công lập khu vực ĐBSH. So với các khu vực trong cả nước, khu vực
ĐBSH có số lượng giảng viên đại học công lập đông nhất và có trình độ cao nhất,
tuy nhiên vẫn còn một số bất cập về cơ cấu và chất lượng. Chương 3 cũng đã đi
sâu phân tích thực trạng QLNN về phát triển NNL GVĐH khu vực ĐBSH theo các
nội dung QLNN đã được trình bày ở chương 2. Từ việc đánh giá thực trạng, tác giả
luận án đã rút ra một số kết quả đạt được liên quan đến việc xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; củng cố, phát triển về quy mô và chất lượng NNL
GVĐH công lập; mở rộng, tăng cường nguồn lực đầu tư cho phát triển NNL
GVĐH từ đầu tư của Nhà nước và xã hội hóa GDĐH; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong phát triển NNL GVĐH đã có một số đổi mới và được sự quan tâm hơn
của các cấp quản lý và của ngành giáo dục. Tuy nhiên, QLNN về phát triển NNL
GVĐH khu vực ĐBSH vẫn còn những hạn chế từ những bất cập trong thể chế
pháp luật đến công tác quy hoạch, kế hoạch hóa phát triển đội ngũ GVĐH công lập
chưa được quan tâm đúng mức, chưa gắn với nhu cầu thực tế. Việc tuyển dụng, sử
dụng GVĐH chưa chú trọng thu hút và tạo nguồn giảng viên tài năng. Chính sách
tiền lương và phụ cấp đối với NNL GVĐH chưa phù hợp với đặc thù nghề nghiệp,
chưa khuyến khích được GVĐH tâm huyết với NCKH. Việc sử dụng ĐNGV chưa
theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm. Chính sách thu hút
nguồn lực tài chính thông qua xã hội hóa GDĐH chưa phát huy hết hiệu quả.
Chính sách ĐTBD chưa chú trọng đánh giá và sử dụng hợp lý giảng viên sau khi
đào tạo. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng GVĐH công lập còn
mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất.
Ngoài ra, chương 3 đã phân tích một số nguyên nhân chính dẫn tới những
hạn chế trong QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH trên cơ
sở khảo sát ý kiến của các giảng viên, người làm công tác quản lý tại trường đại
học và người làm công tác QLNN về lĩnh vực này. Các phân tích, đánh giá tại
chương 3 là cơ sở để xác định những vấn đề cần phải giải quyết, những giải pháp
cần thực hiện để phát triển NNL GVĐH cho khu vực ĐBSH được đề cập trong
chương 4.
144
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
4.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
4.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục và phát triển khu vực đồng
bằng sông Hồng
4.1.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng vai trò của
GD&ĐT. Đảng ta xác định GD&ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển NNL,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước. Giáo dục luôn được
coi là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo và
thực hiện các mục tiêu KTXH. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đổi
mới toàn diện GD&ĐT là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển NNL chất lượng cao.
Đại hội X của Đảng chủ trương: “Đổi mới toàn diện GD&ĐT, phát triển
NNL chất lượng cao”. Đổi mới hệ thống GDĐH và sau đại học, gắn đào tạo với sử
dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh NNL chất
lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Có cơ chế và chính sách gắn kết có hiệu
quả trường đại học với cơ sở NCKH và doanh nghiệp để chuyển giao kết quả
NCKH và công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học
trọng điểm đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới
cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu
then chốt”. Ngày 04/11/2013, Hội nghị Trung ương 8, BCH Trung ương Đảng
khóa XI ra Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
145
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó nêu 9 giải pháp đổi mới giáo dục toàn
diện.
Tiếp nối chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của Đại hội XI,
Đại hội Đảng lần thứ XII xác định: đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo;
giáo dục là quốc sách hàng đầu; phát triển GD&ĐT phải gắn với nhu cầu phát triển
KTXH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, với tiến bộ KHCN, yêu cầu phát triển NNL và
thị trường lao động. Đây là quan điểm định hướng cho phát triển GD&ĐT ở nước
ta trong những năm tới. Nội dung quan điểm thể hiện sự nhận thức đúng đắn và
nhất quán của Đảng ta trong quá trình đổi mới về vai trò quốc sách hàng đầu của
GD&ĐT. Đại hội XII đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Liên quan đến phát triển NNL GVĐH công lập, Đảng đưa ra một số định
hướng lớn:
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8,
BCH Trung ương Đảng khóa XI nêu nhiệm vụ: “Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp
ứng yêu cầu đổi mới GD&ĐT”. Các nội dung cụ thể gồm:
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch ĐTBD đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu
phát triển KTXH, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
- Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào
tạo.
- Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại,
bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng
cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
- Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp
cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp
tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
- Khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và NCKH.
- Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước.
146
Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo, đáp
ứng yêu cầu đổi mới GD&ĐT. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng
cấp học và trình độ đào tạo”.
Quán triệt quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước đã từng bước thể
chế hóa quan điểm, định hướng này thông qua việc xây dựng và ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật và các văn bản QLNN liên quan đến NNL GVĐH. Điều
12, Luật Giáo dục đại học năm 2012 khẳng định chính sách của Nhà nước về phát
triển GDĐH gồm một số nội dung:
- Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho GDĐH; đầu tư có trọng điểm để hình
thành một số cơ sở GDĐH chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh
vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành KTXH then chốt đạt trình
độ tiên tiến của khu vực và thế giới;
- Thực hiện xã hội hóa GDĐH; gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai
ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở GDĐH với tổ chức
NCKH và với doanh nghiệp;
- Có chế độ thu hút, sử dụng và đãi ngộ thích hợp để xây dựng và nâng cao
chất lượng ĐNGV, chú trọng phát triển ĐNGV có trình độ tiến sĩ và chức danh
Phó Giáo sư, Giáo sư của các cơ sở GDĐH.
Điều 56, Luật Giáo dục đại học 2012 xác định chính sách của Nhà nước đối
với GVĐH, gồm:
- Giảng viên trong cơ sở GDĐH được cử đi học nâng cao trình độ, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; được hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề,
phụ cấp thâm niên và các phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ;
- Giảng viên trong cơ sở GDĐH ở khu vực có điều kiện KTXH đặc biệt khó
khăn được tạo điều kiện về chỗ ở, được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách
ưu đãi theo quy định của Chính phủ;
- Giảng viên có trình độ tiến sĩ, giảng viên có chức danh Giáo sư, Phó Giáo
sư công tác trong cơ sở GDĐH có thể kéo dài thời gian làm việc kể từ khi đủ tuổi
nghỉ hưu để giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nếu có đủ sức khỏe, tự nguyện kéo
dài thời gian làm việc, đồng thời cơ sở giáo dục đại học có nhu cầu.
147
4.1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu vực đồng
bằng sông Hồng
Khu vực ĐBSH có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát
triển đất nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu vực ĐBSH
được thể hiện tại Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23/5/2015 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội khu vực ĐBSH
đến năm 2020, cụ thể như sau:
- Phát triển KTXH khu vực phù hợp với chiến lược phát triển KTXH cả
nước, phù hợp với quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực của cả nước theo
hướng mở, có khả năng hội nhập quốc tế sâu, rộng, gắn kết chặt chẽ với các khu
vực trong cả nước.
- Tận dụng tốt các lợi thế của khu vực để nâng cao tăng trưởng và khả năng
cạnh tranh, gắn với phát triển bền vững. Ưu tiên phát triển có trọng tâm đối với
một số ngành mũi nhọn có khả năng tạo động lực và dẫn dắt các ngành khác phát
triển, tạo được thương hiệu đặc trưng cho sản phẩm của khu vực.
- Là khu vực đi đầu của cả nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng xanh hóa, phát thải thấp và phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu và nước
biển dâng.
Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH khu vực ĐBSH đến năm 2020 đã đặt
ra mục tiêu xây dựng khu vực ĐBSH thực sự là địa bàn tiên phong của cả nước
thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới thành công mô
hình tăng trưởng, trở thành đầu tầu của cả nước về phát triển kinh tế, đảm đương
vai trò to lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Với vai trò, vị trí địa chính trị, địa kinh tế quan
trọng, với các điều kiện phát triển về tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi như trên,
khu vực ĐBSH được Nhà nước đặc biệt quan tâm và ưu tiên trong một số chính
sách phát triển, chính sách đầu tư công, trong phân bổ ngân sách để đầu tư các
công trình, dự án có ý nghĩa chiến lược của khu vực. Các định hướng và nhu cầu
phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế của khu vực ĐBSH nêu trên đặt ra yêu cầu phải
ưu tiên, tập trung phát triển ĐNGV thuộc các chuyên ngành đào tạo tương ứng với
các ngành, lĩnh vực được ưu tiên phát triển để có thể đào tạo ra một lực lượng lao
148
động có chất lượng cho xã hội cũng như đóng góp vào công tác NCKH và ứng
dựng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn xây dựng, phát triển KTXH của khu
vực ĐBSH. Yêu cầu về chuẩn năng lực, trình độ của NNL giảng viên của các
trường đại học trong khu vực cần ở mức cao hơn so với mặt bằng chung của cả
nước.
4.1.2. Định hướng của ngành Giáo dục về phát triển nguồn nhân lực giảng
viên đại học
Trên cơ sở Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020
(được ban hành tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ), Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT
ngày 29/12/2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành giáo dục giai
đoạn 2011-2020. Quy hoạch đã xác định phương hướng phát triển nhân lực GDĐH
như sau :
- Về số lượng: đến năm 2020, nhu cầu giảng viên trong các trường đại học
khoảng 83.000 người. Bình quân mỗi năm, số lượng giảng viên tăng khoảng 2.500
người;
- Về chất lượng: năm học 2019-2020 giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ
khoảng 58.000 người (70%), giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 29.000 người
(30%);
- Về cơ cấu số lượng giảng viên theo vùng miền: đến năm 2020 số lượng
GVĐH khu vực đồng bằng sông Hồng khoảng 35.000 người, tăng bình quân hằng
năm khoảng 1.000 người.
Cũng liên quan đến quy hoạch đội ngũ GVĐH, ngày 26/6/2013, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg về việc điều chỉnh Quy
hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020. Về phát triển
ĐNGV, quan điểm quy hoạch của Chính phủ và của ngành Giáo dục là:
- Tăng cường đầu tư ngân sách, ĐTBD giảng viên; đẩy mạnh công tác xã
hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển GDĐH;
- Thực hiện thống nhất QLNN về chính sách, quy hoạch, chất lượng đào
tạo, chuẩn giảng viên. Tăng cường phân cấp quản lý, nâng cao tính tự chủ, tự chịu
149
trách nhiệm của các trường đại học;
- Bảo đảm đạt các tiêu chí quy định về chất lượng và số lượng ĐNGV.
Hàng năm, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Chỉ thị về nhiệm vụ chủ yếu
của ngành Giáo dục trong năm đó để thực hiện các Nghị quyết trung ương và Nghị
quyết, của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Ngày 08/8/2017, Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT về nhiệm vụ chủ yếu
năm học 2017-2018 của ngành Giáo dục. Chỉ thị của Bộ trưởng yêu cầu ngành
Giáo dục tập trung triển khai một số nhiệm vụ: (i) rà soát, quy hoạch, phát triển
mạng lưới cơ sở GD&ĐT trong cả nước (hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ
sở GDĐH và đào tạo giáo viên,trình Thủ tướng Chính phủ); (ii) nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên (ban hành các chuẩn giáo viên, đánh giá đội ngũ giáo viên
theo chuẩn, xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho giáo viên các cấp hoàn thiện
bồi dưỡng theo yêu cầu của hạng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, đảm bảo việc
bổ nhiệm, thi/xét thăng hạng và xếp lương theo hạng tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp đúng quy định); (iii) đẩy mạnh ứng dựng CNTT trong dạy, học; (iv) đẩy
mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở GD&ĐT; (v) phát
triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao (đẩy mạnh NCKH để nâng cao chất lượng
đào tạo và chuyển giao công nghệ).
4.1.3. Quan điểm của tác giả luận án trong việc hoàn thiện quản lý nhà nước
về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng
sông Hồng
Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn QLNN về phát triển NNLGVĐHCL
khu vực ĐBSH và các yếu tố đặc thù của khu vực tiềm năng này, tác giả luận án
mạnh dạn đưa ra một số quan điểm sau:
Thứ nhất, cần phải thể chế hóa một cách nghiêm túc và triệt để quan điểm
của Đảng về việc ưu tiên xếp lương cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành
chính sự nghiệp cho đội ngũ nhà giáo, trong đó có đội ngũ giảng viên. Theo đó,
cần xây dựng và hoàn thiện một khung khổ chính sách dành riêng cho ĐNGV
(tách ra khỏi chính sách dành cho viên chức nhà nước) liên quan đến các nội dung
thu hút, tuyển dụng, sử dụng, trả lương và phụ cấp, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá,
đãi ngộ, tôn vinh giảng viên, v.v. Chỉ khi có chính sách, chế độ riêng phù hợp và
150
xứng đáng với lao động trí tuệ thì ĐNGV mới có thể yên tâm và có động lực để
làm tốt nhiệm vụ giảng dạy và NCKH.
Thứ hai, QLNN về GDĐH cần phải được đổi mới về tư duy theo hướng các
cơ quan QLNN về GDĐH, trực tiếp là Bộ GD&ĐT, thay vì trực tiếp quản lý toàn
diện đối với các cơ sở GDĐH, các cơ quan QLNN chỉ nên đóng vai trò điều tiết,
định hướng, giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các cơ sở GDĐH. Cần
hướng tới việc hệ thống GDĐH vận hành theo cơ chế thị trường, có sự giám sát,
kiểm soát từ cả bên trong và bên ngoài về chất lượng.
Thứ ba, Nhà nước cần mạnh dạn tăng cường giao quyền tự chủ cho các
trường đại học công lập để các trường được tự định đoạt việc tuyển dụng, sử dụng,
trả lương trên cơ sở các quy định khung và mang tính nguyên tắc của Nhà nước.
Mục đích chủ yếu của việc giao quyền làm chủ cho hệ thống GDĐH có thể hoạt
động một cách có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của xã hội. Trong
điều kiện thể chế kinh tế thị trường tại Việt Nam đang được tạo lập đồng bộ và
ngày càng hoàn thiện, cùng với xu thế đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, Việt
Nam cũng cần tiến tới mặt bằng chung của khu vực và thế giới về chế độ và chính
sách đối với NNL giảng viên. Các trường đại học công lập trong khu vực ĐBSH
nếu được quyền tự chủ, có thể tự đặt ra các yêu cầu về tuyển dụng giảng viên ở
mức cao hơn so với quy định của Nhà nước hoặc có thể trả lương cho giảng viên
cao hơn định mức chung nhằm thu hút đội ngũ giảng viên có trình độ cao, đi tiên
phong trong cả nước trong việc tiến tới mặt bằng chung của khu vực và thế giới.
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và các cơ sở
GDĐH, cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan QLNN về giáo dục
và của cơ sở GDĐH để tránh sự can thiệp quá mức làm mất đi tính tự chủ, sáng tạo
của các cơ sở GDĐH, Nhà nước thực hiện “chức năng quản lý vĩ mô” và đảm bảo
phát huy quyền độc lập, tự chủ và sự sáng tạo của các cơ sở GDĐH.
Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập
ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả tích cực ban đầu, tuy
nhiên để phát huy cơ chế này cần tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm đối với các cơ sở GDĐH công lập, khuyến khích các cơ sở GDĐH
thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, tổ
151
chức bộ máy, biên chế và tài chính trên cơ sở giảm bớt các rào cản quy định liên
quan. Song song với tăng quyền tự chủ cho các trường đại học, Nhà nước cần tăng
cường kiểm soát tài chính, gắn quyền tự chủ tài chính của các trường ĐHCL với
trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, để tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ thực
sự, cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở GDĐH trực thuộc Bộ cần phải được xem
xét xóa bỏ. Các cơ sở GDĐH chỉ chịu sự QLNN của Bộ GD&ĐT thông qua hệ
thống pháp luật, tiêu chuẩn chất lượng và các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm. Các trường chủ động trong quản trị, quản lý và tổ chức thực hiện.
