BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------------------------------

NGUYỄN MINH TUÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH - NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------------------------------

NGUYỄN MINH TUÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH - NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Khoa học quản lý Mã số: 9310110_QL

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. Nguyễn Văn Nam 2. TS. Nguyễn Đăng Núi

HÀ NỘI – 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2021 Nghiên cứu sinh Nguyễn Minh Tuân

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin cảm ơn TS. Nguyễn Văn Nam và TS. Nguyễn Đăng Núi đã tận tình

hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành bản luận án này.

Tôi xin cảm ơn HĐND, UBND thành phố Hà Nội; Hội Nông dân, sở Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.... cùng các hộ gia đình, cá nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện để tôi phối hợp thực hiện điều tra, khảo sát, thu thập dữ liệu phục vụ luận án.

Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Khoa học Quản lý, Ban lãnh đạo, các cán bộ của Viện Đào tạo sau đại học – Trường Kinh tế Quốc dân đã có những góp ý về mặt khoa học, có những trợ giúp về mặt quy trình, thủ tục để tôi hoàn thành

luận án.

Tôi xin cảm ơn gia đình đã chia sẻ, động viên và tạo điều kiện để tôi hoàn

thành luận án.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn tin tưởng ủng hộ tôi

hoàn thành luận án.

iii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. viii

DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... ix

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN ............................................................................................................................. 6

1.1. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp công nghệ cao ............................... 6

1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển nông nghiệp công nghệ cao .......... 6

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao .......... 9

1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với phát

triển nông nghiệp công nghệ cao ............................................................................. 16

1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài về quản lý nhà nước đối với phát triển nông

nghiệp công nghệ cao ............................................................................................. 16

1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về quản lý nhà nước đối với phát triển nông

nghiệp công nghệ cao ............................................................................................. 17

1.3. Khoảng trống nghiên cứu .................................................................................. 21

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH

QUYỀN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ

CAO .............................................................................................................................. 23

2.1. Các vấn đề chung về quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát

triển nông nghiệp công nghệ cao ............................................................................. 23

2.1.1. Nông nghiệp công nghệ cao và nội hàm của phát triển nông nghiệp công

nghệ cao .................................................................................................................. 23

2.1.2. Mục tiêu, quan niệm và yêu cầu của quản lý nhà nước về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ................................. 30

2.2. Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao ................................................................................................ 37

iv

2.2.1. Ban hành và phổ biến quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách ............. 37

2.2.2. Tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình và chính sách .......................... 39

2.2.3. Kiểm tra giám sát nhằm kịp thời điều tiết các thất bại của thị trường trong

quá trình thực hiện qui hoạch, chương trình và các chính sách ............................. 41

2.2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC .......... 42

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp

công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ............................................ 44

2.3.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương và xu hướng phát triển của KHCN

và ngành nông nghiệp ............................................................................................. 44

2.3.2. Nhóm các nhân tố liên quan đến thể chế và cơ chế chính sách ................... 45

2.3.3. Năng lực và thái độ làm việc của cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà

nước ........................................................................................................................ 47

2.3.4. Sự phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp CNC (Nhà

nước, người dân, doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu) ....................................... 47

2.3.5. Nhóm các yếu tố đầu vào phát triển nông nghiệp CNC ............................... 48

2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở

trong nước và trên thế giới ....................................................................................... 50

2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của Trung

Quốc ........................................................................................................................ 50

2.4.2 Kinh nghiệm của Israel .................................................................................. 53

2.4.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của một số

nước Châu Á khác .................................................................................................. 55

2.4.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của

thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................................... 60

2.4.5. Bài học đối với Hà Nội trong quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp

công nghệ cao ......................................................................................................... 63

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO ............................................. 65

3.1. Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................... 65

3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội ............................................. 65

3.1.2. Về đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội ........ 67

3.1.3. Về đặc điểm dân số và lao động của thành phố Hà Nội ............................... 69

3.2. Cách tiếp cận, phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu .......................... 70

v

3.2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu ............................................................................. 70

3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ....................................................................... 72

3.2.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu ................................................. 77

CHƯƠNG 4 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN HÀ

NỘI VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO .............................. 78

4.1. Động thái phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội trong thời

gian qua ...................................................................................................................... 78

4.2. Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội đối với phát triển

nông nghiệp công nghệ cao ...................................................................................... 85

4.2.1. Thực trạng việc ban hành quy hoạch, chương trình và mục tiêu phát triển

nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội ................................................. 85

4.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp công

nghệ cao của Thành phố Hà Nội ............................................................................ 92

4.2.3. Thực trạng giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường ................... 112

4.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC

của chính quyền Hà Nội ......................................................................................... 120

4.3.1. Thành công chủ yếu .................................................................................... 120

4.3.2. Hạn chế của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của

Thành phố Hà Nội ................................................................................................ 122

CHƯƠNG 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TRONG THỜI GIAN TỚI ....................................................................................... 130

5.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

trên địa bàn Hà Nội................................................................................................. 130

5.1.1. Mục tiêu, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao ........................................................................................... 130

5.1.2. Quan điểm quản lý nhà nước phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà

Nội ........................................................................................................................ 131

5.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát triển

nông nghiệp công nghệ cao .................................................................................... 133

5.2.1. Rà soát quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nông

nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao ..................................................................... 133

vi

5.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo điều kiện đầu vào cho phát triển nông

nghiệp CNC .......................................................................................................... 134

5.2.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách phát

triển nông nghiệp công nghệ cao .......................................................................... 138

5.2.4. Giải pháp về kiểm soát và khắc phục tốt các thất bại của thị trường ......... 140

5.2.5. Các giải pháp khác ...................................................................................... 140

5.3. Kiến nghị với Trung ương và các bộ ngành liên quan ................................. 144

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146

NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 148

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 156

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Công nghệ cao CNC

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Cơ sở hạ tầng CSHT

Đồng bằng sông Hồng ĐBSH

Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP

Hội đồng nhân dân HĐND

Hợp tác xã HTX

Kế hoạch KH

Khoa học công nghệ KHCN

Kinh tế trọng điểm KTTĐ

Kinh tế xã hội KTXH

Nông nghiệp NN

Nguồn nhân lực NNL

Nghị quyết NQ

Ngân sách NS

Ngân sách nhà nước NSNN

Nông thôn mới NTM

Nhà xuất bản NXB

PAPI Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công

PAR Index Chỉ số Cải cách hành chính

PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

Phát triển nông thôn PTNT

Quy phạm pháp luật QPPL

Sản xuất kinh doanh SXKD

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

Ủy ban nhân dân UBND

Xuất khẩu XK

Xã hội chủ nghĩa XHCN

viii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC ................. 43 Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Thành phố Hà Nội ........................ 66 Bảng 3.2: Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối phân theo năm của thành phố Hà Nội ................ 67 Bảng 3.3. Thực trạng đất nông nghiệp của Hà Nội, 01/01/2019 ......................................... 68 Bảng 3.4. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của Hà Nội, 2015-2019 ............................. 68 Bảng 3.5. Cơ cấu dân số, lao động nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội, 2015-2019 ........ 69 Bảng 3.6. Dự báo lao động thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030 ............... 70 Bảng 3.7. Tổng hợp số lượng mẫu phỏng vấn sâu ................................................................ 73 Bảng 3.8. Thông tin về đối tượng trả lời phiếu điều tra ........................................................ 75 Bảng 4.1: So sánh kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hà Nội ..................................................................................................................... 78 Bảng 4.2. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội theo lĩnh vực năm 2020 .......................................................................................................... 80 Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của các mô hình nông nghiệp CNC được khảo sát tại Hà Nội ........................................................................................................... 81 Bảng 4.4. Doanh thu thuần và thu nhập bình quân của người lao động của các doanh nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội ............ 81 Bảng 4.5: Kết quả qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC ở Hà Nội ........................... 88 Bảng 4.6. Diện tích đất các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được quy hoạch trên địa bàn Hà Nội tính đến năm 2020 ........................................................................ 89 Bảng 4.7. Kết quả khảo sát ý kiến doanh nghiệp, HTX, người dân về quy hoạch, chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội ........................... 91 Bảng 4.8: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai để phát triển nông nghiệp CNC .................................................................................. 95 Bảng 4.9. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển NN CNC ....................................... 101 Bảng 4.10. Nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại một số huyện trên địa bàn Hà Nội .................................................. 102 Bảng 4.11: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ trợ vốn và tín dụng cho phát triển nông nghiệp CNC ........................................ 106 Bảng 4.12. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ và tập huấn kỹ thuật .......................................................... 112 Bảng 4.13. Kết quả khảo sát về thủ tục hành chính của các chính sách phát triển nông nghiệp CNC ở Hà Nội .......................................................................................... 114 Bảng 4.14. Danh mục các dự án nông nghiệp công nghệ cao kêu gọi đầu tư trực tiếp của thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2025 .............................................................. 118

ix

DANH MỤC HÌNH Hình 3.1. Khung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC ...... 71 Hình 4.1. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội ............... 80

Hình 4.2. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội giai đoạn 2014-2018 ...................................................................................................... 82 Hình 4.3. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội của doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp CNC và doanh nghiệp, HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản ................... 83

Hình 4.4. Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo của Hà Nội, 2015-2019 .................... 109 Hình 4.5. Chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Hà Nội, 2010-2019 ....................... 119 Hình 4.6. Số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội, 2014-2018 ............................................................................................... 121

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của nghiên cứu

Thành phố Hà Nội là một đơn vị hành chính đặc biệt, là trung tâm chính trị -

hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương, của các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan tổ chức ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, kinh tế, khoa học và công nghệ và giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội có diện tích đất tự nhiên 3.358,92 km2, khu vực nông thôn có diện tích tự nhiên 2.841,8 km 2, chiếm 84,6% diện tích đất tự nhiên của Thành phố; dân số khoảng 10 triệu người đang công tác, cư trú, học tập, trong đó dân số khu vực nông thôn khoảng 4,1 triệu người. Hiện nay, Thành phố đang định hướng, tổ

chức xây dựng Thành phố thông minh, chính quyền đô thị, do vậy việc phát triển ứng dụng khoa học công nghệ cao là tất yếu trong tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội khá lớn với 1.886 km2 (188,6 nghìn ha); giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2017 đạt 35.133 tỷ đồng. Giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao đạt 25%/ tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp của Thành phố (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2017). Thủ đô Hà Nội hội đủ các yếu tố cần để phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Đó là sự gia tăng

dân số tạo áp lực lên ngành nông nghiệp với việc cung cấp sản phẩm nông nghiệp; điều kiện tự nhiên thuận lợi về đất đai, thổ dưỡng; nơi có điều kiện về khoa học công nghệ, đan xen giữa phát triển đô thị là phát triển nông nghiệp bảo vệ môi trường kết

hợp du lịch sinh thái; nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông sản lớn. Công tác quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao đạt được khá nhiều kết quả.

Tính đến hết năm 2019 cả nước mới có 45 doanh nghiệp nông nghiệp công

nghệ cao. Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao vẫn chưa đạt được như kỳ vọng bởi vì các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn về đất đai, vốn, trong khi đây lại là lĩnh vực đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài... Trong thời gian

vừa qua, phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được Thành ủy Hà Nội xác định là nhiệm vụ trọng tâm (Nam Giang, 2018). Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân giai đoạn 2016-2020”, đã xác định “Phát triển sản xuất nông nghiệp

theo hướng ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao” là một trong các nhiệm vụ trọng tâm.

2

Bên cạnh đó, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội cũng luôn khuyến

khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp, người dân đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao (Đắc Sơn, 2017). Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội khóa 14 đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 8/7/2015 về “Một số chính sách thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020”, trong đó có quy định chi tiết các mức hỗ trợ cho Doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình tham gia sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thành phố cũng đã quy hoạch được 9 khu sản xuất

nông nghiệp công nghệ cao và đang kêu gọi đầu tư vào 7 dự án sản xuất nông nghiệp công nghệ cao với tổng vốn đầu tư 5.200 tỷ đồng. Theo đánh giá của các chuyên gia, tiềm năng đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp của Hà Nội là

rất rộng mở. Trước hết, diện tích đất sản xuất nông nghiệp tương đối lớn, trên 150.000 ha. Hà Nội đã thực hiện dồn điền đổi thửa được gần 79.000 ha, đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn, có hạ tầng kỹ thuật về giao thông, thủy lợi khá đồng bộ. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ cao và

cơ giới hóa vào sản xuất. Bên cạnh đó, với dân số khoảng 10 triệu người, cùng với lượng khách du lịch gần 30 triệu người (số liệu năm 2019), trong đó có khoảng 7 triệu khách du lịch quốc tế, Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ nông sản rộng lớn, đặc biệt là đối với các loại nông sản chất lượng cao.

Tuy nhiên, mặc dù có lợi là thế trung tâm khoa học công nghệ hàng đầu của cả nước, có nhiều thuận lợi khi tiếp nhận, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn

chưa đạt được kỳ vọng và chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh. Tính đến đầu năm 2020, trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 164 mô hình nông nghiệp công nghệ cao, trong đó có 109 mô hình trồng trọt, 40 mô hình chăn nuôi, và 15 mô hình thủy sản. Trong các mô hình này chỉ có duy nhất 1 doanh nghiệp được công nhận là doanh

nghiệp nông nghiệp công nghệ cao là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Kinoko Thanh Cao ở xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nấm. Phần lớn các mô hình còn lại có quy mô nhỏ lẻ và mới dừng lại ở việc ứng dụng từng phần.

Điều này đã và đang đặt ra yêu cầu cấp bách đối với công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội để thực hiện mục tiêu mà Thành phố đã đề ra. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là quản lý nhà nước về nông nghiệp CNC chưa chuyên nghiệp, nhiều chính sách

chưa đi vào thực tiễn và có tác động tích cực đối với sự phát triển của nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố.

3

Bên cạnh đó, về mặt lý thuyết, chủ đề nông nghiệp CNC cũng như phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn thiếu vắng một khung lý luận mang tính hệ thống về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao đặc biệt làm rõ vai trò quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC.

Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh/thành phố - nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận án tiến sỹ với mục tiêu góp phần nhỏ bé đóng góp và quá trình phát triển Hà Nội thành thành phố thông minh, hiện đại; đáp ứng nhu cầu nông sản sạch, chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với việc định hướng phát triển của Thành phố, làm địa phương điển hình về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước.

2. Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu tổng quát:

Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước của chính quyền thành phố Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp CNC trong thời gian tới.

Mục tiêu cụ thể:

- Đánh giá tổng quan về các nghiên cứu lý thuyết, thực nghiệm trên thế giới và tại Việt Nam về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp nói chung và công nghệ cao nói riêng từ đó làm rõ khoảng trống nghiên cứu.

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nhà nước của chính quyền cấp tỉnh/thành phố đối với sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao; Làm rõ nội hàm của quản lý nhà nước của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao nói chung và đặc thù của thành phố Hà Nội nói riêng.

- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền cấp thành phố về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ rõ thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.

- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu

Cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền địa

phương cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội.

4

Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển

nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh ở Hà Nội. Cụ thể là:

Luận án tiếp cận phát triển nông nghiệp công nghệ cao dưới góc nhìn vừa là đối tượng của quản lý nhà nước vừa là kết quả hoạt động quản lý nhà nước thể hiện ở sự tăng lên về quy mô, số lượng sản phẩm nông nghiệp CNC trong tổng giá trị sản phẩm

nông nghiệp và thay đổi về cơ cấu ngành nông nghiệp. Luận án không đi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao mà chỉ phân tích động thái phát triển của các khu nông nghiệp CNC, các dự án nông nghiệp CNC của Hà Nội

như là kết quả đầu ra của hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC qua các năm.

Về quản lý nhà nước, luận án không nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh quản lý nhà nước đối

với phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Riêng nội hàm của quản lý nhà nước cũng rất rộng liên quan đến các chức năng quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trên địa bàn thành phố Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp CNC nên không thể nghiên

cứu tất cả các khía cạnh đó trong luận án này. Trong thời gian và điều kiện có hạn, phạm vi nội dung của luận án chỉ tập trung vào các vấn đề sau:

(i) Về công tác xây dựng và ban hành quy hoạch/chương trình và chính sách phát triển nông nghiệp CNC, luận án sẽ chỉ tập trung vào việc đánh giá kết quả của

việc ban hành, phổ biến qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC, chương trình phát triển nông nghiệp CNC đã được thành phố phê duyệt. Luận án không nghiên cứu quá trình xây dựng qui hoạch, quá trình xây dựng các chương trình và chính sách liên quan

đến phát triển nông nghiệp CNC.

(ii) Về công tác tổ chức thực hiện các qui hoạch, chính sách phát triển nông nghiệp CNC luận án không nghiên cứu kết quả thực hiện tất cả các chính sách mà chỉ tập trung nghiên cứu kết quả triển khai tổ chức thực hiện (qua 3 khía cạnh chính là mức độ biết đến chính sách, mức độ tiếp cận được chính sách và mức độ phù hợp của chính sách) của 4 chính sách chính như: chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ tín dụng và ưu đãi vay vốn, chính sách hỗ trợ đất đai, chính sách hỗ trợ đào tạo

nguồn nhân lực trong các chương trình phát triển nông nghiệp CNC đã được thành phố Hà Nội phê duyệt trong thời gian qua; Việc triển khai thực hiện các chính sách liên quan khác hoặc các kế hoạch, chương trình công tác của UBND và các bên có liên quan để tổ chức thực hiện chính sách cũng không được nghiên cứu trong luận án này.

5

(iii) Về công tác kiểm tra giám sát, luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động kiểm tra giám sát nhằm điều chỉnh các thất bại của thị trường trong quá trình thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao thông qua hai chỉ số là chỉ số cải cách thủ tục hành chính và các chỉ số về xúc tiến đầu tư, thương mại nhằm đạt mục tiêu phát triển nông nghiệp CNC. Vì mục tiêu của hoạt động giám sát là phát hiện ra những điểm chưa phù hợp và kịp thời đưa ra các giải pháp điều chỉnh các thất bại của thị trường. Các mục tiêu hành chính của hoạt động giám sát là phát hiện cái chưa đúng để phạt cũng như việc triển khai các chương trình giám sát của các bên liên quan như HĐND, các kế hoạch đôn đốc, kiểm tra của UBND thành phố Hà Nội và chính quyền cấp tỉnh liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC thì không được nghiên cứu trong luận án này.

Luận án cũng không tập trung nghiên cứu đánh giá mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực này mà chỉ xem xét các nhân tố này như là những nguyên nhân của các hạn chế và thành công của quản lý nhà nước.

Luận án cũng không đi sâu đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm giải trình, cơ chế tổ chức và phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển nông nghiệp CNC.

+ Về địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi địa giới hành chính thành phố Hà Nội tập trung chủ yếu ở một số huyện có hoạt động sản xuất nông nghiệp CNC bao gồm: Đan Phượng, Mỹ Đức, Thanh Oai, Gia Lâm, Mê Linh, Thường Tín, Quốc Oai, Ứng Hòa.

+ Về thời gian: Thời gian nghiên cứu giai đoạn từ 2015-2019, các định hướng,

giải pháp đến năm 2025 tầm nhìn đến 2030.

Nội dung nghiên cứu:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được kết cấu thành 5 chương chính

như sau:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan.

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý của chính quyền cấp tỉnh đối

với phát triển nông nghiệp.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu quản lý nhà nước về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao.

Chương 4: Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội về phát triển

nông nghiệp công nghệ cao

Chương 5: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội trong thời gian tới.

6

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

1.1. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Cũng như nhiều lĩnh vực kinh tế khác, phát triển nông nghiệp là lĩnh vực được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và khai thác ở các khía cạnh khác nhau, trong bối

cảnh các quốc gia khác nhau. Linda Lundmark, Camilla Sandstrom (năm 2013) trong cuốn “Natural resources and regional development theory”(Lý thuyết nguồn lực tự nhiên và sự phát triển vùng) đã bàn về cơ cấu kinh tế nông thôn và các biểu hiện KT-XH của kinh tế nông thôn ở Thụy Điển như sự thay đổi hạ tầng kỹ thuật, sự phát triển KT-XH trên một quy mô tổng thể, đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau chứ không phải chỉ một vài khía cạnh riêng lẻ. E. Wesley và F. Peterson trong cuốn "Agricultural structure and economic adjustment" (năm 1986) (Cơ cấu nông nghiệp

và sự điều chỉnh nền kinh tế) đã đánh giá những yếu tố góp phần làm thay đổi chuyển đổi kinh tế nông nghiệp tại Mỹ và mô tả kinh nghiệm của châu Âu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, và cho rằng đây là những bài học quan trọng

đối với Mỹ, nơi không có chính sách điều chỉnh cơ cấu một cách cụ thể. Trong nghiên cứu này, tác giả cũng cho rằng nước Mỹ nên tập trung vào các phương pháp để giảm bớt chi phí điều chỉnh chứ không phải về những nỗ lực để ngăn chặn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. P.W.Heringa, C.M.Van der Heideb và

W.J.M.Heijman trong cuốn "The economic impact of multifunctional agriculture in Dutch regions: An input-output model” (năm 2013) (Sự ảnh hưởng kinh tế của nền nông nghiệp đa chức năng ở các vùng miền Hà Lan: Mô hình cân đối liên ngành) đã

làm rõ bốn khía cạnh của nền nông nghiệp đa chức năng bao gồm: (i) phát triển cây xanh, (ii) du lịch, giải trí, giáo dục, (iii) kinh doanh trang trại, và (iv) dịch vụ xanh. Julian M.Alston (năm 2014) trong cuốn “Agriculture in the Global Economy” (Nông nghiệp trong nền kinh tế toàn cầu) đã nghiên cứu về triển vọng phát triển nông nghiệp trên thế giới diễn ra khác nhau ở các nền kinh tế khác nhau, cụ thể là sản lượng nông nghiệp có xu hướng giảm ở các nước có thu nhập cao như Mỹ trong khi đó lại tăng ở các nước thu nhập trung bình như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil,

Indonesia. Khi phân tích các mô hình tăng trưởng nông nghiệp ở các nước có thu nhập trung bình, các tác giả đã đưa ra đề nghị chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng cho những người nghèo. Barbara

7

Chmielewska (năm 2009) trong cuốn "The Problems of Agriculture and Rural Areas

in the Process of European Integration” (Vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong quá trình hội nhập châu Âu) đã khẳng định ngành nông nghiệp trên thế giới sẽ ít có cơ hội phát triển nếu không có sự hỗ trợ tài chính của chính phủ EU, đặc biệt là tại các nước kém phát triển. Do vậy, giải pháp chính cho phát triển nông nghiệp ở các nước EU là phát triển đa ngành, đa lĩnh vực. Chỉ có phát triển đa ngành, đa lĩnh vực mới có thể đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) trong tài liệu “Rapid growth of selected Asian

economies Lessons and implications for agriculture and food security China and India” (2006) (Bài học tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế tiêu biểu ở châu Á và ý nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực ở Trung Quốc và Ấn Độ)

đã cho thấy sự phát triển kinh tế của một nước bắt đầu bằng việc phát triển và tái cơ cấu nông nghiệp theo nhu cầu thị trường; quá trình tái cơ cấu lại nông nghiệp liên quan đến việc đa dạng hóa các lĩnh vực hoạt động để đáp ứng những nhu cầu trong nước và thương mại quốc tế. Minna Mikkola (2008), trong tác phẩm “Coordinative

structures and development of food supply chains” đã tổng kết 4 cơ chế quản lý: Quan hệ thị trường, quan hệ thứ bậc (hay quan hệ quyền lực), quan hệ mạng lưới (network) và quan hệ xã hội đều là các quan hệ quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp và các chính sách phát triển nông nghiệp của chính phủ.

Chủ đề ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp được nhiều tác giả quan tâm từ rất sớm, trong đó, điển hình là các tác giả: Feder và cộng sự (1985); Hoppel (1994); Foster và Roenweing (1996); kohli và Singh (1997); Rogers (2003) và

Uaiene (2009). Những tác giả này đã khẳng định công nghệ là yếu tố quyết định đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao; Radhika Kapur (2018), nghiên cứu việc sử dụng công nghệ trong ngành nông nghiệp ở Ấn Độ và chỉ ra vai trò quan trọng của việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất và phát triển nông nghiệp. Trong nghiên cứu của mình,

tác giả đã khẳng định sự phát triển của nông nghiệp ở Ấn Độ mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng năng suất còn thấp so với các nước, việc áp dụng công nghệ sản xuất, công nghệ thu hoạch còn hạn chế. Tác giả cũng đề xuất cần ứng dụng

công nghệ, kỹ thuật, các phương pháp hiện đại vào sản xuất nông nghiệp để cải thiện điều kiện làm việc của người lao động, tăng năng suất và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Dan Senor - Saul singer (2008), trong tác phẩm quốc gia khởi nghiệp, câu

chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, NXB Thế giới, đã nghiên cứu và đưa ra mô hình phát triển, ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp của Israel.

8

Trong xu hướng diện tích đất và lao động nông nghiệp ngày càng suy giảm, sản

xuất nông nghiệp công nghệ cao trở thành một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm giải quyết được những vấn đề về lương thực, thực phẩm và nguyên liệu… Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ trước đây ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt bằng việc hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao ở các nước như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Israel, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan... Bonzovanni và Lowenberg-Deboer (2004), Silva và cộng sự (2007), Frankelius và cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng nông nghiệp công nghệ cao

đóng góp vai trò rất quan trọng dưới các góc độ môi trường và kinh tế cho phát triển nông nghiệp bền vững trong dài hạn. Theo Mondal và Basu (2009), phát triển nông nghiệp công nghệ cao là một trong các cách để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu

và người nghèo trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Huy Tú (2017), thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đã được chú trọng bởi rất nhiều nước trên thế giới. Từ giữa thế kỷ XX, tại các nước phát triển đã xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; Chẳng hạn ở Mỹ, đầu những năm 1980

đã có trên 100 khu nông nghiệp công nghệ. Hay ở Anh, năm 1988 đã có 38 khu vườn khoa học công nghệ với hơn 800 doanh nghiệp. Phần Lan, năm 1996 có 9 khu khoa học nông nghiệp công nghệ cao. Tại châu Âu, hiện nay đặc biệt khuyến khích xu hướng áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp với chương trình Chính sách

nông nghiệp chung (PAC). Đến nay, tại Liên minh châu Âu (EU) toàn bộ các gia đình châu Âu được kết nối Internet với tốc độ cao, nông dân được đào tạo, tiếp cận các khoa học, kỹ thuật số để phục vụ hiện đại hóa các trang trại, tạo thêm việc làm và

thành lập mới các doanh nghiệp tại khu vực nông thôn.

Bên cạnh các nước châu Âu, châu Mỹ, nhiều nước ở châu Á cũng đã chuyển nền nông nghiệp truyền thống quan tâm nhiều đến số lượng sản phẩm sang chất lượng nông sản, ứng dụng khoa học, công nghệ cao, tiêu biểu như một số nước: Trung Quốc,

Đài Loan, Thái Lan... Hiện nay Trung Quốc đã có 405 khu nông nghiệp công nghệ cao, trong đó có 1 khu nông nghiệp công nghệ cao cấp quốc gia, 42 khu cấp tỉnh và 362 khu cấp thành phố. Những khu này đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát

triển nông nghiệp hiện nay của Trung Quốc. Sản xuất tại các khu nông nghiệp công nghệ cao đạt năng suất cao kỷ lục. Chẳng hạn, tại Israel năng suất của cà chua đạt 250 – 300 tấn/ha, bưởi đạt 100 – 150 tấn/ha, hoa cắt cành 1,5 triệu cành/ha… đã tạo ra giá trị sản lượng bình quân 120.000 – 150.000 USD/ha/năm. Đặc biệt, tại Trung Quốc giá

trị sản lượng bình quân đạt 40.000 – 50.000 USD/ha/năm, gấp 40 - 50 lần so với các mô hình trước đó (Huy Tú, 2017). Do đó, nông nghiệp công nghệ cao đã và đang trở

9

thành mẫu hình cho nền nông nghiệp tri thức thế kỷ XXI trên thế giới. Tuy nhiên, điều

kiện thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cần quan tâm tới: (i) Quy mô diện tích tiến hành, (ii) Thị trường đầu vào và đầu ra, (iii) Lợi nhuận của doanh nghiệp và thu nhập của người nông dân, (iv) Thể chế chính sách phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp và người nông dân.

Theo Hallam (2011), rất nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển ngày càng chú trọng vào thu hút đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao. Để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đòi

hỏi các cấp chính quyền phải có các cơ chế hỗ trợ đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, vốn... đến thị trường tiêu thụ. Tseng và Zebregs (2002), Murakami và cộng sự (2007) đã chỉ ra rằng phát triển cơ sở hạ tầng sẽ phát huy hiệu quả trong việc thu hút đầu tư vào nông

nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Zhang và cộng sự (2010) khi tiến hành nghiên cứu ở tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc cho rằng, để phát triển và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao các cấp chính quyền cần tập trung vào các vấn đề sau đây: (i) tăng cường hỗ trợ một cách linh hoạt về vốn và công nghệ;

(ii) tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng về thông tin nông nghiệp; (iii) xây dựng các mô hình trình diễn về nông nghiệp công nghệ cao; và (iv) đầu tư cho nghiên cứu các thiết bị công nghệ gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Hallam (2011) đã tổng kết một số nguyên lý cần được quan tâm trong thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao bao gồm:

(i) chú trọng đến quyền sử dụng đất; (ii) sự bền vững về xã hội; và (iii) sự bền vững về môi trường. Tey và Brindal (2012) đã chỉ ra rằng một số ưu đãi về tài chính như chính sách lãi suất ưu đãi và cắt giảm thuế là cách thức hữu hiệu để thu hút đầu tư vào nông

nghiệp công nghệ cao. Kết quả này cũng giống với đề xuất trong nghiên cứu của Singh và cộng sự (1995), Tseng và Zebregs (2002).

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016) với "Báo cáo tổng hợp Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030". Đây là công trình quy hoạch khá chi tiết, nêu

bật các chỉ tiêu và định hướng phát triển KT-XH của 07 tỉnh, thành phố - vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng. Bên cạnh đó, Trần Ngọc Ngoạn (2008) trong bài nghiên cứu về “Phát triển nông thôn bền vững những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới” đã tiếp cận đến những vấn đề lý luận và kinh nghiệm phát

triển nông thôn bền vững từ một số tỉnh thành trong cả nước. Nghiên cứu này đã làm rõ cơ sở lý thuyết cho phát triển nông thôn bền vững và một số kinh nghiệm quốc tế trong phát triển bền vững nông thôn trên 3 trụ cột chính: (1) phát triển bền vững kinh

10

tế nông thôn; (2) phát triển bền vững xã hội nông thôn; (3) tăng cường bảo vệ, quản

lý môi trường tự nhiên. Nguyễn Điền (1997) trong cuốn “CNH nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt Nam" đã khái quát một số vấn đề về nông thôn và CNH nông thôn, phát triển nông thôn ở các nước châu Á, CNH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam. Tác giả khẳng định rằng định hướng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra có thể được sắp xếp thành 3 nhóm như sau: (1) phát triển nông nghiệp; (2) phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH; (3) xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn. Đây là các nội

dung có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tiến hành CNH nông nghiệp và nông thôn. Đặng Kim Sơn (2008) trong bài: Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tổng hợp, phân tích vấn

đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình CNH ở nhiều nước trên thế giới, tác giả có sự liên hệ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề tính lý luận, thực tiễn như: vai trò của nông nghiệp, vấn đề cơ cấu sản xuất, vấn đề đất đai, lao động, môi trường trong quá trình CNH đất nước. Đây là những

vấn đề mà Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đặng Kim Sơn (2009) trong bài báo “Xây dựng chiến lược nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”

đã phân tích thực trạng tam nông từ khi có những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; thực trạng tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn; những vấn đề tồn tại cần giải quyết và các thách thức cần vượt qua

trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay. Tác giả cũng đưa ra mục tiêu, quan điểm, định hướng phát triển lớn là (1) Hiện đại và chuyên nghiệp hóa nông nghiệp. (2) Nông dân hiện đại, chuyên nghiệp và có tổ chức. (3) Nông thôn văn minh, hiện đại, bản sắc dân tộc và môi trường bền vững. Nguyễn Minh Phong (2011)

trong bài viết “Sáu đột phá phát triển nông nghiệp" Viện nghiên cứu phát triển KT- XH Hà Nội đã nêu lên sáu đột phá phát triển nông nghiệp trong gian đoạn hiện nay, bao gồm: (1) hoàn thiện chính sách đất đai (đặc biệt giá đất và thuế sử dụng đất, thu

hồi đất nông nghiệp, thời hạn sử dụng đất); (2) chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn. (3) Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp qua các biện pháp tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo

và hướng nghiệp từ bậc phổ thông tại khu vực nông thôn, đảm bảo trình độ tay nghề và trình độ xã hội cho lao động ở nông thôn; (4) Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng KHCN, đồng bộ về hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống điện, thông tin -

11

truyền thông, hệ thống chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; (5) Xây

dựng thương hiệu nông sản, phát triển thể chế và tổ chức thương mại để điều tiết hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu theo quy luật thị trường; (6) Chính sách tài chính - tín dụng.

