BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------
NGUYỄN MINH TUÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH -
NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------
NGUYỄN MINH TUÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH -
NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Khoa học quản lý
Mã số: 9310110_QL
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Nguyễn Văn Nam
2. TS. Nguyễn Đăng Núi
HÀ NỘI – 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2021
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Minh Tuân
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn TS. Nguyễn Văn Nam và TS. Nguyễn Đăng Núi đã tận tình
hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành bản luận án này.
Tôi xin cảm ơn HĐND, UBND thành phố Hà Nội; Hội Nông dân, sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.... cùng các hộ gia đình, cá nhân, hợp tác
xã, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà
Nội đã tạo điều kiện để tôi phối hợp thực hiện điều tra, khảo sát, thu thập dữ liệu
phục vụ luận án.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Khoa học Quản lý, Ban lãnh đạo, các
cán bộ của Viện Đào tạo sau đại học – Trường Kinh tế Quốc dân đã có những góp
ý về mặt khoa học, có những trợ giúp về mặt quy trình, thủ tục để tôi hoàn thành
luận án.
Tôi xin cảm ơn gia đình đã chia sẻ, động viên và tạo điều kiện để tôi hoàn
thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn tin tưởng ủng hộ tôi
hoàn thành luận án.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. viii
DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... ix
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ............................................................................................................................. 6
1.1. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp công nghệ cao ............................... 6
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển nông nghiệp công nghệ cao .......... 6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao .......... 9
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với phát
triển nông nghiệp công nghệ cao ............................................................................. 16
1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài về quản lý nhà nước đối với phát triển nông
nghiệp công nghệ cao ............................................................................................. 16
1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về quản lý nhà nước đối với phát triển nông
nghiệp công nghệ cao ............................................................................................. 17
1.3. Khoảng trống nghiên cứu .................................................................................. 21
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH
QUYỀN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ
CAO .............................................................................................................................. 23
2.1. Các vấn đề chung về quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát
triển nông nghiệp công nghệ cao ............................................................................. 23
2.1.1. Nông nghiệp công nghệ cao và nội hàm của phát triển nông nghiệp công
nghệ cao .................................................................................................................. 23
2.1.2. Mục tiêu, quan niệm và yêu cầu của quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ................................. 30
2.2. Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao ................................................................................................ 37
iv
2.2.1. Ban hành và phổ biến quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách ............. 37
2.2.2. Tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình và chính sách .......................... 39
2.2.3. Kiểm tra giám sát nhằm kịp thời điều tiết các thất bại của thị trường trong
quá trình thực hiện qui hoạch, chương trình và các chính sách ............................. 41
2.2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC .......... 42
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp
công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ............................................ 44
2.3.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương và xu hướng phát triển của KHCN
và ngành nông nghiệp ............................................................................................. 44
2.3.2. Nhóm các nhân tố liên quan đến thể chế và cơ chế chính sách ................... 45
2.3.3. Năng lực và thái độ làm việc của cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà
nước ........................................................................................................................ 47
2.3.4. Sự phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp CNC (Nhà
nước, người dân, doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu) ....................................... 47
2.3.5. Nhóm các yếu tố đầu vào phát triển nông nghiệp CNC ............................... 48
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở
trong nước và trên thế giới ....................................................................................... 50
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của Trung
Quốc ........................................................................................................................ 50
2.4.2 Kinh nghiệm của Israel .................................................................................. 53
2.4.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của một số
nước Châu Á khác .................................................................................................. 55
2.4.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của
thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................................... 60
2.4.5. Bài học đối với Hà Nội trong quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ......................................................................................................... 63
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO ............................................. 65
3.1. Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................... 65
3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội ............................................. 65
3.1.2. Về đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội ........ 67
3.1.3. Về đặc điểm dân số và lao động của thành phố Hà Nội ............................... 69
3.2. Cách tiếp cận, phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu .......................... 70
v
3.2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu ............................................................................. 70
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ....................................................................... 72
3.2.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu ................................................. 77
CHƯƠNG 4 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN HÀ
NỘI VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO .............................. 78
4.1. Động thái phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội trong thời
gian qua ...................................................................................................................... 78
4.2. Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội đối với phát triển
nông nghiệp công nghệ cao ...................................................................................... 85
4.2.1. Thực trạng việc ban hành quy hoạch, chương trình và mục tiêu phát triển
nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội ................................................. 85
4.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của Thành phố Hà Nội ............................................................................ 92
4.2.3. Thực trạng giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường ................... 112
4.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC
của chính quyền Hà Nội ......................................................................................... 120
4.3.1. Thành công chủ yếu .................................................................................... 120
4.3.2. Hạn chế của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của
Thành phố Hà Nội ................................................................................................ 122
CHƯƠNG 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG THỜI GIAN TỚI ....................................................................................... 130
5.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
trên địa bàn Hà Nội................................................................................................. 130
5.1.1. Mục tiêu, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao ........................................................................................... 130
5.1.2. Quan điểm quản lý nhà nước phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà
Nội ........................................................................................................................ 131
5.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao .................................................................................... 133
5.2.1. Rà soát quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nông
nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao ..................................................................... 133
vi
5.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo điều kiện đầu vào cho phát triển nông
nghiệp CNC .......................................................................................................... 134
5.2.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách phát
triển nông nghiệp công nghệ cao .......................................................................... 138
5.2.4. Giải pháp về kiểm soát và khắc phục tốt các thất bại của thị trường ......... 140
5.2.5. Các giải pháp khác ...................................................................................... 140
5.3. Kiến nghị với Trung ương và các bộ ngành liên quan ................................. 144
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 148
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 156
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công nghệ cao CNC
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Cơ sở hạ tầng CSHT
Đồng bằng sông Hồng ĐBSH
Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP
Hội đồng nhân dân HĐND
Hợp tác xã HTX
Kế hoạch KH
Khoa học công nghệ KHCN
Kinh tế trọng điểm KTTĐ
Kinh tế xã hội KTXH
Nông nghiệp NN
Nguồn nhân lực NNL
Nghị quyết NQ
Ngân sách NS
Ngân sách nhà nước NSNN
Nông thôn mới NTM
Nhà xuất bản NXB
PAPI Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công
PAR Index Chỉ số Cải cách hành chính
PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Phát triển nông thôn PTNT
Quy phạm pháp luật QPPL
Sản xuất kinh doanh SXKD
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Ủy ban nhân dân UBND
Xuất khẩu XK
Xã hội chủ nghĩa XHCN
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC ................. 43
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Thành phố Hà Nội ........................ 66
Bảng 3.2: Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối phân theo năm của thành phố Hà Nội ................ 67
Bảng 3.3. Thực trạng đất nông nghiệp của Hà Nội, 01/01/2019 ......................................... 68
Bảng 3.4. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của Hà Nội, 2015-2019 ............................. 68
Bảng 3.5. Cơ cấu dân số, lao động nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội, 2015-2019 ........ 69
Bảng 3.6. Dự báo lao động thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030 ............... 70
Bảng 3.7. Tổng hợp số lượng mẫu phỏng vấn sâu ................................................................ 73
Bảng 3.8. Thông tin về đối tượng trả lời phiếu điều tra ........................................................ 75
Bảng 4.1: So sánh kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố
Hà Nội ..................................................................................................................... 78
Bảng 4.2. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội theo lĩnh
vực năm 2020 .......................................................................................................... 80
Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của các mô hình nông nghiệp CNC được khảo
sát tại Hà Nội ........................................................................................................... 81
Bảng 4.4. Doanh thu thuần và thu nhập bình quân của người lao động của các doanh
nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội ............ 81
Bảng 4.5: Kết quả qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC ở Hà Nội ........................... 88
Bảng 4.6. Diện tích đất các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được quy hoạch trên
địa bàn Hà Nội tính đến năm 2020 ........................................................................ 89
Bảng 4.7. Kết quả khảo sát ý kiến doanh nghiệp, HTX, người dân về quy hoạch, chương
trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội ........................... 91
Bảng 4.8: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai để
phát triển nông nghiệp CNC .................................................................................. 95
Bảng 4.9. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ trợ
đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển NN CNC ....................................... 101
Bảng 4.10. Nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp công
nghệ cao tại một số huyện trên địa bàn Hà Nội .................................................. 102
Bảng 4.11: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ
trợ vốn và tín dụng cho phát triển nông nghiệp CNC ........................................ 106
Bảng 4.12. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của chính sách hỗ trợ đào
tạo nâng cao trình độ và tập huấn kỹ thuật .......................................................... 112
Bảng 4.13. Kết quả khảo sát về thủ tục hành chính của các chính sách phát triển nông
nghiệp CNC ở Hà Nội .......................................................................................... 114
Bảng 4.14. Danh mục các dự án nông nghiệp công nghệ cao kêu gọi đầu tư trực tiếp của
thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2025 .............................................................. 118
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Khung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC ...... 71
Hình 4.1. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội ............... 80
Hình 4.2. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội giai
đoạn 2014-2018 ...................................................................................................... 82
Hình 4.3. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội của doanh nghiệp, HTX sản xuất nông
nghiệp CNC và doanh nghiệp, HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản ................... 83
Hình 4.4. Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo của Hà Nội, 2015-2019 .................... 109
Hình 4.5. Chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Hà Nội, 2010-2019 ....................... 119
Hình 4.6. Số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của
Hà Nội, 2014-2018 ............................................................................................... 121
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Thành phố Hà Nội là một đơn vị hành chính đặc biệt, là trung tâm chính trị -
hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương, của các tổ chức
chính trị - xã hội, cơ quan tổ chức ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc tế; là trung
tâm lớn về văn hóa, giáo dục, kinh tế, khoa học và công nghệ và giao dịch quốc tế
của cả nước. Hà Nội có diện tích đất tự nhiên 3.358,92 km2, khu vực nông thôn có
diện tích tự nhiên 2.841,8 km 2, chiếm 84,6% diện tích đất tự nhiên của Thành phố;
dân số khoảng 10 triệu người đang công tác, cư trú, học tập, trong đó dân số khu
vực nông thôn khoảng 4,1 triệu người. Hiện nay, Thành phố đang định hướng, tổ
chức xây dựng Thành phố thông minh, chính quyền đô thị, do vậy việc phát triển ứng
dụng khoa học công nghệ cao là tất yếu trong tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực
nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội khá lớn với 1.886 km2 (188,6
nghìn ha); giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2017 đạt 35.133 tỷ đồng. Giá trị
sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao đạt 25%/ tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp
của Thành phố (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2017). Thủ đô Hà
Nội hội đủ các yếu tố cần để phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Đó là sự gia tăng
dân số tạo áp lực lên ngành nông nghiệp với việc cung cấp sản phẩm nông nghiệp;
điều kiện tự nhiên thuận lợi về đất đai, thổ dưỡng; nơi có điều kiện về khoa học công
nghệ, đan xen giữa phát triển đô thị là phát triển nông nghiệp bảo vệ môi trường kết
hợp du lịch sinh thái; nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông sản lớn. Công tác quản lý nhà
nước của chính quyền Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ
cao đạt được khá nhiều kết quả.
Tính đến hết năm 2019 cả nước mới có 45 doanh nghiệp nông nghiệp công
nghệ cao. Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao vẫn chưa đạt được như
kỳ vọng bởi vì các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn về đất đai, vốn, trong khi đây
lại là lĩnh vực đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài... Trong thời gian
vừa qua, phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được Thành ủy Hà Nội xác định là
nhiệm vụ trọng tâm (Nam Giang, 2018). Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016
của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao
đời sống nhân dân giai đoạn 2016-2020”, đã xác định “Phát triển sản xuất nông nghiệp
theo hướng ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao” là một trong các nhiệm vụ
trọng tâm.
2
Bên cạnh đó, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội cũng luôn khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp, người dân đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao (Đắc Sơn, 2017). Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội khóa
14 đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 8/7/2015 về “Một số chính
sách thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành
phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020”, trong đó có quy định chi tiết các mức hỗ trợ cho
Doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình tham gia sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thành phố cũng đã quy hoạch được 9 khu sản xuất
nông nghiệp công nghệ cao và đang kêu gọi đầu tư vào 7 dự án sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao với tổng vốn đầu tư 5.200 tỷ đồng. Theo đánh giá của các chuyên gia,
tiềm năng đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp của Hà Nội là
rất rộng mở. Trước hết, diện tích đất sản xuất nông nghiệp tương đối lớn, trên 150.000
ha. Hà Nội đã thực hiện dồn điền đổi thửa được gần 79.000 ha, đã hình thành nhiều
vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn, có hạ tầng kỹ thuật về giao thông,
thủy lợi khá đồng bộ. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ cao và
cơ giới hóa vào sản xuất. Bên cạnh đó, với dân số khoảng 10 triệu người, cùng với
lượng khách du lịch gần 30 triệu người (số liệu năm 2019), trong đó có khoảng 7 triệu
khách du lịch quốc tế, Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ nông sản rộng lớn, đặc biệt là
đối với các loại nông sản chất lượng cao.
Tuy nhiên, mặc dù có lợi là thế trung tâm khoa học công nghệ hàng đầu của cả
nước, có nhiều thuận lợi khi tiếp nhận, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất
nông nghiệp, phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn
chưa đạt được kỳ vọng và chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh. Tính đến đầu
năm 2020, trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 164 mô hình nông nghiệp công nghệ
cao, trong đó có 109 mô hình trồng trọt, 40 mô hình chăn nuôi, và 15 mô hình thủy
sản. Trong các mô hình này chỉ có duy nhất 1 doanh nghiệp được công nhận là doanh
nghiệp nông nghiệp công nghệ cao là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Kinoko Thanh
Cao ở xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nấm. Phần lớn
các mô hình còn lại có quy mô nhỏ lẻ và mới dừng lại ở việc ứng dụng từng phần.
Điều này đã và đang đặt ra yêu cầu cấp bách đối với công tác quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội để thực hiện mục tiêu
mà Thành phố đã đề ra. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng
này là quản lý nhà nước về nông nghiệp CNC chưa chuyên nghiệp, nhiều chính sách
chưa đi vào thực tiễn và có tác động tích cực đối với sự phát triển của nông nghiệp
CNC trên địa bàn thành phố.
3
Bên cạnh đó, về mặt lý thuyết, chủ đề nông nghiệp CNC cũng như phát triển
nông nghiệp công nghệ cao đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên vẫn thiếu vắng một khung lý luận mang tính hệ thống về quản lý
nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao đặc biệt làm rõ vai trò quản
lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC.
Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh/thành phố - nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận án tiến sỹ với mục tiêu góp phần nhỏ bé đóng góp và quá trình
phát triển Hà Nội thành thành phố thông minh, hiện đại; đáp ứng nhu cầu nông sản
sạch, chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với việc định hướng
phát triển của Thành phố, làm địa phương điển hình về phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước của chính
quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội
nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước của chính quyền thành phố
Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp CNC trong thời gian tới.
Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá tổng quan về các nghiên cứu lý thuyết, thực nghiệm trên thế giới và
tại Việt Nam về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp nói chung và công
nghệ cao nói riêng từ đó làm rõ khoảng trống nghiên cứu.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nhà nước của chính
quyền cấp tỉnh/thành phố đối với sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao; Làm rõ
nội hàm của quản lý nhà nước của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển
nông nghiệp công nghệ cao nói chung và đặc thù của thành phố Hà Nội nói riêng.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền cấp thành phố về phát
triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ rõ thành công, hạn
chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền địa
phương cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội.
4
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ở Hà Nội. Cụ thể là:
Luận án tiếp cận phát triển nông nghiệp công nghệ cao dưới góc nhìn vừa là đối
tượng của quản lý nhà nước vừa là kết quả hoạt động quản lý nhà nước thể hiện ở sự
tăng lên về quy mô, số lượng sản phẩm nông nghiệp CNC trong tổng giá trị sản phẩm
nông nghiệp và thay đổi về cơ cấu ngành nông nghiệp. Luận án không đi phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao mà chỉ phân tích động
thái phát triển của các khu nông nghiệp CNC, các dự án nông nghiệp CNC của Hà Nội
như là kết quả đầu ra của hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC
qua các năm.
Về quản lý nhà nước, luận án không nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh quản lý nhà nước đối
với phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Riêng nội hàm của quản lý nhà nước cũng
rất rộng liên quan đến các chức năng quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trên
địa bàn thành phố Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp CNC nên không thể nghiên
cứu tất cả các khía cạnh đó trong luận án này. Trong thời gian và điều kiện có hạn,
phạm vi nội dung của luận án chỉ tập trung vào các vấn đề sau:
(i) Về công tác xây dựng và ban hành quy hoạch/chương trình và chính sách
phát triển nông nghiệp CNC, luận án sẽ chỉ tập trung vào việc đánh giá kết quả của
việc ban hành, phổ biến qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC, chương trình phát
triển nông nghiệp CNC đã được thành phố phê duyệt. Luận án không nghiên cứu quá
trình xây dựng qui hoạch, quá trình xây dựng các chương trình và chính sách liên quan
đến phát triển nông nghiệp CNC.
(ii) Về công tác tổ chức thực hiện các qui hoạch, chính sách phát triển nông
nghiệp CNC luận án không nghiên cứu kết quả thực hiện tất cả các chính sách mà chỉ
tập trung nghiên cứu kết quả triển khai tổ chức thực hiện (qua 3 khía cạnh chính là mức
độ biết đến chính sách, mức độ tiếp cận được chính sách và mức độ phù hợp của chính
sách) của 4 chính sách chính như: chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách
hỗ trợ tín dụng và ưu đãi vay vốn, chính sách hỗ trợ đất đai, chính sách hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực trong các chương trình phát triển nông nghiệp CNC đã được thành phố
Hà Nội phê duyệt trong thời gian qua; Việc triển khai thực hiện các chính sách liên quan
khác hoặc các kế hoạch, chương trình công tác của UBND và các bên có liên quan để tổ
chức thực hiện chính sách cũng không được nghiên cứu trong luận án này.
5
(iii) Về công tác kiểm tra giám sát, luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động
kiểm tra giám sát nhằm điều chỉnh các thất bại của thị trường trong quá trình thực hiện
chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao thông qua hai chỉ số là chỉ số cải cách
thủ tục hành chính và các chỉ số về xúc tiến đầu tư, thương mại nhằm đạt mục tiêu phát
triển nông nghiệp CNC. Vì mục tiêu của hoạt động giám sát là phát hiện ra những điểm
chưa phù hợp và kịp thời đưa ra các giải pháp điều chỉnh các thất bại của thị trường. Các
mục tiêu hành chính của hoạt động giám sát là phát hiện cái chưa đúng để phạt cũng như
việc triển khai các chương trình giám sát của các bên liên quan như HĐND, các kế hoạch
đôn đốc, kiểm tra của UBND thành phố Hà Nội và chính quyền cấp tỉnh liên quan đến
phát triển nông nghiệp CNC thì không được nghiên cứu trong luận án này.
Luận án cũng không tập trung nghiên cứu đánh giá mức độ tác động của các
nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực này mà chỉ xem xét các
nhân tố này như là những nguyên nhân của các hạn chế và thành công của quản lý
nhà nước.
Luận án cũng không đi sâu đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm giải
trình, cơ chế tổ chức và phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền
cấp tỉnh trong phát triển nông nghiệp CNC.
+ Về địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi địa giới hành chính thành
phố Hà Nội tập trung chủ yếu ở một số huyện có hoạt động sản xuất nông nghiệp CNC
bao gồm: Đan Phượng, Mỹ Đức, Thanh Oai, Gia Lâm, Mê Linh, Thường Tín, Quốc
Oai, Ứng Hòa.
+ Về thời gian: Thời gian nghiên cứu giai đoạn từ 2015-2019, các định hướng,
giải pháp đến năm 2025 tầm nhìn đến 2030.
Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được kết cấu thành 5 chương chính
như sau:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý của chính quyền cấp tỉnh đối
với phát triển nông nghiệp.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao.
Chương 4: Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao
Chương 5: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội trong thời gian tới.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN
1.1. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Cũng như nhiều lĩnh vực kinh tế khác, phát triển nông nghiệp là lĩnh vực được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và khai thác ở các khía cạnh khác nhau, trong bối
cảnh các quốc gia khác nhau. Linda Lundmark, Camilla Sandstrom (năm 2013)
trong cuốn “Natural resources and regional development theory”(Lý thuyết nguồn
lực tự nhiên và sự phát triển vùng) đã bàn về cơ cấu kinh tế nông thôn và các biểu
hiện KT-XH của kinh tế nông thôn ở Thụy Điển như sự thay đổi hạ tầng kỹ thuật, sự
phát triển KT-XH trên một quy mô tổng thể, đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau chứ
không phải chỉ một vài khía cạnh riêng lẻ. E. Wesley và F. Peterson trong cuốn
"Agricultural structure and economic adjustment" (năm 1986) (Cơ cấu nông nghiệp
và sự điều chỉnh nền kinh tế) đã đánh giá những yếu tố góp phần làm thay đổi
chuyển đổi kinh tế nông nghiệp tại Mỹ và mô tả kinh nghiệm của châu Âu trong
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, và cho rằng đây là những bài học quan trọng
đối với Mỹ, nơi không có chính sách điều chỉnh cơ cấu một cách cụ thể. Trong
nghiên cứu này, tác giả cũng cho rằng nước Mỹ nên tập trung vào các phương pháp
để giảm bớt chi phí điều chỉnh chứ không phải về những nỗ lực để ngăn chặn quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. P.W.Heringa, C.M.Van der Heideb và
W.J.M.Heijman trong cuốn "The economic impact of multifunctional agriculture in
Dutch regions: An input-output model” (năm 2013) (Sự ảnh hưởng kinh tế của nền
nông nghiệp đa chức năng ở các vùng miền Hà Lan: Mô hình cân đối liên ngành) đã
làm rõ bốn khía cạnh của nền nông nghiệp đa chức năng bao gồm: (i) phát triển cây
xanh, (ii) du lịch, giải trí, giáo dục, (iii) kinh doanh trang trại, và (iv) dịch vụ xanh.
Julian M.Alston (năm 2014) trong cuốn “Agriculture in the Global Economy” (Nông
nghiệp trong nền kinh tế toàn cầu) đã nghiên cứu về triển vọng phát triển nông
nghiệp trên thế giới diễn ra khác nhau ở các nền kinh tế khác nhau, cụ thể là sản
lượng nông nghiệp có xu hướng giảm ở các nước có thu nhập cao như Mỹ trong khi
đó lại tăng ở các nước thu nhập trung bình như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil,
Indonesia. Khi phân tích các mô hình tăng trưởng nông nghiệp ở các nước có thu
nhập trung bình, các tác giả đã đưa ra đề nghị chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp
để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng cho những người nghèo. Barbara
7
Chmielewska (năm 2009) trong cuốn "The Problems of Agriculture and Rural Areas
in the Process of European Integration” (Vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong quá
trình hội nhập châu Âu) đã khẳng định ngành nông nghiệp trên thế giới sẽ ít có cơ
hội phát triển nếu không có sự hỗ trợ tài chính của chính phủ EU, đặc biệt là tại các
nước kém phát triển. Do vậy, giải pháp chính cho phát triển nông nghiệp ở các nước
EU là phát triển đa ngành, đa lĩnh vực. Chỉ có phát triển đa ngành, đa lĩnh vực mới
có thể đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) trong tài liệu “Rapid growth of selected Asian
economies Lessons and implications for agriculture and food security China and
India” (2006) (Bài học tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế tiêu biểu ở châu Á và ý
nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực ở Trung Quốc và Ấn Độ)
đã cho thấy sự phát triển kinh tế của một nước bắt đầu bằng việc phát triển và tái cơ
cấu nông nghiệp theo nhu cầu thị trường; quá trình tái cơ cấu lại nông nghiệp liên
quan đến việc đa dạng hóa các lĩnh vực hoạt động để đáp ứng những nhu cầu trong
nước và thương mại quốc tế. Minna Mikkola (2008), trong tác phẩm “Coordinative
structures and development of food supply chains” đã tổng kết 4 cơ chế quản lý:
Quan hệ thị trường, quan hệ thứ bậc (hay quan hệ quyền lực), quan hệ mạng lưới
(network) và quan hệ xã hội đều là các quan hệ quan trọng ảnh hưởng đến sự phát
triển nông nghiệp và các chính sách phát triển nông nghiệp của chính phủ.
Chủ đề ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp được nhiều tác giả
quan tâm từ rất sớm, trong đó, điển hình là các tác giả: Feder và cộng sự (1985);
Hoppel (1994); Foster và Roenweing (1996); kohli và Singh (1997); Rogers (2003) và
Uaiene (2009). Những tác giả này đã khẳng định công nghệ là yếu tố quyết định đến
phát triển nông nghiệp công nghệ cao; Radhika Kapur (2018), nghiên cứu việc sử dụng
công nghệ trong ngành nông nghiệp ở Ấn Độ và chỉ ra vai trò quan trọng của việc ứng
dụng công nghệ trong sản xuất và phát triển nông nghiệp. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả đã khẳng định sự phát triển của nông nghiệp ở Ấn Độ mặc dù đã đạt được một
số kết quả nhất định nhưng năng suất còn thấp so với các nước, việc áp dụng công
nghệ sản xuất, công nghệ thu hoạch còn hạn chế. Tác giả cũng đề xuất cần ứng dụng
công nghệ, kỹ thuật, các phương pháp hiện đại vào sản xuất nông nghiệp để cải thiện
điều kiện làm việc của người lao động, tăng năng suất và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân.
Dan Senor - Saul singer (2008), trong tác phẩm quốc gia khởi nghiệp, câu
chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, NXB Thế giới, đã nghiên cứu và đưa ra mô
hình phát triển, ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp của Israel.
8
Trong xu hướng diện tích đất và lao động nông nghiệp ngày càng suy giảm, sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao trở thành một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới nhằm giải quyết được những vấn đề về lương thực, thực phẩm và
nguyên liệu… Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được thực hiện từ nhiều thập
kỷ trước đây ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt bằng việc hình thành các khu nông
nghiệp công nghệ cao ở các nước như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Israel, Trung
Quốc, Thái Lan, Đài Loan... Bonzovanni và Lowenberg-Deboer (2004), Silva và cộng
sự (2007), Frankelius và cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng nông nghiệp công nghệ cao
đóng góp vai trò rất quan trọng dưới các góc độ môi trường và kinh tế cho phát triển
nông nghiệp bền vững trong dài hạn. Theo Mondal và Basu (2009), phát triển nông
nghiệp công nghệ cao là một trong các cách để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu
và người nghèo trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Huy Tú (2017), thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đã được chú
trọng bởi rất nhiều nước trên thế giới. Từ giữa thế kỷ XX, tại các nước phát triển đã
xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; Chẳng hạn ở Mỹ, đầu những năm 1980
đã có trên 100 khu nông nghiệp công nghệ. Hay ở Anh, năm 1988 đã có 38 khu vườn
khoa học công nghệ với hơn 800 doanh nghiệp. Phần Lan, năm 1996 có 9 khu khoa
học nông nghiệp công nghệ cao. Tại châu Âu, hiện nay đặc biệt khuyến khích xu
hướng áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp với chương trình Chính sách
nông nghiệp chung (PAC). Đến nay, tại Liên minh châu Âu (EU) toàn bộ các gia đình
châu Âu được kết nối Internet với tốc độ cao, nông dân được đào tạo, tiếp cận các
khoa học, kỹ thuật số để phục vụ hiện đại hóa các trang trại, tạo thêm việc làm và
thành lập mới các doanh nghiệp tại khu vực nông thôn.
Bên cạnh các nước châu Âu, châu Mỹ, nhiều nước ở châu Á cũng đã chuyển
nền nông nghiệp truyền thống quan tâm nhiều đến số lượng sản phẩm sang chất lượng
nông sản, ứng dụng khoa học, công nghệ cao, tiêu biểu như một số nước: Trung Quốc,
Đài Loan, Thái Lan... Hiện nay Trung Quốc đã có 405 khu nông nghiệp công nghệ
cao, trong đó có 1 khu nông nghiệp công nghệ cao cấp quốc gia, 42 khu cấp tỉnh và
362 khu cấp thành phố. Những khu này đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát
triển nông nghiệp hiện nay của Trung Quốc. Sản xuất tại các khu nông nghiệp công
nghệ cao đạt năng suất cao kỷ lục. Chẳng hạn, tại Israel năng suất của cà chua đạt 250
– 300 tấn/ha, bưởi đạt 100 – 150 tấn/ha, hoa cắt cành 1,5 triệu cành/ha… đã tạo ra giá
trị sản lượng bình quân 120.000 – 150.000 USD/ha/năm. Đặc biệt, tại Trung Quốc giá
trị sản lượng bình quân đạt 40.000 – 50.000 USD/ha/năm, gấp 40 - 50 lần so với các
mô hình trước đó (Huy Tú, 2017). Do đó, nông nghiệp công nghệ cao đã và đang trở
9
thành mẫu hình cho nền nông nghiệp tri thức thế kỷ XXI trên thế giới. Tuy nhiên, điều
kiện thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cần quan tâm tới: (i)
Quy mô diện tích tiến hành, (ii) Thị trường đầu vào và đầu ra, (iii) Lợi nhuận của
doanh nghiệp và thu nhập của người nông dân, (iv) Thể chế chính sách phải đảm bảo
hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp và người nông dân.
Theo Hallam (2011), rất nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát
triển ngày càng chú trọng vào thu hút đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp
công nghệ cao. Để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đòi
hỏi các cấp chính quyền phải có các cơ chế hỗ trợ đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, vốn... đến
thị trường tiêu thụ. Tseng và Zebregs (2002), Murakami và cộng sự (2007) đã chỉ ra
rằng phát triển cơ sở hạ tầng sẽ phát huy hiệu quả trong việc thu hút đầu tư vào nông
nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Zhang và cộng sự (2010)
khi tiến hành nghiên cứu ở tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc cho rằng, để phát triển
và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao các cấp chính quyền cần tập trung
vào các vấn đề sau đây: (i) tăng cường hỗ trợ một cách linh hoạt về vốn và công nghệ;
(ii) tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng về thông tin nông nghiệp; (iii) xây dựng các mô
hình trình diễn về nông nghiệp công nghệ cao; và (iv) đầu tư cho nghiên cứu các thiết
bị công nghệ gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Hallam (2011) đã tổng kết một số nguyên
lý cần được quan tâm trong thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao bao gồm:
(i) chú trọng đến quyền sử dụng đất; (ii) sự bền vững về xã hội; và (iii) sự bền vững về
môi trường. Tey và Brindal (2012) đã chỉ ra rằng một số ưu đãi về tài chính như chính
sách lãi suất ưu đãi và cắt giảm thuế là cách thức hữu hiệu để thu hút đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao. Kết quả này cũng giống với đề xuất trong nghiên cứu của Singh
và cộng sự (1995), Tseng và Zebregs (2002).
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016) với "Báo cáo tổng
hợp Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030". Đây là công trình quy hoạch khá chi tiết, nêu
bật các chỉ tiêu và định hướng phát triển KT-XH của 07 tỉnh, thành phố - vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng. Bên cạnh đó, Trần Ngọc Ngoạn
(2008) trong bài nghiên cứu về “Phát triển nông thôn bền vững những vấn đề lý luận
và kinh nghiệm thế giới” đã tiếp cận đến những vấn đề lý luận và kinh nghiệm phát
triển nông thôn bền vững từ một số tỉnh thành trong cả nước. Nghiên cứu này đã làm
rõ cơ sở lý thuyết cho phát triển nông thôn bền vững và một số kinh nghiệm quốc tế
trong phát triển bền vững nông thôn trên 3 trụ cột chính: (1) phát triển bền vững kinh
10
tế nông thôn; (2) phát triển bền vững xã hội nông thôn; (3) tăng cường bảo vệ, quản
lý môi trường tự nhiên. Nguyễn Điền (1997) trong cuốn “CNH nông nghiệp, nông
thôn các nước châu Á và Việt Nam" đã khái quát một số vấn đề về nông thôn và
CNH nông thôn, phát triển nông thôn ở các nước châu Á, CNH nông nghiệp và nông
thôn ở Việt Nam. Tác giả khẳng định rằng định hướng CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra có thể được sắp xếp thành 3 nhóm
như sau: (1) phát triển nông nghiệp; (2) phát triển nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH; (3) xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn. Đây là các nội
dung có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tiến hành CNH nông nghiệp và
nông thôn. Đặng Kim Sơn (2008) trong bài: Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp,
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tổng hợp, phân tích vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình CNH ở nhiều nước trên thế
giới, tác giả có sự liên hệ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tác giả đã làm rõ một
số vấn đề tính lý luận, thực tiễn như: vai trò của nông nghiệp, vấn đề cơ cấu sản xuất,
vấn đề đất đai, lao động, môi trường trong quá trình CNH đất nước. Đây là những
vấn đề mà Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình CNH, HĐH nhằm mục tiêu
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Đặng Kim Sơn (2009) trong bài báo “Xây dựng chiến lược nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”
đã phân tích thực trạng tam nông từ khi có những chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; thực trạng tình hình nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; những vấn đề tồn tại cần giải quyết và các thách thức cần vượt qua
trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay. Tác giả cũng đưa ra mục tiêu,
quan điểm, định hướng phát triển lớn là (1) Hiện đại và chuyên nghiệp hóa nông
nghiệp. (2) Nông dân hiện đại, chuyên nghiệp và có tổ chức. (3) Nông thôn văn
minh, hiện đại, bản sắc dân tộc và môi trường bền vững. Nguyễn Minh Phong (2011)
trong bài viết “Sáu đột phá phát triển nông nghiệp" Viện nghiên cứu phát triển KT-
XH Hà Nội đã nêu lên sáu đột phá phát triển nông nghiệp trong gian đoạn hiện nay,
bao gồm: (1) hoàn thiện chính sách đất đai (đặc biệt giá đất và thuế sử dụng đất, thu
hồi đất nông nghiệp, thời hạn sử dụng đất); (2) chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhằm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn. (3) Đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp qua các biện pháp tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo
và hướng nghiệp từ bậc phổ thông tại khu vực nông thôn, đảm bảo trình độ tay nghề
và trình độ xã hội cho lao động ở nông thôn; (4) Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng,
áp dụng KHCN, đồng bộ về hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống điện, thông tin -
11
truyền thông, hệ thống chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; (5) Xây
dựng thương hiệu nông sản, phát triển thể chế và tổ chức thương mại để điều tiết
hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu theo quy luật thị trường; (6) Chính sách tài chính
- tín dụng.
Phạm S (2014) trong tác phẩm “Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu
để hội nhập quốc tế”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, đã nghiên cứu về lịch sử ứng dụng
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp tại một số nước trên thế giới và thấy rằng từ thập
niên 1970, Nhật Bản đã thực hiện đầu tư công nghệ cao cho nông nghiệp, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và trở thành cường quốc nông nghiệp
trên thế giới; Hà Lan đã thực thi chiến lược “Đầu tư cao – sản xuất nhiều”, cốt lõi là áp
dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp từ rất sớm; Hàn Quốc đã tập trung phát
triển công nghệ sinh học và coi đây là khâu đột phá để ứng dụng công nghệ cao nhằm
phát triển nông nghiệp một cách bền vững.
Các nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và kinh doanh
nông nghiệp như Nguyễn Thị Kim Sang (2017), “Kinh nghiệm phát triển nông
nghiệp công nghệ cao ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Nguyễn Anh
Phong, Phạm Thị Thu Hà (2017), “đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao: thách thức và giải pháp”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát
triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 183-190, tr 113-128. Kết quả nghiên cứu của những
tác giả này đã phân tích một số mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại
một số nước trên thế giới (Israel, Hà Lan, Nhật Bản, Mỹ, Phần Lan, các nước châu
Âu, châu Á) và đề xuất giải pháp đối với Việt Nam như (1) Hoàn thiện quy hoạch
tổng thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao; (2) huy động, phân bổ và sử dụng
hiệu quả nguồn vốn khoa học, tập trung kỹ thuật, ứng dụng công nghệ trong nông
nghiệp; (3) nghiên cứu để đưa ra công nghệ phù hợp với những lợi thế của đất nước;
(4) tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật; (5) tăng cường đầu tư nâng cấp hạ tầng,
thiết bị công nghệ cho các phòng thí nghiệm.
Ngoài ra các tác giả Trần Thanh Quang (2016) “phát triển nông nghiệp công
nghệ cao ở nước ta” trên tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tài chính (2017) “phát triển nông
nghiệp công nghệ cao: cần giải quyết 5 vấn đề” trên tạp chí Kinh tế và Dự báo; Đỗ Xuân
Trường (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: doanh nghiệp khó tiếp cận các
chính sách ưu đãi trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo; Phạm Văn Hiển (2014), Phát triển
nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, đã
chỉ ra tình hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam khẳng định các khó
12
khăn, rào cản cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao là thiếu vốn đầu tư, nguồn nhân
lực, tích tụ đất đai, kết cấu hạ tầng, thị trường tiêu thụ; phương thức, tập quán sản xuất,
nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ; nhân lực kỹ thuật. Trong đó nổi bật là việc doanh
nghiệp “đói” vốn sản xuất nông nghiệp, khó tiếp cận nguồn vốn... Đồng thời, các tác giả
cũng đã đưa ra 3 loại hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao hiện đang phát triển ở
Việt Nam là các khu nông nghiệp công nghệ cao, các điểm sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao và vùng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao. Để có thể phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, các tác giả cũng đưa ra một số vấn đề cần lưu ý đó là: (1) lựa
chọn đúng sản phẩm, khâu đột phá cho quy trình và công nghệ cao để áp dụng thích
hợp tránh chạy theo tình trạng công nghệ cao, đắt đỏ, gây nợ nần, rủi ro cao; (2) xác
định giống là khâu then chốt, mang giá trị gia tăng cao nhất cho sản phẩm; (3) phát triển
nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi có vốn lớn, các chính sách tín dụng trong nông
nghiệp hiện nay ban hành nhưng khó tiếp cận bởi điều kiện được vay ngặt nghèo; (4)
cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sản xuất phân bón hữu cơ, tuyên truyền
sử dụng phân hữu cơ; xây dựng quy chế chính sách, quy trình phù hợp để thực hiện tích
tụ đất đai cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Phạm Trần Minh Trang (2017) trong bài viết “các yếu tố tác động đến việc đầu
tư phát triển nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ cao của các hộ nông dân nhỏ
tại Việt Nam”, đã chỉ ra các yếu tố quyết định đến việc áp dụng công nghệ cao trong
nông nghiệp đó là công nghệ; quy mô trang trại; lợi ích thuần của người dân; thu nhập
phi nông nghiệp; yếu tố thể chế; thu thập thông tin về công nghệ mới; tiếp cận các dịch
vụ khuyến nông; tiếp cận tín dụng; trình độ học vấn; độ tuổi; giới tính; quy mô gia
đình; mức độ ngại rủi ro và tổn thất.
Môi trường chính sách của các địa phương có vai trò quyết định trong thu hút
đầu vào lĩnh vực nông nghiệp (Theo Báo cáo đầu tư quốc tế của Hội nghị Thương mại
và Phát triển của Liên hiệp quốc, 2009). Các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải bao phủ tất cả các lĩnh vực từ đất đai, cơ
sở hạ tầng, tài chính... Do đó, muốn thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao các địa phương cần dựa trên những lợi
thế riêng có của mình để đưa ra những chính sách thu hút phù hợp.
Theo điều tra của Bùi Hồng Nhung (2016) chỉ có khoảng 1% nguồn vốn nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Lĩnh vực nông nghiệp khó thu
hút được đầu tư bởi một số nguyên nhân như sau: (i) nông nghiệp là lĩnh vực mang
tính rủi ro cao hơn so với lĩnh vực khác do tác động của thời tiết, khí hậu, sự yếu kém
của cơ sở hạ tầng tại Việt Nam; (ii) nền nông nghiệp của Việt Nam vẫn mang tính chất
13
sản xuất nhỏ, tự cung, đầu tư phân tán, thiếu tính chuyên môn hóa; và (iii) chiến lược
và định hướng thu hút đầu tư vào nông nghiệp chưa rõ ràng (Trần Hào Hùng, 2006).
Theo nghiên cứu của Phạm Văn Hiển (2014), sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của
Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn bao gồm: (i) khó khăn về vốn đầu
tư; (ii) khó khăn về tích tụ đất đai và cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn; (iii) thiếu
nguồn nhân lực cho nông nghiệp công nghệ cao; và (iv) khó khăn về thị trường tiêu
thụ các sản phẩm nông nghiệp. Ngoài bốn khó khăn nêu trên, Trần Thanh Quang
(2016) còn đề cập đến một khó khăn khác trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
đó là “sự liên kết khoa học-công nghệ giữa các tỉnh, thành trong cả nước còn rời rạc”.
Chính những khó khăn này là các rào cản đối với thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao.
Theo nghiên cứu của Đăng Nguyên (2011), thiếu nguồn nhân lực có trình độ
cao là một trong những khó khăn lớn nhất đối với phát triển và thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Sơn La. Tác giả Tăng Hoàng
Vinh (2015) cũng cho rằng thách thức lớn nhất đối với phát triển nông nghiệp công
nghệ cao đó là yếu tố con người, đặc biệt là những người có hiểu biết về nông nghiệp
công nghệ cao. Trong khi đó, khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn là rào
cản thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Cần Thơ (Trương Vĩnh Xuân,
2010). Nghiên cứu của Mai Hoa (2013), cơ sở hạ tầng yếu kém là rào cản đối với thu
hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn
huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông. Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010) đã chỉ ra
rằng yêu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng lớn và thiếu nguồn nhân lực có trình độ là
hai nguyên nhân cơ bản gây cản trở cho việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.
Trần Đình Thao và cộng sự (2010) trong đề tài “Nghiên cứu môi trường đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn thành phố Hà Nội” đã nêu 8 giải pháp thu hút
đầu tư vào nông nghiệp cho Hà Nội bao gồm: (i) Hoàn thiện và bổ sung cơ chế, chính
sách nhằm tăng khả năng tiếp cận nguồn lực đất đai và vốn của chủ đầu tư; (ii) Nâng
cao mức ưu đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu tư vào nông nghiệp; (iii) Cải thiện cơ sở hạ
tầng nông thôn và áp dụng khoa học công nghệ; (iv) Hoàn thiện hệ thống thị trường;
(v) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; (vi) Tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa
các ban ngành, tổ chức; (vii) Nâng cao chất lượng nguồn lao động; và tăng cường công
tác xúc tiến đầu tư.
Theo Phạm Mạnh Cường (2011), để đẩy nhanh việc hình thành các khu nông
nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao thì Nhà nước
14
cần có các chính sách ưu đãi hơn đối với các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đỗ
Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010) đã đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển
nông nghiệp công nghệ cao một cách bền vững và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao đó là: (i) hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; (ii) giảm thuế, có
chính sách khuyến khích phát triển các hoạt động liên doanh, liên kết; và hỗ trợ cho
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đỗ Phú Hải (2016) đã đưa ra các nhóm giải
pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công
nghệ cao bao gồm: (i) quy hoạch sử dụng đất cho nông nghiệp công nghệ cao; (ii) xây
dựng quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vùng nông nghiệp công
nghệ cao; (iii) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho nông nghiệp công nghệ
cao; (iv) đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư để xây dựng, thực hiện các quy hoạch; xây
dựng khu và vùng nông nghiệp công nghệ cao; (v) mở rộng triển khai các hoạt động
đào tạo và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp; (vi) triển khai việc xây dựng,
áp dụng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật trong quản lý chất lượng nông sản tại khu/vùng
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (vii) tăng cường các chính sách hỗ trợ các hoạt
động khoa học-công nghệ phục vụ phát triển các khu và vùng nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao; và (viii) tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, học hỏi kinh
nghiệm phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp. Phạm Văn Hiển (2014), Trần
Thanh Quang (2016) cũng đề cập đến việc tăng cường hợp tác và học hỏi kinh nghiệm
quốc tế về phát triển nông nghiệp công nghệ cao để thu hút cá nhân, doanh nghiệp, tổ
chức đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Giải pháp về quy hoạch đất đai cho vùng sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ
sở hạ tầng nông thôn được đề cập đến ở rất nhiều nghiên cứu khác nhau. Theo Trương
Vĩnh Xuân (2010) để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Cần Thơ nên chú trọng vào công tác quy
hoạch nông nghiệp theo vùng, theo cụm. Nguyễn Gia Thắng (2010) đề cập đến công
tác xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như là giải pháp để phát triển nông nghiệp công
nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa. Phạm Mạnh Cường (2011) kết luận rằng các địa phương cần thực hiện tốt công
tác quy hoạch đất đai, giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu
tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Phạm Văn Hiển (2014), Trọng Nguyễn (2014) cho rằng làm tốt khâu quy hoạch
sản xuất sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Đỗ Phú Hải (2016) cũng cho rằng làm tốt
công tác quy hoạch đất đai và xây dựng quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công
15
nghệ cao sẽ thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Theo Trần Thanh Quang (2016) thực hiện hiệu quả chính sách dồn điển đổi thửa và
xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ góp phần thu hút đầu tư vào nông nghiệp công
nghệ cao. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016), để thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh cần quy
hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao theo hướng tập trung, quy mô lớn trên địa bàn tỉnh.
Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp có chất lượng cao cũng là giải pháp hữu
hiệu thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao và đã được đề xuất bởi rất nhiều
các tác giả khác nhau. Theo Nguyễn Lê Hằng và Đặng Bảo Hà (2013), để thu phát
triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ở
Việt Nam, công tác xây dựng và tổ chức thực hiện, quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực
công nghệ cao thuộc lĩnh vực nông nghiệp cần được chú trọng. Trương Vĩnh Xuân
(2010) và Đăng Nguyên (2011), chú trọng vào đào tạo và xây dựng đội ngũ lao động
chất lượng cao sẽ là một trong các giải pháp hiệu quả để thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Cần Thơ và Sơn La. Đề xuất này giống
với kết luận của Phạm Văn Hiển (2014). Giải pháp này cũng được đề xuất bởi Tăng
Hoàng Vinh (2015) đối với công tác thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao trên địa bàn tỉnh An Giang.
Trần Thanh Quang (2016), Đỗ Phú Hải (2016) cũng đề cập đến giải pháp đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong các giải pháp để phát triển nông
nghiệp công nghệ cao và thu hút các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam. Nguyễn Duy Mậu (2016) cũng đề cập đến phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ
cao tại khu vực Tây Nguyên. Theo Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016),
tăng cường đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp là một trong
các giải pháp cần được chú trọng ở Bắc Ninh để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao.
Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010), Phạm Văn Hiển (2014) cho rằng chính
sách đẩy mạnh hoạt động liên doanh liên kết sẽ góp phần thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp công nghệ cao. Ở một khía cạnh khác, Trần Thanh Quang (2016) cho
rằng đẩy mạnh việc cải cách hành chính và phát triển thị trường tiêu thụ, tăng cường
xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm nông nghiệp sẽ là các giải pháp hữu hiệu để
phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao ở Việt Nam. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016) cũng đề
16
cập đến đẩy mạnh phát triển thị trường, dịch vụ hỗ trợ hoạt động công nghệ cao trong
nông nghiệp và tăng cường chính sách hỗ trợ về vốn là các giải pháp khả thi để thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đỗ
Phú Hải (2016) cũng đề cập đến giải pháp đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư để thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với phát
triển nông nghiệp công nghệ cao
1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài về quản lý nhà nước đối với phát triển
nông nghiệp công nghệ cao
Các nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp, nông
nghiệp công nghệ cao trên thế giới được nghiên cứu dưới nhiều góc cạnh khác nhau,
đã chỉ ra được những yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp, đề xuất một số
chương trình, mô hình để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Nghiên cứu của
TCP/Belize (2003) đã chỉ ra những hạn chế trong phát triển nông nghiệp của đất nước
Belize như: (1) thiếu một hệ thống thông tin thị trường cung cấp giá một cách minh
bạch, đáng tin cậy, nhất quán và kịp thời; (2) việc tổ chức thực thi chính sách kém hiệu
quả; (3) thiếu các dịch vụ và hệ thống hỗ trợ để phát triển nông nghiệp như các dịch vụ
đào tạo nghề, dịch vụ cung cấp các yếu tố đầu vào, các tiêu chuẩn giám sát và kiểm
dịch; (4) đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực
chưa đáp ứng yêu cầu…Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đã kiến nghị một số
chính sách để phát triển nông nghiệp Belize như chính sách khuyến khích sản xuất
hàng hóa và kinh doanh thương mại; chính sách phát triển các hộ nông dân; chính sách
qui hoạch vùng, lãnh thổ; chính sách khuyến công; chính sách tín dụng ưu đãi cho các
hộ nông dân; chính sách đào tạo nghề trong nông nghiệp…
Lars Andersson và cộng sự (2017) trong tác phẩm “nông nghiệp trong tương lai
đến năm 2030”, đã đưa ra quan điểm, định hướng phát triển nông nghiệp của Thụy Điển
đến năm 2030 trong các kịch bản khác nhau trong tương lai như: một thế giới mà tài
nguyên đất bị khai thác quá mức, một thế giới cân bằng khi tài nguyên đất được khai thác
và bảo tồn hiệu quả….. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra 7 kịch bản cho phát
triển nông nghiệp của đất nước này, đó là: (1) tìm kiếm và ứng dụng công nghệ mới cho
một tương lai bền vững, là động lực cho sự phát triển nông nghiệp; (2) xuất khẩu các giá
trị gia tăng sang châu Á; (3) Hình thành và phát triển các công ty, các tập đoàn lớn trong
lĩnh vực nông nghiệp; (4) Sự thay đổi cơ cấu dân số, hội nhập nông thôn mới và sự di
chuyển của các loại hình lao động; (5) Sinh thái thông minh, sản xuất lương thực và vai
17
trò của hệ sinh thái xanh, sạch phù hợp với các qui luật tự nhiên; (6) phát triển nền nông
nghiệp 4.0 có truy xuất nguồn gốc rõ ràng; (7) định hình các mô hình phát triển nông
nghiệp tương lai của thế giới.
Nghiên cứu của các tác giả Kaaya (1999); Phougat (2006); Samah và cộng sự
(2009) đã chỉ ra để phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp công nghệ cao thì
chính phủ, chính quyền các nước cần quan tâm đến vai trò của ứng dụng công nghệ
thông tin đặc biệt trong truy xuất nguồn gốc của các sản phẩm nông nghiệp.
Báo cáo dữ liệu phát triển nông nghiệp của Israel (2016) của tổng cục thống kê
Israel đã đề cập đến nhiều khía cạnh, quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp của
Israel trong đó khẳng định chính phủ có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, đưa ra các
định hướng phát triển cũng như đào tạo nguồn nhân lực và cung cấp lao động chất
lượng cao, có khả năng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
Feder và cộng sự (1985); Hoppel (1994); Foster và Roenweing (1996); Kohli và
Singh (1997); Rogers (2003) và Uaiene (2009), Kebede và cộng sự (1990);
McNamara, Wetzstein và Douce (1991) cho rằng yếu tố quan trọng nhất tác động đến
phát triển nông nghiệp là thể chế và con người. Khi tiếp cận yếu tố thể chế, các tác giả
quan tâm đến việc ra các quyết định áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông
nghiệp, cơ chế cung cấp và chia sẻ thông tin về công nghệ mới, cơ chế tiếp cận các
dịch vụ khuyến nông, cơ chế tiếp cận tín dụng để đầu tư cho nghiên cứu và phát triển...
Dan Senor - Saul singer (2008), trong tác phẩm Quốc gia khởi nghiệp, câu
chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, đã cho rằng chìa khóa thành công trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp của Israel là sự hợp tác chặt chẽ của “4 nhà”: nhà nghiên
cứu, chính phủ, nông dân và doanh nghiệp. Trong đó, chính phủ có vai trò quan trọng
trong việc vận hành sự liên kết của “4 nhà” một cách hiệu quả.
1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về quản lý nhà nước đối với phát triển nông
nghiệp công nghệ cao
Bên cạnh các nghiên cứu nước ngoài, nhiều công trình nghiên cứu trong nước
về phát triển nông nghiệp CNC cũng chỉ ra được vai trò của quản lý nhà nước trong
các dự án quan trọng như đầu tư đến 50% vào các dự án khởi nghiệp, các dự án đầu tư
mạo hiểm. Phạm S (2014), trong tác phẩm nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất
yếu để hội nhập quốc tế, đã khẳng định vai trò của nhà nước trong điều hành các hoạt
động để thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Chính phủ Đài Loan đã thông qua việc ban
hành cơ chế chính sách và phê duyệt các quy hoạch giao thông, cơ sở hạ tầng tạo để
tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện cơ giới hóa sản xuất. Bên cạnh đó,
18
chính phủ còn ban hành các chính sách tín dụng cho nông dân vay với lãi suất ưu đãi;
chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu và chuyển giao các sản phẩm
nông nghiệp công nghệ cao... Chính phủ Thái Lan khuyến khích, hỗ trợ thành lập các
trung tâm nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật trong nông nghiệp,
đầu tư công nghệ sinh học; tăng cường bảo hiểm xã hội, giải quyết tốt vấn đề về vốn
và nợ, thiết lập các hệ thống đảm bảo rủi ro cho nông dân. Chính phủ Bỉ ban hành
hàng loạt các chính sách phát triển bền vững nông nghiệp và phát triển nghề làm vườn,
chú trọng quản lý nông nghiệp không làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan; tối
ưu hóa trong quản lý nhằm giảm các nguy cơ tổn thất trong sản xuất nông nghiệp; tập
trung đổi mới và nghiên cứu khoa học thông qua các chương trình khoa học phục vụ
nông nghiệp, các dự án đặt hàng nghiên cứu của các cơ quan quản lý nhà nước và
doanh nghiệp.
TTC Việt Nam (2017), trong tác phẩm cùng tìm hiểu nền nông nghiệp của Nhật
Bản, đã tiến hành nghiên cứu quá trình phát triển nông nghiệp của Nhật Bản từ trước
cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị (1868) cho đến nay. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng
chính phủ Nhật Bản trong mọi giai đoạn đều quan tâm thành lập các trung tâm thử
nghiệm để tiến hành lai ghép những loại cây nông nghiệp quan trọng, giúp đỡ người
nông dân thông qua các chương trình hỗ trợ giá, dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho các
trường kỹ thuật nông nghiệp, các trung tâm thử nghiệm giống cây trồng, vật nuôi mới.
Đỗ Xuân Trường, Lê Thị Thu (2010) đã nghiên cứu và đề xuất hướng đi tất yếu
của nông nghiệp Việt Nam và một số giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ
cao, trong đó khẳng định phải có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhà nước. Kết quả nghiên cứu
đã chỉ ra vai trò của thể chế trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp; vai trò kiến tạo, hỗ
trợ, tạo môi trường thuận lợi của nhà nước, đặc biệt trong việc thu hút các thành phần
kinh tế đầu tư vào phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ngoài việc lập quy hoạch,
xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể phát triển bền vững theo vùng lãnh thổ lấy
phát triển nông nghiệp công nghệ cao là hạt nhân, nhà nước cần có sự đầu tư thích
đáng vào R&D và ứng dụng những thành tựu, tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại ở
tất cả các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Không những thế,
nhà nước cần tổ chức thực thi chính sách một cách đồng bộ, nhất quán, kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ sự tuân thủ của các chủ thể liên quan, giao trách nhiệm cho các bộ, ngành
hữu quan phối hợp, kết hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình triển khai.
Tạp chí Mặt trận (2017), tìm hướng tháo gỡ khó khăn cho phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao;Thời báo tài chính Việt Nam (2017), thu hút đầu tư
vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: tháo gỡ nút thắt chính sách; Thời báo tài
19
chính Việt Nam (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: doanh nghiệp khó tiếp
cận các chính sách ưu đãi... cũng khẳng định phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở
nước ta thời gian vừa qua còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là: (1) Chính
sách của nhà nước chưa đầy đủ và phù hợp nên khó áp dụng; (2) các chính sách của
nhà nước chủ yếu hỗ trợ ưu đãi về thuế, phí theo địa bàn lĩnh vực đầu tư, khu công
nghệ cao mà thiếu hỗ trợ về đất quy mô lớn để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ
theo vùng sản xuất tập trung; (3) chính quyền địa phương chưa vào cuộc vì vốn đầu tư
cơ sở hạ tầng các khu nông nghiệp công nghệ cao rất lớn; (4) diện tích đất không đủ
lớn, chi phí thuê, quản lý cao, chi phí đầu tư trên đất lớn nhưng không được nhà nước
đảm bảo, vấn đề bảo hiểm nông nghiệp chưa có hướng dẫn triển khai. Để khắc phục
những khó khăn này, tác tác giả đã đề xuất nhà nước cần kiến tạo được môi trường cho
phát triển nông nghiệp công nghệ cao, huy động nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp
thông qua các hình thức hợp tác công tư...
Vũ Thanh Nguyên (2017), “xây dựng mô hình nông nghiệp hiện đại ở tỉnh Hải
Dương”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đã chỉ
ra thực trạng phát triển nông nghiệp của Hải Dương và so sánh với tiêu chí nông
nghiệp hiện đại, trong đó khẳng định vai trò của nhà nước trong định hướng, xây dựng
phát triển nông nghiệp hiện đại. Nghiên cứu này cũng đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp
như: UBND tỉnh cần thực hiện tốt chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết
gắn kết các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm nông nghiệp; ban hành tiêu chí
và tổ chức thành công việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn; quản lý, quy định sản xuất
nông sản theo tiêu chuẩn VietGap; đơn giản hóa các thủ tục hành chính...