Thứ năm, cần xử lý nghiêm minh các cơ sở GDĐH vi phạm và xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu nhà trường để tăng hiệu lực thực thi của các văn bản
quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn liên quan đến QLNN về GDĐH nói
chung và phát triển NNL GVĐH nói riêng. Cơ quan QLNN về GDĐH cần đổi mới
và tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ sở
GDĐH. Trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy định
cụ thể về các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm, không tuân thủ nghiêm túc, đầy
đủ quy định liên quan đến phát triển NNL GVĐH công lập.
4.1.4. Bối cảnh, yêu cầu hoàn thiện quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng chỉ rõ giai đoạn 2016-2020 là thời
kỳ Việt Nam hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời
cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập. Đảng ta đặt ra mục
tiêu phát triển kinh tế nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ
KHCN của các ngành, lĩnh vực, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tham gia
có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Về GD&ĐT, Đảng ta xác
định cần tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất
lượng NNL, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng KHCN, phát huy vai trò
quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và KHCN đối với sự nghiệp đổi mới và
phát triển đất nước.
Tuy nhiên, GD&ĐT chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động
152
lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là
GDĐH. Đội ngũ giáo viên trong đó có đội ngũ GVĐH công lập chưa đáp ứng yêu
cầu. Đầu tư cho phát triển NNL giáo dục và GDĐH còn thấp và chưa hiệu quả.
Chính sách, chế độ đối với ĐNGV phù hợp. Cơ sở vật chất-kỹ thuật của các trường
đại học còn thiếu và lạc hậu.
Tiếp tục tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ XII, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống
tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập xác định mục tiêu: Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi
ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà
nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị
sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh
mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.
Hiện nay, trong cơ cấu nguồn thu của các trường đại học công lập, nguồn từ
ngân sách nhà nước chiếm từ 30%-40% tổng thu của các trường hàng năm. Nguồn
tài chính quan trọng thứ hai cho các trường đại học công lập là thu từ hoạt động sự
nghiệp, bao gồm nguồn thu từ sinh viên và các nguồn thu khác chiếm khoảng
60%-70% tổng nguồn thu của các trường. Về nguồn chi, bình quân các trường đại
học công lập tự đảm bảo cân đối chi thường xuyên được khoảng 75% từ nguồn thu
sự nghiệp. Tuy nhiên, với tỷ lệ chi thường xuyên này vẫn chưa thể đảm bảo đủ
nguồn lực để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và đảm bảo thu nhập tăng thêm cho
cán bộ, giảng viên hàng năm. Do đó, để đảm bảo các trường đại học công lập có
đủ kinh phí để phát triển ĐNGV, ngoài nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp,
yêu cầu đặt ra là Nhà nước cần tiếp tục tăng quyền tự chủ tài chính cao hơn cho
các trường đại học công lập. Tăng cường tự chủ tài chính không có nghĩa là Nhà
nước giảm hỗ trợ cho GDĐH mà được hiểu là phương thức giúp Nhà nước phân
bổ ngân sách hỗ trợ cho GDĐH hiệu quả hơn thay vì cào bằng. Nhà nước cần hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý để thực hiện tự chủ tài chính cho các trường và đổi mới
cơ chế phân bổ kinh phí của Nhà nước cho GDĐH. Cần khuyến khích các trường
đại học công lập khai thác các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước.
Quy hoạch phát triển KTXH khu vực ĐBSH đến năm 2020 xác định mục
tiêu xây dựng khu vực ĐBSH thực sự là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện
153
các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng
trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế, đảm đương vai trò to
lớn đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Khu vực ĐBSH, trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế,
văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước, đang tiếp tục giữ vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển KTXH của cả nước. Với số lượng các
trường đại học công lập và đội ngũ GVĐH công lập giữ vị trí áp đảo, với các cơ sở
GDĐH trọng điểm, ĐNGV đầu ngành của nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật, xã hội
quan trọng, để phục vụ các mục tiêu phát triển của vùng và của cả nước, khu vực
ĐBSH đang đứng trước yêu cầu lớn về phát triển NNL GVĐH công lập xứng tầm
và đủ mạnh để đào tạo ra NNL chất lượng cao cho cả nước và nâng cao vị thế của
đất nước trong nghiên cứu khoa học.
Việc phát triển NNL GVĐH công lập ở khu vực ĐBSH, ngoài yếu tố quản
lý ĐNGV của từng trường ở cấp vi mô, còn phụ thuộc rất lớn vào định hướng đúng
đắn và các chính sách hợp lý của Nhà nước, hay nói cách khác là phụ thuộc vào
việc hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH khu vực ĐBSH trên các phương
diện: quy hoạch, kế hoạch hóa; xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan; tuyển dụng, sử dụng, trả lương và phụ cấp, đào tạo, bồi
dưỡng; huy động và phân bổ nguồn lực tài chính; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm. Đặc biệt, việc hoàn thiện các nội dung QLNN phải trên cơ sở quán triệt chủ
trương tiếp tục cải cách, đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước và gắn với yêu
cầu thực tế.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
4.2.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại
học công lập phải gắn với yêu cầu phát triển giáo dục đại học và phát triển
khu vực đồng bằng sông Hồng
Để bảo đảm các định hướng chiến lược về GDĐH và phát triển NNL
GVĐH công lập nói chung và đối với khu vực ĐBSH nói riêng, cơ quan QLNN về
GDĐH cần xây dựng, rà soát, cập nhật thường xuyên các quy hoạch, kế hoạch về
phát triển NNL GVĐH công lập cho cả nước, cho khu vực ĐBSH, cho từng địa
154
phương trong khu vực. Căn cứ vào kế hoạch, quy hoạch chung cần hình thành cơ
chế chủ động hơn nữa đối với việc kế hoạch hóa thông qua trao quyền tự chủ cho
từng cơ sở GDĐH công lập căn cứ vào đặc điểm, nguồn lực, năng lực của chính
mình xây dựng kế hoạch phát triển NNL giảng viên của trường, kèm theo lộ trình
triển khai thực hiện có tính khả thi. Để làm được điều này, cần thiết có phải có sự
chỉ đạo sâu sát của Bộ GD&ĐT theo hướng xác định hai cấp độ kế hoạch hóa phát
triển NNL GVĐH công lập:
- Cấp độ khu vực: Bộ GD&ĐT xây dựng một quy hoạch chung cho phát
triển NNL giảng viên đại công lập cho khu vực ĐBSH. Quy hoạch này phải gắn
với yêu cầu phát triển GDĐH, quy hoạch tổng thể phát triển KTXH của khu vực
ĐBSH, quy hoạch phát triển KTXH của các địa phương trong khu vực. Trong quá
trình xây dựng quy hoạch cần có sự tham gia, phối hợp của các Bộ, ngành, địa
phương liên quan trong khu vực với tư cách là cơ quan chủ quản của các cơ sở
GDĐH và là đối tượng đặt hàng nhu cầu đào tạo theo các ngành, nghề KTXH ưu
tiên, các ngành nghề KTXH trọng điểm cho các trường đại học công lập trong khu
vực. Các định hướng trong quy hoạch này chỉ nêu lên mục tiêu, chiến lược và kết
quả cần phải bảo đảm thực hiện trên thực tế. Các định hướng trong quy hoạch cần
đảm bảo xây dựng ĐNGV đại học công lập khu vực ĐBSH cân đối, hợp lý về cơ
cấu trình độ, năng lực, tập trung phát triển về số lượng và chất lượng NNL giảng
viên của các ngành nghề kinh tế-kỹ thuật mũi nhọn đang được Nhà nước ưu tiên
phát triển. Việc xây dựng kế hoạch, lộ trình triển khai cần để cho cấp độ trường đại
học chủ động tự quyết.
- Cấp độ trường đại học: trên cơ sở hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, mỗi cơ sở
GDĐH công lập cần có một kế hoạch riêng về phát triển NNL giảng viên trong
chiến lược chung của trường. Kế hoạch của trưởng cần phải tính đến nhu cầu đào
tạo NNL của địa phương, của khu vực theo các ngành nghề KTXH được thể hiện
trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của địa phương, của
khu vực. Kế hoạch này cũng phải căn cứ vào quy hoạch của Bộ GD&ĐT nhưng
được bảo đảm tự chủ về phương thức, nguồn lực trong việc triển khai thực hiện
nhằm bảo đảm tính linh hoạt và tính chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH.
Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH khu vực ĐBSH đặt ra mục tiêu cần
tận dụng tốt các lợi thế của khu vực để nâng cao tốc độ tăng trưởng và khả năng
155
cạnh tranh, gắn với phát triển bền vững. Quy hoạch đặt ra mục tiêu phát triển cụ
thể trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, giáo dục và đào tạo. Bên
cạnh quy hoạch tổng thể của khu vực ĐBSH, ở cấp tiểu vùng có Quy hoạch tổng
thể phát triển KTXH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030 (được phê duyệt tại Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014
của Thủ tướng Chính phủ). Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm 7 tỉnh, thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công
nghệ của cả nước, là vùng hạt nhân phát triển, lãnh thổ động lực của khu vực
ĐBSH; là một trong những vùng dẫn đầu về phát triển KTXH nhanh và bền vững
của cả nước. Ngoài ra, từng địa phương (tỉnh, thành) trong khu vực cũng đều có
quy hoạch riêng về phát triển KTXH của địa phương mình. Ví dụ: Quy hoạch tổng
thể phát triển KTXH thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
(được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1081/QĐ-TTg ngày
06/7/2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2050 (được phê duyệt tại Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày
22/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ); Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Nam Định đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (được phê duyệt tại
Quyết định số 2341/QĐ-TTg ngày 02/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ). Các quy
hoạch nêu trên là cơ sở để Bộ GD&ĐT, các Bộ chủ quản của các trường đại học,
các chính quyền địa phương và các trường căn cứ vào khi xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển NNL GVĐH cho trường, cho khu vực ĐBSH, cho địa phương và
cho ngành.
4.2.2. Tăng cường sự phối hợp trong tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
Đội ngũ GVĐH công lập hiện nay chịu sự QLNN của Bộ GD&ĐT, Bộ Nội
vụ và các Bộ quản lý chuyên ngành (Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, v.v.),
UBND các tỉnh. Bộ GD&ĐT thực hiện QLNN về chất lượng GDĐH và phối hợp
cùng Bộ Nội vụ, các Bộ chủ quản thực hiện QLNN về cơ chế, chính sách đối với
đội ngũ GVĐH. Công tác quy hoạch phát triển NNL GVĐH công lập được thực
hiện ở cấp Bộ (Bộ GD&ĐT, các Bộ chủ quản). Công tác tuyển dụng, sử dụng,
156
ĐTBD đội ngũ giảng viên chủ yếu được triển khai ở cấp trường trên cơ sở các quy
định của Nhà nước và của ngành Giáo dục. Việc hỗ trợ và huy động các nguồn lực
đầu tư cho phát triển ĐNGV được thực hiện thông qua phân bổ ngân sách do Bộ
GD&ĐT thực hiện và thông qua việc huy động các nguồn lực của nhà trường.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phát triển NNL GVĐH công lập
được thực hiện bởi Thanh tra giáo dục của Bộ GD&ĐT và thanh tra nội bộ của các
trường.
Để có thể nâng cao hiệu quả QLNN, khắc phục tình trạng phân tán, cục bộ,
không nhất quán trong việc cụ thể hóa, trong tổ chức triển khai thực hiện thể chế
pháp luật về phát triển NNL GVĐH, việc tăng cường phối hợp và tạo sự đồng
thuận giữa Bộ GD&ĐT, các cơ quan ở trung ương, địa phương và nhà trường là
yêu cầu cấp thiết. Bộ GD&ĐT, với vai trò là cơ quan chủ chốt trong việc xây dựng
và tổ chức thực hiện thể chế phát triển NNL GVĐH, cần phát huy hơn nữa vai trò
chủ trì, điều phối, kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện chính
sách, pháp luật của các cơ quan, địa phương liên quan. Về lâu dài, quá trình phối
hợp giữa các cơ quan liên quan trong phát triển NNL GVĐH công lập trên thực tế
tốn nhiều thời gian, công sức để trao đổi trong khi tính thống nhất không cao, thiếu
liên thông. Các kế hoạch, chương trình giữa các Bộ khó gắn kết thành chiến lược
chung, xuất hiện sự tách rời giữa chế độ, chính sách dành cho viên chức nói chung
và giảng viên nói riêng do những đặc thù vốn có về tính chất công việc của những
nhóm người này. Do đó, để đảm bảo khắc phục những khó khăn trên cần thống
nhất đầu mối QLNN vào Bộ GD&ĐT đối với đội ngũ GVĐH công lập. Từ đó mới
thống nhất được chính sách trao quyền cho các trường về tuyển dụng, sử dụng,
đánh giá, đồng thời hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn trong quản lý và thực hiện
chế độ báo cáo đối với trường đại học công lập trong sử dụng ĐNGV của mình.
Đây cũng là cơ sở để các trường đại học công lập thực hiện tự chủ một cách thực
chất.
Việc quy định cơ chế Bộ chủ quản cũng làm giảm hiệu quả thực hiện tự chủ
đại học và tính chủ động trong quản trị, quản lý và tổ chức thực hiện của cơ sở
GDĐH. Vì vậy, cần mở rộng hơn quyền tự chủ và mức độ tự chủ, đồng thời cần
điều chỉnh quy định để Bộ GD&ĐT thực hiện QLNN đối với các trường đại học
157
công lập. Các cơ sở GDĐH chỉ chịu sự QLNN của Bộ GD&ĐT thông qua hệ
thống pháp luật, tiêu chuẩn chất lượng và các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm. Các trường chủ động trong quản trị, quản lý và tổ chức thực hiện, từng
bước tiến tới xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản để đảm bảo cho hội đồng trường hoạt
động hiệu quả.
4.2.3. Tuyển dụng và sử dụng giảng viên đại học công lập theo đúng tiêu
chuẩn chức danh và vị trí việc làm
Hoàn thiện chính sách tuyển dụng là giải pháp mang tính đột phá để giúp
các trường bổ sung đội ngũ giảng viên có trình độ cao và đáp ứng yêu cầu của nhà
trường. Quản lý nhà nước cần đảm bảo việc tuyển dụng và sử dụng GVĐH tại các
trường đại học công lập phải theo đúng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và vị trí
việc làm nhằm đảm bảo công tác tuyển dụng giảng viên tuyển được đúng người,
đáp ứng các tiêu chuẩn theo vị trí việc làm, các GVĐH được bố trí, phân công
công việc theo đúng khả năng chuyên môn và yêu cầu công việc. Đây cũng là cơ
sở để đảm bảo việc bố trí sử dụng, đề bạt, đánh giá và ĐTBD nâng cao trình độ
chuyên môn của giảng viên được chính xác, khách quan, hợp lý, tránh sự chồng
chéo khi phân công, giao việc, khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực,
khắc phục tình trạng bất công bằng trong phân công công việc và đánh giá giảng
viên, tạo điều kiện để giảng viên phát huy năng lực, sở trường của bản thân trong
công tác giảng dạy và NCKH. Đặc biệt, việc bố trí phân công theo tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp và vị trí việc làm tạo thuận lợi cho việc xác định rõ kế hoạch đào
tạo và phát triển giảng viên, để trang bị cho giảng viên các kỹ năng cần thiết theo
yêu cầu vị trí việc làm đang đảm nhiệm.