Phạm S (2014) trong tác phẩm “Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc tế”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, đã nghiên cứu về lịch sử ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp tại một số nước trên thế giới và thấy rằng từ thập niên 1970, Nhật Bản đã thực hiện đầu tư công nghệ cao cho nông nghiệp, đặc biệt là

ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và trở thành cường quốc nông nghiệp trên thế giới; Hà Lan đã thực thi chiến lược “Đầu tư cao – sản xuất nhiều”, cốt lõi là áp dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp từ rất sớm; Hàn Quốc đã tập trung phát

triển công nghệ sinh học và coi đây là khâu đột phá để ứng dụng công nghệ cao nhằm phát triển nông nghiệp một cách bền vững.

Các nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp như Nguyễn Thị Kim Sang (2017), “Kinh nghiệm phát triển nông

nghiệp công nghệ cao ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Nguyễn Anh Phong, Phạm Thị Thu Hà (2017), “đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: thách thức và giải pháp”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 183-190, tr 113-128. Kết quả nghiên cứu của những tác giả này đã phân tích một số mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại một số nước trên thế giới (Israel, Hà Lan, Nhật Bản, Mỹ, Phần Lan, các nước châu

Âu, châu Á) và đề xuất giải pháp đối với Việt Nam như (1) Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao; (2) huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn khoa học, tập trung kỹ thuật, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp; (3) nghiên cứu để đưa ra công nghệ phù hợp với những lợi thế của đất nước;

(4) tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật; (5) tăng cường đầu tư nâng cấp hạ tầng, thiết bị công nghệ cho các phòng thí nghiệm.

Ngoài ra các tác giả Trần Thanh Quang (2016) “phát triển nông nghiệp công

nghệ cao ở nước ta” trên tạp chí Cộng sản, Tạp chí Tài chính (2017) “phát triển nông nghiệp công nghệ cao: cần giải quyết 5 vấn đề” trên tạp chí Kinh tế và Dự báo; Đỗ Xuân Trường (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách ưu đãi trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo; Phạm Văn Hiển (2014), Phát triển

nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, đã chỉ ra tình hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam khẳng định các khó

12

khăn, rào cản cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao là thiếu vốn đầu tư, nguồn nhân

lực, tích tụ đất đai, kết cấu hạ tầng, thị trường tiêu thụ; phương thức, tập quán sản xuất, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ; nhân lực kỹ thuật. Trong đó nổi bật là việc doanh nghiệp “đói” vốn sản xuất nông nghiệp, khó tiếp cận nguồn vốn... Đồng thời, các tác giả cũng đã đưa ra 3 loại hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao hiện đang phát triển ở Việt Nam là các khu nông nghiệp công nghệ cao, các điểm sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và vùng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao. Để có thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các tác giả cũng đưa ra một số vấn đề cần lưu ý đó là: (1) lựa

chọn đúng sản phẩm, khâu đột phá cho quy trình và công nghệ cao để áp dụng thích hợp tránh chạy theo tình trạng công nghệ cao, đắt đỏ, gây nợ nần, rủi ro cao; (2) xác định giống là khâu then chốt, mang giá trị gia tăng cao nhất cho sản phẩm; (3) phát triển

nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi có vốn lớn, các chính sách tín dụng trong nông nghiệp hiện nay ban hành nhưng khó tiếp cận bởi điều kiện được vay ngặt nghèo; (4) cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sản xuất phân bón hữu cơ, tuyên truyền sử dụng phân hữu cơ; xây dựng quy chế chính sách, quy trình phù hợp để thực hiện tích

tụ đất đai cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Phạm Trần Minh Trang (2017) trong bài viết “các yếu tố tác động đến việc đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ cao của các hộ nông dân nhỏ tại Việt Nam”, đã chỉ ra các yếu tố quyết định đến việc áp dụng công nghệ cao trong

nông nghiệp đó là công nghệ; quy mô trang trại; lợi ích thuần của người dân; thu nhập phi nông nghiệp; yếu tố thể chế; thu thập thông tin về công nghệ mới; tiếp cận các dịch vụ khuyến nông; tiếp cận tín dụng; trình độ học vấn; độ tuổi; giới tính; quy mô gia

đình; mức độ ngại rủi ro và tổn thất.

Môi trường chính sách của các địa phương có vai trò quyết định trong thu hút đầu vào lĩnh vực nông nghiệp (Theo Báo cáo đầu tư quốc tế của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc, 2009). Các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư

vào nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải bao phủ tất cả các lĩnh vực từ đất đai, cơ sở hạ tầng, tài chính... Do đó, muốn thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao các địa phương cần dựa trên những lợi

thế riêng có của mình để đưa ra những chính sách thu hút phù hợp.

Theo điều tra của Bùi Hồng Nhung (2016) chỉ có khoảng 1% nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Lĩnh vực nông nghiệp khó thu hút được đầu tư bởi một số nguyên nhân như sau: (i) nông nghiệp là lĩnh vực mang

tính rủi ro cao hơn so với lĩnh vực khác do tác động của thời tiết, khí hậu, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng tại Việt Nam; (ii) nền nông nghiệp của Việt Nam vẫn mang tính chất

13

sản xuất nhỏ, tự cung, đầu tư phân tán, thiếu tính chuyên môn hóa; và (iii) chiến lược

và định hướng thu hút đầu tư vào nông nghiệp chưa rõ ràng (Trần Hào Hùng, 2006). Theo nghiên cứu của Phạm Văn Hiển (2014), sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn bao gồm: (i) khó khăn về vốn đầu tư; (ii) khó khăn về tích tụ đất đai và cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn; (iii) thiếu nguồn nhân lực cho nông nghiệp công nghệ cao; và (iv) khó khăn về thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp. Ngoài bốn khó khăn nêu trên, Trần Thanh Quang (2016) còn đề cập đến một khó khăn khác trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

đó là “sự liên kết khoa học-công nghệ giữa các tỉnh, thành trong cả nước còn rời rạc”. Chính những khó khăn này là các rào cản đối với thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Theo nghiên cứu của Đăng Nguyên (2011), thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong những khó khăn lớn nhất đối với phát triển và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Sơn La. Tác giả Tăng Hoàng Vinh (2015) cũng cho rằng thách thức lớn nhất đối với phát triển nông nghiệp công

nghệ cao đó là yếu tố con người, đặc biệt là những người có hiểu biết về nông nghiệp công nghệ cao. Trong khi đó, khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn là rào cản thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Cần Thơ (Trương Vĩnh Xuân, 2010). Nghiên cứu của Mai Hoa (2013), cơ sở hạ tầng yếu kém là rào cản đối với thu

hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông. Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010) đã chỉ ra rằng yêu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng lớn và thiếu nguồn nhân lực có trình độ là

hai nguyên nhân cơ bản gây cản trở cho việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.

Trần Đình Thao và cộng sự (2010) trong đề tài “Nghiên cứu môi trường đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn thành phố Hà Nội” đã nêu 8 giải pháp thu hút

đầu tư vào nông nghiệp cho Hà Nội bao gồm: (i) Hoàn thiện và bổ sung cơ chế, chính sách nhằm tăng khả năng tiếp cận nguồn lực đất đai và vốn của chủ đầu tư; (ii) Nâng cao mức ưu đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu tư vào nông nghiệp; (iii) Cải thiện cơ sở hạ

tầng nông thôn và áp dụng khoa học công nghệ; (iv) Hoàn thiện hệ thống thị trường; (v) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; (vi) Tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa các ban ngành, tổ chức; (vii) Nâng cao chất lượng nguồn lao động; và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư.

Theo Phạm Mạnh Cường (2011), để đẩy nhanh việc hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao thì Nhà nước

14

cần có các chính sách ưu đãi hơn đối với các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đỗ

Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010) đã đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp công nghệ cao một cách bền vững và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đó là: (i) hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; (ii) giảm thuế, có chính sách khuyến khích phát triển các hoạt động liên doanh, liên kết; và hỗ trợ cho đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đỗ Phú Hải (2016) đã đưa ra các nhóm giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao bao gồm: (i) quy hoạch sử dụng đất cho nông nghiệp công nghệ cao; (ii) xây

dựng quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vùng nông nghiệp công nghệ cao; (iii) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho nông nghiệp công nghệ cao; (iv) đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư để xây dựng, thực hiện các quy hoạch; xây

dựng khu và vùng nông nghiệp công nghệ cao; (v) mở rộng triển khai các hoạt động đào tạo và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp; (vi) triển khai việc xây dựng, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật trong quản lý chất lượng nông sản tại khu/vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (vii) tăng cường các chính sách hỗ trợ các hoạt

động khoa học-công nghệ phục vụ phát triển các khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; và (viii) tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp. Phạm Văn Hiển (2014), Trần Thanh Quang (2016) cũng đề cập đến việc tăng cường hợp tác và học hỏi kinh nghiệm

quốc tế về phát triển nông nghiệp công nghệ cao để thu hút cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Giải pháp về quy hoạch đất đai cho vùng sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ

sở hạ tầng nông thôn được đề cập đến ở rất nhiều nghiên cứu khác nhau. Theo Trương Vĩnh Xuân (2010) để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Cần Thơ nên chú trọng vào công tác quy hoạch nông nghiệp theo vùng, theo cụm. Nguyễn Gia Thắng (2010) đề cập đến công

tác xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như là giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Phạm Mạnh Cường (2011) kết luận rằng các địa phương cần thực hiện tốt công

tác quy hoạch đất đai, giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Phạm Văn Hiển (2014), Trọng Nguyễn (2014) cho rằng làm tốt khâu quy hoạch sản xuất sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Đỗ Phú Hải (2016) cũng cho rằng làm tốt công tác quy hoạch đất đai và xây dựng quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công

15

nghệ cao sẽ thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Theo Trần Thanh Quang (2016) thực hiện hiệu quả chính sách dồn điển đổi thửa và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ góp phần thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016), để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh cần quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng tập trung, quy mô lớn trên địa bàn tỉnh.

Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp có chất lượng cao cũng là giải pháp hữu

hiệu thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao và đã được đề xuất bởi rất nhiều các tác giả khác nhau. Theo Nguyễn Lê Hằng và Đặng Bảo Hà (2013), để thu phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ở

Việt Nam, công tác xây dựng và tổ chức thực hiện, quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao thuộc lĩnh vực nông nghiệp cần được chú trọng. Trương Vĩnh Xuân (2010) và Đăng Nguyên (2011), chú trọng vào đào tạo và xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao sẽ là một trong các giải pháp hiệu quả để thu hút doanh nghiệp đầu tư

vào nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Cần Thơ và Sơn La. Đề xuất này giống với kết luận của Phạm Văn Hiển (2014). Giải pháp này cũng được đề xuất bởi Tăng Hoàng Vinh (2015) đối với công tác thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh An Giang.

Trần Thanh Quang (2016), Đỗ Phú Hải (2016) cũng đề cập đến giải pháp đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong các giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đầu tư vào nông

nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam. Nguyễn Duy Mậu (2016) cũng đề cập đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại khu vực Tây Nguyên. Theo Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016), tăng cường đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp là một trong

các giải pháp cần được chú trọng ở Bắc Ninh để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010), Phạm Văn Hiển (2014) cho rằng chính

sách đẩy mạnh hoạt động liên doanh liên kết sẽ góp phần thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Ở một khía cạnh khác, Trần Thanh Quang (2016) cho rằng đẩy mạnh việc cải cách hành chính và phát triển thị trường tiêu thụ, tăng cường xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm nông nghiệp sẽ là các giải pháp hữu hiệu để

phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016) cũng đề

16

cập đến đẩy mạnh phát triển thị trường, dịch vụ hỗ trợ hoạt động công nghệ cao trong

nông nghiệp và tăng cường chính sách hỗ trợ về vốn là các giải pháp khả thi để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Phú Hải (2016) cũng đề cập đến giải pháp đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam. 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao

1.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Các nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp, nông

nghiệp công nghệ cao trên thế giới được nghiên cứu dưới nhiều góc cạnh khác nhau, đã chỉ ra được những yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp, đề xuất một số chương trình, mô hình để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Nghiên cứu của TCP/Belize (2003) đã chỉ ra những hạn chế trong phát triển nông nghiệp của đất nước

Belize như: (1) thiếu một hệ thống thông tin thị trường cung cấp giá một cách minh bạch, đáng tin cậy, nhất quán và kịp thời; (2) việc tổ chức thực thi chính sách kém hiệu quả; (3) thiếu các dịch vụ và hệ thống hỗ trợ để phát triển nông nghiệp như các dịch vụ

đào tạo nghề, dịch vụ cung cấp các yếu tố đầu vào, các tiêu chuẩn giám sát và kiểm dịch; (4) đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu…Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đã kiến nghị một số chính sách để phát triển nông nghiệp Belize như chính sách khuyến khích sản xuất

hàng hóa và kinh doanh thương mại; chính sách phát triển các hộ nông dân; chính sách qui hoạch vùng, lãnh thổ; chính sách khuyến công; chính sách tín dụng ưu đãi cho các hộ nông dân; chính sách đào tạo nghề trong nông nghiệp…

Lars Andersson và cộng sự (2017) trong tác phẩm “nông nghiệp trong tương lai đến năm 2030”, đã đưa ra quan điểm, định hướng phát triển nông nghiệp của Thụy Điển đến năm 2030 trong các kịch bản khác nhau trong tương lai như: một thế giới mà tài nguyên đất bị khai thác quá mức, một thế giới cân bằng khi tài nguyên đất được khai thác

và bảo tồn hiệu quả….. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra 7 kịch bản cho phát triển nông nghiệp của đất nước này, đó là: (1) tìm kiếm và ứng dụng công nghệ mới cho một tương lai bền vững, là động lực cho sự phát triển nông nghiệp; (2) xuất khẩu các giá

trị gia tăng sang châu Á; (3) Hình thành và phát triển các công ty, các tập đoàn lớn trong lĩnh vực nông nghiệp; (4) Sự thay đổi cơ cấu dân số, hội nhập nông thôn mới và sự di chuyển của các loại hình lao động; (5) Sinh thái thông minh, sản xuất lương thực và vai

17

trò của hệ sinh thái xanh, sạch phù hợp với các qui luật tự nhiên; (6) phát triển nền nông

nghiệp 4.0 có truy xuất nguồn gốc rõ ràng; (7) định hình các mô hình phát triển nông nghiệp tương lai của thế giới.

Nghiên cứu của các tác giả Kaaya (1999); Phougat (2006); Samah và cộng sự (2009) đã chỉ ra để phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp công nghệ cao thì chính phủ, chính quyền các nước cần quan tâm đến vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin đặc biệt trong truy xuất nguồn gốc của các sản phẩm nông nghiệp.

Báo cáo dữ liệu phát triển nông nghiệp của Israel (2016) của tổng cục thống kê

Israel đã đề cập đến nhiều khía cạnh, quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp của Israel trong đó khẳng định chính phủ có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, đưa ra các định hướng phát triển cũng như đào tạo nguồn nhân lực và cung cấp lao động chất

lượng cao, có khả năng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

Feder và cộng sự (1985); Hoppel (1994); Foster và Roenweing (1996); Kohli và Singh (1997); Rogers (2003) và Uaiene (2009), Kebede và cộng sự (1990); McNamara, Wetzstein và Douce (1991) cho rằng yếu tố quan trọng nhất tác động đến

phát triển nông nghiệp là thể chế và con người. Khi tiếp cận yếu tố thể chế, các tác giả quan tâm đến việc ra các quyết định áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, cơ chế cung cấp và chia sẻ thông tin về công nghệ mới, cơ chế tiếp cận các dịch vụ khuyến nông, cơ chế tiếp cận tín dụng để đầu tư cho nghiên cứu và phát triển...

Dan Senor - Saul singer (2008), trong tác phẩm Quốc gia khởi nghiệp, câu chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, đã cho rằng chìa khóa thành công trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của Israel là sự hợp tác chặt chẽ của “4 nhà”: nhà nghiên

cứu, chính phủ, nông dân và doanh nghiệp. Trong đó, chính phủ có vai trò quan trọng trong việc vận hành sự liên kết của “4 nhà” một cách hiệu quả.

1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Bên cạnh các nghiên cứu nước ngoài, nhiều công trình nghiên cứu trong nước

về phát triển nông nghiệp CNC cũng chỉ ra được vai trò của quản lý nhà nước trong các dự án quan trọng như đầu tư đến 50% vào các dự án khởi nghiệp, các dự án đầu tư mạo hiểm. Phạm S (2014), trong tác phẩm nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc tế, đã khẳng định vai trò của nhà nước trong điều hành các hoạt động để thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Chính phủ Đài Loan đã thông qua việc ban hành cơ chế chính sách và phê duyệt các quy hoạch giao thông, cơ sở hạ tầng tạo để tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện cơ giới hóa sản xuất. Bên cạnh đó,

18

chính phủ còn ban hành các chính sách tín dụng cho nông dân vay với lãi suất ưu đãi;

chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu và chuyển giao các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao... Chính phủ Thái Lan khuyến khích, hỗ trợ thành lập các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật trong nông nghiệp, đầu tư công nghệ sinh học; tăng cường bảo hiểm xã hội, giải quyết tốt vấn đề về vốn và nợ, thiết lập các hệ thống đảm bảo rủi ro cho nông dân. Chính phủ Bỉ ban hành hàng loạt các chính sách phát triển bền vững nông nghiệp và phát triển nghề làm vườn, chú trọng quản lý nông nghiệp không làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan; tối

ưu hóa trong quản lý nhằm giảm các nguy cơ tổn thất trong sản xuất nông nghiệp; tập trung đổi mới và nghiên cứu khoa học thông qua các chương trình khoa học phục vụ nông nghiệp, các dự án đặt hàng nghiên cứu của các cơ quan quản lý nhà nước và

doanh nghiệp.

TTC Việt Nam (2017), trong tác phẩm cùng tìm hiểu nền nông nghiệp của Nhật Bản, đã tiến hành nghiên cứu quá trình phát triển nông nghiệp của Nhật Bản từ trước cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị (1868) cho đến nay. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng

chính phủ Nhật Bản trong mọi giai đoạn đều quan tâm thành lập các trung tâm thử nghiệm để tiến hành lai ghép những loại cây nông nghiệp quan trọng, giúp đỡ người nông dân thông qua các chương trình hỗ trợ giá, dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho các trường kỹ thuật nông nghiệp, các trung tâm thử nghiệm giống cây trồng, vật nuôi mới.

Đỗ Xuân Trường, Lê Thị Thu (2010) đã nghiên cứu và đề xuất hướng đi tất yếu của nông nghiệp Việt Nam và một số giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trong đó khẳng định phải có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhà nước. Kết quả nghiên cứu

đã chỉ ra vai trò của thể chế trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp; vai trò kiến tạo, hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi của nhà nước, đặc biệt trong việc thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ngoài việc lập quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể phát triển bền vững theo vùng lãnh thổ lấy

phát triển nông nghiệp công nghệ cao là hạt nhân, nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng vào R&D và ứng dụng những thành tựu, tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Không những thế,

nhà nước cần tổ chức thực thi chính sách một cách đồng bộ, nhất quán, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ sự tuân thủ của các chủ thể liên quan, giao trách nhiệm cho các bộ, ngành hữu quan phối hợp, kết hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình triển khai.

Tạp chí Mặt trận (2017), tìm hướng tháo gỡ khó khăn cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao;Thời báo tài chính Việt Nam (2017), thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: tháo gỡ nút thắt chính sách; Thời báo tài

19

chính Việt Nam (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách ưu đãi... cũng khẳng định phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta thời gian vừa qua còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là: (1) Chính sách của nhà nước chưa đầy đủ và phù hợp nên khó áp dụng; (2) các chính sách của nhà nước chủ yếu hỗ trợ ưu đãi về thuế, phí theo địa bàn lĩnh vực đầu tư, khu công nghệ cao mà thiếu hỗ trợ về đất quy mô lớn để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ theo vùng sản xuất tập trung; (3) chính quyền địa phương chưa vào cuộc vì vốn đầu tư cơ sở hạ tầng các khu nông nghiệp công nghệ cao rất lớn; (4) diện tích đất không đủ

lớn, chi phí thuê, quản lý cao, chi phí đầu tư trên đất lớn nhưng không được nhà nước đảm bảo, vấn đề bảo hiểm nông nghiệp chưa có hướng dẫn triển khai. Để khắc phục những khó khăn này, tác tác giả đã đề xuất nhà nước cần kiến tạo được môi trường cho

phát triển nông nghiệp công nghệ cao, huy động nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp thông qua các hình thức hợp tác công tư...

Vũ Thanh Nguyên (2017), “xây dựng mô hình nông nghiệp hiện đại ở tỉnh Hải Dương”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đã chỉ ra thực trạng phát triển nông nghiệp của Hải Dương và so sánh với tiêu chí nông nghiệp hiện đại, trong đó khẳng định vai trò của nhà nước trong định hướng, xây dựng phát triển nông nghiệp hiện đại. Nghiên cứu này cũng đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp

như: UBND tỉnh cần thực hiện tốt chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết gắn kết các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm nông nghiệp; ban hành tiêu chí và tổ chức thành công việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn; quản lý, quy định sản xuất

nông sản theo tiêu chuẩn VietGap; đơn giản hóa các thủ tục hành chính...

Trịnh Kim Liên (2016), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và phát triển bền vững đã đánh giá được tổng thể thực trạng tình hình phát triển nông nghiệp của Thủ đô Hà Nội và đề ra các

giải pháp phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và bền vững. Nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố thành công cơ bản của quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp là: (1) triển khai nhanh các giải pháp thực hiện Chương trình

nông nghiệp công nghệ cao; (2) đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ vào các ngành sản xuất nông nghiệp; (3) phát triển và mở rộng thị trường; (4) gắn phát triển kinh tế nông nghiệp với nông nghiệp các tỉnh trong vùng; (5) đầu tư cho đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; (6) kịp thời đổi

mới và hoàn thiện các chính sách cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

20

GS.TS. Trịnh Duy Luân (2017), thực trạng đô thị hóa và hướng đi bền vững cho phát triển nông nghiệp khu vực ven đô Hà Nội, đã đưa ra các khuyến nghị đối với nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp là phải giải quyết hài hòa, hợp lý các quan hệ chức năng giữa các khu vực trong quá trình đô thị hóa. Muốn phát triển nền nông nghiệp theo hướng đô thị sinh thái, Hà Nội phải quan tâm đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đào tạo nâng cao trình độ cho lao động nông thôn, liên kết bao tiêu sản phẩm... Để làm được điều đó, cần làm tốt một số giải pháp như: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế

- xã hội, quy hoạch sử dụng đất, hình thành các vùng sản xuất tập trung; triển khai áp dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; tiếp tục chính sách tích tụ đất đai, dồn điền đổi thửa...

Phùng Chí Cường (2017), “Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao ở tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ ra thực trạng ban hành chính sách của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc nhằm hỗ trợ nông nghiệp tỉnh phát triển theo hướng công nghệ cao và bền vững giai đoạn 2012-2017. Theo đó tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành

một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao như: Hỗ trợ mô hình sản xuất rau an toàn theo chuỗi (hỗ trợ tối đa 50% chi phí nhưng không quá 5 tỷ/mô hình); hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý chất thải chăn nuôi; hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi; hỗ trợ phòng chống dịch gia súc,

gia cầm. Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện chính sách, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị để tỉnh Vĩnh Phúc làm tốt hơn công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng nông nghiệp công nghệ cao (rà soát lại các quy hoạch; đổi

mới các hình thức tổ chức sản xuất; tăng cường xây dựng hạ tầng đồng bộ...).

Bàn về các hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà (2016) cho rằng để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh cần quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng tập trung, quy mô lớn trên địa bàn tỉnh. Trương Vĩnh Xuân (2010) thì cho rằng để phát triển nông nghiệp

công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Cần Thơ cần chú trọng vào công tác quy hoạch nông nghiệp theo vùng, theo cụm. Nguyễn Gia Thắng (2010) cho rằng xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như là giải pháp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ

cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Phạm Mạnh Cường (2011) khẳng định rằng các địa phương cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đất đai, giải phóng mặt bằng để tạo điều

21

kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Phạm Văn Hiển

(2014), Trọng Nguyễn (2014) cho rằng làm tốt khâu quy hoạch sản xuất sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

Thực trạng phát triển nông nghiệp nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội được trao đổi nhiều trên Tạp chí Công nghiệp và Tiêu dùng (2016), phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội: vẫn khó vì thiếu vốn; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2017), chia sẻ ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Các mô hình nông nghiệp

công nghệ cao của Hà Nội chưa nhiều, thậm chí quy mô nhỏ, mức độ ứng dụng không đồng đều. Hiện Hà Nội chưa có các khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Cơ chế chính sách hỗ trợ về thuế đã được ban hành nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận,

chi phí đất đai còn cao, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn lỏng lẻo, tiếp cận nguồn vốn gặp khó khăn. Mục tiêu đến năm 2020, giá trị nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố chiếm 35% tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp do thành phố Hà Nội đề ra khó thực hiện nếu Thành phố không tập trung thực hiện các giải pháp bố trí hỗ trợ về vốn

để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Kết quả tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây cho thấy, hầu hết các

ngiên cứu trong thời gian qua đều tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng và khẳng định thể chế và quản lý nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong khắc phục các thất bại

của thị trường, trong chuyển giao khoa học và công nghệ, trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực và thực hiện liên kết 4 nhà. Một số bài báo viết cũng khẳng định vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao khi thông qua các qui hoạch, kế hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và triển khai các chương trình,

dự án phát triển nông nghiệp cao tại địa phương.

Tuy nhiên, các nghiên cứu về quản lý nhà nước, đặc biệt quản lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC còn chưa nhiều và

chưa được hệ thống, chưa làm rõ tiêu chí đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh cũng như chưa làm rõ được mức độ tiếp cận của người dân và các bên liên quan tới các chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như các vấn đề liên quan đến sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các

vấn đề về lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ.

22

Bên cạnh đó, mỗi tỉnh/thành phố có một đặc điểm riêng và mục tiêu phát triển riêng, đòi hỏi có các giải pháp phát triển nông nghiệp CNC riêng của mình. Với mục tiêu phát triển Hà Nội thành thành phố thông minh, dẫn đầu về kinh tế tri thức vào năm 2030, Hà Nội đang có tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất bị thu hẹp, nhu cầu sản phẩm nông nghiệp CNC ngày càng nhiều và đa dạng. Điều này đã và đang đặt ra các yêu cầu cấp bách về phát triển nông nghiệp CNC. Trong khi đó, quy hoạch phát triển nông nghiệp của Hà Nội đã được phê duyệt từ lâu, đến nay nhiều điểm không còn

phù hợp với yêu cầu phát triển nông nghiệp CNC nhưng chưa được rà soát, điều chỉnh; các chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC được ban hành nhỏ lẻ, không đồng bộ, thiếu toàn diện gây khó khăn trong quá trình thực hiện; nhiều vấn đề

trong công tác tổ chức thực thi chính sách của các cơ quan chuyên môn của UBND, và các cấp chính quyền về vấn đề còn rất mới, chưa có tiền lệ.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu các nội dung quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền cấp tỉnh là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa cả

về lý luận và thực tiễn. Luận án sẽ tập trung làm rõ các khoảng trống nghiên cứu về nội dung, cách thức và các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền thành phố Hà Nội như một nghiên cứu điển hình để đưa ra các bài học cho các địa phương khác trong cả nước.

23

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

2.1. Các vấn đề chung về quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

2.1.1. Nông nghiệp công nghệ cao và nội hàm của phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Theo Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam, nông nghiệp là hoạt động sản xuất của con người nhằm tạo ra cái ăn (lương thực, thực phẩm…), cái mặc (bông,

sợi…), nhà ở (gỗ, lứa, lá…). Tùy theo các căn cứ khác nhau, nông nghiệp được phân loại khác nhau. Căn cứ theo lĩnh vực, nông nghiệp được chia thành các lĩnh vực (1) trồng trọt; (2) chăn nuôi; (3) Thủy sản. Theo phương thức sản xuất, nông nghiệp được chia thành (1) Nông nghiệp truyền thống hay nông nghiệp sinh nhai: Là lĩnh vực sản

xuất nông nghiệp có đầu vào rất hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, phục vụ chính cho gia đình của người nông dân, không có cơ giới hóa. (2) Nông nghiệp sản xuất hàng hóa: Là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn

hóa, hiện đại hóa trong tất cả các khâu của quy trình sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp sản xuất hàng hóa có nguồn đầu vào sản xuất lớn và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hóa có thể ứng dụng KHCN vào các khâu từ

sản xuất, chế biến đến phân phối để tăng năng suất và giá trị của cây trồng/vật nuôi nhằm tạo ra nguồn thu nhập tài chính cao nhất từ các hoạt động này cho nhà sản xuất.

Ngoài cách phân loại trên, trong những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ nông nghiệp công nghệ cao. Theo quan niệm của các nước phát triển, nông nghiệp CNC là

nền nông nghiệp tiên tiến, được hiện đại hóa và cơ giới hóa ở mức cao trên cơ sở vận dụng những thành tựu của công nghệ sinh học, sinh thái và môi trường. Theo vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, nông nghiệp công nghệ cao là một

nền nông nghiệp được ứng dụng những công nghệ mới, tiên tiến trong các khâu của quá trình sản xuất để nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đem lại lợi nhuận cao cho người sản xuất và đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững. Công nghệ cao được

tích hợp ứng dụng trong nông nghiệp bao gồm: Cơ giới hóa các khâu của quá trình sản

24

xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến..., tự động hóa, ứng dụng công nghệ thông tin, công

nghệ nguyên liệu mới, công nghệ sinh học như các giống cây trồng, vật nuôi vào trong quá trình sản xuất nông nghiệp để cho năng suất, chất lượng cao...hoặc áp dụng các quy trình canh tác tiên tiến, canh tác hữu cơ... cho hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị sản xuất. Khác với nông nghiệp truyền thống, nông nghiệp công nghệ cao có cần quy mô đủ lớn, có mức độ tập trung cao hơn, đáp ứng nhu cầu thị trường cao hơn, đem lại lợi nhuận hơn cho người sản xuất, sử dụng nhiều máy móc, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất cho năng suất lao động cao và hiệu quả hơn. Theo tác giả Huy Tú (2017), nông

nghiệp CNC là nền sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại với sự tích hợp của nhiều ngành công nghệ hiện đại từ cơ khí, điện tử, tự động hóa, hóa học, CNTT, sinh học, khí tượng, tài chính, quản trị kinh doanh, chế biến, bảo quản… để sản xuất ra sản

phẩm nông nghiệp chất lượng và hiệu quả cao. “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng, thân thiện với môi trường, có vai trò quan trọng đối với việc hình thành

ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có” (Luật Công nghệ cao, 2008). Theo đó, nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại hóa, cơ giới cao, trên cơ sở vận dụng những thành tựu công nghệ sinh học, sinh thái và môi trường; hướng tới sự phát triển bền vững, an toàn; đảm bảo tạo ra

nông sản với đủ số lượng và chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội và không làm thay đổi môi trường”. Ở Việt Nam, “Nông nghiệp công nghệ cao còn được định nghĩa là nền nông nghiệp được áp dụng những công

nghệ mới vào sản xuất, bao gồm: công nghiệp hóa nông nghiệp, tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữu cơ” (Vụ Khoa học Công nghệ

- Bộ NN & PTNT).