Trịnh Kim Liên (2016), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành
Hà Nội theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và phát triển bền vững đã đánh giá được
tổng thể thực trạng tình hình phát triển nông nghiệp của Thủ đô Hà Nội và đề ra các
giải pháp phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và bền
vững. Nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố thành công cơ bản của quản lý nhà nước trong
phát triển nông nghiệp là: (1) triển khai nhanh các giải pháp thực hiện Chương trình
nông nghiệp công nghệ cao; (2) đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa
học, công nghệ vào các ngành sản xuất nông nghiệp; (3) phát triển và mở rộng thị
trường; (4) gắn phát triển kinh tế nông nghiệp với nông nghiệp các tỉnh trong vùng; (5)
đầu tư cho đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; (6) kịp thời đổi
mới và hoàn thiện các chính sách cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
20
GS.TS. Trịnh Duy Luân (2017), thực trạng đô thị hóa và hướng đi bền vững
cho phát triển nông nghiệp khu vực ven đô Hà Nội, đã đưa ra các khuyến nghị đối với
nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp là phải giải quyết hài hòa, hợp lý các quan hệ
chức năng giữa các khu vực trong quá trình đô thị hóa. Muốn phát triển nền nông
nghiệp theo hướng đô thị sinh thái, Hà Nội phải quan tâm đầu tư hệ thống cơ sở hạ
tầng, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đào
tạo nâng cao trình độ cho lao động nông thôn, liên kết bao tiêu sản phẩm... Để làm
được điều đó, cần làm tốt một số giải pháp như: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, quy hoạch sử dụng đất, hình thành các vùng sản xuất tập trung; triển khai áp
dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; tiếp tục chính sách tích tụ
đất đai, dồn điền đổi thửa...
Phùng Chí Cường (2017), “Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp
theo hướng công nghệ cao ở tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ ra thực trạng ban hành chính sách
của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc nhằm hỗ trợ nông nghiệp tỉnh phát triển theo hướng
công nghệ cao và bền vững giai đoạn 2012-2017. Theo đó tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành
một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao như: Hỗ trợ
mô hình sản xuất rau an toàn theo chuỗi (hỗ trợ tối đa 50% chi phí nhưng không quá 5
tỷ/mô hình); hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý
chất thải chăn nuôi; hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi; hỗ trợ phòng chống dịch gia súc,
gia cầm. Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện chính sách, tác giả đã đề xuất một số kiến
nghị để tỉnh Vĩnh Phúc làm tốt hơn công tác quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp của tỉnh theo hướng nông nghiệp công nghệ cao (rà soát lại các quy hoạch; đổi
mới các hình thức tổ chức sản xuất; tăng cường xây dựng hạ tầng đồng bộ...).
Bàn về các hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát
triển nông nghiệp công nghệ cao, Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016)
cho rằng để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh cần quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ
cao, vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng tập trung, quy mô
lớn trên địa bàn tỉnh. Trương Vĩnh Xuân (2010) thì cho rằng để phát triển nông nghiệp
công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành
phố Cần Thơ cần chú trọng vào công tác quy hoạch nông nghiệp theo vùng, theo cụm.
Nguyễn Gia Thắng (2010) cho rằng xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như là giải pháp
để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Phạm Mạnh Cường (2011) khẳng định rằng các địa
phương cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đất đai, giải phóng mặt bằng để tạo điều
21
kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Phạm Văn Hiển
(2014), Trọng Nguyễn (2014) cho rằng làm tốt khâu quy hoạch sản xuất sẽ là động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa.
Thực trạng phát triển nông nghiệp nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội được
trao đổi nhiều trên Tạp chí Công nghiệp và Tiêu dùng (2016), phát triển nông nghiệp
công nghệ cao tại Hà Nội: vẫn khó vì thiếu vốn; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
(2017), chia sẻ ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Các mô hình nông nghiệp
công nghệ cao của Hà Nội chưa nhiều, thậm chí quy mô nhỏ, mức độ ứng dụng không
đồng đều. Hiện Hà Nội chưa có các khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Cơ chế chính sách hỗ trợ về thuế đã được ban hành nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận,
chi phí đất đai còn cao, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn lỏng lẻo, tiếp cận nguồn vốn
gặp khó khăn. Mục tiêu đến năm 2020, giá trị nông nghiệp công nghệ cao của Thành
phố chiếm 35% tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp do thành phố Hà Nội đề ra khó
thực hiện nếu Thành phố không tập trung thực hiện các giải pháp bố trí hỗ trợ về vốn
để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu
Kết quả tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây cho thấy, hầu hết các
ngiên cứu trong thời gian qua đều tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng và khẳng định
thể chế và quản lý nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong khắc phục các thất bại
của thị trường, trong chuyển giao khoa học và công nghệ, trong đào tạo phát triển
nguồn nhân lực và thực hiện liên kết 4 nhà. Một số bài báo viết cũng khẳng định vai
trò của chính quyền địa phương trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao khi thông
qua các qui hoạch, kế hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và triển khai các chương trình,
dự án phát triển nông nghiệp cao tại địa phương.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về quản lý nhà nước, đặc biệt quản lý của chính
quyền địa phương cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC còn chưa nhiều và
chưa được hệ thống, chưa làm rõ tiêu chí đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh cũng như chưa làm rõ được
mức độ tiếp cận của người dân và các bên liên quan tới các chính sách hỗ trợ của nhà
nước cũng như các vấn đề liên quan đến sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các
vấn đề về lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ.
22
Bên cạnh đó, mỗi tỉnh/thành phố có một đặc điểm riêng và mục tiêu phát triển
riêng, đòi hỏi có các giải pháp phát triển nông nghiệp CNC riêng của mình. Với mục
tiêu phát triển Hà Nội thành thành phố thông minh, dẫn đầu về kinh tế tri thức vào
năm 2030, Hà Nội đang có tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất bị thu hẹp, nhu cầu
sản phẩm nông nghiệp CNC ngày càng nhiều và đa dạng. Điều này đã và đang đặt ra
các yêu cầu cấp bách về phát triển nông nghiệp CNC. Trong khi đó, quy hoạch phát
triển nông nghiệp của Hà Nội đã được phê duyệt từ lâu, đến nay nhiều điểm không còn
phù hợp với yêu cầu phát triển nông nghiệp CNC nhưng chưa được rà soát, điều chỉnh;
các chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC được ban hành nhỏ lẻ,
không đồng bộ, thiếu toàn diện gây khó khăn trong quá trình thực hiện; nhiều vấn đề
trong công tác tổ chức thực thi chính sách của các cơ quan chuyên môn của UBND, và
các cấp chính quyền về vấn đề còn rất mới, chưa có tiền lệ.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các nội dung quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn. Luận án sẽ tập trung làm rõ các khoảng trống nghiên cứu về
nội dung, cách thức và các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với phát triển
nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền thành phố Hà Nội như một nghiên cứu
điển hình để đưa ra các bài học cho các địa phương khác trong cả nước.
23
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ CỦA
CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
2.1. Các vấn đề chung về quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về
phát triển nông nghiệp công nghệ cao
2.1.1. Nông nghiệp công nghệ cao và nội hàm của phát triển nông nghiệp
công nghệ cao
Theo Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam, nông nghiệp là hoạt động sản
xuất của con người nhằm tạo ra cái ăn (lương thực, thực phẩm…), cái mặc (bông,
sợi…), nhà ở (gỗ, lứa, lá…). Tùy theo các căn cứ khác nhau, nông nghiệp được phân
loại khác nhau. Căn cứ theo lĩnh vực, nông nghiệp được chia thành các lĩnh vực (1)
trồng trọt; (2) chăn nuôi; (3) Thủy sản. Theo phương thức sản xuất, nông nghiệp được
chia thành (1) Nông nghiệp truyền thống hay nông nghiệp sinh nhai: Là lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp có đầu vào rất hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu mang tính tự cung
tự cấp, phục vụ chính cho gia đình của người nông dân, không có cơ giới hóa. (2)
Nông nghiệp sản xuất hàng hóa: Là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn
hóa, hiện đại hóa trong tất cả các khâu của quy trình sản xuất nông nghiệp. Nông
nghiệp sản xuất hàng hóa có nguồn đầu vào sản xuất lớn và mức độ cơ giới hóa cao.
Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại. Các hoạt
động sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hóa có thể ứng dụng KHCN vào các khâu từ
sản xuất, chế biến đến phân phối để tăng năng suất và giá trị của cây trồng/vật nuôi
nhằm tạo ra nguồn thu nhập tài chính cao nhất từ các hoạt động này cho nhà sản xuất.
Ngoài cách phân loại trên, trong những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ nông
nghiệp công nghệ cao. Theo quan niệm của các nước phát triển, nông nghiệp CNC là
nền nông nghiệp tiên tiến, được hiện đại hóa và cơ giới hóa ở mức cao trên cơ sở vận
dụng những thành tựu của công nghệ sinh học, sinh thái và môi trường. Theo vụ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, nông nghiệp công nghệ cao là một
nền nông nghiệp được ứng dụng những công nghệ mới, tiên tiến trong các khâu của
quá trình sản xuất để nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng
nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đem lại lợi nhuận cao cho
người sản xuất và đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững. Công nghệ cao được
tích hợp ứng dụng trong nông nghiệp bao gồm: Cơ giới hóa các khâu của quá trình sản
24
xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến..., tự động hóa, ứng dụng công nghệ thông tin, công
nghệ nguyên liệu mới, công nghệ sinh học như các giống cây trồng, vật nuôi vào trong
quá trình sản xuất nông nghiệp để cho năng suất, chất lượng cao...hoặc áp dụng các
quy trình canh tác tiên tiến, canh tác hữu cơ... cho hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị
sản xuất. Khác với nông nghiệp truyền thống, nông nghiệp công nghệ cao có cần quy
mô đủ lớn, có mức độ tập trung cao hơn, đáp ứng nhu cầu thị trường cao hơn, đem lại
lợi nhuận hơn cho người sản xuất, sử dụng nhiều máy móc, kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất cho năng suất lao động cao và hiệu quả hơn. Theo tác giả Huy Tú (2017), nông
nghiệp CNC là nền sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại với sự tích hợp của
nhiều ngành công nghệ hiện đại từ cơ khí, điện tử, tự động hóa, hóa học, CNTT, sinh
học, khí tượng, tài chính, quản trị kinh doanh, chế biến, bảo quản… để sản xuất ra sản
phẩm nông nghiệp chất lượng và hiệu quả cao. “Công nghệ cao là công nghệ có hàm
lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tích hợp từ thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá
trị gia tăng, thân thiện với môi trường, có vai trò quan trọng đối với việc hình thành
ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có” (Luật
Công nghệ cao, 2008). Theo đó, nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp tiên
tiến, hiện đại hóa, cơ giới cao, trên cơ sở vận dụng những thành tựu công nghệ sinh
học, sinh thái và môi trường; hướng tới sự phát triển bền vững, an toàn; đảm bảo tạo ra
nông sản với đủ số lượng và chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao của xã hội và không làm thay đổi môi trường”. Ở Việt Nam, “Nông nghiệp
công nghệ cao còn được định nghĩa là nền nông nghiệp được áp dụng những công
nghệ mới vào sản xuất, bao gồm: công nghiệp hóa nông nghiệp, tự động hóa, công
nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng,
giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị
diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữu cơ” (Vụ Khoa học Công nghệ
- Bộ NN & PTNT).
Như vậy, mục tiêu cuối cùng của nông nghiệp CNC là giải quyết mâu thuẫn
giữa năng suất, chất lượng thấp, đầu tư công lao động nhiều song hiệu quả kinh tế thấp
với việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất để sản xuất nông nghiệp
tăng năng suất, sản lượng, hiệu quả và chất lượng cao. Theo quan điểm của các chuyên
gia, nông nghiệp CNC ở Việt Nam hiện nay bao gồm các nội dung sau đây: (1) Lựa
chọn những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhất về giống, canh tác, chăn nuôi, công
nghệ tưới, sau thu hoạch - bảo quản - chế biến để ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, xây dựng thương
25
hiệu, xúc tiến thị trường; (2) Sản phẩm nông nghiệp CNC là sản phẩm hàng hoá mang
tính đặc trưng của từng vùng sinh thái, thổ nhưỡng khác nhau, đạt năng suất và hiệu
quả kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh cao, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và
sản lượng hàng hoá; (3) Sản xuất nông nghiệp CNC tạo ra sản phẩm phải theo một chu
trình, quy trình khép kín, trong sản xuất đảm bảo khắc phục được những yếu tố rủi ro
của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường; (4) nông nghiệp CNC được phát triển
theo từng thời điểm, giai đoạn và mức độ khác nhau và tình hình cụ thể của từng nơi,
nhưng phải đạt được những đặc trưng cơ bản đó là tạo ra được hiệu quả lớn hơn nhiều
so với sản xuất bình thường.
Nông nghiệp công nghệ cao có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội, cụ thể là:
- Nông nghiệp CNC có năng suất cao, tạo ra một lượng sản phẩm lớn, chất
lượng tốt và đặc biệt là thân thiện với môi trường.
Đồng thời, việc ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
còn giúp tiết kiệm các chi phí như: Nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và góp phần
bảo vệ môi trường. Chính những lợi ích như vậy mà sản xuất nông nghiệp CNC đã và
đang trở thành tất yếu, hình mẫu cho nền nông nghiệp thế kỷ XXI.
- Nông nghiệp công nghệ cao sẽ giúp người sản xuất chủ động trong sản xuất,
giảm sự phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu do đó quy mô sản xuất được mở rộng.
Việc ứng dụng các thành tựu công nghệ, kỹ thuật vào các cơ sở trồng trọt chăn
nuôi hiện đại để không phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu đã làm cho nông dân chủ động
được kế hoạch sản xuất của mình, đồng thời khắc phục được tính mùa vụ nghiệt ngã
trong sản xuất nông nghiệp. Do việc không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết nên nông dân
có thể sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp trái vụ có giá bán cao hơn và đạt lợi
nhuận cao hơn các sản phẩm chính vụ. Mặt khác nông nghiệp công nghệ cao cũng tạo
ra môi trường nhân tạo thích hợp với các giống cây trồng mới có sức chịu đựng cao
hơn và chống chịu sâu bệnh lớn hơn. Đặc biệt rất phù hợp với các vùng đất không
thuận với sản xuất nông nghiệp như: Vùng trung du, miền núi, vùng bị sa mạc hóa, và
các vùng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, thời tiết.
- Sản xuất nông nghiệp CNC giúp giảm giá thành sản phẩm, đa dạng hóa sản
phẩm, thương hiệu và tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
Áp dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp sẽ làm tăng hiệu quả trong việc sử
dụng tài nguyên đất, nước do những đặc điểm vượt trội của các công nghệ, như: Công
26
nghệ kỹ thuật sinh học, công nghệ gen, công nghệ sản xuất phân hữu cơ và tự động
hóa sản xuất. Sản xuất nông nghiệp CNC giúp tiết kiệm chi phí, tăng năng xuất cây
trồng vật nuôi, do đó sản xuất rễ ràng đạt được hiệu quả theo quy mô và tạo ra nền sản
xuất lớn với lượng sản phẩm đủ để phục vụ cho quá trình chế biến công nghiệp để đáp
ứng yêu cầu của thị trường. Cũng nhờ đó mà thương mại hóa được sản phẩm và tăng
cạnh tranh trên thị trường.
Hiện nay, các cơ quan chức năng đã đưa ra một số tiêu chí về nông nghiệp CNC
trên một số khía cạnh như sau: (i) Về kỹ thuật: Đó là khi quá trình sản xuất nông
nghiệp có ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại để tạo ra sản phẩm làm tăng
năng suất ít nhất 30% và chất lượng vượt trội so với công nghệ đang sử dụng; (ii) Về
kinh tế: là sản phẩm ứng dụng CNC làm cho hiệu quả kinh tế cao hơn ít nhất 30% so
với công nghệ đang sử dụng; (iii) Nếu là doanh nghiệp nông nghiệp CNC phải tạo ra
năng suất, hiệu quả tăng ít nhất gấp 2 lần. Nếu là vùng nông nghiệp CNC tăng ít nhất
30%. Chúng ta có thể nói đến một số công nghệ đang áp dụng cũng có thể gọi là công
nghệ cao như: che phủ nylon, do nylon giữ ẩm, phòng trừ cỏ dại, có thể cho năng suất
vượt trên 30% năng suất thông thường; công nghệ sử dụng ưu thế lai trong lai tạo
giống, công nghệ sinh học giúp năng suất trên 30%; trong thuỷ sản như phương pháp
sản xuất cá đơn tính; về kỹ thuật như tưới nước tiết kiệm, nhà màng…cũng là công
nghệ cao.
Các loại hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam có thể chia
thành như sau:
- Các khu nông nghiệp công nghệ cao: (i) Đối với các quốc gia phát triển, Khu
nông nghiệp CNC với hai chức năng chủ yếu: Phát triển du lịch, phục vụ tham quan,
thưởng thức cảnh quan, lan tỏa nâng cao sự hiểu biết của người dân và thay đổi
phương thức nghỉ ngơi. (ii) Đối với các quốc gia đang phát triển: Mục tiêu chính của
các khu nông nghiệp CNC là sản xuất, tại đây người ta trưng bày, trình diễn các loại
nông sản có giá trị cao, các thiết bị sản xuất có khoa học kỹ thuật cao và thực hiện
chức năng đào tạo và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Tại Việt Nam, khu nông
nghiệp CNC là khu công nghệ cao tập trung thực hiện hoạt động nghiên cứu, đào tạo,
chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp.
Khu nông nghiệp CNC là lãnh thổ xác định, không quá lớn về diện tích nhưng
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên cho năng suất và chất lượng
nông sản cao, sức cạnh tranh lớn và hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, khu nông nghiệp
CNC có những chức năng chủ yếu là điểm để trình diễn các sáng tạo khoa học công
27
nghệ; nơi hội tụ, thu hút nhân tài, đầu tư; địa điểm để đổi mới công nghệ, khu ươm tạo
và đào tạo công nghệ.
Khu nông nghiệp CNC là khu vực khép kín từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ
nông sản; là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp mới; vai trò là
hạt nhân của sự phát triển nông nghiệp theo hướng CNC, là mô hình tổ chức nông
nghiệp theo hướng phát triển bền vững, hỗ trợ, dẫn dắt, định hướng cho nhà đầu tư,
các hợp tác xã, nông hộ cá thể học tập và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào trong
sản xuất.
- Các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
Những mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong nông nghiệp
nhưng chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất. Đối với các mô hình này, thường ứng
dụng các kỹ thuật sản xuất hiện đại như: Kỹ thuật trồng cây không cần đất, cung cấp
giá đỡ nhân tạo cho cây, thay thế vai trò của đất, chủ động cung cấp thức ăn cho cây
trồng thông qua dung dịch dinh dưỡng; phương pháp thủy canh; phương pháp khí
canh; kỹ thuật trồng cây trên giá thể là kỹ thuật mà cây được gieo trồng trên các loại
giá thể và chúng được cung cấp chất dinh dưỡng thông qua dung dịch tưới lên giá thể.
- Các vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
Vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là vùng sản xuất nông nghiệp tập
trung, ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ và kỹ thuật CNC vào lĩnh vực
nông nghiệp để sản xuất một hoặc một vài nông sản hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu
chiến lược dựa trên các kết quả chọn tạo, nhân giống, gieo trồng cho năng suất, chất
lượng cao; phòng, trừ dịch bệnh; trồng trọt, chăn nuôi đạt giá trị kinh tế, hiệu quả cao;
là vùng sản xuất sử dụng các loại vật tư, máy móc, trang thiết bị hiện đại trong nông
nghiệp; bảo quản, chế biến sản phẩm nông sản và dịch vụ CNC trong sản xuất nông
nghiệp, nhằm tạo ra một lượng lớn nông sản hàng hóa và tập trung.
Vùng nông nghiệp CNC là hình thức sản xuất phổ biến và mang tính đại trà, có
ý nghĩa thực tiễn tại các quốc gia có diện tích đất nông nghiệp rộng và đang phát triển
như Việt Nam. Vùng sản xuất nông nghiệp CNC này phù hợp với các đối tượng cây
con cần khoảng không gian lớn; tận dụng được các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của vùng (quy tụ được diện tích sản xuất lớn, thu hút được nguồn nhân lực khoa học)
có thể áp dụng nhiều kỹ thuật canh tác hiện đại với đối tượng cây con đặc trưng nên sẽ
tạo được vùng sản xuất nông nghiệp lớn theo hướng ứng dụng công nghệ cao vào
trong sản xuất nông nghiệp. Việc sản xuất theo hình thức này cũng gặp phải những hạn
chế như: ứng dụng công nghệ thiếu tính đồng bộ nên chất lượng sản phẩm không cao,
28
không đáp ứng yêu cầu thị trường; thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định và hiệu
quả kinh tế không cao.
- Dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Dự án nông nghiệp ứng dụng CNC là dự án, phương án sản xuất kinh doanh
phải đáp ứng đồng thời các tiêu chí, cụ thể như sau: (i) Công nghệ ứng dụng trong dự
án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng CNC trong nông nghiệp có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng được ban hành kèm theo Quyết định số 66/2014/QĐ-TTg ngày
25/11/2014 và Quyết định số 13/2017/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính
phủ; (ii) Sản phẩm sản xuất ra phù hợp tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn quốc tế về
chất lượng; (iii) Sản phẩm được cấp chứng nhận hoặc cam kết công bố áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng trong phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng CNC theo
các tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2015, GAP, GMP hoặc tiêu chuẩn quốc tế tương
đương về quản lý chất lượng sản phẩm; (iv) Phải đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; trường hợp chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất, do đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao chính là sự gia tăng về quy mô, sản
lượng nông nghiệp có ứng dụng CNC nhằm đem tới sự thay đổi về năng suất, chất
lượng, cơ cấu và giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC vào các khâu, các giai đoạn của quá
trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp để đem lại năng suất, chất lượng và giá trị sản
phẩm nông nghiệp cao hơn, bao gồm các nội dung sau:
- Lựa chọn những công nghệ tiến bộ nhất về giống, canh tác, chăn nuôi, công
nghệ tưới, sau thu hoạch – bảo quản – chế biến ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Tập trung từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình quản
lý, xây dựng thương hiệu sản phẩm và xúc tiến thị trường.
- Lựa chọn sản xuất và cung ứng các sản phẩm nông nghiệp CNC mang tính
đặc trưng của từng vùng sinh thái, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị
diện tích, có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường trong nước và thế giới, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng
hàng hoá khi có yêu cầu của thị trường.
Sản xuất nông nghiệp CNC sẽ khắc phục được những yếu tố rủi ro của tự nhiên
và hạn chế rủi ro của thị trường nhờ việc tạo ra sản phẩm theo một chu trình khép kín,
29
trong sản xuất. Phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện theo từng giai đoạn với
mức độ phát triển khác nhau, tuỳ tình hình cụ thể của từng địa phương. Vì vậy, phát
triển nông nghiệp CNC có các vai trò như sau:
- Thứ nhất tăng sản lượng sản phẩm nông nghiệp, từ đó đáp ứng được nhu cầu
thực phẩm ngày càng tăng của xã hội, trong đó có cả những người thu nhập thấp, nhờ
tạo ra được khối lượng sản phẩm lớn với giá bán rẻ hơn.
- Thứ hai, tạo số lượng hàng hóa lớn với chất lượng cao, đồng đều; do đó, có
thể tham gia chuỗi giá trị và thương mại toàn cầu nhờ đáp ứng được yêu cầu về nguồn
cung ứng cũng như chất lượng sản phẩm theo tiêu chí của thị trường và có thể truy
xuất được nguồn gốc.
- Thứ ba, mang lại thu nhập lớn cho doanh nghiệp nhờ tạo ra được năng suất
sản phẩm lớn nhất trên mỗi đơn vị tài nguyên sử dụng với giá thành thấp nhất nhờ quy
mô sản xuất lớn và áp dụng các công nghệ sản xuất có hiệu quả cao.
- Thứ tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho địa phương và quốc gia khi doanh
thu từ sản xuất tăng lên, đóng thuế từ doanh nghiệp tăng và đồng thời hình thành mới
các dịch vụ hỗ trợ.
- Thứ năm, tạo thêm công ăn việc làm cho một số bộ phận dân cư và cơ hội
khởi nghiệp cho doanh nghiệp địa phương trên cơ sở hình thành các thị trường sản
phẩm có giá trị gia tăng mới.
- Thứ sáu, tạo giá trị gia tăng cho một số sản phẩm địa phương (kể cả phụ phẩm
nông nghiệp), hình thành các sản phẩm hàng hóa đặc sản chủ lực của quốc gia, vùng
và địa phương (mỗi làng một sản phẩm).
Phát triển nông nghiệp CNC giúp ngành nông nghiệp giải quyết các thách thức
bằng các ưu việt trong quá trình phát triển của các công nghệ như: Công nghệ sinh học,
nhà kính, tưới nhỏ giọt, cảm biến, tự động hóa, internet vạn vật… giúp sản xuất nông
nghiệp tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành,
nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, nông nghiệp CNC
giúp nông dân chủ động hơn trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ
thuộc vào thời tiết, khí hậu. Phát triển nông nghiệp CNC thực sự là một trong các giải
pháp quan trọng đóng góp có hiệu quả, tạo ra chuyển biến mạnh mang tính đột phá
trong phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần đẩy nhanh tái cơ cấu nền nông nghiệp,
nâng cao đời sống của người dân.
30
Phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC được coi là xu hướng tất yếu giúp sản
xuất nông nghiệp phát triển vượt bậc, qua đó làm thay đổi bức tranh nông nghiệp của
mọi quốc gia.
Phát triển nông nghiệp CNC theo cách tiếp cận của luận án này là kết quả của
quá trình phát triển các loại hình nông nghiệp ứng dụng KHCN vào sản xuất, trước hết
được thể hiện ở sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp và thay đổi cơ cấu, tỷ trọng của
ngành nông nghiệp trong đó nhấn mạnh đến (i) sự gia tăng của các dự án, mô hình
nông nghiệp CNC; (ii) sự gia tăng của các vùng/khu nông nghiệp CNC; (iii) sự thay
đổi của phương thức sản xuất nông nghiệp và cơ cấu sản xuất nông nghiệp qua tỷ
trọng giá trị sản lượng của nông nghiệp CNC của tỉnh/thành phố trong giai đoạn
nghiên cứu.
2.1.2. Mục tiêu, quan niệm và yêu cầu của quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh
Quản lý nhà nước là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước,
quản lý nhà nước ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. Theo Uông Chu
Lưu (2016) quản lý nhà nước bản chất là sự quản lý có tính chất của nhà nước và do
nhà nước thực hiện thông qua bộ máy của mình trên cơ sở quyền lực của nhà nước
nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ, UBND các cấp. Quản lý nhà
nước cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối
tượng bị quản lý. Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng, là hoạt động của tổ chức
quyền lực công. Hoạt động này chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật để tác động lên đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Khác với quản lý ở khu vực tư nhân vì mục
tiêu lợi nhuận cho cá nhân chủ sở hữu, quản lý nhà nước là hoạt động vì mục tiêu của
đại đa số người dân trong một nhà nước. Tính chất của quản lý nhà nước là đa mục
tiêu, phản ánh sự đa dạng của các loại lợi ích xã hội mà nhà nước với tư cách là đại
diện cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội phải thực hiện. Đại diện cho quyền lực của
nhà nước để quản lý các hoạt động là cán bộ công chức, viên chức làm việc trong các
cơ quan quản lý nhà nước theo các chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được phân công.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được
đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức được thực hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật và để thực thi pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao
nhiệm vụ quản lý nhà nước). Tính chất chấp hành các qui trình, thủ tục, tuân thủ qui
định pháp luật trong quản lý nhà nước một mặt đảm bảo cơ sở vững chắc cho hành
31
động của các công chức, viên chức, tránh các quyết định tùy tiện, bảo vệ quyền và lợi
ích của nhà nước. Với thiết chế tổ chức bộ máy quản lý và các qui định về tiêu chuẩn
vận hành, hoạt động quản lý nhà nước là cơ chế quản lý đặc biệt, với nhiều tầng, bậc
và được nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân thực hiện theo sự phân cấp, phân quyền nhất
định. Quá trình này tạo ra cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực lẫn nhau, một mặt
cân bằng quyền lực, đảm bảo tính khách quan trong quản lý; mặt khác đảm bảo sự
tuân thủ, chấp hành theo mô thức có sẵn, thậm chí cứng nhắc. Bên cạnh đó, việc đưa
ra các chính sách vì mục tiêu chung đòi hỏi sự tham gia của các cấp, ngành và các bên
liên quan với nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Việc thực thi chính sách, ra quyết định
cũng cần tuân theo qui trình, thủ tục và có sự kiểm soát của nhiều bên. Tính chất quản
lý nhà nước như vậy đã tạo ra sự phản ứng chậm và kém linh hoạt hơn so với quản lý
ở khu vực tư, các quyết định, chính sách đưa ra thường có độ trễ nhất định.
Theo GS. Đỗ Hoàng Toàn và cộng sự (2005). Quản lý nhà nước về kinh tế được
thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của nhà nước. Đây là tác
động thường quyên, có chủ đích của cơ quan nhà nước đối với một số đối tượng nhằm
đem lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc và địa phương (Nguyễn Thị Thu Nguyên 2019)
Theo đó, quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là sự quản lý vĩ mô
mang tính chất thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các hoạt động của mình để
tạo điều kiện tiền đề, môi trường cho nông nghiệp công nghệ cao phát triển thông qua
hệ thống qui hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC, đồng thời
tổ chức thực hiện các qui hoạch, chương trình và chính sách phát triển đó theo mục
tiêu đã định hướng tới mục tiêu chung của toàn ngành nông nghiệp; điều tiết nhằm
khắc phục các thất bại của thị trường trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân
phối, tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp CNC và lành mạnh hoá mọi quan hệ kinh tế
và xã hội có liên quan...Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao có
vai trò to lớn trong việc đảm bảo môi trường thuận lợi và an ninh cho sự phát triển
nông nghiệp nông thôn, đảm bảo một số lĩnh vực hoạt động trong nông nghiệp nông
thôn bằng thực lực kinh tế Nhà nước.
Chức năng chủ yếu quản lý Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ
cao là làm rõ các định hướng phát triển, điều chỉnh các mối quan hệ, hỗ trợ giúp đỡ và
khắc phục các thất bại của thị trường trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn
nói chung và phát triển nông nghiệp CNC nói riêng. Quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp CNC có các tính chất sau:
- Hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện
32
qua nhiều tầng bậc thông qua sự phân công, phân cấp quản lý cho các cơ quan, tổ chức
từ trung ương đến địa phương vì lợi ích chung và quá trình thực hiện mang tính liên
ngành, nhiều cơ quan chịu trách nhiệm và có tính giao thoa, khó phân định.
- Cũng như các hoạt động quản lý nhà nước khác, quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp CNC là hoạt động thông qua người đại diện là các cán bộ công chức,
viên chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, được tuyển dụng và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, quản lý theo mục tiêu của nhà nước. Đây là các cá nhân
được nhà nước thuê làm công việc vì mục tiêu chung trên cơ sở nhiệm vụ, trách
nhiệm, quyền hạn nhất định.
- Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là hoạt động đa mục tiêu. Một
mặt vừa đảm bảo mục tiêu chung là phát triển nông nghiệp CNC vừa phải bảo đảm giải
quyết hài hòa các lợi ích của các bên tham gia cũng như lợi ích phát triển kinh tế xã hội
của đất nước một cách bền vững, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội. Các
mục tiêu này khó tách bạch, dễ bị xung đột trong quá trình thực hiện.
Chính quyền địa phương cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung
là chính quyền địa phương cấp tỉnh) ở nước ta là một bộ phận của bộ máy quản lý nhà
nước. Đây là các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước trên địa bàn tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra. Theo Luật Tổ chức chính
quyền địa phương (2015), chính quyền địa phương cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc
trung ương bao gồm hội đồng nhân dân (HĐND), ủy ban nhân dân (UBND) cấp
tỉnh/thành phố. HĐND và UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; luật và nghị quyết của Quốc
hội; các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nghị quyết, quyết định của
chính quyền địa phương nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước một cách thống nhất trong phạm vi cả nước. Bên cạnh việc
chịu trách nhiệm chấp hành, thực thi pháp luật tại địa phương, chính quyền địa phương
cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành các quy định, cơ chế, chính sách để triển khai các
chủ trương chính sách của Nhà nước trên địa bàn. Khác với quản lý nhà nước của các
bộ, ngành là chỉ quản lý theo chuyên ngành, lĩnh vực nhất định, chính quyền địa
phương cấp tỉnh phải thực hiện việc quản lý toàn diện các mặt phát triển kinh tế - xã
hội, đời sống của người dân trên địa bàn.
Vai trò của bộ máy chính quyền cấp tỉnh được thể hiện qua chính của hai chủ
thể, đó là vai trò của HĐND và UBND cấp tỉnh. HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân ở
33
địa phương. HĐND cấp tỉnh là cầu nối giữa chính quyền Trung ương với chính quyền
địa phương, bảo đảm sự tập trung, thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước
trên phạm vi cả nước và phát huy được nội lực từng địa phương. HĐND là nơi thể chế
hóa, cụ thể hóa các định hướng, tổ chức thực hiện các chính sách, quyết định của cơ
quan nhà nước cấp trên; ban hành các cơ chế, chính sách của địa phương trên cơ sở
Trung ương giao, hoặc đặc thù (không trái luật) nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. UBND cấp tỉnh do HĐND cấp tỉnh bầu ra theo nhiệm
kỳ của HĐND. Theo quy định của Điều 114, Hiến pháp năm 2013, UBND cấp tỉnh là
cơ quan chấp hành của HĐND cấp tỉnh, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên quản lý các
hoạt động trên địa bàn tỉnh. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các nghị quyết của HĐND cấp
tỉnh và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. Do đó, UBND cấp
tỉnh là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn vừa do
HĐND cấp tỉnh giao, vừa do Chính phủ giao; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức
thực hiện, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đối với chính quyền cấp huyện, cấp xã trong
việc thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn.
Vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong quản lý nhà nước về kinh tế nói chung
và phát triển nông nghiệp CNC nói riêng được hiểu là sự tác động có mục đích của
HĐND và UBND cấp tỉnh lên đối tượng quản lý là các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế
nói chung và các hoạt động phát triển nông nghiệp CNC nói riêng nhằm đạt đến mục
tiêu kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất định. Khác với quản lý Nhà nước về phát
triển nông nghiệp CNC do Chính phủ (cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) chủ trì thực hiện trên phạm vi cả nước thông qua các điều chỉnh bằng pháp luật,
chính sách, các công cụ, các lực lượng vật chất, tài chính của Nhà nước, Chính quyền
cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC bằng
việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật; xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển nông nghiệp CNC, xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp với
điều kiện của địa phương, tổ chức thực hiện và phát triển nông nghiệp công nghệ cao
trên địa bàn của địa phương; quyết định những vấn đề của tỉnh trong phạm vi được
phân quyền, phân cấp theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và quy
định khác của pháp luật có liên quan; kiểm tra, giám sát việc tổ chức và hoạt động phát
triển nông nghiệp CNC của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trên địa
bàn; chịu trách nhiệm với cơ quan nhà nước cấp trên về kết quả thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn của mình trên địa bàn đối với việc phát triển nông nghiệp CNC; phối
34
hợp với các cơ quan nhà nước ở trung ương, các địa phương để thúc đẩy liên kết kinh
tế vùng, thực hiện quy hoạch vùng và bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc
dân; quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm huy động các nguồn lực xã
hội để phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn tỉnh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, quản lý nhà nước
của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC nhằm mục đích thúc đẩy sự
phát triển KTXH nói chung và phát triển ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa
nói riêng trên địa bàn tỉnh. Mục đích này chịu sự chi phối của các qui luật thị trường
và bản chất, nguyên tắc của CNXH. Do đó, mục đích của quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp CNC là kiểm soát, phát huy sức mạnh của thị trường, khắc phục các
thất bại của thị trường trong quá trình phát triển đảm bảo vừa phát triển kinh tế, vừa
giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Theo đó, chính
quyền cấp tỉnh phải có vai trò định hướng, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường bình
đẳng, minh bạch và lành mạnh bằng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của địa
phương để phát triển nông nghiệp CNC. Quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh
về phát triển nông nghiệp CNC phải đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng
các yêu cầu của phát triển bền vững một cách hiệu lực và hiệu quả. Yêu cầu cụ thể của
quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC bao gồm:
- Tính hiệu lực. Hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh chính là
sức mạnh thể hiện quyền lực của bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh
trong việc sử dụng các công cụ quản lý nhằm điều chỉnh các hoạt động để phát triển
nông nghiệp CNC trên địa bàn. Hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh
được thể hiện cụ thể trong việc ban hành các qui hoạch, chương trình, chính sách cụ
thể nhằm thúc đẩy tăng trưởng sản lượng nông nghiệp CNC, kích thích đầu tư và tiêu
dùng các sản phẩm nông nghiệp CNC, kiểm soát độc quyền, tạo lập công bằng giữa
các chủ thể và các bên liên quan tham gia và hoạt động sản xuất và kinh doanh nông
nghiệp CNC, hạn chế các thất bại của thị trường trên địa bàn của địa phương về các
vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC. Hiệu lực quản lý nhà nước của
chính quyền cấp tỉnh không chỉ thể hiện là có chính sách không, có qui hoạch và
chương trình không mà còn thể hiện ở việc lựa chọn thời điểm và cách thức đưa ra các
chính sách khuyến khích phù hợp đề phát triển nông nghiệp CNC một cách tốt nhất,
đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn như ban hành qui hoạch các vùng sản xuất nông
nghiệp CNC, ban hành các chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư vào nông nghiệp
CNC, đưa ra các danh mục sản phẩm nông nghiệp CNC phát huy được thế mạnh của
địa phương... và đặc biệt là đưa các chính sách này vào thực tiễn đời sống. Để đảm bảo
35
hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp
CNC cần chú trọng đến ba thành tố trong chu trình quản lý, bao gồm: (i) con người với
tư cách là chủ thể thực hiện các công cụ quản lý, đặc biệt là năng lực của đội ngũ tham
mưu xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách, giám sát và kiểm tra việc thực
hiện chính sách; (ii) nội dung của chính sách, qui hoạch gắn với thực tiễn; (iii) Cơ chế,
công cụ và các điều kiện về nguồn lực đảm bảo cho hoạt động thực thi, giám sát và xử
lý việc thực hiện các chính sách.
- Tính hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động
quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh không chỉ cần tính hiệu lực mà còn phải
chú trọng tính hiệu quả. Hiệu quả của quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối
với phát triển nông nghiệp CNC được thể hiện ở kết quả quản lý điều hành của bộ máy
quản lý của HĐND và UBND cấp tỉnh trong sự tương quan giữa chi phí bỏ ra, các
nguồn lực đầu vào, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu
quả chính trị. Hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông
nghiệp CNC được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí. Theo các yếu tố đầu vào, cần làm
rõ có bao nhiêu nguồn lực về tài chính, về con người, về thời gian, về đất đai, về hạ
tầng… được dành cho phát triển nông nghiệp CNC. Theo đầu ra, cần làm rõ các sản
phẩm mà bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh tạo ra như các chính
sách, các chương trình, các cơ sở chịu trách nhiệm ban hành, tổ chức, triển khai, giám
sát việc phát triển nông nghiệp CNC cũng như số lượng, tỷ lệ người dân và doanh
nghiệp biết đến và được tiếp cận các chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp
CNC. Theo mục tiêu là bao nhiêu % sản phẩm dịch vụ nông nghiệp CNC được sản
xuất và cung cấp trong thời thời kỳ, mức độ đáp ứng các yêu cầu mục tiêu về số lượng
và chất lượng theo các mục tiêu/chỉ tiêu đã đề ra. Theo quá trình thực thi là mức độ
dân chủ, công khai, minh bạch, thái độ phục vụ của công chức, viên chức và sự hài
lòng của doanh nghiệp và người dân.
- Tính linh hoạt bắt kịp những thay đổi của thị trường. Cùng với sự thay đổi và
phát triển của xã hội, nhu cầu của người tiêu cùng cũng thay đổi, cách thức và phương
thức sản xuất và cung cấp sản phẩm dịch vụ cũng thay đổi. Điều này đòi hỏi các
chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC cần đáp ứng các yêu cầu của
người tiêu dùng về sản phẩm dịch vụ cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển của các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ nông nghiệp CNC. Về cơ bản, các
chính sách và chương trình, dự án do nhà nước ban hành đều có độ trễ nhất định.
Chính vì thế, để đảm bảo tính linh hoạt bắt kịp với những thay đổi của thị trường thì
các chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp CNC cần dự báo được xu thế phát
36
triển của thị trường cũng như có tính mở, dự phòng nhiều phương án cho các kịch bản
quản lý. Hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh cũng không thể cứng
nhắc theo một công thức nhất định mà phải linh hoạt, kịp thời được điều chỉnh phù
hợp với sự thay đổi của thực tiễn đặc biệt trong nền kinh tế số và toàn cầu hóa hiện
nay. Đề thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp
tỉnh cần có đội ngũ cán bộ công chức viên chức có năng lực và đạo đức công vụ, có tư
duy tích cực, sáng tạo, có khả năng xử lý các vấn đề nảy sinh trước những thách thức
và biến động nhanh của thực tiễn địa phương, trong nước và quốc tế để không bỏ qua
cơ hội cũng như khai thác hiệu quả các nguồn lực phát triển.
- Tính khoa học, đúng đắn và trúng vấn đề. Tính khoa học trong quản lý nhà
nước của các chính quyền cấp tỉnh thể hiện ở việc các cơ quan quản lý không đưa ra
các quyết định và ban hành chính sách dựa trên ý muốn chủ quan hay định kiến cá
nhân mà phải dựa trên các thông tin đầy đủ, sự phân tích khoa học có cơ sở đối với
phát triển nông nghiệp CNC. Để quản lý đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, các cơ quan
quản lý cần thu thập thông tin và đánh giá thông tin bằng những phương pháp khoa
học như các phương pháp dự báo, phương pháp chuyên gia, phương pháp điều tra xã
hội học, phương pháp so sánh tổng hợp… Đây là yêu cầu vô cùng quan trọng đặc biệt
trong việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ gì khuyến khích phát triển, ở đâu, chính sách ưu
đãi thuế và hỗ trợ tài chính ra sao, chính sách hỗ trợ đào tạo và xây dựng mô hình trình
diễn như thế nào, lựa chọn công nghệ gì, nên khuyến khích bằng các công cụ nào...
- Tính chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình. Trong hoạt động quản lý
nhà nước từ trung ương đến địa phương, cần làm rõ cơ quan nào, cán bộ công chức
viên chức nào chịu trách nhiệm đến đâu, kết quả như thế nào về nội dung gì trong
phát triển nông nghiệp CNC. Nếu không hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao
thì phải chịu hậu quả như thế nào. Với tính chất đại diện của quản lý nhà nước, thì
cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền cấp
tỉnh được phân công là người có quyền thay mặt đại diện cho người dân quản lý sử
dụng nguồn lực của nhà nước để phát triển nông nghiệp CNC. Việc sử dụng quyền
lực và tài sản công đó như thế nào, có hiệu quả hay không cần phải được đánh giá
thông qua các qui định về trách nhiệm giải trình việc thực thi trách nhiệm của công
chức, viên chức. Để đảm bảo tính chịu trách nhiệm và nâng cao trách nhiệm giải
trình, các chính sách về phát triển nông nghiệp CNC do chính quyền địa phương cấp
tỉnh ban hành cần qui định rõ về trách nhiệm, quyền hạn, hình thức chế tài tương
thích đồng thời xây dựng văn hóa công sở, nâng cao đạo đức công sở trong các cơ
quan đơn vị. Việc thực hiện trách nhiệm giải trình có thể thông qua nhiều phương
37
thức khác nhau, trong đó cần tăng cường đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước
với người dân và doanh nghiệp, cũng như nâng cao năng lực giám sát của HĐND.
Tăng cường tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được các thông tin
về cơ chế chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp CNC của địa phương.
Việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình cũng là biện pháp hữu hiệu để huy động
nguồn lực trong dân, động viên khuyến khích người dân và doanh nghiệp phát triển
nông nghiệp CNC cũng như giảm đáng kể khiếu kiện và thắc mắc của người dân về
vấn đề này.
2.2. Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao
Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp
CNC là tổng thể các hoạt động, công việc mà chính quyền cấp tỉnh phải làm để phát
triển nông nghiệp CNC phù hợp với mục tiêu và kỳ vọng đã đề ra trong từng thời kỳ
nhất định. Các công việc đó bao gồm: (i) xây dựng, ban hành và phổ biến qui hoạch,
chương trình cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp CNC; (ii) tổ chức thực hiện các
chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn; (iii) điều tiết nhằm
khắc phục các thất bại của thị trường nhằm phát triển nông nghiệp CNC theo thẩm
quyền của chính quyền cấp tỉnh.
2.2.1. Ban hành và phổ biến quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách
Theo Điều 3, Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 ngày 24/11/2017: Quy
hoạch là việc sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi
trường trên vùng lãnh thổ xác định để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước,
phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cho thời kỳ xác định. Các loại và các cấp qui
hoạch phải có mối quan hệ với nhau, phù hợp với nhau, quy hoạch cấp tỉnh phải phù
hợp quy hoạch vùng, quy hoạch cấp quốc gia.
Chương trình được hiểu là toàn bộ những dự kiến hoạt động theo một trình tự
nhất định và trong một thời gian nhất định thể hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp,
các việc cần làm, các mặt công tác liên quan đến sự phát triển một lĩnh vực nào đó
theo một trình tự và thời gian nhất định. Quy hoạch mang tính dài hạn, định hướng, dự
báo còn chương trình mang tính cụ thể hơn, trong giai đoạn ngắn hơn và có tính khả
thi, tổ chức thực hiện ngay khi được phê duyệt.
38
Khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC trên
địa bàn tỉnh, UBND cấp tỉnh cần triển khai xây dựng qui hoạch phát triển nông nghiệp
CNC. Trong qui hoạch chỉ rõ quan điểm, định hướng phát triển nông nghiệp CNC của
địa phương, chỉ rõ các vùng, các khu nông nghiệp CNC, các sản phẩm nông nghiệp
CNC chủ đạo để phát huy thế mạnh của địa phương. Qui hoạch phát triển nông nghiệp
CNC nói riêng của địa phương phải phù hợp với qui hoạch phát triển ngành nông
nghiệp trên địa bàn mà chính phủ phê duyệt và nhất quán với qui hoạch tổng thể của
địa phương, không mâu thuẫn với qui hoạch phát triển ngành nông nghiệp. HĐND cấp
tỉnh có nhiệm vụ thông qua, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch phát triển
nông nghiệp CNC trên địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC đã được phê duyệt, các địa
phương sẽ xây dựng các chiến lược, chương trình phát triển nông nghiệp CNC trong
từng thời kỳ nhằm phát huy các lợi thế của địa phương và hình thành các vùng, các
khu nông nghiệp công nghệ cao trong qua trong từng giai đoạn nhất định nhằm đạt
được các mục tiêu mà qui hoạch đã đề ra. Chiến lược và chương trình phát triển nông
nghiệp CNC của các địa phương không được mâu thuẫn với chương trình phát triển
nông nghiệp CNC của cả nước và phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương.
Chiến lược và chương trình phát triển nông nghiệp CNC được phê duyệt bởi HĐND
cấp tỉnh thông qua các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
Cơ chế chính sách là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử
dụng để: (1) Nhằm khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa và dịch vụ công cho
toàn bộ nền kinh tế; (2) Quản lý nguồn lực công một cách hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo
thiết thực toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả
trong ngắn hạn và trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một trong những
căn cứ để kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công
như: Ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên của đất nước.
Chính sách của chính quyền cấp tỉnh được xây dựng và ban hành nhằm thực
hiện mục tiêu, chỉ tiêu do địa phương đề ra, trong phạm vi địa phương, không trái quy
định trung ương và pháp luật. Các cơ chế, chính sách của Trung ương mang phạm vi
rộng toàn bộ cả quốc gia và có tính chất chung nhất. Cơ chế, chính sách của chính
quyền địa phương cấp tỉnh được ban hành nhằm cụ thể hóa các chính sách của nhà
nước phù hợp với thực tế của địa phương hoặc giải quyết các vấn đề của địa phương
theo thẩm quyền nếu Nhà nước chưa quy định nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển
39
kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chính quyền địa phương cấp huyện không ban hành các
cơ chế chính sách, chỉ ban hành các biện pháp để thực hiện các cơ chế chính sách của
Trung ương và chính quyền địa phương cấp tỉnh.
Nội dung của một chính sách cần đảm bảo hợp hiến, hợp pháp, có đối tượng,
phạm vi, nội dung cụ thể và chỉ rõ nguồn lực để thực hiện các cơ chế, chính sách đó,
đồng thời phải giao cho 1 cơ quan chủ quản làm đầu mối tổ chức triển khai thực hiện
cơ chế chính sách để có căn cứ, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở quy định của pháp luật, HĐND cấp tỉnh là người phê duyệt và giám
sát việc thực hiện các cơ chế, chính sách để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, nguồn lực để thực hiện chính sách là ngân sách của tỉnh. UBND
cấp tỉnh có chức năng tổ chức và đôn đốc việc thực hiện cơ chế chính sách đó. Trên cơ
sở kế hoạch của UBND cấp tỉnh, sở chuyên ngành và UBND cấp huyện tổ chức thực
hiện phổ biến, tuyên truyền chính sách, kế hoạch thực hiện, thực thi chính sách để giúp
cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách
được triển khai thuận lợi và có hiệu quả.
2.2.2. Tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình và chính sách
Tổ chức thực hiện là quá trình xây dựng kế hoạch và tổ chức thực thi kế hoạch
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trên cơ sở quy hoạch, chương trình và các cơ chế
chính sách phát triển kinh tế của Trung ương, các Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh,
UBND cấp tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện các quy hoạch, các chương trình và các
cơ chế chính sách đó.
Lập kế hoạch là quá trình xác định mục tiêu của tổ chức và phương thức để
thực hiện mục tiêu đó trong thời kỳ nhất định. UBND cấp tỉnh phải xây dựng kế hoạch
dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn, với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, chi tiết trong từng
thời kỳ để thực hiện các chương trình, quy hoạch với các cơ chế chính sách đã ban
hành. UBND cấp tỉnh giao sở chuyên ngành làm cơ quan thường trực tham mưu xây
dựng và ban hành các kế hoạch triển khai các chương trình, quy hoạch, các cơ chế,
chính sách đã được nghị quyết của HĐND cấp tỉnh phê duyệt. Kế hoạch chỉ rõ mục
tiêu, chỉ tiêu, mục đích yêu cầu, nội dung thực hiện, đơn vị chủ trì và các đơn vị phối
hợp tổ chức thực hiện. Kế hoạch phát triển nông nghiệp CNC sẽ do sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chủ trì tổ chức triển khai thực hiện, phối hợp cùng với các sở,
ngành và UBND các huyện tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn có vai trò hướng dẫn tổ chức thực hiện kế hoạch, tổ chức thực hiện các
40
quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
đồng thời có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra thực hiện kế hoạch bằng việc thanh tra,
kiểm tra chuyên ngành trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch.
UBND các cấp là cấp được chính quyền cấp tỉnh giao tổ chức thực thi các quy
hoạch, chương trình và cơ chế chính sách trên địa bàn; phối hợp với các sở, ngành để
triển khai tổ chức thực hiện, chịu sự hướng dẫn về chuyên môn của sở chuyên ngành.
Có vai trò quan trọng trong việc đạt mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch.
Việc tổ chức triển khai thực thi chính sách có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một
khâu hợp thành chu trình của chính sách, nếu thiếu công đoạn này thì chu trình chính
sách không thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối trong các bước trong chu trình chính
sách thành một hệ thống. Để biết được chính sách ban hành ra có đảm bảo tính khả thi,
thực tiễn hay không thì việc triển khai chính sách là khâu hiện thực hoá chính sách vào
sản xuất, vào đời sống xã hội.
Chúng ta đều nhận thấy để hoạch định một chính sách tốt là một vấn đề hết sức
khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn. Song dù chính sách có tốt đến mấy nhưng
không tổ chức thực thi hay thực thi yếu kém sẽ không mang lại hiệu quả, không đạt
được mục tiêu đã đề ra mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước. Và mục tiêu của chính
sách chỉ có thể đạt được thông qua việc triển khai, thực thi chính sách, đồng thời các
mục tiêu của chính sách có quan hệ và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển KTXH chung.
Việc tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian
dài do vậy phải có kế hoạch. Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính
sách vào cuộc sống, UBND cấp tỉnh sẽ giao sở chuyên ngành tham mưu xây dựng kế
hoạc để triển khai tổ chức thực hiện trên toàn địa bàn tỉnh, thành phố, trong kế hoạch
phải đảm bảo làm rõ đơn vị đầu mối và các sở, ngành, UBND cấp huyện, các cơ quan
liên quan tham gia phối hợp ra sao, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi và đảm bảo nguồn
lực tài chính, thời gian hoàn thành.
Trên cơ sở kế hoạch đã được UBND cấp tỉnh phê duyệt, các sở, ngành và
UBND cấp huyện phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách thường
được triển khai, thực thi trên một địa bàn rộng lớn với nhiều tổ chức tham gia. Vì vậy,
phải có sự phối hợp, phân công, phân nhiệm thật hợp lý, rõ bộ phận, rõ việc để hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Thêm vào đó các hoạt động thực thi chính sách với mục tiêu là hết
sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm lẫn nhau bởi vậy
phải cần có sự phối hợp giữa các cấp, ngành, các địa phương để triển khai chính sách.
41
Nếu hoạt động này diễn ra theo đúng tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ
động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.
Để đánh giá việc tổ chức thực thi chính sách cần làm rõ các chương trình và
chính sách đã được ban hành, phổ biến và đang được triển khai như thế nào, có đạt
được kết quả như mong đợi hay không, ý kiến của các bên liên quan về sự phù hợp của
chính sách đó ra sao trong việc hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp CNC.
Việc đánh giá tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp CNC có
thể được đánh giá theo kết quả đầu ra thể hiện qua 3 khía cạnh là mức độ biết đến
chính sách, mức độ tiếp cận được chính sách và mức độ phù hợp của chính sách của
từng chính sách cụ thể như: chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ
tín dụng và ưu đãi vay vốn, chính sách hỗ trợ đất đai, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực trong các chương trình phát triển nông nghiệp CNC.
2.2.3. Kiểm tra giám sát nhằm kịp thời điều tiết các thất bại của thị trường
trong quá trình thực hiện qui hoạch, chương trình và các chính sách
Kiểm tra giám sát (theo từ điển tiếng Việt) là xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét. Kiểm tra là một chức năng của quản lý nhà nước, nó mang tính chất
phản hồi chu trình quản lý. Qua kiểm tra, thanh tra, giám sát các cơ quan quản lý nhà
nước có thể phân tích đánh giá, theo dõi được quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ quản lý đề ra.
Mục tiêu của kiểm tra giám sát để đảm bảo các quy hoạch, chương trình, chính
sách phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực. Qua giám sát để biết được việc thực hiện các quy hoạch, chương trình và
các chính sách của Trung ương cũng như của HĐND cấp tỉnh ban hành được thực hiện
đến đâu, kết quả như thế nào, có các khó khăn, tồn tại gì từ đó kiến nghị và có các biện
pháp để đẩy nhanh việc thực thi các chính sách.
Công tác kiểm tra giám sát cũng giúp cho chính quyền cấp tỉnh nhận ra những
hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính
sách, kịp thời khắc phục các thất bại của thị trường để đạt được mục tiêu đề ra. Đối với
chính quyền cấp tỉnh việc kiểm tra được thực hiện dưới nhiều hình thức với sự phối
hợp của nhiều cơ quan ban ngành nhằm kịp thời khắc phục các thất bại của thị trường
để đạt các mục tiêu đề ra của phát triển nông nghiệp CNC. Để thức hiện mục tiêu kịp
thời khắc phục các thất bại của thị trường, chính quyền địa phương cấp tỉnh phải kịp
thời cải cách thủ tục hành chính và có các chính sách liên quan như các chính sách xúc
42
tiến đầu tư nhằm tháo gỡ khó khăn, thu hút các bên liên quan đầu tư vào nông nghiệp
CNC. Các chính sách này được thực hiện khác nhau tùy điều kiện đặc thù của từng địa
phương trong quá trình phát triển.
Tùy theo từng mục tiêu giám sát khác nhau, có những công cụ khác nhau để
triển khai hoạt động giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường. Nếu chỉ là
mục tiêu hành chính mang tính chất để đôn đốc, giám sát thì sử dụng các kế hoạch,
các văn bản đôn đốc nhắc nhở, các đợt khảo sát, kiểm tra, nếu thấy sai phạm thì kỷ
luật, nếu thấy hoàn thành thì khen thưởng. Nhưng nếu mục tiêu để phát triển thì nhấn
mạnh việc tạo môi trường thuận lợi để các chính sách triển khai được thuận lợi, khắc
phục các thất bại của thị trường. Đây là mục tiêu mà luận án hướng đến. Để khắc
phục các thất bại của thị trường, có rất nhiều công cụ như thuế, cải cách thủ tục hành
chính, các chính sách xúc tiến đầu tư…. Luận án sẽ tập trung đánh giá công tác cải
cách thủ tục hành chính và các chính sách xúc tiến đầu tư, thương mại để góp phần
thúc đẩy thực hiện tốt chương trình phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
2.2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC
Tiếp cận theo mục tiêu và kết quả, việc đánh giá quản lý nhà nước của chính
quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC được đánh giá dựa trên 2 nhóm chỉ
tiêu, đó là (i) nhóm chỉ tiêu đánh giá sự phát triển nông nghiệp CNC qua các thời
kỳ; và (ii) nhóm chỉ tiêu đánh giá về kết quả thực hiện các công tác quản lý nhà
nước về phát triển nông nghiệp CNC thông qua hoạt động ban hành chương trình
chính sách, tổ chức thực hiện chính sách và triển khai giám sát, khắc phục các thất
bại của thị trường.