Để tuyển dụng và sử dụng GVĐH công lập theo đúng tiêu chuẩn chức danh
và vị trí việc làm, trước hết cần hoàn thiện việc xác định các vị trí việc làm. Một
nội dung quan trọng trong vị trí việc làm là tiêu chuẩn năng lực giảng viên cần đáp
ứng. Hiện nay, Bộ GD&ĐT vẫn chưa ban hành bộ chuẩn năng lực GVĐH. Xây
dựng, hoàn thiện chuẩn nghề nghiệp giảng viên là biện pháp quản lý chất lượng
giáo dục hiện đại, là cơ sở để giảng viên tự đánh giá phẩm chất, năng lực của bản
thân, là thông số cho việc kiểm tra, đánh giá chất lượng; tạo căn cứ, cơ sở để xây
dựng, phát triển chương trình ĐTBD và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với giảng
158
viên. Tại các trường đại học thì có trường có, có trường không. Và như vậy, chưa
có căn cứ nào để nâng cao năng lực ĐNGV. Bộ GD&ĐT cần đưa ra một khung tối
thiểu năng lực ĐNGV, để các trường căn cứ vào đó xây dựng cho mình một khung
năng lực riêng, thậm chí cho từng khoa, từng ngành. Năng lực giảng viên của từng
ngành, từng bộ môn có thể khác nhau nhưng cần phải căn cứ vào một tiêu chuẩn
chung tối thiểu. Khung năng lực của GVĐH cần bao gồm các tiêu chuẩn sau:
- Phẩm chất chính trị (chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, trong đó có đường lối hội nhập; giữ vững bản lĩnh chính trị);
- Đạo đức nghề nghiệp, lối sống (yêu nghề, giữ gìn uy tín, phẩm chất, danh
dự của nhà giáo; tôn trọng kỷ luật);
- Kiến thức, năng lực chuyên môn (kiến thức chuyên ngành sâu rộng và
thường xuyên cập nhật, hiểu biết đa văn hóa, hiểu biết thực tiễn và khả năng liên
hệ, vận dụng phù hợp vào hoạt động giảng dạy và NCKH, vận dụng kiến thức
chuyên môn vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn nghề nghiệp, ngoại ngữ và
tin học không ngừng nâng cao);
- Năng lực sư phạm (xây dựng kế hoạch giảng dạy, chương trình môn học;
xây dựng môi trường học tập, phương pháp giảng dạy hiện đại, ứng dụng CNTT,
am hiểu người học và hỗ trợ phát triển năng lực người học, kiểm tra và đánh giá
kết quả học tập của người học);
- Năng lực NCKH (tham gia NCKH trong các đề tài NCKH các cấp, các hội
thảo, viết sách);
- Năng lực hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội (tham gia nghiên cứu thực
tiễn, đúc rút kinh nghiệm, thực tế cơ sở và biệt phái có thời hạn);
- Năng lực phát triển nghề nghiệp, phát triển bản thân (có mục tiêu phát
triển nghề nghiệp, tự đánh giá bản thân, tự học tập).
Để đảm bảo có thể tuyển dụng được GVĐH công lập theo đúng tiêu chuẩn
chức danh và vị trí việc làm, Nhà nước cần có chính sách cho phép các trường đa
dạng hóa hình thức tạo nguồn tuyển dụng để có thể tuyển được đúng nhân sự mà
các trường đang cần. Để tuyển chọn được giảng viên có năng lực cần có hình thức
tuyển dụng đảm bảo đặc thù của giảng viên trong thực hiện chức năng giảng dạy
159
và NCKH. Bộ GD&ĐT cần có nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ ban hành các
chính sách thu hút các nhà khoa học nước ngoài có uy tín và kinh nghiệm, các tri
sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh
nghiệm trong và ngoài nước làm quản lý của cơ sở giáo dục, đào tạo lớn.
thức Việt kiều tham gia giảng dạy và NCKH tại Việt Nam; khuyến khích các cơ
Đối với khu vực ĐBSH, nơi có nguồn tuyển dụng và khả năng tuyển được
người đảm bảo các tiêu chuẩn tiệm cận với yêu cầu của khu vực và thế giới cao
hơn các khu vực khác trong cả nước, trong tuyển giảng viên, Nhà nước cần có quy
định riêng đối với khu vực ĐBSH. Theo đó, cần nâng cao hơn một bậc so với yêu
cầu chung về tiêu chuẩn, trình độ đối với GVĐH. Đây chính là giải pháp đặc thù
dành cho các trường đại học công lập khu vực ĐBSH.
Ngoài ra, cần mở rộng cơ chế tuyển dụng bằng nhiều hình thức và phương
pháp khác nhau. Về tiêu chuẩn tuyển dụng giảng viên, giảng viên được tuyển cần
được xác định trình độ, năng lực thông qua quá trình đào tạo và sản phẩm NCKH.
Nhiều trường hợp ứng viên có văn bằng phù hợp với tiêu chuẩn nhưng quá trình
nghiên cứu sau khi có văn bằng đào tạo không tương thích dẫn tới sau tuyển dụng
ứng viên mới bắt đầu “tập sự” về NCKH, trường đại học không sử dụng được ngay
mà còn mất công đào tạo, bồi dưỡng trong khi không phải trường hợp nào cũng có
tố chất về nghiên cứu phục vụ đào tạo đại học và sau đại học.
4.2.4. Cụ thể hóa, điều chỉnh và triển khai thực hiện chính sách tiền lương và
phụ cấp cho nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng
sông Hồng
Giảng viên là một chức danh đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân với
yêu cầu cao nhất về trình độ đào tạo và năng lực giảng dạy, NCKH. Đây là nghề
nghiệp đòi hỏi sự đào sâu nghiên cứu, rèn luyện và tích lũy kiến thức, kỹ năng
trong một thời gian dài cả về lý luận và thực tiễn mới có đủ điều kiện để tham gia
công tác giảng dạy, nghiên cứu. Sản phẩm mà họ tạo ra góp phần rất lớn vào phát
triển kinh tế xã hội nếu mang lại giá trị thiết thực thông qua chất lượng sinh viên ra
trường. Do đó, giảng viên phải là những người được trả lương cao nhất trong tất cả
các ngành nghề trong xã hội. Mặt khác, không thể đồng nhất giảng viên với các
160
viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp khác. Chính sách lương cho giảng
viên cần tính đến yếu tố đặc thù nghề nghiệp hàn lâm của giảng viên. Lương bao
gồm nhiều loại như lương thực tế, lương tối thiểu. Hình thức trả lương cũng đa
dạng như trả lương theo thời gian, theo cấp bậc, theo chức vụ, vị trí, theo sản
phẩm. Tuy nhiên, tiền lương đối với GVĐH hiện nay còn mang nặng tính bình
quân, thiếu sự phân hoá giữa các đối tượng, đồng nhất lương của vị trí lãnh đạo và
người làm chuyên môn, nhấn mạnh thâm niên mà không quan tâm đến kết quả
cống hiến trên thực tế của cá nhân theo sản phẩm giảng dạy và NCKH thực tế.
Mục đích của chính sách tiền lương là nhằm khuyến khích sự cố gắng, sự đóng
góp, cống hiến và ngược lại, trả lương chỉ thực sự hiệu quả và đạt được mục tiêu
đề ra khi phân loại được người giỏi, người làm việc tốt giữa những những người
trung bình và kèm theo đó là chế độ lương, thưởng thỏa đáng. Vì vậy, để phát triển
NNL GVĐH có chất lượng thì Nhà nước cần điều chỉnh chính sách lương theo
hướng xây dựng một hệ thống lương, thưởng dựa trên thành tích, kết quả thực hiện
nhiệm vụ, là những nhân tố quan trọng để cạnh tranh công khai về thành tích và
chất lượng giảng dạy cũng như NCKH.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay khi các trường đại học công lập ở khu
vực ĐBSH đang rất cần thu hút ĐNGV có trình độ cao theo chuẩn mực quốc tế thì
nhất thiết phải cải cách chế độ trả lương. Theo đó, ngoài mức lương chung theo
quy định của Nhà nước, có thể tính đến việc triển khai một chế độ lương thứ hai
gắn với kết quả cống hiến. Kết quả này có thể xác định thông qua việc ký kết các
hợp đồng liên kết giảng dạy/nghiên cứu giữa các cơ sở đào tạo lớn của quốc gia
hoặc hợp đồng hợp tác đào tạo/nghiên cứu với nước ngoài. Các sản phẩm giảng
dạy/nghiên cứu này sẽ là thước đo nâng cao vị thế, hình ảnh, uy tín của cơ sở
GDĐH. Cá nhân giảng viên góp phần vào quá trình này xứng đáng được hưởng cơ
chế trả lương đặc thù của trường đại học.
Theo quy định hiện nay, giảng viên được phân hạng thành 3 cấp độ là giảng
viên/giảng viên chính/giảng viên cao cấp. Mỗi cấp đòi hỏi trình độ về văn bằng,
chứng chỉ, thâm niên, năng lực NCKH tương ứng với cấp độ đó. Tuy nhiên, thực
tế khi giảng viên đã đạt chuẩn năng lực đối với đào tạo đại học thì họ được quyền
161
hưởng chế độ, chính sách đối với GVĐH như nhau. Điều này dẫn tới có những
giảng viên tuy ở hạng cao nhưng năng lực giảng dạy và NCKH không tương xứng,
do họ đủ điều kiện và đã trải qua các kỳ thi nâng hạng nên được hưởng chính sách
đãi ngộ cao hơn căn cứ vào hạng giảng viên được công nhận. Đồng thời, có nhiều
giảng viên trẻ có năng lực nhưng do chưa đủ điều kiện hoặc khó khăn về quy trình,
thủ tục để thi thăng hạng viên chức thì họ sẽ mất cơ hội cống hiến. Theo quy định
hiện hành, hiệu quả công việc của giảng viên qua giảng dạy và nghiên cứu chưa
phải là căn cứ chính làm thước đo đối với năng lực và xác định mức lương. Do đó,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét việc chuyển sang trả lương theo
kết quả thực tế, căn cứ vào kế hoạch công việc và các cam kết rõ ràng về kết quả
giảng dạy, NCKH phù hợp với định hướng phát triển của trường đại học.
Về phụ cấp, do NNL GVĐH công lập ở nước ta nói chung và ở khu vực
ĐBSH nói riêng rất phong phú và đa dạng về đặc điểm, tính chất và hoạt động, căn
cứ vào đặc thù của từng nhóm NNL giảng viên, cần quy định mức phụ cấp ưu đãi
phù hợp để đảm bảo sự công bằng và khuyến khích giảng viên thuộc các lĩnh vực
ít được quan tâm nhưng xã hội cần. Một ví dụ cụ thể là ngành sư phạm, một ngành
đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ GVĐH kế nhiệm. Bộ GD&ĐT cần
sớm ban hành Thông tư quy định chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang
giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, theo đó, GVĐH ngành sư phạm và
giảng viên các bộ môn lý luận chính trị cần được xem xét áp dụng mức phụ cấp ưu
đãi từ 40-45%, cao hơn so vớ mức 25% của một giảng viên thông thường.
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước chi cho GDĐH còn hạn chế, bên cạnh
việc điều chỉnh chính sách lương và phụ cấp, Nhà nước cần tiếp tục chính sách
trao quyền tự chủ cho các trường đại học công lập khu vực ĐBSH để các trường có
thể chủ động huy động thêm các nguồn lực cho việc cải thiện và tăng thu nhập cho
ĐNGV.
4.2.5. Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập theo
chuẩn và theo yêu cầu thực tế của đại học công lập ngành và khu vực đồng
bằng sông Hồng
Quản lý nhà nước cần đảm bảo chính sách ĐTBD nâng cao năng lực trình
162
độ cho ĐNGV phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của trường đại học, nhu cầu nhân
lực theo các ngành nghề kinh tế, kỹ thuật và xã hội của địa phương, của khu vực
ĐBSH và mong muốn của bản thân ĐNGV. Công tác đào tạo bồi dưỡng cần phải
thiết thực, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu cụ thể về chuẩn năng lực theo các tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm, vào những thời điểm xác định để
sau khi được đào tạo, bồi dưỡng, giảng viên nâng cao được năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ, thực hiện tốt các nhiệm vụ của viên chức giảng dạy, đáp ứng tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp giảng viên. Vì vậy, cơ quan QLNN về GDĐH cần xây
dựng, thiết kế các đề án, chương trình ĐTBD trên cơ sở phân tích nhu cầu đào tạo
và thực hiện một cách hệ thống, làm căn cứ để xây dựng chương trình, tài liệu cho
phù hợp với sự thay đổi, phát triển của yêu cầu công việc. Công tác đánh giá chất
lượng giảng viên sau khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng cần phải được chú trọng để
kiểm soát chất lượng đào tạo và đảm bảo hiệu quả của chính sách ĐTBD giảng
viên. Việc tuyển chọn giảng viên để cử đi học tiến sĩ theo các đề án đào tạo ở nước
ngoài sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cần đảm bảo ứng viên đáp ứng các tiêu
chuẩn đặt ra, đặc biệt là tiêu chuẩn về năng lực nghiên cứu, ngoại ngữ và công bố
khoa học trên các tạp chí quốc tế.
Nhà nước cần có chính sách đa dạng hóa các hình thức đào tạo, cụ thể: đào
tạo tại các cơ sở ĐTBD giảng viên trong nước; đào tạo thực tế tại doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đào tạo trực tuyến qua mạng internet; đào tạo ở
nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo tại Việt Nam. Nhà nước
cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các trường đại học công lập chủ động mở rộng
hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nước ngoài; khuyến khích các tổ
chức NCKH tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng sư phạm nghề cho giảng viên,
qua đó nâng cao năng lực NCKH của giảng viên. Hoạt động hợp tác với nước
ngoài về đào tạo giảng viên và hợp tác NCKH cần được đẩy mạnh để ĐTBD đội
ngũ GVĐH công lập khu vực ĐBSH đạt đẳng cấp quốc tế đối với các ngành trọng
điểm, các ngành nghề mới, hiện đại.
Để khắc phục tình trạng lý thuyết suông, giáo điều, lạc hậu về kiến thức
khoa học công nghệ và để khắc phục tình trạng “thầy không ra thầy, thợ không ra
163
thợ”, trong ĐTBD cần nhấn mạnh thêm nội dung đào tạo, rèn luyện kỹ năng, cập
nhật kiến thức cho ĐNGV. Theo đó, cơ quan QLNN về GDĐH nên cân nhắc đưa
vào thực hiện quy định: để trở thành GVĐH, đặc biệt là trong các chuyên ngành
kinh tế, kỹ thuật thì sau khi tốt nghiệp đại học phải trải qua một quá trình thực tập,
kiến tập tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, trải nghiệm qua thực tế một thời gian
rồi sau đó mới có thể làm GVĐH. Thông qua việc trải nghiệm thực tiễn này, các
cơ quan, doanh nghiệp giúp nhà trường trang bị kinh nghiệm thực tiễn một cách tốt
nhất cho giảng viên. Trong quá trình thực tế, các doanh nghiệp có thể có những
góp ý thiết thực về các nội dung đào tạo mà nhà trường cần bổ sung, thực sự hữu
ích cho việc đổi mới chương trình đào tạo sát hơn với yêu cầu sản xuất. Với sự hợp
tác chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, việc theo dõi và đánh giá chất
lượng đào tạo sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
Tập trung nguồn lực và ưu tiên cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
GVĐH là giải pháp có tính đột phá để có thể nhanh chóng phát triển NNL GVĐH
công lập. Do đội ngũ GVĐH công lập chủ yếu tập trung ở khu vực ĐBSH, trong
đó chủ yếu là ở Hà Nội, nếu làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên, sẽ nhanh chóng nâng cao được trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên, góp
phần phát triển về chất lượng NNL GVĐH công lập của khu vực. Để có thể phát
huy hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần chú trọng công tác quy hoạch,
kế hoạch hóa về đào tạo, bồi dưỡng để đảm bảo phát triển đội ngũ giảng viên có cơ
cấu hợp lý về trình độ theo độ tuổi, hợp lý về ngành nghề, lĩnh vực giảng dạy của
giảng viên trên cơ sở nhu cầu ngành nghề kinh tế xã hội của khu vực.
4.2.6. Huy động, phân bổ hợp lý và đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực tài
chính, cơ sở vật chất cho phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công
lập
Hiện nay, nguồn tài chính của các trường đại học công lập cơ bản là từ ngân
sách nhà nước và nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp (thu từ học phí, đề tài khoa
học, các loại phí thi lại, phí bảo vệ luận văn, kiểm tra ngoại ngữ…). Trong đó,
ngân sách nhà nước chiếm từ 30%-40% tổng thu của các trường đại học hàng năm.