Như vậy, mục tiêu cuối cùng của nông nghiệp CNC là giải quyết mâu thuẫn giữa năng suất, chất lượng thấp, đầu tư công lao động nhiều song hiệu quả kinh tế thấp

với việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất để sản xuất nông nghiệp tăng năng suất, sản lượng, hiệu quả và chất lượng cao. Theo quan điểm của các chuyên gia, nông nghiệp CNC ở Việt Nam hiện nay bao gồm các nội dung sau đây: (1) Lựa chọn những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhất về giống, canh tác, chăn nuôi, công

nghệ tưới, sau thu hoạch - bảo quản - chế biến để ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, xây dựng thương

25

hiệu, xúc tiến thị trường; (2) Sản phẩm nông nghiệp CNC là sản phẩm hàng hoá mang

tính đặc trưng của từng vùng sinh thái, thổ nhưỡng khác nhau, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh cao, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng hàng hoá; (3) Sản xuất nông nghiệp CNC tạo ra sản phẩm phải theo một chu trình, quy trình khép kín, trong sản xuất đảm bảo khắc phục được những yếu tố rủi ro của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường; (4) nông nghiệp CNC được phát triển theo từng thời điểm, giai đoạn và mức độ khác nhau và tình hình cụ thể của từng nơi, nhưng phải đạt được những đặc trưng cơ bản đó là tạo ra được hiệu quả lớn hơn nhiều

so với sản xuất bình thường.

Nông nghiệp công nghệ cao có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã

hội, cụ thể là:

- Nông nghiệp CNC có năng suất cao, tạo ra một lượng sản phẩm lớn, chất

lượng tốt và đặc biệt là thân thiện với môi trường.

Đồng thời, việc ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp còn giúp tiết kiệm các chi phí như: Nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và góp phần

bảo vệ môi trường. Chính những lợi ích như vậy mà sản xuất nông nghiệp CNC đã và đang trở thành tất yếu, hình mẫu cho nền nông nghiệp thế kỷ XXI.

- Nông nghiệp công nghệ cao sẽ giúp người sản xuất chủ động trong sản xuất,

giảm sự phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu do đó quy mô sản xuất được mở rộng.

Việc ứng dụng các thành tựu công nghệ, kỹ thuật vào các cơ sở trồng trọt chăn nuôi hiện đại để không phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu đã làm cho nông dân chủ động được kế hoạch sản xuất của mình, đồng thời khắc phục được tính mùa vụ nghiệt ngã

trong sản xuất nông nghiệp. Do việc không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết nên nông dân có thể sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp trái vụ có giá bán cao hơn và đạt lợi nhuận cao hơn các sản phẩm chính vụ. Mặt khác nông nghiệp công nghệ cao cũng tạo ra môi trường nhân tạo thích hợp với các giống cây trồng mới có sức chịu đựng cao

hơn và chống chịu sâu bệnh lớn hơn. Đặc biệt rất phù hợp với các vùng đất không thuận với sản xuất nông nghiệp như: Vùng trung du, miền núi, vùng bị sa mạc hóa, và các vùng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, thời tiết.

- Sản xuất nông nghiệp CNC giúp giảm giá thành sản phẩm, đa dạng hóa sản

phẩm, thương hiệu và tăng tính cạnh tranh trên thị trường.

Áp dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp sẽ làm tăng hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên đất, nước do những đặc điểm vượt trội của các công nghệ, như: Công

26

nghệ kỹ thuật sinh học, công nghệ gen, công nghệ sản xuất phân hữu cơ và tự động

hóa sản xuất. Sản xuất nông nghiệp CNC giúp tiết kiệm chi phí, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi, do đó sản xuất rễ ràng đạt được hiệu quả theo quy mô và tạo ra nền sản xuất lớn với lượng sản phẩm đủ để phục vụ cho quá trình chế biến công nghiệp để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Cũng nhờ đó mà thương mại hóa được sản phẩm và tăng cạnh tranh trên thị trường.

Hiện nay, các cơ quan chức năng đã đưa ra một số tiêu chí về nông nghiệp CNC trên một số khía cạnh như sau: (i) Về kỹ thuật: Đó là khi quá trình sản xuất nông

nghiệp có ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại để tạo ra sản phẩm làm tăng năng suất ít nhất 30% và chất lượng vượt trội so với công nghệ đang sử dụng; (ii) Về kinh tế: là sản phẩm ứng dụng CNC làm cho hiệu quả kinh tế cao hơn ít nhất 30% so

với công nghệ đang sử dụng; (iii) Nếu là doanh nghiệp nông nghiệp CNC phải tạo ra năng suất, hiệu quả tăng ít nhất gấp 2 lần. Nếu là vùng nông nghiệp CNC tăng ít nhất 30%. Chúng ta có thể nói đến một số công nghệ đang áp dụng cũng có thể gọi là công nghệ cao như: che phủ nylon, do nylon giữ ẩm, phòng trừ cỏ dại, có thể cho năng suất

vượt trên 30% năng suất thông thường; công nghệ sử dụng ưu thế lai trong lai tạo giống, công nghệ sinh học giúp năng suất trên 30%; trong thuỷ sản như phương pháp sản xuất cá đơn tính; về kỹ thuật như tưới nước tiết kiệm, nhà màng…cũng là công nghệ cao.

Các loại hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam có thể chia

thành như sau:

- Các khu nông nghiệp công nghệ cao: (i) Đối với các quốc gia phát triển, Khu nông nghiệp CNC với hai chức năng chủ yếu: Phát triển du lịch, phục vụ tham quan, thưởng thức cảnh quan, lan tỏa nâng cao sự hiểu biết của người dân và thay đổi phương thức nghỉ ngơi. (ii) Đối với các quốc gia đang phát triển: Mục tiêu chính của các khu nông nghiệp CNC là sản xuất, tại đây người ta trưng bày, trình diễn các loại nông sản có giá trị cao, các thiết bị sản xuất có khoa học kỹ thuật cao và thực hiện chức năng đào tạo và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Tại Việt Nam, khu nông nghiệp CNC là khu công nghệ cao tập trung thực hiện hoạt động nghiên cứu, đào tạo,

chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp.

Khu nông nghiệp CNC là lãnh thổ xác định, không quá lớn về diện tích nhưng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên cho năng suất và chất lượng nông sản cao, sức cạnh tranh lớn và hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, khu nông nghiệp

CNC có những chức năng chủ yếu là điểm để trình diễn các sáng tạo khoa học công

27

nghệ; nơi hội tụ, thu hút nhân tài, đầu tư; địa điểm để đổi mới công nghệ, khu ươm tạo

và đào tạo công nghệ.

Khu nông nghiệp CNC là khu vực khép kín từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản; là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp mới; vai trò là hạt nhân của sự phát triển nông nghiệp theo hướng CNC, là mô hình tổ chức nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, hỗ trợ, dẫn dắt, định hướng cho nhà đầu tư, các hợp tác xã, nông hộ cá thể học tập và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào trong sản xuất.

- Các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

Những mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong nông nghiệp nhưng chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất. Đối với các mô hình này, thường ứng

dụng các kỹ thuật sản xuất hiện đại như: Kỹ thuật trồng cây không cần đất, cung cấp giá đỡ nhân tạo cho cây, thay thế vai trò của đất, chủ động cung cấp thức ăn cho cây trồng thông qua dung dịch dinh dưỡng; phương pháp thủy canh; phương pháp khí canh; kỹ thuật trồng cây trên giá thể là kỹ thuật mà cây được gieo trồng trên các loại

giá thể và chúng được cung cấp chất dinh dưỡng thông qua dung dịch tưới lên giá thể.

- Các vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao

Vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ và kỹ thuật CNC vào lĩnh vực

nông nghiệp để sản xuất một hoặc một vài nông sản hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu chiến lược dựa trên các kết quả chọn tạo, nhân giống, gieo trồng cho năng suất, chất lượng cao; phòng, trừ dịch bệnh; trồng trọt, chăn nuôi đạt giá trị kinh tế, hiệu quả cao;

là vùng sản xuất sử dụng các loại vật tư, máy móc, trang thiết bị hiện đại trong nông nghiệp; bảo quản, chế biến sản phẩm nông sản và dịch vụ CNC trong sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo ra một lượng lớn nông sản hàng hóa và tập trung.

Vùng nông nghiệp CNC là hình thức sản xuất phổ biến và mang tính đại trà, có

ý nghĩa thực tiễn tại các quốc gia có diện tích đất nông nghiệp rộng và đang phát triển như Việt Nam. Vùng sản xuất nông nghiệp CNC này phù hợp với các đối tượng cây con cần khoảng không gian lớn; tận dụng được các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

của vùng (quy tụ được diện tích sản xuất lớn, thu hút được nguồn nhân lực khoa học) có thể áp dụng nhiều kỹ thuật canh tác hiện đại với đối tượng cây con đặc trưng nên sẽ tạo được vùng sản xuất nông nghiệp lớn theo hướng ứng dụng công nghệ cao vào trong sản xuất nông nghiệp. Việc sản xuất theo hình thức này cũng gặp phải những hạn

chế như: ứng dụng công nghệ thiếu tính đồng bộ nên chất lượng sản phẩm không cao,

28

không đáp ứng yêu cầu thị trường; thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định và hiệu

quả kinh tế không cao.

- Dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Dự án nông nghiệp ứng dụng CNC là dự án, phương án sản xuất kinh doanh phải đáp ứng đồng thời các tiêu chí, cụ thể như sau: (i) Công nghệ ứng dụng trong dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng CNC trong nông nghiệp có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng được ban hành kèm theo Quyết định số 66/2014/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 và Quyết định số 13/2017/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính

phủ; (ii) Sản phẩm sản xuất ra phù hợp tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng; (iii) Sản phẩm được cấp chứng nhận hoặc cam kết công bố áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng CNC theo

các tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2015, GAP, GMP hoặc tiêu chuẩn quốc tế tương đương về quản lý chất lượng sản phẩm; (iv) Phải đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; trường hợp chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, do đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao chính là sự gia tăng về quy mô, sản lượng nông nghiệp có ứng dụng CNC nhằm đem tới sự thay đổi về năng suất, chất lượng, cơ cấu và giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC vào các khâu, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp để đem lại năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp cao hơn, bao gồm các nội dung sau:

- Lựa chọn những công nghệ tiến bộ nhất về giống, canh tác, chăn nuôi, công nghệ tưới, sau thu hoạch – bảo quản – chế biến ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Tập trung từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình quản lý, xây dựng thương hiệu sản phẩm và xúc tiến thị trường.

- Lựa chọn sản xuất và cung ứng các sản phẩm nông nghiệp CNC mang tính đặc trưng của từng vùng sinh thái, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng với các sản phẩm cùng loại trên thị

trường trong nước và thế giới, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng hàng hoá khi có yêu cầu của thị trường.

Sản xuất nông nghiệp CNC sẽ khắc phục được những yếu tố rủi ro của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường nhờ việc tạo ra sản phẩm theo một chu trình khép kín,

29

trong sản xuất. Phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện theo từng giai đoạn với

mức độ phát triển khác nhau, tuỳ tình hình cụ thể của từng địa phương. Vì vậy, phát triển nông nghiệp CNC có các vai trò như sau:

- Thứ nhất tăng sản lượng sản phẩm nông nghiệp, từ đó đáp ứng được nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của xã hội, trong đó có cả những người thu nhập thấp, nhờ tạo ra được khối lượng sản phẩm lớn với giá bán rẻ hơn.

- Thứ hai, tạo số lượng hàng hóa lớn với chất lượng cao, đồng đều; do đó, có thể tham gia chuỗi giá trị và thương mại toàn cầu nhờ đáp ứng được yêu cầu về nguồn

cung ứng cũng như chất lượng sản phẩm theo tiêu chí của thị trường và có thể truy xuất được nguồn gốc.

- Thứ ba, mang lại thu nhập lớn cho doanh nghiệp nhờ tạo ra được năng suất

sản phẩm lớn nhất trên mỗi đơn vị tài nguyên sử dụng với giá thành thấp nhất nhờ quy mô sản xuất lớn và áp dụng các công nghệ sản xuất có hiệu quả cao.

- Thứ tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho địa phương và quốc gia khi doanh thu từ sản xuất tăng lên, đóng thuế từ doanh nghiệp tăng và đồng thời hình thành mới

các dịch vụ hỗ trợ.

- Thứ năm, tạo thêm công ăn việc làm cho một số bộ phận dân cư và cơ hội khởi nghiệp cho doanh nghiệp địa phương trên cơ sở hình thành các thị trường sản phẩm có giá trị gia tăng mới.

- Thứ sáu, tạo giá trị gia tăng cho một số sản phẩm địa phương (kể cả phụ phẩm nông nghiệp), hình thành các sản phẩm hàng hóa đặc sản chủ lực của quốc gia, vùng và địa phương (mỗi làng một sản phẩm).

Phát triển nông nghiệp CNC giúp ngành nông nghiệp giải quyết các thách thức bằng các ưu việt trong quá trình phát triển của các công nghệ như: Công nghệ sinh học, nhà kính, tưới nhỏ giọt, cảm biến, tự động hóa, internet vạn vật… giúp sản xuất nông nghiệp tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành,

nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, nông nghiệp CNC giúp nông dân chủ động hơn trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu. Phát triển nông nghiệp CNC thực sự là một trong các giải

pháp quan trọng đóng góp có hiệu quả, tạo ra chuyển biến mạnh mang tính đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần đẩy nhanh tái cơ cấu nền nông nghiệp, nâng cao đời sống của người dân.

30

Phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC được coi là xu hướng tất yếu giúp sản

xuất nông nghiệp phát triển vượt bậc, qua đó làm thay đổi bức tranh nông nghiệp của mọi quốc gia.

Phát triển nông nghiệp CNC theo cách tiếp cận của luận án này là kết quả của quá trình phát triển các loại hình nông nghiệp ứng dụng KHCN vào sản xuất, trước hết được thể hiện ở sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp và thay đổi cơ cấu, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong đó nhấn mạnh đến (i) sự gia tăng của các dự án, mô hình nông nghiệp CNC; (ii) sự gia tăng của các vùng/khu nông nghiệp CNC; (iii) sự thay

đổi của phương thức sản xuất nông nghiệp và cơ cấu sản xuất nông nghiệp qua tỷ trọng giá trị sản lượng của nông nghiệp CNC của tỉnh/thành phố trong giai đoạn nghiên cứu.

2.1.2. Mục tiêu, quan niệm và yêu cầu của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh

Quản lý nhà nước là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, quản lý nhà nước ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. Theo Uông Chu Lưu (2016) quản lý nhà nước bản chất là sự quản lý có tính chất của nhà nước và do nhà nước thực hiện thông qua bộ máy của mình trên cơ sở quyền lực của nhà nước

nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ, UBND các cấp. Quản lý nhà nước cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý. Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng, là hoạt động của tổ chức

quyền lực công. Hoạt động này chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Khác với quản lý ở khu vực tư nhân vì mục tiêu lợi nhuận cho cá nhân chủ sở hữu, quản lý nhà nước là hoạt động vì mục tiêu của đại đa số người dân trong một nhà nước. Tính chất của quản lý nhà nước là đa mục

tiêu, phản ánh sự đa dạng của các loại lợi ích xã hội mà nhà nước với tư cách là đại diện cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội phải thực hiện. Đại diện cho quyền lực của nhà nước để quản lý các hoạt động là cán bộ công chức, viên chức làm việc trong các

cơ quan quản lý nhà nước theo các chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được phân công.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật và để thực thi pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống cơ

quan hành chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước). Tính chất chấp hành các qui trình, thủ tục, tuân thủ qui định pháp luật trong quản lý nhà nước một mặt đảm bảo cơ sở vững chắc cho hành

31

động của các công chức, viên chức, tránh các quyết định tùy tiện, bảo vệ quyền và lợi

ích của nhà nước. Với thiết chế tổ chức bộ máy quản lý và các qui định về tiêu chuẩn vận hành, hoạt động quản lý nhà nước là cơ chế quản lý đặc biệt, với nhiều tầng, bậc và được nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân thực hiện theo sự phân cấp, phân quyền nhất định. Quá trình này tạo ra cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực lẫn nhau, một mặt cân bằng quyền lực, đảm bảo tính khách quan trong quản lý; mặt khác đảm bảo sự tuân thủ, chấp hành theo mô thức có sẵn, thậm chí cứng nhắc. Bên cạnh đó, việc đưa ra các chính sách vì mục tiêu chung đòi hỏi sự tham gia của các cấp, ngành và các bên

liên quan với nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Việc thực thi chính sách, ra quyết định cũng cần tuân theo qui trình, thủ tục và có sự kiểm soát của nhiều bên. Tính chất quản lý nhà nước như vậy đã tạo ra sự phản ứng chậm và kém linh hoạt hơn so với quản lý

ở khu vực tư, các quyết định, chính sách đưa ra thường có độ trễ nhất định.

Theo GS. Đỗ Hoàng Toàn và cộng sự (2005). Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của nhà nước. Đây là tác động thường quyên, có chủ đích của cơ quan nhà nước đối với một số đối tượng nhằm

đem lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc và địa phương (Nguyễn Thị Thu Nguyên 2019)

Theo đó, quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là sự quản lý vĩ mô mang tính chất thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các hoạt động của mình để tạo điều kiện tiền đề, môi trường cho nông nghiệp công nghệ cao phát triển thông qua

hệ thống qui hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC, đồng thời tổ chức thực hiện các qui hoạch, chương trình và chính sách phát triển đó theo mục tiêu đã định hướng tới mục tiêu chung của toàn ngành nông nghiệp; điều tiết nhằm

khắc phục các thất bại của thị trường trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp CNC và lành mạnh hoá mọi quan hệ kinh tế và xã hội có liên quan...Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao có vai trò to lớn trong việc đảm bảo môi trường thuận lợi và an ninh cho sự phát triển

nông nghiệp nông thôn, đảm bảo một số lĩnh vực hoạt động trong nông nghiệp nông thôn bằng thực lực kinh tế Nhà nước.

Chức năng chủ yếu quản lý Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ

cao là làm rõ các định hướng phát triển, điều chỉnh các mối quan hệ, hỗ trợ giúp đỡ và khắc phục các thất bại của thị trường trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và phát triển nông nghiệp CNC nói riêng. Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC có các tính chất sau:

- Hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện

32

qua nhiều tầng bậc thông qua sự phân công, phân cấp quản lý cho các cơ quan, tổ chức

từ trung ương đến địa phương vì lợi ích chung và quá trình thực hiện mang tính liên ngành, nhiều cơ quan chịu trách nhiệm và có tính giao thoa, khó phân định.

- Cũng như các hoạt động quản lý nhà nước khác, quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là hoạt động thông qua người đại diện là các cán bộ công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, được tuyển dụng và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, quản lý theo mục tiêu của nhà nước. Đây là các cá nhân được nhà nước thuê làm công việc vì mục tiêu chung trên cơ sở nhiệm vụ, trách

nhiệm, quyền hạn nhất định.

- Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là hoạt động đa mục tiêu. Một mặt vừa đảm bảo mục tiêu chung là phát triển nông nghiệp CNC vừa phải bảo đảm giải

quyết hài hòa các lợi ích của các bên tham gia cũng như lợi ích phát triển kinh tế xã hội của đất nước một cách bền vững, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội. Các mục tiêu này khó tách bạch, dễ bị xung đột trong quá trình thực hiện.

Chính quyền địa phương cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung

là chính quyền địa phương cấp tỉnh) ở nước ta là một bộ phận của bộ máy quản lý nhà nước. Đây là các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước trên địa bàn tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015), chính quyền địa phương cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc

trung ương bao gồm hội đồng nhân dân (HĐND), ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh/thành phố. HĐND và UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; luật và nghị quyết của Quốc

hội; các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nghị quyết, quyết định của chính quyền địa phương nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước một cách thống nhất trong phạm vi cả nước. Bên cạnh việc chịu trách nhiệm chấp hành, thực thi pháp luật tại địa phương, chính quyền địa phương

cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành các quy định, cơ chế, chính sách để triển khai các chủ trương chính sách của Nhà nước trên địa bàn. Khác với quản lý nhà nước của các bộ, ngành là chỉ quản lý theo chuyên ngành, lĩnh vực nhất định, chính quyền địa

phương cấp tỉnh phải thực hiện việc quản lý toàn diện các mặt phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người dân trên địa bàn.

Vai trò của bộ máy chính quyền cấp tỉnh được thể hiện qua chính của hai chủ thể, đó là vai trò của HĐND và UBND cấp tỉnh. HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực

nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân ở

33

địa phương. HĐND cấp tỉnh là cầu nối giữa chính quyền Trung ương với chính quyền

địa phương, bảo đảm sự tập trung, thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi cả nước và phát huy được nội lực từng địa phương. HĐND là nơi thể chế hóa, cụ thể hóa các định hướng, tổ chức thực hiện các chính sách, quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên; ban hành các cơ chế, chính sách của địa phương trên cơ sở Trung ương giao, hoặc đặc thù (không trái luật) nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. UBND cấp tỉnh do HĐND cấp tỉnh bầu ra theo nhiệm kỳ của HĐND. Theo quy định của Điều 114, Hiến pháp năm 2013, UBND cấp tỉnh là

cơ quan chấp hành của HĐND cấp tỉnh, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên quản lý các hoạt động trên địa bàn tỉnh. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,

pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. Do đó, UBND cấp tỉnh là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn vừa do HĐND cấp tỉnh giao, vừa do Chính phủ giao; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức

thực hiện, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đối với chính quyền cấp huyện, cấp xã trong việc thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn.

Vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp CNC nói riêng được hiểu là sự tác động có mục đích của

HĐND và UBND cấp tỉnh lên đối tượng quản lý là các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt động phát triển nông nghiệp CNC nói riêng nhằm đạt đến mục tiêu kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất định. Khác với quản lý Nhà nước về phát

triển nông nghiệp CNC do Chính phủ (cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chủ trì thực hiện trên phạm vi cả nước thông qua các điều chỉnh bằng pháp luật, chính sách, các công cụ, các lực lượng vật chất, tài chính của Nhà nước, Chính quyền cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC bằng

việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật; xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp CNC, xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp với điều kiện của địa phương, tổ chức thực hiện và phát triển nông nghiệp công nghệ cao

trên địa bàn của địa phương; quyết định những vấn đề của tỉnh trong phạm vi được phân quyền, phân cấp theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và quy định khác của pháp luật có liên quan; kiểm tra, giám sát việc tổ chức và hoạt động phát triển nông nghiệp CNC của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trên địa

bàn; chịu trách nhiệm với cơ quan nhà nước cấp trên về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên địa bàn đối với việc phát triển nông nghiệp CNC; phối

34

hợp với các cơ quan nhà nước ở trung ương, các địa phương để thúc đẩy liên kết kinh

tế vùng, thực hiện quy hoạch vùng và bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân; quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm huy động các nguồn lực xã hội để phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn tỉnh.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển KTXH nói chung và phát triển ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa nói riêng trên địa bàn tỉnh. Mục đích này chịu sự chi phối của các qui luật thị trường

và bản chất, nguyên tắc của CNXH. Do đó, mục đích của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC là kiểm soát, phát huy sức mạnh của thị trường, khắc phục các thất bại của thị trường trong quá trình phát triển đảm bảo vừa phát triển kinh tế, vừa

giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. Theo đó, chính quyền cấp tỉnh phải có vai trò định hướng, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường bình đẳng, minh bạch và lành mạnh bằng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của địa phương để phát triển nông nghiệp CNC. Quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh

về phát triển nông nghiệp CNC phải đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng các yêu cầu của phát triển bền vững một cách hiệu lực và hiệu quả. Yêu cầu cụ thể của quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC bao gồm:

- Tính hiệu lực. Hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh chính là sức mạnh thể hiện quyền lực của bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trong việc sử dụng các công cụ quản lý nhằm điều chỉnh các hoạt động để phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn. Hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh

được thể hiện cụ thể trong việc ban hành các qui hoạch, chương trình, chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy tăng trưởng sản lượng nông nghiệp CNC, kích thích đầu tư và tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp CNC, kiểm soát độc quyền, tạo lập công bằng giữa các chủ thể và các bên liên quan tham gia và hoạt động sản xuất và kinh doanh nông

nghiệp CNC, hạn chế các thất bại của thị trường trên địa bàn của địa phương về các vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC. Hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh không chỉ thể hiện là có chính sách không, có qui hoạch và

chương trình không mà còn thể hiện ở việc lựa chọn thời điểm và cách thức đưa ra các chính sách khuyến khích phù hợp đề phát triển nông nghiệp CNC một cách tốt nhất, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn như ban hành qui hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp CNC, ban hành các chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư vào nông nghiệp

CNC, đưa ra các danh mục sản phẩm nông nghiệp CNC phát huy được thế mạnh của địa phương... và đặc biệt là đưa các chính sách này vào thực tiễn đời sống. Để đảm bảo

35

hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp

CNC cần chú trọng đến ba thành tố trong chu trình quản lý, bao gồm: (i) con người với tư cách là chủ thể thực hiện các công cụ quản lý, đặc biệt là năng lực của đội ngũ tham mưu xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách, giám sát và kiểm tra việc thực hiện chính sách; (ii) nội dung của chính sách, qui hoạch gắn với thực tiễn; (iii) Cơ chế, công cụ và các điều kiện về nguồn lực đảm bảo cho hoạt động thực thi, giám sát và xử lý việc thực hiện các chính sách.

- Tính hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh không chỉ cần tính hiệu lực mà còn phải chú trọng tính hiệu quả. Hiệu quả của quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp CNC được thể hiện ở kết quả quản lý điều hành của bộ máy

quản lý của HĐND và UBND cấp tỉnh trong sự tương quan giữa chi phí bỏ ra, các nguồn lực đầu vào, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị. Hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí. Theo các yếu tố đầu vào, cần làm

rõ có bao nhiêu nguồn lực về tài chính, về con người, về thời gian, về đất đai, về hạ tầng… được dành cho phát triển nông nghiệp CNC. Theo đầu ra, cần làm rõ các sản phẩm mà bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh tạo ra như các chính sách, các chương trình, các cơ sở chịu trách nhiệm ban hành, tổ chức, triển khai, giám

sát việc phát triển nông nghiệp CNC cũng như số lượng, tỷ lệ người dân và doanh nghiệp biết đến và được tiếp cận các chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp CNC. Theo mục tiêu là bao nhiêu % sản phẩm dịch vụ nông nghiệp CNC được sản

xuất và cung cấp trong thời thời kỳ, mức độ đáp ứng các yêu cầu mục tiêu về số lượng và chất lượng theo các mục tiêu/chỉ tiêu đã đề ra. Theo quá trình thực thi là mức độ dân chủ, công khai, minh bạch, thái độ phục vụ của công chức, viên chức và sự hài lòng của doanh nghiệp và người dân.

- Tính linh hoạt bắt kịp những thay đổi của thị trường. Cùng với sự thay đổi và phát triển của xã hội, nhu cầu của người tiêu cùng cũng thay đổi, cách thức và phương thức sản xuất và cung cấp sản phẩm dịch vụ cũng thay đổi. Điều này đòi hỏi các

chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC cần đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm dịch vụ cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ nông nghiệp CNC. Về cơ bản, các chính sách và chương trình, dự án do nhà nước ban hành đều có độ trễ nhất định.

Chính vì thế, để đảm bảo tính linh hoạt bắt kịp với những thay đổi của thị trường thì các chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp CNC cần dự báo được xu thế phát

36

triển của thị trường cũng như có tính mở, dự phòng nhiều phương án cho các kịch bản

quản lý. Hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh cũng không thể cứng nhắc theo một công thức nhất định mà phải linh hoạt, kịp thời được điều chỉnh phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn đặc biệt trong nền kinh tế số và toàn cầu hóa hiện nay. Đề thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh cần có đội ngũ cán bộ công chức viên chức có năng lực và đạo đức công vụ, có tư duy tích cực, sáng tạo, có khả năng xử lý các vấn đề nảy sinh trước những thách thức và biến động nhanh của thực tiễn địa phương, trong nước và quốc tế để không bỏ qua

cơ hội cũng như khai thác hiệu quả các nguồn lực phát triển.

- Tính khoa học, đúng đắn và trúng vấn đề. Tính khoa học trong quản lý nhà nước của các chính quyền cấp tỉnh thể hiện ở việc các cơ quan quản lý không đưa ra

các quyết định và ban hành chính sách dựa trên ý muốn chủ quan hay định kiến cá nhân mà phải dựa trên các thông tin đầy đủ, sự phân tích khoa học có cơ sở đối với phát triển nông nghiệp CNC. Để quản lý đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, các cơ quan quản lý cần thu thập thông tin và đánh giá thông tin bằng những phương pháp khoa

học như các phương pháp dự báo, phương pháp chuyên gia, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh tổng hợp… Đây là yêu cầu vô cùng quan trọng đặc biệt trong việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ gì khuyến khích phát triển, ở đâu, chính sách ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính ra sao, chính sách hỗ trợ đào tạo và xây dựng mô hình trình

diễn như thế nào, lựa chọn công nghệ gì, nên khuyến khích bằng các công cụ nào...

- Tính chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình. Trong hoạt động quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cần làm rõ cơ quan nào, cán bộ công chức

viên chức nào chịu trách nhiệm đến đâu, kết quả như thế nào về nội dung gì trong phát triển nông nghiệp CNC. Nếu không hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao thì phải chịu hậu quả như thế nào. Với tính chất đại diện của quản lý nhà nước, thì cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền cấp

tỉnh được phân công là người có quyền thay mặt đại diện cho người dân quản lý sử dụng nguồn lực của nhà nước để phát triển nông nghiệp CNC. Việc sử dụng quyền lực và tài sản công đó như thế nào, có hiệu quả hay không cần phải được đánh giá

thông qua các qui định về trách nhiệm giải trình việc thực thi trách nhiệm của công chức, viên chức. Để đảm bảo tính chịu trách nhiệm và nâng cao trách nhiệm giải trình, các chính sách về phát triển nông nghiệp CNC do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành cần qui định rõ về trách nhiệm, quyền hạn, hình thức chế tài tương

thích đồng thời xây dựng văn hóa công sở, nâng cao đạo đức công sở trong các cơ quan đơn vị. Việc thực hiện trách nhiệm giải trình có thể thông qua nhiều phương

37

thức khác nhau, trong đó cần tăng cường đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước

với người dân và doanh nghiệp, cũng như nâng cao năng lực giám sát của HĐND. Tăng cường tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được các thông tin về cơ chế chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp CNC của địa phương. Việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình cũng là biện pháp hữu hiệu để huy động nguồn lực trong dân, động viên khuyến khích người dân và doanh nghiệp phát triển nông nghiệp CNC cũng như giảm đáng kể khiếu kiện và thắc mắc của người dân về vấn đề này.