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, các chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà
nước về phát triển nông nghiệp CNC cụ thể như sau:
(i) Nhóm chỉ tiêu đánh giá về kết quả phát triển nông nghiệp CNC qua các thời
kỳ được thể hiện qua các chỉ tiêu:
- Giá trị tổng sản lượng và tỷ trọng của nông nghiệp CNC qua các năm.
- Số dự án, mô hình nông nghiệp CNC được triển khai thực hiện qua các năm.
- Diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp CNC qua các năm.
- Số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC qua các năm.
43
- Các chỉ số đánh giá hiệu quả của sản xuất nông nghiệp CNC.
(ii) Nhóm chỉ tiêu đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về phát triển
nông nghiệp CNC bao gồm:
- Kết quả ban hành các chương trình, qui hoạch, chính sách phát triển nông
nghiệp CNC bao gồm: Số lượng khu/vùng/dự án/mô hình nông nghiệp CNC được qui
hoạch, số lượng chương trình/chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC
được ban hành và triển khai thực hiện.
- Thực trạng công tác phổ biến, triển khai chương trình, các chính sách liên
quan đến phát triển nông nghiệp CNC như chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, chính sách
ưu đãi tín dụng và hỗ trợ vốn, chính sách ưu đãi về đất đai và chính sách đào tạo
nguồn nhân lực. Với mỗi chính sách sẽ đánh giá dựa trên tỷ lệ người dân/hộ gia đình,
HTX biết đến chính sách; tỷ lệ người dân/HTX/ hộ gia đình được hưởng thụ từ chính
sách và mức độ phù hợp của chính sách theo đánh giá của các bên liên quan.
- Thực trạng công tác giám sát thể hiện qua các hoạt động khắc phục thất bại
của thị trường để khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC như việc triển khai công
tác cải cách hành chính và các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại liên quan đến
phát triển nông nghiệp CNC.
Các chỉ tiêu đánh giá được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC
STT
Chỉ tiêu
- Sự tăng trưởng của nông
nghiệp/nông nghiệp CNC
1
Nội dung
Nhóm các chỉ tiêu
về sự phát triển của
nông nghiệp CNC
- Sự thay đổi về cơ cấu và tốc
độ tăng của nông nghiệp
CNC
Ghi chú
Giá trị sản lượng nông nghiệp qua các
thời kỳ
Số dự án nông nghiệp CNC
Số mô hình nông nghiệp CNC
- Tỷ trọng và tốc độ tăng của giá trị
sản lượng nông nghiệp CNC
- Diện tích đất dành cho nông nghiệp
CNC
- Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp
CNC qua các năm
- Các chỉ tiêu về năng suất
Số lượng khu, vùng nông nghiệp
CNC được qui hoạch
2
Nhóm các chỉ tiêu
phản ánh kết quả
quản lý nhà nước
về phát triển nông
- Chỉ tiêu về ban hành qui
hoạch các khu/vùng nông
nghiệp CNC
44
nghiệp CNC
Tỷ lệ hộ dân/HTX được biết đến
chính sách
Tỷ lệ hộ dân/HTX được thụ hưởng
trực tiếp từ chính sách
Mức độ phù hợp của chính sách
- Chỉ tiêu về tổ chức thực
hiện chương trình phát triển
nông nghiệp CNC
- Chính sách hỗ trợ CSHT
- Chính sách hỗ trợ vốn và
ưu đãi tín dụng
- Chính sách hỗ trợ đất đai
- Chính sách đào tạo NNL
Cải cách thủ tục hành chính
& xúc tiến thương mại
3
Kiểm
tra khắc
phục các thất bại
của thị trường
- Chỉ số cải cái cách hành chính
- Mức độ thực hiện xúc tiến tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp CNC
Nguồn: Tổng hợp của tác giả năm 2019
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh
2.3.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương và xu hướng phát triển của
KHCN và ngành nông nghiệp
Đặc điểm là những nét riêng biệt để nhận biết. Đối với kinh tế xã hội của mỗi
tỉnh, thành phố có những đặc điểm riêng biệt khác với các địa phương khác, đặt trong
đặc điểm tình hình kinh tế xã hội chung của cả nước.
Đây là yếu tố cho thấy những thuận lợi hoặc khó khăn đối với sự phát triển của
các hoạt động lĩnh vực kinh tế. Thực trạng sức khỏe của nền kinh tế ảnh hưởng đến
khả năng nguồn lực Nhà nước dùng để đầu tư cho các hoạt động lĩnh vực kinh tế
(trong đó có ngành kinh tế nông nghiệp), ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng phát
triển của các hoạt động kinh tế. Đối với nhân tố xã hội thì đây là nhân tố thường biến
đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại quy định
các đặc tính của thị trường mà Nhà nước cần phải tính đến trong công tác quản lý nền
kinh tế. Vì vậy mà khi xây dựng và thực thi các chính sách phát triển lĩnh vực kinh tế,
chính quyền cấp tỉnh phải chú ý đến tác động của các nhân tố này.
Trên cơ sở đặc điểm kinh tế xã hội sẽ tác động ảnh hưởng đến công tác quản lý
nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trong việc quy hoạch, xây dựng cơ chế, chính sách,
cơ chế quản lý đối với ngành kinh tế nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp nói chung hay nông nghiệp công nghệ cao luôn phải gắn
với thị trường, do thị trường ảnh hưởng quyết định đến đầu vào, đầu ra của nông
nghiệp công nghệ cao. Thị trường tốt, lớn sẽ góp phần tạo nhu cầu lớn và thúc đẩy
45
việc phát triển nông nghiệp cao để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị và an
toàn và cung ứng kịp thời đến người tiêu dùng. Thị trường là nơi giải quyết đầu ra của
sản xuất, nơi tiêu thụ, tạo nguồn lực tái đầu tư. Do đó xu hướng thay đổi nhu cầu của
thị trường là nhân tố tác động đến việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc ứng dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cao diễn ra mạnh mẽ, có xu
hướng ngày càng gia tăng không ngừng. Để một quốc gia phát triển đòi hỏi không chỉ
dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, sức lao động giản đơn mà còn phải dựa nhiều
vào tri thức khoa học và công nghệ, một nguồn lực có khả năng tái tạo; Do đó một yếu
tố quan trọng quyết định đến hệ thống sản xuất kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp
hay quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước cũng cần có đó là sự phát triển của
khoa học công nghệ trong quản lý, sản xuất, kinh doanh có tác động đến sự phát triển
của ngành lĩnh vực kinh tế.
Đối với ngành nông nghiệp có một số đặc điểm quan trọng khác với các ngành
kinh tế khác như: Đất trồng vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất chủ yếu
và không thể thay thế. Đây là đặc điểm riêng biệt, quan trọng phân biệt nông nghiệp
khác với các ngành khác. Không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai.
Đồng thời quy mô và phương án sản xuất, mức độ thâm canh và cả việc tổ chức lãnh
thổ phụ thuộc nhiều vào đất đai.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cây trồng và vật nuôi, là các sinh
vật, các cơ thể sống. Cây trồng, vật nuôi, các sinh vật này phát triển theo quy luật
tự nhiên, các quy luật sinh học, do đó, trong quá trình sản xuất nông nghiệp chúng
ta phải hiểu biết và tôn trọng các quy luật sinh học, quy luật tự nhiên.
Hiện nay xu hướng phát triển cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế tất yếu
của nhân loại, trong đó có việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, có chất lượng đáp ứng được
nhu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất. Do vậy quản lý nhà nước của
chính quyền cấp tỉnh cũng phải tập trung phát triển nông nghiệp theo định hướng nông
nghiệp CNC.
2.3.2. Nhóm các nhân tố liên quan đến thể chế và cơ chế chính sách
Theo các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển nông
nghiệp công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy cần xây dựng chính
sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này về nguồn
46
vốn, lãi suất, thuế cho từng chương trình dự án cụ thể, nhất là đối với các doanh
nghiệp mới khởi nghiệp. Tăng cường xúc tiến thương mại, trao đổi hàng hóa, quản lý
thị trường, chú trọng chính sách hỗ trợ tiêu thụ việc từ cung cấp cây, con giống đến
chăm sóc, tiêu thụ sản phẩm, nhất là nông sản tiêu thụ theo mùa vụ, vùng miền.
Thể chế chính sách, pháp luật của Nhà nước là yếu tố quan trọng trong quá
trình xây dựng và thực thi chính sách phát triển kinh tế của chính quyền cấp tỉnh. Bởi
vì thể chế chính sách, pháp luật của Nhà nước xác định đối tượng tham gia, đối
tượng điều chỉnh với những tiêu chí và điều kiện cụ thể. Các quy hoạch, chương
trình, chính sách của chính quyền cấp tỉnh phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật,
chính sách của Trung ương. Trên cơ sở được Trung ương uỷ quyền, phân cấp về tỉnh,
chính quyền tỉnh xây dựng và hoàn thiện chính sách dựa vào thực tiễn của tỉnh (Lê
Thanh Sơn, 2017).
Hệ thống pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, vai trò của chính quyền cấp
tỉnh quyết định đến chính sách, cơ chế quản lý của cấp chính quyền cấp tỉnh (Tạp chí
Phát triển và Hội nhập số 22 (32), tháng 5, 6 năm 2015).
Pháp luật (quy tắc, quy định) → chính sách → cơ chế quản lý. Quy định pháp
luật tác động đến chính sách của chính quyền cấp tỉnh như: Chính quyền cấp tỉnh chỉ
được ban hành các chính sách không trái quy định và đúng thẩm quyền pháp luật cho
phép, ví dụ như: theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Trung ương phân cấp cho
chính quyền cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh thông qua danh mục các công trình dự án
chuyển mục đích lúa từ 10ha trở xuống, trên 10 ha phải Chính phủ quy định. Như vậy,
quy định pháp luật đã tác động đến chính sách, cơ chế quản lý của chính quyền cấp
tỉnh trong khung thẩm quyền quy định, không có chức năng, thẩm quyền quyết định
vượt quy định. Ở chiều tác động ngược lại, cơ chế quản lý, chính sách qua triển khai
thực hiện thực tiễn có kiến nghị trở lại để hoàn chỉnh, sửa đổi các quy định của pháp
luật cho phù hợp hơn với tình hình thực tế, tại những thời điểm khác nhau.
Đối với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương được quy định rõ
trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2019. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Chính quyền địa
phương gồm có HĐND và UBND. HĐND quyết định các biện pháp bảo đảm thực thi
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. UBND do HĐND cùng cấp
47
bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2.3.3. Năng lực và thái độ làm việc của cán bộ trong các cơ quan quản lý
nhà nước
Năng lực của cán bộ thể hiện ở kiến thức, khả năng, kỹ năng làm việc, hoàn
thành công việc đảm bảo chất lượng, thời gian, có tính sáng tạo để tăng năng suất lao
động. Kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện
công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Cán bộ có
kiến thức, kỹ năng và đặc biệt là thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm sẽ tham
mưu, phê duyệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức kịp thời, chất lượng quy hoạch, chương
trình và chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao góp phần đẩy nhanh việc
thực hiện các quy hoạch, chương trình và chính sách, nâng cao hiệu quả, kết quả công
tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và ngược lại nếu cán bộ,
công chức không có kỹ năng, thái độ làm việc không tốt thì việc tham mưu xây dựng
quy hoạch, chương trình, chính sách không khả thi, thiếu thực tiễn; chậm ban hành kế
hoạch, triển khai thực hiện dẫn đến kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên
địa bàn chậm thậm chí không hiệu quả. Chính vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của quy
hoạch, chương trình, chính sách có cao hay không sẽ phụ thuộc rất lớn vào năng lực
của đội ngũ cán bộ này. Qua đó cũng thấy được tầm quan trọng của công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế (trong đó có ngành nông nghiệp công nghệ
cao) của chính quyền địa phương đối với hiệu lực, hiệu quả của các chính sách (Lê
Thanh Sơn, 2017).
2.3.4. Sự phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp CNC
(Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu)
Sự tham gia phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển ngành kinh tế có yếu
tố quan trọng trong công tác quản lý của chính quyền các cấp nói chung và chính
quyền cấp tỉnh nói riêng. Các quy hoạch, chương trình, chính sách có được triển khai,
thực hiện đạt hiệu quả phải có sự phối kết hợp của nhiều chủ thể tham gia vào phát
triển ngành nông nghiệp công nghệ cao.
Vai trò của nhà nước: Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ hỗ trợ nông dân và
doanh nghiệp liên kết sản xuất hàng hóa: (i) Tổ chức lại sản xuất dựa trên nguyên tắc
gắn chặt với thị trường, quy hoạch vùng sản xuất, cơ cấu sản phẩm, nhất là các sản
phẩm chủ lực theo hướng phát huy vai trò, thế mạnh của từng địa phương; tổ chức liên
kết nông dân sản xuất hàng hóa, tạo dựng liên kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi ngành
48
hàng; (ii) Kết nối giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà nông để sản xuất và tiêu thụ
nông sản; (ii) Đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các bên tham gia; đảm bảo việc thực hiện
các điều khoản của hợp đồng khi các bên đã ký kết.
Vai trò của người dân và Doanh nghiệp: (i) hỗ trợ đầu vào, hình thành vùng
nguyên liệu sản xuất; (ii) trực tiếp sản xuất và tiêu thụ nông sản; (iii) là người cần
nguồn lao động, nguyên vật liệu; (iv) là người nắm vững kỹ thuật sản xuất, có vốn đầu
tư và sẵn sàng đầu tư để thu được lợi nhuận; (v) cung cấp giống, vật tư, kỹ thuật bao
tiêu sản phẩm đầu ra.
Vai trò của cơ quan nghiên cứu: Nghiên cứu, sáng chế máy móc, thiết bị kỹ
thuật, công nghệ mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái
từng vùng, miền. Trong nông nghiệp là quy trình kỹ thuật canh tác công nghệ cao,
công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch; đưa máy móc, công cụ giải pháp sản xuất
phù hợp với từng đối tượng, từng điều kiện sản xuất để nâng cao năng suất lao động,
hạ giá thành, tạo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia, trong nước và khu vực.… Huấn
luyện đào tạo nhà nông dân tiếp thu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
2.3.5. Nhóm các yếu tố đầu vào phát triển nông nghiệp CNC
Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp công nghệ cao được thể hiện
qua các yếu tố đầu vào của sản xuất như đất đai, vốn, công nghệ sản xuất, lao động...
Cụ thể là:
- Các yếu tố đất đai:
Các doanh nghiệp khó sở hữu trong tay những “cánh đồng mẫu lớn” để đầu tư
nông nghiệp CNC đã diễn ra rất nhiều năm nhưng vẫn chưa có cách giải quyết. Trên
thực tế, theo quy định của pháp luật hiện nay, đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước,
người nông dân chỉ có quyền cho thuê hoặc liên kết, không có quyền bán. Như vậy,
việc tích tụ ruộng đất là rất khó khăn. Mặc dù cũng có nhiều cơ chế, chính sách dồn
diền đổi thửa đã được triển khai thực hiện, song để có quy mô đủ lớn để sản xuất nông
nghiệp hàng hóa là khó, chỉ ở quy mô nhỏ và các mô hình điểm.
Trong rất nhiều hội nghị, hội thảo, các doanh nghiệp đều tập trung phản ánh
những khó khăn về việc tích tụ đất, thuê quỹ đất sản xuất. Doanh nghiệp muốn đầu tư
vào nông nghiệp CNC phải tự đi thương lượng, đền bù với người dân. Sau đó Nhà
nước sẽ thu hồi phần đất đó rồi cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy, doanh nghiệp phải
mất hai lần tiền mới có đất “sạch” để sản xuất. Vì vậy, cần phải nhanh chóng có những
giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp có đất, tích tụ đất để mở rộng sản xuất, sản xuất quy mô
lớn để ứng dụng công nghệ cao…trong đó có cần đặc biệt quan tâm đến giải pháp về
49
thành lập ngân hàng quỹ đất, hình thành thị trường quyền sử dụng đất, góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng đất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- Các yếu tố vốn
Bên cạnh những khó khăn về đất đai, doanh nghiệp cũng đang gặp phải rất
nhiều khó khăn về tiếp cận nguồn vốn. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, yêu cầu
vốn đầu tư ban đầu lớn là một trong các rào cản đối với thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp công nghệ cao. Để hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao, năm 2018, Chính phủ ban hành
Nghị định 57/2018/NĐ-CP khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn. Tuy nhiên, để doanh nghiệp tiếp cận được với vốn là rất khó, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ.
Các doanh nghiệp lớn có thể vay vốn theo các dự án, còn doanh nghiệp nhỏ và
vừa gần như không vay được vốn ngân hàng do thủ tục phức tạp và phải có tài sản
đảm bảo mới được ngân hàng cho vay. Do vậy, các doanh nghiệp chưa thật sự mặn mà
với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.
Như vậy, để thực sự thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao cần hình thành nên các Quỹ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và giúp các
doanh nghiệp thực sự tiếp cận được các nguồn vốn.
- Các yếu tố nguồn nhân lực
Bản chất của nông nghiệp công nghệ cao trên thế giới là ứng dụng các công
nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin từ sản xuất cho đến thu hoạch, chế biến bảo
quản, logistic, và tiếp thị. Bên cạnh đó, nông nghiệp công nghệ cao ứng dụng thành
tựu của kỹ nghệ gen, ứng dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh sử dụng công nghệ nano,
hình thành hệ thống canh tác nông nghiệp chính xác đảm bảo cung cấp nước, phân bón
hợp lý còn gọi là nông nghiệp thông minh... Do đó, nông nghiệp công nghệ cao luôn
đòi hỏi lực lượng lao động chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu chính xác trong tất cả
các công đoạn từ sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, đòi hỏi
các địa phương phải có các giải pháp để phát triển nguồn lao động chất lượng cao từ
lao động sản xuất trực tiếp đến cán bộ quản lý. Việc đào tạo nguồn nhân lực có đủ kiến
thức và kỹ năng, phẩm chất và thái độ đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của nền nông
nghiệp ứng dụng CNC. Nền nông nghiệp CNC có vai trò quan trọng, mang tính quyết
định đến sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, gắn với xây dựng nông
thôn mới, tạo ra những đột phá trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông
thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
50
- Các yếu tố thị trường
Đầu tư vào nông nghiệp đối mặt với nhiều rủi ro như yếu tố thời tiết, thị trường.
Chuyện nhà nông “loay hoay” với bài toán đầu ra và tình trạng “được mùa, mất giá, bí
đầu ra” đến nay vẫn chưa có phương pháp giải quyết triệt để. Trong khi đó, doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng phải chịu tâm lý thấp thỏm bởi
tình trạng “vàng thau lẫn lộn” vẫn đang khá phổ biến.
Nông nghiệp CNC đòi hỏi nhiều yêu cầu kỹ thuật khắt khe, đầu tư lớn, giá
thành sản phẩm cao. Nếu sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, ảnh hưởng không chỉ
đến doanh nghiệp mà còn gây rủi ro cho người nông dân. Do đó, vấn đề thị trường, tìm
đầu ra ổn định cho các sản phẩm nông nghiệp sạch, công nghệ cao cần được quan tâm
tháo gỡ, tạo sự yên tâm cho doanh nghiệp lẫn người dân khi đầu tư, phát triển nông
nghiệp sạch, công nghệ cao.
- Các yếu tố KHCN
Hình thành sàn giao dịch công nghệ cao trong nông nghiệp và phát triển các
loại hình dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá, đầu tư, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, sở
hữu trí tuệ và các dịch vụ nghiên cứu phát triển CNC… là rất cần thiết và có tác động
nhằm thúc đẩy hoạt động công nghệ cao, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm công nghệ cao
trong nông nghiệp;
Việc xây dựng và áp dụng cơ sở dữ liệu về công nghệ cao trong nông nghiệp là
rất cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận,
sử dụng, trao đổi thông tin về công nghệ cao trong nông nghiệp; tổ chức, tham gia chợ,
hội chợ, triển lãm công nghệ cao trong nông nghiệp quy mô quốc gia, quốc tế.
Tạo dựng mạng lưới nhân lực chất lượng cao thông qua đào tạo, tập huấn và
chuyển giao để đáp ứng tốt nhân lực quản lý tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC, cũng
như nhân lực là lao động kỹ thuật cho các đơn vị sản xuất nông nghiệp CNC.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở trong nước và trên thế giới
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của
Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc xây dựng và triển khai nhiều mô hình phát triển nông
nghiệp công nghệ cao cả cấp Trung ương và cấp địa phương (cấp tỉnh), cụ thể như:
(1) Loại hình do doanh nghiệp chủ trì: Là loại hình sản xuất do các doanh
nghiệp làm hạt nhân (Trung Quốc gọi là “doanh nghiệp đầu rồng”): thực hiện việc liên
51
kết với cơ sở sản xuất và các nông dân để tiến hành sản xuất, liên kết với thị trường
trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp này có khả năng nắm bắt và dự báo tình hình
thị trường trong và ngoài nước, đồng thời căn cứ vào ưu thế về quy mô sản xuất của
mình, nhập những công nghệ cao, giống mới, thiết bị mới… Tiếp đến, thông qua các
hợp đồng, hợp tác theo hình thức cổ phần để liên kết các loại lợi ích và đưa các công
nghệ này vào sản xuất, từ đó thực hiện và phát triển quy mô sản xuất sản phẩm nông
nghiệp CNC của mình.
(2) Loại hình do các cơ quan nghiên cứu chủ trì. Là loại hình do các đơn vị
làm công tác nghiên cứu chủ trì, với mục tiêu đưa kết quả nghiên cứu của mình vào
sản xuất để tạo ra sản phẩm riêng của mình, được tiến hành dưới hai hình thức: (i) Đơn
vị nghiên cứu thành lập doanh nghiệp để thực hiện việc chuyển hóa, áp dụng kết quả
nghiên cứu của mình vào sản xuất; (ii) Đơn vị nghiên cứu của mình góp cổ phần để
cùng hợp tác phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp CNC trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của mình.
(3) Loại hình do Chính phủ chỉ đạo. Là loại hình được triển khai, thực hiện theo
quy hoạch phát triển chung nhằm mục đích nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật
trong nông nghiệp, Chính phủ dùng các biện pháp, hình thức cung cấp tài chính, hành
chính để hỗ trợ mở rộng tốc độ sản xuất hàng hóa. (JSTPM Tập 3, Số 1, 2014 53).
(4). Loại hình phát triển khu nông nghiệp hiện đại. Đây là loại hình được tổ
chức chung giữa Chính phủ, doanh nghiệp, hiệp hội, nông hộ cùng nhau xây dựng trên
một khu vực có cơ sở và điều kiện phát triển nông nghiệp tương đối tốt mà hình thành
khu nông nghiệp công nghệ cao, thông qua việc tuyên truyền, thu hút những đơn vị
hoặc doanh nghiệp có điều kiện vào làm việc trong Khu, dùng cách vận hành theo kiểu
doanh nghiệp. Thông qua việc trình diễn, hướng dẫn, giới thiệu, tập huấn để đưa thành
quả KHCN vào sản xuất rồi tiến hành lan tỏa mở rộng. Một số mô hình khu nông
nghiệp công nghệ cao ở Trung Quốc đã mang lại những thành tựu nổi bật như tại Vân
Nam, khu nông nghiệp công nghệ cao Hồng Hà được xây dựng từ năm 2002 là khu
cấp quốc gia ở Trung Quốc. Tại Thiểm Tây, khu nông nghiệp công nghệ cao cấp quốc
gia Dương Tuấn lựa chọn xây dựng mô thức kết hợp giữa sản xuất, học tập, nghiên
cứu để tạo môi trường kinh doanh thích hợp cho các giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp KHCN nhằm tăng cường sức hấp dẫn của Khu. Theo đó, Khu đã thu hút các
trường, viện nghiên cứu sử dụng kết quả nghiên cứu công nghệ để tham gia cổ phần và
cùng với các tổ chức, cá nhân hợp tác xây dựng công ty KHCN, kết hợp thành một thể
công ty cộng đồng và thực hiện liên kết giữa các cơ quan nghiên cứu với công ty. Kinh
nghiệm từ các mô hình phát triển ở tỉnh Vân Nam, Thiểm Tây,... cho thấy, để khu
52
nông nghiệp công nghệ cao phát huy hiệu quả thì vai trò của chính quyền là hoàn thiện
các điều kiện cơ sở hạ tầng của các khu, thúc đẩy tầm ảnh hưởng của các công nghệ
hiện đại; Thu hút, bồi dưỡng hàng loạt các ngành hàng mới; Cải tiến và hoàn thiện cơ
chế hoạt động của khu; Phát huy ưu thế sản phẩm chủ lực của từng khu vực.
Vai trò của chính quyền Trung Quốc trong việc phát triển các loại hình phát
triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.
Tuy còn nhiều điểm phải tiếp tục hoàn thiện, nhưng về cơ bản nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao ở Trung Quốc đã góp phần vào việc nâng cao trình độ và chất
lượng kỹ năng, công nghệ, đáp ứng một phần sản phẩm nông nghiệp cho xã hội cả về
chất lượng, số lượng và bước đầu có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của khu nông nghiệp công nghệ cao. Quá trình
hình thành và phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao cũng là quá trình hoàn thiện
về cơ cấu tổ chức của khu. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của một khu nông nghiệp công
nghệ cao cấp Nhà nước của Trung Quốc thường bao gồm: khu trung tâm hay khu hạt
nhân, khu trình diễn và khu lan tỏa. - Khu hạt nhân là chủ thể của khu nông nghiệp
công nghệ cao, ở đó nhất thể hóa (công nghệ, nhân tài, thông tin, ươm tạo doanh
nghiệp, phổ biến kết quả, tập huấn kỹ thuật và dịch vụ xã hội hóa). - Khu trình diễn là
cơ sở sản xuất nông sản phẩm thị phạm của khu, là cơ sở thí nghiệm các kết quả
nghiên cứu KHCN nông nghiệp, chuyển hóa các kết quả KHCN thông qua việc tiếp
thu những kết quả của công nghệ mới, giống mới, thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn
hóa và kinh doanh qui phạm hóa. - Khu lan tỏa là nơi sản xuất hàng hóa chủ yếu để
những kỹ thuật mới, công nghệ mới từ khu hạt nhân, khu trình diễn lan tỏa đến nông
dân và vùng xung quanh. Những kỹ thuật và công nghệ mới sẽ khuếch tán từ khu trung
tâm đến khu trình diễn và khu lan tỏa một cách tuần tự. Có thể nói, khu lan tỏa là nơi
chủ yếu để tiến hành sản xuất sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, là nơi để doanh
nghiệp tổ chức nông dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, cũng
là nơi đào tạo, bồi dưỡng trình độ KHCN, trình độ tổ chức quản lý sản xuất theo
hướng công nghiệp hóa cho người nông dân (Dương Kỳ Trường, 2011).
- Ban hành và triển khai các chính sách ưu đãi đối với nông dân và các
doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao Trung Quốc nhận thức rằng để đáp ứng nhu
cầu về lương thực, thực phẩm cho một lượng dân số bằng 22% dân số thế giới với một
diện tích đất canh tác chỉ bằng 7% diện tích đất canh tác của thế giới thì việc ứng dụng
công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp để gia tăng nhanh chóng sản lượng sản phẩm
nông nghiệp, thỏa mãn nhu cầu lương thực thực phẩm của hơn 1,3 tỷ người bảo đảm
53
sự ổn định cho xã hội, tạo ra sản phẩm xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người nông
dân, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn là xu hướng tất yếu.
Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp và áp
dụng công nghệ cao vào sản xuất, như: gia tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ
cập KHCN, làm tốt công tác qui hoạch sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng
cho sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là hạ tầng về thủy lợi, về giống cây trồng vật nuôi,
xây dựng các cơ sở vật chất để kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa nông sản,
ưu đãi và hỗ trợ nông dân tiếp cận với các máy móc cơ khí hóa nông nghiệp…), tạo
điều kiện về thông tin và pháp lý để khai phá thị trường tiêu thụ nông sản, trực tiếp đầu
tư khuyến khích nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp theo đầu gia súc hoặc diện
tích trồng trọt,.... Các mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao đã được áp dụng và
triển khai ở hầu hết các tỉnh/thành phố của Trung Quốc. Những mô hình thành công là
những mô hình mang lại lợi ích cho cả người sản xuất (nông dân) và doanh nghiệp. Việc
xây dựng mô hình phải dựa trên nhu cầu và đảm bảo nguyên tắc: “Chính phủ chỉ đạo,
doanh nghiệp vận hành, cơ quan môi giới tham gia, nông dân hưởng lợi”. Có thể thấy
rằng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Trung Quốc là tương đối gần
với các mô hình đang hình thành và phát triển tại Việt Nam. Kinh nghiệm trong việc liên
kết cũng như sự vào cuộc của các đơn vị cung cấp dịch vụ công của Nhà nước trong các
mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao tại Vân Nam, Thiểm Tây … là bài học tốt cho
việc định hình, nhân rộng và phát triển các mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao tại
Việt Nam.
2.4.2 Kinh nghiệm của Israel
Là nước có nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phát triển hàng đầu thế
giới, Israel đã có các kinh nghiệm quý báu trong quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp CNC trong đó đặc biệt là các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao, cụ thể như sau:
Thứ nhất, yếu tố được xem là quyết định của thành công của phát triển nông
nghiệp CNC đó là đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển các công
nghệ nông nghiệp mới. Hiện nay, Israel có tới khoảng 300 doanh nghiệp xuyên quốc
gia tập trung vào nghiên cứu và phát triển công nghệ và 10 cơ quan nghiên cứu nông
nghiệp lớn, tiêu biểu là Tổ chức Nghiên cứu nông nghiệp (ARO - Agricultural
Research Organization), Cơ quan Nghiên cứu về nông nghiệp (hay còn gọi là Trung
tâm Volcani) hai đơn vị này đều trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Mục tiêu chính của các viện, trung tâm và trạm nghiên cứu của ARO tập trung vào các
54
nhiệm vụ chính sau: (1) Đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu và phát triển nông nghiệp trong
điều kiện khô cằn; (2) tại các vùng biên giới; (3) các công nghệ tưới nhỏ giọt và tưới
bằng nước khử mặn; (4) Trồng trọt, gieo trồng trong điều kiện bảo vệ môi trường; (5)
Nuôi cá nước sạch trong điều kiện thiếu nước; (6) sử dụng phương pháp kiểm soát côn
trùng và bảo quản sau thu hoạch để giảm thiểu hao hụt nông sản;(7) gieo trồng, chăn
nuôi thích ứng tốt với các điều kiện địa lý khác nhau.
Chính phủ Israel luôn chú trọng đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu
và phát triển (R&D), nghiên cứu các công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Theo báo cáo của Deloitte, chỉ trong sáu tháng đầu năm 2017 đã có 80 triệu đô
la Mỹ được đầu tư cho phát triển công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp. Tính theo con số tuyệt đối thì mức đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu các
công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là gần 100 triệu USD mỗi năm,
chiếm khoảng hơn 3% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp quốc gia. Đa số các nghiên
cứu đó đều do những công ty sản xuất sản phẩm đầu vào, như: Hệ thống tưới tiêu,
phân bón, nhà kính… triển khai. Chính sự phối hợp này đã đảm bảo kết hợp được giữa
kinh doanh và nghiên cứu, đảm bảo cho các nhà khoa học có thêm thù lao để phát huy
tối đa năng lực chuyên môn của mình. Với việc Chính phủ Israel chú trọng tới đầu tư
phát triển các công nghệ mới ứng dụng trong nông nghiệp đã thay đổi hoàn toàn bức
tranh nông nghiệp của đất nước này và tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư khu
vực và quốc tế.
Thứ hai, Nhà nước tập trung thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành công nghiệp
hỗ trợ như: Giao thông, cơ khí thậm chí cả công nghiệp quốc phòng để tạo nền tảng cơ
sở hạ tầng phát triển cho nông nghiệp CNC. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng luôn thực
hiện các chính sách để tăng cường phối hợp giữa 5 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học -
Nhà doanh nghiệp - Nhà tư vấn - Nhà nông. Cơ sở hạ tầng hỗ trợ hiện đại cùng với sự
phối hợp từ Nhà nước đến Nhà nông là điều kiện tốt để các doanh nghiệp tin tưởng và
yên tâm đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tại
Israel, Chính phủ đã xây dựng chính sách cử những nhân lực trẻ, trí tuệ nhất đi học và
nghiên cứu trong quân ngũ, đây là nơi có điều kiện tốt nhất để nghiên cứu về khoa học
công nghệ. Và sau khi xuất ngũ, Nhà nước cho phép các cựu quân nhân này được phép
áp dụng kiến thức, bí quyết công nghệ và đặc biệt là tinh thần làm việc nhóm để khởi
nghiệp trong các lĩnh vực dân sự, trong đó có cả nông nghiệp CNC. Khi có lực lượng
lao động chất lượng cao, các doanh nghiệp FDI sẽ không ngần ngại rót vốn đầu tư vào
nông nghiệp CNC.
55
Thứ tư, Chính phủ luôn đặt niềm tin và coi trọng lĩnh vực nông nghiệp, và xác
định rằng nông nghiệp có thể mang lại cơ hội tăng trưởng bền vững cho đất nước. Tại
Israel, người ta luôn nhen nhóm tinh thần coi trọng sự đóng góp của nông nghiệp trong
toàn xã hội bằng cách tuyên truyền, không ngừng nhân rộng những câu chuyện thành
công tại địa phương. Chính việc tuyên truyền, nhân rộng kết quả thành công của các
dự án nông nghiệp CNC đã khích lệ cảm hứng của các sinh viên, doanh nghiệp FDI,
những nhà khởi nghiệp trẻ - những người sẵn sàng đầu tư và thành công với nông
nghiệp CNC.
2.4.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của
một số nước Châu Á khác
Kinh nghiệm của Indonesia
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Minh (2017), Indonesia dẫn đầu khu
vực ASEAN về thu hút FDI vào nông nghiệp trong ba năm liên tiếp 2013 - 2015 với
số vốn lần lượt đạt hơn 1,61 triệu USD, hơn 2,23 triệu USD và 2,14 triệu USD. Để
tăng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp Indonesia đã ban hành một loạt chính sách
ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư
nước ngoài là Luật Đầu tư số 25 năm 2007. Theo đó các công ty có vốn FDI được hoạt
động trong vòng 30 năm kể từ ngày thành lập. Thời gian hoạt động sẽ được tăng thêm
30 năm nếu nhà đầu tư cam kết tăng vốn. Luật cũng không giới hạn về tỷ lệ nắm giữ
phần sở hữu đối với nhà đầu tư và số vốn đầu tư tối thiểu đối với loại hình công ty
100% vốn nước ngoài. Sau 15 năm hoạt động, công ty phải bán tối thiểu 5% cổ phần
cho phía Indonesia.
Bên cạnh đó, Indonesia giảm thuế thu nhập doanh nghiệp mỗi năm tương
đương với 5% tổng giá trị vốn đầu tư trong thời gian 6 năm. Chẳng hạn một công ty có
tổng vốn đầu tư là 1 tỷ USD sẽ được giảm 50 triệu USD/năm (5% x 1 tỷ USD) khi tính
thu nhập chịu thuế. Lỗ được chuyển sang kỳ tiếp theo nhưng không quá 10 năm. Thuế
nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất được giảm đến 5% nếu các
hàng hóa này chịu mức thuế lớn hơn 5%. Ngoài ra, các dự án FDI không bị hạn chế
trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng.
Kinh nghiệm của Malaysia
Cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Minh (2017), Malaysia đứng đầu
về thu hút vốn FDI vào nông nghiệp tại khu vực ASEAN trong năm 2015 với hơn
11,12 triệu USD, đứng thứ hai năm 2014 với 10,87 triệu USD. Malaysia thực hiện
chính sách một cửa đối với hoạt động đầu tư trên toàn lãnh thổ. Cơ quan được quyền
56
phê chuẩn, cấp phép đầu tư là cơ quan phát triển đầu tư (MIDA), được thành lập từ
năm 1967, trực thuộc Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc gia. MIDA hoạt động như
một đầu mối duy nhất, là trung tâm điều phối đầu tư để giúp chủ đầu tư thực hiện các
thủ tục cần thiết. Chính sự thống nhất này đã giảm được các thủ tục hành chính chồng
chéo, rườm rà, hạn chế nạn quan liêu, tham nhũng, tạo thuận lợi và là yếu tố thu hút
nguồn vốn FDI nói chung và FDI vào nông nghiệp nói riêng.
Tại Malaysia, các ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư được quy định trong
Luật Thuế thu nhập năm 1967, Luật Thuế môn bài 1976, Luật Xúc tiến đầu tư năm
1986, các danh mục khuyến khích đầu tư được Bộ Công nghiệp và Thương mại
Malaysia công bố hàng năm. Cụ thể, miễn thuế thu nhập cho các doanh nghiệp FDI
trong lĩnh vực nông nghiệp từ 3 - 5 năm, riêng các dự án trồng rừng được miễn thuế
Kinh nghiệm của Thái Lan
thu nhập trong vòng 10 năm, cho phép chuyển lỗ sang năm sau và trừ vào chi phí
trong 5 năm; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 5 năm sau thời gian miễn
thuế; miễn thuế nhập khẩu đối với các máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất mà
trong nước chưa sản xuất được và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Nền nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao của Thái Lan nói riêng
phát triển như ngày nay không thể không nhắc đến “tầm nhìn” chiến lược dài hạn của
Chính phủ. Hơn 30 năm trước đây, khi diện tích đất nông nghiệp còn rộng lớn, nguồn
nhân lực dồi dào và các nhà hoạch định chính sách Thái Lan coi nông nghiệp là nội lực
sống còn để phát triển kinh tế quốc dân, Thái Lan được mệnh danh là “nồi cơm” của thế
giới với 9 triệu tấn gạo được xuất khẩu, thu về 3,5 tỷ USD năm 2007. Song do tác động
của xu hướng công nghiệp hóa, lĩnh vực giải trí, đất canh tác bị rửa trôi, xói mòn hoặc
nhiễm mặn (năm 2008 là 22 triệu ha), người nông dân không được hưởng lợi trực tiếp từ
giá lương thực toàn cầu tăng cao,… mà chính sách nông nghiệp của Chính phủ Thái Lan
đã có những điều chỉnh kịp thời khi thấy những nguy cơ tiềm tàng và quan trọng hơn là
những chính sách ấy đã “bắt đúng bệnh” của thực trạng nông nghiệp. Cụ thể là:
(1) Chính sách trợ giá nông sản
Chính phủ Thái Lan áp dụng chính sách thu mua với các loại nông sản chủ yếu
như: gạo, sắn, tỏi đỏ, một số loại trái cây… Bên cạnh việc chi ngân sách bao tiêu nông
sản với giá ưu đãi, Chính phủ còn cung cấp những ưu đãi cho nông dân như: mua phân
bón với giá thấp, miễn cước vận chuyển phân bón, được cung cấp giống mới có năng
suất cao, được vay vốn lãi suất thấp từ ngân hàng nông nghiệp….
(2) Đẩy mạnh áp dụng khoa học – kỹ thuật trong nông nghiệp
57
Chính phủ Thái Lan đã khuyến khích, tập trung áp dụng các công nghệ tiên tiến
hiện đại như kỹ thuật chuyển gene, kỹ thuật chọn tạo; công nghệ di truyền và công
nghệ nuôi cấy mô cho ra đời những giống cây ưu việt như giống lúa có khả năng chịu
mặn cao, phù hợp trồng tại vùng Đông Bắc, nơi đất canh tác đang bị nhiễm mặn
nghiêm trọng và nông dân đang bỏ nghề lên thành phố kiếm sống.
(3) Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật công nghệ cho nông dân
Chính phủ Thái Lan rất chú trọng đến công tác đào tạo kỹ thuật nâng cao nhận
thức cho người dân. Các trường đại học (Chulalongkorn, Chiangmai…), các viện
nghiên cứu nông nghiệp (Trung tâm Nghiên cứu phát triển Phuphan) được đầu tư cơ
sở vật chất, mời chuyên gia nghiên cứu nông nghiệp từ nước ngoài, cơ chế đãi ngộ cho
các nghiên cứu sinh trẻ đi học tại các đại học danh tiếng tại Mỹ, Nhật… Nhiều trường
đại học, cao đẳng, trung cấp mở các khóa học tại chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển giao
công nghệ nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực.
Trên thực tế, khoa học công nghệ tiến bộ đã được nông dân Thái Lan ứng dụng
rất hiệu quả và dần trở nên phổ biến. Người nông dân Thái Lan đã thực hiện hữu cơ
hóa đất nông nghiệp bằng việc sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh và đặc
biệt là sử dụng thuốc trừ sâu sinh học cải tạo đất thoái hóa, nâng cao độ màu mỡ của
đất. Điều này không những làm cho việc sử dụng quỹ đất hiệu quả, giảm nhập khẩu
phân bón mà còn nâng cao xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch, các khâu của quá trình sản
xuất được cơ giới hóa. Sự vào cuộc của Chính phủ, khuyến khích hỗ trợ của các nhà
khoa học Thái Lan giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ sinh học trong hoạt
động sản xuất nông nghiệp của người dân.
(4) Chính sách công nghiệp nông thôn
Điểm chính của chính sách này là việc tập trung phát triển công nghiệp chế biến
thực phẩm và sản xuất nông sản, thủy hải sản phục vụ xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan cho
rằng các nguồn nguyên liệu nông sản càng đa dạng, chất lượng thì ngành chế biến thực
phẩm và xuất khẩu sẽ càng phát triển. Vì vậy, Thái Lan đã triển khai chương trình “Mỗi
làng, một sản phẩm” (One tambon, one product), với mục đích khuyến khích người nông
dân ở mỗi vùng sản xuất được những sản phẩm mang tính đặc trưng và có chất lượng cao.
Bên cạnh đó, chương trình “Thái Lan là bếp ăn của thế giới” được triển khai nhằm
khuyến khích nông dân và các nhà chế biến thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn
thực phẩm, kiểm soát chất lượng các sản phẩm nông nghiệp.
(5) Nâng cấp cơ sở hạ tầng
58
Chính phủ xây dựng và phân bố các công trình thủy lợi hợp lý. Hệ thống tưới
tiêu phải đảm bảo cung cấp đủ nước cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp trên cả
nước. Bên cạnh đó, các công trình thủy điện cũng được xây dựng, vừa góp phần điều
tiết nước giữa mùa khô và mùa mưa, vừa cung cấp điện năng cho các hoạt động sản
xuất, thu hoạch, bảo quản, giúp đẩy mạnh quá trình cơ giới hóa nông nghiệp.
(6) Hợp đồng nông nghiệp, liên kết doanh nghiệp
Hợp đồng nông nghiệp là một mô hình ở đó các sản phẩm nông nghiệp được
mang ra thị trường qua sự thỏa thuận giữa người mua và nông dân. Các thỏa thuận này
cũng đã thiết lập các điều kiện của sản phẩm và thị trường cho sản phẩm đó. Thông
thường, nông dân đồng ý cung cấp một số lượng nông sản trên các tiêu chuẩn được
người mua đưa ra. Người thu mua sẽ trả tiền cho sản phẩm đó, thậm chí có thể hỗ trợ
cả quá trình sản xuất như cung cấp đầu vào, cung cấp đất, giám sát kỹ thuật. Mô hình
này giúp đảm bảo tính ổn định: người nông dân có một đầu ra thị trường đảm bảo,
giảm rủi ro về giá cả; các doanh nghiệp thu mua có nguồn cung hàng hóa đảm bảo tiêu
chuẩn chất lượng, số lượng và thời gian.
Ở Thái Lan có 4 mô hình hợp đồng chủ yếu được sử dụng. Mỗi loại hàng hóa sẽ
có hợp đồng được xây dựng theo mô hình phù hợp. Với hàng hóa như mía đường được
áp dụng mô hình tập trung, hộ nông dân nhỏ và hộ nông dân lớn cung cấp mía cho các
trung gian, các trung gian này cung cấp sản phẩm cho nhà máy dưới một mức hạn
ngạch do chính nhà máy đó quy định. Các tổ chức phát triển và Chính phủ sẽ điều
chỉnh mối quan hệ giữa người nông dân và nhà máy, tránh trường hợp các trung gian
hoạt động chỉ vì lợi nhuận của mình, gây thiệt hại cho nông dân. Còn với hàng hóa có
yêu cầu cao như thịt nướng, thịt lợn, trứng…được áp dụng mô hình thí điểm. Nhà thầu
sẽ thí điểm sản xuất trước, sau đó truyền đạt công nghệ, bí quyết cho người nông dân
để từ đó nhân rộng sản xuất ở nhiều nơi khác nhau. Ngoài ra còn có mô hình trung
gian và đa phương. Mô hình này bao gồm nhiều bên như công ty chế biến, nông dân,
hội nhóm nông dân và các cán bộ khuyến nông và các học giả. Mô hình thứ tư là mô
hình chính thức, người nông dân sản xuất ra hàng hóa sẽ cung cấp cho trung gian, các
trung gian này sẽ cung cấp một phần hàng hóa cho thị trường bán lẻ trực tiếp với giá
cao hơn cho doanh nghiệp, đến khi giá thị trường giảm xuống sẽ bán phần còn lại cho
doanh nghiệp với giá trong hợp đồng.
(7) Chính sách thương mại nông nghiệp
Nhằm tìm kiếm thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan trực tiếp đàm phán
với chính phủ các nước để đạt được các lợi thế cạnh tranh.
59
Còn về thu hút các nhà đầu tư, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng chính sách
khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Với các dự án FDI trong nông nghiệp được Chính
phủ miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án
có loại thiết bị được khuyến khích đầu tư được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Đối
với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm nông nghiệp
xuất khẩu, thì được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm.
(8) Vận dụng và sáng tạo những mô hình nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp thì việc có những mô hình tốt là điều vô cùng quan
trọng, tác động trực tiếp đến thành công của người nông dân. Nông dân Thái Lan
ngoài việc nâng cao kiến thức chăm sóc cây trồng, vật nuôi, mở rộng các kĩ năng canh
tác, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, còn tích cực tìm tòi, vận dụng và sáng tạo
những mô hình nông nghiệp tiến bộ. Mô hình đặc biệt đầu tiên chính là mô hình trang
trại kết hợp hỗ trợ chuyển giao kiến thức.Việc hỗ trợ chuyển giao kiến thức góp phần
làm giảm những thói quen canh tác tác động xấu đến chất lượng nông sản và gây ô
nhiễm mội trường, ví dụ như bón phân hóa học…để chuyển đổi sang canh tác hữu cơ,
đem lại an toàn cho chính người sản xuất và bảo vệ môi trường. Tiêu biểu nhất cho mô
hình dịch vụ du lịch tại nông trại phải kể đến nông trại Chokchai nằm ở huyện Pak
Chong thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima, cách Bangkok 159km.
Từ kinh nghiệm quản lý nhà nước của Thái Lan cho thấy việc xây dựng chính
sách tập trung, thống nhất, bám sát thực tế là vô cùng quan trọng.. Chính phủ Thái Lan
tập trung vào phát triển ngành công nghiệp chế biến – do xác định được vai trò thúc
đẩy sản xuất và cung ứng sản phẩm cho thị trường cạnh tranh ngành công nghiệp này.
Các chính sách thu hút và hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp
và đặc biệt là công nghiệp chế biến được kết hợp thực hiện đồng thời. Bên cạnh đó là
sự tập trung vào nâng cấp cơ sở hạ tầng, vừa hỗ trợ sản xuất vừa tăng khả năng thu hút
đầu tư. Và cuối cùng là tập trung vào nguồn lực con người, các công tác đào tạo nhân
lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp được quan tâm, hỗ trợ. Trên thực tế,
nguồn nhân lực chất lượng cao này đã đem lại hiệu quả thật cho nền nông nghiệp nhờ
cải tạo và mở rộng diện tích đất canh tác.
Yếu tố quyết định đến hiệu quả của chính sách không chỉ phụ thuộc vào bản thân
chính sách đó, mà còn phụ thuộc rất lớn vào sự thống nhất trong thực hiện. Để tạo ra sự
thống nhất đó, Chính phủ Thái Lan đã đặt ra các mục tiêu chung trong chất lượng sản
phẩm – bằng việc đưa ra bộ tiêu chuẩn ThaiGAP, đa dạng hóa sản phẩm – phát động
60
phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” và những tiêu chí trong việc đưa công nghệ tiến bộ
ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp ở mọi nơi. Mỗi một chính sách đều có sự hỗ trợ nhiều
mặt, đặc biệt là ngân sách để thực hiện chứ không chỉ dừng lại ở sự kêu gọi, vận động.
2.4.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao của thành phố Hồ Chí Minh
Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện các chương trình hành động như là địa
phương dẫn đầu trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo ở vùng Đông Nam Bộ và kết
nối với Đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, thành phố Hồ Chí Minh đã bước đầu định
vị được các hoạt động trong chuỗi sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Để thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC, thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện rất
nhiều các hoạt động, bao gồm:
(1) Xây dựng và vận hành Khu nông nghiệp công nghệ cao
Từ tháng 4 năm 2010, Khu Nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí
Minh đã hoàn thành giai đoạn 1 và đi vào hoạt động tại xã Phạm Văn Cội, huyện Củ
Chi. Đây là khu nông nghiệp công nghệ cao đầu tiên của cả nước đi vào hoạt động.
Khu nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 88,17 ha,
trong đó có 56,53 ha dành để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư. Đến nay đã có 14 dự án
được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại khu nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố.
Tính đến năm 2019 có 13 doanh nghiệp đầu tư vào khu NNCNC, trong đó 10 doanh
nghiệp đang có hoạt động SXKD sử dung 450 lao động (Tô Thị Thùy Trang, 2020).
Ngoài diện tích dành để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư, Khu nông nghiệp công
nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh có 4 đơn vị trực thuộc bao gồm: (1) Trung tâm
ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao; (2) Trung tâm nghiên cứu và phát
triển nông nghiệp công nghệ cao; (3) Trung tâm khai thác hạ tầng; (4) Trung tâm dạy
nghề nông nghiệp công nghệ cao. Các đơn vị này đã thực hiện có hiệu quả các chức
năng cơ bản là hỗ trợ, tác động và dẫn dắt, quảng bá cách làm nông nghiệp công nghệ
cao thông qua các hoạt động trình diễn và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, tập huấn,
đào tạo, nghiên cứu ứng dụng, xây dựng mô hình trình diễn, khảo nghiệm giống và cung
cấp giống chất lượng tốt có chọn lọc cho nông dân, thị trường. Bên cạnh đó, Ban Quản
lý Khu nông nghiệp CNC thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp ươm tạo kết nối với các
siêu thị lớn như BigC, Coopmart để giới thiệu và phân phối nguồn sản phẩm; tư vấn
hoàn thiện hồ sơ thành lập Doanh nghiệp KHCN cho các doanh nghiệp, hỗ trợ đăng ký
bảo hộ độc quyền nhãn hiệu cho các doanh nghiệp ươm tạo (Tô Thị Thùy Trang, 2020).
61
Khu nông nghiệp công nghệ cao đang triển khai các dự án xây dựng mới, mở
rộng nông nghiệp công nghệ cao (mở rộng 200 ha, tại Khu Nông nghiệp công nghệ
cao hiện hữu; Khu Nông nghiệp công nghệ cao ngành thủy sản tại xã Long Hòa, huyện
Cần Giờ với qui mô 90 ha; khu Nông nghiệp công nghệ cao ngành trồng trọt và sau
thu hoạch tại xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi với qui mô 23,3 ha; khu Nông nghiệp
công nghệ cao ngành Chăn nuôi tại xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, qui mô từ
150 – 180 ha).
(2) Thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai
Theo Ban quản lý Khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM, doanh nghiệp đầu
tư vào khu nông nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi của Thành phố quy định
đối với Khu nông nghiệp CNC cũng như các quy định chung của Nhà nước về ưu đãi
đối với các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Doanh nghiệp, nhà đầu tư có dự án
nông nghiệp CNC được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước đến 11 năm đầu kể từ ngày
dự án hoàn thành đi vào hoạt động. Đối với dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi, ưu đãi
đầu tư, dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư thì được miễn tiền thuê đất đối với
phần diện tích cho: Đất xây dựng nhà ở cho công nhân, đất trồng cây xanh, đất phục
vụ phúc lợi công cộng. Thành phố Hồ Chí Minh tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho các
Khu nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp đầu tư vào khu chỉ trả tiền thuê đất
nông nghiệp theo quy định (không tính chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng). Thời
hạn thuê đất được cơ quan có thẩm quyền xác định tùy theo từng dự án cụ thể, tối đa là
50 năm. Hiện tại, tiền thuê đất được áp dụng là 1.140 đồng/m2/năm.
(3) Thực hiện các chính sách hỗ trợ đầu tư
Đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư,
ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư được ngân sách Thành phố hỗ trợ như sau:
Được hỗ trợ 70% kinh phí đào tạo nghề trong nước. Mỗi người lao động chỉ
được hỗ trợ đào tạo một lần trong thời gian đào tạo không quá 6 tháng.
Thành phố hỗ trợ 50% chi phí quảng cáo của doanh nghiệp, chi phí quảng cáo
sản phẩm của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng; 50% kinh phí
tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước; được giảm 50% chi phí tiếp cận
thông tin thị trường và chi phí dịch vụ từ các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà
nước. Được hỗ trợ chi phí vận chuyển sản phẩm, tương ứng với mức 1.500
đồng/tấn/km.
62
Hỗ trợ không quá 60% chi phí với tổng mức hỗ trợ không quá 5 tỷ đồng/dự án
để xây dựng cơ sở hạ tầng, xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua
sắm trang thiết bị trong hàng rào của dự án.
Hỗ trợ không quá 70% chi phí xử lý chất thải để đảm bảo môi trường cho các
nhà máy chế biến nông, lâm, thủy sản có quy mô lớn, đầu tư, sử dụng nhiều lao động,
có ảnh hưởng, tác động lớn đến kinh tế, xã hội địa phương. Ngoài ra còn được hỗ trợ
thêm 70% chi phí và tổng mức hỗ trợ không quá 5 tỷ đồng/dự án để đầu tư xây dựng
các hạng mục trên nếu dự án chưa có đường giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp
thoát nước đến hàng rào dự án.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp chỉ phải đóng 50% chi phí duy tu bảo dưỡng hạ
tầng theo quy định, được đóng hàng năm và ổn định trong 5 năm. Riêng đối với doanh
nghiệp thực hiện dự án nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ (không thực
hiện hoạt động sản xuất) hoặc đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ
cho yêu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì được miễn tiền duy tu bảo
dưỡng hạ tầng. Phí duy tu, bảo dưỡng hạ tầng (nhà đầu tư chỉ nộp 50%) tương ứng với
số tiền là 7.752.000 đồng/ha/năm. Doanh nghiệp được hỗ trợ thủ tục thẩm định phê
duyệt chủ trương đầu tư, thủ tục thuê đất, quy hoạch xây dựng. Khi doanh nghiệp đi
vào hoạt động, sẽ được hỗ trợ các thủ tục về thuế, cung ứng nguồn nhân lực, thủ tục
xuất nhập khẩu máy móc công nghệ.
(4) Tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn của các doanh nghiệp
Ngoài các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hiện Thành phố Hồ Chí Minh (TP
HCM) có 4 Quyết định của Ủy ban Nhân dân thành phố đang còn hiệu lực thi hành
liên quan đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động. Ngày 12/2/2018
Ủy ban Nhân dân TP HCM đã ban hành Quyết định số 655/QĐ-UBND quy định
hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 10/2017/NQ-HĐND ngày 7/12/2017 của HĐND
Thành phố về ban hành quy định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô
thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2017 - 2020.
Điểm chung của các chính sách này là thành phố sẵn sàng đầu tư và hỗ trợ lãi
suất cho doanh nghiệp nông nghiệp cũng như khuyến khích hình thành các hợp tác xã
nông nghiệp, nhất là mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao.
Bên cạnh đó, để tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn vay, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thành phố đề xuất Ngân hàng Nhà nước triển khai một số mô hình cho
vay tại thành phố Hồ Chí Minh theo cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao. Cụ thể đầu năm 2018, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
63
thôn thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội nghị kết nối ngân hàng với doanh nghiệp
nhằm tháo gỡ những bất cập trong vấn đề thế chấp với các ngân hàng của các cơ sở
sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Sở NN&PTNT thành phố Hồ Chí Minh cũng tiếp
tục mở các khóa đào tạo nhân lực, kỹ năng sản xuất công nghệ… để nông dân, hợp tác
xã, doanh nghiệp khởi nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh tốt có thể tiếp
cận vốn vay dễ hơn.
Doanh nghiệp đầu tư trong khu nông nghiệp công nghệ cao được hỗ trợ tiếp cận
nguồn vốn với lãi suất ưu đãi của các ngân hàng, quỹ tín dụng. Đối với các dự án đầu
tư có chuyển giao công nghệ cao, sản xuất sản phẩm công nghệ cao phù hợp Danh
mục công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao theo quy định hiện hành sẽ được ngân
sách thành phố hỗ trợ toàn bộ lãi suất vay vốn.