Nguồn tài chính quan trọng thứ hai cho các trường là thu từ hoạt động sự nghiệp,
bao gồm nguồn thu từ sinh viên và các nguồn thu khác chiếm khoảng 60%-70%
164
tổng nguồn thu của các trường. Bình quân các trường đại học tự đảm bảo cân đối
chi thường xuyên được khoảng 75% từ nguồn thu sự nghiệp. Tuy nhiên, với tỷ lệ
chi thường xuyên này vẫn chưa thể đảm bảo đủ nguồn lực để tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng GVĐH và đảm bảo thu nhập tăng thêm
cho giảng viên hàng năm.
Do nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cấp cho GDĐH còn hạn chế, dẫn
đến việc chi cho ĐTBD, phát triển NNL GVĐH cũng bị hạn chế theo. Kinh phí
ngân sách cho các trường đại học được phân bổ bình quân, theo quy mô sinh viên,
không phản ánh được sự ưu tiên phân bổ kinh phí cho các trường, các khoa đào tạo
những ngành nghề mũi nhọn, quan trọng mà khu vực, địa phương đang cần và
đóng góp lớn vào phát triển KTXH của khu vực, của địa phương. Điều này cho
thấy sự không hiệu quả trong phân bổ, sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước
dành cho GDĐH.
Cơ sở vật chất-kỹ thuật của các trường đại học công lập phục vụ cho công
tác NCKH và giảng dạy của ĐNGV còn yếu kém, ảnh hưởng đến chất lượng
NCKH và giảng dạy của ĐNGV. Hệ thống thư viện truyền thống, thư viện điện tử,
phòng thí nghiệm, xưởng thực hành cùng với các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ
NCKH và giảng dạy còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu, diện tích sử dụng ở mức
rất thấp so với mặt bằng chung của khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Để phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH, Nhà nước cần tăng
cường đầu tư nguồn lực tài chính tương xứng với chiến lược phát triển NNL
GVĐH công lập trong dài hạn. Trong đầu tư, cần có sự chọn lọc, ưu tiên để phân
bổ hợp lý và đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cho
phát triển NNL GVĐH công lập, tập trung nguồn lực ĐTBD, phát triển ĐNGV của
các trường, các khoa đào tạo các ngành nghề mà địa phương, khu vực đang có nhu
cầu lớn. Cụ thể:
- Tăng kinh phí ngân sách dành cho cho các đề án, chương trình ĐTBD đội
ngũ GVĐH công lập trong khu vực;
- Đưa ra định mức về chi cho đào tạo bồi dưỡng ĐNGV và yêu cầu các
trường đại học thực hiện nghiêm các định mức này, để các trường buộc phải dành
một khoản kinh phí nhất định theo quy định để ĐTBD giảng viên;
165
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất một số trường đại học, ngành
đào tạo trọng điểm, trường sư phạm trong khu vực;
- Tập trung đầu tư hạ tầng CNTT của các trường đại học công lập, nâng cao
ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập;
- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường
đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế;
- Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm ở một số trường đại học
trọng điểm để hình thành những trung tâm NCKH và đào tạo NNL chất lượng cao.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu nhằm nâng cao năng
lực nghiên cứu cho ĐNGV;
- Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cho GDĐH, khuyến khích các doanh nghiệp,
cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo, lựa chọn các dự án
đầu tư để khuyến khích đầu tư theo hình thức PPP (đối tác công-tư), BOT (xây
dựng-kinh doanh-chuyển giao).
Khu vực ĐBSH có đặc điểm đặc thù là địa bàn có điều kiện KT-XH phát
triển, là trung tâm kinh tế của cả nước, nên có thể tranh thủ huy động các nguồn
lực xã hội (từ học viên, từ cộng đồng doanh nghiệp, từ các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các tổ chức quốc tế) để hỗ trợ phát triển GDĐH nói chung và phát triển
NNL GVĐH công lập nói riêng. Để tận dụng lợi thế này, Nhà nước có thể đưa ra
các chính sách khuyến khích các trường đại học hợp tác với các doanh nghiệp,
triển khai hoạt động NCKH theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp để có thêm
nguồn thu, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế hỗ trợ hiện đại hóa
cơ sở vật chất, thư viện, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và NCKH, xây dựng
phòng thí nghiệm. Nhà nước cũng có thể lựa chọn các dự án đầu tư để khuyến
khích đầu tư theo hình thức PPP (đối tác công-tư).
Bên cạnh đó, để đảm bảo các trường đại học sử dụng hiệu quả nguồn lực tài
chính của Nhà nước cấp, sử dụng đúng mục đích, đúng định mức, cần tăng cường
kiểm tra, giám sát, kiểm toán các khoản chi tiêu tài chính của các trường, đặc biệt
là chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi cho các hoạt động, chương trình nâng cao
năng lực, chất lượng NNL GVĐH.
166
4.2.7. Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm quy
định pháp luật liên quan đến phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học
công lập
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đã xác định một
trong những nguyên nhân của các yếu kém liên quan đến chất lượng GDĐH trong
thời gian qua là công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng
mức. Trong điều kiện đẩy mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ cho các cơ sở
GDĐH thì công tác thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường. Theo đó, thời gian
tới cần phát huy vai trò giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội, tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ,
công khai, minh bạch các hoạt động của cơ sở GDĐH theo quy định pháp luật.
Cơ quan QLNN về GDĐH cần yêu cầu các cơ sở GDĐH công lập trực
thuộc Bộ tiếp tục kiện toàn tổ chức thanh tra theo quy định tại Thông tư số
51/2012/TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định về tổ
chức và hoạt động thanh tra của các cơ sở GDĐH, trường cao đẳng, trường trung
cấp chuyên nghiệp. Tập trung nâng cao hiệu quả công tác thanh tra. Tổ chức thanh
tra, kiểm tra đúng quy trình quy định, kết luận rõ ràng, xử lý nghiêm các vi phạm,
tránh hình thức. Bên cạnh đó, cần định kỳ tổ chức rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ
thanh tra, cộng tác viên thanh tra của Bộ, các cơ sở GDĐH; xây dựng kế hoạch,
phối hợp tổ chức ĐTBD kiến thức về thanh tra giáo dục cho từng nhóm đối tượng
cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ thanh tra, cộng tác viên thanh tra của toàn ngành.
Để khắc phục nhược điểm hoạt động thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua
chưa bao quát hết nội dung quản lý GDĐH, cơ quan QLNN về GDĐH cần đổi mới
hoạt động thanh tra theo hướng tập trung nhiều hơn hơn vào thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện các nội dung QLNN về GDĐH và phát triển NNL GVĐH. Các nội
dung cụ thể này bao gồm: việc tuyển dụng giảng viên có đảm bảo tuân thủ các quy
định pháp luật về tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng hay không, việc sử dụng, phân
công công việc cho ĐNGV có đảm bảo theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và
vị trí việc làm hay không, đã đảm bảo định mức giảng dạy và NCKH của mỗi
giảng viên hay chưa, việc triển khai chính sách đào tạo và bồi dưỡng của Nhà nước
đã đúng quy định chưa.
167
4.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.3.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ GD&ĐT cần khẳng định vị thế là cơ quan đầu mối quản lý về giáo dục
đào tạo do Chính phủ giao, phát huy vai trò điều phối các Bộ, ngành, địa phương
trong triển khai chính sách, pháp luật của Nhà nước về GDĐH nói chung và phát
triển NNL GVĐH nói riêng, nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng thuận gắn với sự
tham gia tích cực và có trách nhiệm của các bên liên quan. Bộ GD&ĐT chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương thuộc khu vực ĐBSH cụ thể hóa các
chương trình, kế hoạch hàng năm theo hướng chi tiết hoá các hoạt động đổi mới
QLNN trong lĩnh vực GDĐH và phát triển NNL giảng viên ĐHCL.
- Hàng năm tổ chức đánh giá kết quả đạt được của ngành về phát triển NNL
GVĐH, mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển KTXH, thường xuyên rà soát và điều
chỉnh quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH công lập.
- Tham mưu, trình Chính phủ ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn về cơ chế, chính sách thu hút, tuyển
dụng, sử dụng giảng viên chất lượng cao đối với các trường đại học; chuẩn năng
lực GVĐH làm cơ sở cho việc quy hoạch, ĐTBD, đánh giá giảng viên.
- Nghiên cứu, trình Chính phủ phương án sửa đổi Luật Giáo dục đại học
2012, Luật Viên chức 2010 và các văn bản liên quan khác theo hướng tăng quyền
tự chủ cho các trường đại học công lập và có chính sách ưu đãi đặc biệt cho đội
ngũ GVĐH căn cứ tính chất đặc thù nghề nghiệp của nghề giảng viên và để tạo
động lực cho ĐNGV nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Tham mưu với Chính phủ để có các chính sách thu hút các nhà khoa học
nước ngoài có uy tín và kinh nghiệm, các tri thức Việt kiều tham gia giảng dạy và
NCKH tại Việt Nam; khuyến khích các cơ sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà
giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước làm quản lý của
cơ sở giáo dục, đào tạo lớn.
- Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo giảng viên cho các trường đại học, chú
trọng các biện pháp để triển khai thực chất 2 phương án: đào tạo ở nước ngoài và
kết hợp đào tạo trong và ngoài nước, đảm bảo chất lượng nghiên cứu sinh tương
thích với các tiêu chuẩn quốc tế về NCKH.
168
- Tham mưu, đề xuất đổi mới cơ chế trả lương và đãi ngộ đặc thù đối với
GVĐH để Chính phủ xem xét, tạo cơ sở xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh các nội dung tương ứng với thực tiễn cấp thiết đang đặt
ra hiện nay.
- Quản lý chặt chẽ quy trình đánh giá chất lượng GVĐH công lập, các hoạt
động thanh tra, kiểm tra. Các hoạt động này phải thực hiện thường xuyên, liên tục
gắn với trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.
- Tăng biên chế cho Thanh tra Bộ để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra,
thanh tra giáo dục.
4.3.2. Đối với các Bộ và chính quyền các địa phương khu vực đồng bằng sông
Hồng
- Các Bộ quản lý chuyên ngành căn cứ vào định hướng chung của ngành
Giáo dục cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể và xác định các giai đoạn, lộ
trình, biện pháp huy động các nguồn lực để triển khai thực hiện nhiệm vụ phát
triển NNL GVĐH công lập trong phạm vi chức năng nhiệm vụ có liên quan. Thiếu
đi quyết tâm và sự đồng tình ủng hộ của Bộ chủ quản và chính quyền địa phương,
các quyết sách về phát triển NNL GVĐH sẽ khó có thể thành công thực sự.
- Chủ động nghiên cứu, dự báo nhu cầu nhân lực của ngành, lĩnh vực thuộc
thẩm quyền quản lý để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển đội
ngũ GVĐH của các trường đại học trực thuộc.
- Cần có sự ủng hộ và chủ động, tích cực trong đầu tư, huy động, thu hút
các nguồn lực hợp pháp và sự tham gia của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
trong việc nâng cao chất lượng GDĐH và đầu tư phát triển, thu hút NNL GVĐH
trình độ cao thuộc ngành, lĩnh vực được giao quản lý. Quá trình thu hút đầu tư này
có hiệu quả hay không sẽ quyết định cơ chế tài chính tự chủ đối với các cơ sở
GDĐH vì ngân sách nhà nước không thể gánh hết cho chi trả đối với cơ chế thu
hút nhân tài và các chuyên gia hàng đầu mà các trường mong muốn thực hiện. Do
đó, Bộ quản lý chuyên ngành và chính quyền địa phương cần có nguồn tài chính
được dự kiến trước, ưu tiên dành cho phát triển NNL GVĐH thuộc phạm vi
ngành/lãnh thổ mình quản lý và có cơ chế tạo điều kiện để ĐNGV tâm huyết cống
hiến.
- UBND các tỉnh, thành phố có trường đại học thuộc địa bàn quản lý cần
169
xây dựng và cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách đổi
mới GDĐH thành các chương trình, kế hoạch hàng năm. Thường xuyên kiểm tra
việc chấp hành pháp luật về giáo dục của các cơ sở GDĐH trên địa bàn, thực hiện
xã hội hoá GDĐH, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển NNL GVĐH công lập của
địa phương cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng.
4.3.3. Đối với các trường đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, cần có một chiến lược phát triển năng lực NCKH. Công tác phát
triển năng lực GVĐH, đặc biệt là năng lực NCKH không thể tự phát mà rất cần
được quy định cụ thể hoá trong các văn bản, quy chế, điều lệ nhà trường và có lộ
trình thực hiện hợp lý. Trường đại học là trung tâm nghiên cứu, thực hành KHCN
nên rất cần chú trọng công tác ĐTBD cán bộ nhằm duy trì, phát triển đội ngũ. Các
trường cần có chiến lược khi xây dựng, phát triển đội ngũ, và cần được cụ thể hoá
bằng những kế hoạch đối với khoa, tổ, nhóm chuyên môn, với từng cá nhân giảng
viên. Đối với giảng viên trẻ, nơi tốt nhất để học nghề và rèn luyện năng lực sư
phạm, năng lực nghiên cứu là được làm việc cùng với các Giáo sư, nhà giáo, nhà
khoa học giỏi. Phân công người hướng dẫn, bồi dưỡng giảng viên trẻ cần trở thành
quy định bắt buộc đối với Giáo sư, Phó Giáo sư, tiến sĩ, giảng viên chính, giảng
viên cao cấp trong trường đại học. Giảng viên trẻ cần được định hướng NCKH
chuyên ngành, xác định được thế mạnh của mình, những vấn đề mới để đi sâu
nghiên cứu. Việc bồi dưỡng, phát triển GVĐH cần một sự đổi mới thực chất và
hiệu quả hơn là những khẩu hiệu theo phong trào, cần có một chế độ đãi ngộ thỏa
đáng đối với giảng viên có thành tựu và đội ngũ Giáo sư hướng dẫn, sao cho việc
phát triển nghề nghiệp của giảng viên không phải là chuyện của cá nhân mà là
chiến lược phát triển chung của trường đại học.
Thứ hai, các trường cần tạo cơ hội để giảng viên từng bước cọ xát với các
công trình NCKH. Có thể kết hợp thi đua NCKH với phong trào dạy tốt học tốt.
Cần đặt ra yêu cầu giảng viên phải tham gia vào các đề tài nghiên cứu, viết sáng
kiến kinh nghiệm, bài báo khoa học. Trường đại học cần hình thành và phát triển
một môi trường học thuật mà ở đó ĐNGV có động lực, mong muốn cống hiến cho
khoa học một cách nghiêm túc và tâm huyết. Hoạt động thi đua NCKH cần được
đẩy mạnh, gắn với lợi ích cá nhân nhằm tận dụng, phát huy tiềm năng nghiên cứu
đối với cán bộ giảng dạy.
170
Thứ ba, thực hiện cạnh tranh thực chất trong NCKH bằng cơ chế tài chính
trên cơ sở thực tài. Các trường cần thay đổi, bổ sung các quy định NCKH trong
trường đại học cho phù hợp với thực tiễn. Nghiên cứu chế độ, quy chế hoạt động
NCKH công nghệ chú ý đến chất lượng, hiệu quả thực tế nghiên cứu của chủ
nhiệm đề tài; tạo điều kiện về mặt pháp lý để ĐNGV trẻ có trình độ và năng lực có
thể độc lập nghiên cứu, hoặc hợp tác nghiên cứu những đề tài cấp cao, có nguồn
kinh phí dồi dào. Các trường đại học cần nghiên cứu, tiến hành các hoạt động tăng
nguồn thu nhập của giảng viên, xây dựng cơ chế phân bổ kinh phí NCKH chú
trọng chất lượng đề tài và năng lực nghiên cứu của cán bộ; khuyến khích các tổ
chức đầu tư, hợp tác NCKH. Khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích
trong nghiên cứu và giảng dạy; phát hiện và khuyến khích giảng viên có tài năng
NCKH tham gia nghiên cứu các đề tài trong và ngoài trường, giúp đỡ kinh phí, tạo
cơ hội cho giảng viên đi học tập, nghiên cứu ở những trường đại học lớn, những cơ
sở nghiên cứu uy tín ở trong và ngoài nước.