2.2. Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Nội dung quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC là tổng thể các hoạt động, công việc mà chính quyền cấp tỉnh phải làm để phát triển nông nghiệp CNC phù hợp với mục tiêu và kỳ vọng đã đề ra trong từng thời kỳ

nhất định. Các công việc đó bao gồm: (i) xây dựng, ban hành và phổ biến qui hoạch, chương trình cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp CNC; (ii) tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn; (iii) điều tiết nhằm khắc phục các thất bại của thị trường nhằm phát triển nông nghiệp CNC theo thẩm

quyền của chính quyền cấp tỉnh.

2.2.1. Ban hành và phổ biến quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách

Theo Điều 3, Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 ngày 24/11/2017: Quy

hoạch là việc sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh,

quốc phòng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi

trường trên vùng lãnh thổ xác định để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước,

phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cho thời kỳ xác định. Các loại và các cấp qui

hoạch phải có mối quan hệ với nhau, phù hợp với nhau, quy hoạch cấp tỉnh phải phù

hợp quy hoạch vùng, quy hoạch cấp quốc gia.

Chương trình được hiểu là toàn bộ những dự kiến hoạt động theo một trình tự

nhất định và trong một thời gian nhất định thể hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp,

các việc cần làm, các mặt công tác liên quan đến sự phát triển một lĩnh vực nào đó

theo một trình tự và thời gian nhất định. Quy hoạch mang tính dài hạn, định hướng, dự

báo còn chương trình mang tính cụ thể hơn, trong giai đoạn ngắn hơn và có tính khả

thi, tổ chức thực hiện ngay khi được phê duyệt.

38

Khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC trên

địa bàn tỉnh, UBND cấp tỉnh cần triển khai xây dựng qui hoạch phát triển nông nghiệp

CNC. Trong qui hoạch chỉ rõ quan điểm, định hướng phát triển nông nghiệp CNC của

địa phương, chỉ rõ các vùng, các khu nông nghiệp CNC, các sản phẩm nông nghiệp

CNC chủ đạo để phát huy thế mạnh của địa phương. Qui hoạch phát triển nông nghiệp

CNC nói riêng của địa phương phải phù hợp với qui hoạch phát triển ngành nông

nghiệp trên địa bàn mà chính phủ phê duyệt và nhất quán với qui hoạch tổng thể của

địa phương, không mâu thuẫn với qui hoạch phát triển ngành nông nghiệp. HĐND cấp

tỉnh có nhiệm vụ thông qua, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch phát triển

nông nghiệp CNC trên địa bàn tỉnh.

Trên cơ sở qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC đã được phê duyệt, các địa

phương sẽ xây dựng các chiến lược, chương trình phát triển nông nghiệp CNC trong

từng thời kỳ nhằm phát huy các lợi thế của địa phương và hình thành các vùng, các

khu nông nghiệp công nghệ cao trong qua trong từng giai đoạn nhất định nhằm đạt

được các mục tiêu mà qui hoạch đã đề ra. Chiến lược và chương trình phát triển nông

nghiệp CNC của các địa phương không được mâu thuẫn với chương trình phát triển

nông nghiệp CNC của cả nước và phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương.

Chiến lược và chương trình phát triển nông nghiệp CNC được phê duyệt bởi HĐND

cấp tỉnh thông qua các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.

Cơ chế chính sách là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử

dụng để: (1) Nhằm khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa và dịch vụ công cho

toàn bộ nền kinh tế; (2) Quản lý nguồn lực công một cách hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo

thiết thực toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả

trong ngắn hạn và trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một trong những

căn cứ để kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công

như: Ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên của đất nước.

Chính sách của chính quyền cấp tỉnh được xây dựng và ban hành nhằm thực

hiện mục tiêu, chỉ tiêu do địa phương đề ra, trong phạm vi địa phương, không trái quy

định trung ương và pháp luật. Các cơ chế, chính sách của Trung ương mang phạm vi

rộng toàn bộ cả quốc gia và có tính chất chung nhất. Cơ chế, chính sách của chính

quyền địa phương cấp tỉnh được ban hành nhằm cụ thể hóa các chính sách của nhà

nước phù hợp với thực tế của địa phương hoặc giải quyết các vấn đề của địa phương

theo thẩm quyền nếu Nhà nước chưa quy định nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển

39

kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chính quyền địa phương cấp huyện không ban hành các

cơ chế chính sách, chỉ ban hành các biện pháp để thực hiện các cơ chế chính sách của

Trung ương và chính quyền địa phương cấp tỉnh.

Nội dung của một chính sách cần đảm bảo hợp hiến, hợp pháp, có đối tượng,

phạm vi, nội dung cụ thể và chỉ rõ nguồn lực để thực hiện các cơ chế, chính sách đó,

đồng thời phải giao cho 1 cơ quan chủ quản làm đầu mối tổ chức triển khai thực hiện

cơ chế chính sách để có căn cứ, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.

Trên cơ sở quy định của pháp luật, HĐND cấp tỉnh là người phê duyệt và giám

sát việc thực hiện các cơ chế, chính sách để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội của địa phương, nguồn lực để thực hiện chính sách là ngân sách của tỉnh. UBND

cấp tỉnh có chức năng tổ chức và đôn đốc việc thực hiện cơ chế chính sách đó. Trên cơ

sở kế hoạch của UBND cấp tỉnh, sở chuyên ngành và UBND cấp huyện tổ chức thực

hiện phổ biến, tuyên truyền chính sách, kế hoạch thực hiện, thực thi chính sách để giúp

cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách

được triển khai thuận lợi và có hiệu quả.

2.2.2. Tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình và chính sách

Tổ chức thực hiện là quá trình xây dựng kế hoạch và tổ chức thực thi kế hoạch

nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trên cơ sở quy hoạch, chương trình và các cơ chế

chính sách phát triển kinh tế của Trung ương, các Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh,

UBND cấp tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện các quy hoạch, các chương trình và các

cơ chế chính sách đó.

Lập kế hoạch là quá trình xác định mục tiêu của tổ chức và phương thức để

thực hiện mục tiêu đó trong thời kỳ nhất định. UBND cấp tỉnh phải xây dựng kế hoạch

dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn, với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, chi tiết trong từng

thời kỳ để thực hiện các chương trình, quy hoạch với các cơ chế chính sách đã ban

hành. UBND cấp tỉnh giao sở chuyên ngành làm cơ quan thường trực tham mưu xây

dựng và ban hành các kế hoạch triển khai các chương trình, quy hoạch, các cơ chế,

chính sách đã được nghị quyết của HĐND cấp tỉnh phê duyệt. Kế hoạch chỉ rõ mục

tiêu, chỉ tiêu, mục đích yêu cầu, nội dung thực hiện, đơn vị chủ trì và các đơn vị phối

hợp tổ chức thực hiện. Kế hoạch phát triển nông nghiệp CNC sẽ do sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn chủ trì tổ chức triển khai thực hiện, phối hợp cùng với các sở,

ngành và UBND các huyện tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Sở Nông nghiệp và phát

triển nông thôn có vai trò hướng dẫn tổ chức thực hiện kế hoạch, tổ chức thực hiện các

40

quy hoạch, chương trình cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao,

đồng thời có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra thực hiện kế hoạch bằng việc thanh tra,

kiểm tra chuyên ngành trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch.

UBND các cấp là cấp được chính quyền cấp tỉnh giao tổ chức thực thi các quy

hoạch, chương trình và cơ chế chính sách trên địa bàn; phối hợp với các sở, ngành để

triển khai tổ chức thực hiện, chịu sự hướng dẫn về chuyên môn của sở chuyên ngành.

Có vai trò quan trọng trong việc đạt mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch.

Việc tổ chức triển khai thực thi chính sách có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một

khâu hợp thành chu trình của chính sách, nếu thiếu công đoạn này thì chu trình chính

sách không thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối trong các bước trong chu trình chính

sách thành một hệ thống. Để biết được chính sách ban hành ra có đảm bảo tính khả thi,

thực tiễn hay không thì việc triển khai chính sách là khâu hiện thực hoá chính sách vào

sản xuất, vào đời sống xã hội.

Chúng ta đều nhận thấy để hoạch định một chính sách tốt là một vấn đề hết sức

khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn. Song dù chính sách có tốt đến mấy nhưng

không tổ chức thực thi hay thực thi yếu kém sẽ không mang lại hiệu quả, không đạt

được mục tiêu đã đề ra mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước. Và mục tiêu của chính

sách chỉ có thể đạt được thông qua việc triển khai, thực thi chính sách, đồng thời các

mục tiêu của chính sách có quan hệ và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển KTXH chung.

Việc tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian

dài do vậy phải có kế hoạch. Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính

sách vào cuộc sống, UBND cấp tỉnh sẽ giao sở chuyên ngành tham mưu xây dựng kế

hoạc để triển khai tổ chức thực hiện trên toàn địa bàn tỉnh, thành phố, trong kế hoạch

phải đảm bảo làm rõ đơn vị đầu mối và các sở, ngành, UBND cấp huyện, các cơ quan

liên quan tham gia phối hợp ra sao, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi và đảm bảo nguồn

lực tài chính, thời gian hoàn thành.

Trên cơ sở kế hoạch đã được UBND cấp tỉnh phê duyệt, các sở, ngành và UBND cấp huyện phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách thường

được triển khai, thực thi trên một địa bàn rộng lớn với nhiều tổ chức tham gia. Vì vậy, phải có sự phối hợp, phân công, phân nhiệm thật hợp lý, rõ bộ phận, rõ việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thêm vào đó các hoạt động thực thi chính sách với mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm lẫn nhau bởi vậy

phải cần có sự phối hợp giữa các cấp, ngành, các địa phương để triển khai chính sách.

41

Nếu hoạt động này diễn ra theo đúng tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ

động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.

Để đánh giá việc tổ chức thực thi chính sách cần làm rõ các chương trình và chính sách đã được ban hành, phổ biến và đang được triển khai như thế nào, có đạt được kết quả như mong đợi hay không, ý kiến của các bên liên quan về sự phù hợp của chính sách đó ra sao trong việc hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp CNC.

Việc đánh giá tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp CNC có thể được đánh giá theo kết quả đầu ra thể hiện qua 3 khía cạnh là mức độ biết đến chính sách, mức độ tiếp cận được chính sách và mức độ phù hợp của chính sách của từng chính sách cụ thể như: chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ tín dụng và ưu đãi vay vốn, chính sách hỗ trợ đất đai, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn

nhân lực trong các chương trình phát triển nông nghiệp CNC.

2.2.3. Kiểm tra giám sát nhằm kịp thời điều tiết các thất bại của thị trường trong quá trình thực hiện qui hoạch, chương trình và các chính sách

Kiểm tra giám sát (theo từ điển tiếng Việt) là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Kiểm tra là một chức năng của quản lý nhà nước, nó mang tính chất phản hồi chu trình quản lý. Qua kiểm tra, thanh tra, giám sát các cơ quan quản lý nhà

nước có thể phân tích đánh giá, theo dõi được quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra.

Mục tiêu của kiểm tra giám sát để đảm bảo các quy hoạch, chương trình, chính

sách phát triển nông nghiệp CNC được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Qua giám sát để biết được việc thực hiện các quy hoạch, chương trình và các chính sách của Trung ương cũng như của HĐND cấp tỉnh ban hành được thực hiện đến đâu, kết quả như thế nào, có các khó khăn, tồn tại gì từ đó kiến nghị và có các biện

pháp để đẩy nhanh việc thực thi các chính sách.

Công tác kiểm tra giám sát cũng giúp cho chính quyền cấp tỉnh nhận ra những

hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính

sách, kịp thời khắc phục các thất bại của thị trường để đạt được mục tiêu đề ra. Đối với

chính quyền cấp tỉnh việc kiểm tra được thực hiện dưới nhiều hình thức với sự phối

hợp của nhiều cơ quan ban ngành nhằm kịp thời khắc phục các thất bại của thị trường

để đạt các mục tiêu đề ra của phát triển nông nghiệp CNC. Để thức hiện mục tiêu kịp

thời khắc phục các thất bại của thị trường, chính quyền địa phương cấp tỉnh phải kịp

thời cải cách thủ tục hành chính và có các chính sách liên quan như các chính sách xúc

42

tiến đầu tư nhằm tháo gỡ khó khăn, thu hút các bên liên quan đầu tư vào nông nghiệp

CNC. Các chính sách này được thực hiện khác nhau tùy điều kiện đặc thù của từng địa

phương trong quá trình phát triển.

Tùy theo từng mục tiêu giám sát khác nhau, có những công cụ khác nhau để

triển khai hoạt động giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường. Nếu chỉ là

mục tiêu hành chính mang tính chất để đôn đốc, giám sát thì sử dụng các kế hoạch,

các văn bản đôn đốc nhắc nhở, các đợt khảo sát, kiểm tra, nếu thấy sai phạm thì kỷ

luật, nếu thấy hoàn thành thì khen thưởng. Nhưng nếu mục tiêu để phát triển thì nhấn

mạnh việc tạo môi trường thuận lợi để các chính sách triển khai được thuận lợi, khắc

phục các thất bại của thị trường. Đây là mục tiêu mà luận án hướng đến. Để khắc

phục các thất bại của thị trường, có rất nhiều công cụ như thuế, cải cách thủ tục hành

chính, các chính sách xúc tiến đầu tư…. Luận án sẽ tập trung đánh giá công tác cải

cách thủ tục hành chính và các chính sách xúc tiến đầu tư, thương mại để góp phần

thúc đẩy thực hiện tốt chương trình phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành

phố Hà Nội.

2.2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC

Tiếp cận theo mục tiêu và kết quả, việc đánh giá quản lý nhà nước của chính

quyền cấp tỉnh về phát triển nông nghiệp CNC được đánh giá dựa trên 2 nhóm chỉ

tiêu, đó là (i) nhóm chỉ tiêu đánh giá sự phát triển nông nghiệp CNC qua các thời

kỳ; và (ii) nhóm chỉ tiêu đánh giá về kết quả thực hiện các công tác quản lý nhà

nước về phát triển nông nghiệp CNC thông qua hoạt động ban hành chương trình

chính sách, tổ chức thực hiện chính sách và triển khai giám sát, khắc phục các thất

bại của thị trường.

Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, các chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà

nước về phát triển nông nghiệp CNC cụ thể như sau:

(i) Nhóm chỉ tiêu đánh giá về kết quả phát triển nông nghiệp CNC qua các thời

kỳ được thể hiện qua các chỉ tiêu:

- Giá trị tổng sản lượng và tỷ trọng của nông nghiệp CNC qua các năm.

- Số dự án, mô hình nông nghiệp CNC được triển khai thực hiện qua các năm.

- Diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp CNC qua các năm.

- Số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC qua các năm.

43

- Các chỉ số đánh giá hiệu quả của sản xuất nông nghiệp CNC.

(ii) Nhóm chỉ tiêu đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về phát triển

nông nghiệp CNC bao gồm:

- Kết quả ban hành các chương trình, qui hoạch, chính sách phát triển nông

nghiệp CNC bao gồm: Số lượng khu/vùng/dự án/mô hình nông nghiệp CNC được qui

hoạch, số lượng chương trình/chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC

được ban hành và triển khai thực hiện.

- Thực trạng công tác phổ biến, triển khai chương trình, các chính sách liên

quan đến phát triển nông nghiệp CNC như chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, chính sách

ưu đãi tín dụng và hỗ trợ vốn, chính sách ưu đãi về đất đai và chính sách đào tạo

nguồn nhân lực. Với mỗi chính sách sẽ đánh giá dựa trên tỷ lệ người dân/hộ gia đình,

HTX biết đến chính sách; tỷ lệ người dân/HTX/ hộ gia đình được hưởng thụ từ chính

sách và mức độ phù hợp của chính sách theo đánh giá của các bên liên quan.

- Thực trạng công tác giám sát thể hiện qua các hoạt động khắc phục thất bại của thị trường để khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC như việc triển khai công

tác cải cách hành chính và các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại liên quan đến

phát triển nông nghiệp CNC.

Các chỉ tiêu đánh giá được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.1: Chỉ tiêu đánh giá quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC

STT

Chỉ tiêu - Sự tăng trưởng của nông nghiệp/nông nghiệp CNC

1

Nội dung Nhóm các chỉ tiêu về sự phát triển của nông nghiệp CNC

- Sự thay đổi về cơ cấu và tốc độ tăng của nông nghiệp CNC

Ghi chú Giá trị sản lượng nông nghiệp qua các thời kỳ Số dự án nông nghiệp CNC Số mô hình nông nghiệp CNC - Tỷ trọng và tốc độ tăng của giá trị sản lượng nông nghiệp CNC - Diện tích đất dành cho nông nghiệp CNC - Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp CNC qua các năm - Các chỉ tiêu về năng suất Số lượng khu, vùng nông nghiệp CNC được qui hoạch

2

Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả quản lý nhà nước về phát triển nông

- Chỉ tiêu về ban hành qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC

44

nghiệp CNC

Tỷ lệ hộ dân/HTX được biết đến chính sách Tỷ lệ hộ dân/HTX được thụ hưởng trực tiếp từ chính sách Mức độ phù hợp của chính sách

- Chỉ tiêu về tổ chức thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp CNC - Chính sách hỗ trợ CSHT - Chính sách hỗ trợ vốn và ưu đãi tín dụng - Chính sách hỗ trợ đất đai - Chính sách đào tạo NNL Cải cách thủ tục hành chính & xúc tiến thương mại

3

Kiểm tra khắc phục các thất bại của thị trường

- Chỉ số cải cái cách hành chính - Mức độ thực hiện xúc tiến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp CNC

Nguồn: Tổng hợp của tác giả năm 2019

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh

2.3.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương và xu hướng phát triển của KHCN và ngành nông nghiệp

Đặc điểm là những nét riêng biệt để nhận biết. Đối với kinh tế xã hội của mỗi tỉnh, thành phố có những đặc điểm riêng biệt khác với các địa phương khác, đặt trong

đặc điểm tình hình kinh tế xã hội chung của cả nước.

Đây là yếu tố cho thấy những thuận lợi hoặc khó khăn đối với sự phát triển của các hoạt động lĩnh vực kinh tế. Thực trạng sức khỏe của nền kinh tế ảnh hưởng đến khả năng nguồn lực Nhà nước dùng để đầu tư cho các hoạt động lĩnh vực kinh tế

(trong đó có ngành kinh tế nông nghiệp), ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng phát triển của các hoạt động kinh tế. Đối với nhân tố xã hội thì đây là nhân tố thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại quy định

các đặc tính của thị trường mà Nhà nước cần phải tính đến trong công tác quản lý nền kinh tế. Vì vậy mà khi xây dựng và thực thi các chính sách phát triển lĩnh vực kinh tế, chính quyền cấp tỉnh phải chú ý đến tác động của các nhân tố này.

Trên cơ sở đặc điểm kinh tế xã hội sẽ tác động ảnh hưởng đến công tác quản lý

nhà nước của chính quyền cấp tỉnh trong việc quy hoạch, xây dựng cơ chế, chính sách, cơ chế quản lý đối với ngành kinh tế nông nghiệp.

Sản xuất nông nghiệp nói chung hay nông nghiệp công nghệ cao luôn phải gắn

với thị trường, do thị trường ảnh hưởng quyết định đến đầu vào, đầu ra của nông nghiệp công nghệ cao. Thị trường tốt, lớn sẽ góp phần tạo nhu cầu lớn và thúc đẩy

45

việc phát triển nông nghiệp cao để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị và an

toàn và cung ứng kịp thời đến người tiêu dùng. Thị trường là nơi giải quyết đầu ra của sản xuất, nơi tiêu thụ, tạo nguồn lực tái đầu tư. Do đó xu hướng thay đổi nhu cầu của thị trường là nhân tố tác động đến việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cao diễn ra mạnh mẽ, có xu hướng ngày càng gia tăng không ngừng. Để một quốc gia phát triển đòi hỏi không chỉ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, sức lao động giản đơn mà còn phải dựa nhiều

vào tri thức khoa học và công nghệ, một nguồn lực có khả năng tái tạo; Do đó một yếu tố quan trọng quyết định đến hệ thống sản xuất kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp hay quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước cũng cần có đó là sự phát triển của

khoa học công nghệ trong quản lý, sản xuất, kinh doanh có tác động đến sự phát triển của ngành lĩnh vực kinh tế.

Đối với ngành nông nghiệp có một số đặc điểm quan trọng khác với các ngành kinh tế khác như: Đất trồng vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất chủ yếu

và không thể thay thế. Đây là đặc điểm riêng biệt, quan trọng phân biệt nông nghiệp khác với các ngành khác. Không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Đồng thời quy mô và phương án sản xuất, mức độ thâm canh và cả việc tổ chức lãnh thổ phụ thuộc nhiều vào đất đai.

Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cây trồng và vật nuôi, là các sinh vật, các cơ thể sống. Cây trồng, vật nuôi, các sinh vật này phát triển theo quy luật tự nhiên, các quy luật sinh học, do đó, trong quá trình sản xuất nông nghiệp chúng

ta phải hiểu biết và tôn trọng các quy luật sinh học, quy luật tự nhiên.

Hiện nay xu hướng phát triển cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế tất yếu của nhân loại, trong đó có việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, có chất lượng đáp ứng được

nhu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất. Do vậy quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh cũng phải tập trung phát triển nông nghiệp theo định hướng nông nghiệp CNC.

2.3.2. Nhóm các nhân tố liên quan đến thể chế và cơ chế chính sách

Theo các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch

cơ cấu nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy cần xây dựng chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này về nguồn

46

vốn, lãi suất, thuế cho từng chương trình dự án cụ thể, nhất là đối với các doanh

nghiệp mới khởi nghiệp. Tăng cường xúc tiến thương mại, trao đổi hàng hóa, quản lý thị trường, chú trọng chính sách hỗ trợ tiêu thụ việc từ cung cấp cây, con giống đến chăm sóc, tiêu thụ sản phẩm, nhất là nông sản tiêu thụ theo mùa vụ, vùng miền.

Thể chế chính sách, pháp luật của Nhà nước là yếu tố quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách phát triển kinh tế của chính quyền cấp tỉnh. Bởi vì thể chế chính sách, pháp luật của Nhà nước xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh với những tiêu chí và điều kiện cụ thể. Các quy hoạch, chương

trình, chính sách của chính quyền cấp tỉnh phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật, chính sách của Trung ương. Trên cơ sở được Trung ương uỷ quyền, phân cấp về tỉnh, chính quyền tỉnh xây dựng và hoàn thiện chính sách dựa vào thực tiễn của tỉnh (Lê

Thanh Sơn, 2017).

Hệ thống pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, vai trò của chính quyền cấp tỉnh quyết định đến chính sách, cơ chế quản lý của cấp chính quyền cấp tỉnh (Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 22 (32), tháng 5, 6 năm 2015).

Pháp luật (quy tắc, quy định) → chính sách → cơ chế quản lý. Quy định pháp luật tác động đến chính sách của chính quyền cấp tỉnh như: Chính quyền cấp tỉnh chỉ được ban hành các chính sách không trái quy định và đúng thẩm quyền pháp luật cho phép, ví dụ như: theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Trung ương phân cấp cho

chính quyền cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh thông qua danh mục các công trình dự án chuyển mục đích lúa từ 10ha trở xuống, trên 10 ha phải Chính phủ quy định. Như vậy, quy định pháp luật đã tác động đến chính sách, cơ chế quản lý của chính quyền cấp

tỉnh trong khung thẩm quyền quy định, không có chức năng, thẩm quyền quyết định vượt quy định. Ở chiều tác động ngược lại, cơ chế quản lý, chính sách qua triển khai thực hiện thực tiễn có kiến nghị trở lại để hoàn chỉnh, sửa đổi các quy định của pháp luật cho phù hợp hơn với tình hình thực tế, tại những thời điểm khác nhau.

Đối với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành

Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND. HĐND quyết định các biện pháp bảo đảm thực thi Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám

sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. UBND do HĐND cùng cấp

47

bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,

chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

2.3.3. Năng lực và thái độ làm việc của cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước

Năng lực của cán bộ thể hiện ở kiến thức, khả năng, kỹ năng làm việc, hoàn thành công việc đảm bảo chất lượng, thời gian, có tính sáng tạo để tăng năng suất lao

động. Kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Cán bộ có kiến thức, kỹ năng và đặc biệt là thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm sẽ tham mưu, phê duyệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức kịp thời, chất lượng quy hoạch, chương

trình và chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao góp phần đẩy nhanh việc thực hiện các quy hoạch, chương trình và chính sách, nâng cao hiệu quả, kết quả công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và ngược lại nếu cán bộ,

công chức không có kỹ năng, thái độ làm việc không tốt thì việc tham mưu xây dựng quy hoạch, chương trình, chính sách không khả thi, thiếu thực tiễn; chậm ban hành kế hoạch, triển khai thực hiện dẫn đến kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn chậm thậm chí không hiệu quả. Chính vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của quy

hoạch, chương trình, chính sách có cao hay không sẽ phụ thuộc rất lớn vào năng lực của đội ngũ cán bộ này. Qua đó cũng thấy được tầm quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế (trong đó có ngành nông nghiệp công nghệ

cao) của chính quyền địa phương đối với hiệu lực, hiệu quả của các chính sách (Lê Thanh Sơn, 2017).

2.3.4. Sự phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp CNC (Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu)

Sự tham gia phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển ngành kinh tế có yếu tố quan trọng trong công tác quản lý của chính quyền các cấp nói chung và chính

quyền cấp tỉnh nói riêng. Các quy hoạch, chương trình, chính sách có được triển khai, thực hiện đạt hiệu quả phải có sự phối kết hợp của nhiều chủ thể tham gia vào phát triển ngành nông nghiệp công nghệ cao.

Vai trò của nhà nước: Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp liên kết sản xuất hàng hóa: (i) Tổ chức lại sản xuất dựa trên nguyên tắc gắn chặt với thị trường, quy hoạch vùng sản xuất, cơ cấu sản phẩm, nhất là các sản phẩm chủ lực theo hướng phát huy vai trò, thế mạnh của từng địa phương; tổ chức liên

kết nông dân sản xuất hàng hóa, tạo dựng liên kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi ngành

48

hàng; (ii) Kết nối giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà nông để sản xuất và tiêu thụ

nông sản; (ii) Đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các bên tham gia; đảm bảo việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng khi các bên đã ký kết.

Vai trò của người dân và Doanh nghiệp: (i) hỗ trợ đầu vào, hình thành vùng nguyên liệu sản xuất; (ii) trực tiếp sản xuất và tiêu thụ nông sản; (iii) là người cần nguồn lao động, nguyên vật liệu; (iv) là người nắm vững kỹ thuật sản xuất, có vốn đầu tư và sẵn sàng đầu tư để thu được lợi nhuận; (v) cung cấp giống, vật tư, kỹ thuật bao tiêu sản phẩm đầu ra.

Vai trò của cơ quan nghiên cứu: Nghiên cứu, sáng chế máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, miền. Trong nông nghiệp là quy trình kỹ thuật canh tác công nghệ cao,

công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch; đưa máy móc, công cụ giải pháp sản xuất phù hợp với từng đối tượng, từng điều kiện sản xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, tạo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia, trong nước và khu vực.… Huấn luyện đào tạo nhà nông dân tiếp thu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.

2.3.5. Nhóm các yếu tố đầu vào phát triển nông nghiệp CNC

Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp công nghệ cao được thể hiện qua các yếu tố đầu vào của sản xuất như đất đai, vốn, công nghệ sản xuất, lao động...

Cụ thể là:

- Các yếu tố đất đai:

Các doanh nghiệp khó sở hữu trong tay những “cánh đồng mẫu lớn” để đầu tư

nông nghiệp CNC đã diễn ra rất nhiều năm nhưng vẫn chưa có cách giải quyết. Trên thực tế, theo quy định của pháp luật hiện nay, đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước, người nông dân chỉ có quyền cho thuê hoặc liên kết, không có quyền bán. Như vậy, việc tích tụ ruộng đất là rất khó khăn. Mặc dù cũng có nhiều cơ chế, chính sách dồn

diền đổi thửa đã được triển khai thực hiện, song để có quy mô đủ lớn để sản xuất nông nghiệp hàng hóa là khó, chỉ ở quy mô nhỏ và các mô hình điểm.

Trong rất nhiều hội nghị, hội thảo, các doanh nghiệp đều tập trung phản ánh những khó khăn về việc tích tụ đất, thuê quỹ đất sản xuất. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp CNC phải tự đi thương lượng, đền bù với người dân. Sau đó Nhà nước sẽ thu hồi phần đất đó rồi cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy, doanh nghiệp phải mất hai lần tiền mới có đất “sạch” để sản xuất. Vì vậy, cần phải nhanh chóng có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp có đất, tích tụ đất để mở rộng sản xuất, sản xuất quy mô lớn để ứng dụng công nghệ cao…trong đó có cần đặc biệt quan tâm đến giải pháp về

49

thành lập ngân hàng quỹ đất, hình thành thị trường quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

- Các yếu tố vốn

Bên cạnh những khó khăn về đất đai, doanh nghiệp cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn về tiếp cận nguồn vốn. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, yêu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn là một trong các rào cản đối với thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Để hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao, năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định 57/2018/NĐ-CP khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để doanh nghiệp tiếp cận được với vốn là rất khó, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.

Các doanh nghiệp lớn có thể vay vốn theo các dự án, còn doanh nghiệp nhỏ và vừa gần như không vay được vốn ngân hàng do thủ tục phức tạp và phải có tài sản đảm bảo mới được ngân hàng cho vay. Do vậy, các doanh nghiệp chưa thật sự mặn mà với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Như vậy, để thực sự thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cần hình thành nên các Quỹ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và giúp các doanh nghiệp thực sự tiếp cận được các nguồn vốn.

- Các yếu tố nguồn nhân lực

Bản chất của nông nghiệp công nghệ cao trên thế giới là ứng dụng các công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin từ sản xuất cho đến thu hoạch, chế biến bảo quản, logistic, và tiếp thị. Bên cạnh đó, nông nghiệp công nghệ cao ứng dụng thành tựu của kỹ nghệ gen, ứng dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh sử dụng công nghệ nano, hình thành hệ thống canh tác nông nghiệp chính xác đảm bảo cung cấp nước, phân bón hợp lý còn gọi là nông nghiệp thông minh... Do đó, nông nghiệp công nghệ cao luôn đòi hỏi lực lượng lao động chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu chính xác trong tất cả các công đoạn từ sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm.

Vì vậy, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, đòi hỏi các địa phương phải có các giải pháp để phát triển nguồn lao động chất lượng cao từ lao động sản xuất trực tiếp đến cán bộ quản lý. Việc đào tạo nguồn nhân lực có đủ kiến thức và kỹ năng, phẩm chất và thái độ đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của nền nông nghiệp ứng dụng CNC. Nền nông nghiệp CNC có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới, tạo ra những đột phá trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

50

- Các yếu tố thị trường

Đầu tư vào nông nghiệp đối mặt với nhiều rủi ro như yếu tố thời tiết, thị trường. Chuyện nhà nông “loay hoay” với bài toán đầu ra và tình trạng “được mùa, mất giá, bí đầu ra” đến nay vẫn chưa có phương pháp giải quyết triệt để. Trong khi đó, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng phải chịu tâm lý thấp thỏm bởi tình trạng “vàng thau lẫn lộn” vẫn đang khá phổ biến.

Nông nghiệp CNC đòi hỏi nhiều yêu cầu kỹ thuật khắt khe, đầu tư lớn, giá thành sản phẩm cao. Nếu sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, ảnh hưởng không chỉ

đến doanh nghiệp mà còn gây rủi ro cho người nông dân. Do đó, vấn đề thị trường, tìm đầu ra ổn định cho các sản phẩm nông nghiệp sạch, công nghệ cao cần được quan tâm tháo gỡ, tạo sự yên tâm cho doanh nghiệp lẫn người dân khi đầu tư, phát triển nông

nghiệp sạch, công nghệ cao.