2.4.5. Bài học đối với Hà Nội trong quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao
Thứ nhất, cần làm tốt công tác quy hoạch và xây dựng chương trình phát triển
nông nghiệp công nghệ cao. Có thể thấy, qua phân tích kinh nghiệm phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của các nước trên thế giới, đặc biệt đối với Trung Quốc và tại
thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam cho thấy Hà Nội có thể rút ra bài học muốn đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao phải làm tốt khâu quy hoạch phát triển các
khu nông nghiệp công nghệ cao; phân loại các khu để tập trung nguồn lực, các cơ chế
chính sách, phát triển và ứng dụng công nghệ lan tỏa đến người nông dân. Xây dựng
được một mạng lưới tương đối hoàn chỉnh hệ thống các loại hình nông nghiệp công
nghệ cao trong phạm vi toàn quốc với các chủ thể đầu tư, qui mô, phạm vi, đối tượng
sản xuất khác nhau tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể.
Thứ hai, tập trung xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển nông
nghiệp công nghệ cao. Qua kinh nghiệm của Trung Quốc hay của Israel, một số tỉnh
trong nước như thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy Chính phủ các nước này đều xây
dựng và ban hành nhiều cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công
nghệ cao. Như Chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp gia
tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ cập KHCN, các chính sách để làm tốt
công tác qui hoạch sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông
nghiệp. hạ tầng về thủy lợi, về giống cây trồng vật nuôi, xây dựng các cơ sở vật chất
để kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa nông sản, ưu đãi và hỗ trợ nông dân
tiếp cận với các máy móc cơ khí hóa nông nghiệp…; hay tại Israel là chính sách đẩy
mạnh đầu tư và thu hút khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chính sách liên kết 5 nhà….
Xây dựng chính sách tập trung, thống nhất, bám sát thực tế, thực hiện nghiêm chỉnh và
64
hỗ trợ người nông dân tự phát triển kiến thức, kĩ năng của mình. Nước ta đã thực bước
vào cánh cửa hội nhập, nông nghiệp Việt Nam có tận dụng được cơ hội này để phát
triển, mở rộng thị trường hay không cần sự cố gắng đến từ cả hai phía Nhà nước và bản
thân người nông dân Việt như tại Thái Lan. Đây là một số kinh nghiệp hay mà Việt
Nam, Hà Nội có thể nghiên cứu, áp dụng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ ba, cần quyết liệt trong tổ chức thực hiện các quy hoạch, chương trình,
chính sách. Trong tổ chức thực hiện ta thấy, đối với Israel thành lập riêng một bộ
chuyên trách để tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giải quyết các vấn đề
trong quá trình thực hiện quy hoạch, các cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp
công nghệ cao. Đối với Việt Nam hiện nay nhiệm vụ này được giao cho Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện phát triển nông nghiệp
nói chung, UBND các tỉnh, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện trên địa
bàn các tỉnh. Tuy nhiên cũng cần nghiên cứu có bộ phận chuyên sâu, chuyên trách
phát triển về nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung triển khai, nhân rộng, đào tạo kiến
thức, kĩ năng của người dân tuy được nâng cao nhưng nhiều nơi vẫn tồn tại phương
thức sản xuất lạc hậu để triển khai các cơ chế, chính sách. Kinh nghiệm của Thái Lan
trong việc phổ biến kiến thức, kĩ năng, ứng dụng công nghệ cho nông dân là rất hữu
ích đối với Hà Nội.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm soát đánh giá và điều chỉnh kế hoạch, chương
trình, các chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho phù hợp với thực tế.
Có thể thấy các mô hình của Trung Quốc, của Israel, các cơ chế chính sách được xây
dựng, ban hành và liên tục cập nhật điều chỉnh, điều này có nghĩa trong quá trình triển
khai thực hiện các quy hoạch, chương trình, các cơ chế chính sách luôn được hướng
dẫn, triển khai, giám sát thường xuyên, đặc biệt là có đánh giá để điều chỉnh cho phù
hợp với thực tiễn phát triển. Mặc khác Chính phủ bất cứ nước nào thì cũng phải thực
hiện công tác quản lý nhà nước của mình, phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chính sách đó. Ở Israel thì giao tập trung cho một Bộ chuyên trách làm việc này, Tại
Trung Quốc ngoài sự kiểm soát của Chính phủ còn giao cho Chính quyền các địa
phương. Hà Nội có thể áp dụng cả 2 mô hình này và thực tế hiện nay đang do Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các cấp kiểm soát, đánh giá.
65
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
3.1. Bối cảnh nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước. Hà Nội có vị trí từ 20°53'
đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp phía bắc với các
tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc; Hà Nam - Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang- Bắc
Ninh- Hưng Yên ở phía Đông và phía Tây là Hòa Bình - Phú Thọ (Cổng thông tin điện
tử Thành phố Hà Nội). Diện tích tự nhiên của Hà Nội (số liệu 01/01/2019) là 335.859
ha, tổng dân số năm 2019 là 8.093,9 nghìn người (Niên giám thống kê Hà Nội, 2020).
Hà Nội có 30 đơn vị hành chính bao gồm 12 quận nội thành, 17 huyện ngoại thành và
01 thị xã. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 10,7% trong giai đoạn 2006-
2010, giai đoạn 2010-2018 trên 7%, trong đó ngành nông nghiệp đóng góp từ 2-3%.
Về phát triển kinh tế: Các ngành kinh tế đều phát triển, quy mô kinh tế ngày
càng được mở rộng. Tái cơ cấu kinh tế được tập trung thực hiện, tăng trưởng kinh tế
đạt mức khá. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm sau cao năm trước:
năm 2016 đạt 8,20%, năm 2017 đạt 8,48%, năm 2018 đạt 8,46%; năm 2019 đạt
8,65% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 7,3% của giai đoạn 2011-2015), dự kiến tính
chung cả giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng đạt 8,51%. Theo cách tính mới, GRDP bình
quân 2016-2018 tăng 7,28% (2016 tăng 7,15%, 2017 tăng 7,31%, 2018 tăng 7,12%).
Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành (cách tính cũ), GRDP năm 2018 đạt 732,01
nghìn tỷ đồng (tương đương 31,83 tỷ USD), tăng gấp 1,34 lần quy mô GRDP năm 2015.
GRDP bình quân/người tăng từ 3.660 USD/người năm 2015 lên 4.080 USD/người năm
2018 (tăng 420 USD), tăng gấp 1,12 lần năm 2015 (Theo cách tính mới GRDP năm 2018
đạt 904.460 tỷ đồng; GRDP/người đạt 113 triệu đồng, tương đương 4.910 USD).
Cơ cấu kinh tế các ngành: dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp năm
2015 tương ứng là 66,87%; 29,68%; 3,44%, năm 2019 tương ứng như sau 67,41%;
31,01% và 2,58%. Năng suất lao động năm 2016 đạt 159,8 triệu đồng/lao động; năm
2017 đạt 175,1 triệu đồng/lao động; năm 2018 đạt 190,9 triệu đồng/lao động (Theo
cách tính mới tương ứng là: 200,6 triệu đồng/lao động; 219,1 triệu đồng/lao động;
235,8 triệu đồng/lao động). Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2016 tăng
66
8,1%, năm 2017 tăng 8,1% và năm 2018 tăng 6,5%, trung bình 3 năm 2016-2018 tăng
7,6%/năm (Theo cách tính mới tương ứng là: 7,1%; 6,9%; 5,3% và trung bình đạt 6,4%).
Giá trị gia tăng trung bình ngành dịch vụ 03 năm 2016-2018 ước tăng 8,6%
(cao hơn tốc độ tăng bình quân 7,0% của giai đoạn 2011-2015); Tính theo cách tính
mới đạt 6,89%. Thương mại phát triển ổn định, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
xã hội tăng trung bình 10,26%/năm. Thương mại điện tử phát triển mạnh, hiện doanh
thu thương mại điện tử chiếm khoảng 7,0% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng (tăng 2,0% so với năm 2017). Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng khá, năm
2018 dự kiến đạt 14,23 tỷ USD, gấp 1,36 lần năm 2015, trung bình 3 năm 2016-2018
tăng 10,76%/năm (giai đoạn 2011-2015 tăng trung bình 5,5%).
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Thành phố Hà Nội
2011-
KH
Ghi
Đơn vị
TT
2016
2017
2018
2019
Chỉ tiêu
tính
2015
2020
chú
1 Tăng trưởng GRDP
%
7.15
7.31
7.37
7,4-7,6 7,4-7,6
- Dịch vụ
%
%
6.75
6.68
7.23
7,1-7,3 7,1-7,3
+ Hoạt động ngành dịch vụ
%
6.93
8.11
7.03
8,3-8,4 8,3-8,4
+ Thuế SP trừ trợ cấp SP
- Công nghiệp - xây dựng
%
8.73
9.47
8.23
8,5-8,7 8,5-8,7
%
7.14
8.53
7.80
+ Công nghiệp
%
13.02
11.88
9.31
+ Xây dựng
- Nông nghịêp
%
3.22
2.19
3.33
2,5-3,0 2,5-3,0
2 Cơ cấu ngành kinh tế
%
100
100
100
100
100
- Dịch vụ
%
67,41
68.4
68.1
68.1
68-68,2 68-68,2
+ Hoạt động ngành dịch vụ
%
+ Thuế NK và thuế SP trừ trợ
6.8
6.9
6.8
6,7-6,9 6,7-6,9
%
cấp SP
- Công nghiệp - xây dựng
%
22.50
23.00
23.00
31.01 22,9-23,2
- Nông nghịêp
%
2.30
2.00
2.10
2.58
1,9-2,1
Triệu đồng
113,00
3 GRDP bình quân/người/năm
99.97 107.68
118-120 126-129
(USD)
(4.910)
376,56-
416,00-
4 Huy động vốn đầu tư xã hội
1.000 tỷ đ. 1.054,33 278.88 308.22 340.78
378,26
417,97
Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông
5
%
52,07
66.1
76.2
83.9
91.7
thôn mới
Nguồn: Báo cáo qua các năm của UBND thành phố Hà Nội
67
3.1.2. Về đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-
2020) của thành phố Hà Nội đã được HĐND Thành phố thông qua (nghị quyết số
12/2015/NQ-HĐND ngày 02/12/2015). Kế hoạch sử dụng đất theo từng năm của
Thành phố là định hướng để các địa phương xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm.
Căn cứ các nghị quyết của HĐND thành phố Hà Nội thông qua danh mục các
công trình, dự án thu hồi đất; dự án chuyển đổi mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thông qua các nghị quyết của HĐND
Thành phố, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm
cho 30/30 quận, huyện, thị xã. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của các quận, huyện,
thị xã được tổng hợp và cập nhật vào kế hoạch sử dụng đất năm của Thành phố.
Đơn vị tính: ha
Bảng 3.2: Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối phân theo năm của thành phố Hà Nội
STT
Mã
Chỉ tiêu sử dụng đất
Năm hiện
trạng
(1)
(2)
(4)
2016
(5)
Các năm kế hoạch
2018
(7)
2019
(8)
2017
(6)
2020
(9)
335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99
Tổng diện tích tự nhiên
(3)
NNP 197 795,43 194 561,77 191 799,80 186 739,03 181 388,45 174 428,53
1 Đất nông nghiệp
Trong đó:
1.1 Đất trồng lúa
LUA 111 267,50 109 028,96 107 381,49 102 947,89 98 841,16 95 002,76
LUC 102 245,65 100 865,58 99 809,35 96 914,75 94 424,91 92 000,00
Trong đó: Đất chuyên trồng
lúa nước
1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 25 585,72 24 069,53 23 209,78 20 694,79 18 696,63 15 551,03
1.3 Đất trồng cây lâu năm
CLN 20 197,14 19 865,68 19 216,31 19 054,52 18 335,29 17 256,85
1.4 Đất rừng phòng hộ
RPH 4 706,56
4 779,41
4 757,51
6 018,45
7 444,53
8 970,00
1.5 Đất rừng đặc dụng
RDD 10 289,16 10 289,16 10 309,72 10 560,32 11 094,22 11 178,40
1.6 Đất rừng sản xuất
RSX 7 284,46
7 419,60
7 583,17
7 480,12
6 974,41
6 507,99
1.7 Đất nuôi trồng thủy sản
NTS 13 614,25 14 025,30 13 881,16 14 671,45 14 848,19 14 894,71
2 Đất phi nông nghiệp
PNN 131 831,68 135 384,97 138 335,16 144 779,53 151 612,20 159 716,22
CSD 6 264,89
5 945,26
5 757,04
4 373,44
2 891,35
1 747,25
3 Đất chưa sử dụng
KDT 41 121,66 41 564,98 42 021,24 42 516,82 43 044,87 43 606,51
4 Đất đô thị*
Nguồn: Quy hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối 2016-2020 thành phố Hà Nội
Đến năm 2020, Thành phố có 174.428,53 ha đất nông nghiệp cao hơn
22.183,49 ha so với kế hoạch được duyệt. Là thủ đô của cả nước nhưng nông nghiệp
vẫn có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực, ổn định xã hội, đặc biệt
68
đối với những địa bàn có dân số đông. Mặc dù giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
chiếm tỷ trọng không lớn (năm 2019 khoảng 2%) trong tổng giá trị sản phẩm trên địa
bàn (GRDP), nhưng nông nghiệp Hà Nội vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong đảm bảo an ninh lương thực cho khoảng 8 triệu dân cư (số liệu năm 2019) trên
địa bàn. Diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội vẫn chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong
tổng diện tích tự nhiên của toàn Thành phố. Tính đến 01 tháng 01 năm 2019, tổng diện
tích đất nông nghiệp của Hà Nội là 195.782 ha chiếm 58,3% tổng diện tích đất tự
nhiên của Thành phố (Niên giám thống kê Hà Nội, 2020). Chi tiết về diện tích đất
nông nghiệp của Hà Nội được trình bày tại Bảng 3.3
Bảng 3.3. Thực trạng đất nông nghiệp của Hà Nội, 01/01/2019
Chỉ tiêu Diện tích (ha) Cơ cấu (%)
Tổng diện tích đất nông nghiệp 195.872 100,0
Đất sản xuất nông nghiệp 154.218 78,7
Đất lâm nghiệp có rừng 22.250 11,4
Đất nuôi trồng thủy sản 14.207 7,3
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Hà Nội là 154.218 ha, chiếm 78,7%
trong tổng diện tích đất nông nghiệp và chiếm 45,9% trong tổng diện tích đất tự nhiên
của Thành phố. Tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp trong tổng diện tích đất tự nhiên của
Hà Nội (45,9%) cao hơn tỷ lệ bình quân chung của vùng đồng bằng sông Hồng
(37,2%) và của cả nước (34,7%). Giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp thủy sản của Hà
Nội luôn tăng trưởng và phát triển ổn định. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản
của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2010-2018 tăng trưởng bình quân đạt
3,34%/năm (Thành ủy Hà Nội, 2019). Nếu tính trong giai đoạn 2015-2015, tốc độ tăng
trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản của Hà Nội đạt
3,40%/năm (Bảng 3.4).
Đất nông nghiệp khác 5.197 2,7
Bảng 3.4. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của Hà Nội, 2015-2019
Cơ cấu (%)
Năm
2015
2016
2017
2018
2019
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
Tốc độ phát triển bình quân (%) Giá trị (Tỷ đồng)
17.112
18.204
17.511
19.016
19.559
103,40 2,54
2,49
2,17
2,15
2,02
-
69
Nông nghiệp Hà Nội vẫn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế và
ổn định xã hội của Thành phố còn do dân cư nông thôn ở Hà Nội còn tương đối nhiều,
tỷ lệ lao động nông vẫn còn tương đối lớn (Bảng 3.5).
3.1.3. Về đặc điểm dân số và lao động của thành phố Hà Nội
Tỷ lệ dân cư nông thôn của Hà Nội chiếm khoảng 51%, trong khi tỷ lệ lao
động nông thôn chiếm khoảng 56% trong tổng lực lượng lao động. Thực tế cho thấy
phần lớn dân cư và lao động nông thôn chủ yếu vẫn sinh sống dựa vào nông nghiệp.
Vì vậy, nâng cao thu nhập cho dân cư và lao động nông thôn luôn là nhiệm vụ hàng
đầu để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, diện
tích đất sản xuất nông nghiệp của Hà Nội ngày càng có xu hướng giảm, năm 2019
diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm so với năm 2018 là 443 ha (Niên giámThống
kê Hà Nội, 2020).
Vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao
giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích và tăng thu nhập cho dân cư và
lao động nông thôn là việc làm cần thiết đối với Hà Nội. Điều này được thể hiện qua
bảng dưới đây:
Bảng 3.5. Cơ cấu dân số, lao động nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội, 2015-2019
Tỷ lệ dân số nông Tỷ lệ lao động nông Tỷ lệ lao động nông Năm thôn (%) thôn (%) nghiệp (%)
2015 50,9 55,3 19,7
2016 50,8 55,0 17,4
2017 50,8 55,9 16,6
2018 50,7 56,2 14,2
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
2019 50,6 55,5 12,1
Bên cạnh đó, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước với dân số
khoảng 10 triệu dân và hàng năm Hà Nội đón rất nhiều khách du lịch, trong đó khách
du lịch quốc tế tới gần chục triệu người, do đó nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông
nghiệp (lương thực, thực phẩm) của Hà Nội là rất lớn. Tuy nhiên, sản xuất nông
nghiệp của Hà Nội chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Theo tính toán, hiện nay sản
70
xuất nông nghiệp của Hà Nội mới đáp ứng được 65,6% nhu cầu gạo, 65,1% rau củ
tươi, 19,3% thịt bò, trâu, 94,2% trứng gia cầm. Đây có thể là một cơ hội tốt cho các
doanh nghiệp đang có dự định đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội.
Bảng 3.6. Dự báo lao động thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030
Năm 2013
Năm 2015
Năm 2020
Năm 2030
Hạng
Tỉ lệ
(%)
Tỉ lệ
(%)
Tỉ
lệ(%)
Tỉ lệ
(%)
Số dân
(1.000
người)
Số dân
(1.000
người)
Số dân
(1.000
người)
Số dân
(1.000
người)
1. Dân số
7 128,3 100,0
7 383,1 100,0
7 956,0
100,0
9 135,5
100,0
2. Lao động trong độ tuổi
4 669,0
65,5
4 872,9
66,0
5 346,4
67,2
121,3
67,0
3 765,4 100,0
4 032,8
100,0
5 264,3
100,0
3 681,0 100,0
3. Dân lao động tham gia
ngành kinh tế
1 333,4
36,2
1 129,6
30,0
967,9
24,0
894,9
17,0
- Nông nghiệp
- Công nghiệp-xây dựng
1 204,9
32,0
1 290,5
32,0
1 947,8
1 094,1
29,7
37,0
- Dịch vụ
1 430,9
38,0
1 774,5
44,0
2 421,6
1 253,5
34,1
46,0
Nguồn: QH chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
3.2. Cách tiếp cận, phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu
3.2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Nhằm đạt được các mục tiêu và nội dung đề ra, nghiên cưu sinh đã áp dụng một
số tiếp cận sau đây:
- Tiếp cận hệ thống
Cách tiếp cận này dựa trên những phân tích, đánh giá tổng thể mối quan hệ giữa
quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC với các bên liên quan. Đặc biệt,
nghiên cứu sinh tiếp cận phát triển nông nghiệp công nghệ cao dưới góc nhìn đa chiều
vừa tăng lên về số lượng các dự án, các khu/vùng nông nghiệp CNC và sự thay đổi về
chất đối với ngành nông nghiệp của Hà Nội cũng như sự thay đổi về cơ cấu trong nội
bộ ngành nông nghiệp qua tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp CNC trong tổng giá
trị sản lượng ngành nông nghiệp.
- Tiếp cận thể chế
Tiếp cận thể chế nghiên cứu về chính sách và các ảnh hưởng của cơ chế chính
sách đến các chủ thể có liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC. Dựa trên cách tiếp
cận này, nghiên cứu sinh làm rõ quá trình tổ chức thực thi chính sách phát triển nông
nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội để tìm ra những điểm chưa phù
hợp của các cơ chế và chính sách này để trên cơ sở đó sẽ đưa ra các chính sách thích
hợp và hiệu quả nhằm tăng cường quản lý nhà nước với phát triển nông nghiệp công
nghệ cao trên địa bàn thành phố.
71
- Tiếp cận phân tích chính sách
Dựa trên tiếp cận này các chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC
sẽ được xem xét dưới các góc độ: ban hành chính sách, chỉ đạo thực hiện chính sách
và thực thi chính sách, đánh giá kết quả và hiệu quả của thực hiện chính sách vào thực
tiễn. Trên cơ sở đó chỉ ra khoảng trống, sự thiếu hụt và bất hợp lý giữa chính sách ban
hành và quá trình thực thi chính sách thu hút khuyến khích phát triển nông nghiệp
công nghệ cao của thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua.
- Tiếp cận kinh tế - xã hội
Theo tiếp cận này, phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố
Hà Nội sẽ được xem xét dưới cả hai góc độ đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
để hướng tới phát triển nền nông nghiệp CNC bền vững.
- Tiếp cận theo kết quả
Dựa vào tiếp cận này các quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn thành phố Hà Nội được xem xét dưới 3 nội dung chính như bảng dưới
đây và được đánh giá dựa vào kết quả phát triển nông nghiệp CNC sau một quá trình
tổ chức thực thi chính sách. Cụ thể như hình dưới đây:
Nhân tố ảnh hưởng đến
quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp CNC
Nội dung của quản lý nhà nước
về phát triển nông nghiệp CNC
Xây dựng quy hoạch,
chương trình, chính sách
Mục tiêu, kết quả của
quản lý nhà nước về
phát triển NN CNC
Đảm bảo thực
hiện chủ trương
của Đảng, nhà
nước về phát triển
NNCNC
Số lượng, quy mô
phát triển nông
nghiệp CNC
Nhóm nhân tố liên
quan đến đặc điểm
KTXH, xu hướng phát
triển của ngành nông
nghiệp; xu hướng tiêu
dùng và sự phát tiển
của KHCN
Sự phù hợp của
chính sách
Tổ chức thực hiện quy
hoạch, chương trình,
chính sách
Kiểm soát thực hiện &
khắc phục các thất bại
của thị trường
Nhóm nhân tố
thuộc về cơ quan quản
lý nhà nước: năng lực
thái độ của cán bộ; sự
phối hợp của các chủ
thể tham gia phát triển
NNCNC
Nguồn: Tác giả thiết kế.
Hình 3.1. Khung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển
nông nghiệp CNC
72
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Các số liệu thứ cấp được thu thập thông qua các nguồn chính như: Các báo cáo,
văn bản chính sách của Chính phủ và của thành phố Hà Nội, chuyên đề hội thảo, kỷ
yếu hội thảo, sách, báo và từ internet liên quan đến thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp công nghệ cao nhằm làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên
cứu. nguồn dữ liệu thứ cấp chính là các thông tin, tài liệu về quản lý nhà nước trong
phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội; các số liệu báo cáo của
UBND thành phố Hà Nội, sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong công
tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội;
kết quả xây dựng quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của chính quyền thành phố Hà Nội; sự phù hợp của quy hoạch, chương trình,
chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Để thu thập số liệu thứ cấp, tác giả thiết kế các biểu mẫu báo cáo cho các đơn
vị, tổng hợp, phân tích trên cơ sở báo cáo của các ngành về phát triển nông nghiệp
công nghệ cao. Số liệu và thông tin thứ cấp được tổng hợp và xử lý bằng phương pháp
nghiên cứu tại bàn (Desk study).
3.2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
Số liệu sơ cấp được thu thập qua phỏng vấn và khảo sát tại các huyện của thành
phố Hà Nội, bao gồm: Đan Phượng, Mỹ Đức, Thanh Oai, Gia Lâm, Mê Linh, Thường
Tín, Quốc Oai, Ứng Hòa. Nghiên cứu sinh lựa chọn các huyện này dựa trên các sản
phẩm nông nghiệp CNC mà mỗi huyện đã xây dựng và phát triển trong thời gian qua.
Trong các huyện này, Đan Phượng, Gia Lâm, Mê Linh, Ứng Hòa là các huyện có các
mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đại diện cho lĩnh vực trồng trọt (rau,
hoa), Thanh Oai có mô hình chăn nuôi, Thường Tín có mô hình nuôi trồng thủy sản,
Mỹ Đức có mô hình trồng nấm. - Thu thập dữ liệu qua phỏng vấn:
Tác giả tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia (các nhà nghiên cứu chính
sách, các nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp); cán bộ lãnh đạo các cấp, sở,
ngành của thành phố Hà Nội (HĐND, UBND, Sở NN&PTNT Hà Nội…); các doanh
nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân tham gia thực hiện quy hoạch, chương trình, chính
sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Mục đích phỏng vấn chuyên gia để nhận diện được hết những khó khăn trong
công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao; việc xây dựng
73
quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, sự phù hợp
của quy hoạch, chương trình, của chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó xin ý kiến về xác định các tiêu chí đo
lượng sự phù hợp của quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp
công nghệ cao làm cơ sở để thiết kế trong phiếu hỏi.
Ngoài ra, tác giả tiến hành phỏng vấn thêm các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình
cá nhân nằm trong vùng sản xuất chuyên canh tập trung, vùng , khu quy hoạch, mô
hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội để tìm hiểu về những khó khăn
trong tiếp cận chính sách và triển khai các chính sách phát triển nông nghiệp CNC.
Nghiên cứu sinh đã chọn mẫu theo hình thức thuận tiện có tính đến việc đảm bảo đa
dạng các loại hình doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình trên mỗi lĩnh vực của sản xuất
nông nghiệp. Những người phỏng vấn là lãnh đạo các doanh nghiệp, HTX, chủ hộ, cán
bộ lãnh đạo các sở, ngành. Tất cả các doanh nghiệp, HTX hoạt động ít nhất 3 năm. Với
cách thức chọn mẫu này có thể đảm bảo được tính đại diện cho tổng thể.
Căn cứ vào khung nghiên cứu, tác giả tiến hành thiết kế lưới hướng dẫn phỏng
vấn sâu, trong đó sẽ định hình trước các thông tin cần thu thập.
Bảng 3.7. Tổng hợp số lượng mẫu phỏng vấn sâu
STT Đối tượng khảo sát Số lượng
1 Cán bộ, chuyên gia cấp sở, ban, ngành, huyện 8
2 Đại diện các các cơ sở (doanh 7
nghiệp, HTX) tham gia sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
3 Đại diện các mô hình nông nghiệp công nghệ cao 3
18 Tổng
Nguồn: tác giả tổng hợp, 2019
Toàn bộ nội dung các cuộc phỏng vấn được ghi chép cẩn thận và đầy đủ. Kết
quả tổng hợp lại thành quan điểm chung đối với quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của chính quyền Hà Nội. Quá trình phỏng vấn sẽ tìm hiểu được
những thông tin phản hồi, phản ánh của các cán bộ quản lý, doanh nghiệp, HTX, hộ
gia đình cá nhân tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn
Hà Nội về các vướng mắc trong công tác xây dựng quy hoạch, chương trình, chính
sách; trong công tác tổ chức thực thi, kiểm soát việc thực hiện quy hoạch, chương
trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC.
- Thu thập dữ liệu sơ cấp bằng khảo sát qua bảng hỏi:
74
Bên cạnh phỏng vấn, NCS đã tiến hành khảo sát bảng hỏi với các đối tượng bao
gồm: 1) Chủ doanh nghiệp, những cán bộ chuyên trách (tài chính, kỹ thuật, thị trường,
nhân sự…) của doanh nghiệp là đối tượng đại diện cho nhóm trực tiếp đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao; 2) Cán bộ tại các địa phương những người liên quan đến lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp của địa phương; 3) Các hộ gia đình/nhóm hộ gia đình/hợp
tác xã/trang trại là những đối tượng có quy mô sản xuất nông nghiệp lớn và có tiềm
năng đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội.
Các dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua cuộc khảo sát bằng bảng hỏi được
chia làm 02 nhóm đối tượng: Doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân được tiếp cận
và chưa được tiếp cận với quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp
công nghệ cao của thành phố Hà Nội.
Mục tiêu của khảo sát qua bảng hỏi: Kết quả điều tra sẽ là cơ sở cung cấp thông
tin định lượng để phân tích, đánh giá kết quả thực hiện công tác quản lý nhà nước đối
với phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá
những khó khăn, vướng mắc trong xây dựng quy hoạch, chương trình, trong tổ chức
thực hiện, kiểm soát việc thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các phiếu điều tra trước khi
được nhập vào máy sẽ được kiểm tra để phát hiện sai sót, tiếp theo được xử lý bằng các
phần mền SPSS, Excel để tạo ra các bảng thống kê phục vụ phân tích, đánh giá.
Đối tượng khảo sát và phương pháp chọn mẫu: Đối tượng khảo sát là các doanh
nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân nằm trong vùng sản xuất chuyên canh tập trung,
vùng, khu quy hoạch, mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội. Việc
chọn mẫu phải đảm bảo đa dạng các loại hình doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình trên
mỗi lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp.
Để thực hiện việc thu thập dữ liệu, tác giả đã tiến hành phối hợp với Hội Nông
dân, Sở NN&PTNT Hà Nội là những đơn vị liên quan đến ngành sản xuất nông
nghiệp, có hệ thống cán bộ theo dõi lĩnh vực nông nghiệp về cách thức phát và thu
thập phiếu câu hỏi theo phương pháp thuận tiện. Để có thể tăng phản hồi, tất cả các
phiếu điều tra đều được in màu cùng với nội dung cảm ơn sự cộng tác. Sau khi thu
thập dữ liệu từ các khu vực, tác giả liên hệ kiểm tra xác suất để đo độ tin cậy của dữ
liệu thu thập được. Các thông tin thu thập được từ cán bộ quản lý các sở, ngành; doanh
nghiệp, HTX, hộ nông dân đảm bảo được hầu hết các yêu cầu cần thiết của khung
chọn mẫu. Để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập và thông tin đáp ứng đúng mục
tiêu nghiên cứu, các đối tượng trả lời phiếu phải là cán bộ lãnh đạo các phòng, ban,
75
ngành theo dõi lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp, giám đốc hoặc lãnh đạo các doanh
nghiệp, HTX, chủ hộ tham gia sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Đối tượng được
khảo sát làm việc ở các sở, ngành liên quan đến sản xuất nông nghiệp công nghệ cao,
các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, cá nhân phủ kín đầy đủ các lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp, trên các vùng, địa bàn khác nhau của thành phố Hà Nội.
Thời gian điều tra được thực hiện từ tháng 12/2019 đến tháng 4/2020. Số phiếu
phát ra là 250 phiếu, thu về 202 phiếu, tỷ lệ phản hồi đạt 80,8%, trong đó có 57 phiếu
trả lời đến từ các cơ quan quản lý nhà nước và 145 phiếu đến từ các bên thụ hưởng
chính sách, với cơ cấu cụ thể như bảng dưới đây.
Bảng 3.8. Thông tin về đối tượng trả lời phiếu điều tra
STT Đối tượng khảo sát bằng phiếu
Số lượng Tỷ lệ %
Lãnh đạo các Sở, ngành
5
8%
1
Cán bộ thuộc các sở ban ngành của thành phố
19
33,3%
Cán bộ thuộc các quận huyện
33
58,7%
57
100%
Tổng số phiếu đến từ các cơ quan quản lý ở địa phương
2
Lãnh đạo các doanh nghiệp
7
3,2%
Chủ nhiệm và thành viên các HTX
18
10,3%
Chủ hộ kinh doanh
112
76,2%
Chủ mô hình
18
10,3%
145
100%
Tổng số phiếu đến từ đối tượng thụ hưởng chính sách
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Phương pháp phát triển thang đo: Hầu hết các thang đo trong nghiên cứu đều
được kế thừa từ các nghiên cứu trước và đã được sàng lọc, điều chỉnh để phù hợp với
bối cảnh, phạm vi nghiên cứu tại Hà Nội. Việc điều chỉnh này được thực hiện thông
qua các ý kiến chuyên gia có kinh nghiệm đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh
vực nông nghiệp công nghệ cao.
Tất cả các thang đo được thiết kế đều sử dụng thang Likert với 1 là mức đánh
giá thấp nhất và 5 là mức đánh giá cao nhất. Do đó, điểm đánh giá mức độ phù hợp
được xác định theo các khoảng sau đây:
1 - 1,8: Mức độ phù hợp quá thấp.
76
1,81 - 2,6: Mức độ phù hợp thấp.
2,61 - 3,4: Mức độ phù hợp trung bình.
3,41 – 4,2: Mức độ phù hợp cao.
4,21 – 5,0: Mức độ phù hợp rất cao.
Nhằm đảm bảo chất lượng dữ liệu thu thập được sử dụng cho nghiên cứu,
việc thiết kế bảng hỏi được thực hiện theo một quy trình khoa học, chặt chẽ theo
các bước sau:
- Xác định khái niệm của các biến và thang đo lường các biến trong mô hình
nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu trước đây và kết quả phỏng vấn.
- Điều tra thử mẫu nhỏ với mục đích hoàn thiện bảng hỏi để đảm bảo sự chính
xác và dễ hiểu.
- Hoàn chỉnh bảng hỏi với hình thức trang trọng, tất cả bảng hỏi được in trên
khổ giấy A4.
Ngoài ra bảng hỏi còn bao gồm các câu hỏi về thông tin người trả lời, cấu trúc
bảng hỏi và các câu hỏi chi tiết được trình bày tại phụ lục 1.
- Thu thập dữ liệu qua khảo sát thực địa:
Bên cạnh phỏng vấn và khảo sát bằng bảng hỏi, dữ liệu sơ cấp còn được thu
thập thông qua nghiên cứu khảo sát điểm một tại một số doanh nghiệp đã đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao tại các địa phương khác để tìm hiểu về bài học thành công
và những thất bại trong đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Các cuộc khảo sát này
được thực hiện bởi tác giả trong các buổi đi giám sát của HĐND Thành phố, của các
Ban HĐND Thành phố và trong các chuyến đi kiểm tra, khảo sát tại các cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp HTX, hộ gia đình, cá nhân, các mô hình nông nghiệp công
nghệ cao do các ngành của Thành phố tổ chức, với cơ quan chủ trì là Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Vì vậy, tác giả có thể quan sát thực tế và trao đổi trực tiếp với
lãnh đạo các sở, ban, ngành Thành phố với lãnh đạo doanh nghiệp, HTX, chủ hộ, chủ
mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Trọng tâm của các cuộc khảo sát là tìm
hiểu việc triển khai thực hiện các quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông
nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội, việc tiếp cận, thụ hưởng các
chính sách, khó khăn, vướng mắc và đề xuất gì với chính quyền Thành phố. Cụ thể
trước tiên, tác giả đề nghị cung cấp tổng thể tình hình, kết quả phát triển nông nghiệp
công nghệ cao trên địa bàn (đối với cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành Thành phố);
tình hình chung hoạt động của doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, cá nhân trong phát
triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tiếp theo là mức độ phù hợp của quy
hoạch, chương trình, các chính sách của Nhà nước và Thành phố đã ban hành, các yếu
77
tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao của đơn vị. Mỗi cuộc phỏng
vấn kéo dài khoảng 20-25 phút, các cuộc phỏng vấn được tiến hành tại văn phòng, trụ
sở làm việc của người được phỏng vấn.
3.2.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
Các số liệu thứ cấp và sơ cấp được tổng hợp và xử lý dựa trên các tiêu chí phân
tổ theo nhóm tiêu chí: địa điểm nghiên cứu, sản phẩm đặc trưng, loại doanh nghiệp,
các công đoạn sản xuất, lĩnh vực đầu tư vào các tiểu ngành trong ngành nông nghiệp…
đã sử dụng phần mềm chuyên dụng Excel và STATA để tổng hợp và xử lý số liệu thu
thập được nhằm đáp ứng các nội dung và mục tiêu nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê mô tả
Sử dụng phương pháp này để đánh giá thực trạng về tình hình phát triển kinh tế
- xã hội, thực trạng thực hiện các chính sách/giải pháp và kết quả phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao của
thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua. Các chỉ tiêu được sử dụng từ phương pháp
thống kê mô tả bao gồm: số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, tốc độ tăng trưởng…
kinh tế chung, nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao...
- Phương pháp thống kê so sánh
Phương pháp này được sử dụng để so sánh các tiêu chí liên quan đến thực trạng
phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thực trạng thay đổi cơ cấu nông nghiệp và phát
triển các mô hình, các vùng/khu nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội giữa
các năm khác nhau, và giữa các vùng khác nhau của thành phố.
- Phương pháp phân tích qua khảo sát thực địa
Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình
huống/nghiên cứu điểm (case study) để phân tích các trường hợp điển hình về kết quả
phát triển các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, sự thành công cũng như thất bại
của các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Trên cơ sở
phân tích điểm, các bài học thành công và thất bại trong phát triển nông nghiệp công
nghệ cao sẽ được khuyến cáo và làm cơ sở để đề ra các giải pháp có tính khả thi và
phù hợp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
78
CHƯƠNG 4
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI
VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
4.1. Động thái phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội trong
thời gian qua
Với thế mạnh về khoa học công nghệ, nguồn lực, hệ thống cơ chế chính sách,
trong những năm gần đây, Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ các mô hình sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao. Nhiều mô hình ở lĩnh vực thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt hình
thành và dẫn đầu cả nước, cho thấy nông dân và doanh nghiệp Thủ đô đã tận dụng,
phát huy tốt lợi thế, tạo ra nông sản chất lượng, góp phần mang đến hiệu quả cao cho
sản xuất nông nghiệp.
Năm 2019, ngành nông nghiệp Hà Nội đóng góp 2,58% vào GDP của Thành
phố, sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực giữ vai trò quan trọng đảm bảo tính ổn định cho
phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô nhờ cung cấp khoảng 1,2 triệu tấn lương thực có
hạt, đảm bảo nhu cầu đời sống cho 2,5 triệu cư dân nông nghiệp và đáp ứng được 50-
60% nhu cầu lương thực thực phẩm cho cư dân phi nông nghiệp của Thành phố. Bên
cạnh đó, nông nghiệp cũng là lĩnh vực có vai trò quan trọng trong phát triển ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhờ hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi để tiếp thu,
chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Bảng 4.1: So sánh kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên
địa bàn Thành phố Hà Nội
%
TT Chỉ tiêu ĐVT Năm
2008 Năm
2018 Tỷ lệ tăng
trung bình
1 - 2,76% - Tốc độ gia tăng bình quân giá trị
nông, lâm, thủy sản
Mô hình
%
Số lượng mô hình phát triển 2 10 123 12,3% nông nghiệp công nghệ cao
3 25 25,0% - Tốc độ tăng giá trị sản phẩm
nông nghiệp công nghệ cao
Triệu
đồng/ha
Nguồn: Báo cáo UBND Thành phố về nông nghiệp Hà Nội sau 10 năm điều chỉnh
địa giới hành chính
4 Giá trị sản xuất nông nghiệp/ ha 124 239 1,93
79
Nông nghiệp Thủ đô những năm gần đây đã có những bước phát triển mạnh
mẽ: Giá trị gia tăng nông, lâm thủy sản tăng trung bình 2,76%/năm, cơ cấu nông
nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông
nghiệp tăng dần, đạt 55,6% vào năm 2017, trồng trọt, nông nghiệp là 44,4%, giá trị sản
xuất nông nghiệp/ha là 239 triệu đồng tăng 1,93 lần so với năm 2008 (124 triệu
đồng/ha). Giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Thành
phố đạt 25%...(Báo cáo UBND Thành phố về nông nghiệp Hà Nội, 2018).
Số lượng các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC ngày càng có xu
hướng tăng lên qua các năm. Theo số liệu của thống kê của sở NN&PTNT Hà Nội,
năm 2017 trên địa bàn Thành phố mới có 106 mô hình nông nghiệp CNC và tính đến
tháng 06 năm 2020 số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC của Thành phố tăng
lên đạt 164. Như vậy từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2020, số lượng mô hình nông
nghiệp ứng dụng CNC của Hà Nội tăng bình quân 15,7%/năm. Tính đến hiện tại giá trị
sản phẩm nông nghiệp ứng dụng CNC của Hà Nội chiếm khoảng 25% trong tổng giá
trị sản xuất nông nghiệp của Thành phố.
Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã xuất hiện ở tất cả 18 huyện, thị xã
có hoạt động sản xuất nông nghiệp của Thành phố, trong đó những huyện có nhiều
mô hình bao gồm: Mê Linh (18 mô hình), Gia Lâm (17 mô hình), Thường Tín (14
mô hình), Thanh Oai (10 mô hình). Mặc dù số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng
CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội không ngừng tăng lên trong những năm qua, tuy
nhiên phần lớn các mô hình mới chỉ dừng lại ở ứng dụng công nghệ cao từng phần
trong sản xuất.
Trong số các mô hình nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội, phần lớn là
các mô hình thuộc lĩnh vực trồng trọt. Theo số liệu trong báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện Chương trình 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Hội, tính đến tháng 6 năm 2019 trong
tổng số 133 mô hình nông nghiệp CNC trên địa bàn Thành phố có tới 75 mô hình
thuộc lĩnh vực trồng trọt, chiếm 56,4%. Số mô hình nông nghiệp CNC thuộc lĩnh vực
trồng trọt tính đến tháng 06 năm 2020 là 109, chiếm 66,5% trong tổng số mô hình
nông nghiệp CNC của Thành phố. Như vậy, có thể nhận thấy lĩnh vực trồng trọt đang
là lĩnh vực được quan tâm đầu tư của các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
80
Bảng 4.2. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
của Hà Nội theo lĩnh vực năm 2020
Lĩnh vực
Số lượng mô hình
109 Cơ cấu (%)
66,5 Trồng trọt
40
15
164 24,4
9,1
100,0 Chăn nuôi
Thủy sản
Tổng số
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2020
Tính đến hiện tại trên địa bàn thành phố mới chỉ có 1 mô hình ứng dụng công
nghệ cao trong tất cả các công đoạn sản xuất đó là mô hình sản xuất nấm kim châm
theo dây chuyền công nghệ cao của Nhật Bản của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu
Kinoko Thanh Cao, xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức.
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thứ cấp của Sở NN&PTNT Hà Nội
Hình 4.1. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội
Trong số các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Hà
Nội, đã có một số mô hình mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội rất đáng ghi nhận (Bảng
4.3). Trong các mô hình này, mô hình sản xuất nấm kim châm theo dây chuyền công
nghệ hiện đại của Nhật Bản của công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao
tại xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức đang có hiệu quả tương đối cao. Theo bà Dương Thị
Thu Huệ, có được kết quả như hiện tại phần lớn là do sự nỗ lực của công ty. Về cơ bản
Công ty chưa tiếp cận và nhận được hỗ trợ từ các chính sách hỗ trợ và khuyến khích
phát triển nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội. Cũng theo bà Huệ, tính từ khi bắt
81
đầu sản xuất nấm kim châm, công ty đã nhận được hỗ trợ từ dự án của Bộ Khoa học và
Công nghệ khoản kinh phí 8,5 tỷ đồng.
Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu của một số mô hình sản xuất nông
nghiệp CNC của Hà Nội được tổng hợp tại Bảng 4.3 dưới đây. Tính bình quân, doanh
nghiệp nông nghiệp CNC được khảo sát đạt doanh thu khoảng 80 tỷ đồng/năm, tạo
được việc làm ổn định cho gần 20 lao động với thu nhập bình quân khoảng 8 triệu
đồng/tháng. Các chỉ tiêu này tính bình quân cho 1 HTX sản xuất nông nghiệp CNC
được khảo sát tương ứng là 24 tỷ đồng/năm, 23 lao động, và 7 triệu đồng/tháng.
Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của các mô hình nông nghiệp
CNC được khảo sát tại Hà Nội
Doanh thu thuần (tỷ
đồng/năm)
Số lượng LĐ được tạo
việc làm ổn định
Thu nhập bình quân
của 1 lao động
(triệu đồng/tháng)
BQ
BQ
Thấp
nhât
Cao Thấp
nhât
nhất
Cao Thấp
nhât
nhất
Cao
nhất
80
180
10
25
10
18
BQ
8
10
5
Doanh nghiệp
24
52
5
40
10
23
7
10
5
HTX
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát, 2020
Các chỉ tiêu cơ bản (doanh thu thuần, thu nhập bình quân của 1 lao động) của
các doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp CNC được khảo sát tại thành phố Hà
Nội đều cao hơn so với các chỉ tiêu này của các doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn Thành phố.
Bảng 4.4. Doanh thu thuần và thu nhập bình quân của người lao động của các
doanh nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội
Năm
Thu nhập bình quân của
lao động
(triệu đồng/người/tháng) Doanh thu thuần bình quân
của 1 doanh nghiệp, HTX
(tỷ đồng/năm)
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
2014
2015
2016
2017
2018
Bình quân 3,7
14,0
3,8
7,5
5,6
6,9 4,3
4,0
4,1
4,3
4,4
4,2
82
Trong giai đoạn 2014-2018, doanh thu thuần tính bình quân cho 1 doanh
nghiệp, HTX trong lĩnh vực Tnông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội đạt thấp nhất
là 3,8 tỷ đồng/năm vào năm 2016 và cao nhất là 14,0 tỷ đồng/năm vào năm 2015, bình
quân đạt khoảng 7 tỷ đồng/năm. Thu nhập bình quân của 1 lao động thuộc các doanh
nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong giai đoạn 2014-2018
của Hà Nội đạt khoảng 4,2 triệu đồng/người/tháng (Bảng 4.4). Tất cả các chỉ tiêu này,
đều thấp hơn so với các chỉ tiêu của các doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp
CNC được khảo sát tại Hà Nội.
Có thể nói, cùng với sự phát triển của nông nghiệp CNC thì số vốn đầu tư vào
lĩnh vực nông nghiệp CNC ngày càng tăng qua các năm. Điều này được thể hiện qua
hình dưới đây:
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
Hình 4.2. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
của Hà Nội giai đoạn 2014-2018
Yếu tố góp phần làm nên thành công của các mô hình sản xuất nông nghiệp
CNC được khảo sát đó là “thị trường tiêu thụ đầu ra ổn định”. Kết quả khảo sát thực tế
cho thấy, Công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao ký kết hợp đồng cung
cấp sản phẩm cho Tập đoàn Vingroup với sản lượng 2,5 tấn/ngày. HTX sản xuất và
dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà có hợp đồng cung cấp sản phẩm với hệ thống siêu thị
và nhà hàng (95% sản phẩm của HTX cung cấp cho hệ thống siêu thị tại Hà Nội; 5%
sản phẩm cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn). HTX rau hữu cơ công nghệ cao
83
Cuối Quý có hợp đồng cung cấp sản phẩm cho 16 trường học trên địa bàn huyện Đan
Phượng và chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch Bác Tôm tại Hà Nội. HTX Hoàng Long ký
kết hợp đồng cung cấp sản phẩm ổn định và lâu dài cho các trường học trên địa bàn
huyện Thanh Oai. Bên cạnh đó, HTX cũng có hệ thống cửa hàng cung cấp sản phẩm
tại nội thành Hà Nội.
Hình 4.3. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội của doanh nghiệp, HTX sản xuất
nông nghiệp CNC và doanh nghiệp, HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu từ Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020 và số liệu khảo sát tại
các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC, năm 2020
Một số cơ sở sản xuất khẳng định sẽ tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư do luôn
nhận được sự đồng hành và hỗ trợ từ các chính sách cải thiện môi trường đầu tư tại các
huyện. Theo bà Bùi Thị Thanh Hà, giám đốc HTX sản xuất và dịch vụ Thanh Hà tại xã
Ninh Sở, huyện Thường Tín, HTX có quy mô diện tích 1,2 ha (thuê lại của 18 hộ gia
đình) và tổng đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu là tương đối lớn (khoảng 5 tỷ đồng). Mặc
dù việc thuê thêm đất và tìm kiếm thêm vốn để đầu tư là rất khó khăn nhưng trong thời
gian tới HTX sẽ tiếp tục đàm phán để thuê thêm đất của các hộ dân lân cận để mở rộng
diện tích, do hiệu quả mang lại từ nông nghiệp CNC hiện tại đang khá cao, doanh thu
khoảng 5 tỷ đồng/ha/năm. Bên cạnh đó, HTX luôn nhận được sự hỗ trợ của UBND
huyện Thường Tín, cụ thể: UBND huyện đã lồng ghép với nguồn vốn của Chương
trình xây dựng nông thôn mới để hỗ trợ làm đường bê tông nội đồng vào khu sản xuất
của HTX, hỗ trợ HTX trong việc đăng ký và hoàn thiện sản phẩm theo chương trình
OCOP của Thành phố, hỗ trợ một phần kinh phí cho việc xây dựng kho lạnh, và luôn
đồng hành cùng HTX trong việc tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng
như của Thành phố Hà Nội.
84
Năm 2017, quy mô diện tích của HTX Rau công nghệ cao Cuối Quý tại huyện
Đan Phượng là 1.360 m2 và vốn đầu tư ban đầu khoàng 500 triệu đồng, đến năm
2018 quy mô diện tích của HTX đã tăng lên đạt 5 ha, vốn đầu tư khoảng 11 tỷ đồng.
Theo chị Đặng Thị Cuối, Giám đốc HTX, sở dĩ HTX mở rộng quy mô diện tích và
tăng vốn đầu tư là do hiệu quả sản xuất cao và đồng thời doanh nghiệp luôn nhận
được sự hỗ trợ (cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, tham gia hội chợ, kết nối thị
trường...) của UBND huyện Đan Phượng (Kết quả phỏng vấn tháng 03 năm 2020).
Bên cạnh vận dụng các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC của
Chính phủ và Thành phố Hà Nội, một số huyện đã thực hiện thêm các chính sách riêng để
thu hút doanh nghiệp, HTX, trang trại đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn và bước
đầu đã đạt được các kết quả như tại huyện Đan Phượng, Ứng Hòa, Thường Tín.... Tuy
nhiên, cũng có những huyện việc thực hiện các dự án khuyến khích nông nghiệp công
nghệ cao chưa thành công, như trường hợp Dự án sản xuất rau an toàn áp dụng công nghệ
cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc Oai (Hộp 4.1).
Nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của dự án sản xuất rau an toàn ứng
dụng công nghệ cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc Oai bao gồm (Kết quả trao đổi với
lãnh đạo xã Tân Phú, tháng 03 năm 2020):
+ Việc đầu tư các hạng mục cơ sở hạ tầng của dự án (đường giao thông, trạm
biến áp, nhà máy cấp nước, đường ống dẫn nước...) bị chậm tiến độ (hiện tại mới xong
trạm biến áp) nên sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa người dân đã chuyển đổi sang
trồng cây ăn quả trên diện tích đã được quy hoạch để sản xuất rau an toàn ứng dụng
công nghệ cao.
+ Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn ứng dụng công nghệ cao (nhà lưới,
nhà màng, tưới tự động...) đã được phê duyệt nhưng không có hướng dẫn và quy
chế rõ ràng từ công tác quản lý, quy trình đầu tư sản xuất đến bao tiêu sản phẩm.
+ Chưa có liên kết đặc biệt là liên kết trong tiêu thụ sản phẩm nên các hộ sản
tham gia sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm ổn định dẫn đến hiệu quả thấp. Do
đó họ đã chuyển sang trồng cây ăn quả để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
85
Hộp 4.1. Dự án sản xuất rau an toàn áp dụng công nghệ cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc
Oai, Thành phố Hà Nội
Năm 2016, xã Tân Phú được Thành phố Hà Nội và huyện Quốc Oai phê duyệt và hỗ
trợ đầu tư dự án “Xây dựng công trình để phục vụ cánh đồng rau an toàn ứng dụng CNC”. Dự
án do UBND huyện làm chủ đầu tư với tổng kinh phí là 16 tỷ đồng gồm 2 km đường giao
thông, nhà máy cấp nước, 1 trạm biến áp điện một số ống chính dẫn đến các vùng sản xuất rau
an toàn với diện tích đã được quy hoạch khoảng 57,2 ha trên địa bàn xã Tân Phú. Đến tháng 8
năm 2016, thực hiện Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 16/8/2016 của UBND huyện Quốc
Oai, xã Tân Phú quy hoạch xây dựng một điểm vùng sản xuất RAT tập trung tại xứ đồng
Chùa Riền với diện tích 1,5 ha. UBND xã đã triển khai thực hiện Kế hoạch, tuyên truyền, vận
động nhân dân triển khai thực hiện dư án. Chỉ đạo HTX nông nghiệp thành lập Tổ sản xuất để
điều hành. Các thành viên là cán bộ HTX nông nghiệp và 14 hộ dân ký cam kết thực hiện. Cơ
bản các hộ đều đồng tình thực hiện và kí cam kết theo chủ trương của UBND xã và UBND
huyện. Hệ thống nhà lưới của mô hình 1,5 ha đã được huyện hỗ trợ kinh phí 40% (tương
đương với 925 triệu), phần còn lại (chủ yếu là thiết bị phục vụ cho canh tác) tương ứng với
60% do các hộ dân đóng góp. Tuy nhiên, hiện nay việc sản xuất rau an toàn trong khu vực
nhà lưới đã được xây dựng cũng không được thực hiện do các hộ không đóng góp kinh phí
đầu tư và không có thị trường đầu ra cho sản phẩm. Phần diện tích còn lại trong tổng diện tích
57,2 ha đã được quy hoạch để sản xuất rau an toàn ứng dụng CNC các hộ đã chuyển sang
trồng cây ăn quả. Diện tích nhà lưới đã được xây dựng (1,5 ha) xã đã giới thiệu một vài công
ty về liên kết để tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, các hộ có đất không muốn cho thuê hoặc cho
thuê với giá rất cao nên việc liên kết cũng không thực hiện được. Hiện tại UNBD xã đã tiến
hành lấy ý kiến, 14/14 hộ thuộc khu nhà lưới 1,5 ha không đồng ý tiếp tục dự án thí điểm
(Nguồn: Kết quả trao đổi với lãnh đạo xã Tân Phú, huyện Quốc Oai, tháng 03/2020).
4.2. Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội đối với phát
triển nông nghiệp công nghệ cao
4.2.1. Thực trạng việc ban hành quy hoạch, chương trình và mục tiêu phát
triển nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội
Trong thời gian qua, tất cả các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn của Hà Nội đều đề cập đến mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao
và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là trong bối cảnh mới khi
diện tích đất nông nghiệp ngày càng có xu hướng bị thu hẹp, và nhu cầu tiêu dùng
thực phẩm sạch có chất lượng cao ngày càng tăng. Các chủ trương, chính sách của
thành phố Hà Nội có đề cập đến mục tiêu thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao bao gồm:
86
- Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ban hành ngày 26 tháng 4
năm 2016 về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống
nông dân giai đoạn 2016-2020”. Trong Chương trình này, mục tiêu về phát triển
nông nghiệp có đề cập đến “chú trọng phát triển các mô hình nông nghiệp hiện đại,
ứng dụng công nghệ cao; phấn đấu đưa tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp công
nghệ cao từ 25% lên 35% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của Thành phố”
vào năm 2020. Chương trình 02 của Thành Ủy cũng đề cập đến nhiệm vụ và giải
pháp trọng tâm để thu hút đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công
nghệ cao đó là “tổ chức thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cơ chế chính sách của Trung
ương và Thành phố về hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, và cá nhân
đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp”. Trong Báo cáo “Tổng kết 10 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới và Chương trình số 02-
CTr/TU”, Thành ủy đã đề ra định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà
Nội trong thời gian tới, trong đó “chú trọng phát triển các mô hình sản xuất nông
nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao”.
- Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 5 tháng 4 năm 2012 của Hội đồng
nhân dân Thành phố Hà Nội về “Quy hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà
Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã đưa ra quan điểm phát triển liên
quan đến nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao đó là “Phát triển nông nghiệp theo hướng hình thành các vùng sản xuất hàng hóa
tập trung chuyên canh và các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” và đưa ra
định hướng đến năm 2030 là “tăng nhanh diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao”. Ngày 4 tháng 5 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Phê
duyệt quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm
2020, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 575/QĐ-Ttg ngày 04 tháng 05
năm 2015. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, Thành phố tiếp
tục xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao (Quyết định số 7110/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 phê duyệt chương
trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội, giai đoạn
2016-2020).
Trên cơ sở các quy hoạch, chương trình, chính sách HĐND Thành phố ban
hành, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện
chính sách, trong đó giao cho sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đầu mối, là cơ
quan thường trực triển khai thực hiện công tác quản lý nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, UBND các huyện, các sở, ngành là cơ quan phối hợp tổ chức
87
thực hiện triển khai tổ chức sản xuất, tuyên truyền, thực hiện các cơ chế hỗ trợ theo
chính sách đã ban hành; các doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân thụ hưởng chính sách
phối hợp triển khai sản xuất, hoàn thiện các thủ tục hành chính để nhận hỗ trợ… cụ thể
chi tiết, trình tự, thủ tục thực hiện như sau:
- Tổ chức công bố công khai quy hoạch đến UBND các cấp, cụm dân cư nông
thôn, các đối tượng chịu sự tác động, ảnh hưởng của quy hoạch, chương trình.
- UBND Thành phố ban hành kế hoạch, hướng dẫn tổ chức thực hiện quy
hoạch chương trình, trong đó giao sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan
chủ trì, thường trực được UBND Thành phố giao và chịu trách nhiệm tham mưu,
hướng dẫn, tổ chức, thực hiện phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn
Thành phố.