171
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề không thể
tách rời. Tăng cường quá quyền tự chủ mà không đặt yêu cầu về tự chịu trách
nhiệm sẽ có nguy cơ dẫn đến vô chính phủ, giảm sút chất lượng, chạy theo lợi ích
trước mắt. Ngược lại, tăng cường sự chịu trách nhiệm mà hạn chế quyền tự chủ sẽ
trói buộc các cơ sở GDĐH, không tạo ra động lực và cơ chế cho sự vận hành tự
nhiên, hạn chế sự linh hoạt, khả năng đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Duy trì
sự can thiệp đúng mức của Nhà nước thông qua các công cụ pháp lý, quy định, quy
chế, đầu tư nguồn lực, kiểm tra, giám sát, trên cơ sở đó, giảm dần sự can thiệp trực
tiếp vào quản lý vi mô, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đại học là yêu cầu cấp
thiết.
Để hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH,
chương 4 đã trình bày các quan điểm, định hướng phát triển GDĐH, định hướng
của ngành Giáo dục về phát triển NNL GVĐH, quan điểm của tác giả luận án về
hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập. Trên cơ sở các quan điểm,
định hướng nêu trên và để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn
chế, tồn tại trong QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH đã
phân tích ở chương 3, tác giả luận án đã đề ra một số giải pháp cơ bản và khuyến
nghị nhằm hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH,
góp phần hình thành và phát triển đội ngũ GVĐH có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển của khu vực ĐBSH và của cả nước trong bối cảnh toàn ngành giáo dục
tiếp tục cải cách, đổi mới giáo dục và trong xu thế toàn cầu hóa và phát triển của
nền kinh tế tri thức hiện nay. Các đề xuất này tập trung vào nội dung quy hoạch, kế
hoạch hóa phát triển NNL GVĐH công lập, hoàn thiện chính sách tuyển dụng, sử
dụng, tiền lương và phụ cấp, đào tạo bồi dưỡng, chính sách huy động, phân bổ hợp
lý và đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính do Nhà nước cấp, đổi mới và
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến phát triển
NNL GVĐH công lập.
172
KẾT LUẬN
Để hình thành được đội ngũ GVĐH có chất lượng không chỉ phụ thuộc vào
bản thân đội ngũ mà phải xuất phát từ những vấn đề liên quan đến QLNN đối với
NNL giảng viên, gắn với thu hút, tuyển dụng, sử dụng và phát triển nhằm tạo động
lực để ĐNGV giỏi yên tâm cống hiến và tâm huyết với nghề nghiệp. Ở nước ta,
khu vực ĐBSH có vai trò, vị trí quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển
KTXH của đất nước. ĐBSH là khu vực tập trung nhiều trường đại học công lập có
uy tín và tập trung nhiều nhà khoa học tinh hoa của đất nước, là một địa bàn quan
trọng cung cấp NNL chất lượng cho xã hội tương lai. Tập trung đầu tư phát triển
đội ngũ GVĐH công lập ở địa bàn này là một nhiệm vụ quan trọng của các chủ thể
QLNN nhằm nâng cao chất lượng GDĐH, nâng cao chất lượng học viên sau khi
tốt nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH của khu vực và cả nước.
Với giả thuyết nghiên cứu đặt ra: “Nguồn nhân lực GVĐH luôn đóng vai
trò quan trọng quyết định chất lượng đào tạo của bất kỳ cơ sở GDĐH nào. Phát
triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH ở Việt Nam thời gian qua vẫn chưa
được quan tâm, chú trọng đúng mức. Trình độ, năng lực đội ngũ GV vẫn còn hạn
chế, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng GDĐH. Có nhiều
nguyên nhân của thực tế trên, trong đó nguyên nhân cơ bản là do quản lý nhà nước
về phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH chưa được thực hiện hiệu quả.
Vì vậy, cần nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập khu vực ĐBSH theo hướng tập trung vào các nội dung cơ bản:
quy hoạch và kế hoạch hóa, thể chế, chính sách tuyển dụng và sử dụng, chính sách
tiền lương và phụ cấp, chính sách đào tạo và bồi dưỡng, huy động và sử dụng
nguồn lực tài chính. Nếu các giải pháp được đề xuất trên cơ sở khoa học và thực
tiễn sẽ góp phần phát triển NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH, đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng đào tạo đại học phục vụ phát triển KTXH khu vực ĐBSH nói
riêng và cả nước nói chung”, luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển
NNL GVĐH, QLNN về phát triển NNL GVĐH, làm cơ sở để phân tích thực trạng
QLNN, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại hạn chế, từ đó đề
ra giải pháp và khuyến nghị cụ thể cho các nhóm chủ thể quản lý.
173
Luận án đã xác định những nội dung cơ bản trong QLNN về phát triển NNL
GVĐH. Luận án nghiên cứu QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập ở ĐBSH
trên 7 nội dung là: (1) Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển NNL GVĐH công
lập; (2) Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phát triển
NNL GVĐH công lập; (3) Tuyển dụng và sử dụng NNL GVĐH công lập; (4) Tổ
chức thực hiện chính sách tiền lương và phụ cấp đối với NNL GVĐH công lập; (5)
Đào tạo và bồi dưỡng NNL GVĐH công lập; (6) Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài
chính phát triển NNL GVĐH công lập; (7) Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm
trong phát triển NNL GVĐH công lập. Trong đó, luận án nghiên cứu và phân tích
thực trạng QLNN về phát triển NNL giảng viên trong các trường đại học công lập
khu vực ĐBSH trực thuộc sự quản lý của các Bộ từ khi có Luật Giáo dục đại học,
số liệu thực trạng từ 2012 đến nay.
Để có cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối
với vấn đề này, luận án đã đi vào làm rõ các khái niệm then chốt về GDĐH, NNL
GVĐH công lập, phát triển NNL GVĐH công lập, QLNN về phát triển NNL
GVĐH công lập, xác định các nội dung cơ bản của QLNN đối với phát triển NNL
GVĐH công lập. Đồng thời, luận án làm rõ vai trò, chức năng của NNL GVĐH
công lập, sự cần thiết của QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập và các yếu tố
tác động đến QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập. Từ đó, luận án đã đi sâu
vào phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu và chất lượng NNL GVĐH công lập khu
vực ĐBSH. So với các khu vực trong cả nước thì đây cũng là một trong những khu
vực có số lượng Giáo sư, Phó Giáo sư, tiến sĩ đứng đầu cả nước. Tuy nhiên, phân
tích thực trạng cho thấy QLNN về phát triển NNL GVĐH khu vực ĐBSH vẫn còn
những bất cập, hạn chế từ thể chế pháp luật đến công tác quy hoạch, kế hoạch,
chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương và phụ cấp đối với
NNL GVĐH công lập, hoạt động thanh tra, kiểm tra. Luận án cũng đã rút ra một
số nguyên nhân chính của những hạn chế, xuất phát từ việc chậm thể chế hóa và cụ
thể hóa quan điểm của Đảng coi giáo dục là quốc sách và ưu tiên xếp lương nhà
giáo cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp, thể chế QLNN
chưa hoàn thiện từ khâu xây dựng pháp luật tới khâu tổ chức thực hiện thiếu phối
hợp và còn chồng chéo, điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn chế, ảnh hưởng đến
174
đầu tư của Nhà nước cho GDĐH và cho phát triển NNL GVĐH công lập, chính
sách quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các cơ sở GDĐH trong việc
thực thi pháp luật về phát triển NNL GVĐH còn lỏng lẻo và chưa hiệu quả.
Từ các phân tích, đánh giá, nhận định này, trên cơ sở quan điểm của Đảng
về phát triển giáo dục và GDĐH, định hướng của ngành Giáo dục về phát triển
NNL GVĐH và cơ sở lý luận QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập, tác giả
luận án đã đề xuất một số giải pháp cơ bản và một số khuyến nghị đối với các cơ
quan liên quan nhằm hoàn thiện QLNN về phát triển NNL GVĐH công lập khu
vực ĐBSH, góp phần hình thành và phát triển đội ngũ GVĐH có trình độ cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển của khu vực ĐBSH và của cả nước. Các giải pháp cơ bản
được đề xuất gồm: (1) Quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển NNL GVĐH công
lập phải gắn với yêu cầu phát triển GDĐH và phát triển khu vực ĐBSH; (2) Tăng
cường sự phối hợp trong tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phát
triển NNL GVĐH; (3) Tuyển dụng và sử dụng GVĐH công lập theo đúng tiêu
chuẩn chức danh và vị trí việc làm; (4) Cụ thể hóa, điều chỉnh và triển khai thực
hiện chính sách tiền lương và phụ cấp cho NNL GVĐH công lập khu vực ĐBSH;
(5) Đào tạo và bồi dưỡng NNL GVĐH công lập theo chuẩn và theo yêu cầu thực tế
của đại học công lập ngành và khu vực ĐBSH; (6) Huy động, phân bổ hợp lý và
đảm bảo các trường đại học sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất
cho phát triển NNL GVĐH công lập; (7) Đổi mới và tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm quy định pháp luật liên quan đến phát triển NNL
GVĐH công lập. Các giải pháp và khuyến nghị đối với một số cơ quan quản lý nhà
nước có thể làm thông tin tham khảo hữu ích đối với các cán bộ làm công tác
QLNN về GDĐH trong bối cảnh ngành Giáo dục nước ta đang tiếp tục thực hiện
chiến lược cải cách giáo dục và đổi mới GDĐH. Luận án được thực hiện với phạm
vi phân tích, đánh giá tương đối rộng nên khó tránh khỏi những hạn chế. Do đó,
một số nội dung trong luận án nếu chưa được luận giải đầy đủ sẽ được tiếp tục
nghiên cứu, đánh giá trong các công trình nghiên cứu tiếp theo./.
175
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Trần Thị Bảo Khanh (2013), Một số thách thức trong quản trị nguồn nhân
lực, Tạp chí Công Thương, số 07-7/2013.
2. Trần Thị Bảo Khanh (2013), Phát triển nguồn nhân lực theo quan điểm của
Đảng, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 458-7/2013.
3. Trần Thị Bảo Khanh (2013), Công tác quản trị và đào tạo nguồn nhân lực
chiến lược trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, Tạp chí Quản
lý nhà nước, số 211-8/2013.
4. Trần Thị Bảo Khanh (2013), Rà soát điều chỉnh định mức lao động của giảng
viên Trường Đại học Công đoàn cho phù hợp với thực tiễn, Tạp chí Đại học
Công đoàn, số 83-11/2013.
5. Trần Thị Bảo Khanh (2014), Phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong
hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(83)-2014.
6. Trần Thị Bảo Khanh (2015), Phát triển đội ngũ giảng viên đại học ở Việt
Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 238-11/2015.
176
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt Hệ thống các văn bản
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 4138/QĐ-BGDĐT ngày 20/9/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011-2020. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 6639/QĐ-BGDĐT ngày 29/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2020.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 51/2012/TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra của cơ sở giáo dục đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 3568/QĐ-BGDĐT ngày 05/9/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục-Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công văn số 7324/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 08/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động giảng dạy của giảng viên.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 39/2013/TT-BGDĐT ngày 04/12/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 06/VBHN-BGDĐT ngày 04/3/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học (hợp nhất Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT).
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 08/2014/TT-BGDĐT ngày 20/03/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học vùng và các cơ sở giáo dục đại học thành viên.
177
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 23/2014/TT-BGDĐT ngày 18/7/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về đào tạo chất lượng cao trình độ đại học.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số 28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 06/11/2015 của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề nghiệp đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập. 14. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 1611/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên cao cấp (hạng I).
16. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 1612/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên chính (hạng II).
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 1613/QĐ-BGDĐT ngày 16/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên (hạng III).
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chỉ thị số 5972/CT-BGDĐT ngày 20/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác thanh tra giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học.
20. Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06/6/2011 của Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối
178
với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
21. Bộ Nội vụ, Thông tư số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 của Bộ Nội vụ quy định về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức
22. Bộ Nội vụ, Công văn số 1732/BNV-CCVC ngày 15/4/2016 của Bộ Nội
vụ về việc thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức năm 2016.
23. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
24. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục.
25. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 54/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo.
26. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức.
27. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
28. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục.
29. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 141/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học.
30. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017.
31. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.
32. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ
179
của đơn vị sự nghiệp công lập.
33. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP ngày 08/9/2015 của Chính phủ quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học. 34. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021
35. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
36. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 46/2017/NĐ-CP ngày 21/4/2017 của Chính phủ quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
37. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 69/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục sửa
đổi 2009.
44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Viên chức
2010.
45. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục đại
học 2012.
180
46. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 911/QĐ-TTG ngày 17/6/2010 phê duyệt Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020.
47. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 579/QĐ-TTG ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
48. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020".
49. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 599/TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2020”
50. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020.
51. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020.
52. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014
của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Điều lệ trường đại học.
Sách, báo, đề tài, luận án, tạp chí
53. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai: vấn đề và giải pháp”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển
nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
56. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2008), Giáo trình “Kinh tế nguồn
nhân lực”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
57. Nguyễn Đức Chính (2005), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Nguyễn Đức Chính (2000), Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo dùng cho các trường đại học Việt Nam”, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, Đại học Quốc gia Hà Nội.
59. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực
giáo dục đại học Việt Nam , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
181
60. Hoàng Văn Châu (2009), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế-vấn đề cấp bách sau khủng hoảng”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 38/2009.
61. David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch (1995), Kinh tế học
Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
62. Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam: Thực tiễn và triển vọng, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Trần Kim Dung (2011), Quản trị nguồn nhân lực, NXB Tổng hợp, Tp.
Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Duy Dũng (2008), Đào tạo và quản lý nhân lực: Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam”, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
66. Nguyễn Hữu Dũng (2002), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, T8/2002.
67. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội.
68. Đoàn Văn Dũng (2015), Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
69. Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh (1993), Giáo trình “Quản trị nhân
sự”.
70. Đại học Lao động-Xã hội (2008), Giáo trình “Nguồn nhân lực”, NXB
Lao động-Xã hội, Hà Nội.
71. Nguyễn Thị Anh Đào (2013), Quản lý đội ngũ giảng viên ở các trường đại học tư thục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý giáo dục, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong
thế kỷ XXI, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
73. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2006), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 74. Ngô Văn Hà (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây
dựng đội ngũ GVĐH hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
182
76. Nguyễn Thị Hồng Hải (2013), Sách chuyên khảo “Quản lý nguồn nhân lực chiến lược khu vực công và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”, Học viện Hành chính Quốc gia.
77. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình “Quản lý học đại cương”, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
78. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình “Hành chính công”, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
79. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình “Lý luận hành chính nhà nước”. 80. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình “Quản lý nguồn nhân lực xã
hội”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
81. Học viện Hành chính (2012), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên chính phần III (QLNN đối với ngành, lĩnh vực), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
82. Đoàn Thị Thu Hương (2018), Phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển, Viện Chiến lược phát triển.
83. James H. Donnelly Jr., James L. Gibson và John M. Ivancevich (2001),
Quản trị học căn bản. NXB Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh.
84. Phan Văn Kha (2007), Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
85. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 86. Mai Quốc Khánh (1999), Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Phan Thanh Khôi (2008), “Đóng góp của đội ngũ trí thức vào chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 3/2008.
89. Phan Thanh Khôi, Nguyễn Văn Sơn (2011), “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”, Tạp chí Tuyên giáo, số tháng 7/2011.
90. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Bùi Thị Ngọc Lan (2007), “Một số bổ sung, phát triển trong chiến lược
phát triển NNL Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, T2/2007.
92. Trần Thị Lan (2014), Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục
183
đại học Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
93. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo: Kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
94. Trần Hồng Lưu (2009), Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Lê Quốc Lý (2016), Chính sách phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội đối với đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
96. Lê Thị Phương Nam (2012), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GVĐH giai đoạn 2010-2015, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu lập pháp.
97. Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Quý Thanh (2009), Giáo dục đại học: Một số thành tố của chất lượng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 98. Ngân hàng thế giới World Bank (2008), Báo cáo “Việt Nam: Giáo dục
đại học và kỹ năng cho tăng trưởng”, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
99. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Phạm Thành Nghị (2006), Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
101. Phạm Thành Nghị (2009), “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở những quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 2 (41) năm 2009.
102. Bùi Văn Nhơn, Nguyễn Trịnh Kiểm, Đinh Thị Minh Tuyết (2011), Giáo trình “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
103. Nguyễn Ngọc Quân (2006), Quản trị nguồn nhân lực, NXB Lao Động-
Xã hội, Hà Nội.
104. Nguyễn Ngọc Quân, Nguyễn Vân Điềm (2012), Giáo trình “Quản trị
nhân lực”, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
105. Bùi Văn Quân (2007), Giáo trình “Quản lý giáo dục”, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
106. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hàn Viết Thuận (2014), “Đổi mới nền giáo dục đại học Việt Nam hướng
184
đến sự phát triển của nền kinh tế tri thức”, Hội thảo quốc tế “Hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới giáo dục đại học Việt Nam”, Thành phố Hồ Chí Minh, 08/6/2014. (Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực phối hợp với Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức).
108. Nguyễn Hữu Thân (2012), Quản trị nhân sự, NXB Lao động-Xã hội, Hà
Nội.
109. Ngô Minh Tuấn (2013), Quản lý Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam: Vấn đề và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
110. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực-kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực
tài năng, NXB Thế giới, Hà Nội.
112. Đinh Thị Minh Tuyết (2011), Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực giáo dục đại học khu vực công: Lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
113. Đinh Thị Minh Tuyết, Phạm Đức Chính (2016), Kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp phòng trong đơn vị sự nghiệp, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
114. Từ điển Giáo dục học (2001), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 115. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức.
116. Đàm Đức Vượng (2008), “Việt Nam: Hội nhập và phát triển, thực trạng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức tháng 12/2008.
Tài liệu tiếng Anh
117. American Association of Colleges and Universities (2002), Greater Expectation: A New Vision for Learning as Nation Goes to College, National Panel Report, ACC&U, Washinton DC, USA.
118. Arthur M. Haupman (2006), Higher Education Finance: Trends and
Issues”, International Handbook of Higher Education, Springer, USA.
119. Ed Michaels và các cộng sự (2001), The War for Talent, Harvard
Business Review Press, Boston, USA.
120. Dolan, Shimon and Randall S. Schuler (1994), Human Resource
185
Management: the Canadian Dynamic, Nelson Canada.
121. Donald E. Hanna (2003), “Building a Leadership Vision: Eleven Strategic Challenges for Higher Education”, EDUCAUSE Review, Volume 38 No.4, Jul-Aug 2003, Washington DC, USA.
122. Gary Dessler, John Griffiths, Beverley Lloyd-Walker (2007), Human Resource Management: Theory, Skills, Application, 3rd Edition, Pearson Education Australia, NSW, Australia.
123. Ivancevich, John M (1998), Human Resource Management, McGraw-
Hill Irwin, Boston, Massachasetts.
124. Jeffrey A. Mello (2006), Strategic Human Resource Management”,
South-Western College Publishing, USA.
125. Kells, H. R. (1995), Self-study processes: A guide to self-evaluation in higher education, American Council on Education, Oryx Press, Phoenix, Arizona, USA.
126. Lance A. Berger và Dorothy R. Berger (2003), The Talent Management Handbook: Creating a Sustainable Competitive Advantage by Selecting, Developing, and Promoting the Best People, McGraw-Hill, USA.
127. Middle States Commission on Higher Education
(2002), education”, ERIC excellence in higher
“Characteristics of Clearinghouse, Washington DC, USA.
128. Paul Turner và Danny Kalman (2014), Make your people before you make your products: Using Talent Management to Achieve Competitive Advantage in Global Organizations”, John Wiley & Sons Singapore Pte.Ltd., Singapore.
129. Ronald Barnett (1990), The Idea of Higher Education, Open University
Press, Buckingham, UK.
130. Robert L. Mathis và các cộng sự (2015), Human Resource Management- Essential Perspectives, 7th Edition, South-Western College Publishing, USA.
131. Sims, Ronald R. (2007), Human Resource Management: Contemporary Issues, Challenges, and Opportunities, Information Age Publishing, North Carolina, USA.
132. Southeast Asian Ministers of Education Organization (2003), Framework in higher education, for regional quality assurance cooperation SEAMEO Secretariat, Mom Luang Pin Malakul Centenary Bldg, 920 Sukhumvit Rd, Bangkok 10110, Thailand.
133. Terry Lunn (1992), The Talent Factor: Key Strategies for Recruiting, Rewarding and Retaining Top Performers”, Kogan Page Limited,
186
London, UK.
134. Vlad Vaiman và Charles M. Vance (2010), Smart Talent Management: Building Knowledge Assets for Competitive Advantage, Edward Elgar Publishing Ltd., USA.
135. World Bank (1994), Report “High Eduation: The lessons of experience”,
A World Bank Publication, Washington DC, USA.
136. World Economic Forum (2016), The Global Competitiveness Report
2016-2017, WEF, Geneva, Switzerland.
137. Yoder, Dale and Paul D, Staudhar (1986), Personnel Management and
Industrial relations, 7th Edition, Prentice Hall, India.
Tài liệu từ Internet, báo mạng
138. Vũ Cao Đàm (2014), Tuyên bố Dora có làm thay đổi cách đánh giá khoa
học.
139. Hiếu Nguyễn (2017), 50% số công bố quốc tế trong cả nước đến từ các
trường đại học.
140. Lê Văn (2017), Những con số biết nói về giáo dục đại học Việt Nam.
141. Đinh Thị Nga (2017), Đầu tư của nhà nước cho giáo dục, đào tạo: Thực
trạng và một số đề xuất.
142. Từ điển Cambridge online
143. Bộ Nội vụ, Một số vấn đề chung về quản lý hành chính nhà nước
(Chuyên đề 3), Tài liệu bồi dưỡng ngạch cán sự và tương đương.
187
PHỤ LỤC
188
PHỤ LỤC 1
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT
Mẫu 01-GV
PHIẾU KHẢO SÁT (Phiếu dành cho giảng viên)
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập”, xin anh/chị cho biết ý kiến về những nội dung sau bằng cách đánh dấu X vào những ô thích hợp hoặc viết thêm ý kiến cá nhân vào phần giấy để trắng (Những thông tin được cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu).
Hưng Yên Nam Ðịnh Ninh Bình Thái Bình Vĩnh Phúc
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của anh/chị! 1. Địa phương công tác: Bắc Ninh Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh Hải Dương Hà Nam 2. Chức danh: Giảng viên Giảng viên chính Giảng viên cao cấp 3. Trình độ đào tạo: Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ 4. Học hàm: Phó giáo sư Giáo sư 5. Thâm niên giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên 6. Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học ở đơn vị ông/bà công tác hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác:……………………………………………………………….
189
7. Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây? Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên Khác (xin nêu cụ thể):………………………………… 8. Cơ quan anh/chị tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác:…………………………………………………… 9. Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây hạn chế khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác:…………………………………………………… 10. Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây có khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác:…………………………………………………… 11. Cơ quan anh/chị tuyển dụng giảng viên bằng hình thức nào? Thư giới thiệu Thi tuyển Xét tuyển Khác: ………………………………………………….. 12. Tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập hiện nay nhấn mạnh vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học 13. Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập
190
trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học 14. Anh/chị đánh giá như thế nào về mức độ thường xuyên của việc ĐT-BD giảng viên ở cơ quan anh/chị hiện nay? Rất thường xuyên Thường xuyên Tương đối thường xuyên Chưa thường xuyên Khác:……………………………………………………. 15. Cơ quan anh/chị có phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không? Có Không 16. Cơ quan anh/chị có cơ chế cạnh tranh trong xác định đối tượng ĐT-BD giảng viên không? Có Không 17. Mục đích ĐT-BD giảng viên tại cơ quan anh/chị chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu 18. Theo anh/chị, nội dung ĐT-BD giảng viên đại học nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu 19. Cơ quan anh/chị có thực hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi gửi đi ĐT-BD không? Có Không Khác: ……………………………………………. 20. Các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác: ……………………… 21. Để khuyến khích giảng viên đại học tự phát triển năng lực cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Kiểm đinh, đánh giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu Xây dựng chính sách khen thưởng, kỷ luật
191
Tuyên truyền, khuyến khích, nêu gương điển hình Khảo sát ý kiến sinh viên Khác:……………………………………………… 22. Theo anh/chị để nâng cao hiệu quả việc phát triển giảng viên đại học cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Lập kế hoạch phát triển Tạo nguồn Thi tuyển Sử dụng Đào tạo-Bồi dưỡng Trả lương Kiểm tra, đánh giá Khen thưởng, kỷ luật Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!
192
Mẫu 02 –QLTĐH
PHIẾU KHẢO SÁT (Dành cho vị trí lãnh đạo thuộc Trường đại học)
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập”, xin anh/chị cho biết ý kiến về những nội dung sau bằng cách đánh dấu X vào những ô thích hợp hoặc viết thêm ý kiến cá nhân vào phần giấy để trắng (Những thông tin được cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu). Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!
Hưng Yên Nam Ðịnh Ninh Bình Thái Bình Vĩnh Phúc
1. Địa phương công tác: Bắc Ninh Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh Hải Dương Hà Nam 2. Chức vụ: Trưởng phòng/Bộ môn Trưởng Khoa/Ban Hiệu trưởng/Giám đốc 3. Chức danh: Giảng viên Giảng viên chính Giảng viên cao cấp 4. Trình độ đào tạo: Tiến sĩ Thạc sĩ 5. Học hàm: Giáo sư Phó giáo sư 6. Thâm niên giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên 7. Thâm niên quản lý tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên 8. Anh/chị hãy cho biết tầm quan trọng của hoạt động phát triển giảng viên đại học?
193
Rất quan trọng Quan trọng Tương đối quan trọng Không quan trọng 9. Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học ở đơn vị công tác hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác:……………………………………………………. 10. Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây? Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên Khác:……………………………………………………… 11. Cơ quan anh/chị tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác:……………………………………………………… 12. Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây có khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác:……………………………………………………… 13. Cơ quan anh/chị tuyển dụng giảng viên bằng hình thức nào? Thư giới thiệu Thi tuyển Xét tuyển Khác: …………………………………………………….. 14. Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn
194
Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học 15. Anh/chị đánh giá như thế nào về chất lượng ĐT-BD giảng viên ở cơ quan ông/bà hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt 16. Cơ quan anh/chị có phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không? Có Không 17. Theo anh/chị đối với giảng viên đại học, việc ĐT-BD giảng viên nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu 18. Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác: …………………………………………….. 19. Để khuyến khích giảng viên đại học tự phát triển năng lực cần tập trung chính vào nội dung nào sau đây? Kiểm đinh, đánh giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu Xây dựng chính sách khen thưởng, kỷ luật Tuyên truyền, khuyến khích, nêu gương điển hình Khảo sát ý kiến sinh viên Khác:……………………………………………… 20. Để nâng cao hiệu quả việc phát triển giảng viên đại học cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Lập kế hoạch phát triển Tạo nguồn Thi tuyển Sử dụng Đào tạo-Bồi dưỡng Trả lương Kiểm tra, đánh giá Khen thưởng, kỷ luật
195
Mẫu 03-QLNN
PHIẾU KHẢO SÁT (Dành cho người công tác tại cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học)
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên đại học công lập”, xin anh/chị cho biết ý kiến về những nội dung sau bằng cách đánh dấu X vào những ô thích hợp hoặc viết thêm ý kiến cá nhân vào phần giấy để trắng (Những thông tin được cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu).
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!
41-45 56-60 46-50 51-55 36-40 Trên 60
1. Chức vụ người được hỏi……………………………………………. 2. Nơi công tác của người được hỏi…………………………………… 3. Độ tuổi (đánh dấu X vào ô tương ứng) Dưới 31 31-35 4. Thâm niên công tác 1-5 năm 11-15 năm 6-10 năm 16 năm trở lên
5. Chức danh/ngạch Chuyên viên Chuyên viên chính Chuyên viên cao cấp 6. Anh/chị hãy cho biết tầm quan trọng của hoạt động phát triển giảng viên đại học? Rất quan trọng Quan trọng Tương đối quan trọng Không quan trọng 7. Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác:…………………………………………… 8. Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây? Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên
196
Bản thân đội ngũ giảng viên Khác:……………………………………………… 9. Anh/chị hãy đánh giá chất lượng lập kế hoạch và tạo nguồn giảng viên đại học hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác:…………………………………………………… 10. Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập hiện nay nhấn mạnh vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học 11. Tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học 12. Theo anh/chị có nên phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không? Có Không 13. Theo anh/chị đối với giảng viên đại học, việc ĐT-BD giảng viên nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu 14. Theo anh/chị có nên thực hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi gửi đi ĐT-BD không? Có Không Khác: …………………………………………… 15. Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác: …………………………………………… 16. Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên yên tâm giảng dạy và nghiên cứu khoa học không? Có
197
Không Khác: ……………………….. 17. Anh/chị hãy cho biết việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học hiện nay có đáp ứng được yêu cầu trong kiểm soát chất lượng nguồn nhân lực giảng viên đại học không? Không đáp ứng Đáp ứng Chưa đáp ứng Hoàn toàn đáp ứng Khác: …………………………………………… Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!