- Các yếu tố KHCN

Hình thành sàn giao dịch công nghệ cao trong nông nghiệp và phát triển các loại hình dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá, đầu tư, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, sở

hữu trí tuệ và các dịch vụ nghiên cứu phát triển CNC… là rất cần thiết và có tác động nhằm thúc đẩy hoạt động công nghệ cao, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm công nghệ cao trong nông nghiệp;

Việc xây dựng và áp dụng cơ sở dữ liệu về công nghệ cao trong nông nghiệp là

rất cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận, sử dụng, trao đổi thông tin về công nghệ cao trong nông nghiệp; tổ chức, tham gia chợ, hội chợ, triển lãm công nghệ cao trong nông nghiệp quy mô quốc gia, quốc tế.

Tạo dựng mạng lưới nhân lực chất lượng cao thông qua đào tạo, tập huấn và chuyển giao để đáp ứng tốt nhân lực quản lý tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC, cũng như nhân lực là lao động kỹ thuật cho các đơn vị sản xuất nông nghiệp CNC. 2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở trong nước và trên thế giới

2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của Trung Quốc

Chính phủ Trung Quốc xây dựng và triển khai nhiều mô hình phát triển nông

nghiệp công nghệ cao cả cấp Trung ương và cấp địa phương (cấp tỉnh), cụ thể như:

(1) Loại hình do doanh nghiệp chủ trì: Là loại hình sản xuất do các doanh nghiệp làm hạt nhân (Trung Quốc gọi là “doanh nghiệp đầu rồng”): thực hiện việc liên

51

kết với cơ sở sản xuất và các nông dân để tiến hành sản xuất, liên kết với thị trường

trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp này có khả năng nắm bắt và dự báo tình hình thị trường trong và ngoài nước, đồng thời căn cứ vào ưu thế về quy mô sản xuất của mình, nhập những công nghệ cao, giống mới, thiết bị mới… Tiếp đến, thông qua các hợp đồng, hợp tác theo hình thức cổ phần để liên kết các loại lợi ích và đưa các công nghệ này vào sản xuất, từ đó thực hiện và phát triển quy mô sản xuất sản phẩm nông nghiệp CNC của mình.

(2) Loại hình do các cơ quan nghiên cứu chủ trì. Là loại hình do các đơn vị làm công tác nghiên cứu chủ trì, với mục tiêu đưa kết quả nghiên cứu của mình vào sản xuất để tạo ra sản phẩm riêng của mình, được tiến hành dưới hai hình thức: (i) Đơn vị nghiên cứu thành lập doanh nghiệp để thực hiện việc chuyển hóa, áp dụng kết quả

nghiên cứu của mình vào sản xuất; (ii) Đơn vị nghiên cứu của mình góp cổ phần để cùng hợp tác phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp CNC trên cơ sở kết quả nghiên cứu của mình.

(3) Loại hình do Chính phủ chỉ đạo. Là loại hình được triển khai, thực hiện theo quy hoạch phát triển chung nhằm mục đích nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, Chính phủ dùng các biện pháp, hình thức cung cấp tài chính, hành chính để hỗ trợ mở rộng tốc độ sản xuất hàng hóa. (JSTPM Tập 3, Số 1, 2014 53).

(4). Loại hình phát triển khu nông nghiệp hiện đại. Đây là loại hình được tổ chức chung giữa Chính phủ, doanh nghiệp, hiệp hội, nông hộ cùng nhau xây dựng trên một khu vực có cơ sở và điều kiện phát triển nông nghiệp tương đối tốt mà hình thành khu nông nghiệp công nghệ cao, thông qua việc tuyên truyền, thu hút những đơn vị

hoặc doanh nghiệp có điều kiện vào làm việc trong Khu, dùng cách vận hành theo kiểu doanh nghiệp. Thông qua việc trình diễn, hướng dẫn, giới thiệu, tập huấn để đưa thành quả KHCN vào sản xuất rồi tiến hành lan tỏa mở rộng. Một số mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao ở Trung Quốc đã mang lại những thành tựu nổi bật như tại Vân

Nam, khu nông nghiệp công nghệ cao Hồng Hà được xây dựng từ năm 2002 là khu cấp quốc gia ở Trung Quốc. Tại Thiểm Tây, khu nông nghiệp công nghệ cao cấp quốc gia Dương Tuấn lựa chọn xây dựng mô thức kết hợp giữa sản xuất, học tập, nghiên

cứu để tạo môi trường kinh doanh thích hợp cho các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp KHCN nhằm tăng cường sức hấp dẫn của Khu. Theo đó, Khu đã thu hút các trường, viện nghiên cứu sử dụng kết quả nghiên cứu công nghệ để tham gia cổ phần và cùng với các tổ chức, cá nhân hợp tác xây dựng công ty KHCN, kết hợp thành một thể

công ty cộng đồng và thực hiện liên kết giữa các cơ quan nghiên cứu với công ty. Kinh nghiệm từ các mô hình phát triển ở tỉnh Vân Nam, Thiểm Tây,... cho thấy, để khu

52

nông nghiệp công nghệ cao phát huy hiệu quả thì vai trò của chính quyền là hoàn thiện

các điều kiện cơ sở hạ tầng của các khu, thúc đẩy tầm ảnh hưởng của các công nghệ hiện đại; Thu hút, bồi dưỡng hàng loạt các ngành hàng mới; Cải tiến và hoàn thiện cơ chế hoạt động của khu; Phát huy ưu thế sản phẩm chủ lực của từng khu vực.

Vai trò của chính quyền Trung Quốc trong việc phát triển các loại hình phát

triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.

Tuy còn nhiều điểm phải tiếp tục hoàn thiện, nhưng về cơ bản nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Trung Quốc đã góp phần vào việc nâng cao trình độ và chất

lượng kỹ năng, công nghệ, đáp ứng một phần sản phẩm nông nghiệp cho xã hội cả về chất lượng, số lượng và bước đầu có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của khu nông nghiệp công nghệ cao. Quá trình hình thành và phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao cũng là quá trình hoàn thiện về cơ cấu tổ chức của khu. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của một khu nông nghiệp công nghệ cao cấp Nhà nước của Trung Quốc thường bao gồm: khu trung tâm hay khu hạt nhân, khu trình diễn và khu lan tỏa. - Khu hạt nhân là chủ thể của khu nông nghiệp công nghệ cao, ở đó nhất thể hóa (công nghệ, nhân tài, thông tin, ươm tạo doanh nghiệp, phổ biến kết quả, tập huấn kỹ thuật và dịch vụ xã hội hóa). - Khu trình diễn là cơ sở sản xuất nông sản phẩm thị phạm của khu, là cơ sở thí nghiệm các kết quả nghiên cứu KHCN nông nghiệp, chuyển hóa các kết quả KHCN thông qua việc tiếp

thu những kết quả của công nghệ mới, giống mới, thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn hóa và kinh doanh qui phạm hóa. - Khu lan tỏa là nơi sản xuất hàng hóa chủ yếu để những kỹ thuật mới, công nghệ mới từ khu hạt nhân, khu trình diễn lan tỏa đến nông

dân và vùng xung quanh. Những kỹ thuật và công nghệ mới sẽ khuếch tán từ khu trung tâm đến khu trình diễn và khu lan tỏa một cách tuần tự. Có thể nói, khu lan tỏa là nơi chủ yếu để tiến hành sản xuất sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, là nơi để doanh nghiệp tổ chức nông dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, cũng

là nơi đào tạo, bồi dưỡng trình độ KHCN, trình độ tổ chức quản lý sản xuất theo hướng công nghiệp hóa cho người nông dân (Dương Kỳ Trường, 2011).

- Ban hành và triển khai các chính sách ưu đãi đối với nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao Trung Quốc nhận thức rằng để đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho một lượng dân số bằng 22% dân số thế giới với một diện tích đất canh tác chỉ bằng 7% diện tích đất canh tác của thế giới thì việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp để gia tăng nhanh chóng sản lượng sản phẩm

nông nghiệp, thỏa mãn nhu cầu lương thực thực phẩm của hơn 1,3 tỷ người bảo đảm

53

sự ổn định cho xã hội, tạo ra sản phẩm xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người nông

dân, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn là xu hướng tất yếu. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp và áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, như: gia tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ cập KHCN, làm tốt công tác qui hoạch sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là hạ tầng về thủy lợi, về giống cây trồng vật nuôi, xây dựng các cơ sở vật chất để kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa nông sản,

ưu đãi và hỗ trợ nông dân tiếp cận với các máy móc cơ khí hóa nông nghiệp…), tạo điều kiện về thông tin và pháp lý để khai phá thị trường tiêu thụ nông sản, trực tiếp đầu tư khuyến khích nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp theo đầu gia súc hoặc diện

tích trồng trọt,.... Các mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao đã được áp dụng và triển khai ở hầu hết các tỉnh/thành phố của Trung Quốc. Những mô hình thành công là những mô hình mang lại lợi ích cho cả người sản xuất (nông dân) và doanh nghiệp. Việc xây dựng mô hình phải dựa trên nhu cầu và đảm bảo nguyên tắc: “Chính phủ chỉ đạo, doanh nghiệp vận hành, cơ quan môi giới tham gia, nông dân hưởng lợi”. Có thể thấy rằng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Trung Quốc là tương đối gần với các mô hình đang hình thành và phát triển tại Việt Nam. Kinh nghiệm trong việc liên kết cũng như sự vào cuộc của các đơn vị cung cấp dịch vụ công của Nhà nước trong các

mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao tại Vân Nam, Thiểm Tây … là bài học tốt cho việc định hình, nhân rộng và phát triển các mô hình khu nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam.

2.4.2 Kinh nghiệm của Israel

Là nước có nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phát triển hàng đầu thế giới, Israel đã có các kinh nghiệm quý báu trong quản lý nhà nước về phát triển nông

nghiệp CNC trong đó đặc biệt là các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, cụ thể như sau:

Thứ nhất, yếu tố được xem là quyết định của thành công của phát triển nông nghiệp CNC đó là đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển các công nghệ nông nghiệp mới. Hiện nay, Israel có tới khoảng 300 doanh nghiệp xuyên quốc gia tập trung vào nghiên cứu và phát triển công nghệ và 10 cơ quan nghiên cứu nông nghiệp lớn, tiêu biểu là Tổ chức Nghiên cứu nông nghiệp (ARO - Agricultural

Research Organization), Cơ quan Nghiên cứu về nông nghiệp (hay còn gọi là Trung tâm Volcani) hai đơn vị này đều trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Mục tiêu chính của các viện, trung tâm và trạm nghiên cứu của ARO tập trung vào các

54

nhiệm vụ chính sau: (1) Đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu và phát triển nông nghiệp trong

điều kiện khô cằn; (2) tại các vùng biên giới; (3) các công nghệ tưới nhỏ giọt và tưới bằng nước khử mặn; (4) Trồng trọt, gieo trồng trong điều kiện bảo vệ môi trường; (5) Nuôi cá nước sạch trong điều kiện thiếu nước; (6) sử dụng phương pháp kiểm soát côn trùng và bảo quản sau thu hoạch để giảm thiểu hao hụt nông sản;(7) gieo trồng, chăn nuôi thích ứng tốt với các điều kiện địa lý khác nhau.

Chính phủ Israel luôn chú trọng đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), nghiên cứu các công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất nông

nghiệp. Theo báo cáo của Deloitte, chỉ trong sáu tháng đầu năm 2017 đã có 80 triệu đô la Mỹ được đầu tư cho phát triển công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính theo con số tuyệt đối thì mức đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu các

công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là gần 100 triệu USD mỗi năm, chiếm khoảng hơn 3% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp quốc gia. Đa số các nghiên cứu đó đều do những công ty sản xuất sản phẩm đầu vào, như: Hệ thống tưới tiêu, phân bón, nhà kính… triển khai. Chính sự phối hợp này đã đảm bảo kết hợp được giữa

kinh doanh và nghiên cứu, đảm bảo cho các nhà khoa học có thêm thù lao để phát huy tối đa năng lực chuyên môn của mình. Với việc Chính phủ Israel chú trọng tới đầu tư phát triển các công nghệ mới ứng dụng trong nông nghiệp đã thay đổi hoàn toàn bức tranh nông nghiệp của đất nước này và tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư khu

vực và quốc tế.

Thứ hai, Nhà nước tập trung thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành công nghiệp hỗ trợ như: Giao thông, cơ khí thậm chí cả công nghiệp quốc phòng để tạo nền tảng cơ sở hạ tầng phát triển cho nông nghiệp CNC. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng luôn thực hiện các chính sách để tăng cường phối hợp giữa 5 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà tư vấn - Nhà nông. Cơ sở hạ tầng hỗ trợ hiện đại cùng với sự phối hợp từ Nhà nước đến Nhà nông là điều kiện tốt để các doanh nghiệp tin tưởng và

yên tâm đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tại Israel, Chính phủ đã xây dựng chính sách cử những nhân lực trẻ, trí tuệ nhất đi học và

nghiên cứu trong quân ngũ, đây là nơi có điều kiện tốt nhất để nghiên cứu về khoa học công nghệ. Và sau khi xuất ngũ, Nhà nước cho phép các cựu quân nhân này được phép áp dụng kiến thức, bí quyết công nghệ và đặc biệt là tinh thần làm việc nhóm để khởi nghiệp trong các lĩnh vực dân sự, trong đó có cả nông nghiệp CNC. Khi có lực lượng

lao động chất lượng cao, các doanh nghiệp FDI sẽ không ngần ngại rót vốn đầu tư vào nông nghiệp CNC.

55

Thứ tư, Chính phủ luôn đặt niềm tin và coi trọng lĩnh vực nông nghiệp, và xác định rằng nông nghiệp có thể mang lại cơ hội tăng trưởng bền vững cho đất nước. Tại Israel, người ta luôn nhen nhóm tinh thần coi trọng sự đóng góp của nông nghiệp trong toàn xã hội bằng cách tuyên truyền, không ngừng nhân rộng những câu chuyện thành công tại địa phương. Chính việc tuyên truyền, nhân rộng kết quả thành công của các dự án nông nghiệp CNC đã khích lệ cảm hứng của các sinh viên, doanh nghiệp FDI, những nhà khởi nghiệp trẻ - những người sẵn sàng đầu tư và thành công với nông nghiệp CNC.

2.4.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC của một số nước Châu Á khác

Kinh nghiệm của Indonesia

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Minh (2017), Indonesia dẫn đầu khu vực ASEAN về thu hút FDI vào nông nghiệp trong ba năm liên tiếp 2013 - 2015 với số vốn lần lượt đạt hơn 1,61 triệu USD, hơn 2,23 triệu USD và 2,14 triệu USD. Để tăng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp Indonesia đã ban hành một loạt chính sách ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài là Luật Đầu tư số 25 năm 2007. Theo đó các công ty có vốn FDI được hoạt

động trong vòng 30 năm kể từ ngày thành lập. Thời gian hoạt động sẽ được tăng thêm 30 năm nếu nhà đầu tư cam kết tăng vốn. Luật cũng không giới hạn về tỷ lệ nắm giữ phần sở hữu đối với nhà đầu tư và số vốn đầu tư tối thiểu đối với loại hình công ty 100% vốn nước ngoài. Sau 15 năm hoạt động, công ty phải bán tối thiểu 5% cổ phần

cho phía Indonesia.

Bên cạnh đó, Indonesia giảm thuế thu nhập doanh nghiệp mỗi năm tương đương với 5% tổng giá trị vốn đầu tư trong thời gian 6 năm. Chẳng hạn một công ty có

tổng vốn đầu tư là 1 tỷ USD sẽ được giảm 50 triệu USD/năm (5% x 1 tỷ USD) khi tính thu nhập chịu thuế. Lỗ được chuyển sang kỳ tiếp theo nhưng không quá 10 năm. Thuế nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất được giảm đến 5% nếu các hàng hóa này chịu mức thuế lớn hơn 5%. Ngoài ra, các dự án FDI không bị hạn chế

trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng.

Kinh nghiệm của Malaysia

Cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Minh (2017), Malaysia đứng đầu về thu hút vốn FDI vào nông nghiệp tại khu vực ASEAN trong năm 2015 với hơn 11,12 triệu USD, đứng thứ hai năm 2014 với 10,87 triệu USD. Malaysia thực hiện chính sách một cửa đối với hoạt động đầu tư trên toàn lãnh thổ. Cơ quan được quyền

56

phê chuẩn, cấp phép đầu tư là cơ quan phát triển đầu tư (MIDA), được thành lập từ

năm 1967, trực thuộc Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc gia. MIDA hoạt động như một đầu mối duy nhất, là trung tâm điều phối đầu tư để giúp chủ đầu tư thực hiện các thủ tục cần thiết. Chính sự thống nhất này đã giảm được các thủ tục hành chính chồng chéo, rườm rà, hạn chế nạn quan liêu, tham nhũng, tạo thuận lợi và là yếu tố thu hút nguồn vốn FDI nói chung và FDI vào nông nghiệp nói riêng.

Tại Malaysia, các ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư được quy định trong Luật Thuế thu nhập năm 1967, Luật Thuế môn bài 1976, Luật Xúc tiến đầu tư năm

1986, các danh mục khuyến khích đầu tư được Bộ Công nghiệp và Thương mại Malaysia công bố hàng năm. Cụ thể, miễn thuế thu nhập cho các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực nông nghiệp từ 3 - 5 năm, riêng các dự án trồng rừng được miễn thuế

Kinh nghiệm của Thái Lan

thu nhập trong vòng 10 năm, cho phép chuyển lỗ sang năm sau và trừ vào chi phí trong 5 năm; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 5 năm sau thời gian miễn thuế; miễn thuế nhập khẩu đối với các máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.

Nền nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao của Thái Lan nói riêng phát triển như ngày nay không thể không nhắc đến “tầm nhìn” chiến lược dài hạn của

Chính phủ. Hơn 30 năm trước đây, khi diện tích đất nông nghiệp còn rộng lớn, nguồn nhân lực dồi dào và các nhà hoạch định chính sách Thái Lan coi nông nghiệp là nội lực sống còn để phát triển kinh tế quốc dân, Thái Lan được mệnh danh là “nồi cơm” của thế

giới với 9 triệu tấn gạo được xuất khẩu, thu về 3,5 tỷ USD năm 2007. Song do tác động của xu hướng công nghiệp hóa, lĩnh vực giải trí, đất canh tác bị rửa trôi, xói mòn hoặc nhiễm mặn (năm 2008 là 22 triệu ha), người nông dân không được hưởng lợi trực tiếp từ giá lương thực toàn cầu tăng cao,… mà chính sách nông nghiệp của Chính phủ Thái Lan

đã có những điều chỉnh kịp thời khi thấy những nguy cơ tiềm tàng và quan trọng hơn là những chính sách ấy đã “bắt đúng bệnh” của thực trạng nông nghiệp. Cụ thể là:

(1) Chính sách trợ giá nông sản

Chính phủ Thái Lan áp dụng chính sách thu mua với các loại nông sản chủ yếu như: gạo, sắn, tỏi đỏ, một số loại trái cây… Bên cạnh việc chi ngân sách bao tiêu nông sản với giá ưu đãi, Chính phủ còn cung cấp những ưu đãi cho nông dân như: mua phân bón với giá thấp, miễn cước vận chuyển phân bón, được cung cấp giống mới có năng

suất cao, được vay vốn lãi suất thấp từ ngân hàng nông nghiệp….

(2) Đẩy mạnh áp dụng khoa học – kỹ thuật trong nông nghiệp

57

Chính phủ Thái Lan đã khuyến khích, tập trung áp dụng các công nghệ tiên tiến

hiện đại như kỹ thuật chuyển gene, kỹ thuật chọn tạo; công nghệ di truyền và công nghệ nuôi cấy mô cho ra đời những giống cây ưu việt như giống lúa có khả năng chịu mặn cao, phù hợp trồng tại vùng Đông Bắc, nơi đất canh tác đang bị nhiễm mặn nghiêm trọng và nông dân đang bỏ nghề lên thành phố kiếm sống.

(3) Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật công nghệ cho nông dân

Chính phủ Thái Lan rất chú trọng đến công tác đào tạo kỹ thuật nâng cao nhận thức cho người dân. Các trường đại học (Chulalongkorn, Chiangmai…), các viện

nghiên cứu nông nghiệp (Trung tâm Nghiên cứu phát triển Phuphan) được đầu tư cơ sở vật chất, mời chuyên gia nghiên cứu nông nghiệp từ nước ngoài, cơ chế đãi ngộ cho các nghiên cứu sinh trẻ đi học tại các đại học danh tiếng tại Mỹ, Nhật… Nhiều trường

đại học, cao đẳng, trung cấp mở các khóa học tại chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực.

Trên thực tế, khoa học công nghệ tiến bộ đã được nông dân Thái Lan ứng dụng rất hiệu quả và dần trở nên phổ biến. Người nông dân Thái Lan đã thực hiện hữu cơ

hóa đất nông nghiệp bằng việc sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh và đặc biệt là sử dụng thuốc trừ sâu sinh học cải tạo đất thoái hóa, nâng cao độ màu mỡ của đất. Điều này không những làm cho việc sử dụng quỹ đất hiệu quả, giảm nhập khẩu phân bón mà còn nâng cao xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch, các khâu của quá trình sản

xuất được cơ giới hóa. Sự vào cuộc của Chính phủ, khuyến khích hỗ trợ của các nhà khoa học Thái Lan giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ sinh học trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân.

(4) Chính sách công nghiệp nông thôn

Điểm chính của chính sách này là việc tập trung phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và sản xuất nông sản, thủy hải sản phục vụ xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan cho rằng các nguồn nguyên liệu nông sản càng đa dạng, chất lượng thì ngành chế biến thực

phẩm và xuất khẩu sẽ càng phát triển. Vì vậy, Thái Lan đã triển khai chương trình “Mỗi làng, một sản phẩm” (One tambon, one product), với mục đích khuyến khích người nông dân ở mỗi vùng sản xuất được những sản phẩm mang tính đặc trưng và có chất lượng cao.

Bên cạnh đó, chương trình “Thái Lan là bếp ăn của thế giới” được triển khai nhằm khuyến khích nông dân và các nhà chế biến thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm soát chất lượng các sản phẩm nông nghiệp.

(5) Nâng cấp cơ sở hạ tầng

58

Chính phủ xây dựng và phân bố các công trình thủy lợi hợp lý. Hệ thống tưới

tiêu phải đảm bảo cung cấp đủ nước cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp trên cả nước. Bên cạnh đó, các công trình thủy điện cũng được xây dựng, vừa góp phần điều tiết nước giữa mùa khô và mùa mưa, vừa cung cấp điện năng cho các hoạt động sản xuất, thu hoạch, bảo quản, giúp đẩy mạnh quá trình cơ giới hóa nông nghiệp.

(6) Hợp đồng nông nghiệp, liên kết doanh nghiệp

Hợp đồng nông nghiệp là một mô hình ở đó các sản phẩm nông nghiệp được mang ra thị trường qua sự thỏa thuận giữa người mua và nông dân. Các thỏa thuận này

cũng đã thiết lập các điều kiện của sản phẩm và thị trường cho sản phẩm đó. Thông thường, nông dân đồng ý cung cấp một số lượng nông sản trên các tiêu chuẩn được người mua đưa ra. Người thu mua sẽ trả tiền cho sản phẩm đó, thậm chí có thể hỗ trợ

cả quá trình sản xuất như cung cấp đầu vào, cung cấp đất, giám sát kỹ thuật. Mô hình này giúp đảm bảo tính ổn định: người nông dân có một đầu ra thị trường đảm bảo, giảm rủi ro về giá cả; các doanh nghiệp thu mua có nguồn cung hàng hóa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, số lượng và thời gian.

Ở Thái Lan có 4 mô hình hợp đồng chủ yếu được sử dụng. Mỗi loại hàng hóa sẽ có hợp đồng được xây dựng theo mô hình phù hợp. Với hàng hóa như mía đường được áp dụng mô hình tập trung, hộ nông dân nhỏ và hộ nông dân lớn cung cấp mía cho các trung gian, các trung gian này cung cấp sản phẩm cho nhà máy dưới một mức hạn

ngạch do chính nhà máy đó quy định. Các tổ chức phát triển và Chính phủ sẽ điều chỉnh mối quan hệ giữa người nông dân và nhà máy, tránh trường hợp các trung gian hoạt động chỉ vì lợi nhuận của mình, gây thiệt hại cho nông dân. Còn với hàng hóa có

yêu cầu cao như thịt nướng, thịt lợn, trứng…được áp dụng mô hình thí điểm. Nhà thầu sẽ thí điểm sản xuất trước, sau đó truyền đạt công nghệ, bí quyết cho người nông dân để từ đó nhân rộng sản xuất ở nhiều nơi khác nhau. Ngoài ra còn có mô hình trung gian và đa phương. Mô hình này bao gồm nhiều bên như công ty chế biến, nông dân,

hội nhóm nông dân và các cán bộ khuyến nông và các học giả. Mô hình thứ tư là mô hình chính thức, người nông dân sản xuất ra hàng hóa sẽ cung cấp cho trung gian, các trung gian này sẽ cung cấp một phần hàng hóa cho thị trường bán lẻ trực tiếp với giá

cao hơn cho doanh nghiệp, đến khi giá thị trường giảm xuống sẽ bán phần còn lại cho doanh nghiệp với giá trong hợp đồng.

(7) Chính sách thương mại nông nghiệp

Nhằm tìm kiếm thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan trực tiếp đàm phán

với chính phủ các nước để đạt được các lợi thế cạnh tranh.

59

Còn về thu hút các nhà đầu tư, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng chính sách

khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Với các dự án FDI trong nông nghiệp được Chính phủ miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án có loại thiết bị được khuyến khích đầu tư được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, thì được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm.

(8) Vận dụng và sáng tạo những mô hình nông nghiệp

Trong sản xuất nông nghiệp thì việc có những mô hình tốt là điều vô cùng quan trọng, tác động trực tiếp đến thành công của người nông dân. Nông dân Thái Lan ngoài việc nâng cao kiến thức chăm sóc cây trồng, vật nuôi, mở rộng các kĩ năng canh

tác, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, còn tích cực tìm tòi, vận dụng và sáng tạo những mô hình nông nghiệp tiến bộ. Mô hình đặc biệt đầu tiên chính là mô hình trang trại kết hợp hỗ trợ chuyển giao kiến thức.Việc hỗ trợ chuyển giao kiến thức góp phần làm giảm những thói quen canh tác tác động xấu đến chất lượng nông sản và gây ô

nhiễm mội trường, ví dụ như bón phân hóa học…để chuyển đổi sang canh tác hữu cơ, đem lại an toàn cho chính người sản xuất và bảo vệ môi trường. Tiêu biểu nhất cho mô hình dịch vụ du lịch tại nông trại phải kể đến nông trại Chokchai nằm ở huyện Pak Chong thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima, cách Bangkok 159km.

Từ kinh nghiệm quản lý nhà nước của Thái Lan cho thấy việc xây dựng chính sách tập trung, thống nhất, bám sát thực tế là vô cùng quan trọng.. Chính phủ Thái Lan tập trung vào phát triển ngành công nghiệp chế biến – do xác định được vai trò thúc

đẩy sản xuất và cung ứng sản phẩm cho thị trường cạnh tranh ngành công nghiệp này. Các chính sách thu hút và hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là công nghiệp chế biến được kết hợp thực hiện đồng thời. Bên cạnh đó là sự tập trung vào nâng cấp cơ sở hạ tầng, vừa hỗ trợ sản xuất vừa tăng khả năng thu hút

đầu tư. Và cuối cùng là tập trung vào nguồn lực con người, các công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp được quan tâm, hỗ trợ. Trên thực tế, nguồn nhân lực chất lượng cao này đã đem lại hiệu quả thật cho nền nông nghiệp nhờ

cải tạo và mở rộng diện tích đất canh tác.

Yếu tố quyết định đến hiệu quả của chính sách không chỉ phụ thuộc vào bản thân chính sách đó, mà còn phụ thuộc rất lớn vào sự thống nhất trong thực hiện. Để tạo ra sự thống nhất đó, Chính phủ Thái Lan đã đặt ra các mục tiêu chung trong chất lượng sản

phẩm – bằng việc đưa ra bộ tiêu chuẩn ThaiGAP, đa dạng hóa sản phẩm – phát động

60

phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” và những tiêu chí trong việc đưa công nghệ tiến bộ

ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp ở mọi nơi. Mỗi một chính sách đều có sự hỗ trợ nhiều mặt, đặc biệt là ngân sách để thực hiện chứ không chỉ dừng lại ở sự kêu gọi, vận động.

2.4.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hồ Chí Minh

Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện các chương trình hành động như là địa

phương dẫn đầu trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo ở vùng Đông Nam Bộ và kết nối với Đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, thành phố Hồ Chí Minh đã bước đầu định vị được các hoạt động trong chuỗi sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC, thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện rất

nhiều các hoạt động, bao gồm:

(1) Xây dựng và vận hành Khu nông nghiệp công nghệ cao

Từ tháng 4 năm 2010, Khu Nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí

Minh đã hoàn thành giai đoạn 1 và đi vào hoạt động tại xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi. Đây là khu nông nghiệp công nghệ cao đầu tiên của cả nước đi vào hoạt động. Khu nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 88,17 ha, trong đó có 56,53 ha dành để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư. Đến nay đã có 14 dự án

được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại khu nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố. Tính đến năm 2019 có 13 doanh nghiệp đầu tư vào khu NNCNC, trong đó 10 doanh nghiệp đang có hoạt động SXKD sử dung 450 lao động (Tô Thị Thùy Trang, 2020).

Ngoài diện tích dành để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư, Khu nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh có 4 đơn vị trực thuộc bao gồm: (1) Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao; (2) Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông nghiệp công nghệ cao; (3) Trung tâm khai thác hạ tầng; (4) Trung tâm dạy

nghề nông nghiệp công nghệ cao. Các đơn vị này đã thực hiện có hiệu quả các chức năng cơ bản là hỗ trợ, tác động và dẫn dắt, quảng bá cách làm nông nghiệp công nghệ cao thông qua các hoạt động trình diễn và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, tập huấn,

đào tạo, nghiên cứu ứng dụng, xây dựng mô hình trình diễn, khảo nghiệm giống và cung cấp giống chất lượng tốt có chọn lọc cho nông dân, thị trường. Bên cạnh đó, Ban Quản lý Khu nông nghiệp CNC thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp ươm tạo kết nối với các siêu thị lớn như BigC, Coopmart để giới thiệu và phân phối nguồn sản phẩm; tư vấn

hoàn thiện hồ sơ thành lập Doanh nghiệp KHCN cho các doanh nghiệp, hỗ trợ đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu cho các doanh nghiệp ươm tạo (Tô Thị Thùy Trang, 2020).

61

Khu nông nghiệp công nghệ cao đang triển khai các dự án xây dựng mới, mở

rộng nông nghiệp công nghệ cao (mở rộng 200 ha, tại Khu Nông nghiệp công nghệ cao hiện hữu; Khu Nông nghiệp công nghệ cao ngành thủy sản tại xã Long Hòa, huyện Cần Giờ với qui mô 90 ha; khu Nông nghiệp công nghệ cao ngành trồng trọt và sau thu hoạch tại xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi với qui mô 23,3 ha; khu Nông nghiệp công nghệ cao ngành Chăn nuôi tại xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, qui mô từ 150 – 180 ha).