- Trên cơ sở quy hoạch, hướng dẫn của sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, UBND các cấp triển khai công tác quy hoạch, chương trình phát triển nông
nghiệp đến UBND các xã, các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, HTX trong việc
triển khai, thực hiện quy hoạch.
- Trên cơ sở quy hoạch, định kỳ, đột xuất, sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, chương trình, đánh giá tiến độ thực hiện quy
hoạch, chương trình, xử lý các vi phạm theo quy định.
Giai đoạn từ 2012 – 2018, HĐND thành phố đã ban hành 05 Nghị quyết ban
hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao:
Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 về thí điểm một số chính sách
khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà
Nội; số 25/2013/NQ-HĐND ngày 04/12/2013 về Chính sách khuyến khích vùng sản
xuất chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2020; số 03/2015/NQ-
HĐND ngày 08/7/2015 về số chính sách thực hiện Chương trình phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020; số
17/2015/NQ-HĐND ngày 02/12/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết
số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 về thí điểm một số chính sách khuyến khích
phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội; Số
10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 về một số chính sách khuyến khích phát triển
sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội.
Có thể thấy kết quả thực hiện qui hoạch qua các năm như sau: số lượng khu
nông nghiệp CNC của Hà Nội đã tăng dần qua các năm. Trong khi năm 2015 Hà Nội
88
mới chỉ có 01 Khu nông nghiệp công nghệ cao với diện tích 96,6 ha phục vụ trồng trọt
(rau, hoa, cây cảnh), nuôi thủy sản (cá nước ngọt) ở huyện Đông Anh. Đến năm 2017,
UBND TP. Hà Nội ban hành Công văn số 4203/UBND-KT đề nghị Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn bổ sung 07 Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa
bàn Thành phố, và tính đến hiện tại, Thành phố Hà Nội đã quy hoạch được 9 Khu sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao. Mới nhất vào sáng 27/6/2020, UBND Thành phố Hà
Nội đã trao biên bản ghi nhớ đầu tư Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao TH Hà
Nội cho Công ty cổ phần Tập đoàn TH. Theo đó, trong giai đoạn 2020-2022, Công ty
cổ phần Tập đoàn TH sẽ nghiên cứu, xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao tại
khu vực bãi bồi sông Đáy; bãi bồi ven sông và cù lao sông Hồng qua địa phận các
huyện: Phúc Thọ, Đan Phượng, Mê Linh và các quận: Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Long
Biên và Hoàng Mai.
Bảng 4.5: Kết quả qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC ở Hà Nội
STT
Nội dung
Năm 2015
Năm 2017
Năm 2020
1
1
8
9
Số lượng khu nông nghiệp ứng
dụng CNC được qui hoạch
2
1
Số lượng chương trình nông nghiệp
CNC của Hà Nội được phê duyệt
- 1 khu nông nghiệp CNC
- 1 trạm thực nghiệm giống cây
- 1 trung tâm giống thủy sản
3
82
106
164
Số lượng dự án, mô hình nông
nghiệp CNC của Hà Nội được phê
duyệt
Nguồn: Tổng hợp theo báo cáo cuả Sở NN&PTNT Hà Nội, 2020
Trên cơ sở Nghị quyết của HĐND Thành phố, UBND Thành phố đã ban hành
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết, các chính sách mà
HĐND Thành phố đã ban hành. UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số
7110/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông
nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu phát triển
nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2020 đưa vào hoạt động 01 khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, 1 Trung tâm giống thủy sản công nghệ cao, 01 trạm Thực nghiệm
sản xuất giống cây trồng công nghệ cao..; phát triển sản xuất rau ứng dụng công nghệ
cao đạt từ 300 ha trở lên, phát triển sản xuất hoa ứng dụng công nghệ cao đạt 300 ha,
phát triển sản xuất cây ăn quả ứng dụng công nghệ cao đạt 460 ha, phát triển sản xuất
chè ứng dụng công nghệ cao đạt 250 ha, phát triển chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao
có 06 khu chăn nuôi gia cầm, 04 khu chăn nuôi lợn, 01 khu chăn nuôi bò thịt, 02 khu
chăn nuôi bò sữa, phát triển thủy sản ứng dụng công nghệ cao với 03 cơ sở sản xuất
89
giống, 350 ha nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao,…với tổng vốn đầu tư thực hiện
chương trình 8686,1 tỷ đồng,…
Theo ông Tạ Văn Tường, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Hà Nội, quy hoạch các Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là một trong các
chiến lược hàng đầu để thúc đẩy và phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội.
Chi tiết các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã được quy hoạch trên địa bàn
Hà Nội được trình bày trong Bảng dưới đây. Như vậy so với quy hoạch ban đầu (96,6
ha), diện tích đất được đưa vào quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ
cao của Hà Nội tăng thêm 1.532 ha và cao gấp gần 17 lần so với quy hoạch ban đầu.
Đây là sự nỗ lực của UBND thành phố trong việc rà soát, đảm bảo quỹ đất cho phát
triển nông nghiệp công nghệ cao.
Mặc dù đã quy hoạch được 9 Khu nông nghiệp CNC, nhưng trong đến tháng
9/2020 ở Hà Nội chưa có Khu nông nghiệp CNC nào đi vào vận hành. Chính điều này
đã hạn chế khả năng phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội.
Bảng 4.6. Diện tích đất các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được quy
hoạch trên địa bàn Hà Nội tính đến năm 2020
STT
Địa bàn
Diện tích
(ha)
1
96,6 Huyện Đông anh, Thàn phố Hà Nội
2
668
3
76
Địa phận xã An Thượng và xã
Song Phương, huyện Hoài Đức
Vùng đất bãi sông Đáy,
phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông
4
105
Vùng bãi ven sông Hồng thuôc
xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh
5
33
Xã Song Phượng và
xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng
6
200 Xã Hiệp Thuận, huyện Phú Thọ
7
80 Xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây
8
70
Xã Thanh Xuân và xã Tân Dân, huyện
Sóc Sơn
9
300 Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
Tên khu sản xuất nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao
Khu nông nghiệp ứng ụng công nghệ cao (rau,
hoa, cây cảnh, nuôi cá nước ngọt)
Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tại huyện hoài đức
Khu sản xuất, dịch vụ ứng dụng công nghệ cao
phường Yên Nghĩa ( quận Hà Đông
Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tại vùng Ven sông Hồng thuộc xã Hoàng
Kim, huyện Mê Linh
Khu nghiên cứu và phát triển giống cây trông
công nghệ caol; Khu sản xuất nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao
Khu sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch sinh
thái tại xã Hiệp Thuận (huyện Phú Thọ
Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao tại xã Kim sơn (thị xã Sơn Tây)
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại
Sóc Sơn
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại
Ba Vì
1.628,6
Tổng cộng
Nguồn: Công văn số 4203/UBND-KT năm 2017 của UBND Thành phố Hà Nội, và tổng hợp
của tác giả năm 2020
90
Theo kết quả khảo sát đối với cán lãnh đạo và cán bộ phụ trách nông nghiệp của
các huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tích tụ ruộng đất và tạo quỹ đất sạch là các
yếu tố rất quan trọng để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao. Tuy nhiên, theo Sở NN&PTNT Hà Nội, hầu như hiện nay các địa phương vẫn gặp
rất nhiều khó khăn trong công tác tích tụ đất đai và vẫn đang phải loay hoay tìm quỹ
đất. Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, huyện Sóc
Sơn cũng mạnh dạn đăng ký làm nông nghiệp công nghệ cao, nhưng khi một số doanh
nghiệp vào đầu tư cần quỹ đất thì lại rất khó huy động. Mới đây có doanh nghiệp đăng
ký đầu tư vùng trồng dược liệu diện tích 30 – 35 ha, nhưng trong vòng 3 tháng, huyện
cử cán bộ xuống lăn lộn tại các xã, song vẫn không gom đủ 35 ha. Trong thực tế nhiều
xã trên địa bàn huyện có vị trí giáp với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh tuy ruộng đất để
không nhưng khi doanh nghiệp vào để thuê đất sản xuất lại không đồng ý.
Cũng theo báo cáo của Sở NN&PTNT Hà Nội, tại xã Tam Thuấn, huyện Phúc
Thọ, theo quy hoạch xây dựng nông thôn mới, địa phương đã xây dựng vùng trồng hoa
ly 5 ha, vùng cây ăn quả hơn 100 ha. Tuy nhiên, khi mời gọi doanh nghiệp đầu tư phát
triển nông nghiệp CNC rất khó khăn, có doanh nghiệp đã đề nghị thuê 10ha đất của xã
để đầu tư nhưng được nửa chừng thì bỏ dở, một phần do vướng mắc trong khâu tích tụ
ruộng đất. Theo các địa phương, qua quá trình triển khai thực tế, việc tìm được quỹ đất
sạch để sản xuất nông nghiệp CNC theo đề nghị của các nhà đầu tư là hết sức khó
khăn nếu không có cơ chế tháo gỡ. Trong khi đó, do ruộng đất manh mún, khi tuyên
truyền, vận động được người dân đồng ý dồn ghép để cho thuê song theo quy định của
pháp luật về đất đai hiện nay chỉ được ký hợp đồng cho thuê đất trong thời hạn 5 năm.
Thời gian thuê đất ngắn khiến cho doanh nghiệp không không mặn mà đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao.
Như vậy, mặc dù mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội đã
được xác định rất cụ thể thông qua chỉ tiêu tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp công
nghệ cao cho từng giai đoạn (35% vào năm 2020, tối thiểu 50% vào năm 2025, và tối
thiểu đạt 70% vào năm 2030), và chủ trương “tăng nhanh diện tích sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao” trong các qui hoạch và chương trình đã công bố. Tuy
nhiên, các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội phần
lớn mới chỉ đề cập đến mục tiêu “phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC” một cách
chung chung mà chưa đề cập đến các mục tiêu cụ thể. Bên cạnh đó, các chủ trương,
chính sách của Hà Nội cũng chưa xác định rõ lĩnh vực nào (trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản, chế biến nông sản...) là lĩnh vực ưu tiên để phát triển. Các mục tiêu hiện còn
91
chung chung cho rất nhiều đối tượng bao gồm: doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,
trang trại, hộ gia đình... mà chưa xác định rõ mục tiêu ưu tiên phù hợp với các chương
trình quốc gia, quy hoạch vùng ứng dụng công nghệ cao đã được công bố.
Kết quả khảo sát thực tế tại địa phương về mức độ phù hợp của quy hoạch,
chương trình và chính sách đã ban hành được thể hiện qua bảng 4.7. Kết quả này cho
thấy, về quy hoạch phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội, số
người được hỏi trả lời đã biết và được phổ biến chiếm đến 72,9%, chỉ có 27,8 % người
được hỏi khẳng định không được biết về qui hoạch và các chính sách. Tuy nhiên, chỉ
có 20% ý kiến đánh giá các qui hoạch này là phù hợp; 38% ý kiến cho rằng chưa phù
hợp và 42% có ý kiến khác. Điểm đánh giá trung bình cho mức độ phù hợp là 2.25/5
điểm là điểm đánh giá ở mức độ không phù hợp thấp. 72% số người được hỏi cho rằng
cần điều chỉnh qui hoạch này để có mức độ phù hợp cao hơn.
Bảng 4.7. Kết quả khảo sát ý kiến doanh nghiệp, HTX, người dân về quy hoạch,
chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội
Ghi chú
STT
1. Nội dung đánh giá
Qui hoạch phát
triển NN CNC
Chương trình
phát triển NN
CNC
1
%
%
Được phổ biến và biết về QH/CT
Được phổ biến, đã biết
72,9
93.6
Không được biết
27,8
6.4
2
100%
100%
Mức độ phù hợp
Phù hợp
20,0%
37,2%
Không phù hợp
38,0%
36,8%
Ý kiến khác
42,0%
33,2%
2.25
2.47
Điểm trung bình
3
%
%
Ý kiến đề xuất thay đổi
Cần điều chỉnh
72,0
55,2
Giữ nguyên
28,0
44,8
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2019
Về chương trình phát triển nông nghệ cao, có 93,6% người được hỏi trả lời đã
được phổ biến và đã biết, chỉ có 6.4% trả lời là chưa được biết. Điểm đánh giá mức độ
phù hợp có nhỉnh hơn chút so với qui hoạch phát triển nông nghiệp và đạt điểm trung
bình là 2,47 (mức độ không phù hợp thấp). Và chỉ có 36,8% số người được hỏi đánh
giá là chương trình chưa phù hợp, 33,2% có ý kiến khác nhưng 55,2% số người được
hỏi cho rằng cần phải điều chỉnh chương trình này.
92
4.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp
công nghệ cao của Thành phố Hà Nội
Trong thời gian qua, Thành phố Hà Nội đã vận dụng các chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước cũng như các chính sách riêng của Thành phố để cải thiện
môi trường đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các chính
sách hỗ trợ của Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao tập trung vào
các khía cạnh chủ yếu như chính sách đất đai, chính sách khơi thông nguồn vốn, ưu
đãi tín dụng nhằm hỗ trợ vốn cho phát triển, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát
triển nông nghiệp CNC, chính sách hỗ trợ đào tạo cho nhân lực cho phát triển nông
nghiệp công CNC .v.v.v
4.2.2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách liên quan đến đất đai
Các chủ trương, chính sách hỗ trợ liên quan đến đất đai để phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội tập trung chủ yếu vào các khía cạnh: (1)
Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho các dự án nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao;(2) Vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất cho dự án nông nghiệp công nghệ
cao; (3) Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao. Các hỗ trợ cho doanh nghiệp liên quan đến miễn, giảm
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; tích tụ, tập trung đất đai được thực hiện theo Nghị định
số 57/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 04 năm 2018. Cụ thể như sau:
- Chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho các dự án nông
nghiệp CNC
Vấn đề liên quan đến miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước
được quy định chi tiết tại Điều 6, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP. Doanh nghiệp đầu tư
vào dự án nông nghiệp thuộc diện khuyến khích đầu tư thì dự án đó được miễn tiền
thuê đất, thuê mặt nước trong 11 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt
nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 5 năm tiếp theo (Khoản 4, Điều
6, Nghị định 57/2018/NĐ-CP). Kết quả cho thấy, đã có một vài mô hình nông nghiệp
CNC đã thành công tại một số huyện, trong đó có vai trò đóng góp của đất công. Theo
bà Dương Thị Thu Huệ, Giám đốc Công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh
Cao, huyện Mỹ Đức (phỏng vấn ngày 13/3/2020), công ty có thể yên tâm mở rộng đầu
tư sản xuất và đạt được kết quả như hiện tại một phần là do công ty đã thuê được diện
tích đất công của huyện (trước đây là trại dâu tằm của huyện Mỹ Đức). HTX Hoa lan
công nghệ cao Đan Hoài tại xã Phương Đình, huyện Đan Phượng hiện đang có kết quả
93
sản xuất tương đối tốt với doanh thu hàng năm từ 4-5 tỷ đồng và tạo việc làm ổn định
cho khoảng 30 lao động với thu nhập từ 5-7 triệu đồng/tháng. Theo ông Nguyễn Viết
Đạt, Trưởng phòng Kinh tế huyện Đan Phượng, (phỏng vấn ngày 07 tháng 03 năm
2020), hiện nay công ty tiếp tục yên tâm để mở rộng quy mô đầu tư do công ty được
thuê ổn định lâu dài đối với diện tích đất công trước đây là Trại chăn nuôi của huyện.
Mặc dù đã có cơ chế miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhưng trong
thực tế các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao rất khó nhận được hỗ
trợ này do việc miễn, giảm tiền thuê chỉ áp dụng đối với diện tích đất của Nhà nước
(đất công). Thực tế khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông
nghiệp CNC cũng rất khó tiếp cận được với quỹ đất công do vướng mắc về các thủ
tục và quy định hành chính liên quan đến vấn đề này. Những diện tích đất và mặt
nước của Nhà nước mà doanh nghiệp có thể tiếp cận bao gồm hai nguồn chính: diện
tích đất bãi ven sông, đất 5% (đất quỹ 2) tại các địa phương sau khi đã thực hiện dồn
điền đổi thửa.
Kết quả khảo sát tại các huyện có nhiều đất bãi ven sông (Mê Linh, Đan
Phượng) cho thấy, đối với các vùng đất bãi ven sông các doanh nghiệp có dự án đầu tư
vào nông nghiệp CNC cũng khó có cơ hội tiếp cận do đất bãi ven sông do những diện
tích này thường nằm trong các vùng quy hoạch thoát lũ nên không được phép xây
dựng cơ sở hạ tầng, trong khi nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải đầu tư, xây
dựng rất nhiều các hạng mục công trình. Các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông
nghiệp CNC có thể tiếp cận quỹ đất nông nghiệp 5% tại các huyện thông qua hình
thức đấu thầu. Tuy nhiên, thời gian cho thuê đất nông nghiệp 5% tại các huyện chỉ tối
đa là 5 năm ( Theo quy định tại Điểm c, Điều 5, Quyết định số 04/2017/QĐ-UBND
của UBND Thành phố Hà Nội ngày 24 tháng 02 năm 2017 Ban hành quy định về đấu
giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa
bàn Thành phố Hà Nội) và chỉ ưu tiên quyền đấu thầu cho các hộ gia đình tại địa
phương (Khoản 2, Điều 72, Luật đất đai 2013). Chính những điều này đã hạn chế cơ
hội đầu tư của các doanh nghiệp và cá nhân vào nông nghiệp công nghệ cao.
94
Hộp 4.2. Quy định về đấu thầu quỹ đất công đã hạn chế cơ hội đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao của các cá nhân, tổ chức
Năm 2019 Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và phát triển Hòa Phú Xanh (có trụ sở tại
quận Hà Đông) về tìm hiểu và lập dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa
bàn huyện Thanh Oai. Công ty đã làm việc nhiều lần với huyện, đã lập được dự án và rất
có thiện chí để đầu tư vào mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, khi
tham gia đấu thầu quỹ đất công tại xã Tam Hưng Công ty Hòa Phú Xanh lại không trúng
thầu do quy định là ưu tiên cho người tại địa phương. Trong khi đó, cá nhân trúng thầu là
người địa phương sau khi trúng thầu lại không tiến hành các hoạt động theo cam kết. Vì
vậy, cần thay đổi quy định ưu tiên người đấu thầu quỹ đất công là người địa phương để
thu hút được các cá nhân, tổ chức có điều kiện đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao
(Kết quả trao đổi với lãnh đạo Phòng Kinh tế, huyện Thanh Oai, tháng 03 năm 2020).
- Chính sách hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất cho dự án nông nghiệp CNC
Các quy định hỗ trợ doanh nghiệp tập trung, tích tụ đất đai được vận dụng theo
quy định chi tiết tại Điều 6, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính
phủ về “Cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn”. Chủ trương tích tụ, tập trung đất đai để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn đã được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản chính sách của
các cấp chính quyền tại Hà Nội. Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân giai đoạn 2011-2015 (Chương
trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội) và Chương trình phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân giai
đoạn 2016-2020 (Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội)
đã đề ra rất nhiều các nhiệm vụ giải pháp trọng tâm trong đó có đề cập tới “Rà soát, bổ
sung và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nông dân dồn
điền, đổi thửa, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp”. “Xây dựng và ban hành các
chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nông dân dồn điền, đổi thửa, đầu tư vào nông
nghiệp” cũng được coi là một trong các giải pháp chủ yếu được xác định trong “Quy
hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm
2030” theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 của Hội đồng nhân dân
Thành phố Hà Nội.
Bên cạnh đó, “Chính sách khuyến khích thực hiện dồn điền, đổi thửa” được
quy định rất chi tiết tại Khoản 12, Điều 1, Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND, cụ thể
như sau:
95
+ Ngân sách Thành phố hỗ trợ toàn bộ chi phí đo đạc, cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa, chi phí xây dựng bản đồ, quy hoạch đồng
ruộng, quy hoạch hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng cho các hộ gia đình cá nhân
theo định mức quy định của Nhà nước.
+ Mức hỗ trợ Ban chỉ đạo cấp xã, thôn kinh phí hoạt động, kinh phí tổ chức hội
họp tuyên truyền là 1.000.000 đồng/ha từ nguồn ngân sách Thành phố.
+ Ngân sách của Thành phố hỗ trợ 50% để bổ sung cho ngân sách cấp huyện để
thực hiện hỗ trợ 70% kinh phí đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng khi thực hiện dồn
điền đổi thửa (20% còn lại do ngân sách huyện đảm bảo).
+ Ngân sách cấp Thành phố hỗ trợ 80% cấp bổ sung có mục tiêu cho ngân sách
cấp huyện để thực hiện hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật tư (khối lượng vật tư được
tính theo định mức kỹ thuật quy định của Nhà nước) khi thực hiện kiên cố hóa đường
giao thông, hệ thống kênh, mương, thủy lợi nội đồng. (20% còn lại ngân sách cấp
huyện đảm bảo).
Sự phù hợp
Biết đến chính sách
Người dân được thụ
hưởng chính sách
TT
Nội dung
Tổng
số
Tỷ lệ
Số phiếu
trả lời có
Số phiếu
trả lời có
Tỷ lệ
(%)
Kết luận về
sự phù hợp
Điểm
đánh giá
(%)
145
102
70,3%
96
66,2%
2,65
Trung bình
1
Chính sách miễn
giảm tiền sử dụng
đất, cho thuê đất
145
125
86,2%
65
44,8%
2,41
Thấp
2
Chính sách tích tụ và
tập trung ruộng đất
3
145
100
68,9%
32
22%
2.51
Thấp
Qui hoạch các vùng
sản xuất nông nghiệp
CNC tập trung
Bảng 4.8: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận các
chính sách liên quan đến đất đai để phát triển nông nghiệp CNC
2,51
Đánh giá chung về chính sách hỗ trợ về đất đai
Thấp
Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019
Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 70,3% số người được hỏi biết đến chính sách
miễn giảm tiền sử dụng đất và có 66,2% số người được hỏi đã được thụ hưởng lợi ích
từ chính sách này nên điểm đánh giá mức độ phù hợp của chính sách ở mức trung bình
(2,65 điểm). Trong khi đó chính sách tích tụ tập trung ruộng đất để phát triển nông
96
nghiệp CNC qua dồn điền đổi thửa có đến 86,2% người được hỏi biết và được tuyên
truyền về chính sách (một tỷ lệ rất cao) tuy nhiên chỉ có 44,8% số người được hỏi
được thụ hưởng chính sách. Mức độ phù hợp của chính sách tích tụ và tập trung ruộng
đất được đánh giá ở mức thấp (chỉ 2,41 điểm), dẫn đến mức độ đánh giá chung về
chính sách hỗ trợ về đất đai có sự phù hợp cũng ở mức 2,51 điểm là mức thấp.
Mặc dù có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ cho tích tụ, tập trung đất đai để
tạo tiền đề phát triển nông nghiệp CNC, tuy nhiên kết khảo sát đối với cán bộ phụ trách
nông nghiệp tại các huyện cũng cho thấy, do có một số vướng mắc theo quy định trong
Luật đất đai năm 2013 nên đề án tập trung và tích tụ đất đai trên địa bàn Hà Nội vẫn
chưa thực hiện xong do còn thiếu các hướng dẫn cụ thể. Không chỉ riêng Hà Nội, theo
thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Theo quy định Điều 19, Nghị định số
57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn ngày 17/4/2018 của Chính phủ, các địa phương phải ban hành 5 cơ
chế, chính sách để thực hiện. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa phương gửi về Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, đến nay chỉ có 20/63 tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách đặc thù;
và đặc biệt chưa tỉnh, thành phố nào ban hành cơ chế thúc đẩy tập trung đất đai.
Bên cạnh thực hiện các chủ trương, chính sách về hỗ trợ tích tụ, tập trung đất
nông nghiệp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC nhằm phát triển
nông nghiệp CNC, các cấp chính quyền của Hà Nội đã quy hoạch các khu sản xuất
nông nghiệp công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp tâp trung tại các huyện. Kết
quả khảo sát cho thấy, tất cả các huyện sản xuất nông nghiệp của Thành phố Hà Nội
đã đều quy hoạch và xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Đây có thể
được coi là bước chuẩn bị ban đầu để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Trên thực tế, Luật Đất đai năm 2013 gặp nhiều vướng mắc trong triển khai thực
hiện, nhất là về gia tăng khả năng tích tụ đất đai. Theo quy định của Luật đất đai năm
2013, tổ chức kinh tế phi nông nghiệp không được nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp. Bên cạnh đó, việc sử dụng cũng đang bị giới hạn do mức hạn điền, gây không
ít cản trở cho sự phát triển thị trường sử dụng đất đai và từ đó hạn chế phát triển nông
nghiệp và nông nghiệp CNC.
Rõ ràng, môi trường đầu tư liên quan tới đất đai để đáp ứng yêu cầu phát triển
nông nghiệp CNC tại Hà Nội vẫn chưa được cải thiện bởi những vướng mắc về hướng
dẫn thi hành Luật đất đai, nhất là tích tụ và tập trung đất, tạo lập quỹ đất sạch để doanh
nghiệp và các tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC yên tâm đầu tư.
97
4.2.2.2. Thực trạng thực hiện các chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng để phát
triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội
Tại Hà Nội, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp được đề cập trong rất
nhiều các văn bản chính sách của các cơ quan các cấp và được coi là một trong các
chính sách cơ bản để phát triển nông nghiệp CNC. Kết quả khảo sát tại các huyện của
Hà Nội cho thấy, nhằm phát triển nông nghiệp CNC, thành phố Hà Nội đã có nhiều
chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC. Theo đó, các
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC tùy vào lĩnh vực đầu tư sẽ nhận được các
hỗ trợ về cơ sở hạ tầng theo quy định tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018
của Chính phủ. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội đã ban hành
nhiều các chủ trương, chính sách trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của việc hỗ trợ đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn và nông nghiệp CNC.
“Quy hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030” được ban hành theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày
05/4/2012 của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội đã xác định “Đầu tư xây dựng các
công trình hạ tầng phục vụ sản xuất: thủy lợi, giao thông nội đồng, cơ sở sản xuất
giống,... chú ý đến cơ sở hạ tầng trong các khu sản xuất tập trung” là một trong các giải
pháp chủ yếu, quan trọng để thực hiện quy hoạch. Thành phố Hà Nội cũng thực hiện hỗ
trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã, hộ gia đình, cá
nhân có diện tích đang sản xuất trong vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung
tại Khoản 5, Điều 1, Nghị quyết số 25/2013/NQ-HĐND ngày 04/12/2013 của HĐND
Thành phố Hà Nội, bao gồm:
+ Hỗ trợ một lần kinh phí khoan giếng, đào giếng lấy nước tưới cho cây trồng,
mức hỗ trợ tối đa không quá 10 triệu đồng/ha.
+ Hỗ trợ một lần kinh phí mua thùng chứa vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật (định
mức 02 thùng/ha); thực hiện hỗ trợ 100% trong năm đầu tiên và 70% năm thứ hai).
+ Hỗ trợ một lần kinh phí khi xây dựng công trình xử lý chất thải trong chăn
nuôi đáp ứng yêu cầu, quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường theo quy định (mức hỗ trợ
300.000 đồng/01 đầu gia súc).
+ Hỗ trợ một lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng nước nuôi trồng
thủy sản, mức hỗ trợ tối đa không quá 15 triệu đồng/ha.
98
Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08/7/2015 của HĐND Thành phố Hà
Nội quy định chi tiết các nội dung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình có dự án đầu tư sản xuất trong,
khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được cơ quan có thẩm quyền thẩm định hoặc
phê duyệt. Những hỗ trợ liên quan đến cơ sở hạ tầng cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao được quy định trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND bao
gồm: (1) Hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp tiêu nước; (2)
Hỗ trợ chi phí khoan giếng cấp nước tưới, xử lý môi trường.
Trong Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 của HĐND Thành
phố Hà Nội, nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác, trang trại, hộ gia đình đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng được quy định
chi tiết tại Điểm 2, Khoản 11, Điều 1, cụ thể như sau:
+ Hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp, tiêu nước
trong vùng, khu sản xuất nông nghiệp CNC được cơ quan có thẩm quyền thẩm định
hoặc phê duyệt.
+ Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật tư, nguyên vật liệu xây dựng theo định
mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành đối với từng loại, cấp công trình.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ là yếu tố quan trọng để phát triển nông
nghiệp theo hướng hiện đại, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và
thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp CNC. Mức độ thụ hưởng về hỗ trợ
xây dựng hạ tầng là những hỗ trợ thực tế mà các đối tượng như doanh nghiệp, HTX,
hộ gia đình nhận được bao gồm đường điện, giao thông, hệ thống cấp thoát nước, xử
lý chất thải và chất lượng các công trình này. Thời gian qua, các huyện trên địa bàn
thành phố đã lồng ghép nguồn lực từ các chương trình, dự án trên địa bàn, đẩy mạnh
thực hiện xã hội hóa trong huy động nguồn lực thông qua việc huy động đóng góp của
nhân dân, từ khai thác quỹ đất và các doanh nghiệp để có nguồn vốn đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng nông nghiệp.
Các địa phương đã hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho các doanh nghiệp, HTX, hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ xây dựng kho lạnh bảo quản sản phẩm; hỗ trợ
cải tạo, làm đường nội bộ; hỗ trợ vật tư làm nhà lưới, nhà màng; cải tạo hệ thống
mương tưới tiêu, hệ thống trữ nước tưới phục vụ sản xuất, hỗ trợ hệ thống tưới nhỏ
giọt,…Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ đầu tư còn hạn chế.
Đối với các khu trồng rau an toàn, hệ thống kênh mương bê tông, hệ thống thu
gom phế thải, nhà màng, nhà lưới, đường bê tông nội đồng đã được địa phương hỗ trợ
99
cải tạo, xây dựng. Tuy nhiên, một số hạng mục hạ tầng cho tiêu thụ như nhà sơ chế,
chợ lại chưa được quan tâm đầu tư hỗ trợ nhiều. Qua khảo sát, chỉ có số ít các hộ sản
xuất được huyện hỗ trợ đầu tư nhà lạnh bảo quản sản phẩm. Hệ thống tưới nước tiết
kiệm chủ yếu các gia đình tự khoan giếng. Một số mô hình trồng rau an toàn đã được
hỗ trợ đầu tư xây dựng trạm bơm khai thác nước ngầm có hệ thống xử lý nước đạt
chuẩn, hệ thống đường ống chính, nhánh, chờ tại các đầu khu ruộng tuy nhiên công tác
quản lý, vận hành hiệu quả trạm bơm chưa hiệu quả, hoặc không còn quản lý dẫn đến
tình trạng các trạm bơm ngừng hoạt động.
Đối với các hộ chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, một số địa phương có đầu tư
hệ thống cấp thoát nước và xử lý môi trường song không phải phục vụ riêng cho khu
chăn nuôi tập trung mà hệ thống đó sử dụng cho cả sinh hoạt và sản xuất chung của
toàn địa phương điều đó cho thấy rất khó khăn trong công tác kiểm soát chất lượng
môi trường và diễn biến dịch bệnh nếu có dịch xảy ra.
Về cơ bản, hầu hết việc xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ chăn nuôi tập
trung như hàng rào bao quanh, phần đường nội bộ, hệ thống điện, hệ thống cấp thoát
nước và xử lý môi trường,..là do người dân tự đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, chất
lượng xây dựng các công trình chưa cao, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phục
vụ phát triển chăn nuôi quy mô lớn. Trong kế hoạch tái cơ cấu ngành Nông nghiệp
Hà Nội giai đoạn 2019-2020, thành phố dành hơn 204 tỷ đồng hỗ trợ chương trình
nông nghiệp CNC.
Mặc dù đã Thành phố Hà Nội có chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các
cơ sở đầu tư vào nông nghiệp CNC, tuy nhiên kết quả khảo sát thực tế cho thấy tỷ lệ số
cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC biết đến chính sách và tỷ lệ số cơ sở đã nhận
được hỗ trợ từ chính sách này còn thấp. Điều này cho thấy chính sách hỗ trợ xây dựng
cơ sở hạ tầng cho các cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố
chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Khi đánh giá về mức độ phù hợp của chính sách,
tác giả đã tiến hành phỏng vấn một số cơ sở sản xuất và nhận thấy các hỗ trợ chưa thực
sự phù hợp với các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC quy mô nhỏ bởi khó khăn về thủ
tục giải ngân sau đầu tư. Vì thế, cần có các giải pháp gắn với thủ tục giải ngân thì việc
thực hiện chính sách này mới có hiệu quả.
Mức độ đánh giá về sự phù hợp của chính sách của các hộ gia đình và cơ sở sản
xuất là thấp (2,56) trong khi điểm đánh giá về sự phù hợp của các chính sách này của
cán bộ quản lý các cấp ở mức rất cao (4.3 điểm). Điều này cho thấy sự chênh lệch về
100
quan điểm, cách nhìn cũng như cảm nhận của cán bộ quản lý và người được thủ hưởng
chính sách là rất lớn. Chính sách đi vào thực tiễn còn chậm ảnh hưởng đến sự phát
triển của nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Cụ thể, chính sách hỗ trợ chi phí khoan giếng, xử lý môi trường là rất cần
thiết đặc biệt là tại các vùng sản xuất chuyên canh, phát triển nông nghiệp công
nghệ cao. Người dân, người sản xuất, hộ gia đình, cá nhân… rất quan tâm tìm
hiểu về chính sách và chủ động tiếp nhận, thực hiện. Về mức độ phù hợp của
chính sách thì các hộ gia đình, HTX cho điểm trung bình là 2,54 điểm trong khi
cán bộ quản lý các sở ngành đánh giá mức độ phù hợp ở 4,1 điểm với mức độ
chênh lệch tương đối cao. Người được thụ hưởng chính sách vẫn đánh giá mức độ
phù hợp của chính sách ở mức thấp trong khi cán bộ quản lý nhà nước các cấp lại
đánh giá ở mức cao.
Kết quả khảo sát cho thấy chính sách hỗ trợ 1 lần khoan giếng phục vụ tưới tiêu
có mức độ phù hợp thấp (2,54%) tuy nhiên có 84,8% số người được hỏi biết đến chính
sách và chỉ có 48,9% đước hưởng lợi từ chính sách. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ 1
lần để mua vỏ thùng bảo vệ thực vật có 89,6% số người được hỏi biết đến chính sách
và 61,3% được hưởng lợi từ chính sách, mức độ phù hợp được đánh giá ở mức trung
nình với điểm là 3,2. Đây cũng là chính sách được đánh giá tương đối cao và thể hiện
sự ưa thích của người thụ hưởng chính sách đối với chính sách này.
Chính sách có mức độ phù hợp rất thấp là chính sách hỗ trợ 1 lần 50% chi phí
mua thiết bị làm giàu oxy vùng nuôi trồng thủy sản với điểm đánh giá là 1,75. Chính
sách có tỷ lệ người thụ hưởng ít nhất là chính sách hỗ trợ toàn bộ tiền để mua vật tư
xây dựng theo định mức (chỉ có 31% người được hòi khẳng định đã được thụ hưởng từ
chính sách) và mức độ phù hợp được đánh giá ở mức thấp (2,51). Chính sách hỗ trợ
xây dựng đường giao thông kênh mương cũng có tỷ lệ thụ hưởng 40% và mức độ phù
hợp thấp (2,56 điểm). Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất
thải chăn nuôi cũng có mức độ phù hợp thấp (2,52 điểm), tỷ lệ người biết đến chính
sách ở mức trung bình (56,5%) và tỷ lệ được thụ hưởng chính sách chỉ đạt mức dưới
trung bình là 46,2%.
101
Sự phù hợp
Biết đến chính
sách
TT
Nội dung
Tổng
số
phiếu
Người dân được thụ
hưởng chính sách
Tỷ lệ
Số phiếu
trả lời có
(%)
Điểm
đánh giá
Kết luận về
sự phù hợp
Tỷ lệ
(%)
71
48,9%
84,8%
2,54 mức độ thấp
1
145
Số trả
lời có
123
89,6%
89
61,3%
3,2
Trung bình
2
145
130
56,5%
67
46,2%
2,52
Thấp
3
145
82
60%
55
37,9%
1,75
Rất Thấp
4
145
87
145
78
53,7%
58
40%
2,56
Thấp
5
145
81
55,8%
45
31,0%
2,51
Thấp
6
Chính sách hỗ trợ 1 lần
chi phí khoan/đào giếng
Chính sách hỗ trợ 1 lần
thùng chứa vỏ
mua
bao bì thuốc bảo vệ
thực vật
Chính sách hỗ trợ 1 lần
kinh phí xây dựng
công trình xử lý chất
thải chăn nuôi
Chính sách hỗ trợ 1 lần
50% kinh phí mua
thiết bị làm giàu ôxy
vùng nước nuôi trồng
thủy sản
trợ xây dựng
Hỗ
đường
thông,
giao
kênh mương trục chính
cấp, tiêu nước
Hỗ trợ toàn bộ bằng
tiền để mua vật liệu
xây dựng theo định
mức như nhà
lạnh,
…....
Bảng 4.9. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các
chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển NN CNC
2,56
Đánh giá chung về chính sách hỗ trợ CSHT
Thấp
Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019
Kết quả khảo sát thực tế và phỏng vấn một số cơ sở sản xuất kinh doanh cho
thấy, các chủ trương, chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng để phát triển nông nghiệp CNC
của Thành phố Hà Nội bước đầu đã phát huy tác dụng. Theo ông Trương Cao Sơn,
Giám đốc Công ty TNHH Lạc Hòa, mô hình nông nghiệp CNC kết hợp với du lịch
sinh thái của công ty tại xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất đã được hỗ trợ 70% nguồn
vốn để xây dựng kênh mương trục chính cấp, tiêu nước… Sự hỗ trợ này là nguồn động
viên khích lệ để công ty tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư vào nông nghiệp CNC.
Tại các huyện tiến hành khảo sát, đã có một số huyện cũng tiến hành hỗ trợ xây
dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp CNC. UBND huyện Đan
Phượng đã hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC chẳng
hạn: (1) đầu tư trạm biến áp điện, dây điện, đường nội đồng tại các vùng sản xuất tập
102
trung; (2) hỗ trợ kinh phí (từ 70-100%) để xây dựng kho lạnh bảo quản sản phẩm,
đường nội bộ cho một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Theo chính sách này,
UBND huyện Đan Phượng đã hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng trạm biến áp điện cho
HTX Hoa lan Đan Hoài, hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng kho lạnh để chứa sản phẩm
cho HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ CNC Cuối Quý tại xã Đan Phượng (Kết quả
phỏng vấn ông Nguyễn Viết Đạt, Trưởng phòng Kinh tế huyện Đan Phượng, tháng 03
năm 2020).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, các cơ sở nhận được hỗ trợ về cơ sở hạ tầng
đều sản xuất rất hiệu quả và tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô. Từ khoảng 1.400 m2 và
vốn đầu tư ban đầu khoảng 500 triệu đồng vào năm 2017, đến năm 2020 HTX Rau
CNC Cuối Quý mở rộng quy mô lên thành 5ha và đầu tư 20 nhà màng, nhà lưới
khoảng 11 tỷ đồng. Trong các lý do để HTX quyết định đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất, có một phần xuất phát từ sự hỗ trợ cơ sở hạ tầng của huyện Đan Phượng như hỗ
trợ một phần kinh phí cho xây dựng kho lạnh, đường giao thông trong khu sản xuất.
UBND huyện Đan Phượng hỗ trợ trạm biến áp điện cũng góp phần giúp HTX hoa lan
Đan Hoài yên tâm mở rộng đầu tư sản xuất.
Bảng 4.10. Nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp
công nghệ cao tại một số huyện trên địa bàn Hà Nội
Đan Phượng
Huyện Nội dung hỗ trợ
- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông trong các khu sản xuất nông nghiệp
tập trung
- Hỗ trợ xây dựng trạm biến áp điện cho HTX hoa lan Đan Hoài
- Hỗ trợ xây dựng kho lạnh cho HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ CNC
Cuối Quý
Thường Tín
Quốc Oai - Hỗ trợ xây dựng nhà lưới, trạm biến áp, đường giao thông cho vùng sản
xuất rau an toàn tại xã Tân Phú và xã Nghĩa Hương
- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông vào khu sản xuất rau ăn lá CNC của
HTX SX và dịch cụ nông nghiệp Thanh Hà
- Hỗ trợ kinh phí xây dựng kho lạnh cho HTX sản xuất và dịch vụ nông
nghiệp Thanh Hà
- Hỗ trợ kinh phí mua thiết bị làm mát trong sản xuất nấm CNC cho Công
ty Cổ phần xây dựng và phát triển thương mại Minh Phương
Ứng Hòa
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phỏng vấn cán bộ tại các huyện khảo sát
- Sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng
ban đầu cho các mô hình SX nông nghiệp ứng dụng CNC (30.000 đồng/m2
nhà lưới; 50.000 đồng/m2 nhà màng, và không quá 500 triệu/1 mô hình
103
Huyện Thường Tín còn lồng ghép các chương trình hỗ trợ cho nông nghiệp,
nông thôn của Chính phủ để hỗ trợ cho các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao. UBND huyện đã sử dụng nguồn vốn từ Chương trình Nông thôn mới để hỗ trợ
đầu tư đường giao thông ra các khu sản xuất tập trung, đường giao thông vào khu sản
xuất của HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, xã Ninh Sở, sử dụng nguồn
kinh phí Quỹ khuyến nông (kinh phí hỗ trợ không quá 75 triệu đồng/mô hình) hỗ trợ
kinh phí mua thiết bị làm lạnh phục vụ cho sản xuất nấm của cho Công ty cổ phần xây
dựng và Phát triển thương mại Minh Phương ở xã Hiền Giang; hỗ trợ kinh phí làm kho
lạnh cho HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, xã Ninh Sở (Kết quả phỏng
vấn bà Đặng Thị Thanh Hương, Phó trưởng phòng Kinh tế, huyện Thường Tín, tháng
03/2020).
Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC, UBND huyện Ứng Hòa sử dụng ngân
sách địa phương để hỗ trợ kinh phí (30.000 đồng/m2 nhà lưới, 50.000 đồng/m2 nhà
màng, kinh phí hỗ trợ không quá 500 triệu đồng/mô hình) cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng ban đầu của các mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC. Theo chương trình này,
UBND huyện đã hỗ trợ khoảng 1 tỷ đồng cho mô hình 5.000 m2 trồng rau, dưa lưới
trong nhà kính của nhóm hộ ông Nguyễn Chí Nghĩa tại thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn
Công; hỗ trợ 500 triệu đồng cho Trang trại Minh Châu EcoFarm tại xã Hồng Quang
(Kết quả phỏng vấn bà Đặng Thị Tươi, Trưởng phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa, tháng
03/2020).
4.2.2.3. Thực trạng thực hiện các chính sách ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp
để phát triển nông nghiệp CNC
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có và được hưởng nhiều chính
sách ưu đãi đầu tư nhất hiện nay, cụ thể như: Quyết định 62/2013/QĐ-TTg ngày
25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác,
liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng mẫu lớn; Nghị định
118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Đầu tư. Theo quy định của 02 văn bản này các lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chế biến, bảo quản nông sản... là các lĩnh vực
thuộc danh mục được ưu đãi đầu tư.
Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ thay thế Nghị định 41/2010/NĐ-
CP của Chính phủ quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp
nông thôn. Theo đó, Nghị định quy định với nhiều chính sách ưu đãi như: Doanh
nghiệp được vay khi không có tài sản bảo đảm, với mức vay 70% - 80% giá trị dự
án theo mô hình liên kết với hình thức cho vay linh hoạt linh hoạt, giảm lãi suất cho
104
vay 0,2%/ năm nếu mua bảo hiểm... Và gần đây nhất, Nghị định 57/2018/NĐ-CP
ngày 17/4/2018 của Chính phủ về “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn” đã có quy định về hỗ trợ lãi suất cho các doanh
nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Riêng đối với nông nghiệp CNC cũng có nhiều chính sách ưu đãi được đưa ra
như: Tài trợ toàn bộ chi phí đối với các dự án nghiên cứu CNC, các doanh nghiệp hoạt
động trong khu nông nghiệp CNC được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập,
thuế xuất nhập khẩu…
Ngày 24/4/2017, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 813/QĐ-
NHNN về “Chương trình cho vay ưu đãi nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch” theo Nghị quyết 30/NĐ-CP ngày
07/3/2017 của Chính phủ. Theo đó, đối tượng áp dụng của chương trình bao gồm: (1)
pháp nhân và cá nhân có nhu cầu vay vốn để triển khai thực hiện dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch theo tiêu chí đã được xác định
trong các chương trình, dự án nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch quy định tại Quyết
định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; (2) Các ngân hàng thương mại cho vay được thành lập và hoạt động theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng.
Chính sách ưu đãi tín dụng của Hà Nội cho phát triển nông nghiệp CNC được
quy định tại rất nhiều văn bản, chính sách của các cấp chính quyền.
- Khoản 7, Điều 1, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm
2015 của HĐND Thành phố Hà Nội đã quy định chi tiết về hỗ trợ tín dụng cho doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình có dự án đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao cụ thể như sau:
Ngân sách Thành phố bố trí, hỗ trợ 100% lãi suất ngân hàng (theo mức lãi suất
của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Hà Nội) nếu
vay vốn tại các ngân hàng, tính từ thời điểm ký hợp đồng tín dụng, thời hạn vay tối đa
36 tháng. Mỗi đối tượng chỉ được hỗ trợ về lãi suất vốn vay duy nhất cho 01 dự án
(phương án), và tổng mức vốn vay làm căn cứ để được tính hỗ trợ tối đa không quá 50
tỷ đồng/dự án (phương án).
- Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND, ngày 05/12/2018, của HĐND Thành phố
Hà Nội quy định hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại,
hộ gia đình, cá nhân có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC theo từng hạng mục cụ thể
như sau:
105
+ Đối với hạng mục đầu tư xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản
giống, bảo quản nông sản: Được hỗ trợ 100% số tiền lãi suất ngân hàng theo mức lãi
suất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (chi nhánh thành phố Hà
Nội) tính từ thời điểm ký hợp đồng tín dụng vay vốn, thời hạn hỗ trợ tối đa là 3 năm
với mức vay tối đa 70% giá trị đầu tư của dự án.
+ Đối với việc đầu tư, trang bị các loại máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế
biến nông sản: Được hỗ trợ 100% lãi suất, thời hạn tối đa là 3 năm, mức vay tối đa được
hỗ trợ là 100% giá trị trang thiết bị, máy móc theo mức lãi suất của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Hà Nội tình từ thời điểm ký hợp
đồng tín dụng vay vốn.
Trong thực tế đã có cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC nhận được hỗ trợ tín dụng
từ các chương trình ưu đãi tín dụng cho các cơ sở đầu tư vào nông nghiệp CNC của
Thành phố Hà Nội như hợp tác xã Nông nghiệp Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ
đã được ngân sách nhà nước hỗ trợ 80% chi phí mua giống để phát triển vùng bưởi
hữu cơ ứng dụng CNC trong sản xuất. Theo, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà Nội, ông Chu Phú Mỹ, mặc dù quá trình triển khai vẫn còn có những
bất cập, nhưng các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐND ngày
8/7/2015 của HĐND Thành phố đã bước đầu giúp doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức giải
quyết được bài toán về nguồn vốn để đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Tuy
nhiên, số cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội được khảo sát biết
đến và được hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ tín dụng của Thành phố còn thấp.
- Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là các giống
cây trồng, vật nuôi, thủy sản chất lượng cao trên địa bàn thành phố rất lớn, nên chính
sách hỗ trợ đầu tư giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản được lồng ghép vào các nội
dung hỗ trợ từ nguồn kinh phí khuyến nông theo Nghị định 02/2010/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 2/8/2010 về khuyến nông; Nghị định 83/2018/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 24/5/2018 về khuyến nông. Nhiều giống cây trồng mới có năng
suất, chất lượng được đưa vào sản xuất như giống lúa chất lượng cao Japonica J02,
ĐS1, Vaas16, Lộc trời 604, J01, J02; cây ăn quả chất lượng cao như nhãn chín muộn,
bưởi Diễn, bưởi đỏ Tân Lạc…Với ngành chăn nuôi như giống bò chất lượng cao F1
BBB; hỗ trợ hàng ngàn liều tinh dịch lợn mỗi năm.
Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và phù hợp của các chính sách hỗ trợ vay
vốn và tín dụng cũng cho thấy sự đánh giá khác nhau giữa cán bộ quản lý của chính
quyền địa phương với đối tượng được thụ hưởng của chính sách. Đặc biệt, trong khi
106
các đối tượng thụ hưởng chính sách đánh giá mức độ phù hợp của chính sách này ở
mức độ rất thấp (chưa tới 3%) thì đánh giá của cán bộ chính quyền địa phương về mức
độ phù hợp vẫn ở mức rất cao.
Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của chính sách và tỷ lệ thụ hưởng từ chính
sách này từ các đối tượng thụ hưởng được thể hiện qua bảng sau:
Biết đến chính sách
Sự phù hợp
Người dân được
thụ hưởng chính
sách
TT
Nội dung
Tổng
số
phiếu
Tỷ lệ
(%)
Tỷ lệ
(%)
Kết luận về
sự phù hợp
Số phiếu
trả lời biết
Điểm
đánh giá
Số
phiếu
có
Thấp
34
23,4%
1
2,2
145
102
70,3%
Chính sách hỗ trợ 100%
lãi suất vay trong 36
tháng cho 1 DA
58
40%
Thấp
2
122
84,1%
145
2,32
Chính sách hỗ trợ 100%
lãi suất trong 36 tháng
đối với hạng mục đầu tư
cơ sở chế biến
sách hỗ
Thấp
45
31,0%
3
2,13
145
125
86,2%
trợ
Chính
100% lãi suất mua máy
móc thiết bị trong 36
tháng
4
145
115
79,31
55
37,9%
2,43
Thấp
Chính sách hỗ trợ vốn
mua giống cây trồng vật
nuôi từ nguồn kinh phí
khuyến nông
Bảng 4.11: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các
chính sách hỗ trợ vốn và tín dụng cho phát triển nông nghiệp CNC
2,26
Đánh giá chung về sự phù hợp của chính sách hỗ trợ tín dụng
5
Thấp
Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019
Kết quả khảo sát ở bảng trên cho thấy mặc dù có 70,3% số người đước hỏi biết
đến các chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng cho 1 dự án đầu tư vào nông
nghiệp CNC, 84,1% biết đến chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với
các hạng mục đầu tư cơ sở chế biến, 86,2% biết đến chính sách hỗ trợ100% lãi suất
trong 36 tháng để mua máy móc thiết bị nhưng khả năng tiếp cận và được thụ hưởng
lợi ích từ chính sách cũng chỉ đạt rất thấp với mức tương ứng 23,4%; 40% và 31,0%.
Đối với chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi đước hỗ trợ qua các
chương trình khuyến nông tỷ lệ biết đến chính sách là 79,3% và được thụ hưởng chỉ
đạt 37,9%. Mức độ phù hợp của tất cả các chính sách này đều được đánh giá ở mức
thấp chỉ đạt 2,26 điểm.
107
Kết quả phỏng vấn các chủ cơ sở sản xuất nông nghiệp cũng cho thấy, mặc dù
đã có nhiều chủ trương, chính sách quy định các ưu đãi về vốn, tín dụng cho các doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, tuy nhiên, tiếp cận nguồn vốn luôn là
vấn đề nan giải với nhiều doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
Theo Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Tuệ Viên (Hà Nội), bà Nguyễn
Thị Phương Liên, để có nguồn vốn đầu tư vào khâu chế biến các sản phẩm từ cây ổi,
công ty cần từ 10 tỷ đồng đến 20 tỷ đồng, song các thủ tục xác nhận, chứng minh tài
sản, đảm bảo để thế chấp… tiếp tục cản trở việc tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng
thương mại. Khó khăn trong việc tiếp cận với các ngân hàng thương mại để vay vốn
đầy tư vào nông nghiệp công nghệ cao là vấn đề được đề cập bởi rất nhiều các cơ sở
đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Trong thực tế, chi phí đầu tư cho 1 ha nhà
màng tốn từ 4-5 tỷ đồng, nhưng khi các doanh nghiệp muốn thế chấp vay vốn thì chỉ
được định giá theo giá đất nông nghiệp thông thường khoảng vài trăm triệu/ha.
Theo ông Mai Hữu Đoan, HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà tại
xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, mặc dù tổng đầu tư thiết bị, máy móc cho sản xuất rau
ứng dụng CNC của HTX khoảng 5 tỷ đồng, nhưng khi làm thủ tục vay vốn tại các
ngân hàng thương mại thì những tài sản này không được coi là tài sản thế chấp, do đó
việc tiếp cận với các nguồn vốn của HTX gặp rất nhiều khó khăn.
Để tháo gỡ nguồn vốn cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao, Tiến sỹ Nguyễn Hải An, Giám đốc Trung tâm ươm tạo Doanh nghiệp Nông
nghiệp CNC cho rằng, chỉ dựa vào hệ thống các ngân hàng thương mại là không đủ mà
cần phải đa dạng hóa nguồn vốn bằng việc thông qua cơ chế thu hút vốn từ các quỹ
đầu tư, tổ chức, cá nhân, đầu tư vào nông nghiệp CNC. Để làm được điều đó thì Nhà
nước cần sớm ban hành các quy định về việc xác lập quyền tài sản trên đất nông
nghiệp, trong đó bao gồm cả nhà lưới, nhà màng, nhà kính, hệ thống tưới tiêu…để
doanh nghiệp, HTX có cơ sở vay vốn, tiếp cận được nguồn vốn để sản xuất nông
nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp CNC.
4.2.2.4. Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để phát
triển nông nghiệp CNC của Hà Nội
Chủ trương hỗ trợ đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao được quy định chi tiết tại Điều 7, Nghị định
57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ. Cụ thể, doanh nghiệp có dự án nông
nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư được ngân sách
nhà nước hỗ trợ tiền đào tạo nghề cho lao động với mức hỗ trợ là 2 triệu
đồng/tháng/lao động, thời gian hỗ trợ là 03 tháng.
108
Tại Hà Nội, công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động nông
nghiệp nông thôn cũng được quy định rất chi tiết tại các văn bản, chính sách của chính
quyền các cấp. Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội đã
đưa ra nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, trong đó có nhấn
mạnh “Xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp ở cơ sở và tăng cường đào tạo,
nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân để đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên
tiến vào sản xuất”. Theo nội dung của giải pháp này “Thành phố đầu tư xây dựng một
trung tâm đào tạo và thực hành sản xuất nông nghiệp CNC với quy mô đào tạo từ
1.800 – 2.000 lao động nông nghiệp/năm theo hướng Nhà nước đầu tư xây dựng toàn
bộ hạ tầng và các công trình phục vụ giảng dạy; hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình đầu
tư các mô hình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản….ứng dụng CNC để nông dân
thực hành tại chỗ”. Đối với chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển nông
nghiệp CNC, luận án tập trung nghiên cứu chính sách đào tạo nghề và chính sách tập
huấn hỗ trợ kỹ thuật.
(i) Chính sách đào tạo nghề
Kế hoạch số 188/KH-UBND ngày 06/10/2016 của UBND Thành phố Hà Nội
thực hiện Chương trình số 02-CTr/Tu ngày ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội cũng
nhấn mạnh trong giải pháp trọng tâm để phát triển nông nghiệp nội dung liên quan đến
nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, cụ
thể: “Tập trung đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên sâu về kỹ thuật nông
nghiệp cho cán bộ kỹ thuật và quản lý từ Thành phố đến cơ sở đáp ứng yêu cầu phục
vụ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”. Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐND ngày 08/7/2015 của HĐND Thành phố Hà Nội quy định hỗ trợ
chi tiết về hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp CNC (chi tiết tại Khoản 3, Điều 1), và hỗ
trợ tập huấn kỹ thuật nông nghiệp CNC (chi tiết tại Khoản 4, Điều 1).
+ Đối với công tác đào tạo nghề nông nghiệp CNC.
Đối tượng được thụ hưởng: Là người lao động trực tiếp có hộ khẩu thường trú
tại Hà Nội, trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên, có
nhu cầu bồi dưỡng, học tập trang bị kiến thức về CNC trong sản xuất nông nghiệp.
Người lao động phải được doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại đủ điều kiện chuyển
giao, đào tạo về ứng dụng CNC và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp
thuận hoặc được cơ sở đào tạo có đủ điều kiện theo quy định đào tạo, bồi dưỡng ứng
dụng CNC trong nông nghiệp. Và phải có trong kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và dự
toán ngân sách hàng năm của Thành phố.
109
Mức hỗ trợ: Mỗi lao động được hỗ trợ một lần bằng 100% học phí đào tạo nghề
và tiền tài liệu theo quy định, mức hỗ trợ tối đa không quá 4,5 triệu đồng/người/khóa
đào tạo.
Mặc dù có nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành liên quan đến hỗ trợ
đào tạo nghề nông nghiệp CNC, hỗ trợ tập huấn kỹ thuật nông nghiệp CNC, nhưng
theo đánh giá chung trên phạm vi cả nước vẫn còn khoảng 46% (số liệu đầu năm
2019) nguồn nhân lực trong nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của việc ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Tại Hà Nội, số lượng lao
động nông thôn được đào tạo từ trình độ sơ cấp trở lên có xu hướng tăng dần và đạt
khoảng 55% vào năm 2019 (Hình 4.4). Đây có thể được coi là tín hiệu tốt để tạo ra
nguồn nhân lực nông thôn có chất lượng nhằm đáp ứng được yêu cầu của nông nghiệp
60
54.8
47.2
50
44.3
40.2
36.7
40
30
Tỷ lệ (%)
20
10
2019
2016
2017
2018
0
2015
CNC và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC.