198
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ TỔNG HỢP PHIẾU ĐIỀU TRA
Mẫu 01: 660 phiếu
CÂU HỎI
- Chức danh: Giảng viên Giảng viên chính Giảng viên cao cấp - Trình độ đào tạo: Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ - Học hàm: Phó giáo sư Giáo sư - Thâm niên giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên - Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học ở đơn vị ông/bà công tác hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt - Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây? Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên Khác - Cơ quan anh/chị tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Số phiếu có 476 156 28 48 524 88 32 0 128 188 236 108 52 116 424 68 300 460 260 580 340 260 0 236 128 Tỷ lệ (%) 72,12 23,63 27,87 35,15 79,39 13,33 04,84 0 19,39 28,48 35,75 16,51 07,87 17,57 64,24 10,30 45,45 69,69 39,39 87,87 51,51 39,69 0 35,75 19,39
199
428 88 92 04 140 516 176 0 0 0 236 36 304 660 408 0 0 536 316 28
Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác - Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây hạn chế khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác - Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây có khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác - Cơ quan anh/chị tuyển dụng giảng viên bằng hình thức nào? Thư giới thiệu Thi tuyển Xét tuyển Khác - Tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập hiện nay nhấn mạnh vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học - Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học - Anh/chị đánh giá như thế nào về mức độ thường xuyên của việc ĐT-BD giảng viên ở cơ quan anh/chị hiện nay? Rất thường xuyên 416 156 580 292 128 268 236 396 572 312 92 64,84 13,33 13,93 0,60 21,21 78,18 26,66 0 0 0 35,75 05,45 46,06 100,0 61,81 0 0 81,21 47,87 04,24 63,03 23,63 87,87 44,24 19,39 40,60 35,75 60,0 86,66 47,27 13,93
200
184 336 48 08
Thường xuyên Tương đối thường xuyên Chưa thường xuyên Khác - Cơ quan anh/chị có phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không? Có Không - Cơ quan anh/chị có cơ chế cạnh tranh trong xác định đối tượng ĐT-BD giảng viên không? Có Không - Mục đích ĐT-BD giảng viên tại cơ quan anh/chị chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu - Theo anh/chị, nội dung ĐT-BD giảng viên đại học nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu - Cơ quan anh/chị có thực hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi gửi đi ĐT-BD không? Có Không Khác - Các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác - Để khuyến khích giảng viên đại học tự phát triển năng lực cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Kiểm đinh, đánh giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu Xây dựng chính sách khen thưởng, kỷ luật Tuyên truyền, khuyến khích, nêu gương điển hình Khảo sát ý kiến sinh viên - Theo ông/bà để nâng cao hiệu quả việc phát triển giảng viên đại học cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Lập kế hoạch phát triển Tạo nguồn Thi tuyển Sử dụng Đào tạo-Bồi dưỡng 444 216 568 92 608 448 216 484 424 392 148 484 28 280 348 32 308 384 144 224 104 136 380 188 304 27,87 50,90 07,27 01,21 67,27 32,72 86,06 13,93 92,12 67,87 32,72 73,33 64,24 59,39 22,42 73,33 04,24 42,42 52,72 04,84 46,66 58,18 21,81 33,93 15,75 20,60 57,57 28,48 46,06
201
Trả lương Kiểm tra, đánh giá Khen thưởng, kỷ luật 408 296 100 61,81 44,84 15,51
Mẫu 02: 200 phiếu
CÂU HỎI
- Chức danh: Giảng viên Giảng viên chính Giảng viên cao cấp - Trình độ đào tạo: Thạc sĩ Tiến sĩ - Học hàm: Phó giáo sư Giáo sư - Thâm niên giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên - Thâm niên quản lý tại cơ sở giáo dục đại học: 1-5 năm 6-10 năm 11-15 năm 16 năm trở lên - Anh/chị hãy cho biết tầm quan trọng của hoạt động phát triển giảng viên đại học? Rất quan trọng Quan trọng Tương đối quan trọng Không quan trọng - Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học ở đơn vị ông/bà công tác hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác - Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây? Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Số phiếu có 64 92 44 112 88 32 0 0 24 48 128 36 44 48 32 88 80 32 0 24 80 68 28 0 140 200 40 Tỷ lệ (%) 32,0 46,0 22,0 56,0 44,0 16,0 0 0 12,0 24,0 64,0 18,0 22,0 24,0 16,0 44,0 40,0 16,0 0 12,0 40,0 34,0 14,0 0 70,0 100,0 20,0
202
120 20 120 0 84 04 156 08 04 20 48 08 52 136 84 08 0 136 96 08 148 128 200 172 116 16 88 104 32 0 60,0 10,0 60,0 0 42,0 02,0 78,0 04,0 02,0 10,0 24,0 04,0 26,0 68,0 42,0 04,0 0 68,0 48,0 04,0 74,0 64,0 100 86,0 58,0 08,0 44,0 52,0 16,0 0 Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên Khác - Cơ quan anh/chị tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác - Tạo nguồn giảng viên bằng hình thức nào dưới đây có khả năng hình thành được đội ngũ giảng viên có chất lượng nhất? Giữ sinh viên giỏi ở lại trường làm giảng viên Tuyển người có học vị từ cử nhân trở lên và tự đào tạo Tuyển người có học vị từ thạc sĩ trở lên và tự đào tạo Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ trong nước Tuyển thẳng người có học vị tiến sĩ ở nước ngoài Khác - Cơ quan anh/chị tuyển dụng giảng viên bằng hình thức nào? Thư giới thiệu Thi tuyển Xét tuyển Khác - Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học - Anh/chị đánh giá như thế nào về chất lượng ĐT-BD giảng viên ở cơ quan ông/bà hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác - Cơ quan anh/chị có phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không?
203
Có Không - Theo ông/bà đối với giảng viên đại học, việc ĐT-BD giảng viên nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu - Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác - Để khuyến khích giảng viên đại học tự phát triển năng lực cần tập trung chính vào nội dung nào sau đây? Kiểm đinh, đánh giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu Xây dựng chính sách khen thưởng, kỷ luật Tuyên truyền, khuyến khích, nêu gương điển hình Khảo sát ý kiến sinh viên Khác - Để nâng cao hiệu quả việc phát triển giảng viên đại học cần tập trung chính vào vấn đề nào sau đây? Lập kế hoạch phát triển Tạo nguồn Thi tuyển Sử dụng Đào tạo-Bồi dưỡng Trả lương Kiểm tra, đánh giá Khen thưởng, kỷ luật 148 52 172 188 192 76 108 16 180 96 128 148 20 164 92 68 48 136 104 188 104 74,0 26,0 86,0 94,0 96,0 38,0 54,0 08,0 90,0 48,0 64,0 74,0 10,0 92,0 46,0 34,0 24,0 68,0 52,0 94,0 52,0
Mẫu 03: 86 phiếu
CÂU HỎI
- Chức danh/ngạch Chuyên viên Chuyên viên chính Chuyên viên cao cấp - Anh/chị hãy cho biết tầm quan trọng của hoạt động phát triển giảng viên đại học Rất quan trọng Quan trọng Số phiếu có 45 37 04 33 39 Tỷ lệ (%) 52,32 43,02 04,65 38,37 45,34
204
Tương đối quan trọng Không quan trọng Anh/chị đánh giá như thế nào về hoạt độngphát triển giảng viên đại học hiện nay Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác - Những hạn chế trong phát triển giảng viên hiện nay xuất phát từ nguyên nhân chính nào sau đây Nội dung đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Phương pháp đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Cơ sở và đội ngũ đào tạo-bồi dưỡng giảng viên Chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về phát triển giảng viên Năng lực của trường đại học trong thực hiện phát triển giảng viên Bản thân đội ngũ giảng viên Khác - Anh/chị hãy đánh giá chất lượng lập kế hoạch và tạo nguồn giảng viên đại học hiện nay? Rất tốt Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Khác - Theo anh/chị, tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập hiện nay nhấn mạnh vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học - Tiêu chí tuyển dụng giảng viên đại học công lập nên tập trung nhất vào nội dung nào sau đây Tiêu chuẩn học vị (bằng cấp) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần hợp tác Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu khoa học - Theo anh/chị có nên phân loại đối tượng cụ thể khi thực hiện ĐT-BD giảng viên không? Có Không 14 0 02 22 36 14 02 34 46 34 42 39 40 0 06 24 41 15 0 64 29 55 45 20 64 42 67 59 63 55 31 16,27 0 02,32 25,58 41,86 16,27 02,32 39,53 53,48 39,53 48,83 45,34 46,51 0 06,97 27,90 47,67 17,44 0 74,41 33,72 63,95 52,32 75,58 07,44 48,83 77,90 68,60 73,25 63,95 36,04
205
69 76 61 54 24 08
48 21 17 33 31 22
- Theo ông/bà đối với giảng viên đại học, việc ĐT-BD giảng viên nên chú trọng nhất vào nâng cao nhóm năng lực nào sau đây? Năng lực chuyên môn Năng lực giảng dạy Năng lực nghiên cứu - Theo anh/chị có nên thực hiện đánh giá chất lượng giảng viên sau khi gửi đi ĐT-BD không? Có Không Khác - Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên tự phát triển năng lực không? Có Không Khác - Theo anh/chị các chính sách đối với giảng viên đại học hiện nay có tạo động lực để giảng viên yên tâm giảng dạy và nghiên cứu khoa học không? Có Không Khác - Anh/chị hãy cho biết việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học hiện nay có đáp ứng được yêu cầu trong kiểm soát chất lượng nguồn nhân lực giảng viên đại học không? Không đáp ứng Đáp ứng Chưa đáp ứng Hoàn toàn đáp ứng Khác 15 29 28 05 03 80,23 88,37 70,93 62,79 27,90 09,30 55,81 24,41 19,76 38,37 03,60 25,58 17,44 33,72 32,55 05,81 03,48
206
PHỤ LỤC 3
SỐ LIỆU VỀ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC, SINH VIÊN ĐẠI HỌC KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Quy mô giảng viên các trường đại học trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017 ĐVT: giảng viên
STT
Các trường đại học Hà Nội
1 Học viện Âm nhạc Quốc gia 2 Học viện Ngoại giao 3 Học viện Quản lý giáo dục 4 Học viện Tài chính 5 Học viện Hành chính Quốc gia 6 HV Y dược học cổ truyền Việt Nam 7 ĐH Công nghệ giao thông vận tải HN 8 ĐH Công nghiệp Hà Nội 9 ĐH Công nghiệp Việt Hung 10 ĐH Dược Hà Nội 11 ĐH Kiến trúc 12 ĐH Lâm nghiệp 13 ĐH Lao động xã hội 14 ĐH Luật Hà Nội 15 ĐH Mỹ thuật Việt Nam 16 ĐH Nội vụ Hà Nội 17 ĐH Sân khấu điện ảnh 18 ĐH Tài nguyên và Môi trường 19 ĐH Thủy lợi 20 ĐH Văn hóa 21 ĐH Y Hà Nội 22 ĐH Y tế công cộng 23 Viện Đại học Mở Hà Nội 24 ĐH Bách khoa Hà Nội 25 ĐH Xây dựng 26 ĐH Kinh tế Quốc dân 27 ĐH Hà Nội 28 ĐH Sư phạm Hà Nội 29 ĐH Ngoại thương 30 ĐH Thương mại 31 ĐH Giao thông Vận tải 32 ĐH Mỏ-Địa chất 33 ĐH Mỹ thuật công nghiệp 34 ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương 35 ĐH Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội 36 ĐH Nông nghiệp Hà Nội
2012– 2013 181 78 87 458 320 209 494 1.451 291 181 395 407 375 284 51 192 111 143 535 170 654 99 213 1.276 797 729 418 881 542 549 712 650 123 185 130 780
2013– 2014 167 207 78 439 216 211 494 1.558 580 115 338 397 366 234 45 279 292 260 540 128 505 78 247 754 438 685 532 437 678 617 123 223 134 745 17 706
2014- 2015 222 207 83 471 384 236 490 1.450 290 209 356 454 455 225 48 315 179 280 496 124 698 136 247 1.179 817 754 438 685 532 437 678 617 123 223 134 745
2015– 2016 174 201 83 468 363 256 568 1.487 299 195 485 456 453 277 61 317 116 284 649 120 556 116 339 1.217 636 936 428 946 528 444 849 702 116 169 103 745
2016- 2017 206 100 104 478 458 298 490 1.227 265 201 472 633 453 267 47 354 202 291 586 115 677 124 314 1.166 676 807 445 827 518 439 798 680 120 270 113 728
207
Hưng Yên
Vĩnh Phúc
Bắc Ninh
71 0 366 301 150 472 681 178 184 162 279
68 0 370 273 181 471 631 312 137 180 278
75 17 415 339 175 385 627 323 211 220 290
75 22 381 350 169 351 323 360 224 215 372
37 Học viện chính sách và phát triển 38 ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội 39 ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên 40 ĐH Sư phạm Hà Nội 2 41 ĐH Thể dục thể thao Bắc Ninh Hải Dương 42 ĐH Sao Đỏ Hải Phòng 43 ĐH Hàng Hải 44 ĐH Y Hải Phòng Nam Định 45 ĐH Điều dưỡng Nam Định 46 ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định Thái Bình 47 ĐH Y Thái Bình
82 30 431 364 169 238 653 266 199 212 372 17.995 16.764 18.494 18.984 18.965
Tổng Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tỷ lệ giảng viên nữ tại đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017 ĐVT: % Các trường đại học
STT
Hà Nội
1 Học viện Âm nhạc Quốc gia 2 Học viện Ngoại giao 3 Học viện Quản lý giáo dục 4 Học viện Tài chính 5 Học viện Hành chính Quốc gia 6 HV Y dược học cổ truyền Việt Nam 7 ĐH Công nghệ giao thông vận tải HN 8 ĐH Công nghiệp Hà Nội 9 ĐH Công nghiệp Việt Hung 10 ĐH Dược Hà Nội 11 ĐH Kiến trúc 12 ĐH Lâm nghiệp 13 ĐH Lao động xã hội 14 ĐH Luật Hà Nội 15 ĐH Mỹ thuật Việt Nam 16 ĐH Nội vụ Hà Nội 17 ĐH Sân khấu điện ảnh 18 ĐH Tài nguyên và Môi trường 19 ĐH Thủy lợi
2013– 2012- 2014 2013 31,13 58,01 47,34 51,28 70,51 57,47 68,56 66,81 45,31 57,40 68,42 100,00 30,56 30,56 56,29 49,55 43,79 37,80 03,43 29,28 37,57 33,92 56,20 48,89 64,48 64,00 66,23 56,33 23,91 29,41 60,93 59,37 53,08 47,74 64,23 62,23 35,74 36,07
2014- 2015 68,01 32,85 66,26 69,00 33,33 82,20 67,95 54,82 43,79 59,80 47,47 61,67 0,65 69,77 45,83 65,71 55,30 86,42 40,72
2015– 2016 59,19 74,25 67,46 67,94 45,45 73,43 35,38 53,19 43,47 60,51 35,67 53,72 66,44 35,01 22,95 64,66 39,65 69,71 30,50
2016- 2017 44,66 72,00 65,38 67,15 56,33 68,79 37,55 51,92 44,53 58,71 36,86 43,60 66,45 68,16 21,28 63,84 45,54 72,16 32,76
208
63,28 55,88 29,50 46,02 75,64 69,69 59,72 61,97 32,35 32,21 26,79 26,34 59,81 54,59 76,09 80,38 61,74 58,68 73,99 68,63 62,81 72,85 46,57 32,30 26,20 29,07 39,31 38,21 56,78 57,29 43,07 38,46 49,29 42,94 49,29 100,00
20 ĐH Văn hóa 21 ĐH Y Hà Nội 22 ĐH Y tế công cộng 23 Viện Đại học Mở Hà Nội 24 ĐH Bách khoa Hà Nội 25 ĐH Xây dựng 26 ĐH Kinh tế Quốc dân 27 ĐH Hà Nội 28 ĐH Sư phạm Hà Nội 29 ĐH Ngoại thương 30 ĐH Thương mại 31 ĐH Giao thông Vận tải 32 ĐH Mỏ-Địa chất 33 ĐH Mỹ thuật công nghiệp 34 ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương 35 ĐH Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội 36 ĐH Nông nghiệp Hà Nội 37 Học viện Chính sách và Phát triển 38 ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội
Hưng Yên
39 ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Vĩnh Phúc
40 ĐH Sư phạm Hà Nội 2
Bắc Ninh
41 ĐH Thể dục thể thao Bắc Ninh
Hải Dương 42 ĐH Sao Đỏ Hải Phòng
43 ĐH Hàng Hải 44 ĐH Y Hải Phòng Nam Định
73,38 52,00 56,61 67,61 22,64 39,04 55,83 78,76 59,41 73,87 67,73 36,87 58,02 43,08 68,60 61,94 50,60 76,00 - 100,00 59,03 47,83 47,19 55,31 26,85 28,17 50,64 50,95 67,14 27,41 63,77 67,30 39,41 31,66 62,36 45,24
73,33 52,15 57,75 54,57 32,70 29,24 46,36 81,07 55,49 73,86 66,66 33,33 34,47 60,94 60,94 44,66 53,02 76,00 45,45 45,14 54,00 28,99 50,42 62,50 60,24 70,61 100,00 43,72 54,09 60,21 68,62 53,95 57,47
- 46,72 53,48 22,00 47,45 94,38 71,91 20,10 50,61 60,21 50,30
75,65 49,34 54,84 52,55 33,28 29,88 54,65 80,22 57,07 74,13 68,56 35,84 33,82 42,50 58,89 38,05 50,82 31,71 40,00 41,30 56,87 28,99 60,08 32,92 64,66 71,36 44,34 60,22 52,02
45 ĐH Điều dưỡng Nam Định 46 ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định Thái Bình 47 ĐH Y Thái Bình Trung bình Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
209
Trình độ giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017 ĐVT: giảng viên
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017
STT
Trường đại học
Thạc sĩ
Đại học
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Đại học
Tiến sĩ
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Đại học
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Đại học
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Đại học
Hà Nội
15
89
77
20
101
27
110
22
131
53
85
25
99
50
1
46
13
35
28
27
94
29
92
31
62
86
21
59
21
2
86
7
Học viện Âm nhạc Quốc gia Học viện Ngoại giao
3
12
39
36
17
51
10
17
51
15
23
59
1
37
61
1
Học viện Quản lý giáo dục
4
91
213
154
103
214
122
110
273
88
119
279
70
160
294
24
Học viện Tài chính
5
54
157
109
103
81
32
95
102
75
80
204
79
208
204
46
Học viện Hành chính Quốc gia
6
1
66
106
12
98
101
6
94
131
12
146
90
32
193
57
Học viện Y dược học cổ truyền VN
7
35
392
67
35
392
67
41
294
155
58
446
64
76
397
17
ĐH Công nghệ giao thông vận tải HN
8
50
603
798
57
667
834
78
1.162
210
120
1.174
193
133
1.038
56
ĐH Công nghiệp HN
9
24
185
82
48
376
156
24
188
78
21
221
57
19
214
32
ĐH Công nghiệp Việt Hung
10
0
73
55
53
27
46
64
102
42
68
100
70
100
27
31
ĐH Dược Hà Nội
11
65
266
73
56
31
242
32
250
74
89
319
93
330
77
49
12
194
180
169
206
226
206
232
187
122
316
195
33
22
22
37
ĐH Kiến trúc ĐH Lâm nghiệp
13
94
204
116
54
73
199
65
312
76
66
333
66
333
54
53
ĐH Lao động xã hội
14
42
91
114
79
97
95
86
139
0
82
159
71
162
36
34
ĐH Luật Hà Nội
15
7
40
5
6
2
36
3
39
6
5
51
6
40
5
1
ĐH Mỹ thuật VN
16
95
85
12
82
31
110
138
38
158
119
35
200
37
211
106
17
44
60
7
44
28
124
140
18
61
100
25
47
25
77
100
ĐH Nội vụ Hà Nội ĐH Sân khấu điện ảnh
18
8
69
66
5
134
121
6
188
86
10
221
53
13
245
33
ĐH Tài nguyên và Môi trường
19
114
289
132
124
303
113
132
279
85
196
385
68
209
303
74
ĐH Thủy lợi
20
24
35
104
31
8
96
8
95
89
11
15
89
21
20
11
ĐH Văn hóa
21
85
146
317
143
104
316
248
354
288
102
265
357
86
93
50
22
24
22
45
32
6
48
61
57
52
14
64
52
18
50
8
ĐH Y Hà Nội ĐH Y tế công cộng
23
27
121
65
41
172
34
41
172
34
108
207
24
98
192
24
Viện Đại học Mở Hà Nội
24
529
591
156
612
511
56
612
511
56
694
469
54
711
421
34
ĐH Bách khoa Hà Nội
210
42
25
208
426
163
222
449
146
222
449
146
127
468
188
446
41
25
26
235
383
111
267
415
267
415
425
459
427
355
72
72
52
ĐH Xây dựng ĐH Kinh tế Quốc dân
79
99
99
92
27
ĐH Hà Nội
32
252
134
61
278
61
278
50
286
61
305
44
28
234
350
297
206
370
109
206
370
109
378
447
121
418
365
ĐH Sư phạm Hà Nội
8
29
80
332
130
99
408
25
99
408
25
107
408
13
113
397
ĐH Ngoại thương
16
30
65
284
200
101
303
33
101
303
33
93
323
28
102
321
31
196
363
153
93
443
142
93
443
142
173
539
137
203
494
101
ĐH Thương mại ĐH Giao thông Vận tải
77
32
160
311
179
170
376
71
170
376
71
194
427
81
208
395
7
33
7
77
39
4
90
29
4
90
29
96
14
10
103
6
34
1
114
70
10
166
47
10
166
47
112
56
23
192
55
1
35
7
53
70
3
75
56
3
75
56
67
33
16
81
16
3
36
213
322
245
242
340
163
242
360
143
242
360
163
274
382
72
ĐH Mỏ-Địa chất ĐH Mỹ thuật công nghiệp ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương ĐH Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội Học viện Nông nghiệp Việt Nam
3
37
35
32
5
35
28
14
49
12
22
56
2
23
56
4
Học viện Chính sách và Phát triển
0
38
0
0
17
0
0
17
0
0
22
2
0
30
0
0
ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội
Hưng Yên
39
10
126
230
83
284
48
83
284
48
60
296
25
80
339
12
ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Vĩnh Phúc
40
49
155
97
108
170
61
108
170
61
87
189
74
107
188
69
ĐH Sư phạm Hà Nội 2
Bắc Ninh
41
20
85
45
26
99
56
25
86
64
37
105
27
37
105
27
ĐH Thể dục thể thao Bắc Ninh
Hải Dương
42
ĐH Sao Đỏ
37
317
118
31
365
75
16
339
30
27
301
23
5
217
16
Hải Phòng
43
67
351
263
122
340
169
414
150
220
24
99
456
98
63
79
ĐH Hàng Hải
44
0
47
129
35
117
150
137
136
179
143
8
111
146
42
34
ĐH Y Hải Phòng
Nam Định
45
21
159
0
20
113
8
73
100
19
149
56
8
80
76
0
ĐH Điều dưỡng Nam Định
46
0
94
68
6
129
45
14
176
30
15
179
21
21
174
17
ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định
Thái Bình
211
47
5
103
156
3
117
153
5
117
153
38
173
36
41
195
113
ĐH Y Thái Bình
Tổng
2.893
8.601
5.613
3.547
10.064
4.493
3.736
10.887
3.688
4.274
11.624
2.723
5.085
11.579
2.215
Trung bình
79,5
231,6
78,5
90,9
247,3
57,9
108,2
246,4
47,1
75,5
61,6
119,4
183,0
214,1
95,6 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số lượng giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017
STT
Các trường đại học
GS
PGS
GS
PGS
GS
PGS GS
PGS
GS
PGS
Hà Nội
1
1
8
20
7
1
9
0
9
0
8
Học viện Âm nhạc Quốc gia
2
Học viện Ngoại giao
0
3
8
0
0
9
0
8
0
12
3
1
11
4
0
0
4
0
0
1
12
4
1
26
30
0
1
29
2
40
2
49
11
10
5
25
25
3
20
2
24
8
57
6
0
1
7
1
0
2
1
1
1
6
7
0
0
0
0
0
1
2
3
2
5
8
1
7
9
1
0
4
0
4
0
11
9
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1
10
Học viện Quản lý giáo dục Học viện Tài chính Học viện Hành chính Quốc gia Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ĐH Công nghệ Giao thông vận tải Hà Nội ĐH Công nghiệp HN ĐH Công nghiệp Việt Hung ĐH Dược Hà Nội
0
0
4
10
1
17
1
21
2
26
11
ĐH Kiến trúc
0
11
5
0
0
2
0
24
0
26
12
ĐH Lâm nghiệp
0
1
1
2
2
1
3
1
6
23
13
ĐH Lao động xã hội
7
16
10
6
0
6
4
5
0
5
14
ĐH Luật Hà Nội
1
17
18
2
0
23
2
36
3
34
15
ĐH Mỹ thuật VN
0
1
0
0
0
0
0
1
0
4
16
0
4
0
0
0
0
0
1
0
5
17
0
1
0
0
0
0
0
1
0
15
18
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
19 20
ĐH Nội vụ Hà Nội ĐH Sân khấu điện ảnh ĐH Tài nguyên và Môi trường ĐH Thủy lợi ĐH Văn hóa
2 0
37 11
44 2
6 0
4 0
41 3
9 0
42 14
14 0
65 5
21
ĐH Y Hà Nội
7
128
7
128
16
162
15
144
16
138
22
1
10
1
1
3
13
1
10
3
20
23
0
3
2
0
0
1
0
3
6
42
24
19
161
21
21
21
188
22
216
169
164
25
ĐH Y tế công cộng Viện Đại học Mở Hà Nội ĐH Bách khoa Hà Nội ĐH Xây dựng
2
54
53
2
3
55
2
54
3
68
26 27
ĐH Kinh tế Quốc dân ĐH Hà Nội
11 0
92 1
98 8
13 0
12 0
96 8
17 1
124 3
16 1
132 6
28
ĐH Sư phạm Hà Nội
10
80
48
6
7
60
10
80
16
160
29
ĐH Ngoại thương
1
23
22
1
1
22
1
23
1
34
212
2
37
30
37
42
2
37
2
40
3
2
5
53
31
50
12
3
38
5
65
9
8
6
41
32
42
47
1
0
0
54
2
1
0
3
33
0
3
0
1
1
2
0
0
0
0
34
0
0
0
3
1
8
1
0
1
0
35
0
0
0
0
1
1
0
2
10
89
79
78
73
36
5
4
88
8
3
ĐH Thương mại ĐH Giao thông Vận tải ĐH Mỏ-Địa chất ĐH Mỹ thuật công nghiệp ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương ĐH Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội ĐH Nông nghiệp Hà Nội
0
2
37
0
0
0
0
0
0
0
0
Học viện Chính sách & Phát triển
0
0
38
0
0
0
0
0
2
2
0
ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội
Hưng Yên
39
0
0
1
20
0
0
0
1
1
0
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Vĩnh Phúc
0
9
10
12
14
0
16
40
0
0
0
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Bắc Ninh
2
5
41
2
8
2
3
3
8
2
2
ĐH Thể dục thể thao Bắc Ninh
Hải Dương
0
1
42
ĐH Sao Đỏ
0
1
0
0
0
0
0
0
Hải Phòng
1
17
ĐH Hàng Hải
43
1
1
15
14
17
32
1
1
0
1
ĐH Y Hải Phòng
44
2
0
16
17
17
5
1
1
0
0
45
0
0
0
0
0
0
0
0
Nam Định ĐH Điều dưỡng Nam Định
0
0
46
0
0
0
1
1
0
0
0
ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định
Thái Bình
0
0
2
1
2
47
ĐH Y Thái Bình
0
1
10
12
0
Tổng
103
991
124
990
91
961
100 1.066
155
1.564
Trung bình
2,2
21,1
2,6
21,1
1,9
20,4
2,1
22,7
3,3
33,3
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
213
Quy mô đại học khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐBSH
2012- 2013
2013- 2014
2014- 2015
2015- 2016
2016- 2017
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
61 03 05 01 04 04 02 02 01 04 01 88
63 03 05 01 04 04 03 02 01 04 01 91
64 03 05 01 04 04 02 02 01 04 01 93
ĐVT: trường đại học Tỷ trọng 2016-2017 (%) 72,0% 2,0% 4,0% 2,0% 4,0% 4,0% 3,0% 2,0% 1,0% 4,0% 1,0% 100,0%
69 02 04 02 04 04 03 02 01 04 01 96
67 03 05 01 04 04 02 02 01 04 01 94
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Quy mô sinh viên đại học khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
2016-2017
ĐBSH
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
Hà Nội
542.588
530.200
663.298
611.608
611.982
ĐVT: sinh viên Tỷ trọng 2016-2017 (%) 83,6%
Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
11.793 5.221 3.058 5.463 37.978 9.697 4.626 170 15.260 1.882 637.736
8.519 4.806 3.994 7.778 38.948 9.145 4.812 198 16.429 1.879 626.708
16.563 9.288 4.835 12.086 38.995 11.092 6.827 264 24.588 1.735 789.571
15.675 6.196 5.488 11.533 35.793 13.062 7.353 0 21.034 1.429 728.271
15.065 5.638 3.911 12.225 36.475 14.264 7.654 0 23.546 1.565 732.325
2,1% 0,8% 0,5% 1,7% 5,0% 1,9% 1,0% 0,0% 3,2% 0,2% 100,0%
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Quy mô giảng viên đại học công lập khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017 ĐVT: giảng viên
Đồng bằng sông Hồng
Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh
2012-2013 2013-2014 2014-2015 2015-2016 2016-2017 Tỷ trọng 2016-2017 (%) 78,9% 1,3% 1,5%
23.611 377 416
21.804 404 579
19.029 343 221
24.342 406 448
19.941 310 249
214
482 861 1.589 704 529 0 1.286 195
Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Tổng
292 853 1.367 366 374 0 1.198 210 24.253
250 965 1.653 631 360 0 1.242 183 25.784
302 904 1.884 701 448 0 1.460 183 28.730
430 1.024 1.157 663 505 0 1.342 220 29.745
1,6% 2,8% 5,1% 2,3% 1,7% 0,0% 4,2% 0,6% 30.842 100,0%
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Quy mô giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
Tỉnh/ thành phố
Hà Nội Hưng Yên Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hải Dương Hải Phòng Nam Định Thái Bình Tổng
ĐVT: giảng viên 2012-2013 2013-2014 2014-2015 2015-2016 2016-2017 Tỷ trọng 2016-2017 (%) 84,7% 2,3% 1,9% 0,9% 1,3% 4,8% 2,2% 2,0% 100,0%
16.239 381 350 169 351 683 439 372 18.984
16.061 431 364 169 238 919 411 372 18.965
15.509 415 339 175 385 950 431 290 18.494
15.222 366 301 150 472 859 346 279 17.995
13.931 370 273 181 471 943 317 278 16.764
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số lượng giảng viên các khu vực trong cả nước năm học 2016-2017
Tổng số GV
GV có trình độ tiến sĩ
ĐVT: giảng viên GV có trình độ thạc sĩ
STT
Khu vực
Số lượng 30.842
Tỷ trọng 42,4%
Số lượng 8.384
Tỷ trọng 50,8%
Số lượng 17.967
Tỷ trọng 41,7%
2
3.672
5,0%
651
3,9%
2.470
5,7%
1 Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung
3 4 Tây Nguyên 5 Đông Nam Bộ
10.544 1.059 20.069
14,5% 1,5% 27,6%
2.003 158 4.239
12,1% 1,0% 25,7%
6.699 622 11.700
15,5% 1,4% 27,1%
1.079
9,1%
3.669
Đồng bằng sông Cửu 6 Long 7 Cả nước
6.606 6,5% 72.792 100,0% 16.514 100,0%
8,5% 43.127 100,0%
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
215
ĐVT: giảng viên, sinh viên
Số lượng giảng viên và sinh viên đại học các khu vực trong cả nước năm học 2016-2017
Tổng số giảng viên
Tổng số sinh viên
STT
Khu vực
Số lượng
Tỷ trọng 42,4% 5,0% 14,5% 1,5% 27,6% 9,1%
1 Đồng bằng sông Hồng 2 Trung du và miền núi phía Bắc 3 Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 4 Tây Nguyên 5 Đông Nam Bộ 6 Đồng bằng sông Cửu Long 7 Cả nước
30.842 3.672 10.544 1.059 20.069 6.606 72.792
Số lượng 732.325 80.047 257.262 31.169 510.127 156.949 100,0% 1.767.879
Tỷ trọng 41,4% 4,5% 14,6% 1.8% 28.9% 8,9% 100.0%
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trình độ giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017
Tỉnh/TP
TS
ThS
ĐH
TS
ThS
ĐH
TS
ThS
ĐH
TS
ThS
ĐH
TS
ThS
ĐH
Hà Nội
2.705 7.320 4.348 3.133
8.423 3.623 3.372
9.001 2.916 3.878
9.833 2.294 4.679
9.714 1.641
10
126
230
83
284
48
83
284
48
60
296
25
80
339
12
H. Yên
49
155
97
108
170
61
108
170
61
87
189
74
107
188
69
V. Phúc
20
85
45
26
99
56
25
86
64
37
105
27
37
105
27
B. Ninh
37
36
30
388
42
317
118
400
103
27
301
23
5
217
16
67
398
392
157
457
319
105
551
286
113
399
167
107
567
244
H. Dương H. Phòng
0
115
227
6
149
158
22
149
130
34
328
77
29
254
94
N. Định
5
103
156
3
117
153
5
117
153
38
173
36
41
195
113
T. Bình
Tổng
2.893 8.601 5.613 3.547 10.064 4.493 3.736 10.887 3.688 4.274 11.624 2.723 5.085 11.579 2.215
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số lượng giảng viên đại học công lập trực thuộc Bộ khu vực đồng bằng sông Hồng có học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư giai đoạn 2012-2017
ĐVT: giảng viên
Tỉnh/TP
2013-2014
2014-2015
2015-2016
Hà Nội Hưng Yên
2012-2013 GS PGS GS PGS GS PGS GS 97 943 100 0 01 0
911 01
120 0
957 0
86 0
PGS GS 148 01
999 0
2016-2017 PGS 1.471 20
216
Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hải Dương Hải Phòng Nam Định Thái Bình Tổng
09 05 01 18 0 01 991
0 02 0 2 0 0 124
0 02 0 01 0 0 103
0 02 0 03 0 0 91
12 03 0 31 01 02 961
0 02 0 01 0 0 100
14 08 01 34 0 10 1.066
0 02 0 02 0 02 155
16 08 0 37 0 12 1.564
10 03 0 31 01 01 990 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
217