(2) Thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai

Theo Ban quản lý Khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM, doanh nghiệp đầu tư vào khu nông nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi của Thành phố quy định đối với Khu nông nghiệp CNC cũng như các quy định chung của Nhà nước về ưu đãi

đối với các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Doanh nghiệp, nhà đầu tư có dự án nông nghiệp CNC được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước đến 11 năm đầu kể từ ngày dự án hoàn thành đi vào hoạt động. Đối với dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi, ưu đãi đầu tư, dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư thì được miễn tiền thuê đất đối với

phần diện tích cho: Đất xây dựng nhà ở cho công nhân, đất trồng cây xanh, đất phục vụ phúc lợi công cộng. Thành phố Hồ Chí Minh tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho các Khu nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp đầu tư vào khu chỉ trả tiền thuê đất nông nghiệp theo quy định (không tính chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng). Thời

hạn thuê đất được cơ quan có thẩm quyền xác định tùy theo từng dự án cụ thể, tối đa là 50 năm. Hiện tại, tiền thuê đất được áp dụng là 1.140 đồng/m2/năm.

(3) Thực hiện các chính sách hỗ trợ đầu tư

Đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư,

ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư được ngân sách Thành phố hỗ trợ như sau:

Được hỗ trợ 70% kinh phí đào tạo nghề trong nước. Mỗi người lao động chỉ

được hỗ trợ đào tạo một lần trong thời gian đào tạo không quá 6 tháng.

Thành phố hỗ trợ 50% chi phí quảng cáo của doanh nghiệp, chi phí quảng cáo sản phẩm của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng; 50% kinh phí tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước; được giảm 50% chi phí tiếp cận

thông tin thị trường và chi phí dịch vụ từ các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà nước. Được hỗ trợ chi phí vận chuyển sản phẩm, tương ứng với mức 1.500 đồng/tấn/km.

62

Hỗ trợ không quá 60% chi phí với tổng mức hỗ trợ không quá 5 tỷ đồng/dự án

để xây dựng cơ sở hạ tầng, xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua sắm trang thiết bị trong hàng rào của dự án.

Hỗ trợ không quá 70% chi phí xử lý chất thải để đảm bảo môi trường cho các nhà máy chế biến nông, lâm, thủy sản có quy mô lớn, đầu tư, sử dụng nhiều lao động, có ảnh hưởng, tác động lớn đến kinh tế, xã hội địa phương. Ngoài ra còn được hỗ trợ thêm 70% chi phí và tổng mức hỗ trợ không quá 5 tỷ đồng/dự án để đầu tư xây dựng các hạng mục trên nếu dự án chưa có đường giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp

thoát nước đến hàng rào dự án.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp chỉ phải đóng 50% chi phí duy tu bảo dưỡng hạ tầng theo quy định, được đóng hàng năm và ổn định trong 5 năm. Riêng đối với doanh

nghiệp thực hiện dự án nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ (không thực hiện hoạt động sản xuất) hoặc đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ cho yêu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì được miễn tiền duy tu bảo dưỡng hạ tầng. Phí duy tu, bảo dưỡng hạ tầng (nhà đầu tư chỉ nộp 50%) tương ứng với

số tiền là 7.752.000 đồng/ha/năm. Doanh nghiệp được hỗ trợ thủ tục thẩm định phê duyệt chủ trương đầu tư, thủ tục thuê đất, quy hoạch xây dựng. Khi doanh nghiệp đi vào hoạt động, sẽ được hỗ trợ các thủ tục về thuế, cung ứng nguồn nhân lực, thủ tục xuất nhập khẩu máy móc công nghệ.

(4) Tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn của các doanh nghiệp

Ngoài các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hiện Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) có 4 Quyết định của Ủy ban Nhân dân thành phố đang còn hiệu lực thi hành

liên quan đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động. Ngày 12/2/2018 Ủy ban Nhân dân TP HCM đã ban hành Quyết định số 655/QĐ-UBND quy định hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 10/2017/NQ-HĐND ngày 7/12/2017 của HĐND Thành phố về ban hành quy định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô

thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2017 - 2020.

Điểm chung của các chính sách này là thành phố sẵn sàng đầu tư và hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp nông nghiệp cũng như khuyến khích hình thành các hợp tác xã nông nghiệp, nhất là mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, để tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn vay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố đề xuất Ngân hàng Nhà nước triển khai một số mô hình cho vay tại thành phố Hồ Chí Minh theo cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Cụ thể đầu năm 2018, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

63

thôn thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội nghị kết nối ngân hàng với doanh nghiệp nhằm tháo gỡ những bất cập trong vấn đề thế chấp với các ngân hàng của các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Sở NN&PTNT thành phố Hồ Chí Minh cũng tiếp tục mở các khóa đào tạo nhân lực, kỹ năng sản xuất công nghệ… để nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp khởi nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh tốt có thể tiếp cận vốn vay dễ hơn.

Doanh nghiệp đầu tư trong khu nông nghiệp công nghệ cao được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn với lãi suất ưu đãi của các ngân hàng, quỹ tín dụng. Đối với các dự án đầu tư có chuyển giao công nghệ cao, sản xuất sản phẩm công nghệ cao phù hợp Danh mục công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao theo quy định hiện hành sẽ được ngân sách thành phố hỗ trợ toàn bộ lãi suất vay vốn.

2.4.5. Bài học đối với Hà Nội trong quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Thứ nhất, cần làm tốt công tác quy hoạch và xây dựng chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Có thể thấy, qua phân tích kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao của các nước trên thế giới, đặc biệt đối với Trung Quốc và tại thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam cho thấy Hà Nội có thể rút ra bài học muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao phải làm tốt khâu quy hoạch phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao; phân loại các khu để tập trung nguồn lực, các cơ chế chính sách, phát triển và ứng dụng công nghệ lan tỏa đến người nông dân. Xây dựng được một mạng lưới tương đối hoàn chỉnh hệ thống các loại hình nông nghiệp công nghệ cao trong phạm vi toàn quốc với các chủ thể đầu tư, qui mô, phạm vi, đối tượng sản xuất khác nhau tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể.

Thứ hai, tập trung xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Qua kinh nghiệm của Trung Quốc hay của Israel, một số tỉnh trong nước như thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy Chính phủ các nước này đều xây dựng và ban hành nhiều cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Như Chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp gia tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ cập KHCN, các chính sách để làm tốt công tác qui hoạch sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp. hạ tầng về thủy lợi, về giống cây trồng vật nuôi, xây dựng các cơ sở vật chất để kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa nông sản, ưu đãi và hỗ trợ nông dân tiếp cận với các máy móc cơ khí hóa nông nghiệp…; hay tại Israel là chính sách đẩy mạnh đầu tư và thu hút khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chính sách liên kết 5 nhà…. Xây dựng chính sách tập trung, thống nhất, bám sát thực tế, thực hiện nghiêm chỉnh và

64

hỗ trợ người nông dân tự phát triển kiến thức, kĩ năng của mình. Nước ta đã thực bước vào cánh cửa hội nhập, nông nghiệp Việt Nam có tận dụng được cơ hội này để phát triển, mở rộng thị trường hay không cần sự cố gắng đến từ cả hai phía Nhà nước và bản thân người nông dân Việt như tại Thái Lan. Đây là một số kinh nghiệp hay mà Việt Nam, Hà Nội có thể nghiên cứu, áp dụng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ ba, cần quyết liệt trong tổ chức thực hiện các quy hoạch, chương trình, chính sách. Trong tổ chức thực hiện ta thấy, đối với Israel thành lập riêng một bộ chuyên trách để tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giải quyết các vấn đề trong quá trình thực hiện quy hoạch, các cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Đối với Việt Nam hiện nay nhiệm vụ này được giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện phát triển nông nghiệp nói chung, UBND các tỉnh, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện trên địa bàn các tỉnh. Tuy nhiên cũng cần nghiên cứu có bộ phận chuyên sâu, chuyên trách phát triển về nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung triển khai, nhân rộng, đào tạo kiến thức, kĩ năng của người dân tuy được nâng cao nhưng nhiều nơi vẫn tồn tại phương thức sản xuất lạc hậu để triển khai các cơ chế, chính sách. Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc phổ biến kiến thức, kĩ năng, ứng dụng công nghệ cho nông dân là rất hữu ích đối với Hà Nội.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm soát đánh giá và điều chỉnh kế hoạch, chương trình, các chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho phù hợp với thực tế. Có thể thấy các mô hình của Trung Quốc, của Israel, các cơ chế chính sách được xây dựng, ban hành và liên tục cập nhật điều chỉnh, điều này có nghĩa trong quá trình triển khai thực hiện các quy hoạch, chương trình, các cơ chế chính sách luôn được hướng dẫn, triển khai, giám sát thường xuyên, đặc biệt là có đánh giá để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển. Mặc khác Chính phủ bất cứ nước nào thì cũng phải thực hiện công tác quản lý nhà nước của mình, phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách đó. Ở Israel thì giao tập trung cho một Bộ chuyên trách làm việc này, Tại Trung Quốc ngoài sự kiểm soát của Chính phủ còn giao cho Chính quyền các địa phương. Hà Nội có thể áp dụng cả 2 mô hình này và thực tế hiện nay đang do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các cấp kiểm soát, đánh giá.

65

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

3.1. Bối cảnh nghiên cứu

3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước. Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp phía bắc với các tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc; Hà Nam - Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang- Bắc

Ninh- Hưng Yên ở phía Đông và phía Tây là Hòa Bình - Phú Thọ (Cổng thông tin điện tử Thành phố Hà Nội). Diện tích tự nhiên của Hà Nội (số liệu 01/01/2019) là 335.859 ha, tổng dân số năm 2019 là 8.093,9 nghìn người (Niên giám thống kê Hà Nội, 2020).

Hà Nội có 30 đơn vị hành chính bao gồm 12 quận nội thành, 17 huyện ngoại thành và 01 thị xã. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 10,7% trong giai đoạn 2006- 2010, giai đoạn 2010-2018 trên 7%, trong đó ngành nông nghiệp đóng góp từ 2-3%.

Về phát triển kinh tế: Các ngành kinh tế đều phát triển, quy mô kinh tế ngày

càng được mở rộng. Tái cơ cấu kinh tế được tập trung thực hiện, tăng trưởng kinh tế đạt mức khá. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm sau cao năm trước: năm 2016 đạt 8,20%, năm 2017 đạt 8,48%, năm 2018 đạt 8,46%; năm 2019 đạt

8,65% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 7,3% của giai đoạn 2011-2015), dự kiến tính chung cả giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng đạt 8,51%. Theo cách tính mới, GRDP bình quân 2016-2018 tăng 7,28% (2016 tăng 7,15%, 2017 tăng 7,31%, 2018 tăng 7,12%).

Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành (cách tính cũ), GRDP năm 2018 đạt 732,01

nghìn tỷ đồng (tương đương 31,83 tỷ USD), tăng gấp 1,34 lần quy mô GRDP năm 2015. GRDP bình quân/người tăng từ 3.660 USD/người năm 2015 lên 4.080 USD/người năm 2018 (tăng 420 USD), tăng gấp 1,12 lần năm 2015 (Theo cách tính mới GRDP năm 2018

đạt 904.460 tỷ đồng; GRDP/người đạt 113 triệu đồng, tương đương 4.910 USD).

Cơ cấu kinh tế các ngành: dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp năm 2015 tương ứng là 66,87%; 29,68%; 3,44%, năm 2019 tương ứng như sau 67,41%; 31,01% và 2,58%. Năng suất lao động năm 2016 đạt 159,8 triệu đồng/lao động; năm

2017 đạt 175,1 triệu đồng/lao động; năm 2018 đạt 190,9 triệu đồng/lao động (Theo cách tính mới tương ứng là: 200,6 triệu đồng/lao động; 219,1 triệu đồng/lao động; 235,8 triệu đồng/lao động). Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2016 tăng

66

8,1%, năm 2017 tăng 8,1% và năm 2018 tăng 6,5%, trung bình 3 năm 2016-2018 tăng

7,6%/năm (Theo cách tính mới tương ứng là: 7,1%; 6,9%; 5,3% và trung bình đạt 6,4%).

Giá trị gia tăng trung bình ngành dịch vụ 03 năm 2016-2018 ước tăng 8,6% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 7,0% của giai đoạn 2011-2015); Tính theo cách tính mới đạt 6,89%. Thương mại phát triển ổn định, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tăng trung bình 10,26%/năm. Thương mại điện tử phát triển mạnh, hiện doanh thu thương mại điện tử chiếm khoảng 7,0% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (tăng 2,0% so với năm 2017). Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng khá, năm

2018 dự kiến đạt 14,23 tỷ USD, gấp 1,36 lần năm 2015, trung bình 3 năm 2016-2018 tăng 10,76%/năm (giai đoạn 2011-2015 tăng trung bình 5,5%).

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Thành phố Hà Nội 2011-

KH

Ghi

Đơn vị

TT

2016

2017

2018

2019

Chỉ tiêu

tính

2015

2020

chú

1 Tăng trưởng GRDP

%

7.15

7.31

7.37

7,4-7,6 7,4-7,6

- Dịch vụ

%

%

6.75

6.68

7.23

7,1-7,3 7,1-7,3

+ Hoạt động ngành dịch vụ

%

6.93

8.11

7.03

8,3-8,4 8,3-8,4

+ Thuế SP trừ trợ cấp SP

- Công nghiệp - xây dựng

%

8.73

9.47

8.23

8,5-8,7 8,5-8,7

%

7.14

8.53

7.80

+ Công nghiệp

%

13.02

11.88

9.31

+ Xây dựng

- Nông nghịêp

%

3.22

2.19

3.33

2,5-3,0 2,5-3,0

2 Cơ cấu ngành kinh tế

%

100

100

100

100

100

- Dịch vụ

%

67,41

68.4

68.1

68.1

68-68,2 68-68,2

+ Hoạt động ngành dịch vụ

%

+ Thuế NK và thuế SP trừ trợ

6.8

6.9

6.8

6,7-6,9 6,7-6,9

%

cấp SP

- Công nghiệp - xây dựng

%

22.50

23.00

23.00

31.01 22,9-23,2

- Nông nghịêp

%

2.30

2.00

2.10

2.58

1,9-2,1

Triệu đồng

113,00

3 GRDP bình quân/người/năm

99.97 107.68

118-120 126-129

(USD)

(4.910)

376,56-

416,00-

4 Huy động vốn đầu tư xã hội

1.000 tỷ đ. 1.054,33 278.88 308.22 340.78

378,26

417,97

Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông

5

%

52,07

66.1

76.2

83.9

91.7

thôn mới

Nguồn: Báo cáo qua các năm của UBND thành phố Hà Nội

67

3.1.2. Về đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016- 2020) của thành phố Hà Nội đã được HĐND Thành phố thông qua (nghị quyết số 12/2015/NQ-HĐND ngày 02/12/2015). Kế hoạch sử dụng đất theo từng năm của

Thành phố là định hướng để các địa phương xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm.

Căn cứ các nghị quyết của HĐND thành phố Hà Nội thông qua danh mục các công trình, dự án thu hồi đất; dự án chuyển đổi mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ,

rừng đặc dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thông qua các nghị quyết của HĐND Thành phố, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm cho 30/30 quận, huyện, thị xã. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của các quận, huyện, thị xã được tổng hợp và cập nhật vào kế hoạch sử dụng đất năm của Thành phố.

Đơn vị tính: ha

Bảng 3.2: Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối phân theo năm của thành phố Hà Nội

STT

Chỉ tiêu sử dụng đất

Năm hiện trạng

(1)

(2)

(4)

2016 (5)

Các năm kế hoạch 2018 (7)

2019 (8)

2017 (6)

2020 (9)

335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99 335 891,99

Tổng diện tích tự nhiên

(3)

NNP 197 795,43 194 561,77 191 799,80 186 739,03 181 388,45 174 428,53

1 Đất nông nghiệp

Trong đó:

1.1 Đất trồng lúa

LUA 111 267,50 109 028,96 107 381,49 102 947,89 98 841,16 95 002,76

LUC 102 245,65 100 865,58 99 809,35 96 914,75 94 424,91 92 000,00

Trong đó: Đất chuyên trồng lúa nước

1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 25 585,72 24 069,53 23 209,78 20 694,79 18 696,63 15 551,03

1.3 Đất trồng cây lâu năm

CLN 20 197,14 19 865,68 19 216,31 19 054,52 18 335,29 17 256,85

1.4 Đất rừng phòng hộ

RPH 4 706,56

4 779,41

4 757,51

6 018,45

7 444,53

8 970,00

1.5 Đất rừng đặc dụng

RDD 10 289,16 10 289,16 10 309,72 10 560,32 11 094,22 11 178,40

1.6 Đất rừng sản xuất

RSX 7 284,46

7 419,60

7 583,17

7 480,12

6 974,41

6 507,99

1.7 Đất nuôi trồng thủy sản

NTS 13 614,25 14 025,30 13 881,16 14 671,45 14 848,19 14 894,71

2 Đất phi nông nghiệp

PNN 131 831,68 135 384,97 138 335,16 144 779,53 151 612,20 159 716,22

CSD 6 264,89

5 945,26

5 757,04

4 373,44

2 891,35

1 747,25

3 Đất chưa sử dụng

KDT 41 121,66 41 564,98 42 021,24 42 516,82 43 044,87 43 606,51

4 Đất đô thị*

Nguồn: Quy hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối 2016-2020 thành phố Hà Nội

Đến năm 2020, Thành phố có 174.428,53 ha đất nông nghiệp cao hơn 22.183,49 ha so với kế hoạch được duyệt. Là thủ đô của cả nước nhưng nông nghiệp vẫn có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực, ổn định xã hội, đặc biệt

68

đối với những địa bàn có dân số đông. Mặc dù giá trị sản xuất ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng không lớn (năm 2019 khoảng 2%) trong tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn (GRDP), nhưng nông nghiệp Hà Nội vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực cho khoảng 8 triệu dân cư (số liệu năm 2019) trên địa bàn. Diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội vẫn chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng diện tích tự nhiên của toàn Thành phố. Tính đến 01 tháng 01 năm 2019, tổng diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội là 195.782 ha chiếm 58,3% tổng diện tích đất tự nhiên của Thành phố (Niên giám thống kê Hà Nội, 2020). Chi tiết về diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội được trình bày tại Bảng 3.3

Bảng 3.3. Thực trạng đất nông nghiệp của Hà Nội, 01/01/2019

Chỉ tiêu Diện tích (ha) Cơ cấu (%)

Tổng diện tích đất nông nghiệp 195.872 100,0

Đất sản xuất nông nghiệp 154.218 78,7

Đất lâm nghiệp có rừng 22.250 11,4

Đất nuôi trồng thủy sản 14.207 7,3

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020 Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Hà Nội là 154.218 ha, chiếm 78,7% trong tổng diện tích đất nông nghiệp và chiếm 45,9% trong tổng diện tích đất tự nhiên của Thành phố. Tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp trong tổng diện tích đất tự nhiên của Hà Nội (45,9%) cao hơn tỷ lệ bình quân chung của vùng đồng bằng sông Hồng (37,2%) và của cả nước (34,7%). Giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp thủy sản của Hà Nội luôn tăng trưởng và phát triển ổn định. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2010-2018 tăng trưởng bình quân đạt 3,34%/năm (Thành ủy Hà Nội, 2019). Nếu tính trong giai đoạn 2015-2015, tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản của Hà Nội đạt 3,40%/năm (Bảng 3.4).

Đất nông nghiệp khác 5.197 2,7

Bảng 3.4. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của Hà Nội, 2015-2019

Cơ cấu (%)

Năm 2015 2016 2017 2018 2019

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020

Tốc độ phát triển bình quân (%) Giá trị (Tỷ đồng) 17.112 18.204 17.511 19.016 19.559 103,40 2,54 2,49 2,17 2,15 2,02 -

69

Nông nghiệp Hà Nội vẫn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế và

ổn định xã hội của Thành phố còn do dân cư nông thôn ở Hà Nội còn tương đối nhiều, tỷ lệ lao động nông vẫn còn tương đối lớn (Bảng 3.5).

3.1.3. Về đặc điểm dân số và lao động của thành phố Hà Nội

Tỷ lệ dân cư nông thôn của Hà Nội chiếm khoảng 51%, trong khi tỷ lệ lao động nông thôn chiếm khoảng 56% trong tổng lực lượng lao động. Thực tế cho thấy phần lớn dân cư và lao động nông thôn chủ yếu vẫn sinh sống dựa vào nông nghiệp.

Vì vậy, nâng cao thu nhập cho dân cư và lao động nông thôn luôn là nhiệm vụ hàng đầu để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững và ổn định xã hội. Bên cạnh đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Hà Nội ngày càng có xu hướng giảm, năm 2019 diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm so với năm 2018 là 443 ha (Niên giámThống

kê Hà Nội, 2020).

Vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích và tăng thu nhập cho dân cư và

lao động nông thôn là việc làm cần thiết đối với Hà Nội. Điều này được thể hiện qua bảng dưới đây:

Bảng 3.5. Cơ cấu dân số, lao động nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội, 2015-2019

Tỷ lệ dân số nông Tỷ lệ lao động nông Tỷ lệ lao động nông Năm thôn (%) thôn (%) nghiệp (%)

2015 50,9 55,3 19,7

2016 50,8 55,0 17,4

2017 50,8 55,9 16,6

2018 50,7 56,2 14,2

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020

2019 50,6 55,5 12,1

Bên cạnh đó, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước với dân số

khoảng 10 triệu dân và hàng năm Hà Nội đón rất nhiều khách du lịch, trong đó khách du lịch quốc tế tới gần chục triệu người, do đó nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm) của Hà Nội là rất lớn. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Hà Nội chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Theo tính toán, hiện nay sản

70

xuất nông nghiệp của Hà Nội mới đáp ứng được 65,6% nhu cầu gạo, 65,1% rau củ

tươi, 19,3% thịt bò, trâu, 94,2% trứng gia cầm. Đây có thể là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đang có dự định đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội.

Bảng 3.6. Dự báo lao động thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030

Năm 2013

Năm 2015

Năm 2020

Năm 2030

Hạng

Tỉ lệ (%)

Tỉ lệ (%)

Tỉ lệ(%)

Tỉ lệ (%)

Số dân (1.000 người)

Số dân (1.000 người)

Số dân (1.000 người)

Số dân (1.000 người)

1. Dân số

7 128,3 100,0

7 383,1 100,0

7 956,0

100,0

9 135,5

100,0

2. Lao động trong độ tuổi

4 669,0

65,5

4 872,9

66,0

5 346,4

67,2

121,3

67,0

3 765,4 100,0

4 032,8

100,0

5 264,3

100,0

3 681,0 100,0

3. Dân lao động tham gia ngành kinh tế

1 333,4

36,2

1 129,6

30,0

967,9

24,0

894,9

17,0

- Nông nghiệp

- Công nghiệp-xây dựng

1 204,9

32,0

1 290,5

32,0

1 947,8

1 094,1

29,7

37,0

- Dịch vụ

1 430,9

38,0

1 774,5

44,0

2 421,6

1 253,5

34,1

46,0

Nguồn: QH chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

3.2. Cách tiếp cận, phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu

3.2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu

Nhằm đạt được các mục tiêu và nội dung đề ra, nghiên cưu sinh đã áp dụng một

số tiếp cận sau đây:

- Tiếp cận hệ thống Cách tiếp cận này dựa trên những phân tích, đánh giá tổng thể mối quan hệ giữa quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC với các bên liên quan. Đặc biệt, nghiên cứu sinh tiếp cận phát triển nông nghiệp công nghệ cao dưới góc nhìn đa chiều vừa tăng lên về số lượng các dự án, các khu/vùng nông nghiệp CNC và sự thay đổi về chất đối với ngành nông nghiệp của Hà Nội cũng như sự thay đổi về cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp qua tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp CNC trong tổng giá trị sản lượng ngành nông nghiệp. - Tiếp cận thể chế Tiếp cận thể chế nghiên cứu về chính sách và các ảnh hưởng của cơ chế chính sách đến các chủ thể có liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC. Dựa trên cách tiếp cận này, nghiên cứu sinh làm rõ quá trình tổ chức thực thi chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội để tìm ra những điểm chưa phù hợp của các cơ chế và chính sách này để trên cơ sở đó sẽ đưa ra các chính sách thích hợp và hiệu quả nhằm tăng cường quản lý nhà nước với phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố.

71

- Tiếp cận phân tích chính sách Dựa trên tiếp cận này các chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp CNC sẽ được xem xét dưới các góc độ: ban hành chính sách, chỉ đạo thực hiện chính sách và thực thi chính sách, đánh giá kết quả và hiệu quả của thực hiện chính sách vào thực tiễn. Trên cơ sở đó chỉ ra khoảng trống, sự thiếu hụt và bất hợp lý giữa chính sách ban hành và quá trình thực thi chính sách thu hút khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua.

- Tiếp cận kinh tế - xã hội Theo tiếp cận này, phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ được xem xét dưới cả hai góc độ đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội để hướng tới phát triển nền nông nghiệp CNC bền vững.

- Tiếp cận theo kết quả Dựa vào tiếp cận này các quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội được xem xét dưới 3 nội dung chính như bảng dưới đây và được đánh giá dựa vào kết quả phát triển nông nghiệp CNC sau một quá trình

tổ chức thực thi chính sách. Cụ thể như hình dưới đây:

Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC

Nội dung của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC Xây dựng quy hoạch, chương trình, chính sách

Mục tiêu, kết quả của quản lý nhà nước về phát triển NN CNC Đảm bảo thực hiện chủ trương của Đảng, nhà nước về phát triển NNCNC Số lượng, quy mô phát triển nông nghiệp CNC

Nhóm nhân tố liên quan đến đặc điểm KTXH, xu hướng phát triển của ngành nông nghiệp; xu hướng tiêu dùng và sự phát tiển của KHCN

Sự phù hợp của chính sách

Tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách Kiểm soát thực hiện & khắc phục các thất bại của thị trường

Nhóm nhân tố thuộc về cơ quan quản lý nhà nước: năng lực thái độ của cán bộ; sự phối hợp của các chủ thể tham gia phát triển NNCNC

Nguồn: Tác giả thiết kế.

Hình 3.1. Khung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC

72

3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 3.2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

Các số liệu thứ cấp được thu thập thông qua các nguồn chính như: Các báo cáo, văn bản chính sách của Chính phủ và của thành phố Hà Nội, chuyên đề hội thảo, kỷ yếu hội thảo, sách, báo và từ internet liên quan đến thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao nhằm làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên

cứu. nguồn dữ liệu thứ cấp chính là các thông tin, tài liệu về quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội; các số liệu báo cáo của UBND thành phố Hà Nội, sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội;

kết quả xây dựng quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền thành phố Hà Nội; sự phù hợp của quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Để thu thập số liệu thứ cấp, tác giả thiết kế các biểu mẫu báo cáo cho các đơn vị, tổng hợp, phân tích trên cơ sở báo cáo của các ngành về phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Số liệu và thông tin thứ cấp được tổng hợp và xử lý bằng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk study). 3.2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:

Số liệu sơ cấp được thu thập qua phỏng vấn và khảo sát tại các huyện của thành

phố Hà Nội, bao gồm: Đan Phượng, Mỹ Đức, Thanh Oai, Gia Lâm, Mê Linh, Thường Tín, Quốc Oai, Ứng Hòa. Nghiên cứu sinh lựa chọn các huyện này dựa trên các sản phẩm nông nghiệp CNC mà mỗi huyện đã xây dựng và phát triển trong thời gian qua. Trong các huyện này, Đan Phượng, Gia Lâm, Mê Linh, Ứng Hòa là các huyện có các

mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đại diện cho lĩnh vực trồng trọt (rau, hoa), Thanh Oai có mô hình chăn nuôi, Thường Tín có mô hình nuôi trồng thủy sản, Mỹ Đức có mô hình trồng nấm. - Thu thập dữ liệu qua phỏng vấn:

Tác giả tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia (các nhà nghiên cứu chính

sách, các nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp); cán bộ lãnh đạo các cấp, sở, ngành của thành phố Hà Nội (HĐND, UBND, Sở NN&PTNT Hà Nội…); các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân tham gia thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Mục đích phỏng vấn chuyên gia để nhận diện được hết những khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao; việc xây dựng

73

quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, sự phù hợp

của quy hoạch, chương trình, của chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó xin ý kiến về xác định các tiêu chí đo lượng sự phù hợp của quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao làm cơ sở để thiết kế trong phiếu hỏi.

Ngoài ra, tác giả tiến hành phỏng vấn thêm các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân nằm trong vùng sản xuất chuyên canh tập trung, vùng , khu quy hoạch, mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội để tìm hiểu về những khó khăn

trong tiếp cận chính sách và triển khai các chính sách phát triển nông nghiệp CNC. Nghiên cứu sinh đã chọn mẫu theo hình thức thuận tiện có tính đến việc đảm bảo đa dạng các loại hình doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình trên mỗi lĩnh vực của sản xuất

nông nghiệp. Những người phỏng vấn là lãnh đạo các doanh nghiệp, HTX, chủ hộ, cán bộ lãnh đạo các sở, ngành. Tất cả các doanh nghiệp, HTX hoạt động ít nhất 3 năm. Với cách thức chọn mẫu này có thể đảm bảo được tính đại diện cho tổng thể.

Căn cứ vào khung nghiên cứu, tác giả tiến hành thiết kế lưới hướng dẫn phỏng

vấn sâu, trong đó sẽ định hình trước các thông tin cần thu thập.

Bảng 3.7. Tổng hợp số lượng mẫu phỏng vấn sâu

STT Đối tượng khảo sát Số lượng

1 Cán bộ, chuyên gia cấp sở, ban, ngành, huyện 8

2 Đại diện các các cơ sở (doanh 7

nghiệp, HTX) tham gia sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.

3 Đại diện các mô hình nông nghiệp công nghệ cao 3

18 Tổng

Nguồn: tác giả tổng hợp, 2019

Toàn bộ nội dung các cuộc phỏng vấn được ghi chép cẩn thận và đầy đủ. Kết quả tổng hợp lại thành quan điểm chung đối với quản lý nhà nước về phát triển nông

nghiệp công nghệ cao của chính quyền Hà Nội. Quá trình phỏng vấn sẽ tìm hiểu được những thông tin phản hồi, phản ánh của các cán bộ quản lý, doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn

Hà Nội về các vướng mắc trong công tác xây dựng quy hoạch, chương trình, chính sách; trong công tác tổ chức thực thi, kiểm soát việc thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp CNC.

- Thu thập dữ liệu sơ cấp bằng khảo sát qua bảng hỏi:

74

Bên cạnh phỏng vấn, NCS đã tiến hành khảo sát bảng hỏi với các đối tượng bao

gồm: 1) Chủ doanh nghiệp, những cán bộ chuyên trách (tài chính, kỹ thuật, thị trường, nhân sự…) của doanh nghiệp là đối tượng đại diện cho nhóm trực tiếp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao; 2) Cán bộ tại các địa phương những người liên quan đến lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của địa phương; 3) Các hộ gia đình/nhóm hộ gia đình/hợp tác xã/trang trại là những đối tượng có quy mô sản xuất nông nghiệp lớn và có tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội.

Các dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua cuộc khảo sát bằng bảng hỏi được

chia làm 02 nhóm đối tượng: Doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân được tiếp cận và chưa được tiếp cận với quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội.

Mục tiêu của khảo sát qua bảng hỏi: Kết quả điều tra sẽ là cơ sở cung cấp thông tin định lượng để phân tích, đánh giá kết quả thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá những khó khăn, vướng mắc trong xây dựng quy hoạch, chương trình, trong tổ chức

thực hiện, kiểm soát việc thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các phiếu điều tra trước khi được nhập vào máy sẽ được kiểm tra để phát hiện sai sót, tiếp theo được xử lý bằng các phần mền SPSS, Excel để tạo ra các bảng thống kê phục vụ phân tích, đánh giá.

Đối tượng khảo sát và phương pháp chọn mẫu: Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình cá nhân nằm trong vùng sản xuất chuyên canh tập trung, vùng, khu quy hoạch, mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội. Việc

chọn mẫu phải đảm bảo đa dạng các loại hình doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình trên mỗi lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp.