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020
Hình 4.4. Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo của Hà Nội, 2015-2019
Kết quả khảo sát thực tế đối với đại diện các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang
trại đã đầu tư vào sản xuất nông nghiệp CNC tại các địa phương của thành phố Hà Nội
cho thấy, rất ít các đơn vị biết đến các chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực cho các cơ sở
đầu tư vào nông nghiệp CNC. Thêm vào đó, cũng rất ít doanh nghiệp, HTX, trang trại
đã đầu tư vào nông nghiệp CNC được hưởng lợi từ các chính sách này. Theo một số
chủ cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC, thực tế họ mới chỉ được tham gia các lớp
tập huấn ngắn hạn về nông nghiệp CNC. Điều này cho thấy, hiệu quả của các chính
sách hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về sản xuất nông nghiệp CNC ở Hà
110
Nội chưa cao và cần có sự cải thiện trong thời gian tới để tạo ra điều kiện để thu hút
thêm các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC.
Qua tổng hợp, khảo sát cho thấy, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề là cần thiết và
phù hợp với nhu cầu của người dân sản xuất. Trong giai đoạn 2016-2019, toàn thành
phố Hà Nội đã tổ chức đào tạo nghề sơ cấp cho 76.203 lao động, trong đó tập trung
vào các huyện, các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp
công nghệ cao như tại Đông Anh, Hoài Đức, Ba Vì…
(ii) Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật
Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật hỗ trợ phát triển nông nghiệp CNC dành
cho các đối tượng áp dụng liên quan đến nông nghiệp CNC, cụ thể: “Cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật, người lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,
trang trại, hộ gia đình sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp ứng dụng
CNC. Mỗi người chỉ được hỗ trợ tham gia 01 lần/01 nội dung tập huấn”.
Nghị quyết 10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 cũng đề cập đến hỗ trợ đào
tạo nghề về sản xuất nông nghiệp CNC cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông
nghiệp CNC tại Khoản 3, Điều 1. Cụ thể đối tượng được thụ hưởng là người lao động
trực tiếp sản xuất nông nghiệp có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, trong độ tuổi lao
động theo quy định, có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên, có nhu cầu bồi
dưỡng, học tập, đào tạo về nông nghiệp CNC, nông nghiệp hữu cơ.
Điều kiện được thụ hưởng: Là người lao động được doanh nghiệp, HTX, trang
trại đủ điều kiện để chuyển giao, đào tạo về ứng dụng CNC và được cơ quan có thẩm
quyền chấp thuận hoặc cơ sở đào tạo có đủ điều kiện đào tạo, bồi dưỡng ứng dụng
CNC trong nông nghiệp theo quy định. Có trong kế hoạch đào tạo và dự toán ngân
sách hàng năm của Thành phố.
Công tác phòng chống dịch bệnh được các đơn vị sản xuất nông nghiệp ứng
dụng CNC đặc biệt quan tâm, nên chính sách hỗ trợ phòng chống dịch bệnh chủ yếu
được thành phố thực qua các lớp tập huấn kĩ thuật tại các địa phương cũng đã tập
huấn công tác phòng chống dịch bệnh trên các giống cây, con.
Nội dung và mức hỗ trợ: Hỗ trợ một lần bằng 100% học phí đào tạo nghề/lao
động và tiền tài liệu theo quy định của cơ sở đào tạo hoặc theo phương án đào tạo của
các cơ sở tự đào tạo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, mức hỗ trợ tối
đa không vượt quá 4,5 triệu đồng/người/khóa đào tạo.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hàng năm đã tổ chức các lớp tập huấn
111
về tiến bộ khoa học kỹ thuật mới và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp cho học
viên là nông dân, chủ trang trại, khuyến nông viên, thành viên các HTX nông nghiệp
trên địa bàn Hà Nội, cộng tác viên khuyến nông. Năm 2016, Sở đã tổ chức 210 lớp cho
14.300 lượt người tham dự, tổng kinh phí 1.251.017.000 đồng, năm 2017 tổ chức 211
lớp cho 14.330 lượt người tham dự, tổng kinh phí 1.305.411.000 đồng, năm 2018 tổ
chức 110 lớp cho 7.300 lượt người tham dự tổng kinh phí 553.339.000 đồng, năm 2019
tổ chức 132 lớp cho 8.360 lượt người tham dự tổng kinh phí 1.233.642.000 đồng.
Các học viên được giới thiệu về quy trình và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao; trao đổi về hệ thống nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới nước tiết kiệm;
một số vấn đề về giống và vườn ươm giống; về hình thức tổ chức sản xuất; giới thiệu
về VietGAP và quy trình sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP; tập huấn quy
trình kỹ thuật sản xuất một số loại rau và hoa,…
Qua các lớp tập huấn giúp các hộ dân đang có nhu cầu phát triển sản xuất nông
nghiệp theo hướng CNC tìm hiểu về những kiến thức, kỹ thuật cơ bản của qui trình
trồng cây trong nhà màng; lợi ích và những yêu cầu đặt ra trong sản xuất theo tiêu
chuẩn VietGap, từ đó lựa chọn những kỹ thuật phù hợp để đầu tư sản xuất một cách có
hiệu quả nhất.
(iii) Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn được xây dựng nhằm làm
mẫu để các đơn vị trong khu vực tham quan học tập, từ đó có thể nhân ra diện rộng.
Giai đoạn từ 2016 – 2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã hỗ trợ các hộ
tham gia mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Cụ thể, trồng trọt 08 dạng mô hình,
chăn nuôi 02 dạng mô hình, thủy sản 08 dạng mô hình. Những mô hình trình diễn do
Trung tâm khuyến nông Hà Nội triển khai được người dân đánh giá cao là mô hình
nuôi thủy sản theo VietGAP với quy mô 20ha, triển khai trên địa bàn 5 huyện: Mỹ
Đức, Ba Vì, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Với việc sử dụng chế phẩm sinh học
định kỳ, thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường, ao nuôi cá 1ha sinh trưởng,
phát triển tốt, cho năng suất trên 18 tấn, cao hơn 15% so với ao nuôi thông thường; mô
hình ứng dụng hệ thống tưới tiết kiệm cho cây trồng đã giảm đáng kể chi phí sản xuất.
Để tưới cho 1ha rau, hệ thống chỉ cần hoạt động với thời gian 60 phút/ngày, giảm được
khoảng 40% lượng nước tưới. Lượng phân bón ít bị thất thoát, năng suất, chất lượng
rau tăng lên rõ rệt; hệ thống tưới đã giúp giảm công lao động, giảm chi phí nhân công
so với phương pháp tưới truyền thống.
Kết quả đánh giá sự phù hợp và tỷ lệ thụ hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nâng
cao trình độ, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn có sự khác nhau
112
trong đánh giá giữa đối tượng được thụ hưởng chính sách và các cán bộ trong cơ quan
quản lý nhà nước. Điểm đánh giá cụ thể của đối tượng thụ hưởng chính sách như sau:
Bảng 4.12. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của chính sách
hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ và tập huấn kỹ thuật
Sự phù hợp Biết đến chính
sách Người dân được
thụ hưởng chính
sách TT Nội dung Tổng
số
phiếu Tỷ lệ
(%) Tỷ lệ
(%) Điểm
đánh giá Kết luận
phù hợp Số phiếu
trả lời
biết Số phiếu
trả lời
có
145 125 86,2% 88 60,6 2,75 1 Trung
bình Chính sách hỗ trợ đào
tạo nghề
145 115 79,3 85 58,62 2 Chính sách hỗ trợ tập
huấn kỹ thuật Trung
bình
3 42 28,9% 3.05
2.35 Chính sách hỗ trợ mô
hình trình diễn 145 87 60%
4 2.71 Đánh giá chung về mức độ phù hợp của chính sách đào tạo
Thấp
Trung
bình
Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ phù hợp của chính sách đào tạo được đánh
giá chung ở mức độ trung bình (2,71điểm) trong đó chỉ chính sách hỗ trợ mô hình
trình diễn được đánh giá ở mức thấp (2,35 điểm). Tỷ lệ biết đến chính sách đào tạo
nghề và tập huấn kỹ thuật tương đối cao, tỷ lệ hưởng thụ cũng đạt trên mức trung bình.
Trong khi đó tỷ lệ người được hỏi biết đến chính sách hỗ trợ trình mô hình trình diễn
60% và tỷ lệ được thụ hưởng từ chính sách này chỉ đạt 28,9%. Điều này cho thấy việc
tiếp cận để thụ hưởng được lợi từ chính sách còn vô cùng khó khăn đối với các cơ sở
sản xuất nông nghiệp dẫn đến tạo ra các rào cản trong phát triển nông nghiệp CNC của
Hà Nội trong thời gian qua.
4.2.3. Thực trạng giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường
4.2.3.1. Thực trạng cải thiện thủ tục hành chính để phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của Hà Nội
Vấn đề cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế luôn được quan tâm bởi các cấp
chính quyền của Thành phố Hà Nội. Ngày 18/10/2011, Thành ủy Hà Nội ban hành
Chương trình số 08-CTr/TU về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm
và chất lượng phục vụ của đội ngũ công chức, viên chức giai đoạn 2011-2025”. Kết
113
quả tổng kết Chương trình số 08-CTr/TU giai đoạn 2011-2015 của Thành ủy Hà Nội
cho thấy, qua 4 năm tổ chức, triển khai, thực hiện Chương trình số 08- CTr/TU của
Thành ủy, công tác cải cách hành chính (CCHC) của Hà Nội đã được thực hiện toàn
diện cả 6 nội dung. Bên cạnh đó, chỉ số CCHC cấp tỉnh (PAR INDEX) của thành phố
Hà Nội luôn được Bộ Nội vụ đánh giá đạt kết quả cao, là một trong những địa phương
dẫn đầu về CCHC (năm 2012 xếp thứ 7/63 tỉnh, thành phố; năm 2013 xếp thứ 5/63
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của
thành phố Hà Nội đã có sự cải thiện đáng kể, năm 2013 tăng 18 bậc so với năm 2012,
năm 2014 tăng 7 bậc so với năm 2013 và thuộc nhóm các địa phương có chất lượng
điều hành khá tốt trong các tỉnh, thành. Ngày 24/6/2016, Thành ủy Hà Nội ban hành
Chương trình số 08-CTr/TU giai đoạn 2016-2020. Công tác cải cách hành chính tiếp
tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền của Hà Nội. Gần
đây nhất vào ngày 11/6/2020, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số
124/KH-UBND về “Cải thiện, nâng cao chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính của
Thành phố trong năm 2020 và các năm tiếp theo”, trong đó đặt ra mục đích “Phấn đấu
chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính của Hà Nội tiếp tục đạt trên 80% và cao hơn
mức trung bình chung của cả nước”.
Mặc dù công tác cải cách hành chính để nâng cao chất lượng phục vụ người dân
và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế luôn được quan tâm bởi các
cấp chính quyền của Hà Nội, tuy nhiên kết quả của công tác cải cách hành chính trên
địa bàn Thành phố vẫn chưa đạt được các kết quả như kỳ vọng. Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI) của Hà Nội chưa có sự đột phá: (1)Một số chỉ số đánh giá còn
thấp, chuyển biến chậm; (2) tính minh bạch, khả năng tiếp nhận thông tin, các chi phí
không chính thức, mất nhiều thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước, chi phí
gia nhập thị trường, đất đai còn lớn. Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách đặc thù
nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng của Thủ đô chưa được xây dựng; việc ban hành các
cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút đầu tư còn
chậm và chưa đồng bộ.
Theo kết quả nghiên cứu của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam
(VCCI) vào năm 2017, thủ tục hành chính về đất đai là phiền hà nhất và đang là một
trong các cản trở lớn đối với các doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp nói
chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Kết quả nghiên cứu của VCCI năm
2017 chỉ ra rằng, có đến 76% doanh nghiệp đang sản xuất, hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai.
Đến mức có những doanh nghiệp nông nghiệp đánh giá thủ tục hành chính về đất đai
114
là phiền hà nhất, khó khăn nhất so với các lĩnh vực khác như: Thuế, bảo hiểm, môi
trường, giao thông... Đồng thời khi doanh nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất,
thường gặp rất nhiều cản trở đối với: Các thủ tục thuê, mua đất phức tạp (49% doanh
nghiệp được khảo sát đồng ý); quy hoạch chưa phù hợp (38% doanh nghiệp đồng ý),
32% số doanh nghiệp được khảo sát cho rằng thông tin về đất đai được cung cấp
không rõ ràng.
Kết quả khảo sát thực tế tại các huyện cũng cho thấy, phần lớn cán bộ phụ trách
nông nghiệp (71,4% số người được hỏi) và đại diện các cơ sở đã đầu tư vào nông
nghiệp CNC (72,7% số người được hỏi) đều cho rằng thủ tục hành chính của các chính
sách phát triển nông nghiệp nông nghiệp CNC còn phức tạp. Đây là một trong những
hạn chế đối với phát triển nông nghiệp CNC của Hà Nội.
Bảng 4.13. Kết quả khảo sát về thủ tục hành chính của các chính sách phát triển
nông nghiệp CNC ở Hà Nội
Cán bộ các sở Các đối tượng được STT ngành, UBND thụ hưởng chính sách
1 Quá nhiều thủ tục hành chính 54,3% 75,5%
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát năm 2019
2 Thủ tục hành chính còn phức tạp 71,4% 72,7%
Theo ông Bùi Văn Chung, Giám đốc Trang trại Minh Châu Ecofarm, thời gian để
hoàn thiện các thủ tục hành chính cho việc xin phép xây dựng 3.000 m2 nhà màng, nhà
lưới sản xuất dưa lưới, dưa chuột công nghệ cao trên xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa là
đúng 1 năm do thủ cấp phép phải qua nhiều cơ quan. Chính điều này đã làm cho chi phí
giao dịch của cơ sở tăng lên đáng kể và cũng làm giảm nhiệt huyết và cơ hội đầu tư vào
nông nghiệp công nghệ cao (Kết quả khảo sát tháng 03/2020). Theo ông Đặng Hữu Hỷ,
chủ trang trại chăn nuôi lợn sử dụng dây chuyền cho ăn tự động tại xã Sơn Công, huyện
Ứng Hòa, mặc dù rất được lãnh đạo huyện ủng hộ, nhưng thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho trang trại của ông cũng tốn rất nhiều thời gian và chi phí do
phải đi lại nhiều lần. Bên cạnh đó, từ khi nộp hồ sơ xin vay vốn từ Ngân hàng
NN&PTNT huyện đến khi được vay cũng mất gần 1 năm. Ông Hỷ cũng đã từng làm thủ
tục để xin vay vốn (khoảng 5 tỷ đồng) từ Quỹ hỗ trợ đầu tư của Thành phố Hà Nội,
nhưng cũng không vay được do thủ tục yêu cầu các công trình xây dựng, dự án phải có
hóa đơn, chứng từ, trong khi theo ông Hỷ đầu tư cấp độ trang trại thì việc hoàn thiện
được các thủ tục này là tương đối khó, chi phí giao dịch cao.
115
Các quy định hành chính chưa linh hoạt trong các chính sách hỗ trợ cho sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội đã làm hạn chế khả năng mở rộng đầu tư
của các cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn hành phố cũng
như ảnh hưởng tiêu cực tới quyết định đầu tư vào nông nghiệp của doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức đang có dự định đầu tư vào lĩnh vực này của Hà Nội. Kết quả phỏng vấn
lãnh đạo của HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện
Thường Tín cho thấy, mặc dù vốn đầu tư của cơ sở rất lớn (5 tỷ đồng), doanh thu năm
2019 của HTX đạt khoảng 6 tỷ đồng, nhưng do quy mô diện tích của HTX chỉ đạt 1,2
ha nên HTX không được hưởng các chính sách hỗ trợ đối với các trang trại. Theo quy
định tại Điều 5 của Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ
NN&PTNT, quy mô diện tích tối thiểu của trang trại phải đạt 2,1 ha. Chính quy định
này đã hạn chế khả năng tiếp cận đến các chính sách hỗ trợ và thu hút đầu tư đối với
các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao do trong thực tế các cơ sở sản xuất
nông nghiệp công nghệ cao cũng rất khó khăn trong việc tiếp cận đất đai nên việc đàm
phán và thuê được 2,1 ha theo quy định cũng không phải là câu chuyện đơn giản.
Theo ông Nguyễn Trọng Long, Giám đốc HTX Hoàng Long tại xã Tân Ước,
huyện Thanh Oai, mặc dù là HTX chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao với dây chuyền
khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, nhưng HTX gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận với các chính sách ưu đãi dành cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC. Cụ thể,
HTX đã làm thủ tục chuyển đổi để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chăn nuôi,
nhưng khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn ghi là đất trồng lúa nên
khi vay vốn từ các ngân hàng thì việc thế chấp giấy chứng nhận này chỉ được cho vay
với lượng vốn rất nhỏ. HTX cũng không tiếp cận được các chính sách hỗ trợ cho cơ sở
chăn nuôi vì theo quy định để nhận được hỗ trợ cho các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia
súc lớn thì cơ sở giết mổ phải cách xa khu vực chăn nuôi 1 km.
Như vậy, những vướng mắc trong thủ tục hành chính về cấp phép đầu tư, thụ
hưởng hỗ trợ thu hút đầu tư về vốn, đất đai… đã làm cản trở mục tiêu thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội trong thời gian vừa qua. Trong thời
gian tới, Hà Nội cần tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm thay đổi môi
trường để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC.
4.2.3.2 Thực trạng xúc tiến thương mại và đầu tư của Hà Nội để phát triển nông
nghiệp công nghệ cao
Xúc tiến đầu tư được xác định là một trong các hoạt động quan trọng đối với
các địa phương trong phát triển kinh tế nói chung, và phát triển nông nghiệp công nghệ
cao nói riêng. Về bản chất, xúc tiến đầu tư được hiểu là tổng thể các biện pháp, các
116
hoạt động của địa phương nhằm định hướng nhà đầu tư hoặc thu hút sự quan tâm của
các nhà đầu tư. Các hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm: tổ chức các hội thảo thu hút
đầu tư; tổ chức các phái đoàn xúc tiến đầu tư; tham gia hội chợ giới thiệu cơ hội đầu
tư; phát hành các ấn phẩm, tài liệu; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đến thăm viếng,
hợp tác; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.
Xúc tiến đầu tư để phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được cụ thể hóa
trong các văn bản của các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội. Chương trình 02-
CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội đã xác định thực hiện các chính sách
hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp
đã được xác định là một trong các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp của
Thủ đô. Các hoạt động cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm được xác
định bao gồm:
+ Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tổ chức, tham gia các hội chợ, triển lãm hàng
nông sản và làng nghề; xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hóa, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng nghề của Thủ đô.
+ Thành lập đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT làm chức năng, nhiệm
vụ hỗ trợ các doanh nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm, xây dựng, phát triển thương
hiệu hàng hóa, hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm
làng nghề.
Chương trình 02-CTr/TU ngày 26/04/2011 của Thành ủy Hà Nội đã xác định
“tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm nông nghiệp” là một trong các giải
pháp trọng tâm đối với phát triển nông nghiệp của Hà Nội nói chung và nông nghiệp
CNC nói riêng. Các hoạt động chủ yếu bao gồm: (i) Tổ chức các hội chợ, triển lãm,
chương trình xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm nông nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp
tiêu thụ; (ii) Hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, liên kết
với nông dân đầu tư vào nông nghiệp.
Để cụ thể hóa chủ trương của Thành ủy về xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp
để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, rất nhiều
các hoạt động liên quan đã được tiến hành từ cấp Thành phố tới các huyện. Hàng năm
UBND Thành phố Hà Nội đều ban hành Chương trình Xúc tiến đầu tư, Thương mại và
Du lịch của Thành phố, trong đó “thu hút đầu tư vào nông nghiệp sạch, nông nghiệp
công nghệ cao” được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của công tác xúc
tiến đầu tư. Nhằm tăng cường hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực
nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại
117
và Du lịch thành phố Hà Nội được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2015
với các chức năng chủ yếu như: (i) Đề xuất, tổ chức triển khai, thực hiện các chương
trình xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, nông nghiệp của Hà Nội; (ii) Là cơ quan
tổng hợp các đề xuất, kiến nghị và phối hợp với các cơ quan có liên quan đề xuất
UBND thành phố Hà Nội ban hành các chính sách để thu hút về đầu tư, thương mại,
du lịch, nông nghiệp; (iii) Triển khai thực hiện hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu tìm cơ hội đầu tư, sản
xuất, kinh doanh, phát triển dịch vụ, du lịch tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố ở Việt
Nam và nước ngoài.
Sở NN&PTNT Hà Nội luôn phối hợp với Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương
mại và Du lịch Hà Nội tổ chức các cuộc tọa đàm, hội nghị xúc tiến đầu tư về nông
nghiệp, nông nghiệp CNC. Ngày 27/10/2017, “Tọa đàm xúc tiến phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao tại Hà Nội” đã được tổ chức nhằm: (1) Giới thiệu về chính sách
hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng CNC của thành
phố Hà Nội; (2) Trao đổi và giải đáp các thông tin, khó khăn, vướng mắc trong quá trình
đầu tư, triển khai các dự án nông nghiệp trên địa bàn Thành phố.
Qua khảo sát cho thấy, đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng
CNC việc tiêu thụ sản phẩm tương đối thuận lợi do nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm
nông sản sạch trên địa bàn rất lớn. Đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng
CNC của một số mô hình là do doanh nghiệp tự tìm đến đơn vị sản xuất để liên kết
tiêu thụ, một phần do các mô hình sản xuất tự chủ động quảng bá, giới thiệu, phân
phối sản phẩm đến các hệ thống siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch. Nhiều sản phẩm
nông nghiệp ứng dụng CNC đã tạo được thương hiệu và tiêu thụ rất tốt trong hệ thống
siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, Phòng Kinh tế,
UBND huyện đã giúp kết nối các hộ sản xuất đối với các đơn vị như ngân hàng,
trường mầm non trên địa bàn huyện để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng
CNC nên đầu ra cho sản phẩm tương đối ổn định.
Nhằm nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến đầu tư, thay vì thực hiện đơn
lẻ các hoạt động xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội đã được tổ chức lồng ghép, kết
nối các lĩnh vực như đầu tư, thương mại, du lịch, nông nghiệp... để nâng cao hiệu quả
và giảm chi phí cho ngân sách Thành phố. Trong khuôn khổ chương trình Lễ hội hoa
anh đào Nhật Bản – Hà Nội 2019, UBND Thành phố Hà Nội đã tổ chức “Hội nghị trao
đổi hợp tác xúc tiến đầu tư, du lịch giữa Hà Nội và Nhật Bản”. Trong hội nghị này, Hà
Nội đã giới thiệu, kêu gọi xúc tiến đầu tư trong nhiều lĩnh vực trong đó có nhấn mạnh
lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.
118
Ngày 22/04/2019, Sở NN&PTNT Hà Nội đã tổ chức hội nghị “Xúc tiến kết nối
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; phát triển liên kết vùng, tạo sản phẩm nông
nghiệp chủ lực, xúc tiến xuất khẩu chính ngạch”. Tại hội nghị này, Sở NN&PTNT Hà
Nội đã giới thiệu 9 khu nông nghiệp CNC đã được quy hoạch tại các quận, huyện. Sở
NN&PTNT Hà Nội cũng đã tổng hợp 11 dự án nông nghiệp công nghệ cao để kêu gọi,
thu hút đầu tư trong giai đoạn 2019 – 2025 như bảng dưới đây:
Bảng 4.14. Danh mục các dự án nông nghiệp công nghệ cao kêu gọi đầu tư
trực tiếp của thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2025
TT
Tên dự án
Quy mô
diện tích
(ha)
Dự kiến vốn
đầu tư (tỷ
VNĐ)
668
1.000
1 Dự án nông nghiệp công nghệ cao tại các xã An
Thượng, Song Phượng (huyện Hoài Đức)
2 Dự án nông nghiệp công nghệ cao tại xã Hiền
120
350
Ninh (huyện Sóc Sơn)
70
150
3 Dự án nông nghiệp công nghệ cao ở các xã
Thanh Xuân, Tân Dân (huyện Sóc Sơn)
4 Dự án nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái tại
200
1.300
xã Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ)
2,74
350
5 Dự án khu giết mổ gia súc tập trung các xã
Quang Lãng, Tri Thủy (huyện Phú Xuyên)
23,3
1.000
6 Dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao tại vũng bãi ven sông Đáy thuộc xã
Đồng Tháp (huyện Đan Phượng)
80
1.300
7 Dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao ở xã Kim Sơn (thị xã Sơn Tây)
8 Dự án vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ
300
100
cao ở huyện Ba Vì
9 Dự án khu giết mổ gia súc thôn Tri Lai, xã
4
350
Đồng Thái (huyện Ba Vì)
10 Dự án khu giết mổ gia súc, gia cầm ở xã Trạch
10
400
Mỹ Lộc (huyện Phúc Thọ)
11 Dự án khu giết mổ gia súc, gia cầm tại xã Minh
10
400
Phú, huyện Sóc Sơn
Nguồn: Tổng hợp từ Công thông tin điện tử của UBND Thành phố Hà Nội, 2020
119
Có thể thấy hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao của Hà Nội đã được thực hiện hàng năm ở cấp độ Thành phố.
Hoạt động này cũng được thực hiện lồng ghép với rất nhiều hoạt động khác và đã
được chú trọng bởi Sở NN&PTNT Hà Nội. Bên cạnh đó, một số huyện cũng đã quan
tâm đến hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao như: Thường Tín, Đan Phượng, Mỹ Đức...
9.00
8.00
7.00
6.00
5.00
4.00
3.00
2.00
1.00
0.00
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Tại các huyện tiến hành khảo sát, hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng bắt đầu được quan tâm chú trọng
và thực hiện dưới nhiều các hình thức khác nhau. Chẳng hạn, UBND huyện Mỹ Đức
tổ chức các cuộc gặp mặt với các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp
là người con của quê hương để giới thiệu các tiềm năng và cơ hội đầu tư trong nông
nghiệp. UBND huyện Thường Tín chỉ đạo các phòng, ban chức năng, đặc biệt là
Phòng Kinh tế đồng hành để hỗ trợ các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông
nghiệp công nghệ cao về các thủ tục hành chính, thủ tục để tiếp cận với các chính
sách hỗ trợ, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của Thành
phố. Bên cạnh việc tổ chức hội chợ giới thiệu nông sản, kết nối đầu tư, huyện Đan
Phượng còn thực hiện hỗ trợ thủ tục hành chính để tiếp cận với các chính sách hỗ trợ,
thu hút đối với các doanh nghiệp, cơ sở có dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn huyện.
Nguồn: https://www.pcivietnam.vn
Hình 4.5. Chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Hà Nội, 2010-2019
Các chủ trương, chính sách xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội trong thời
gian qua đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận. Theo số liệu của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp để thu hút
đầu tư của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2010-2019 luôn đạt ở mức khá và có xu
120
hướng tăng trưởng nhẹ (Hình trên đây). Đây được coi là một trong các dấu hiệu tích
cực để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố.
4.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp
CNC của chính quyền Hà Nội
4.3.1. Thành công chủ yếu
Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC thời gian qua đã đạt được
một số kết quả nhất định thể hiện như sau:
Thứ nhất, Thành phố Hà Nội đã chủ động xây dựng qui hoạch và chiến lược
cũng như ban hành các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC. Trong
đó, một số chính sách đã đến người dân, các HTX, hộ kinh doanh để khuyến khích
phát triển nông nghiệp CNC.
Thứ hai, việc tổ chức thực hiện qui hoạch, triển khai chính sách phát triển nông
nghiệp CNC đã được thực hiện trên toàn thành phố. Nhiều chính sách bước đầu đã có
đóng góp tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn cho DN, HTX và các hộ kinh doanh để
phát triển nông nghiệp CNC trong việc tiếp cận đất đai, vốn, công nghệ và đặc biệt là
hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nâng cao năng lực của người lao động.
Thứ ba, nhiều chính quyền cấp huyện của thành phố Hà Nội đã có những giải
pháp tích cực, chủ động đưa chính sách vào cuộc sống góp phần quan trọng trong việc
tạo ra nhưng thành quả đáng ghi nhận với các mô hình nông nghiệp CNC ngày càng
tăng lên.
Thứ tư, số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản của Hà Nội có xu hướng biến động và tăng. Trong giai đoạn từ 2014-2018, số
lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản của Hà Nội tăng
đạt tốc độ bình quân 1,2%/năm. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này lại có xu hướng
tăng mạnh. Bình quân trong giai đoạn 2015-2019, lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội tăng với tốc độ 24,1%/năm.
121
1182
1200
1220
1200
1180
1160
1140
1125
1120
1115
Số lượng DN
1100
1080
1060
1040
1020
1089
2014
2015
2016
2017
2018
Hình 4.6. Số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản của Hà Nội, 2014-2018
Thứ năm, bên cạnh sự phát triển của các DN thì nhiều mô hình nông nghiệp
CNC đã và đang phát triển. Từ chỗ Hà Nội chỉ có chưa đến 10 mô hình ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và việc ứng dụng công nghệ mới chỉ ở một số
khâu, thì trong 5 năm trở lại đây, lĩnh vực này đã có sự phát triển mạnh mẽ. Đến nay,
trên địa bàn thành phố đã có 123 mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông
nghiệp, cho giá trị gia tăng lớn. Trong đó, lĩnh vực trồng trọt chiếm 18%, chăn nuôi
34%, thủy sản 13%, tập trung tại các huyện: Mê Linh (18 mô hình), Gia Lâm (17 mô
hình), Thường Tín (14 mô hình), Thanh Oai (9 mô hình), Phúc Thọ (8 mô hình), Đông
Anh (8 mô hình), Đan Phượng (8 mô hình)...
Trong lĩnh vực trồng trọt, hầu hết các huyện đều có mô hình điểm, đem lại giá
trị cao, bảo đảm chất lượng xuất khẩu. Hiện nay, Hà Nội có 119 ha nhà lưới trồng rau,
15 ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, nông dân Hà Nội đã ứng dụng thêm nhiều công
nghệ mới như công nghệ vi sinh, bảo đảm chăn nuôi an toàn dịch bệnh, không ô
nhiễm môi trường. Đặc biệt, trong khâu giống đã có sự đột phá với 100% giống bò
sữa, 61% giống bò thịt, 79% giống lợn đã áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo.
Ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, Hà Nội có mô hình cho ăn tự động, kiểm tra môi
trường, nhiệt độ… được tích hợp trên điện thoại di động thông minh để giám sát và
điều khiển từ xa...
Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà
Nội thời gian qua đều phát huy hiệu quả. Nông sản làm ra tới đâu tiêu thụ hết tới đó,
122
nhờ chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp, đồng đều. Dù giá thành cao hơn các sản
phẩm sản xuất đại trà từ 20 đến 30% nhưng vẫn được nhiều người tiêu dùng lựa chọn.
Ngoài việc ứng dụng công nghệ cao trong các mô hình sản xuất nông nghiệp,
Hà Nội còn tập trung triển khai rộng rãi quy trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn
VietGAP, GlobalGAP… góp phần tăng hiệu quả sản xuất từ 15 đến 20%.
Giá trị sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đồng bộ về giống, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, công nghệ tưới tiết kiệm đối với trồng trọt; giống, thức ăn,
phòng chống dịch bệnh, thiết bị công nghệ, hệ thống thu gom, xử lý chất thải, nước
thải chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Thành phố còn ở mức thấp, chủ yếu
ứng dụng công nghệ cao từng phần; sản phẩm công nghệ cao còn ở quy mô nhỏ, phân
tán, thiếu đồng bộ; chưa có doanh nghiệp, trang trại sản xuất công nghệ cao…
Thứ sáu, Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các nhà khoa học đầu ngành, các cơ
sở nghiên cứu hàng đầu cả nước nên việc liên kết lực lượng này với doanh nghiệp, họ
nông dân bước đầu cũng có những kết quả nhất định. Một số dự án nghiên cứu khoa
học phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Thủ đô đã được ứng dụng vào thực tế.
Trong đó, những lĩnh vực cần quan tâm là công nghệ sinh học; công nghiệp chế biến;
giống; phát triển mô hình nông nghiệp thông minh… Cùng với đó là các biện pháp
giới thiệu sản phẩm, gắn kết ứng dụng khoa học công nghệ với sản xuất, thương mại,
truy suất nguồn gốc hàng hóa để đảm bảo chất lượng, gây dựng niềm tin cho người
tiêu dùng.
Thứ bảy, Hà Nội đã cơ bản hoàn thành dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp. Đây
là cơ sở quan trọng cho ngành Nông nghiệp Thủ đô triển khai những mô hình sản xuất
chuyên canh công nghệ cao quy mô lớn. Trong đó, rau, hoa, trái cây, thịt, thủy sản…
là những sản phẩm chủ lực của Thủ đô mà các địa phương có thể tiếp tục mở rộng diện
tích sản xuất công nghệ cao.
4.3.2. Hạn chế của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao của Thành phố Hà Nội
Mặc dù thành phố Hà Nội đã có qui hoạch và nhiều cơ chế chính sách phát
triển nông nghiệp CNC như Chương trình số 02-CTr/TU), Hội đồng nhân dân Thành
phố đã ban hành rất nhiều các Nghị quyết và các văn bản liên quan (Nghị quyết số
số
03/2012/NQ-HĐND, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND, Nghị quyết
10/2018/NQ-HĐND) để hỗ trợ, thu hút doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang
trại... đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên các văn bản
chính sách liên quan đến hỗ trợ, thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội
123
cũng còn nhiều điểm hạn chế, vẫn còn nhiều đơn vị thụ hưởng chưa biết đến và cũng
chưa được tiếp cận các chính sách, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, công tác xây dựng quy hoạch nông nghiệp, trong đó có nông
nghiệp công nghệ cao còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu; nhiều điểm quy hoạch
không còn phù hợp hoặc khó thực hiện, cần được rà soát, điều chỉnh. Thành phố chưa
xây dựng và công bố công khai quy hoạch khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao của
Thành phố theo quy định tại Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp công nghệ
cao đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Trong khi đó, quy định pháp luật có
nhiều thay đổi; có việc thay đổi thẩm quyền dẫn đến việc xây dựng quy hoạch, điều
chỉnh quy hoạch mất nhiều thời gian, mất tính thời sự, như việc rà soát, xây dựng, điều
chỉnh quy hoạch nông nghiệp trước đây thuộc thẩm quyền HĐND cấp tỉnh, nay Luật
Quy hoạch 2017 thẩm quyền thuộc Trung ương…; Do chức năng, nhiệm vụ pháp luật
quy định: Sở chuyên ngành cũng có chức năng kiểm tra, UBND các cấp cũng thực
hiện việc kiểm tra, dẫn đến có lúc trùng lặp, có việc lại chưa phối hợp tốt, ít kiểm tra,
giám sát; Quy trình công tác kiểm tra còn nhiều bước, địa bàn Hà Nội rộng; số lượng
và chất lượng cán bộ làm bộ phận thanh tra, kiểm tra các sở, ngành, UBND các huyện
còn ít dẫn đến khó kiểm tra, bao quát hết địa bàn.
- Thứ hai, chậm triển khai một chính sách về khuyến khích phát triển sản xuất
nông nghiệp, chuỗi giá trị trong sản xuất, phân phối sản phẩm nông nghiệp đã được
HĐND Thành phố thông qua (ví dụ như: Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND về “Một
số chính sách thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụngCNCcủa Thành
phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020” được HĐND Thành phố Hà Nội thông qua ngày
08/07/2015. Tuy nhiên, ngày 07/8/2017 (sau hơn 2 năm kể từ khi Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐND được thông qua) UBND Thành phố Hà Nội mới ban hành
“Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà
Nội” thông qua Quyết định số 28/2017/QĐ-UBND ngày 07/08/2017 của Chủ tịch
UBND TP. Hà Nội).
Việc thực hiện một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp
của Trung ương và Thành phố còn triển khai chậm và chưa đạt được các mục tiêu so
với yêu cầu. Một số nội dung hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp của Thành
phố gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, kết quả rất hạn chế (ví dụ như chính sách hỗ
trợ lãi suất vốn vay phát triển sản xuất).
124
- Thứ ba, công tác tuyên tuyền để phổ biến các chính sách hỗ trợ và phát triển
nông nghiệp CNC của Hà Nội cũng chưa thực sự hiệu quả, chưa góp phần giải quyết
những khó khăn của các doanh nghiệp và những cơ sở sản xuất nông nghiệp khi tham
gia đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.
- Thứ tư, việc triển khai các qui hoạch khu nông nghiệp chậm, chưa thực hiện
phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy hoạch đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, 8 – 10 khu nông nghiệp công nghệ cao cấp vùng hiện
chậm triển khai, chưa hình thành; việc triển khai khu nông nghiệp công nghệ cao
sông Đáy theo quy hoạch còn rất chậm.
- Thứ năm, Thành phố cũng đã ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai trong thực tế, các địa phương cũng mới chỉ triển khai công
tác đào tạo lao động nông thôn một cách chung chung, số lượng các lớp đào tạo
chuyên sâu về nông nghiệp công nghệ cao còn hạn chế. Năng lực của cán bộ sở, ngành
trong công tác thẩm định, định hướng xây dựng quy hoạch đối với các đơn vị tư vấn
còn hạn chế; việc đánh giá tác động của quy hoạch đến các đối tượng khi xây dựng
quy hoạch còn hạn chế. Chậm ban hành các chính sách Trung ương giao cho cấp tỉnh
ban hành (như: Ban hành danh mục dự án khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp theo
Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ)
Các hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chưa xác định được lĩnh vực ưu tiên để phát triển nông nghiệp, nông
thôn của Thành ủy Hà Nội (Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội), Quy
hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn của Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 (theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 05 tháng 04 năm
2012 của HĐND Thành phố Hà Nội), phát triển nông nghiệp CNC; hỗ trợ và thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC được coi là nhiệm vụ, giải pháp hàng đầu.
Tuy nhiên, trong các văn bản chính sách này chưa xác định được lĩnh vực nào là lĩnh
vực ưu tiên để thu hút đầu tư, do đó các chiến lược thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp CNC vẫn chung chung và thiếu các chiến lược thu hút doanh nghiệp đầu
tư vào CNC trong từng lĩnh vực cụ thể. Tình trạng tự phát, manh mún trong phát triển
sản xuất còn phổ biến ở một số địa phương, còn thiếu một định hướng phát triển rõ nét
nhằm nâng cao sức thu hút đầu tư.
Thứ hai, chiến lược phát triển nông nghiệp CNC còn chung chung cho các loại
đối tượng (doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình), chưa xác định được
125
chiến lược thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC riêng biệt đối với các doanh nghiệp.
Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm 2015 của HĐND Thành phố
Hà Nội về “Một số chính sách thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng
CNC của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020” có quy định rất nhiều các chính
sách hỗ trợ để thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC của Thành phố. Tuy nhiên, các
chính sách này lại quy định chung cho tất cả các đối tượng từ doanh nghiệp, hợp tác
xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình mà không có quy định riêng biệt cho từng nhóm
đối tượng, chưa xác định rõ các đối tượng mục tiêu để thu hút đầu tư vào nông nghiệp
CNC. Vì vậy, Thành phố cũng chưa có các chính sách riêng biệt để thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC. Trên thực tế, mỗi đối tượng doanh nghiệp lại có
những nhu cầu hỗ trợ khác nhau chẳng hạn, đối với doanh nghiệp lớn 100% vốn nước
ngoài họ lại quan tâm tới vấn đề đất đai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong khi các
doanh nghiệp trong nước lại cần hỗ trợ về tín dụng… Tình trạng chăn nuôi phân bố
gần hoặc xen kẽ ngay trong khu dân cư cũng như sử dụng hóa chất tùy tiện trong trồng
trọt vẫn còn khá phổ biến gây ô nhiễm môi trường đất đai, nguồn nước, không khí,…
tác động xấu không chỉ tới môi trường sống và sản xuất mà còn khiến nông sản không
đảm bảo yêu cầu về vệ sinh - an toàn thực phẩm, giảm sức cạnh tranh trên thị trường,
hạn chế đáng kể tới hiệu quả trong quá trình lưu thông - tiêu thụ sản phẩm; nhất là với
thị trường vốn được coi là khắt khe về chất lượng sản phẩm như Hà Nội.
Thứ ba, chưa vận hành được các khu nông nghiệp công nghệ cao. Năm 2015
Thành phố Hà Nội đã được phê duyệt Khu nông nghiệp CNC đầu tiên tại huyện Đông
Anh với diện tích 96,6 ha theo Quyết định số 575/QĐ-Ttg ngày 04/05/2015 của Thủ
tướng Chính phủ, và tính đến hiện tại Thành phố đã quy hoạch 9 khu nông nghiệp
CNC. Tuy nhiên, Thành phố Hà Nội chưa vận hành được bất cứ khu nông nghiệp
CNC nào, chưa xây dựng được mô hình trình diễn về nông nghiệp CNC mà tất cả mới
chỉ dừng lại ở quy hoạch. Chính điều này đã hạn chế sức hút đối với các doanh nghiệp
muốn đầu tư vào nông nghiệp CNC do Thành phố chưa có các mô hình thuộc khu
nông nghiệp CNC để dẫn dắt, quảng bá cách làm nông nghiệp công nghệ cao thông
qua các hoạt động trình diễn và chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, Thành phố đã thực hiện các chính sách đào tạo đối với lực lượng lao
động nông thôn, và tính đến hiện tại đã có khoảng 56% lao động nông thôn của Hà
Nội được đào tạo nghề từ sơ cấp trở lên (Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020). Thành
phố cũng đã ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển
khai trong thực tế, các địa phương cũng mới chỉ triển khai công tác đào tạo lao động
126
nông thôn một cách chung chung, số lượng các lớp đào tạo chuyên sâu về nông nghiệp
công nghệ cao còn hạn chế (Kết quả trao đổi, thảo luận với cán bộ phụ trách nông
nghiệp tại các huyện). Khi xây dựng chính sách, việc đánh giá đối tượng chịu sự tác
động của chính sách còn hạn chế, làm chưa tốt dẫn đến nhiều chính sách khó triển khai
trong cuộc sống, hiệu quả không cao như: Chính sách tín dụng, chính sách đào tạo
nghề…
Thứ năm, các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp cao của Hà Nội
(từ đất đai, tín dụng...) còn thiếu các hướng dẫn cụ thể, hoặc các hướng dẫn được ban
hành rất chậm. Chẳng hạn, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND về “Một số chính sách
thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC của Thành phố Hà Nội
giai đoạn 2016-2020” được HĐND Thành phố Hà Nội thông qua ngày 08/7/2015.
Tuy nhiên, ngày 07/8/2017 (sau hơn 2 năm kể từ khi Nghị quyết số 03/2015/NQ-
HĐND được thông qua) UBND Thành phố Hà Nội mới ban hành “Hướng dẫn thực
hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà Nội” thông qua
Quyết định số 28/2017/QĐ-UBND ngày 07/08/2017 của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội.
Các chính sách cần thiết làm căn cứ, cơ sở phát triển nông nghiệp công nghệ cao chưa
được xây dựng và quan tâm đúng mức: Chính sách đất đai, chính sách tín dụng. Ngoài
chính sách hỗ trợ lãi suất ngân hàng cho đối tượng vay để phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, còn cần nhiều chính sách khác mà Thành phố chưa quan tâm, đánh giá, khảo
sát, xây dựng như: Chính sách hỗ trợ tiền thuê đất, chính sách bảo hiểm nông nghiệp,
chính sách phát triển thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao,
chính sách thu hút đầu tư…
Việc xây dựng các chính sách về phát triển khoa học công nghệ, chuyển giao
khoa học công nghệ trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn chưa đạt được
nhiều kiết quả. Mặc dù, Hà Nội là trung tâm lớn về khoa học và công nghệ, song quy
mô đầu tư, khả năng nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt là các
công nghệ tiên tiến cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.
Việc xây dựng ban hành chính sách chưa quan tâm đến chính sách liên kết
trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao giữa Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông
Hồng, đặc biệt các tỉnh giáp ranh (mặc dù đã có phối hợp, xây dựng các chuỗi liên kết)
trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.
Chưa có chính sách cụ thể nhằm mục tiêu nâng cao năng lực của các cơ sở sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao, liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ
cao. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực chủ yếu là chính sách tập huấn kỹ thuật hiện
127
đang thực hiện, mức độ nâng cao, đưa khoa học kỹ thuật mới, hiện đại vào sản xuất ít.
Đào tạo đội ngũ cản bộ quản lý về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, cản bộ quản
lý về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của các sở, ngành Thành phố, quản lý kinh
tế của các doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân còn chưa được quan tâm xây dựng, ban
hành chính sách.
Thứ sáu, các chủ trương, chính sách hỗ trợ và thu hút đầu tư vào nông CNC đã
được ban hành. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến đối với các
chủ trương, chính sách này chưa cao. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, tỷ lệ số lượng
cơ sở sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội (kể cả các cơ sở đã đầu tư và chưa đầu
tư vào nông nghiệp CNC) biết đến các chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư (đất đai, cơ sở
hạ tầng, tín dụng...) vào nông nghiệp CNC của Hà Nội còn rất thấp. Công tác thông tin
tuyên truyền đến người dân để thực hiện các cơ chế, chính sách còn hạn chế. Việc xây
dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ nông sản hàng
hoá chưa được quan tâm đúng mức, sức cạnh tranh của nông sản chưa cao
Thứ bảy, đất nông nghiệp tại các địa phương đã được giao ổn định và lâu dài
cho người dân, nhưng diện tích đất nông nghiệp bình quân của 1 hộ là không lớn nên
có trường hợp doanh nghiệp thuê được đất để thực hiện dự án nông nghiệp CNC tuy
nhiên chi phí giao dịch để thuê được đất là tương đối lớn. Mặc dù được chính quyền
địa phương ủng hộ, người dân có quỹ đất để cho thuê, nhưng Công ty Cổ phần Nông
nghiệp Công nghệ cao Hiệp Thành phải tiến hành đàm phán với khoảng 200 hộ gia
đình tại xã Cao Dương, huyện Thanh Oai để thuê lại 11 ha đất trồng măng tây ứng
dụng công nghệ cao. Để có diện tích 1,2 ha phục vụ đầu tư mô hình sản xuất rau công
nghệ cao, HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà ở xã Ninh Sở phải đàm
phán và ký hợp đồng thuê đất với 18 hộ gia đình và với chi phí thuê đất tương đối cao
là 1,5 triệu đồng/360 m2/năm (Kết quả phỏng vấn lãnh đạo HTX Thanh Hà, tháng 03
năm 2020). Cũng theo lãnh đạo của HTX Thanh Hà, đầu tư cho nông nghiệp công
nghệ cao tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, trong khi thời gian các hộ cho thuê
đất không dài (chỉ theo hợp đồng 5 năm), nên HTX cũng không yên tâm để mở rộng
quy mô đầu tư.
Trong giai đoạn đến năm 2020, áp lực của việc giảm diện tích đất nông nghiệp
sang mục đích phi nông nghiệp (khu công nghiệp, đất đô thị, giao thông ...), dẫn đến
số hộ bị mất đất sản xuất và lao động thiếu việc làm sẽ tăng lên, đặt ra nhiều vấn đề
kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần giải quyết; tốc độ đô thị hóa nhanh do đó các quy
hoạch về đô thị, các quy hoạch chuyên ngành liên quan đến phát triển đô thị thường
128
được quan tâm thực hiện do có nhiều vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến dân sinh bức
xúc, do vậy, việc xây dựng các quy hoạch về nông nghiệp có cấp còn chưa quan tâm
đúng mức.
Thứ tám, chi phí đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao lớn cũng là một trong
những rào cản để phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Ông
Nguyễn Xuân Trường, Giám đốc Công ty cổ phần Vật tư và Giống cây trồng Hà Nội
cho rằng, một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức muốn đầu tư vào nông nghiệp CNC là khó khăn về nguồn vốn và quỹ
đất. Để đầu tư cho 1ha đất sản xuất nông nghiệp CNC, doanh nghiệp cần số vốn từ 1,5
tỷ đến hơn 2 tỷ đồng. Theo ông Nguyễn Đức Thắng – Bí thư huyện Đan Phượng, để
đầu tư 1m2 nông nghiệp CNC cần nguồn vốn 350 triệu đồng. Chi phí đầu tư cho 1,2 ha
để sản xuất rau mầm, rau ăn lá ứng dụng công nghệ cao của HTX sản xuất và dịch vụ
nông nghiệp Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện Thường Tín là khoảng 5 tỷ đồng (Kết
quả phỏng vấn cán bộ lãnh đạo HTX Thanh Hà, tháng 03/2019).
Mặc dù trong Nghị định 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ (Khoản 2, Điều 8) đã
quy định “Các công trình xây dựng trên đất (bao gồm nhà lưới, nhà kính, nhà màng,
các công trình thủy lợi” của doanh nghiệp đầu tư được tính là tài sản để thế chấp vay
vốn từ ngân hàng thương mại”. Tuy nhiên trong thực tế, khi làm thủ tục vay vốn tại
các ngân hàng thương mại thì các tài sản này lại không được các ngân hàng công nhận
là tài sản thế chấp nên việc tiếp cận với các nguồn vốn vay để đầu tư vào nông nghiệp
CNC là tương đối khó khăn (Kết quả phỏng vấn ông Mai Hữu Đoan, HTX Thanh Hà,
Ninh Sở, Thường Tín, 03/2020).
Việc vận dụng quy định về diện tích là 2,1 ha (Theo quy định tại Điều 5 của
Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ NN&PTNT) đối với các
trang trại nông nghiệp CNC là chưa thực sự phù hợp. Nguyên nhân là do, đầu tư cho
nông nghiệp công nghệ cao rất lớn, và việc tích tụ đất để đầu tư vào nông nghiệp CNC
cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tại Hà Nội nơi đất đai có giá trị lớn. Chính
quy định này đã hạn chế các cơ hội tiếp cận với các chính sách ưu đãi dành cho các
trang trại đối với các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Thứ chín, việc triển khai, tổ chức thực hiện, phối hợp giữa các sở, ngành Thành
phố với UBND các huyện, thị xã, các đơn vị, cơ quan liên quan có lúc còn lúng túng,
chậm tham mưu, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các đơn vị trong phát
triển sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao; Cơ quan chuyên môn còn
129
thiếu chủ động, chưa kịp thời rà soát tổng thể, toàn diện các cơ chế, chính sách của
Trung ương và Thành phố để đề xuất tham mưu Thành phố ban hành, điều chỉnh,
bổ sung cơ chế, chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung, phát triển
chuỗi nói riêng cho phù hợp với tình hình mới; một số chính sách chưa đồng bộ,
phân tán trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng; năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác
phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố tư duy còn chậm
thay đổi, gần như theo phương pháp truyền thống. Bên cạnh đó, sự vào cuộc chỉ đạo
của một số chính quyền địa phương chưa tập trung: Việc đôn đốc kiểm tra, thực hiện
các cơ chế, chính sách. Công tác kiểm tra, xử lý chưa nghiêm.
130
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
5.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn Hà Nội
5.1.1. Mục tiêu, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển
nông nghiệp công nghệ cao
5.1.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp công nghệ cao
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
176/QĐ-TTg ngày 29/01/2010 về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao đến năm 2020, theo đó quan điểm, chủ trương phát triển nông
nghiệp công nghệ cao: (i) Phát triển nông nghiệp CNC phải gắn với quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển nông
nghiệp của ngành và của địa phương; (ii) Phát triển nông nghiệp CNC phải có sự lựa
chọn, đầu tư phải đồng bộ, kết hợp hài hoà giữa nghiên cứu tạo CNC với ứng dụng để
tạo ra sản phẩm nông nghiệp hàng hoá có năng suất, chất lượng và tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm nông nghiệp; (iii) Phát triển nông nghiệp CNC phải khai thác, sử
dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tiếp thu nhưng có chọn lọc thành
tựu CNC của thế giới để làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến trong nông
nghiệp, đồng thời HĐH các công nghệ truyền thống; (iv) Phát triển nông nghiệp CNC
phải huy động sự tham gia của các lực lượng nghiên cứu, của các lĩnh vực, các thành
phần kinh tế, trước tiên là các doanh nghiệp và các tổ chức KHCN; thu hút nguồn đầu
tư nước ngoài; (v) Tập trung chú trọng đào tạo nguồn nhân lực về CNC trong nông
nghiệp đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng cao cho phát triển nông nghiệp CNC ở
nước ta.
Mục tiêu: Phát triển nông nghiệp CNC góp phần xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả, giá trị và sức cạnh tranh cao và đạt mục tiêu tăng trưởng trên
3,5%/năm; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
131
5.1.1.2. Mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội
đến năm 2025 và những năm tiếp theo
Mục tiêu chung
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp Thủ đô theo hướng nông nghiệp công
nghệ cao, tăng năng suất, chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi
trường sinh thái; tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn, đáp ứng yêu cầu tiêu
dùng của nhân dân Thủ đô. Ưu tiên phát triển những cây, con có lợi thế, tăng sản xuất rau
an toàn công nghệ cao; chuyển mạnh phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, tập
trung xa khu dân cư; phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, ứng dụng khoa
học công nghệ trong nuôi trồng, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững.
Mục tiêu đến năm 2020, năm 2025
Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các dự báo về tình hình phát
triển kinh tế xã hội, thực trạng phát triển nông nghiệp của Thủ đô thời gian qua, thành
phố Hà Nội đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng giá trị gia tăng
cao: Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trong giai đoạn
2016-2020 là 2,06%; giá trị sản xuất nông nghiệp trên một ha đất nông nghiệp năm
2020 đạt 340 triệu đồng; tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao trong giá trị sản
xuất nông nghiệp năm 2020 chiếm 30%.
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp gắn với hình thành vành đai cây xanh, vùng
trồng rau sạch, trồng hoa cây cảnh... Nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, an toàn
thực phẩm; nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất
nông nghiệp; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn (sản xuất rau, hoa,
chăn nuôi, thủy sản...)
- Tăng nhanh diện tích sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung quy
hoạch, xây dựng cơ chế chính sách để khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC.
5.1.2. Quan điểm quản lý nhà nước phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở
Hà Nội
- Phát triển công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trên cơ sở khai thác triệt để
mọi tiềm năng, thế mạnh nhưng phải đảm bảo bền vững về môi trường sinh thái. Điều
này dựa trên cơ sở thực trạng nông nghiệp Hà Nội hiện nay chịu sức ép to lớn trong
việc suy giảm nguồn lực đất đai do đô thị hóa song vẫn còn nhiều tiềm năng chưa
được khai thác triệt để để có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ
132
cao, giá trị cao. Đối với Hà Nội việc quán triệt quan điểm này là hết sức quan trọng,
bởi vì những năm qua sản xuất nông nghiệp Thủ đô đã bắt đầu có bước chuyển dịch
theo hướng nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch và bền vững với việc
hình thành các vùng sản xuất sinh thái, tập trung, các mô hình phát triển công nghệ cao
trong sản xuất nông nghiệp. Song song việc chuyển dịch này còn mang tính tực phát,
bị động, phân tán nên hiệu quả chưa được như kỳ vọng do đó quan điểm này là hết sức
cần thiết và quan trọng. Trên cơ sở quan điểm chung này, Thành phố sẽ tập trung chỉ
đạo trong công tác quản lý nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng
phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
- Lấy khoa học công nghệ làm then chốt nhằm biến đổi mạnh mẽ sản xuất
nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp công
nghệ cao. Để phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng giá trị cao thì đòi hỏi việc
lấy khoa học công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất là tất yếu, coi là
khâu then chốt để tạo động lực cải tiến mạnh mẽ cơ cấu sản phẩm, nâng cao năng
suất, chất lượng, giá trị kinh tế. Các công nghệ tiên tiến, hiện đại phải được ưu tiên
quan tâm, có chính sách được tăng cường ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ sinh học. Lấy
khoa học công nghệ làm then chốt trong phát triển nông nghiệp gắn liền với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Đây vừa là mục tiêu, phương hướng sản xuất, đồng thời cũng là phương tiện, động
lực thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Để thực hiện quan điểm này đòi hỏi chính
quyền các cấp Thành phố phải làm tốt công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, bố
trí sản xuất theo hướng khai thác tiềm năng và lợi thể so sánh, đặc biệt những vùng
có nhiều tiềm năng chưa được khai thác, hình thành các vùng trọng điểm chuyên
môn hóa, các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; phải thực hiện tốt các chính
sách đầu tư và ưu tiên mô hình nông nghiệp công nghệ cao, đầu tư đồng bộ hạ tầng,
ưu tiên cho các công nghệ sạch, hiện đại...
- Đảm bảo phát triển nông nghiệp công nghệ cao giải quyết tốt mối quan hệ
giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Thước đo quan trọng để
đánh giá thành công của việc ứng dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao là các
chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Các chỉ tiêu này
phải được giải quyết tốt trong mối quan hệ kết hợp hài hòa, hợp lý mà không thể bỏ
qua hoặc xem nhẹ bất cứ chỉ tiêu nào.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp tham gia
phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Phat triển nông nghiệp công nghệ cao đòi
133
hỏi nhà đầu tư phải có nguồn lực, tri thức để tham gia vào quá trình sản xuất, cộng thêm
sự hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các cơ chế chính sách, chính sách tích tụ ruộng đất,
dồn điền đổi thửa, chính sách khuyến nông... để phát triển sản xuất nông nghiệp.
5.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát
triển nông nghiệp công nghệ cao
5.2.1. Rà soát quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nông
nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao
5.2.1.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường hiệu lực quản lý nhà
nước đối với quy hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp
Các quy hoạch, kế hoạch phát triển của Thủ đô thời gian qua như quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội đến
năm 2020, đến năm 2025 đã chứa đựng các tiêu chí cơ bản của phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, phát triển theo hướng giá trị cao và bền vững. Tuy nhiên các
nội dung đó về cơ bản mới chỉ là mô hình thí điểm ở những vùng có tính đặc thù chứ
chưa được xây dựng trên diện rộng. Hà Nội đã quy hoạch 9 khu nông nghiệp công
nghệ cao nhưng trên thực tiễn chưa có khi nào được đưa vào vận hành, do đó làm
hạn chế việc thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn. Để đẩy mạnh phát
triển nông nghiệp Thủ đô theo định hướng nông nghiệp công nghệ cao cần làm tốt việc
rà soát lại các quy hoạch cũ, tổng kết đánh giá việc thực hiện các mô hình thí điểm
như: Vùng trồng lúa hàng hóa chất lượng cao, trồng rau an toàn, chè an toàn, hoa, thủy
sản, chăn nuôi xa khu dân cư... để tiếp tục điều chỉnh và chi tiết hóa, cụ thể hết vào
quy hoạch phát triển nông nghiệp của Thành phố, việc này cần hoàn thiện sớm trong
năm 2021,2022 làm căn cứ, cơ sở để thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC.
Để khắc phục yếu kém về chất lượng quy hoạch như thiếu đồng bộ, lộn xộn,
thiếu tính khả thi, cần nâng cao năng lực và trách nhiệm của bộ phận lập kế hoạch từ
năng lực đội ngũ cán bộ, phương pháp làm việc xây dựng kế hoạch, tinh thần làm việc
cho đến kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác lập quy hoạch nâng cao
chất lượng. Nâng cao năng lực thẩm định các quy hoạch của đội ngũ cán bộ làm quy
hoạch, định hướng được mục tiêu, giải pháp cho các đơn vị tư vấn lập kế hoạch. Để
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, cần phân định rõ chức năng và sự phối hợp
của các sở, ngành Thành phố.
5.2.1.2. Các giải pháp quy hoạch cụ thể với quy hoạch ngành - Đối với ngành trồng trọt
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần phối hợp chặt chẽ với các
134
ngành hữu quan, UBND các huyện để rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển từng
loại cây trồng trên địa bàn Thành phố trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm, cây trồng
của từng vùng, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa hoặc vùng nguyên liệu gắn
với chế biến công nghiệp; gắn quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công
nghệ cao, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng giá trị cao và bền vững.
UBND các huyện, thị xã tổ chức rà soát, hoàn thiện từng cây trồng chủ yếu trên
phạm vi của địa phương cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp
của Thành phố và quy hoạch các cơ sở chế biến. Khi xây dựng quy hoạch từng cây
trồng, nếu cần thiết điều chỉnh cho sát với thực tiễn và khả năng mới thì cần đảm bảo
tính cân đối với các cây trồng trong quy hoạch tổng thể.
- Đối với ngành chăn nuôi
Hiện nay Thành phố đang thực hiện theo quy hoạch hệ thống giết mổ gia súc,
gia cầm trên địa bàn Thành phố. Quy hoạch khu chăn nuôi, đưa chăn nuôi ra khỏi các
quận nội thành theo quy định của Luật Chăn nuôi đang được Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tham mưu Thành phố ban hành cần được nghiên cứu, lấy ý kiến thấu
đáo, rộng rãi của nhân dân Thủ đô, đặc biệt đối với các đối tượng liên quan, chịu tác
động của quy hoạch.
- Đối với quy hoạch ngành nuôi trồng thủy sản
Rà soát, đánh giá lại các trang trại sản xuất con giống hiện có. Đầu tư nâng cấp
các cơ sở vật chất sản xuất con giống, tăng nhanh tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật
cho sản xuất đại trà phù hợp với điều kiện từng vùng. Xây dựng các cơ sở sơ chế, chế
biến thủy sản tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung.
5.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo điều kiện đầu vào cho phát triển nông
nghiệp CNC
Để đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo đúng mục tiêu đã
xác định thì vai trò tạo hành lang, môi trường pháp lý, chính sách của Nhà nước, của
Thành phố là hết sức quan trọng. Yêu cầu của chính sách là phải được ban hành với
nội dung phù hợp, đồng bộ, khả thi. Qua nghiên cứu kiến nghị Thành phố cần có một
số chính sách tập trung như: Chính sách đất đai, chính sách tài chính tín dụng, chính
sách phát triển thị trường, chính sách hỗ trợ đào tạo, lao động, việc làm, chính sách hỗ
trợ khuyến khích công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp...
- Về chính sách đất đai
+ Xây dựng chính sách hỗ trợ các địa phương dồn điền đổi thửa. Sự manh mún
135
đất đai trong sản xuất nông nghiệp là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao, do đó cần có sự tập trung đất đai với quy mô đủ lớn trên cơ sở
dồn điền đổi thửa và khuyến khích các hộ nông dân tích tụ, tập trung ruộng đất. Việc
này tuy thành phố Hà Nội đã làm rất tốt song cơ bản mới tích tụ được một phần (chưa
thực sự triệt để như một hộ bình quân từ hơn 10 thửa xuống dưới 10 thửa). Vấn đề sẽ
khó thành công khi mà có hiện tượng các hộ dân ngầm chuyển nhượng cho nhau đất
nông nghiệp, do đó vai trò của quản lý nhà nước là rất quan trọng trong việc xây dựng
phương án dồn điền đổi thửa trên tinh thần dân chủ, tự nguyện, thỏa thuận, công khai,
minh bạch.
+ Chính sách hỗ trợ huy động đất đai xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, vùng sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao. Để xây dựng hạ tầng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao cần phải chuyển một phần diện tích
đất phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng vì vậy cần có chính sách hỗ trợ các hộ nông dân
mất diện tích đất nông nghiệp này.
+ Vận dụng linh hoạt các chính sách về đất đai, tạo quỹ đất sạch thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung, tăng cường việc
liên kết giữa doanh nghiệp với các HTX và hộ nông dân trong tích tụ ruộng đất với
nhiều hình thức như: Chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đấ; có
chính sách ưu đãi đối hộ dân trong thu hồi đất phục vụ quy hoạch các khu phát triển
nông nghiệp CNC; xây dựng các chính sách ưu tiên tiếp tục thuê đất công đã đấu thầu
để phát triển nông nghiệp CNC.
- Về chính sách tài chính, tín dụng
+ Chính sách thuế: Thực hiện ưu đãi về thuế, giảm thuế, miễn thuế, hỗ trợ tiền
thuê đất cho các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Ví dụ như: Hỗ trợ tiền thuê đất cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp
theo quy định; miễn giảm thuế cho các trang trại, đơn vị thực hiện các mô hình sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao.
+ Chính sách tín dụng: Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho đối
tượng nông dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao. Có
chính sách hỗ trợ tín dụng cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để
khuyến khích nhà đầu tư đầu tư vào nông nghiệp CNC. Cần tập trung có giải pháp
mạnh hơn để tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn nhiều hơn, đơn giản hóa các
thủ tục hành chính, thủ tục thế chấp, bảo lãnh. Tập trung tháo gỡ các khó khăn, hoàn
thiện thủ tục vay vốn theo hướng đơn giản, thuận tiện tạo điều kiện để đẩy mạnh việc
136
cho vay vốn trung hạn và dài hạn, tạo điều kiện cho cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư
chiều sâu, thực hiện hiện đại hóa cơ sở vật chất và đổi mới công nghệ như cơ giới hóa
trong sản xuất nông nghiệp, làm nhà kính, nhà lưới, áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt
và công nghệ sau thu hoạch; tăng cường tiếp cận giữa các tổ chức ngân hàng, tổ chức
tín dụng và người nông dân.
- Chính sách phát triển thị trường
Thị trường là nhân tố quyết định sự sống còn của sản xuất, kinh doanh nói
chung, kinh doanh sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Đặc
biệt đối với sản phẩm công nghệ cao trong sản xuất, nếu không có biện pháp cụ thể để
phát triển thị trường thì rất khó khăn trong vấn đề sản xuất, phát triển. Cần tạo điều
kiện để các sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn được dễ dàng đến tay người tiêu dùng.
Qua nghiên cứu cho thấy nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô đối với các sản phẩm an
toàn như rau an toàn, hoa quả đặc sản ngày càng tăng nhưng các điều kiện để đảm bảo
gắn kết người tiêu dùng với sản phẩm sạch còn yếu kém, đó là các kênh thông tin phân
biệt sản phẩm sạch để người tiêu dùng yên tâm lựa chọn và sử dụng; các kênh tiêu thụ
thông suốt, thường xuyên, kịp thời đến các siêu thị trong Thành phố; mức giá cả hợp
lý vừa đảm bảo lợi ích của người sản xuất với thu nhập của người tiêu dùng.
Hỗ trợ người sản xuất xây dựng thương hiệu sản phẩm, cấp chứng chỉ về chất
lượng sản phẩm và phải thực hiện cho tất cả các vùng sản xuất (Thành phố mới thí
điểm một số vùng) sau đó quảng bá, giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin
đại chúng cho người dân biết. Nghiên cứu, hỗ trợ thành lập các HTX tiêu thụ và tổ
chức hoạt động tiêu thụ. Các HTX này hình thành tại các vùng sản xuất, làm nhiệm vụ
ký hợp đồng cung ứng và vận chuyển trực tiếp sản phẩm vào siêu thị và cửa hàng tại
nội thành của Thành phố. Cần nghiên cứu trợ giá trong giai đoạn đầu khi mới đưa ra
thị trường các sản phẩm an toàn có giá thành cao để người tiêu dùng tiếp cận và quen
dần sản phẩm.
Có giải pháp tổ chức tốt khâu bao tiêu sản phẩm cho người nông dân, gắn kết
các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm ký kết trực tiếp với người nông dân cùng
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Với vùng sản xuất hàng hóa tập trung, trọng
điểm cần đầu tư xây dựng thành khu liên hợp từ cung cấp nguyên liệu, đến sản xuất,
chế biến và tiêu thụ, xây dựng mối liên kết 4 nhà. Rà soát lại quy hoạch để triển khai
đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, chợ đầu mối, các hợp tác xã vùng chuyên
canh, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các khu dân cư hoặc khu công nghiệp. Tổ
chức đa dạng hóa các hình thức tiêu thụ nông sản cho nông dân, khuyến khích tạo mọi
137
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tham gia chế biến và tiêu thụ sản phẩm; các
hoạt động thông tin, tiếp cận thị trường, nâng cao trình độ tiếp thị cho nông dân và các
tổ chức kinh doanh nông sản, nâng cao vai trò quản lý của chính quyền Thành phố
trong việc quảng cáo và môi giới xuất khẩu. Thành phố cũng cần đầu tư nâng cao năng
lực dự báo thị trường, về tình hình cung – cầu trong cả dài hạn và trung hạn, giá cả của
mỗi loại hàng hóa. Trên cơ sở dự báo thị trường xây dựng chương trình, quy hoạch, kế
hoạch đầu tư sản xuất, lựa chọn hình thức, thời điểm tham gia thị trường để có hiệu
quả nhất.
+ Hỗ trợ phát triển thông tin thị trường, tăng cường hơn nữa vai trò của chính
quyền thành phố Hà Nội trong việc tư vấn cho người sản xuất về thông tin thị trường
bằng việc phát triển mạng lưới công nghệ thông tin xuống cấp huyện, cấp xã để cập
nhật công nghệ thông tin trong nước và quốc tế đến với người sản xuất; hỗ trợ các hoạt
động triển lãm và quảng bá sản phẩm trên thị trường, đào tạo kiến thức quản lý kinh tế,
về thị trường cho nông dân vùng sản xuất nông nghiệp CNC.
+ Xác tiến các hình thức tiêu thụ sản phẩm bằng cách tạo hành lang pháp lý
thuận lợi trong tiêu thụ, khuyến khích mọi hình thức tiêu thụ để khai thông kênh phân
phối nhất là đối với các sản phẩm có hàm hượng công nghệ cao.
+ Tăng cường biện pháp quản lý thị trường, tăng cường vai trò của các cơ quan
nhà nước thực hiện tốt công tác quản lý thị trường đầu vào và đầu ra, đặc biệt đối với
cây, con giống, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc, thuốc thú y...
+ Nghiên cứu, ban hành chính sách bảo hiểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bảo
hộ bản quyền sản xuất, xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm quy định về bản
quyền sản xuất như hàng nhái, hàng giả...
+ Tiếp tục thực hiên các chính sách khuyến khích, đào tạo việc làm Thành phố
đang triển khai, đồng thời tập trung có biện pháp đi vào thực chất hơn trong công tác
đào tạo, tạo điều kiện sắp xếp vị trí, việc làm phù hợp sau khi đào tạo; thực hiện tốt
công tác xã hội hóa đào tạo nghề, xây dựng đội ngũ trí thức phục vụ nông nghiệp...
- Chính sách thu hút vốn đầu tư
Thực hiện đa dạng hóa các nguồn huy động vốn từ nhiều nguồn, không chỉ từ
nguồn ngân sách, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tín dụng và nguồn vốn của người sản
xuất, hình thức huy động có thể từ đấu thầu quyền sử dụng đất, tự đầu tư hoặc nhà
nước và người dân cùng làm. Thực hiện việc đấu thầu quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật để huy động vốn vào đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
138
như: Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học công nghệ, thiết bị hiện đại vào sản
xuất... Đối với những nơi khó khăn, các công trình gắn bó trực tiếp với sản xuất nông
nghiệp như cầu cống, kênh mương... hộ sản xuất đóng vai trò chính, nhà nước đóng
vai trò hỗ trợ, hướng dẫn.
Đề thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao cần có sự vào cuộc, sự phối hợp chặt chẽ giữa
Thành phố và các bộ, ngành, đầu tư phát triển đồng bộ và hiện đại các cơ sở hạ tầng,
ưu tiên cho khu vực có dự án khu nông nghiệp công nghệ cao; quan tâm đẩy mạnh
công tác cải cách hành chính, thủ tục cấp phép, phê duyệt các dự án, chương trình phát
triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, cải tiến các cơ chế, chính sách trong đầu tư,
tăng tỷ lệ đầu tư cho ngoại thành và nông nghiệp, tập trung tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp
cho nông nghiệp.
- Có chính sách ưu tiên người dân sử dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp
như: Vay ưu đãi, đầu tư cơ sở hạ tầng... Khuyến khích các doanh nghiệp và nông dân
mạnh dạn đầu tư áp dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nhằm tăng hàm lượng khoa
học trong sản phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm.
5.2.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình, chính
sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao
- Việc triển khai, đôn đốc thực hiện quy hoạch phải được thực hiện thường
xuyên; quan tâm đến vấn đề tổ chức, phối hợp, chỉ đạo hoạt động để đảm bảo các kế
hoạch đi vào thực tế
- Tập trung triển khai kịp thời, có hiệu quả các cơ chế chính sách khuyến khích
phát triển sản xuất nông nghiệp mà Trung ương đã ban hành tại các Nghị định như: Số
98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển
hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Số 57/2018/NĐ-CP
ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 83/2018/NĐ-CP ngày 24/5/2018 của
Chính phủ về khuyến nông…, các Nghị quyết của HĐND Thành phố.
- Tập trung nhân rộng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao với các cơ chế
chính sách đang áp dụng có hiệu qủa để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy
mô lớn và hàm lượng công nghệ cao.
- Thực hiện giám sát, khảo sát, kiểm tra, đánh giá việc triển khai, tổ chức thực
139
hiện chính sách, phát hiện, đề xuất điều chỉnh, bổ sung hoặc bãi bỏ cơ chế, chính sách
không còn phù hợp. Quan tâm đến các chính sách như: Tháo gỡ khó khăn trong tiếp
cận vốn vay, bố trí nguồn ngân sách trong việc hỗ trợ sau đầu tư; các chính sách liên
quan đến tiếp cận đất đai, cải cách thủ tục hành chính, thể chế, pháp lý, chính sách,
cho các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp CNC...
nhằm đạt mục tiêu tổng thể là phát triển nông nghiệp Thủ đô bền vững, có giá trị gia
tăng cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội, ổn định trật tự xã hội khu vực nông thôn
trên địa bàn Thành phố. Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế,
hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC. Khuyến khích phát triển các mối liên kết
4 nhà giữa nhà nước, hộ nông dân, các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học,
hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao.
- Tăng cường quản lý, củng cố và hỗ trợ, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh của các HTX nông nghiệp theo hướng công nghệ cao vào sản xuất để
hướng dẫn, giúp đỡ nông dân trong sản xuất nông nghiệp; triển khai hướng dẫn và
thực hiện hỗ trợ của nhà nước (hiện nay một số chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao có đối tượng thụ hưởng là
HTX). Tổ chức hiệp hội, ngành hàng nông nghiệp nhằm tạo chuỗi liên kết giúp tăng
cường quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tạo môi trường thuận lợi để
hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp tại nông thôn, nhất là các
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân.
- HĐND Thành phố tăng cường giám sát việc triển khai các quy định, kế hoạch
phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo nhiệm vụ Trung ương giao và các Nghị
quyết của HĐND Thành phố đã ban hành về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
trên địa bàn Thành phố. UBND Thành phố xây dựng quy chế, tăng cường công tác
phối hợp giữa các sở, ngành Thành phố, UBND các huyện, thị xã trong việc thực thi
chính sách, trong đó đặc biệt là sự phối hợp giữa sở Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, sở Khoa học công nghệ, sở Công thương và các đơn vị khác.
- Tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về các chính sách
của Trung ương và Thành phố; các nội dung, vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao đề người dân biết, tham gia thực hiện. Tuyên truyền nâng cao nhận thức
của người dân về vai trò của khoa học, công nghệ, yêu cầu của an toàn thực phẩm và
bảo vệ môi trường sinh thái đối với hoạt động của sản xuất nông nghiệp.
140
5.2.4. Giải pháp về kiểm soát và khắc phục tốt các thất bại của thị trường
- Đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy hoạch,
chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trong đó quan tâm chú
trọng kiểm tra đột xuất, kiểm tra sâu, kiểm tra quy trình, thủ tục hỗ trợ.
- HĐND các cấp xây dựng kế hoạch hàng năm, tổ chức giám sát việc thực
hiện quy hoạch, chương trình và các chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn, đồng thời giám sát, đôn đốc việc thực hiện các kết luận giám sát,
kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện quy hoạch, chính sách phát triển nông nghiệp
công nghệ cao.
- Tổ chức rà soát kết quả thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách để nhận
định các hạn chế và đề xuất điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
- Thực hiện công khai, minh bạch quy hoạch, chương trình, các chính sách, quy
trình, thủ tục hành chính liên quan đến hỗ trợ theo các chính sách của Trung ương và
Thành phố đã ban hành.
- Tăng cường cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục để giúp các
cơ sở SXKD, người nông dân tiếp cận được chính sách dễ dàng hơn.
5.2.5. Các giải pháp khác
5.2.5.1. Giải pháp về đẩy mạnh phát triển liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Hà
Nội với nông nghiệp các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng
Nông nghiệp Hà Nội do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ tiếp tục bị thu hẹp dần về
quy mô đất đai, trong khi đó nhu cầu sản phẩm nông sản lại không ngừng tăng cả về số
lượng, chất lượng, an toàn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy việc mở rộng liên kết
giữa Hà Nội và các tỉnh phụ cận là hết sức cần thiết. Để làm tốt được giải pháp này,
chúng ta cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu
biết về liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh trong vùng Đồng bằng
Sông Hồng. Yêu cầu này ngày càng tăng, càng quan trọng khi kinh tế nước ta chuyển
dần sang sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên thực tế
mặc dù Hà Nội và một số tỉnh thành lân cận đã ký kết được 21 chuỗi liên kết cung ứng
hàng hóa nông sản, tuy nhiên việc liên kết nông nghiệp Hà Nội vẫn cần phải tuyên
truyền nâng cao nhận thức được cả ở cấp vĩ mô và cấp vi mô. Nội dung tuyên truyền
có thể quan tâm vào sự cần thiết phải liên kết, lợi ích của việc liên kết và cần làm rõ cả
về hình thức và nội dung của các mối quan hệ trong liên kết để người sản xuất, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm lựa chọn cho phù hợp.
141
Thứ hai, tiến hành việc rà soát, đánh giá tiềm năng và các cơ hội phát triển liên
kết trong nông nghiệp giữa Hà Nội với các tỉnh.
Thứ ba, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong phát triển các mối quan hệ liên
kết nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh. Vai trò quản lý vĩ mô trong liên kết kinh tế nói
chung, kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao giữa Hà Nội với các tỉnh
trong vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng đã được xác định rõ trong lý luận và cả
thực tiễn. Quản lý nhà nước trong các hoạt động liên kết giữa nông nghiệp Hà Nội và
các tỉnh những năm qua đã có bước chuyển, phát triển tuy nhiên vẫn chưa đạt yêu cầu
như công tác kiểm soát xuất sử nguồn gốc sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm... Vì
vậy, việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong liên kết nông nghiệp giữa Hà Nội và
các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, vừa là giải pháp để đẩy mạnh mối
liên kết này.
Cần tập trung thiết lập các tổ chức thực thi các hoạt động quản lý nhà nước về
liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Thủ đô với nông nghiệp các tỉnh trong vùng Đồng
bằng sông Hồng; xây dựng cơ chế phối hợp để tổ chức thực hiện. Rà soát các quy
hoạch, bố trí các vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp trong mối quan hệ vùng,
chú ý đến vùng cung cấp nông sản cho Hà Nội, làm cơ sở hỗ trợ mang tính nhà nước
của Hà Nội cho các tỉnh. Có kế hoạch triển khai các hoạt động liên kết trong sản xuất
nông sản mang tính chất vùng để tạo điều kiện cho nông sản cung cấp vào Hà Nội,
đảm bảo an toàn ngay từ nơi sản xuất, có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Xây dựng các cơ
chế liên kết giữa nông nghiệp Thủ đô với nông nghiệp các tỉnh và Hà Nội cần phát huy
vai trò, vị thế của Thủ đô để chủ động tổ chức xây dựng các cơ chế liên kết.
Tăng cường công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát trong sản xuất, lưu thông
nông sản để đảm bảo công tác phòng dịch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho
người tiêu dùng Thủ đô.
Thứ tư, đẩy mạnh gắn kết giữa các chủ thể sản xuất, chế biến tiêu thụ nông sản
nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Hoàn thiện, đổi
mới các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường cho phát triển các mối liên kết. Qua
nghiên cứu cho thấy hiện nay sự phối hợp giữa Hà Nội và các tỉnh mới chỉ tập trung
nhiều trong khâu kiểm soát lưu thông nông sản khi có dịch bệnh. Các chính sách sản
xuất và lưu thông các sản phẩm an toàn như rau an toàn gần đây mới được chú ý.
Quan tâm thiết lập trật tự trong hoạt động liên kết trong hệ thống tiêu thụ sản
phẩm nông sản các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng ở Hà Nội. Một thực tế cho
142
thấy khó khăn trong kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm là thiếu sự giám sát trong
quá trình liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Người sản xuất nông
sản an toàn, nông sản công nghệ cao trong sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm theo
đúng giá trị thực của nó nên sản xuất nông sản an toàn chưa thực sự hấp dẫn đối với
người sản xuất. Cần phải liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở sản xuất với các quầy hàng,
cửa hàng, siêu thị để sản phẩm có nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng. Tổ chức tạo lập mối
quan hệ lâu dài giữa những người lưu thông, phân phối với người sản xuất nông sản và
cần thông qua các thỏa thuận, cam kết, hợp đồng kinh tế. Tổ chức các hình thức tiêu
thụ nông sản theo hướng văn minh, hiện đại, thuận tiện.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở sản xuất, chế
biến nông sản hiện nay còn mang tính tự phát, chưa có tổ chức và sự liên kết chặt chẽ,
do đó cơ quan quản lý nhà nước của Hà Nội cần tổ chức thực hiện chuyên môn hóa
khâu lưu thông, tiêu thụ sản phẩm nông sản, nâng tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua các kênh
có tổ chức nột cách khoa học, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tăng cường
công tác quản lý thị trường, chú trọng công tác quản lý thị trường nông sản, kiểm soát
chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm; tổ chức các đơn vị có chức năng lấy mẫu thử
nhanh về chất lượng nông sản.
Thứ năm, nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đáp
ứng yêu cầu liên kết giữa Hà Nội với các tỉnh. Tập trung ruộng đất theo mô hình cánh
đồng mẫu lớn; rà soát và hướng sản xuất kinh doanh đối với các cơ sở nông nghiệp ở
những vùng kinh doanh chuyên môn hóa theo yêu cầu liên kết. Đặc biệt cần nghiên
cứu về sự kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông
Hồng với các cơ sở chế biến, tiêu thụ ở Hà Nội.
5.2.5.2. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi rất cao đối với nguồn nhân lực về
trình độ, mặc dù hiện nay nguồn nhân lực của Hà Nội có chất lượng mặt bằng cao hơn
các địa phương khác, nhưng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng để phát triển nông
nghiệp công nghệ cao là hết sức cần thiết. Đối với từng ngành cần xây dựng kế hoạch,
nội dung đào tạo cho phù hợp
Đối với ngành trồng trọt công nghệ cao cần đào tạo đội ngũ khoa học, cán bộ
quản lý, cán bộ khuyến nông ở các cấp; tăng cường đào tạo người nông dân sản xuất
trồng trọt theo các hình thức thích hợp để trở thành người sản xuất chuyên nghiệp.
Đối với ngành chăn nuôi: Đầu tư cho công tác đào tạo, trang thiết bị cho công
tác thú y, nâng cao năng lực công tác phòng dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm;
143
năng lực khảo nghiệm của các trung tâm giống vật nuôi, quản lý các cơ sở sản xuất
thức ăn chăn nuôi...
Đối với ngành nuôi trồng thủy sản: Đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, nguồn
nhân lực trong sản xuất con giống; mở các lớp tập huấn nuôi trồng thủy sản, đào tạo
nghề nuôi trồng thủy sản...
5.2.5.3. Giải pháp về khoa học công nghệ
- Về loại hình công nghệ, cần ưu tiên cho công nghệ cao, công nghệ sạch và
công nghệ sinh học, như công nghệ sản xuất rau an toàn trong nhà lưới và tưới bằng
nước ngầm qua xử lý, công nghệ sinh học trong lai tạo giống, công nghệ vi sinh trong
chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh, công nghệ chăn nuôi chất lượng cao...
- Về lĩnh vực áp dụng khoa học công nghệ, cần tập trung nghiên cứu và chuyển
giao cho khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm. Tập trung mở rộng tập huấn và chuyển giao kỹ thuật, áp dụng giống mới
và sản xuất sạch. Tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học –
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp:
+ Đối với ngành trồng trọt: Thực hiện ứng dụng quy trình cơ giới hóa đồng bộ
triển khai áp dụng một số máy móc nông nghiệp phù hợp với điều kiện sản xuất nông
nghiệp tại địa phương nhằm thúc đẩy cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp; quy trình thâm
canh lúa cải tiến, công nghệ kiểm soát và chủ động điều tiết nước theo nhu cầu sinh
trưởng đối với cây lúa hàng hóa chất lượng cao; kỹ thuật trồng hoa, rau an toàn, trong
nhà lưới, theo tiêu chuẩn VietGap; mô hình tưới tiết kiệm nhỏ giọt, các biện pháp
trong khâu làm đất... Tập trung nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai để tạo ra các giống lúa,
rau... có các đặc tính ưu việt, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu của thị trường; áp dụng
công nghệ vi sinh giống để đáp ứng nhu cầu cây giống chất lượng cao, đem lại hiệu
quả kinh tế cao.
+ Đối với ngành chăn nuôi: Qua nghiên cứu cho thấy cần phải tập trung nghiên
cứu phát triển và ứng dụng quy trình chăn nuôi VietGap; công nghệ chuồng kín trong
chăn nuôi công nghiệp, hệ thống thức ăn tự động, cấp điện chủ động; áp dụng công
nghệ chăn nuôi gà sạch khép kín quy mô công nghiệp, tự động hóa...
Nghiên cứu, lai tạo giống bò thịt, lợn thịt chất lượng cao, ứng dụng cải tiến
công nghệ sinh sản, đặc biệt là công nghệ tế bào động vật trong đông lạnh tinh, ứng
dụng công nghệ gen trong xác định giới tính phôi, sử dụng tinh phân giới tính để tạo ra
đàn bê có từ 85 - 90% bê cái.
144
Về chuyển giao kỹ thuật trong công tác giống: Đưa giống ngoại có năng suất,
chất lượng cao phục vụ cho lai tạo với đàn nái nền địa phương; tiếp tục tổ chức phối
giống bò miễn phí (bò lai Zebu) cho các hộ dân theo phương pháp thụ tinh nhân tạo
nhằm cái tiến nhanh chất lượng giống; bảo tồn giống gà mía, đưa giống mới vào sản
xuất, nâng cao năng lực về quản lý chăn nuôi; đầu tư, nâng cấp cơ sở sản xuất tinh
dịch lợn tại Thạch Thất, Gia Lâm, Ứng Hòa với quy mô khoảng 100 - 200 lợn đực
giống chất lượng cao; đẩy mạnh công tác khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa
học kỹ thuật, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao giá trị, hiệu quả kinh tế. Thành phố hỗ trợ các loại
vắcxin tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm gia súc, gia cầm, xây dựng các trại chăn
nuôi theo tiêu chuẩn VietGap, ứng dụng công nghệ xử lý môi trường trong chăn nuôi.
+ Đối với ngành nuôi trồng thủy sản: Cần đẩy mạnh ứng dụng quy trình công
nghệ nuôi thâm canh thủy sản theo quy trình VietGap; nghiên cứu hệ thống nuôi thích
ứng với từng điều kiện, thổ nhưỡng. Tiếp tục nhân rộng công nghệ sinh sản nhân tạo
với giống thủy sản có giá trị kinh tế cao, phù hợp với địa phương và thích ứng với biến
đổi khí hậu. Đưa các giống mới có hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất; chuyển giao
công nghệ sản xuất giống tiên tiến cho các cơ sở sản xuất con giống, phát triển các
giống thủy sản đặc sản.
- Về các khu nông nghiệp công nghệ cao cần ưu tiên đầu tư và nhân rộng như
mô hình ở xã Nam Hồng (huyện Đông Anh), mô hình nuôi trồng thủy sản tại xã Đông
Mỹ (huyện Thanh Trì)... Tổng kết các mô hình thực tiễn về công nghệ cao trong nông
nghiệp để mở rộng và nâng cao hiệu quả mô hình.
- Tăng lượng vốn đầu tư trực tiếp cho khoa học, công nghệ trong nông nghiệp
để nghiên cứu phát triển công nghệ cao, sạch, sinh học vào giải quyết được các vấn đề
thuộc 3 lĩnh vực: Sản xuất, chế biến, vệ sinh an toàn thực phẩm và xử lý môi trường.
- Tăng cường tiềm lực về điều kiện vật chất, trình độ cán bộ và cơ chế, chính
sách cho các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ gắn với yêu
cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố. Việc chuyển giao khoa học,
công nghệ cần lựa chọn được những tiến bộ kỹ thuật phù hợp với điều kiện địa
phương, phù hợp với trình độ, khả năng tiếp nhận của cơ sở để chuyển giao khoa học
công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra cần căn cứ vào điều kiện đất đai, khí
hậu, trình độ và mức độ phát triển cơ sở hạ tầng của từng vùng.
5.3. Kiến nghị với Trung ương và các bộ ngành liên quan
Nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai để tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quản
lý sử dụng đất đai hiện nay, cần có quy định cụ thể về tích tụ tập trung ruộng đất, có chính
145
sách thông thoáng hơn cho người dân được giao đất, cho thuê đất tạo điều kiện phát triển
hàng hóa chuyên canh quy mô lớn, phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Đề xuất Trung ương, Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy hoạch phân
lũ thuộc lưu vực các sông chảy qua địa bàn thành phố Hà Nội phù hợp với thực tiễn
hiện nay để làm căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công
nghệ cao đối với khu vực ngoài đê, là khu vực có tiềm năng lớn để phát triển nông
nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội.
Hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của
Chính phủ về các chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ban hành các quy định về các định mức kinh tế kỹ
thuật còn thiếu để Thành phố áp dụng trong quá trình hỗ trợ phát triển sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao (như: Nhà màng, nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới tiết kiệm tự
động, bán tự động, hệ thống chuồng kín điều tiết nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, hệ thống
quan trắc, cảnh báo môi trường đối với lĩnh vực thủy sản...
Ban hành quy định về phát triển kinh tế trang trại, cơ giới hóa trong sản xuất
nông nghiệp công nghệ cao.
Quan tâm, có chính sách điều tiết nguồn thu cho Thành phố (từ 35% lên 42%)
để thực hiện các chương trình mục tiêu trên địa bàn; thực hiện chương trình công nghệ
cao trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Các bộ, ngành quan tâm phối hợp chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật để
thúc đẩy, ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp của Thủ đô; tăng cường đẩy
nhanh thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố đã được Trung ương quy
hoạch và phê duyệt.
146
KẾT LUẬN
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang trở thành xu hướng tất yếu. Nông
nghiệp công nghệ cao đóng góp vai trò rất quan trọng cho phát triển nông nghiệp bền
vững trong dài hạn. Thực tế cho thấy, để phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì vai
trò quản lý nhà nước là rất quan trọng, nhà nước định hướng, quy hoạch, hỗ trợ thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Qua quá trình nghiên cứu đề tài quản lý nhà
nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh,
nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, luận án đã đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
Luận án đã nghiên cứu, tổng quan được các công trình nghiên cứu về quản lý
nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, về vai trò của nhà nước trong việc
phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các chương trình, cơ chế chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của một số nước trên thế giới và một số
địa phương trong nước. Qua đó đã làm rõ vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác
quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp công nghệ
cao trên địa bàn thành phố Hà Nội; hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn, làm rõ nội
hàm, khung lý thuyết về quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại
Hà Nội (xây dựng chương trình, quy hoạch; ban hành các chính sách; tổ chức thực
hiện và kiểm tra, giám sát). Luận án cũng đã làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý
nhà nước về nông nghiệp công nghệ cao, phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội trong những năm
qua; chỉ ra những thành công, tìm ra các tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cản trở,
gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội
để từ đó đề xuất các quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm góp phần thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Hà Nội đến năm 2025 và những
năm tiếp theo, đặc biệt chú trọng đến giải pháp quản lý nhà nước về quy hoạch, về xây
dựng cơ chế chính sách, thu hút, đầu tư cho khoa học công nghệ; đào tạo nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác trong lĩnh vực nông nghiệp, nông nghiệp công
nghệ cao; các giải pháp về thực thi chính sách, khắc phục thất bại của thị trường và
một số giải pháp khác.
147
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Minh Tuân (2018), “Liên kết chuỗi tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Hà
Nội cần có chính sách hỗ trợ”. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2018.
2. Nguyễn Minh Tuân (2019), “Chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp thành phố Hà Nội”, Thực trạng và giải pháp Kỷ yếu hội thảo khoa học
quốc gia, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2019.
3. Nguyễn Minh Tuân (2020), “Nông nghiệp Hà Nội sau hơn 10 năm điều chỉnh địa
giới hành chính: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số
271(II), tháng 01/2020.
4. Nguyễn Minh Tuân (2020), “Nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội:
Thực trạng và giải pháp.” Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 14, tháng 5/2020.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andersson, L., Bengtsson, J., Dahlén, L., Ekelund Axelsson, L., Eriksson, C.,
Fedrowitz, K., Fischer, K., Friberg, H., Hallin, S., Hunter, E., Jansson, T.,
Johnsson, P., Mobjörk, M., Oskarsson, D., Patel, M., Rydhmer, L., Räty, R.,
Röös, E., Slätmo, E., Stenström, M., Sundberg, C., Svensson, C., Westholm, E.,
Wikman Svahn, P. (2017), Agriculture in 2030 – stories of the future, Uppsala,
Swedish University of Agricultural Sciences.
2. Ánh Dương (2018), Đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao: Tháo gỡ những
“nút thắt”, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020 từ http://hanoimoi.com.vn/tin-
tuc/kinh-te/902266/dat-tu-cho-nong-nghiep-cong-nghe-cao.
3. Ban chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.
4. Banerjee, B., Martin, S., Roberts, R., Larson, J., Paxton, K., English, B., Mara,
M, and Reeves, J. (2008), “A Binary logit estimation of factors affecting
adoption of GPS guidance systems by cotton producers”, Journal of agricultural
and applied economics. pp. 345-355.
5. Barbara Chmielewska (2009), "The Problems of Agriculture and Rural Areas in
the Process of European Integration”, Journal of international studies, Vol 2, No
1, 2009, pp 127-132.
6. BELIZE (2003A), Agricultural Development Management and Operational
Strategy, TCP.
7. Bonabana-Wabbi J.
(2002), Assessing Factors Affecting Adonption of
Agraicultural Technologies: The Case of Integgrated Pest Management (IPM) in
kumi District, Msc. Thesis. Eastern UgandaChalla.
8. Bongiovanni R and J Lowenberg-Deboer (2004), “Precision agriculture and
sustainability”, Precision Agriculture 5: 359-387.
9. Bui Hong Nhung (2016), “Foreign investors show little interest in Vietnam’s
April 2018, agricultural sector”, retrieved on 4th
show-little-interest-in-
https://e.vnexpress.net/news/business/foreign-investors-
vietnam-s-agriculture-sector-3491102.html.
149
10. C.Ramasamy (2004), “Constraints to Growth in Indian Agriculture: Needed
Technology, Resource Management and Trade Strategies”, Ind. Jn. of Agri.
Econ. Vol.59, No.1, Jan.-March.
11. Dan senor – saul singer (2008), Start –up nation The story of Israel’s Ecomomic
miracle, Warner Books Inc.
12. Dan Senor - Saul singer (2008), Trong tác phẩm quốc gia khởi nghiệp, câu
chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, NXB Thế giới.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
14. Đặng Kim Sơn (2009), Xây dựng chiến lược nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Viện
Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn.
15. Đăng Nguyên (2011), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Thực trạng và định
hướng phát triển tại Sơn La”, Bản tin khoa học và công nghệ Sơn La, số 2, trang
17-18
16. Đỗ Phú Hải (2016), “Về chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước
ta”. Tạp chí Cộng sản, số 881, tr 50-53.
17. Đỗ Xuân Trường (2017) “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Doanh nghiệp
khó tiếp cận các chính sách ưu đãi”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.
18. Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010). “Nông nghiệp công nghệ cao: Hướng đi
tất yếu của nông nghiệp Việt Nam”, Kinh tế và dự báo, số 18, tr 14-16.
19. E. Wesley và F. Peterson (1986), Agricultural structure and economic
adjustment, in: Agriculture and Hunman Values, september 1986, volume 3,
http://link.springer.com.
20. FAO (2006), Rapid growth of selected Asian economies Lessons and
implications for agriculture and food security China and India.
21. Frankelius P, C Norrmann and K Johansen (2017), “Agricultural innovation and
the role of institutions: lessons from the game of drones”, Journal of Agricultural
and Environmental Ethics http://doi.org/10.1007/s10806-017-9703-6.
22. Guy Hunter Director (1974), The Implementation of Agricultural Development
Policies: Organisation, Management and Institutions, Overseas Development
Institute Ltd. London.
150
23. Hà Nội Mới (2016), Phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội: vẫn khó
vì thiếu vốn, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ https://hanoimoi.com.vn/tin-
tuc/Kinh-te/856319/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-tai-ha-noi-van-kho-
vi-thieu-von.
24. Hallam D (2011), “International investment in developing country agriculture -
issue and challenges”, Food Security 3 (Suppl 1), S91-S98.
25. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Về thí điểm một số chính sách
khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành
phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016, Hà Nội.
26. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Chính sách khuyến khích phát triển
vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn
2014-2020, Hà Nội.
27. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Về chính sách khuyến khích phát
triển vùng sản xuất chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-
2020, Hà Nội.
28. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Về một số chính sách thực hiện
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội
giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
29. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 của Hội đồng nhân
dân thành phố Hà Nội về thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn
2012-2016, Hà Nội.
30. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2018), Về một số chính sách khuyến khích
phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội. Hà
Nội.
31.
Julian M.Alston (2014 ), Agriculture in the Global Economy, University of
California.
32. Kiệt Vũ (2017), Hà Nội chờ dự án nông nghiệp công nghệ cao, truy cập ngày 17
tháng 4 năm 2020 từ https://baodautu.vn/ha-noi-cho-du-an-nong-nghiep-cong-nghe-
cao-d68187.html..
151
33.
Lai, C. S. K., & Pires, G (2010), “Testing of a model evaluating e-government
portal acceptance and satisfaction”, The Electronic Journal Information Systems
Evaluation, 13(1), 35–46.
34. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2017), chia sẻ ứng dụng công nghệ cao trong
nông nghiệp, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ http://www.vca.org.vn.
35. Linda Lundmark, Camilla Sandstrom (2013), Natural resources and regional
development theory, http://www.diva-fortal.org.
36. Magoutas, B., & Mentzas, G (2010), “SALT: A semantic adaptive framework for
monitoring citizen satisfaction from e-government services”, Expert Systems
With Applications, 37(6), 4292–4300.
37. Mikkola (2008) “Coordinative structures and development of food supply
chains”, British Food Journal, Volume 110, Number 2, 2008, pp 189-205.
38. Modal P and M Basu (2009), “Adoption of agriculture technologies in India and
in some developing countries: Scope, present status and strategies”, Progress in
Natural Science 19: 659-666.
39. Murakami E, AM Saraiva, LCM Ribeiro, Jr., CE Cugnasca, AR Hirakawa and
PLP Correa (2007), “An infrastructure for the development of distributed
service-oriented information systems for precision agriculture”, Computers and
Electronics in Agriculture 58: 37-48.
40. Ngô Thị Lan Hương (2016), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh
tế nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững từ năm 2001 - 2013, luận án Tiến
từ
sỹ 2018, tháng ngày năm truy cập 16 3
https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/simple_document.php?subfolder=66/53/
33/&doc=66533322397796946109516353201827715&bitsid=ebaee238-8824-
4736-9ee2-efacab5acae0&uid=.
41. Nguyễn Anh Phong, Phạm Thị Thu Hà (2017), “đầu tư phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao: thách thức và giải pháp”, kỷ yếu hội thảo khoa học
quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng
công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 113-128.
42. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà. (2016). “Phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ở Bắc Ninh”. Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 18, tr 53-55.
43. Nguyễn Điền (1997), CNH nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
152
44. Nguyễn Hạnh (2017). Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp ở Hà Nội:
Doanh nghiệp chưa mặn mà, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020 từ
https://baomoi.com/ung-dung-cong-nghe-cao-trong-nong-nghiep-tai-ha-noi-doanh-
nghiep-chua-man-ma/c/24420437.epi.
45. Nguyễn Minh Phong (2011), Sáu đột phá phát triển nông nghiệp, Viện Nghiên
cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Kim Sang (2017), “Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công
nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 183-190.
47. P.W.Heringa, C.M.Van der Heideb và W.J.M.Heijman (2013), "The economic
impact of multifunctional agriculture in Dutch regions: An input-output model”,
Njas – Wageningen joural of life sciences, Volumes 64-65, September 2013,
pages 59-66.
48. Paul Higgins (2007), “Performance and user satisfaction indicators in British
local Government lessons from a case study- Public” Management Review ISSN
1471-9037 print/ISSN 1471-9045 online, Vol. 7 Issue 3 2005, 445 – 464.
49. Phạm S (2014), Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc
tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
50. Phạm S (2014), trong tác phẩm, Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu
để hội nhập quốc tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
51. Phạm Trần Minh Trang (2017), “Các yếu tố tác động đến việc đầu tư phát triển
nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ cao của các hộ nông dân nhỏ tại Việt
Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công
nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội, tr 85 – 95.
52. Phạm Văn Hiển (2014), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam: Kết
quả ban đầu và những khó khăn cần tháo gỡ”. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á,
số 12/2014, tr 64-70.
53. Shaik. N. Meera, Anita Jhamtani, and D.U.M. Rao (2004), Information and
communication technology in agricultural development: a comparative analysis
of three projects from India, Agricultural Research & Extension Network.
Network Paper No.135.
153
54. Silva CB, SMLR do Vale, FAC Pinto, CAS Müler and AD Moura (2007), “The
economic feasibility of precision agriculture in Mato Grosso do Sul State, Brazil:
a case study”, Precision Agriculture 8: 255-265.
55. Singh H and KW Jun (1995), Some New Evidence on Determinants of Foreign
Direct Investment in Developing Countries, The World Bank International
Economics Department International.
56. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2019), Kết quả thực hiện công tác
nông nghiệp, nông dân, nông thôn năm 2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019.
Báo cáo số 59/BC-SNN ban hành ngày ngày 25 tháng 02 năm 2019.
57. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2020), Kết quả phát triển nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới năm 2019, 3 tháng đầu năm 2020;
phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của ngành nông nghiệp Thủ đô Hà Nội. Báo
cáo số 102/BC-SNN ban hàng ngày 30 tháng 3 năm 2020.
58. Tạp chí Lao động và Xã hội (2017), thực trạng đô thị hóa và hướng đi bền vững
cho phát triển nông nghiệp khu vực ven đô Hà Nội, truy cập ngày 01 tháng 4 năm
2018, từ http://laodongxahoi.net/thuc-trang-do-thi-hoa-va-huong-di-ben-vung-
cho-phat-trien-nong-nghiep-khu-vuc-ven-do-ha-noi-1308276.html.
59. Tạp chí Mặt trận (2017), tìm hướng tháo gỡ khó khăn cho phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ
http://tapchimattran.vn/kinh-te/tim-huong-thao-go-kho-khan-cho-phat-trien-
nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-9788.html.
60. Tạp chí tài chính (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: cần giải quyết 5
vấn đề, truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2018, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-
-trao-doi/trao-doi-binh-luan/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-can-giai-
quyet-5-van-de-131249.html.
61. Tey YS and M Brindal (2012), “Factors influencing the adoption of precision
implications”, Precision technologies: a agricultural for policy review
Agriculture 13: 713-730.
62. Thành ủy Hà Nội (2015), Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng
cao đời sống nông dân giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.
63. Thời báo tài chính Việt Nam (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao:
doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách ưu đãi, truy cập ngày 01 tháng 4 năm
154
2018, từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2017-06-27/phat-trien-
nong-nghiep-cong-nghe-cao-doanh-nghiep-kho-tiep-can-cac-chinh-sach-uu-dai-
44889.aspx.
64. Thời báo tài chính Việt Nam (2017), thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao: tháo gỡ nút thắt chính sách, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018,
từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2017-09-15/thu-hut-dau-
tu-vao-nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-thao-go-nut-that-chinh-sach-
47874.aspx.
65. Thủ tướng Chính phủ (2010), về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020. Hà Nội.
66. Thủ tướng Chính phủ (2012), về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ
cao đến năm 2020. Hà Nội.
67. Thủ tướng Chính phủ (2015), về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Hà Nội.
68. Thư viện Đại học An Giang (2018), thông tin chuyên đề bước đầu phát triển
nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam, truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2018, từ
http://lib.agu.edu.vn.
69. Thư viện học liệu mở Việt Nam, Đại cương về quản lý hành chính nhà nước,
truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018, từ https://voer.edu.vn.
70. Trần Đình Thao và cộng sự (2010), Nghiên cứu môi trường đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn thành phố Hà Nội, Báo cáo nghiên cứu Đề tài cấp thành
phố Hà Nội.
71. Trần Ngọc Ngoạn (2008), Phát triển nông thôn bền vững những vấn đề lý luận
và kinh nghiệm thế giới , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Trần Thanh Quang (2016), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta”,
Tạp chí Cộng sản, số 884, tr.83-88.
73. Trần Thị Vân Hoa (2017), “kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở
Israel và bài học cho Việt Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư
phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa,
trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 171-182.
74.
155
75. Trịnh Kim Liên (2016), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và phát triển bền vững, NXB chính trị
quốc gia.
76. Trọng Nguyễn (2014), “Hướng đến nền nông nghiệp công nghệ cao”, Kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương, số 438, tr 19.
77. Trương Vĩnh Xuân (2010), “Nông nghiệp công nghệ cao Cần Thơ: Từ chính sách
đến thực tế”, Tạp chí khoa học Cần Thơ, số 2, tr 15-18.
78. Tseng W and H Zebregs (2002), “Foreign Direct Investment in China: Some
Lessons for Other Countries”, IMF Policy Discussion Paper, Asia and Pacific
Department.
79. TTC Việt Nam (2017), cùng tìm hiểu nền nông nghiệp của Nhật Bản, truy cập
ngày 02 tháng 4 năm 2018, từ http://japan.net.vn.
80. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (năm 2016), Báo cáo tổng
hợp Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
81. Vũ Thanh Nguyên (2017), xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp hiện tại tại
tỉnh Hải Dương, luận án Tiến sỹ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
82. Zhang J. J Wang and C Li (2010), “Problems and countermeasures on the
development of presicion agriculture in Heilongjiang province”, International
Federation for Information Processing 317: 461-465.
156
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC: 01
Mã phiếu: 01/ _______
PHIẾU KHẢO SÁT CÁN BỘ QUẢN LÝ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
*****
4
3
5
2
Không cần điều chỉnh
Không có ý kiến
Chúng tôi đang khảo sát về việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp
CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trân trọng cảm ơn ông/bà đã dành thời gian điền phiếu
khảo sát. Mọi thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học,
Câu 1: Ông/Bà biết đến qui hoạch và chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà
Nội như thế nào?
Biết đến chương trình/qui hoạch
Chưa nghe đến chương trình/qui hoạch phát triển NN CNC
Nếu biết, xin ông bà đánh giá mức độ phù hợp của các chương trình/qui hoạch phát
triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội theo điểm từ 1 đến 5 với 5 là mức độ phù hợp
cao nhất và 1 là mức độ phù hợp thấp nhất
1
Theo ông bà, Thành phố có cần thiết phải điều chỉnh qui hoạch/chương trình phát triển nông
nghiệp CNC hay không
Cần Điều chỉnh
Câu 2: Hãy thể hiện cảm nhận của Ông/bà về sự phù hợp của các các chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội bằng cách khoanh tròn
hoặc đánh dấu vào điểm số theo lựa chọn của ông bà từ 1 đến 5 với 1 là ít phù hợp nhất và 5
là điểm thể hiện mức độ phù hợp cao nhất.
STT Các chính sách phát triển nông nghiệp CNC
Đánh giá mức độ
phù hợp
1 2 3 4 5
I
Chính sách liên quan đến đất đai
1 2 3 4 5
1.1
Chính sách miễn/giảm tiền sử dụng đất và cho thuê đất
1 2 3 4 5
1.2
Chính sách tích tụ và tập trung ruộng đất
1 2 3 4 5
1.3
Qui hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp CNC tập trung
1 2 3 4 5
II
Chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật
2.1
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ khoan giếng, xử lý môi trường: hỗ trợ 1 lần kinh
phí khoan giếng, đào giếng tối đa 10 triệu/1 ha;
157
2.2
1 2 3 4 5
hỗ trợ kinh phí mua thùng chứa vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật 2
thùng/ha; hỗ trợ chi phí xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật
2.3
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất thải
chăn nuôi
2.4
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ 1 lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng
nước nuôi trồng thủy sản
2.5
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính
cấp, tiêu nước
2.6
1 2 3 4 5
Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật liệu xây dựng theo định mức như
nhà lạnh, …....
1 2 3 4 5
III
Các chính sách hỗ trợ tín dụng vay vốn đển SXKD
1 2 3 4 5
3.1
Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay trong 36 tháng cho 1 DA
3.2
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với hạng mục đầu
tư cơ sở chế biến
3.3
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất mua máy móc thiết bị trong 36
tháng
3.4
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi từ nguồn kinh
phí khuyến nông
1 2 3 4 5
IV
Chính sách hỗ trợ đào tạo
4.1
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề: mỗi lao động được hỗ trợ 100% học
phí đào tạo + tài liệu
4.2
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật đối với các cơ sở sản xuất: thời
gian tập huấn tối đa 03 ngày/lớp; hỗ trợ tiền ăn: 50 ngàn/học
viên/ngày; miễn phí học phí và các tài liệu
4.3
1 2 3 4 5
Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn: mô hình thủy sản tối
thiểu 3ha được tối đa 300 triệu; mô hình chăn nuôi lợn tối thiểu 2.000 con
được tối đa 500 triệu
V
Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại
1 2 3 4 5
Các thông tin chung
-
Ông/ bà thuộc đối tượng khảo sát nào
Lãnh đạo và cán bộ bộ công chức các sở ngành
Cán bộ công chức cấp huyện
Đối tượng khác…………………………………….
-
Độ tuổi: Dưới 30 tuổi Từ 30 – 50 tuổi Trên 50 tuổi
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN!
158
Mã phiếu: 02/ _______
PHIẾU KHẢO SÁT
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
*****
Không cần điều chỉnh
Không có ý kiến
Chúng tôi đang khảo sát về việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trân trọng cảm ơn ông/bà đã dành thời gian điền phiếu khảo
sát. Mọi thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học
Câu 1: Ông/Bà biết đến qui hoạch và chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà
Nội như thế nào?
Biết đến chương trình/qui hoạch
Chưa nghe đến chương trình/qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC lần nào
Nếu biết, xin ông bà đánh giá mức độ phù hợp của các chương trình/qui hoạch phát triển nông
nghiệp CNC của thành phố Hà Nội theo điểm từ 1 đến 5 với 5 là mức độ phù hợp cao nhất và
1 là mức độ phù hợp thấp nhất
1 2 3 4 5
Theo ông bà, Thành phố có cần thiết phải điều chỉnh qui hoạch/chương trình phát triển nông
nghiệp CNC hay không
Cần Điều chỉnh
Câu 2: Hãy thể hiện cảm nhận của Ông/bà về sự phù hợp của các các chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội bằng cách khoanh tròn
hoặc đánh dấu vào điểm số theo lựa chọn của ông bà từ 1 đến 5 với 1 là ít phù hợp nhất và 5
là điểm thể hiện mức độ phù hợp cao nhất.
STT
Biết hay
không
Các chính sách phát triển nông
nghiệp CNC
Đánh giá Mức
độ phù hợp
Được thụ
hưởng hay
không
Chính sách liên quan đến đất đai
Biết Không Có
Không
I
1.1 Chính sách miễn/giảm tiền sử dụng
đất và cho thuê đất
1.2 Chính sách tích tụ và tập trung
ruộng đất
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1.3 Qui hoạch các vùng sản xuất nông
1 2 3 4 5
II
nghiệp CNC tập trung
Chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng
kỹ thuật
159
STT
Biết hay
không
Các chính sách phát triển nông
nghiệp CNC
Đánh giá Mức
độ phù hợp
Được thụ
hưởng hay
không
1 2 3 4 5
2.2
1 2 3 4 5
2.1 Chính sách hỗ trợ khoan giếng, xử
lý môi trường: hỗ trợ 1 lần kinh phí
khoan giếng, đào giếng tối đa 10
triệu/1 ha;
hỗ trợ kinh phí mua thùng chứa vỏ
bao bì thuốc bảo vệ thực vật 2
thùng/ha; hỗ trợ chi phí xử lý bao bì
thuốc bảo vệ thực vật
1 2 3 4 5
2.3 Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây
dựng công trình xử lý chất thải chăn
nuôi
1 2 3 4 5
2.4 Chính sách hỗ trợ 1 lần 50% kinh
phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng
nước nuôi trồng thủy sản
1 2 3 4 5
2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng đường
giao thông, kênh mương trục chính
cấp, tiêu nước
1 2 3 4 5
2.6 Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật
liệu xây dựng theo định mức như
nhà lạnh, …....
1 2 3 4 5
III Các chính sách hỗ trợ tín dụng
vay vốn đển SXKD
3.1 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay
trong 36 tháng cho 1 DA
3.2 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất
trong 36 tháng đối với hạng mục
đầu tư cơ sở chế biến
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
3.3 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất
mua máy móc thiết bị trong 36
tháng
1 2 3 4 5
3.4 Chính sách hỗ trợ vốn mua giống
cây trồng vật nuôi từ nguồn kinh phí
khuyến nông
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
IV Chính sách hỗ trợ đào tạo
4.1 Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề:
mỗi lao động được hỗ trợ 100% học
phí đào tạo + tài liệu
160
STT
Biết hay
không
Các chính sách phát triển nông
nghiệp CNC
Đánh giá Mức
độ phù hợp
Được thụ
hưởng hay
không
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
V
1 2 3 4 5
4.2 Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật
đối với các cơ sở sản xuất: thời gian
tập huấn tối đa 03 ngày/lớp; hỗ trợ
tiền ăn: 50 ngàn/học viên/ngày;
miễn phí học phí và các tài liệu
4.3 Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình
trình diễn: mô hình thủy sản tối thiểu
3ha được tối đa 300 triệu; mô hình chăn
nuôi lợn tối thiểu 2.000 con được tối đa
500 triệu
Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương
mại
Nếu đã đầu tư, ông bà hãy nêu lý do mình đầu tư vào nông nghiệp CNC bằng cách
Câu 3: Ông/Bà đã đầu tư vào dự án hay mô hình nông nghiệp CNC nào?:
Đã đầu tư
Tổng số vốn đầu tư là: …………….