Để thực hiện việc thu thập dữ liệu, tác giả đã tiến hành phối hợp với Hội Nông dân, Sở NN&PTNT Hà Nội là những đơn vị liên quan đến ngành sản xuất nông

nghiệp, có hệ thống cán bộ theo dõi lĩnh vực nông nghiệp về cách thức phát và thu thập phiếu câu hỏi theo phương pháp thuận tiện. Để có thể tăng phản hồi, tất cả các phiếu điều tra đều được in màu cùng với nội dung cảm ơn sự cộng tác. Sau khi thu

thập dữ liệu từ các khu vực, tác giả liên hệ kiểm tra xác suất để đo độ tin cậy của dữ liệu thu thập được. Các thông tin thu thập được từ cán bộ quản lý các sở, ngành; doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân đảm bảo được hầu hết các yêu cầu cần thiết của khung chọn mẫu. Để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập và thông tin đáp ứng đúng mục

tiêu nghiên cứu, các đối tượng trả lời phiếu phải là cán bộ lãnh đạo các phòng, ban,

75

ngành theo dõi lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp, giám đốc hoặc lãnh đạo các doanh

nghiệp, HTX, chủ hộ tham gia sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Đối tượng được khảo sát làm việc ở các sở, ngành liên quan đến sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, cá nhân phủ kín đầy đủ các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trên các vùng, địa bàn khác nhau của thành phố Hà Nội.

Thời gian điều tra được thực hiện từ tháng 12/2019 đến tháng 4/2020. Số phiếu phát ra là 250 phiếu, thu về 202 phiếu, tỷ lệ phản hồi đạt 80,8%, trong đó có 57 phiếu trả lời đến từ các cơ quan quản lý nhà nước và 145 phiếu đến từ các bên thụ hưởng

chính sách, với cơ cấu cụ thể như bảng dưới đây.

Bảng 3.8. Thông tin về đối tượng trả lời phiếu điều tra

STT Đối tượng khảo sát bằng phiếu

Số lượng Tỷ lệ %

Lãnh đạo các Sở, ngành

5

8%

1

Cán bộ thuộc các sở ban ngành của thành phố

19

33,3%

Cán bộ thuộc các quận huyện

33

58,7%

57

100%

Tổng số phiếu đến từ các cơ quan quản lý ở địa phương

2

Lãnh đạo các doanh nghiệp

7

3,2%

Chủ nhiệm và thành viên các HTX

18

10,3%

Chủ hộ kinh doanh

112

76,2%

Chủ mô hình

18

10,3%

145

100%

Tổng số phiếu đến từ đối tượng thụ hưởng chính sách

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phương pháp phát triển thang đo: Hầu hết các thang đo trong nghiên cứu đều được kế thừa từ các nghiên cứu trước và đã được sàng lọc, điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh, phạm vi nghiên cứu tại Hà Nội. Việc điều chỉnh này được thực hiện thông

qua các ý kiến chuyên gia có kinh nghiệm đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Tất cả các thang đo được thiết kế đều sử dụng thang Likert với 1 là mức đánh giá thấp nhất và 5 là mức đánh giá cao nhất. Do đó, điểm đánh giá mức độ phù hợp được xác định theo các khoảng sau đây:

1 - 1,8: Mức độ phù hợp quá thấp.

76

1,81 - 2,6: Mức độ phù hợp thấp.

2,61 - 3,4: Mức độ phù hợp trung bình.

3,41 – 4,2: Mức độ phù hợp cao.

4,21 – 5,0: Mức độ phù hợp rất cao.

Nhằm đảm bảo chất lượng dữ liệu thu thập được sử dụng cho nghiên cứu, việc thiết kế bảng hỏi được thực hiện theo một quy trình khoa học, chặt chẽ theo

các bước sau:

- Xác định khái niệm của các biến và thang đo lường các biến trong mô hình

nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu trước đây và kết quả phỏng vấn.

- Điều tra thử mẫu nhỏ với mục đích hoàn thiện bảng hỏi để đảm bảo sự chính

xác và dễ hiểu.

- Hoàn chỉnh bảng hỏi với hình thức trang trọng, tất cả bảng hỏi được in trên

khổ giấy A4.

Ngoài ra bảng hỏi còn bao gồm các câu hỏi về thông tin người trả lời, cấu trúc

bảng hỏi và các câu hỏi chi tiết được trình bày tại phụ lục 1.

- Thu thập dữ liệu qua khảo sát thực địa: Bên cạnh phỏng vấn và khảo sát bằng bảng hỏi, dữ liệu sơ cấp còn được thu

thập thông qua nghiên cứu khảo sát điểm một tại một số doanh nghiệp đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại các địa phương khác để tìm hiểu về bài học thành công và những thất bại trong đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Các cuộc khảo sát này

được thực hiện bởi tác giả trong các buổi đi giám sát của HĐND Thành phố, của các Ban HĐND Thành phố và trong các chuyến đi kiểm tra, khảo sát tại các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp HTX, hộ gia đình, cá nhân, các mô hình nông nghiệp công nghệ cao do các ngành của Thành phố tổ chức, với cơ quan chủ trì là Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn. Vì vậy, tác giả có thể quan sát thực tế và trao đổi trực tiếp với lãnh đạo các sở, ban, ngành Thành phố với lãnh đạo doanh nghiệp, HTX, chủ hộ, chủ mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Trọng tâm của các cuộc khảo sát là tìm

hiểu việc triển khai thực hiện các quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội, việc tiếp cận, thụ hưởng các chính sách, khó khăn, vướng mắc và đề xuất gì với chính quyền Thành phố. Cụ thể trước tiên, tác giả đề nghị cung cấp tổng thể tình hình, kết quả phát triển nông nghiệp

công nghệ cao trên địa bàn (đối với cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành Thành phố); tình hình chung hoạt động của doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, cá nhân trong phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tiếp theo là mức độ phù hợp của quy

hoạch, chương trình, các chính sách của Nhà nước và Thành phố đã ban hành, các yếu

77

tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao của đơn vị. Mỗi cuộc phỏng

vấn kéo dài khoảng 20-25 phút, các cuộc phỏng vấn được tiến hành tại văn phòng, trụ sở làm việc của người được phỏng vấn. 3.2.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu

Các số liệu thứ cấp và sơ cấp được tổng hợp và xử lý dựa trên các tiêu chí phân tổ theo nhóm tiêu chí: địa điểm nghiên cứu, sản phẩm đặc trưng, loại doanh nghiệp, các công đoạn sản xuất, lĩnh vực đầu tư vào các tiểu ngành trong ngành nông nghiệp…

đã sử dụng phần mềm chuyên dụng Excel và STATA để tổng hợp và xử lý số liệu thu thập được nhằm đáp ứng các nội dung và mục tiêu nghiên cứu.

- Phương pháp thống kê mô tả

Sử dụng phương pháp này để đánh giá thực trạng về tình hình phát triển kinh tế

- xã hội, thực trạng thực hiện các chính sách/giải pháp và kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua. Các chỉ tiêu được sử dụng từ phương pháp

thống kê mô tả bao gồm: số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, tốc độ tăng trưởng… kinh tế chung, nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao...

- Phương pháp thống kê so sánh

Phương pháp này được sử dụng để so sánh các tiêu chí liên quan đến thực trạng

phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thực trạng thay đổi cơ cấu nông nghiệp và phát triển các mô hình, các vùng/khu nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội giữa các năm khác nhau, và giữa các vùng khác nhau của thành phố. - Phương pháp phân tích qua khảo sát thực địa

Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống/nghiên cứu điểm (case study) để phân tích các trường hợp điển hình về kết quả phát triển các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, sự thành công cũng như thất bại

của các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Trên cơ sở phân tích điểm, các bài học thành công và thất bại trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao sẽ được khuyến cáo và làm cơ sở để đề ra các giải pháp có tính khả thi và

phù hợp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

78

CHƯƠNG 4 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

4.1. Động thái phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội trong thời gian qua

Với thế mạnh về khoa học công nghệ, nguồn lực, hệ thống cơ chế chính sách, trong những năm gần đây, Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Nhiều mô hình ở lĩnh vực thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt hình thành và dẫn đầu cả nước, cho thấy nông dân và doanh nghiệp Thủ đô đã tận dụng,

phát huy tốt lợi thế, tạo ra nông sản chất lượng, góp phần mang đến hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp.

Năm 2019, ngành nông nghiệp Hà Nội đóng góp 2,58% vào GDP của Thành

phố, sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực giữ vai trò quan trọng đảm bảo tính ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô nhờ cung cấp khoảng 1,2 triệu tấn lương thực có hạt, đảm bảo nhu cầu đời sống cho 2,5 triệu cư dân nông nghiệp và đáp ứng được 50- 60% nhu cầu lương thực thực phẩm cho cư dân phi nông nghiệp của Thành phố. Bên

cạnh đó, nông nghiệp cũng là lĩnh vực có vai trò quan trọng trong phát triển ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhờ hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi để tiếp thu, chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Bảng 4.1: So sánh kết quả phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hà Nội

%

TT Chỉ tiêu ĐVT Năm 2008 Năm 2018 Tỷ lệ tăng trung bình

1 - 2,76% - Tốc độ gia tăng bình quân giá trị nông, lâm, thủy sản

Mô hình

%

Số lượng mô hình phát triển 2 10 123 12,3% nông nghiệp công nghệ cao

3 25 25,0% - Tốc độ tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao

Triệu đồng/ha

Nguồn: Báo cáo UBND Thành phố về nông nghiệp Hà Nội sau 10 năm điều chỉnh địa giới hành chính

4 Giá trị sản xuất nông nghiệp/ ha 124 239 1,93

79

Nông nghiệp Thủ đô những năm gần đây đã có những bước phát triển mạnh

mẽ: Giá trị gia tăng nông, lâm thủy sản tăng trung bình 2,76%/năm, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp tăng dần, đạt 55,6% vào năm 2017, trồng trọt, nông nghiệp là 44,4%, giá trị sản xuất nông nghiệp/ha là 239 triệu đồng tăng 1,93 lần so với năm 2008 (124 triệu đồng/ha). Giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Thành phố đạt 25%...(Báo cáo UBND Thành phố về nông nghiệp Hà Nội, 2018).

Số lượng các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC ngày càng có xu

hướng tăng lên qua các năm. Theo số liệu của thống kê của sở NN&PTNT Hà Nội, năm 2017 trên địa bàn Thành phố mới có 106 mô hình nông nghiệp CNC và tính đến tháng 06 năm 2020 số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC của Thành phố tăng

lên đạt 164. Như vậy từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2020, số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC của Hà Nội tăng bình quân 15,7%/năm. Tính đến hiện tại giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng CNC của Hà Nội chiếm khoảng 25% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của Thành phố.

Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã xuất hiện ở tất cả 18 huyện, thị xã có hoạt động sản xuất nông nghiệp của Thành phố, trong đó những huyện có nhiều mô hình bao gồm: Mê Linh (18 mô hình), Gia Lâm (17 mô hình), Thường Tín (14 mô hình), Thanh Oai (10 mô hình). Mặc dù số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng

CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội không ngừng tăng lên trong những năm qua, tuy nhiên phần lớn các mô hình mới chỉ dừng lại ở ứng dụng công nghệ cao từng phần trong sản xuất.

Trong số các mô hình nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội, phần lớn là các mô hình thuộc lĩnh vực trồng trọt. Theo số liệu trong báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Hội, tính đến tháng 6 năm 2019 trong tổng số 133 mô hình nông nghiệp CNC trên địa bàn Thành phố có tới 75 mô hình

thuộc lĩnh vực trồng trọt, chiếm 56,4%. Số mô hình nông nghiệp CNC thuộc lĩnh vực trồng trọt tính đến tháng 06 năm 2020 là 109, chiếm 66,5% trong tổng số mô hình nông nghiệp CNC của Thành phố. Như vậy, có thể nhận thấy lĩnh vực trồng trọt đang

là lĩnh vực được quan tâm đầu tư của các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

80

Bảng 4.2. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội theo lĩnh vực năm 2020

Lĩnh vực

Số lượng mô hình 109 Cơ cấu (%) 66,5 Trồng trọt

40 15 164 24,4 9,1 100,0 Chăn nuôi Thủy sản Tổng số

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2020

Tính đến hiện tại trên địa bàn thành phố mới chỉ có 1 mô hình ứng dụng công

nghệ cao trong tất cả các công đoạn sản xuất đó là mô hình sản xuất nấm kim châm theo dây chuyền công nghệ cao của Nhật Bản của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Kinoko Thanh Cao, xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức.

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thứ cấp của Sở NN&PTNT Hà Nội

Hình 4.1. Số lượng mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Hà Nội

Trong số các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Hà Nội, đã có một số mô hình mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội rất đáng ghi nhận (Bảng

4.3). Trong các mô hình này, mô hình sản xuất nấm kim châm theo dây chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản của công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao tại xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức đang có hiệu quả tương đối cao. Theo bà Dương Thị Thu Huệ, có được kết quả như hiện tại phần lớn là do sự nỗ lực của công ty. Về cơ bản

Công ty chưa tiếp cận và nhận được hỗ trợ từ các chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội. Cũng theo bà Huệ, tính từ khi bắt

81

đầu sản xuất nấm kim châm, công ty đã nhận được hỗ trợ từ dự án của Bộ Khoa học và

Công nghệ khoản kinh phí 8,5 tỷ đồng.

Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu của một số mô hình sản xuất nông nghiệp CNC của Hà Nội được tổng hợp tại Bảng 4.3 dưới đây. Tính bình quân, doanh nghiệp nông nghiệp CNC được khảo sát đạt doanh thu khoảng 80 tỷ đồng/năm, tạo được việc làm ổn định cho gần 20 lao động với thu nhập bình quân khoảng 8 triệu đồng/tháng. Các chỉ tiêu này tính bình quân cho 1 HTX sản xuất nông nghiệp CNC được khảo sát tương ứng là 24 tỷ đồng/năm, 23 lao động, và 7 triệu đồng/tháng.

Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của các mô hình nông nghiệp CNC được khảo sát tại Hà Nội

Doanh thu thuần (tỷ đồng/năm)

Số lượng LĐ được tạo việc làm ổn định

Thu nhập bình quân của 1 lao động (triệu đồng/tháng)

BQ

BQ

Thấp nhât

Cao Thấp nhât nhất

Cao Thấp nhât nhất

Cao nhất

80

180

10

25

10

18

BQ 8

10

5

Doanh nghiệp

24

52

5

40

10

23

7

10

5

HTX

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát, 2020

Các chỉ tiêu cơ bản (doanh thu thuần, thu nhập bình quân của 1 lao động) của

các doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp CNC được khảo sát tại thành phố Hà Nội đều cao hơn so với các chỉ tiêu này của các doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn Thành phố.

Bảng 4.4. Doanh thu thuần và thu nhập bình quân của người lao động của các doanh nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội

Năm

Thu nhập bình quân của lao động (triệu đồng/người/tháng) Doanh thu thuần bình quân của 1 doanh nghiệp, HTX (tỷ đồng/năm)

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020

2014 2015 2016 2017 2018 Bình quân 3,7 14,0 3,8 7,5 5,6 6,9 4,3 4,0 4,1 4,3 4,4 4,2

82

Trong giai đoạn 2014-2018, doanh thu thuần tính bình quân cho 1 doanh

nghiệp, HTX trong lĩnh vực Tnông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội đạt thấp nhất là 3,8 tỷ đồng/năm vào năm 2016 và cao nhất là 14,0 tỷ đồng/năm vào năm 2015, bình quân đạt khoảng 7 tỷ đồng/năm. Thu nhập bình quân của 1 lao động thuộc các doanh nghiệp, HTX thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong giai đoạn 2014-2018 của Hà Nội đạt khoảng 4,2 triệu đồng/người/tháng (Bảng 4.4). Tất cả các chỉ tiêu này, đều thấp hơn so với các chỉ tiêu của các doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp CNC được khảo sát tại Hà Nội.

Có thể nói, cùng với sự phát triển của nông nghiệp CNC thì số vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp CNC ngày càng tăng qua các năm. Điều này được thể hiện qua hình dưới đây:

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020

Hình 4.2. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội giai đoạn 2014-2018

Yếu tố góp phần làm nên thành công của các mô hình sản xuất nông nghiệp CNC được khảo sát đó là “thị trường tiêu thụ đầu ra ổn định”. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, Công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao ký kết hợp đồng cung

cấp sản phẩm cho Tập đoàn Vingroup với sản lượng 2,5 tấn/ngày. HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà có hợp đồng cung cấp sản phẩm với hệ thống siêu thị và nhà hàng (95% sản phẩm của HTX cung cấp cho hệ thống siêu thị tại Hà Nội; 5%

sản phẩm cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn). HTX rau hữu cơ công nghệ cao

83

Cuối Quý có hợp đồng cung cấp sản phẩm cho 16 trường học trên địa bàn huyện Đan

Phượng và chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch Bác Tôm tại Hà Nội. HTX Hoàng Long ký kết hợp đồng cung cấp sản phẩm ổn định và lâu dài cho các trường học trên địa bàn huyện Thanh Oai. Bên cạnh đó, HTX cũng có hệ thống cửa hàng cung cấp sản phẩm tại nội thành Hà Nội.

Hình 4.3. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội của doanh nghiệp, HTX sản xuất nông nghiệp CNC và doanh nghiệp, HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu từ Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020 và số liệu khảo sát tại các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC, năm 2020

Một số cơ sở sản xuất khẳng định sẽ tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư do luôn nhận được sự đồng hành và hỗ trợ từ các chính sách cải thiện môi trường đầu tư tại các huyện. Theo bà Bùi Thị Thanh Hà, giám đốc HTX sản xuất và dịch vụ Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, HTX có quy mô diện tích 1,2 ha (thuê lại của 18 hộ gia đình) và tổng đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu là tương đối lớn (khoảng 5 tỷ đồng). Mặc dù việc thuê thêm đất và tìm kiếm thêm vốn để đầu tư là rất khó khăn nhưng trong thời

gian tới HTX sẽ tiếp tục đàm phán để thuê thêm đất của các hộ dân lân cận để mở rộng diện tích, do hiệu quả mang lại từ nông nghiệp CNC hiện tại đang khá cao, doanh thu khoảng 5 tỷ đồng/ha/năm. Bên cạnh đó, HTX luôn nhận được sự hỗ trợ của UBND huyện Thường Tín, cụ thể: UBND huyện đã lồng ghép với nguồn vốn của Chương

trình xây dựng nông thôn mới để hỗ trợ làm đường bê tông nội đồng vào khu sản xuất của HTX, hỗ trợ HTX trong việc đăng ký và hoàn thiện sản phẩm theo chương trình OCOP của Thành phố, hỗ trợ một phần kinh phí cho việc xây dựng kho lạnh, và luôn

đồng hành cùng HTX trong việc tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng như của Thành phố Hà Nội.

84

Năm 2017, quy mô diện tích của HTX Rau công nghệ cao Cuối Quý tại huyện Đan Phượng là 1.360 m2 và vốn đầu tư ban đầu khoàng 500 triệu đồng, đến năm

2018 quy mô diện tích của HTX đã tăng lên đạt 5 ha, vốn đầu tư khoảng 11 tỷ đồng.

Theo chị Đặng Thị Cuối, Giám đốc HTX, sở dĩ HTX mở rộng quy mô diện tích và

tăng vốn đầu tư là do hiệu quả sản xuất cao và đồng thời doanh nghiệp luôn nhận

được sự hỗ trợ (cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, tham gia hội chợ, kết nối thị

trường...) của UBND huyện Đan Phượng (Kết quả phỏng vấn tháng 03 năm 2020).

Bên cạnh vận dụng các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC của

Chính phủ và Thành phố Hà Nội, một số huyện đã thực hiện thêm các chính sách riêng để

thu hút doanh nghiệp, HTX, trang trại đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn và bước

đầu đã đạt được các kết quả như tại huyện Đan Phượng, Ứng Hòa, Thường Tín.... Tuy

nhiên, cũng có những huyện việc thực hiện các dự án khuyến khích nông nghiệp công

nghệ cao chưa thành công, như trường hợp Dự án sản xuất rau an toàn áp dụng công nghệ

cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc Oai (Hộp 4.1).

Nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của dự án sản xuất rau an toàn ứng

dụng công nghệ cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc Oai bao gồm (Kết quả trao đổi với

lãnh đạo xã Tân Phú, tháng 03 năm 2020):

+ Việc đầu tư các hạng mục cơ sở hạ tầng của dự án (đường giao thông, trạm

biến áp, nhà máy cấp nước, đường ống dẫn nước...) bị chậm tiến độ (hiện tại mới xong

trạm biến áp) nên sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa người dân đã chuyển đổi sang

trồng cây ăn quả trên diện tích đã được quy hoạch để sản xuất rau an toàn ứng dụng

công nghệ cao.

+ Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn ứng dụng công nghệ cao (nhà lưới,

nhà màng, tưới tự động...) đã được phê duyệt nhưng không có hướng dẫn và quy

chế rõ ràng từ công tác quản lý, quy trình đầu tư sản xuất đến bao tiêu sản phẩm.

+ Chưa có liên kết đặc biệt là liên kết trong tiêu thụ sản phẩm nên các hộ sản

tham gia sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm ổn định dẫn đến hiệu quả thấp. Do

đó họ đã chuyển sang trồng cây ăn quả để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

85

Hộp 4.1. Dự án sản xuất rau an toàn áp dụng công nghệ cao tại xã Tân Phú, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội

Năm 2016, xã Tân Phú được Thành phố Hà Nội và huyện Quốc Oai phê duyệt và hỗ trợ đầu tư dự án “Xây dựng công trình để phục vụ cánh đồng rau an toàn ứng dụng CNC”. Dự án do UBND huyện làm chủ đầu tư với tổng kinh phí là 16 tỷ đồng gồm 2 km đường giao thông, nhà máy cấp nước, 1 trạm biến áp điện một số ống chính dẫn đến các vùng sản xuất rau an toàn với diện tích đã được quy hoạch khoảng 57,2 ha trên địa bàn xã Tân Phú. Đến tháng 8 năm 2016, thực hiện Kế hoạch số 135/KH-UBND ngày 16/8/2016 của UBND huyện Quốc Oai, xã Tân Phú quy hoạch xây dựng một điểm vùng sản xuất RAT tập trung tại xứ đồng Chùa Riền với diện tích 1,5 ha. UBND xã đã triển khai thực hiện Kế hoạch, tuyên truyền, vận động nhân dân triển khai thực hiện dư án. Chỉ đạo HTX nông nghiệp thành lập Tổ sản xuất để điều hành. Các thành viên là cán bộ HTX nông nghiệp và 14 hộ dân ký cam kết thực hiện. Cơ bản các hộ đều đồng tình thực hiện và kí cam kết theo chủ trương của UBND xã và UBND huyện. Hệ thống nhà lưới của mô hình 1,5 ha đã được huyện hỗ trợ kinh phí 40% (tương đương với 925 triệu), phần còn lại (chủ yếu là thiết bị phục vụ cho canh tác) tương ứng với 60% do các hộ dân đóng góp. Tuy nhiên, hiện nay việc sản xuất rau an toàn trong khu vực nhà lưới đã được xây dựng cũng không được thực hiện do các hộ không đóng góp kinh phí đầu tư và không có thị trường đầu ra cho sản phẩm. Phần diện tích còn lại trong tổng diện tích 57,2 ha đã được quy hoạch để sản xuất rau an toàn ứng dụng CNC các hộ đã chuyển sang trồng cây ăn quả. Diện tích nhà lưới đã được xây dựng (1,5 ha) xã đã giới thiệu một vài công ty về liên kết để tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, các hộ có đất không muốn cho thuê hoặc cho thuê với giá rất cao nên việc liên kết cũng không thực hiện được. Hiện tại UNBD xã đã tiến hành lấy ý kiến, 14/14 hộ thuộc khu nhà lưới 1,5 ha không đồng ý tiếp tục dự án thí điểm

(Nguồn: Kết quả trao đổi với lãnh đạo xã Tân Phú, huyện Quốc Oai, tháng 03/2020).

4.2. Thực trạng quản lý nhà nước của chính quyền Hà Nội đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao

4.2.1. Thực trạng việc ban hành quy hoạch, chương trình và mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Nội

Trong thời gian qua, tất cả các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội đều đề cập đến mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao

và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là trong bối cảnh mới khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng có xu hướng bị thu hẹp, và nhu cầu tiêu dùng thực phẩm sạch có chất lượng cao ngày càng tăng. Các chủ trương, chính sách của

thành phố Hà Nội có đề cập đến mục tiêu thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao bao gồm:

86

- Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ban hành ngày 26 tháng 4

năm 2016 về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020”. Trong Chương trình này, mục tiêu về phát triển nông nghiệp có đề cập đến “chú trọng phát triển các mô hình nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao; phấn đấu đưa tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao từ 25% lên 35% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của Thành phố” vào năm 2020. Chương trình 02 của Thành Ủy cũng đề cập đến nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để thu hút đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công

nghệ cao đó là “tổ chức thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cơ chế chính sách của Trung ương và Thành phố về hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, và cá nhân đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp”. Trong Báo cáo “Tổng kết 10 năm thực hiện

Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới và Chương trình số 02- CTr/TU”, Thành ủy đã đề ra định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội trong thời gian tới, trong đó “chú trọng phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao”.

- Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 5 tháng 4 năm 2012 của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội về “Quy hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã đưa ra quan điểm phát triển liên quan đến nông nghiệp công nghệ cao và thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ

cao đó là “Phát triển nông nghiệp theo hướng hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh và các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao” và đưa ra định hướng đến năm 2030 là “tăng nhanh diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao”. Ngày 4 tháng 5 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Phê duyệt quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 575/QĐ-Ttg ngày 04 tháng 05 năm 2015. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, Thành phố tiếp

tục xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (Quyết định số 7110/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 phê duyệt chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội, giai đoạn

2016-2020).

Trên cơ sở các quy hoạch, chương trình, chính sách HĐND Thành phố ban hành, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện chính sách, trong đó giao cho sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đầu mối, là cơ

quan thường trực triển khai thực hiện công tác quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, UBND các huyện, các sở, ngành là cơ quan phối hợp tổ chức

87

thực hiện triển khai tổ chức sản xuất, tuyên truyền, thực hiện các cơ chế hỗ trợ theo

chính sách đã ban hành; các doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân thụ hưởng chính sách phối hợp triển khai sản xuất, hoàn thiện các thủ tục hành chính để nhận hỗ trợ… cụ thể chi tiết, trình tự, thủ tục thực hiện như sau:

- Tổ chức công bố công khai quy hoạch đến UBND các cấp, cụm dân cư nông

thôn, các đối tượng chịu sự tác động, ảnh hưởng của quy hoạch, chương trình.

- UBND Thành phố ban hành kế hoạch, hướng dẫn tổ chức thực hiện quy hoạch chương trình, trong đó giao sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan

chủ trì, thường trực được UBND Thành phố giao và chịu trách nhiệm tham mưu, hướng dẫn, tổ chức, thực hiện phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố.

- Trên cơ sở quy hoạch, hướng dẫn của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các cấp triển khai công tác quy hoạch, chương trình phát triển nông nghiệp đến UBND các xã, các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, HTX trong việc triển khai, thực hiện quy hoạch.

- Trên cơ sở quy hoạch, định kỳ, đột xuất, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, chương trình, đánh giá tiến độ thực hiện quy hoạch, chương trình, xử lý các vi phạm theo quy định.

Giai đoạn từ 2012 – 2018, HĐND thành phố đã ban hành 05 Nghị quyết ban

hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao: Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 về thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà

Nội; số 25/2013/NQ-HĐND ngày 04/12/2013 về Chính sách khuyến khích vùng sản xuất chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2020; số 03/2015/NQ- HĐND ngày 08/7/2015 về số chính sách thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020; số

17/2015/NQ-HĐND ngày 02/12/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 về thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội; Số

10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 về một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội.

Có thể thấy kết quả thực hiện qui hoạch qua các năm như sau: số lượng khu

nông nghiệp CNC của Hà Nội đã tăng dần qua các năm. Trong khi năm 2015 Hà Nội

88

mới chỉ có 01 Khu nông nghiệp công nghệ cao với diện tích 96,6 ha phục vụ trồng trọt

(rau, hoa, cây cảnh), nuôi thủy sản (cá nước ngọt) ở huyện Đông Anh. Đến năm 2017, UBND TP. Hà Nội ban hành Công văn số 4203/UBND-KT đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung 07 Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố, và tính đến hiện tại, Thành phố Hà Nội đã quy hoạch được 9 Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Mới nhất vào sáng 27/6/2020, UBND Thành phố Hà Nội đã trao biên bản ghi nhớ đầu tư Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao TH Hà Nội cho Công ty cổ phần Tập đoàn TH. Theo đó, trong giai đoạn 2020-2022, Công ty

cổ phần Tập đoàn TH sẽ nghiên cứu, xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao tại khu vực bãi bồi sông Đáy; bãi bồi ven sông và cù lao sông Hồng qua địa phận các huyện: Phúc Thọ, Đan Phượng, Mê Linh và các quận: Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Long

Biên và Hoàng Mai.

Bảng 4.5: Kết quả qui hoạch các khu/vùng nông nghiệp CNC ở Hà Nội

STT

Nội dung

Năm 2015

Năm 2017

Năm 2020

1

1

8

9

Số lượng khu nông nghiệp ứng dụng CNC được qui hoạch

2

1

Số lượng chương trình nông nghiệp CNC của Hà Nội được phê duyệt

- 1 khu nông nghiệp CNC - 1 trạm thực nghiệm giống cây - 1 trung tâm giống thủy sản

3

82

106

164

Số lượng dự án, mô hình nông nghiệp CNC của Hà Nội được phê duyệt

Nguồn: Tổng hợp theo báo cáo cuả Sở NN&PTNT Hà Nội, 2020

Trên cơ sở Nghị quyết của HĐND Thành phố, UBND Thành phố đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết, các chính sách mà HĐND Thành phố đã ban hành. UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 7110/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2020 đưa vào hoạt động 01 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, 1 Trung tâm giống thủy sản công nghệ cao, 01 trạm Thực nghiệm sản xuất giống cây trồng công nghệ cao..; phát triển sản xuất rau ứng dụng công nghệ cao đạt từ 300 ha trở lên, phát triển sản xuất hoa ứng dụng công nghệ cao đạt 300 ha, phát triển sản xuất cây ăn quả ứng dụng công nghệ cao đạt 460 ha, phát triển sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao đạt 250 ha, phát triển chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao có 06 khu chăn nuôi gia cầm, 04 khu chăn nuôi lợn, 01 khu chăn nuôi bò thịt, 02 khu chăn nuôi bò sữa, phát triển thủy sản ứng dụng công nghệ cao với 03 cơ sở sản xuất

89

giống, 350 ha nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao,…với tổng vốn đầu tư thực hiện chương trình 8686,1 tỷ đồng,…

Theo ông Tạ Văn Tường, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, quy hoạch các Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là một trong các chiến lược hàng đầu để thúc đẩy và phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội. Chi tiết các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã được quy hoạch trên địa bàn Hà Nội được trình bày trong Bảng dưới đây. Như vậy so với quy hoạch ban đầu (96,6 ha), diện tích đất được đưa vào quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội tăng thêm 1.532 ha và cao gấp gần 17 lần so với quy hoạch ban đầu. Đây là sự nỗ lực của UBND thành phố trong việc rà soát, đảm bảo quỹ đất cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Mặc dù đã quy hoạch được 9 Khu nông nghiệp CNC, nhưng trong đến tháng 9/2020 ở Hà Nội chưa có Khu nông nghiệp CNC nào đi vào vận hành. Chính điều này đã hạn chế khả năng phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội.