Không đầu tư
đánh dấu (X) hoặc tick (V) vào ô thích hợp trong bảng dưới đây:
Biết đến
chính sách
Được thụ
hưởng từ
chính sách
Tiếp cận
được chính
sách vay vốn
Tiếp cận
được chính
sách đất đai
Liên kết
trong sản
xuất
Liên kết trong
tiêu thụ sản
phẩm
Có Không Có Không Có Không Có Không Có Không Có
Không
Ông/ bà thuộc đối tượng khảo sát nào
Các thông tin chung
-
Lãnh đạo doanh nghiệp nông nghiệp
Cán bộ lãnh đạo HTX
Hộ gia đình
Đối tượng khác…………………………………….
-
Độ tuổi: Dưới 30 tuổi Từ 30 – 50 tuổi Trên 50 tuổi
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN!
161
PHỤ LỤC 02: DANH SÁCH PHỎNG VẤN SÂU
STT Họ và tên
Chức danh và nơi làm việc
Ghi
chú
Cán bộ cơ quan quản lý
Chu Phú Mỹ
Giám đốc sở NN&PTNT, thành phố HN
1
Tạ Văn Tường
Phó giám đốc Sở NN&PTNT thành phố HN
2
Dương Bá Mẫn
Trưởng phòng kinh tế huyện Thanh Oai
3
Nguyễn Công Thanh
Chủ tịch UBND xã Tân Phú, Huyện Quốc Oai
4
Đặng Thị Tươi
Trưởng phòng kinh tế huyện Ứng Hòa
5
Nguyễn Viết Đạt
Trưởng phòng kinh tế huyện Đan Phượng
6
Đặng Thị Thanh Hương
Phó phòng kinh tế huyện Thường Tín
7
Nguyễn Đức Thắng
Bí thư huyện ủy huyện Đan Phượng
8
Lãnh đạo các HTX, DN và hộ kinh doanh nông nghiệp CNC
Bùi Minh Chung
Giám đốc trang trại Minh Châu Ecofarm
1
Đặng Thị Cuối
2
Giám đốc HTX SX& tiêu thụ rau hữu cơ nông
nghiệp CNC Cuối Quý, Huyện Đan Phượng
3
Trương Cao Sơn
Giám đốc Công ty TNHH Hòa Lạc – Kinh doanh
nông nghiệp CNC kết hợp du lịch sinh thái, Huyện
Thạch Thất
Dương Thị Thu Huệ
Giám đốc Công ty TNHH nhập khẩu KINOKO.
4
Đặng Hữu Hỷ
Chủ trang trại chăn nuôi lợn
5
Nguyễn Trọng Long
Giám đốc HTX Hoàng Long, Tân Hữu, Thanh Oai
6
Nguyễn Thị Phương Liên
7
Giám đốc công ty cổ phần nông nghiệp hữu cơ Tuệ
Liên
8
TS. Nguyễn Hải An
Giám đốc trung tâm ươm tạo doanh nghiệp nông
nghiệp CNC
9
Bùi Thanh Hà; Mai Hữu
Đoan
HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh
Hà, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín
10
Nguyễn Thị Phương Liên Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp hữu cơ
Tuệ Viên (Hà Nội)
162
PHỤ LỤC 03: Tổng hợp về chương trình dự án được nhận các cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
tại Thành phố Hà Nội
TT
Quy mô
Nội dung thực hiện
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
I
Huyện Mê Linh (18 Chương trình, Đề án)
100ha
Xã Tam Đồng
1
Chương trình sản xuất lúa
hàng hóa chất lượng cao
Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí
phòng chống dịch bệnh
Hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp
(HTX DVNN)
Văn Lôi
(90ha),
HTX DVNN Yên Nhân
161,7ha
2
Xã Tiền Phong
Tiến Thắng (71.17ha)
12ha
Xã Văn Khê (12ha)
HTX DVNN Văn Quán
3
Đề án sản xuất và tiêu thụ
rau an toàn (RAT)
Đề án phát triển, sản xuất
hoa cây cảnh
Hỗ trợ 70% chi phí thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nguồn
gốc sinh học
Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí
thuốc BVTV
386ha
HTX DVNN Yên Nhân
4
Đề án sản xuất và tiêu thụ
RAT
Hỗ trợ 50% chi phí thuốc BVTV
nguồn gốc sinh học
203ha
5
Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí
phòng chống dịch bệnh
303ha
6
Vùng sản xuất lúa hàng
hóa chất lượng cao chuyên
canh tập trung
Vùng sản xuất hoa, cây
cảnh
Các xã: Tiền Phong (90ha),
Tiến Thắng (72ha), Văn Khê
(90ha), Tráng Việt (134ha)
Các xã: Tam Đồng (50ha), Tự
lập (50ha), Kim Hoa (53ha),
Liên Mạc (50ha)
Các xã: Văn Khê (114ha), Mê
Linh (189ha)
HTX DVNN Văn Lôi, HTX
DNVNN Bồng Mạc, HTX
DVNN Phú Mỹ
HTX DVNN Văn Quán,
HTX DVNN Liễu Trì
Vùng thủy sản tập trung
20ha
Xã Tự Lập (20ha)
HTX DVNN Phú Mỹ
7
Hỗ trợ 100% thùng chứa bao bì thuốc BVTV và chi phí thu
gom, xử lý bao bì thuốc BVTV
Hỗ trợ 50% thuốc khử trùng môi trường ao nuôi, 50% chi
phí mua thiết bị làm giàu oxi môi trường ao nuôi không
quá 15 triệu đồng/máy
tích
8
Đề án cơ giới hóa gieo,
cấy, thu hoạch lúa
Hỗ trợ 30% chi phí mua máy gặt đập liên hợp, máy cấy,
máy gieo hạt, không quá 75 triệu đồng/máy
Phục vụ 30% diện
lúa trên toàn huyện
9
Đề án hỗ trợ phát triển cây
vụ đông
Hỗ trợ 100% giống khoai tây, đậu tương, chi phí tập huấn,
chỉ đạo kỹ thuật...
1.125ha
33 máy gặt đập
liên hợp, 202 máy
gieo cấy
30ha cây khoai tây,
200ha cây đậu
tương
Các xã: Liên Mạc, Vạn Yên,
Tiến Thinh, Tự Lập, Tam
Đồng, Thanh Lâm
Trên toàn huyện
10
Đề án hỗ trợ phát triển
chăn nuôi trên địa bàn
huyện giai đoạn 2017-
2019
80 hầm Bioga,
600kg bột và 1,500
lít chế phẩm sinh
học, 01 công trình
xử lý nước thải
khu chăn nuôi
- Hỗ trợ 1 lần sau đầu tư hầm Biogas bằng composite cho
các trang trại, gia trại nuôi thường xuyên từ 10 con trâu, bò,
10 con lợn sinh sản, 30 con lợn thương phẩm trở lên (hỗ trợ
đến 50% chi phí và không quá 4.500.000đ/hầm).
- Hỗ trợ 1 lần chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi cho
gia cầm, thủy cầm (áp dụng cho các gia trại, trang trại chăn
nuôi thường xuyên từ 1.000 con gia cầm, thủy cầm trở lên,
163
TT
Quy mô
Nội dung thực hiện
Địa điểm thực hiện
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
11
Cấp chứng nhận
NHTT
Các xã: Mê Linh, Đại Thịnh,
Văn Khê
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
2.000 con chim cút trở lên) (không quá 10kg bột và 15 lít
chế phẩm/hộ).
Hỗ trợ: 100% chi phí xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu;
100% xây dựng hệ thống quản lý và sử dụng NHTT; 100%
chi phí quảng bá sản phẩm mang NHTT hoa Mê Linh
12
Hỗ trợ 100% giống, công cấy và 30% vật tư
13ha
Xã Liên Mạc
13
Hỗ trợ 100% gốc hồng thế, 30% vật tư
3.300 cây
Xã Mê Linh
HTX DVNN Hạ Lôi
14
Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư
5.000 con
Xã Tráng Việt
HTX DVNN Tráng Việt
15
Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư
900 con
Xã Mê Linh
16
Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư
20 con
Xã Liên Mạc
Dự án xây dựng nhãn hiệu
tập thể (NHTT) hoa Mê
Linh
Cơ giới hóa đồng bộ trong
sản xuất lúa
Sản xuất hoa Hồng thế trên
địa bàn huyện
Chăn nuôi gà thả vườn
Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
nuôi cá chất lượng cao trắm
giòn, chép giòn
Thí điểm chăn nuôi bò thịt
BBB
xã:
Tráng
17
Nuôi lợn công nghệ cao
2.500m2
Các
Việt, Liên Mạc, Tự Lập
18
2.000m2
Xã Văn Khê
Sản xuất hoa, rau công
nghệ cao
Nuôi lợn công nghệ cao (với hệ thống máng ăn, máng uống
tự động, chuồng nuôi có hệ thống làm mát và quạt thông
gió vào mùa hè và hệ thống làm ấm vào mùa đông tại các
xã: Tráng Việt, Liên Mạc, Tự Lập)
Sản xuất rau, hoa công nghệ cao trong nhà màng, nhà lưới
quy mô 2000m2 tại xã Văn Khê từ nguồn kinh phí tự chủ
II
19
Ứng dụng công nghệ nuôi Giun Quế xử lý tình trạng ô
nhiễm môi trường trong chăn nuôi bò sữa trên địa bàn xã
Phù Đổng
Huyện Gia Lâm
Điểm xử lý phân, chất thải
hữu cơ trong chăn nuôi bò
sữa chống ô nhiễm môi
trường bằng công nghệ
nuôi Giun Quế
Thôn Phù Dực 2, xã Phù
Đổng
Hợp tác xã Phát triển
nông nghiệp và Dịch vụ
Thương mại Hiệp Thư
20
Trồng các loại hoa lan ứng dụng công nghệ cao, hệ thống
tưới tự động trong nhà kính
Trồng hoa lan ứng dụng
công nghệ cao nhà màng,
nhà lưới
Tổng diện tích khu
vực thực hiện:
15,6ha (hiện nay đã
đầu tư: 01 nhà
xưởng, 50 bể nuôi
Giun Quế): 1500m2;
nhà trồng hoa lan
ứng dụng công nghệ
cao nhà màng, nhà
lưới 2000m2), đang
tiếp tục đầu tư xây
164
TT
Quy mô
Nội dung thực hiện
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
HTX Làng Gióng
21
Điểm xử lý phân, chất thải hữu cơ trong chăn nuôi chống ô
nhiễm môi trường bằng công nghệ nuôi Giun Quế
Thôn Đổng Xuyên, xã Đặng
Xá
Điểm xử lý phân, chất thải
hữu cơ trong chăn nuôi bò
sữa chống ô nhiễm môi
trường bằng công nghệ
nuôi Giun Quế
22
Chế biến sữa bò
Thu gom, chế biến sữa bò thành phẩm: kem, sữa tươi,...
Thôn Phù Dực, xã Phù Đổng
HTX chế biến sữa bò
tươi Phù Đổng
dựng 01 nhà xưởng
nuôi Giun Quế
1500m2. Diện tích
còn lại trồng cây ăn
quả, nuôi thủy sản
8804m2 nhà xưởng
xử lý phân, chất
thải hữu cơ trong
chăn nuôi bò sữa
nuôi Giun Quế
1746m2 gồm có các
nhà xưởng sơ chế,
chế biến các sản
phẩm từ sữa là
520m2
Chăn nuôi bò sữa
Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao
20 con bò sữa
Thôn Trân Tảo, xã Phú Thị
23
Hộ gia đình bà Nguyễn
Thị Loan
Chăn nuôi bò sữa
Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao
Xã Phù Đổng
24
100 con bò sữa,
200 con bò thịt
Chăn nuôi bò sữa
Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao
15 con bò sữa
Xã Phù Đổng
25
Chăn nuôi lợn
Chăn nuôi lợn ứng dụng công nghệ cao
Thôn Hàn Lạc, xã Phú thị
26
150 lợn nái, 650
lợn thịt
Hộ gia đình ông Nguyễn
Văn Hoạt
Hộ gia đình ông Hoàng
Đại Dương
Hộ gia đình ông Nguyễn
Văn Mạnh
thân
Xã Lệ Chi
27
Sản xuất công nghệ cao từ chăn nuôi đến chế biến các sản
phẩm từ thịt lợn sinh học
5ha với 400 lợn
nái, 2500 lợn thịt
Công ty cổ phần Hải
Nguyên
Giết mổ gia cầm bán công nghiệp
5200m2
Xã Yên Thường
28
Chăn nuôi trang trại xanh
thiện với môi
và
trường
Tổ hợp giết mổ gia cầm
Lan Vinh
Công ty cổ phần thương
mại Lan Vinh
29
Sản xuất cây giống
Sản xuất cây giống ứng dụng công nghệ cao
Thôn Trung Quan, xã Văn
Đức
HTX Công nghệ nông
nghiệp Văn Đức
1000m2 với diện
tích nhà lưới là
750m2
TT
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
165
30
Sản xuất rau an toàn
Nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn theo
chuỗi với Công ty cổ phần công nghệ cao An Sinh
Thôn Đổng Xuyên, xã Đặng
Xá
Công ty cổ phần công
nghệ cao An Sinh
31
Sản xuất rau thủy canh
Thôn Ngọc Động, xã Đa Tốn HTX DVTH Đa Tốn
Sản xuất rau thủy canh ứng dụng công nghệ cao nhà lưới,
hệ thống tưới tự động
32
Sản xuất giống và hoa lan
nuôi cấy mô
Sản xuất giống và hoa lan các loại có nhà khung thép để
nuôi cấy mô cho đến khi ra hoa
Ngô Xuân Quảng, thị trấn
Trâu Quỳ
HTX sản xuất và thương
mại Thư Thủy
theo
tiêu
Sản xuất cam canh, cam vinh theo tiêu chuẩn VietGAP
Thôn Báo Đáp, xã Kiêu Kỵ
33
Chi hội làm vườn thôn
Báo Đáp, xã Kiêu Kỵ
Sản xuất cam canh, cam
chuẩn
vinh
VietGAP
theo
tiêu
Sản xuất cam, chuối, bưởi diễn theo tiêu chuẩn VietGAP
34
Xứ đồng bãi, thôn Kim Sơn,
xã Kim Sơn
Sản xuất cam, chuối, bưởi
diễn
chuẩn
VietGAP
HTX sản xuất và dịch vụ
nông nghiệp công nghệ
cao Gia Lâm
35
Trồng chuối Cổ Bi
Trồng chuối
Xứ đồng bãi xã Cổ Bi
HTX DV tổng hợp Cổ Bi
50 hộ với 5ha có
nhà lưới 750m2 và
khu sơ chế sản
phẩm rau an toàn
quy mô 1800m2
Quy mô thực hiện
là 9456m2 trong đó
có 540m2 nhà
màng nhà lưới ứng
dụng công nghệ
cao hệ thống tưới
tự động
1000m2 nhà khung
thép tiền chế sản
xuất hoa lan các
loại nuôi cấy mô
20,2ha sản xuất
cam canh, cam
vinh theo tiêu
chuẩn VietGAP
6,98ha trong đó
diện tích trồng
chuối là 5,64ha,
diện tích bưởi diễn
6200m2, diện tích
cam 7200m2
Diện tích trồng cây
ăn quả xã Cổ Bi là
70ha. Năm 2015
được Cục Sở hữu
trí tuệ cấp nhãn
hiệu tập thể Chuối
Cổ Bi với 40ha.
TT
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
III
Huyện Thường Tín
166
Nuôi trồng thủy sản
50ha
Xã Nghiêm Xuyên
36
Nuôi trồng thủy sản
4.2ha
Xã Thư Phú
37
Các hộ nuôi trồng thủy
sản trong xã
Các hộ nuôi trồng thủy
sản trong xã
0,648ha
Xã Tiền Phong
Hộ ông Nguyễn Văn Bảo
38
Nuôi trồng thủy sản cá
sông trong ao
Máy quạt nước tạo oxy và chế phẩm sinh học xử lý môi
trường ao nuôi
Máy quạt nước tạo oxy và chế phẩm sinh học xử lý môi
trường ao nuôi.
Nuôi cá sông trong ao, có áp dụng máy quạt nước tạo oxy
và chế phẩm sinh học xử lý môi trường ao nuôi
Sản xuất Rau
171ha
39
Sử dụng chế phẩm sinh học có nguồn gốc sinh học trong
công tác BVTV.
Xã Tân Minh, Thư Phú, Hà
Hồi
Các hộ trồng rau của HTX
NN Tân Minh, Thư Phú,
Hà Hồi
1,1ha
Xã Ninh Sở
Sản xuất rau Thanh Hà
40
Cơ sở Nguyễn Thị Thanh
Hà
Có nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tự động, sơ chế và bảo
quản; dấm chuối ứng dụng công nghệ cao (Sản xuất rau
tiêu chuẩn GAP)
ty TNHH Nông
Đang xây dựng nhà lưới, nhà màng
1,2ha
Xã Lê Lợi
41
Công
nghiệp Hoàng Gia
85ha
Các hộ dân
42
20ha
Xã Tự Nhiên, xã Chương
Dương
Xã Tự Nhiên
Sản xuất rau, củ quả an
toàn
Chuối Tây thái và chuối
Tiêu hồng nuôi cấy mô
Cam canh
43
ty TNHH Vinh
200ha
Xã Liên Phương
Giết mổ lợn Vinh Anh
44
Sử dụng chế phẩm sinh học trong bảo vệ thực vật và giống
nuôi cấy mô
Áp dụng công nghệ tưới phun bán tự động
Giết mổ trên dây truyền bán tự động (Công suất thiết kế
200 con/ giờ, thực tế 100-120 con/ ngày)
Giết mổ gia cầm bán công nghiệp
1.200 con/ngày
Xã Lê Lợi
theo Dự
45
Giết mổ gia cầm bán công
nghiệp
án
LISALF
Các hộ dân
Công
Anh
Hộ ông Hoàng Văn
Chiểu, Nguyễn Văn
Thông
Chăn nuôi chuồng kín
3.1 ha
Các hộ chăn nuôi
46
Các xã: Vân Tảo, Hồng Vân,
Thư Phú
Chăn nuôi lợn quy mô lớn theo hệ thống chuồn khép kín,
máng ăn, uống tự động, sử dụng các loại thức ăn gia súc
đạt tiêu chuẩn
80m2(02 kho lạnh) Xã Hà Hồi
47
300m2
KCN Quất Động
Bảo quản Nông sản
48
HTX NN Hà Hồi
Công ty TNHH Xã Hội
Thọ An
Các cá nhân mua máy
49
Sử dụng hệ thống máy nông nghiệp công nghệ cao của
hãng Kubota: máy làm đất, máy gieo hạt, máy cấy
Các xã: Quất Động, Minh
Cường, Văn Bình
IV
18ha
HTX NN Kim An
50
Bảo quản giống khoai Tây Kho lạnh bảo quản giống Khoai tây
Bảo quản nông sản Thọ
An
Thực hiện cơ giới hóa
đồng bộ sử dụng hệ thống
máy nông nghiệp công
nghệ cao
Huyện Thanh Oai
Cây ăn quả Kim An (theo
hướng VietGAP)
Áp dụng khoa học kỹ thuật (KHKT) theo hướng VietGAP
(đã có nhãn hiệu (Cam đường Kim An)
Thôn Tràng Cát và Tjppm
Ngọc Liên xã Kim An
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
TT
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
Rau hữu cơ
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Ứng dụng KHKT vào sản xuất rau hữu cơ (cã có chứng
2ha
Thôn Song Khê - xã Tam Công ty Bắp Cải
51
167
Hưng
theo hướng
52
Xã Đỗ Động
Nguyễn Mạnh Hùng
2.000 con lợn
thương phẩm
53
30ha
HTXNN Tam Hưng
Chăn nuôi
VietGAP
Nếp cái hoa vàng sản xuất
theo tiêu chuẩn VietGAP
nhận VietGAP)
Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP
gắn với tiêu thụ sản phẩm
Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với tiêu thụ sản
phẩm (đã có nhãn hiệu)
54
Mạ khay máy cấy
Áp dụng cơ giới hóa từ gieo mạ đến thu hoạch
20ha
HTXNN Bình Minh
Thôn Song Khê, xã Tam
Hưng
Thôn Sinh Liên, xã Bình
Minh
55
Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học
01ha, 02 hộ
Xã Thanh Thùy
Hộ chăn nuôi
56
Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học
01ha, 02 hộ
Xã Liên Châu
Hộ chăn nuôi
Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học
Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học
5.000 con, 11 hộ Xã Đỗ Động
5.000 con, 11 hộ Xã Liên Châu
Hộ chăn nuôi
Hộ chăn nuôi
57
58
V
Chăn nuôi thủy sản theo
hướng an toàn sinh học
Chăn nuôi thủy sản theo
hướng an toàn sinh học
Chăn nuôi gà Ai Cập
Chăn nuôi gà Ai Cập
Huyện Đông Anh
59
Sản xuất rau hữu cơ
Sản xuất rau hữu cơ
01ha
Xã Tiên Dương
60
Sản xuất rau an toàn
Sản xuất rau an toàn ứng dụng công nghệ tưới Israel
0,5ha
Xã Liên Hà
HTX sản xuất rau hữu cơ
Tiên Dương
Ông Nguyễn Minh
Chuyên
61
SX rau an toàn
Xã Đại Mạch
HTX Sông Hồng
Sản xuất rau an toàn, diện tích 6000m2, 2000m2 nhà màn
lắp hệ thống tưới theo công nghệ Israel
62
Trang trại lợn giống, thịt
Nuôi 500 lợn nái ngoại, 200 con lợn thương phẩm
Xã Tiên Dương
Ông Đinh Văn Đoàn
63
Trang trại lợn giống, thịt
Nuôi 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm
Xã Tiên Dương
Ông Nguyễn Văn Minh
64
Trang trại lợn giống, thịt
Nuôi 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm
Xã Uy Nỗ
Ông Dương Văn Phong
65
Cung cấp gà giống
Tiên Dương
Ông Nguyễn Văn Hiệu,
0,6ha, 0,2ha nhà
màn tưới theo CN
Israel
500 lợp nái ngoại,
200 thương phẩm
400 lợn nái ngoại,
500 lợn thương
phẩm
400 lợn nái ngoại,
500 lợn thương
phẩm
15 vạn gà siêu
trứng, 10 vạn gà
thương phẩm
66
Cung cấp gà giống
Xã Liên Hà
Ông Hoàng Minh Ngọc
25 vạn gà sinh sản
siêu trứng, 27 lò ấp
Nuôi 15.000 con gà siêu trứng, 10.000 gà thương phẩm. 18
lò ấp với công suất 2 vạn quả/mẻ/lò, hàng năm cung cấp
1,2 triệu gà con cho các tỉnh thành miền Bắc.
Nuôi 25.000 gà sinh sản siêu trứng. 27 lò ấp với công suất 2
vạn quả/mẻ/lò, hàng năm cung cấp 1,8 triệu gà con cho các
tỉnh thành cả nước.
Nội dung thực hiện
TT
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
Huyện Phúc Thọ
VI
168
Nông trại sinh thái
15ha
Xã Hát Môn
67
Rau an toàn
Chăn nuôi lợn
Sơ chế trứng gia cầm
Dự án nông trại chia sẻ tự bền vững theo hướng sinh thái
tổng hợp công nghệ cao kết hợp du lịch - giáo dục
Sản xuất rau các loại
Chăn nuôi lợn thịt
Sơ chế trứng gia cầm
0,2ha
7.000 con
2ha
Xã Thanh Đa
Xã Cẩm Đình
thị trấn Phúc Thọ
68
69
70
ty
CP
Rau an toàn, rau hữu cơ
Sản xuất rau an toàn, rau hữu cơ
3ha
Xã Cẩm Đình
71
72
Rau an toàn
Sản xuất rau các loại
0,5ha
Xã Thanh Đa
73
Rau an toàn
Sản xuất rau các loại
3,9ha
Xã Hát Môn
Công ty TNHH nông trại
chia sẻ SHAREFARM
Bà Nguyễn Thị Hương
ông Ngô Xuân Cường
Công ty TNHH Ba Huân
thực
Công
phẩm hữu cơ BQ
Công ty Cổ phần sản xuất và
xuất
nhập khẩu rau chất lượng cao
Việt Phúc
Công ty TNHH MTV
Lam Sơn sản xuất rau
VietGAP tại Hát Môn
Công ty Greentek Vision
Trồng cỏ Alfalfa và sản xuất rau hữu cơ
50ha
Xã Xuân Phú
74
VII
Trồng cỏ và rau hữu cơ
Huyện Đan Phượng
25.000m2
75
Sản xuất giống và hoa lan
Hồ Điệp
Khu bãi Đáy, xã Phương
Đình, huyện Đan Phượng
Hộ gia đình bà Nguyễn
Thị Kim Dung
Sản xuất giống hoa và hoa lan Hồ Điệp có nhà khung thép tền chế
để nuôi cấy mô, sản xuất giống hoa lan Hồ Điệp là 661m2 để sản
xuất 02 triệu cây giống; diện tích nhà màng kính là 4.500m2 để
sản xuất 50.000 cây giống cho các cơ sở nuôi trồng đến khi ra hoa
và 20.000 cây nuôi trồng tại cơ sở đến khi ra hoa.
76
Sản xuất 640.000 cây giống và 610.000 cây thương phẩm
Khu Trại Nái, thị trấn Phùng
HTX Đan Hoài
Sản xuất giống và hoa lan
Hồ Điệp
Tổng diện tích
50.000m2 trong đó
4.000m2 nhà kính sản
xuất giống, 16.000m2
sản xuất giống,
thương phẩm trong
nhà màng
77
Sản xuất nấm
Sản phẩm chủ yếu là nấm ăn, nấm dược chất lượng cao
7.979m2
HTX nấm Nghĩa Minh
Xứ đồng Bãi Non, xã Đan
Phượng, huyện Đan Phượng
78
Sản xuất rau hữu cơ
Sản phẩm rau hữu cơ
Xử đồng bãi tổng màu xã Đan
Phượng
Hộ ông Nguyễn Đăng
Quý (Đặng Thị Quế) xã
Đan Phượng
Tổng diện tích
45.800m2 trong đó
4.000m2 nhà màng
lưới, 41.800m2 sản
xuất ngoài tự nhiên
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
TT
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
Sản xuất rau hữu cơ
Sản phẩm rau hữu cơ
Tổng diện tích
Đất bãi sông Hồng, xã Thọ Hộ ông Trần Văn Bảy
79
169
Xuân
80
Trồng rau hữu cơ
Sản phẩm rau hữu cơ
HTX Song Phượng
Xứ đồng Vòng, xã Song
Phượng
81
Trồng rau an toàn
Sản phẩm rau an toàn
Xử đồng Bãi Nổi, thôn Thống
Nhất, xã Song Phượng
25.000m2 trong đó
3.500m2 nhà màng
lưới
1.200m2 nhà màng
lưới
23.000m2 trong đó:
4.500m2 nhà màng
lưới, 18.500m2 sản
xuất ngoài tự nhiên
82
Nấm xã Hạ Mỗ
Sản phẩm nấm ăn
0,11ha
Trung tâm nghiên cứu và
phát triển sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao
(Viện Nghiên cứu Ngô)
Bà Bùi Thị Hiền, cụm 8,
xã Hạ Mỗ, Đan Phượng,
Hà Nội
Xứ đồng Mẽo, cụm 8, xã Hạ
Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội
VIII
Huyện Sóc Sơn
40ha
83
Sản xuất đu đủ theo tiêu
chuẩn VietGAP
Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình
VietGAP
HTX NN&KDTH Nam
Sơn
20ha
Xã Nam Sơn
Xã Nam Sơn
84
140ha
Xã Bắc Sơn
85
Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình
Vietgap
Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình
VietGAP
Sản xuất chuối tiêu hồng
theo tiêu chuẩn VietGAP
Sản xuất chè theo tiêu
chuẩn VietGAP
Sản xuất rau hữu cơ
37,5ha
86
Hỗ trợ 50% thuốc BVTV thảo mộc, sản xuất theo quy trình
hữu cơ, hỗ trợ vật tư làm nhà lưới (0.425ha)
Các xã: Thanh Xuân, Đông
Xuân, Hiền Ninh, Tân Dân
rau an
toàn
Hỗ trợ vật tư làm nhà lưới (0,28ha), đầu tư kho lạnh (60m3)
25,28ha
Xã Đông Xuân
87
Sản xuất
VietGAP
Sản xuất hoa, nấm
07ha
88
HTX NN&KDTH Nam
Sơn
HTX nông lâm nghiệp
Bắc Sơn
HTX rau hữu cơ Bái
Thượng, HTX NN rau
hữu cơ Thanh Xuân…
HTX SX KDTH Đông
Xuân
HTX Hoa Lợi, HTX NN
&KDTH Minh Trí, Công
ty CP SX&TM KMS
Sản xuất cây dược liệu
01ha
Xã Bắc Sơn
89
31.000 con
Hộ dân
90
Ứng dụng công nghệ cao
trong chăn nuôi gà đẻ trứng
Nhà lưới 2,1ha; kho lạnh 50m3 (sản xuất hoa 2,5ha); Hỗ trợ
100% khay nhựa, lọ nhựa chuyên dụng cho sản xuất 01ha
nấm (bao gồm 40.000 lọ nhựa, 2.500 khay nhựa)
Hỗ trợ 100% vật tư, lưới chuyên dụng làm nhà lưới chuyên dụng
Chăn nuôi gà trong chuồng kín, kiểm soát được dịch bệnh,
hiệu quả cao
Các xã: Xuân Giang, Minh
Trí, Minh Phú, Hiền Ninh
Xã Bắc Sơn
Các xã: Bắc Sơn, Xuân Thu,
Bắc Phú. Phú Cường, Minh Trí
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
TT
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
6.000 con
Hộ dân
91
Ứng dụng công nghệ cao
trong chăn nuôi lợn thịt
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Toàn bộ chất thải chăn nuôi được xử lý bằng biogas, men
vi sinh hoặc dùng công nghệ ép phân khô
Các xã: Việt Long, Bắc Phú.
Phú Minh, Minh Trí
170
IX
Huyện Thanh Trì
Trồng các loại rau ăn lá, cây ăn quả ngắn ngày (cà chua, dưa
lưới, dưa leo) trên diện tích 5000m2, trong đó 2.300m2 nhà
màng khung thép sử dụng hệ thống quạt đối lưu không khí, lưới
cắt nắng cảm biến nhiệt tự động đóng mở; mái che phủ nilon,
92
Sản xuất Rau Thủy Canh
5.000m2
Xã Yên Mỹ, Thanh Trì, Hà
Nội
Ông Nguyễn Mạnh Hồng
xã Yên Mỹ
bao quanh bằng hệ thống lưới chắn côn trùng; hệ thống pha chế
dinh dưỡng và máng thủy canh. Mô hình cho doanh thu dự kiến
khoảng 01tỷ/năm, lãi bình quân 200 triệu đồng/năm, tạo công
ăn việc làm cho 03 lao động với thu nhập bình quân 5 triệu
đồng/tháng. UBND Huyện bố trí ngân sách hỗ trợ 50% kinh phí
làm nhà kính công nghệ cao và lắp đặt hệ thống thủy canh,
chuyển giao công nghệ sử dụng dinh dưỡng
Sản xuất các loại rau theo phương pháp hữu cơ không sử
dụng phân bón vô cơ và các thuốc BVTV hóa học; liên kết
Nhóm hộ trồng rau hữu cơ
có liên kết tiêu thụ sản
93
01ha
Thôn Đại Lan, xã Duyên Hà
Ông Nguyễn Văn Minh
xã Duyên Hà và Công ty
phẩm
Anstcom
tiêu thụ sản phẩm với công ty Anstcom, cho doanh thu 105
triệu/năm, tạo việc làm cho 02 lao động, UBND huyện hỗ
trợ 100% kinh phí mua giống rau trong 2 năm
Sản xuất nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn
theo chuỗi với HTX An Phát tại xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà
Nhóm hộ có liên kết tiêu
thụ sản phẩm rau an toàn
với 39 hộ trên diện tích hơn 02ha, các hộ sản xuất theo kế
hoạch của Công ty, Công ty thu mua theo giá đã thỏa
94
2,2ha
Xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà
Các hộ nông dân xã Yên
Mỹ, xã Duyên Hà và
theo chuỗi
HTX An Phát
thuận, HTX An Phát đã được cấp giấy xác nhận chuỗi thực
phẩm an toàn
Mô hình cơ giới hóa đồng bộ sử dụng hệ thống máy nông
95
45ha
Xã Vĩnh Quỳnh, xã Đại Áng
Thực hiện cơ giới hóa
đồng bộ
HTX Vĩnh Ninh, HTX
Đại Áng, HTX Vĩnh
Trung
nghiệp công nghệ cao của hãng Kubota: Máy sản xuất giá thể
công suất: 01 tấn/giờ; Máy gieo hạt tự động công suất: 800
khay/giờ; Máy cấy động cơ công suất: 5 - 6ha/ngày; Máy gặp
171
đập liên hợp công suất: 01ha/giờ; giảm chi phí sản xuất, tạo
thêm khâu dịch vụ cho các HTX, tạo thêm việc làm cho các xã
viên HTX, giảm sức lao động. Doanh thu dự kiến của HTX
khoảng 140 triệu đồng/năm, lãi suất bình quân 30 triệu
96
Trồng nấm công nghệ cao
2.000m2
Xã Vĩnh Quỳnh
Hộ cá nhân thực hiện
97
Xã Đại Áng
Hộ cá nhân thực hiện
Chăn nuôi lợn theo tiêu
chuẩn VietGAP
1.200 lợn thương
phẩm và 150 lợn
nái
đồng/năm. UBND huyện hỗ trợ 50% kinh phí mua máy móc
từ khâu gieo hạt đến cấy, 80% kinh phí mua giống lúa và
100% kinh phí chuyển giao kỹ thuật sản xuất giá thể mạ khay
Ấp dụng công nghệ của Nhật với diện tích 2.000m2 trong trang
trại 03ha: Sử dụng các vật liệu cách nhiệt để làm vách và mái nhà
trồng nấm, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm bằng hệ thống tủ robot
chạy dọc theo các dẫy nhà; áp dụng công nghệ men vi sinh để
kiểm soát dịch bệnh tại các nhà trồng nấm; xử lý nước mặt ao
nuôi thủy sản để sản xuất nấm. Sản lượng nấm bình quân cung
cấp cho thị trường ước đạt 13 tấn/tháng cho doanh thu đạt 650
triệu đồng/tháng, tạo công việc làm cho 20 lao động địa phương,
thu lãi bình quân ước đạt 35 triệu đồng/tháng.
Nuôi lợn theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Đại Áng với diện tích
2,16ha. Hộ thực hiện mô hình có liên kết tiêu thụ sản phẩm với
Công ty thực phẩm Song Đạt (giết mổ tại cơ sở giết mổ tập trung xã
Vạn Phúc) hình thành chuỗi thực phẩm thịt lợn an toàn. Hộ sản
xuất đã được cấp giấy chứng nhận VietGAP
X
Huyện Phú Xuyên
98
Măng tây xanh
5,0ha
Xã Hồng Thái
HTX xã Rau quả Hồng
Thái
TT
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
99
Chăn nuôi lợn nái, lợn thịt
7,9ha
Xã Châu Can
Hộ ông Cao Minh Tuệ
100
Chăn nuôi lợn nái, lợn thịt
2,1ha
Xã Phúc Tiến
HTX chăn nuôi Minh
Tuấn
Sử dụng nguồn giống nhập nội, trồng trên vùng đất bãi ven sông
Hồng. Một số diện tích áp dụng đồng bộ các khâu từ làm đất,
chăm sóc. Có sử dụng trồng trong nhà màng và áp dụng công
nghệ tưới tiết kiệm. Doanh thu khoảng 1,3-1,9 tỷ/ha, trừ mọi chi
phí, mỗi năm HTX có thể thu lãi 500 - 900 triệu/năm trên 01ha.
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn nái và lợn thành phẩm, uống
nước, máng ăn bán tự động; quy mô: 2000 lợn thịt và 400
lợn nái; sản lượng thịt: 460 tấn.
Nuôi lợn nái và lợn thành phẩm chuồng kín, uống nước,
máng bán tự động. Quy mô: 1.500 lợn thịt và 300 lợn nái;
sản lượng thịt: 340 tấn
Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn thịt, uống nước, máng ăn tự
101
Nuôi lợn thịt
3,5ha
Xã Quang Lãng
Hộ ông Đinh Văn Bắc
172
102
Chăn nuôi lợn hậu bị
1,8ha
Xã Tân Dân
Hộ ông Nguyễn Phú
Dũng
103
3,4ha
Xã Minh Tân
Hộ ông Trương Công Hộ
Trồng dưa lưới và cà chua
cherry
104
Trồng nấm sò
1,6ha
Xã Nam Triều
HTX NN Phú Triều
105
Trồng nấm mộc nhĩ
0,5ha
Xã Tân Dân
HTX NN Phú Tân
động. Quy mô: 1.500 con; sản lượng thịt: 300 tấn
Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn giống; hệ thống uống nước,
máng ăn tự động. Quy mô: 1.000 con
Tổng diện tích trang trại 3,4ha, trong đó diện tích áp dụng
công nghệ cao là 1.500m2 (xây dựng nhà màng có ứng
dụng công nghệ kiểm soát khí hậu và công nghệ tưới, cung
cấp chất dinh dưỡng tự động, sử dụng khò diệt cỏ bằng gas,
sử dụng máy làm đất đa năng,....)
Tổng diện tích 1,6ha, chủ cơ sở đầu tư được 01 lò hấp công
suất 2.000 bịch/lần hấp, 01 nồi hơi, 01 máy trộn, 01 băng
truyền, 01 máy băm rơm; sản phẩn là nấm Sò
Chủ cơ sở đã đầu tư được 01 lò hấp công suất 25.000
bịch/lần hấp, 01 nồi hơi, 01 máy đóng bịch, 01 máy nghiền
mùn cưa, 01 xe vận chuyển, 02 máy bơm nước; sản phẩm
là nấm Sò và nấm Mộc nhĩ
XI
Huyện Thạch Thất
106
Trang trại Hoa viên
12ha
Thôn Dục, xã Yên Bình
Nuôi lợn rừng, sản xuất rau hữu cơ, rau bản địa cho các
siêu thị
Công ty TNHH khai thác
tiềm năng sinh thái Hòa
Lạc
107
Nấm
01ha
Xã Đại Đồng
108
Thung lũng ngọc Linh
Thôn Trại Mới, xã Tiến Xuân
Chuyên sản xuất và chế biến đông trùng hạ thảo và nấm
linh chi
Ứng dụng công nghệ cao sản xuất và chế biến đông trùng
hạ thảo, nấm linh chi và các sản phẩm rau hữu cơ theo
phương pháp thủy canh
Ứng dụng công nghệ cao sản xuất rau hữu cơ
109
15ha
Xã Yên Trung
Trồng hoa lily và trồng hoa đồng tiền chậu trong nhà kính
110
12ha
Xã Đại Đồng
Rau Hữu cơ
Hoa lily và trồng hoa đồng
tiền chậu
TT
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
XII
Huyện Quốc Oai
Diện tích chè được trồng tập trung chủ yếu ở khu cực Nông
trường chè Long Phúkhoảng 200ha. Năm 2016 mô hình trồng và
Trồng và thâm canh chè -
Thôn Long Phú, xã Hòa
111
thâm canh chè với diện tích 25ha được Cục Sở hữu trí tuệ cấp
200ha
HTX Chè Long Phú
xã Hòa Thạch
Thạch
nhãn hiệu tập thể "Chè Long Phú - Quốc Oai". Đề xuất Thành
phố hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà sơ chế, chế biến, máy xao sấy
173
chè và hệ thống đóng gói tự động
Trên cơ sở quy hoạch vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
đã được UBND Huyện phê duyệt, UBND xã Cấn Hữu đã quy
hoạch khu trang trại chăn nuôi tập trung, trong đó có 83 hộ tham
gia Hội chăn nuôi; các hộ chăn nuôi lợn nái, gà đẻ trứng. Áp dụng
Chăn nuôi công nghệ cao
Thôn Cấn Thượng, xã Cấn
112
công nghệ vi sinh, nuôi trong chuồng kín, có hệ thống xử lý môi
55,3ha
Chi Hội chăn nuôi
xã Cấn Hữu
Hữu
trường, đã hình thành chuỗi sản xuất lợn sinh học (HTX Đồng
Tâm).Đề xuất Thành phố hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng đường
đi, đường điện cấp cho khu chăn nuôi, xây dựng lò mổ tập trung
và chuỗi sản phẩm an toàn.
Diện tích trồng cây ăn quả xã Đại Thành là 106,35ha, chủ yếu trồng
nhãn chín muộn, năm 2015 được Cục Sở hữu trí thuệ cấp nhãn hiệu
Trồng cây ăn quả xã Yên
tập thể Nhãn chín muộn Đại Thành; năm 2016 xuất khấu được 05
Xã Đại Thành, xã Yên Sơn và
113
Sơn, xã Đại Thành và xã
tấn sang thị trường Malaysia; diện tích trồng cây ăn quả xã Yên Sơn
232,95ha
Các hộ
xã Sài Sơn
Sài Sơn
là 126,6ha, chủ yếu trồng bưởi diễn, cam canh, ổi Đài Loan, diện
tích trồng cây ăn quả xã Sài Sơn là 187,2ha, chủ yếu trồng các loại
cây bưởi diễn, cam V2, ổi Đài Loan.
Chăn nuôi bò sữa thực hiện theo chuỗi an toàn của Trung
114
Bò sữa xã Phượng Cách
tâm phát triển chăn nuôi Hà Nội. Đề xuất Thành phố hỗ trợ
300 con
Xã Phượng Cách
Các hộ chăn nuôi
cơ giới hóa vào sản xuất, máy trộn thức ăn, máy vắt sữa
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Tổ chức, cá
TT
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
Thành phố hỗ trợ
nhân thưc hiện
Trồng rau an toàn các xã:
HTX Nghĩa Hương,
Các xã: Nghĩa Hương, Yên
115
Nghĩa Hương, Yên Sơn,
31,2ha
HTX Yên Sơn và HTX
Sơn, Tân Phú
Tân Phú
Tân Phú
Trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển mạng lưới SX
rau an toàn trên địa bàn Thành phố đến năm 2020, UBND
huyện lập quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
chung vùng SX RAT xã Tân Phú với kinh phí 16,5 tỷ đồng
xây dựng nhà sơ chế, trạm cấp nước tập trung phục vụ SX
rau. Năm 2016 UBND huyện phê duyệt Kế hoạch phát
triển vùng SX RAT trong đó đã hỗ trợ xã Tân Phú xây
dựng 1,5ha nhà lưới và xã Nghĩa Hương xây dựng 02ha
174
nhà lưới. Diện tích rau hiện đang SX của xã Tân Phú là
36ha, xã Nghĩa Hương là 20ha, xã Yên Sơn là 27,7ha. Các
loại rau chủ yếu là rau ăn lá, đậu trắng, su hào, cà chua...
Hình thức tổ chức SX: Các HTX quản lý điều hành SX, sản
phẩm SX được tiêu thụ tại các chợ nông thôn
XIII
Huyện Ứng Hòa
Rau sạch
Trồng rau sạch trong nhà màng kính
5,000m2
116
Trồng dưa lưới
Trồng dưa lưới trong nhà kính
3,000m2
117
Thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn
Công
Thôn Phù Lưu Hạ, xã Phù
Lưu
Chăn nuôi lợn
Tự động hóa trong chăn nuôi
2,246 tấn/năm
Thôn Nội Xá, xã Vạn Thái
118
119
Thủy sản
Nuôi cá truyền thống bằng mô hình sông trong ao
15 sông
Xã Trầm lộng
xã Liên Bạt
HTX nông nghiệp Vĩnh
Thượng
Hộ Nguyễn Phúc Bách,
xã Phù Lưu
HTX Hòa Mỹ, xã Vạn
Thái
4 hộ gia đình tại xã Trầm
Lộng và 02 hộ tại xã
Liên Bạt
XIV
Huyện Chương Mỹ
120
1,1ha
Sản xuất rau ứng dụng
công nghệ cao
Thôn Giáp Ngọ, thị trấn Chúc
Sơn
HTX rau quả sạchChúc
Sơn
5,2ha
Xã Ngọc Hòa
121
Nuôi cá ứng dụng công
nghệ cao
Nhóm Liên kết sản xuất
cá sạch
Sản xuất rau trong nhà lưới với hệ thống tưới tiết kiệm,
kiểm soát và quy trình sản xuất VietGAP. Rau được sản
xuất quanh năm giá trị tăng 50% so với sản xuất rau tháng
đạt 120.000.000 đồng/ha
Tạo các sông trong ao với hệ thống tạo dòng chảy và sục
khí, nuôi các với mật độ cao.Năng suất đạt 80 tấn/ha (tăng
6-8 lần so với nuôi thông thường), giá trị 3,5 tỷ đồng/ha, lợi
nhuận ước đạt 0,4 tỷ đồng/ha, chất lượng cá thịt ngon hơn,
giá cao hơn
Nội dung thực hiện
Quy mô
Địa điểm thực hiện
TT
Tóm tắt các nội dung chính sách được
Thành phố hỗ trợ
Tổ chức, cá
nhân thưc hiện
XV
Ứng dụng công nghệ KHKT sản xuất Rau an toàn
05ha
122
Thôn Chu Quyến, xã Chu
Minh
10ha
Xã Ba Trại
123
Ứng dụng KHCN để sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn
VietGAP
HTX nông nghiệpChu
Quyến và Công ty Ra Vi
UBND xã, Hội nông dân
xã Ba Trại
XVI
Thôn Trại Láng, xã Cổ Đông
124
Công ty cổ phần PAN
FARM
Huyện Ba Vì
Sản xuất Rau an toàn Chu
Minh
Sản xuất Chè an toàn theo
quy chình VietGAP
Thị xã Sơn Tây
Trồng rau CNC
Trung tâm khảo nghiệm
giống cây trồng
Áp dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp từ Nhật Bản
trồng và phát triển các loại như: Giống rau an toàn: cải
ngọt, cải bẹ xanh lá mỡ...; Giống dưa lưới ruột vàng, ruột
- Tổng diện tích
xây dựng: 8.000
m2, trong đó: 4.000
175
xanh... nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng,
mang lại hiệu quả kinh tế cao.Hiện nay chuyên trồng dưa
lưới 03 vụ/ năm, mỗi vụ cho thu hoạch khoảng 10.000 quả
m2 nhà màng,còn
lại là nhà kho, sân
vườn…
XVII
Huyện Hoài Đức
125
Sản xuất rau an toàn
1,5ha
Thôn Tiền Lệ, xã Tiền Yên
Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP trong nhà
lưới
HTX nông nghiệp Tiền
Lệ
XVIII
Huyện Mỹ Đức
126
Sản xuất Nấm Kim châm
03 tấn/ngày
Thôn Đốc Kính, xã Đốc Tín,
huyện Mỹ Đức
Công ty TNHH XKN
Kinoko Thanh Cao
Nhà máy sản xuất Nấm Kim châm công nghệ Nhật Bản, công
suất hiện tại 1,5 tấn nấm/ngày, công suất tối đa đạt 3,0
tấn/ngày. Giải quyết cho 25 lao động với mức lương từ 3,5-7
triệu đồng/người/tháng. Hiện nay, Công ty chỉ phân phối cho
02 đơn vị: Công ty Thực phẩm lý tưởng Việt Nam cho thị
trường miền Bắc và 1 đơn vị ở TP Hồ Chí Minh. Dự kiến sẽ
bán cho các nhà phân phối vào cửa hàng rau sạch, nhà hàng
trung - cao cấp, một số siêu thị như Aeon, Vinmart.
176
Phụ lục 04: Tổng hợp chỉ tiêu KTXH năm 2019 và kế hoạch năm 2020 của thành
phố Hà Nội
TT Tên chỉ tiêu Đơn vị
tính Kế hoạch
Năm 2020 TH
Năm 2019
A NHÓM CHỈ TIÊU KINH TẾ TỔNG HỢP
Tốc độ tăng GRDP (cách tính mới) 7.46 > 7,5 % 1
Trong đó:
% - Dịch vụ 6.80 > 6,8
% - Thuế NK và thuế SP trừ trợ cấp SP 8.48 > 8,1
% - Công nghiệp và xây dựng 9.16 > 9,1
% 8.13 > 8,0 + Công nghiệp
% 11.68 > 11,6 + Xây dựng
% -0.96 > 3,0 - Nông nghiệp
GRDP/người (giá hiện hành) 2 Triệu
đồng 127.6 > 136
Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển % 12.9 > 10,5 3
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu % 25.8 > 8 4
177
Phụ lục 05: Thực hiện chỉ tiêu Kế hoạch KT-XH 5 năm 2016-2020 của thành phố Hà Nội
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
TH
2016
TH
2017
TH
2018
TH
2019
KH
2020
T
T
TH
2011-
2015
TB
2016-
2020
Nghị
quyết
Đại hội
XVI
Nghị
quyết
05/NQ-
HĐND
8.65
8.80
8.52
8.20
8.48
8.46
8,5-9,0
7,8-8,3
1
A
-
GRDP
quy đổi
cách
tính mới
-
B
-
-
-
8,5-9,0
7,8-8,3
8,8-9,4
6,0-6,5
10-10,5 10,0-10,5
11,4-11,7
6,4-7,4
3,5-4,0
3,5-4,0
7,34
7,0
7,16
6,36
8,47
10
…
3,66
6,74
6,63
5,57
8,12
9,45
…
3,60
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
8.61
8.50
8.67
7.85
10.68
3.27
7.12
6.89
6.67
8.34
7.73
9.87
3.27
8.60
8.90
9.55
8.29
12.56
-0.96
7.46
6.80
8.48
9.16
8.13
11.68
-0.96
8.60
8.90
9.60
8.20
12.60
3.00
7.53
6.82
8.10
9.15
8.20
11.60
3.00
100
100
100
100
100
100
61-62
-
2
A
-
8.71
8.30
9.33
7.18
8.46
9.00
7.20
7.30
13.82 11.40
1.97
2.21
7.31
7.15
7,3-7,8
6.68
6.76
7,0-7,5
7.74
6.85
6,5-6,9
9.47
8.89
9,0-9,3
8,6-9,0
8.53
7.37
9,9-10,2 13.02 11.88
2.19
3.22
2,5-3,0
100
8.56
8.56
9.05
7.77
12.21
1.89
7.31
6.79
7.57
9.00
7.99
11.61
2.13
35-36,5
2,5-3,0
100
67-67,5
57,5-58,5
8,5-9,5
30-30,5
2,5-3,0
57.28 57.63
9.81
9.83
29.69 29.71
2.84
3.22
100
100
63,8-64,2 64.60 64.31
57.07
9.67
30.44
2.82
100
64.04
56.65
9.76
31.01
2.58
100
63.76
56.17
9.70
31.68
2.46
100
63.47
Tăng trưởng GRDP
Tăng trưởng GRDP (Cách tính cũ)
Dịch vụ
+ Hoạt động ngành dịch vụ
+ Thuế SP trừ trợ cấp SP
Công nghiệp - xây dựng
+ Công nghiệp
+ Xây dựng
Nông nghịêp
Tăng trưởng GRDP (Cách tính mới)
Hoạt động ngành dịch vụ
Thuế SP trừ trợ cấp SP
Công nghiệp - xây dựng
+ Công nghiệp
+ Xây dựng
Nông nghịêp
Cơ cấu ngành kinh tế
Cách tính cũ
Dịch vụ
+ Hoạt động ngành dịch vụ
+ Thuế NK và thuế SP trừ trợ cấp SP
Công nghiệp - xây dựng
Nông nghịêp
Cách tính mới
Hoạt động ngành dịch vụ
100
66.87
57.07
9.80
29.68
3.44
100
64,8
%
%
%
%
%
%
%
%
-
-
B
-
178
Thuế SP trừ trợ cấp SP
Công nghiệp - xây dựng
Nông nghịêp
7,6-7,8 11.29 11.44
26,0-26,5 21.93 22.30
1.95
1,8-2,4
2.18
11.40
22.63
1.94
11.31
23.13
1.80
11.20
23.59
1.74
11,8
21,2
2,2
-
-
-
103.00 115.00
3
GRDP bình quân/người/năm (Cách tính cũ)
79.65 85.97
93,70
77,1
(3.660)
140-145
(6.700-
6.800)
140-145
(6.700-
6.800)
GRDP bình quân/người/năm (Cách tính mới)
104.5 110.1
117,2
(5.134)
127,6
(5.500)
137,0
(5.830)
126-129
(5.600-
5.730)
---
---
---
---
---
---
---
4
Huy động vốn đầu tư xã hội (Cách tính cũ)
1.421,66
2.500-
2.600
2.500-
2.600
60-62
Tỷ trọng ĐTXH trong GRDP (Cách tính cũ)
Huy động vốn đầu tư xã hội (Cách tính mới)
1.054,33
278.88 305.20 339.43 383.30 435.50 1,742.31
5
52,07
70-75
80.0
35.49 36.18
76.2
66.1
36.88
83.9
37.25
91.9
%
%
%
Triệu
đồng
(USD)
Triệu
đồng
(USD)
1.000 tỷ
đ.
%
1.000 tỷ
đ.
%
%
67.50
38.62
95.8
55.6
70.20
37.02
1.700-
1.750
53,14
6,05
70-75
6,5-7,0
70-75
5.99
Tỷ trọng ĐTXH trong GRDP (Cách tính mới)
Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới
Tỷ lệ số huyện đạt chuẩn nông thôn mới
Tỷ lệ lao động (đang làm việc) qua đào tạo
9
Năng suất lao động xã hội tăng bình quân
15
Năng suất lao động xã hội tăng bq (cách tính mới)
Tỷ lệ đô thị hóa
16
49,1
58-60
56.93 60.66
8.10
8.10
6.59
5,44-5,87 6.23
49.2
49.2
63.18
6.50
5.49
49.2
5.80
49.2
5.84
49.2
%
%
%
%
179
Phụ lục 06: Tổng hợp kết quả và hiệu quả của một số mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Hà Nội
Tên mô hình Địa chỉ Quy mô đầu tư Kết quả, hiệu quả Chính sách hỗ trợ nhận được
Xã Đốc Tín,Tổng đầu tư- Sản lượng: 30 tấn nấm/tháng
- Doanh thu: 120 – 180 tỷ
- Được Bộ Khoa học và Công
nghệ hỗ trợ 8,5 tỷ đồng theo dự
- Được thuê đất công ổn định, lâu
gói - Nộp ngân sách 3,6 tỷ đồng/năm dài (Công ty thuê lại Trại dâu tằm (năm 2018)
của huyện Mỹ Đức) 5-7 Công ty TNHH xuất
nhập khẩu KINOKO huyện Mỹ Đức
Thanh Cao khoảng 70 tỷ đồng
cho dây chuyền sản đồng/năm
xuất và đóng
nấm kim châm
theo công nghệ của
Nhật Bản - Tạo việc làm cho 25 lao động
nhập
vớithu
đồng/tháng triệu
Công ty cổ phần Vật Xã Đại Thịnh,
tư và Giống cây trồng huyện Mê Linh
Hà Nội - Tổng đầu tư: 8 tỷ
bao gồm Phòng
nuôi cấy mô và 7
ha trồng hoa ứng
dụng công nghệ
cao - Doanh thu hàng năm: 10 tỷ
đồng
- Tạo việc làm ổn định cho
khoảng 10 lao động với thu nhập
bình quân: 8-10 triệu đồng/tháng
HTX sản xuất và dịch Xã Ninh Sở,
huyện Thường
vụ nông nghiệp
Tín
Thanh Hà - Quy mô diện tích:
1,2 ha
- Tổng đầu tư: 5 tỷ
đồng - Doanh thu: 6 tỷ đồng/năm
(năm 2019)
- Tạo việc làm ổn định cho 10
lao động với thu nhập bình quân:
6-8 triệu đồng/người/tháng - Được hỗ trợ đường bê tông vào
khu sản xuất, kinh phí xây dựng
kho lạnh bảo quản sản phẩm.
- Được hỗ trợ đăng ký sản phẩm
OCOP
Đan5 ha - Quy mô diện tích: – - Được hỗ trợ đường bê tông vào
36 tỷkhu sản xuất, kinh phí xây dựng
- Kinh phí đầu tư:
11 tỷ đồng (20 nhà
- Sản lượng: 2-4 tấn rau/ngày
- Doanh
đồng/năm huyện
Phượng thu: 30 kho lạnh bảo quản sản phẩm HTX Rau hữu cơ Xã Đan Phượng,
công nghệ cao Cuối
Quý
180
- Tạo việc làm cho khoảng 15
lao động với thu nhập 5-10 triệu
đồng/tháng màng, nhà lưới)
ĐanXã
Phương- Diện tích 12.500
huyệnm2 (năm 2019) bao các loại/năm nuôi- Doanh thu: 4-5 tỷ đồng/năm
- Giải quyết việc làm thường
xuyên cho khoảng 30 lao động
với thu nhập bình quân 5-7 triệu
đồng/người/tháng Đình,
Đan Phượng - Sản lượng: 250.000 cây hoa lan - Được thuê đất công ổn định, lâu
dài (HTX được thuê lại diện tích
Trại chăn nuôi của huyện).
- Huyện hỗ trợ xây dựng trạm biến
áp điện gồm Phòng
cấy mô hiện đại và
các nhà lưới HTX Hoa lan
Hoài – Flora Việt
Nam
LongXã Tân Ước,
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát năm 2020
huyện
Oai - Doanh thu 2019: 52 tỷ
- Tạo việc làm ổn định cho 40
người với thu nhập bình quân: 7
triệu đồng/tháng
lợn - Tổng đầu tư: 50
Thanhtỷ (bao gồm trang
trại chăn nuôi lợn,
nhà máy giết mổ và
chế biến) trên diện
tích 5ha
- 4.000 con
thịt; 400 con lợn
nái sinh sản HTX Hoàng
(Chuỗi sản phẩm
chăn nuôi khép kín)