Bảng 4.6. Diện tích đất các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được quy hoạch trên địa bàn Hà Nội tính đến năm 2020

STT

Địa bàn

Diện tích (ha)

1

96,6 Huyện Đông anh, Thàn phố Hà Nội

2

668

3

76

Địa phận xã An Thượng và xã Song Phương, huyện Hoài Đức Vùng đất bãi sông Đáy, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông

4

105

Vùng bãi ven sông Hồng thuôc xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh

5

33

Xã Song Phượng và xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng

6

200 Xã Hiệp Thuận, huyện Phú Thọ

7

80 Xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây

8

70

Xã Thanh Xuân và xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn

9

300 Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội

Tên khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Khu nông nghiệp ứng ụng công nghệ cao (rau, hoa, cây cảnh, nuôi cá nước ngọt) Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện hoài đức Khu sản xuất, dịch vụ ứng dụng công nghệ cao phường Yên Nghĩa ( quận Hà Đông Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại vùng Ven sông Hồng thuộc xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh Khu nghiên cứu và phát triển giống cây trông công nghệ caol; Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Khu sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái tại xã Hiệp Thuận (huyện Phú Thọ Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Kim sơn (thị xã Sơn Tây) Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Sóc Sơn Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Ba Vì

1.628,6

Tổng cộng

Nguồn: Công văn số 4203/UBND-KT năm 2017 của UBND Thành phố Hà Nội, và tổng hợp của tác giả năm 2020

90

Theo kết quả khảo sát đối với cán lãnh đạo và cán bộ phụ trách nông nghiệp của các huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tích tụ ruộng đất và tạo quỹ đất sạch là các yếu tố rất quan trọng để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ

cao. Tuy nhiên, theo Sở NN&PTNT Hà Nội, hầu như hiện nay các địa phương vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tích tụ đất đai và vẫn đang phải loay hoay tìm quỹ đất. Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, huyện Sóc Sơn cũng mạnh dạn đăng ký làm nông nghiệp công nghệ cao, nhưng khi một số doanh

nghiệp vào đầu tư cần quỹ đất thì lại rất khó huy động. Mới đây có doanh nghiệp đăng ký đầu tư vùng trồng dược liệu diện tích 30 – 35 ha, nhưng trong vòng 3 tháng, huyện cử cán bộ xuống lăn lộn tại các xã, song vẫn không gom đủ 35 ha. Trong thực tế nhiều

xã trên địa bàn huyện có vị trí giáp với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh tuy ruộng đất để không nhưng khi doanh nghiệp vào để thuê đất sản xuất lại không đồng ý.

Cũng theo báo cáo của Sở NN&PTNT Hà Nội, tại xã Tam Thuấn, huyện Phúc Thọ, theo quy hoạch xây dựng nông thôn mới, địa phương đã xây dựng vùng trồng hoa

ly 5 ha, vùng cây ăn quả hơn 100 ha. Tuy nhiên, khi mời gọi doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp CNC rất khó khăn, có doanh nghiệp đã đề nghị thuê 10ha đất của xã để đầu tư nhưng được nửa chừng thì bỏ dở, một phần do vướng mắc trong khâu tích tụ

ruộng đất. Theo các địa phương, qua quá trình triển khai thực tế, việc tìm được quỹ đất sạch để sản xuất nông nghiệp CNC theo đề nghị của các nhà đầu tư là hết sức khó khăn nếu không có cơ chế tháo gỡ. Trong khi đó, do ruộng đất manh mún, khi tuyên truyền, vận động được người dân đồng ý dồn ghép để cho thuê song theo quy định của

pháp luật về đất đai hiện nay chỉ được ký hợp đồng cho thuê đất trong thời hạn 5 năm. Thời gian thuê đất ngắn khiến cho doanh nghiệp không không mặn mà đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

Như vậy, mặc dù mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội đã được xác định rất cụ thể thông qua chỉ tiêu tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao cho từng giai đoạn (35% vào năm 2020, tối thiểu 50% vào năm 2025, và tối thiểu đạt 70% vào năm 2030), và chủ trương “tăng nhanh diện tích sản xuất nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao” trong các qui hoạch và chương trình đã công bố. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội phần lớn mới chỉ đề cập đến mục tiêu “phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC” một cách chung chung mà chưa đề cập đến các mục tiêu cụ thể. Bên cạnh đó, các chủ trương, chính sách của Hà Nội cũng chưa xác định rõ lĩnh vực nào (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, chế biến nông sản...) là lĩnh vực ưu tiên để phát triển. Các mục tiêu hiện còn

91

chung chung cho rất nhiều đối tượng bao gồm: doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,

trang trại, hộ gia đình... mà chưa xác định rõ mục tiêu ưu tiên phù hợp với các chương trình quốc gia, quy hoạch vùng ứng dụng công nghệ cao đã được công bố.

Kết quả khảo sát thực tế tại địa phương về mức độ phù hợp của quy hoạch, chương trình và chính sách đã ban hành được thể hiện qua bảng 4.7. Kết quả này cho thấy, về quy hoạch phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội, số người được hỏi trả lời đã biết và được phổ biến chiếm đến 72,9%, chỉ có 27,8 % người được hỏi khẳng định không được biết về qui hoạch và các chính sách. Tuy nhiên, chỉ

có 20% ý kiến đánh giá các qui hoạch này là phù hợp; 38% ý kiến cho rằng chưa phù hợp và 42% có ý kiến khác. Điểm đánh giá trung bình cho mức độ phù hợp là 2.25/5 điểm là điểm đánh giá ở mức độ không phù hợp thấp. 72% số người được hỏi cho rằng

cần điều chỉnh qui hoạch này để có mức độ phù hợp cao hơn.

Bảng 4.7. Kết quả khảo sát ý kiến doanh nghiệp, HTX, người dân về quy hoạch, chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội

Ghi chú

STT

1. Nội dung đánh giá

Qui hoạch phát triển NN CNC

Chương trình phát triển NN CNC

1

%

%

Được phổ biến và biết về QH/CT

Được phổ biến, đã biết

72,9

93.6

Không được biết

27,8

6.4

2

100%

100%

Mức độ phù hợp

Phù hợp

20,0%

37,2%

Không phù hợp

38,0%

36,8%

Ý kiến khác

42,0%

33,2%

2.25

2.47

Điểm trung bình

3

%

%

Ý kiến đề xuất thay đổi

Cần điều chỉnh

72,0

55,2

Giữ nguyên

28,0

44,8

Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2019

Về chương trình phát triển nông nghệ cao, có 93,6% người được hỏi trả lời đã được phổ biến và đã biết, chỉ có 6.4% trả lời là chưa được biết. Điểm đánh giá mức độ phù hợp có nhỉnh hơn chút so với qui hoạch phát triển nông nghiệp và đạt điểm trung bình là 2,47 (mức độ không phù hợp thấp). Và chỉ có 36,8% số người được hỏi đánh

giá là chương trình chưa phù hợp, 33,2% có ý kiến khác nhưng 55,2% số người được hỏi cho rằng cần phải điều chỉnh chương trình này.

92

4.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hà Nội

Trong thời gian qua, Thành phố Hà Nội đã vận dụng các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước cũng như các chính sách riêng của Thành phố để cải thiện môi trường đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, thu

hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao tập trung vào các khía cạnh chủ yếu như chính sách đất đai, chính sách khơi thông nguồn vốn, ưu đãi tín dụng nhằm hỗ trợ vốn cho phát triển, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp CNC, chính sách hỗ trợ đào tạo cho nhân lực cho phát triển nông

nghiệp công CNC .v.v.v 4.2.2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách liên quan đến đất đai

Các chủ trương, chính sách hỗ trợ liên quan đến đất đai để phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội tập trung chủ yếu vào các khía cạnh: (1) Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao;(2) Vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất cho dự án nông nghiệp công nghệ cao; (3) Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Các hỗ trợ cho doanh nghiệp liên quan đến miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; tích tụ, tập trung đất đai được thực hiện theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 04 năm 2018. Cụ thể như sau:

- Chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho các dự án nông

nghiệp CNC

Vấn đề liên quan đến miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước

được quy định chi tiết tại Điều 6, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP. Doanh nghiệp đầu tư vào dự án nông nghiệp thuộc diện khuyến khích đầu tư thì dự án đó được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 11 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 5 năm tiếp theo (Khoản 4, Điều

6, Nghị định 57/2018/NĐ-CP). Kết quả cho thấy, đã có một vài mô hình nông nghiệp CNC đã thành công tại một số huyện, trong đó có vai trò đóng góp của đất công. Theo bà Dương Thị Thu Huệ, Giám đốc Công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao, huyện Mỹ Đức (phỏng vấn ngày 13/3/2020), công ty có thể yên tâm mở rộng đầu tư sản xuất và đạt được kết quả như hiện tại một phần là do công ty đã thuê được diện tích đất công của huyện (trước đây là trại dâu tằm của huyện Mỹ Đức). HTX Hoa lan công nghệ cao Đan Hoài tại xã Phương Đình, huyện Đan Phượng hiện đang có kết quả

93

sản xuất tương đối tốt với doanh thu hàng năm từ 4-5 tỷ đồng và tạo việc làm ổn định

cho khoảng 30 lao động với thu nhập từ 5-7 triệu đồng/tháng. Theo ông Nguyễn Viết Đạt, Trưởng phòng Kinh tế huyện Đan Phượng, (phỏng vấn ngày 07 tháng 03 năm 2020), hiện nay công ty tiếp tục yên tâm để mở rộng quy mô đầu tư do công ty được thuê ổn định lâu dài đối với diện tích đất công trước đây là Trại chăn nuôi của huyện.

Mặc dù đã có cơ chế miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhưng trong thực tế các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao rất khó nhận được hỗ trợ này do việc miễn, giảm tiền thuê chỉ áp dụng đối với diện tích đất của Nhà nước

(đất công). Thực tế khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC cũng rất khó tiếp cận được với quỹ đất công do vướng mắc về các thủ tục và quy định hành chính liên quan đến vấn đề này. Những diện tích đất và mặt

nước của Nhà nước mà doanh nghiệp có thể tiếp cận bao gồm hai nguồn chính: diện tích đất bãi ven sông, đất 5% (đất quỹ 2) tại các địa phương sau khi đã thực hiện dồn điền đổi thửa.

Kết quả khảo sát tại các huyện có nhiều đất bãi ven sông (Mê Linh, Đan

Phượng) cho thấy, đối với các vùng đất bãi ven sông các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC cũng khó có cơ hội tiếp cận do đất bãi ven sông do những diện tích này thường nằm trong các vùng quy hoạch thoát lũ nên không được phép xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải đầu tư, xây

dựng rất nhiều các hạng mục công trình. Các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC có thể tiếp cận quỹ đất nông nghiệp 5% tại các huyện thông qua hình thức đấu thầu. Tuy nhiên, thời gian cho thuê đất nông nghiệp 5% tại các huyện chỉ tối

đa là 5 năm ( Theo quy định tại Điểm c, Điều 5, Quyết định số 04/2017/QĐ-UBND của UBND Thành phố Hà Nội ngày 24 tháng 02 năm 2017 Ban hành quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội) và chỉ ưu tiên quyền đấu thầu cho các hộ gia đình tại địa

phương (Khoản 2, Điều 72, Luật đất đai 2013). Chính những điều này đã hạn chế cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp và cá nhân vào nông nghiệp công nghệ cao.

94

Hộp 4.2. Quy định về đấu thầu quỹ đất công đã hạn chế cơ hội đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của các cá nhân, tổ chức

Năm 2019 Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và phát triển Hòa Phú Xanh (có trụ sở tại

quận Hà Đông) về tìm hiểu và lập dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa

bàn huyện Thanh Oai. Công ty đã làm việc nhiều lần với huyện, đã lập được dự án và rất

có thiện chí để đầu tư vào mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, khi

tham gia đấu thầu quỹ đất công tại xã Tam Hưng Công ty Hòa Phú Xanh lại không trúng

thầu do quy định là ưu tiên cho người tại địa phương. Trong khi đó, cá nhân trúng thầu là

người địa phương sau khi trúng thầu lại không tiến hành các hoạt động theo cam kết. Vì

vậy, cần thay đổi quy định ưu tiên người đấu thầu quỹ đất công là người địa phương để

thu hút được các cá nhân, tổ chức có điều kiện đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao

(Kết quả trao đổi với lãnh đạo Phòng Kinh tế, huyện Thanh Oai, tháng 03 năm 2020).

- Chính sách hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất cho dự án nông nghiệp CNC

Các quy định hỗ trợ doanh nghiệp tập trung, tích tụ đất đai được vận dụng theo quy định chi tiết tại Điều 6, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về “Cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”. Chủ trương tích tụ, tập trung đất đai để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn đã được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản chính sách của các cấp chính quyền tại Hà Nội. Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân giai đoạn 2011-2015 (Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội) và Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao thu nhập của nông dân giai đoạn 2016-2020 (Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội) đã đề ra rất nhiều các nhiệm vụ giải pháp trọng tâm trong đó có đề cập tới “Rà soát, bổ sung và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nông dân dồn điền, đổi thửa, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp”. “Xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nông dân dồn điền, đổi thửa, đầu tư vào nông nghiệp” cũng được coi là một trong các giải pháp chủ yếu được xác định trong “Quy hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 của Hội đồng nhân dân

Thành phố Hà Nội.

Bên cạnh đó, “Chính sách khuyến khích thực hiện dồn điền, đổi thửa” được quy định rất chi tiết tại Khoản 12, Điều 1, Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND, cụ thể

như sau:

95

+ Ngân sách Thành phố hỗ trợ toàn bộ chi phí đo đạc, cấp lại giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa, chi phí xây dựng bản đồ, quy hoạch đồng ruộng, quy hoạch hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng cho các hộ gia đình cá nhân theo định mức quy định của Nhà nước.

+ Mức hỗ trợ Ban chỉ đạo cấp xã, thôn kinh phí hoạt động, kinh phí tổ chức hội

họp tuyên truyền là 1.000.000 đồng/ha từ nguồn ngân sách Thành phố.

+ Ngân sách của Thành phố hỗ trợ 50% để bổ sung cho ngân sách cấp huyện để thực hiện hỗ trợ 70% kinh phí đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng khi thực hiện dồn

điền đổi thửa (20% còn lại do ngân sách huyện đảm bảo).

+ Ngân sách cấp Thành phố hỗ trợ 80% cấp bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp huyện để thực hiện hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật tư (khối lượng vật tư được

tính theo định mức kỹ thuật quy định của Nhà nước) khi thực hiện kiên cố hóa đường giao thông, hệ thống kênh, mương, thủy lợi nội đồng. (20% còn lại ngân sách cấp huyện đảm bảo).

Sự phù hợp

Biết đến chính sách

Người dân được thụ hưởng chính sách

TT

Nội dung

Tổng số

Tỷ lệ

Số phiếu trả lời có

Số phiếu trả lời có

Tỷ lệ (%)

Kết luận về sự phù hợp

Điểm đánh giá

(%)

145

102

70,3%

96

66,2%

2,65

Trung bình

1

Chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất, cho thuê đất

145

125

86,2%

65

44,8%

2,41

Thấp

2

Chính sách tích tụ và tập trung ruộng đất

3

145

100

68,9%

32

22%

2.51

Thấp

Qui hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp CNC tập trung

Bảng 4.8: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai để phát triển nông nghiệp CNC

2,51

Đánh giá chung về chính sách hỗ trợ về đất đai

Thấp

Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019

Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 70,3% số người được hỏi biết đến chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất và có 66,2% số người được hỏi đã được thụ hưởng lợi ích

từ chính sách này nên điểm đánh giá mức độ phù hợp của chính sách ở mức trung bình (2,65 điểm). Trong khi đó chính sách tích tụ tập trung ruộng đất để phát triển nông

96

nghiệp CNC qua dồn điền đổi thửa có đến 86,2% người được hỏi biết và được tuyên

truyền về chính sách (một tỷ lệ rất cao) tuy nhiên chỉ có 44,8% số người được hỏi được thụ hưởng chính sách. Mức độ phù hợp của chính sách tích tụ và tập trung ruộng đất được đánh giá ở mức thấp (chỉ 2,41 điểm), dẫn đến mức độ đánh giá chung về chính sách hỗ trợ về đất đai có sự phù hợp cũng ở mức 2,51 điểm là mức thấp.

Mặc dù có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ cho tích tụ, tập trung đất đai để tạo tiền đề phát triển nông nghiệp CNC, tuy nhiên kết khảo sát đối với cán bộ phụ trách nông nghiệp tại các huyện cũng cho thấy, do có một số vướng mắc theo quy định trong

Luật đất đai năm 2013 nên đề án tập trung và tích tụ đất đai trên địa bàn Hà Nội vẫn chưa thực hiện xong do còn thiếu các hướng dẫn cụ thể. Không chỉ riêng Hà Nội, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Theo quy định Điều 19, Nghị định số

57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn ngày 17/4/2018 của Chính phủ, các địa phương phải ban hành 5 cơ chế, chính sách để thực hiện. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa phương gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay chỉ có 20/63 tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách đặc thù;

và đặc biệt chưa tỉnh, thành phố nào ban hành cơ chế thúc đẩy tập trung đất đai.

Bên cạnh thực hiện các chủ trương, chính sách về hỗ trợ tích tụ, tập trung đất nông nghiệp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC nhằm phát triển nông nghiệp CNC, các cấp chính quyền của Hà Nội đã quy hoạch các khu sản xuất

nông nghiệp công nghệ cao, vùng sản xuất nông nghiệp tâp trung tại các huyện. Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả các huyện sản xuất nông nghiệp của Thành phố Hà Nội đã đều quy hoạch và xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Đây có thể

được coi là bước chuẩn bị ban đầu để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Trên thực tế, Luật Đất đai năm 2013 gặp nhiều vướng mắc trong triển khai thực hiện, nhất là về gia tăng khả năng tích tụ đất đai. Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, tổ chức kinh tế phi nông nghiệp không được nhận quyền sử dụng đất nông

nghiệp. Bên cạnh đó, việc sử dụng cũng đang bị giới hạn do mức hạn điền, gây không ít cản trở cho sự phát triển thị trường sử dụng đất đai và từ đó hạn chế phát triển nông nghiệp và nông nghiệp CNC.

Rõ ràng, môi trường đầu tư liên quan tới đất đai để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp CNC tại Hà Nội vẫn chưa được cải thiện bởi những vướng mắc về hướng dẫn thi hành Luật đất đai, nhất là tích tụ và tập trung đất, tạo lập quỹ đất sạch để doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC yên tâm đầu tư.

97

4.2.2.2. Thực trạng thực hiện các chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội

Tại Hà Nội, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp được đề cập trong rất nhiều các văn bản chính sách của các cơ quan các cấp và được coi là một trong các chính sách cơ bản để phát triển nông nghiệp CNC. Kết quả khảo sát tại các huyện của Hà Nội cho thấy, nhằm phát triển nông nghiệp CNC, thành phố Hà Nội đã có nhiều

chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC. Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC tùy vào lĩnh vực đầu tư sẽ nhận được các hỗ trợ về cơ sở hạ tầng theo quy định tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội đã ban hành

nhiều các chủ trương, chính sách trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của việc hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và nông nghiệp CNC.

“Quy hoạch phát triển nông nghiệp Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” được ban hành theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội đã xác định “Đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất: thủy lợi, giao thông nội đồng, cơ sở sản xuất giống,... chú ý đến cơ sở hạ tầng trong các khu sản xuất tập trung” là một trong các giải pháp chủ yếu, quan trọng để thực hiện quy hoạch. Thành phố Hà Nội cũng thực hiện hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã, hộ gia đình, cá

nhân có diện tích đang sản xuất trong vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung tại Khoản 5, Điều 1, Nghị quyết số 25/2013/NQ-HĐND ngày 04/12/2013 của HĐND Thành phố Hà Nội, bao gồm:

+ Hỗ trợ một lần kinh phí khoan giếng, đào giếng lấy nước tưới cho cây trồng,

mức hỗ trợ tối đa không quá 10 triệu đồng/ha.

+ Hỗ trợ một lần kinh phí mua thùng chứa vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật (định

mức 02 thùng/ha); thực hiện hỗ trợ 100% trong năm đầu tiên và 70% năm thứ hai).

+ Hỗ trợ một lần kinh phí khi xây dựng công trình xử lý chất thải trong chăn nuôi đáp ứng yêu cầu, quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường theo quy định (mức hỗ trợ 300.000 đồng/01 đầu gia súc).

+ Hỗ trợ một lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng nước nuôi trồng

thủy sản, mức hỗ trợ tối đa không quá 15 triệu đồng/ha.

98

Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08/7/2015 của HĐND Thành phố Hà

Nội quy định chi tiết các nội dung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình có dự án đầu tư sản xuất trong, khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được cơ quan có thẩm quyền thẩm định hoặc

phê duyệt. Những hỗ trợ liên quan đến cơ sở hạ tầng cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao được quy định trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND bao gồm: (1) Hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp tiêu nước; (2)

Hỗ trợ chi phí khoan giếng cấp nước tưới, xử lý môi trường.

Trong Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 của HĐND Thành phố Hà Nội, nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng được quy định

chi tiết tại Điểm 2, Khoản 11, Điều 1, cụ thể như sau:

+ Hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp, tiêu nước trong vùng, khu sản xuất nông nghiệp CNC được cơ quan có thẩm quyền thẩm định

hoặc phê duyệt.

+ Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật tư, nguyên vật liệu xây dựng theo định

mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành đối với từng loại, cấp công trình.

Cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ là yếu tố quan trọng để phát triển nông

nghiệp theo hướng hiện đại, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp CNC. Mức độ thụ hưởng về hỗ trợ xây dựng hạ tầng là những hỗ trợ thực tế mà các đối tượng như doanh nghiệp, HTX,

hộ gia đình nhận được bao gồm đường điện, giao thông, hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải và chất lượng các công trình này. Thời gian qua, các huyện trên địa bàn thành phố đã lồng ghép nguồn lực từ các chương trình, dự án trên địa bàn, đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa trong huy động nguồn lực thông qua việc huy động đóng góp của

nhân dân, từ khai thác quỹ đất và các doanh nghiệp để có nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp.

Các địa phương đã hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho các doanh nghiệp, HTX, hộ gia

đình sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ xây dựng kho lạnh bảo quản sản phẩm; hỗ trợ cải tạo, làm đường nội bộ; hỗ trợ vật tư làm nhà lưới, nhà màng; cải tạo hệ thống mương tưới tiêu, hệ thống trữ nước tưới phục vụ sản xuất, hỗ trợ hệ thống tưới nhỏ giọt,…Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ đầu tư còn hạn chế.

Đối với các khu trồng rau an toàn, hệ thống kênh mương bê tông, hệ thống thu

gom phế thải, nhà màng, nhà lưới, đường bê tông nội đồng đã được địa phương hỗ trợ

99

cải tạo, xây dựng. Tuy nhiên, một số hạng mục hạ tầng cho tiêu thụ như nhà sơ chế,

chợ lại chưa được quan tâm đầu tư hỗ trợ nhiều. Qua khảo sát, chỉ có số ít các hộ sản

xuất được huyện hỗ trợ đầu tư nhà lạnh bảo quản sản phẩm. Hệ thống tưới nước tiết

kiệm chủ yếu các gia đình tự khoan giếng. Một số mô hình trồng rau an toàn đã được

hỗ trợ đầu tư xây dựng trạm bơm khai thác nước ngầm có hệ thống xử lý nước đạt

chuẩn, hệ thống đường ống chính, nhánh, chờ tại các đầu khu ruộng tuy nhiên công tác

quản lý, vận hành hiệu quả trạm bơm chưa hiệu quả, hoặc không còn quản lý dẫn đến

tình trạng các trạm bơm ngừng hoạt động.

Đối với các hộ chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, một số địa phương có đầu tư

hệ thống cấp thoát nước và xử lý môi trường song không phải phục vụ riêng cho khu

chăn nuôi tập trung mà hệ thống đó sử dụng cho cả sinh hoạt và sản xuất chung của

toàn địa phương điều đó cho thấy rất khó khăn trong công tác kiểm soát chất lượng

môi trường và diễn biến dịch bệnh nếu có dịch xảy ra.

Về cơ bản, hầu hết việc xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ chăn nuôi tập

trung như hàng rào bao quanh, phần đường nội bộ, hệ thống điện, hệ thống cấp thoát

nước và xử lý môi trường,..là do người dân tự đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, chất

lượng xây dựng các công trình chưa cao, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phục

vụ phát triển chăn nuôi quy mô lớn. Trong kế hoạch tái cơ cấu ngành Nông nghiệp

Hà Nội giai đoạn 2019-2020, thành phố dành hơn 204 tỷ đồng hỗ trợ chương trình

nông nghiệp CNC.

Mặc dù đã Thành phố Hà Nội có chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các

cơ sở đầu tư vào nông nghiệp CNC, tuy nhiên kết quả khảo sát thực tế cho thấy tỷ lệ số

cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC biết đến chính sách và tỷ lệ số cơ sở đã nhận

được hỗ trợ từ chính sách này còn thấp. Điều này cho thấy chính sách hỗ trợ xây dựng

cơ sở hạ tầng cho các cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố

chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Khi đánh giá về mức độ phù hợp của chính sách,

tác giả đã tiến hành phỏng vấn một số cơ sở sản xuất và nhận thấy các hỗ trợ chưa thực

sự phù hợp với các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC quy mô nhỏ bởi khó khăn về thủ

tục giải ngân sau đầu tư. Vì thế, cần có các giải pháp gắn với thủ tục giải ngân thì việc

thực hiện chính sách này mới có hiệu quả.

Mức độ đánh giá về sự phù hợp của chính sách của các hộ gia đình và cơ sở sản

xuất là thấp (2,56) trong khi điểm đánh giá về sự phù hợp của các chính sách này của

cán bộ quản lý các cấp ở mức rất cao (4.3 điểm). Điều này cho thấy sự chênh lệch về

100

quan điểm, cách nhìn cũng như cảm nhận của cán bộ quản lý và người được thủ hưởng

chính sách là rất lớn. Chính sách đi vào thực tiễn còn chậm ảnh hưởng đến sự phát

triển của nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Cụ thể, chính sách hỗ trợ chi phí khoan giếng, xử lý môi trường là rất cần

thiết đặc biệt là tại các vùng sản xuất chuyên canh, phát triển nông nghiệp công

nghệ cao. Người dân, người sản xuất, hộ gia đình, cá nhân… rất quan tâm tìm

hiểu về chính sách và chủ động tiếp nhận, thực hiện. Về mức độ phù hợp của

chính sách thì các hộ gia đình, HTX cho điểm trung bình là 2,54 điểm trong khi

cán bộ quản lý các sở ngành đánh giá mức độ phù hợp ở 4,1 điểm với mức độ

chênh lệch tương đối cao. Người được thụ hưởng chính sách vẫn đánh giá mức độ

phù hợp của chính sách ở mức thấp trong khi cán bộ quản lý nhà nước các cấp lại

đánh giá ở mức cao.

Kết quả khảo sát cho thấy chính sách hỗ trợ 1 lần khoan giếng phục vụ tưới tiêu

có mức độ phù hợp thấp (2,54%) tuy nhiên có 84,8% số người được hỏi biết đến chính

sách và chỉ có 48,9% đước hưởng lợi từ chính sách. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ 1

lần để mua vỏ thùng bảo vệ thực vật có 89,6% số người được hỏi biết đến chính sách

và 61,3% được hưởng lợi từ chính sách, mức độ phù hợp được đánh giá ở mức trung

nình với điểm là 3,2. Đây cũng là chính sách được đánh giá tương đối cao và thể hiện

sự ưa thích của người thụ hưởng chính sách đối với chính sách này.

Chính sách có mức độ phù hợp rất thấp là chính sách hỗ trợ 1 lần 50% chi phí

mua thiết bị làm giàu oxy vùng nuôi trồng thủy sản với điểm đánh giá là 1,75. Chính

sách có tỷ lệ người thụ hưởng ít nhất là chính sách hỗ trợ toàn bộ tiền để mua vật tư

xây dựng theo định mức (chỉ có 31% người được hòi khẳng định đã được thụ hưởng từ

chính sách) và mức độ phù hợp được đánh giá ở mức thấp (2,51). Chính sách hỗ trợ

xây dựng đường giao thông kênh mương cũng có tỷ lệ thụ hưởng 40% và mức độ phù

hợp thấp (2,56 điểm). Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất

thải chăn nuôi cũng có mức độ phù hợp thấp (2,52 điểm), tỷ lệ người biết đến chính

sách ở mức trung bình (56,5%) và tỷ lệ được thụ hưởng chính sách chỉ đạt mức dưới

trung bình là 46,2%.

101

Sự phù hợp

Biết đến chính sách

TT

Nội dung

Tổng số phiếu

Người dân được thụ hưởng chính sách Tỷ lệ Số phiếu trả lời có (%)

Điểm đánh giá

Kết luận về sự phù hợp

Tỷ lệ (%)

71

48,9%

84,8%

2,54 mức độ thấp

1

145

Số trả lời có 123

89,6%

89

61,3%

3,2

Trung bình

2

145

130

56,5%

67

46,2%

2,52

Thấp

3

145

82

60%

55

37,9%

1,75

Rất Thấp

4

145

87

145

78

53,7%

58

40%

2,56

Thấp

5

145

81

55,8%

45

31,0%

2,51

Thấp

6

Chính sách hỗ trợ 1 lần chi phí khoan/đào giếng Chính sách hỗ trợ 1 lần thùng chứa vỏ mua bao bì thuốc bảo vệ thực vật Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất thải chăn nuôi Chính sách hỗ trợ 1 lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng nước nuôi trồng thủy sản trợ xây dựng Hỗ đường thông, giao kênh mương trục chính cấp, tiêu nước Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật liệu xây dựng theo định mức như nhà lạnh, …....

Bảng 4.9. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển NN CNC

2,56

Đánh giá chung về chính sách hỗ trợ CSHT

Thấp Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019

Kết quả khảo sát thực tế và phỏng vấn một số cơ sở sản xuất kinh doanh cho thấy, các chủ trương, chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng để phát triển nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội bước đầu đã phát huy tác dụng. Theo ông Trương Cao Sơn, Giám đốc Công ty TNHH Lạc Hòa, mô hình nông nghiệp CNC kết hợp với du lịch

sinh thái của công ty tại xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất đã được hỗ trợ 70% nguồn vốn để xây dựng kênh mương trục chính cấp, tiêu nước… Sự hỗ trợ này là nguồn động viên khích lệ để công ty tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư vào nông nghiệp CNC.

Tại các huyện tiến hành khảo sát, đã có một số huyện cũng tiến hành hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp CNC. UBND huyện Đan Phượng đã hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC chẳng

hạn: (1) đầu tư trạm biến áp điện, dây điện, đường nội đồng tại các vùng sản xuất tập

102

trung; (2) hỗ trợ kinh phí (từ 70-100%) để xây dựng kho lạnh bảo quản sản phẩm,

đường nội bộ cho một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Theo chính sách này, UBND huyện Đan Phượng đã hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng trạm biến áp điện cho HTX Hoa lan Đan Hoài, hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng kho lạnh để chứa sản phẩm cho HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ CNC Cuối Quý tại xã Đan Phượng (Kết quả phỏng vấn ông Nguyễn Viết Đạt, Trưởng phòng Kinh tế huyện Đan Phượng, tháng 03 năm 2020).

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, các cơ sở nhận được hỗ trợ về cơ sở hạ tầng

đều sản xuất rất hiệu quả và tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô. Từ khoảng 1.400 m2 và vốn đầu tư ban đầu khoảng 500 triệu đồng vào năm 2017, đến năm 2020 HTX Rau CNC Cuối Quý mở rộng quy mô lên thành 5ha và đầu tư 20 nhà màng, nhà lưới

khoảng 11 tỷ đồng. Trong các lý do để HTX quyết định đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, có một phần xuất phát từ sự hỗ trợ cơ sở hạ tầng của huyện Đan Phượng như hỗ trợ một phần kinh phí cho xây dựng kho lạnh, đường giao thông trong khu sản xuất. UBND huyện Đan Phượng hỗ trợ trạm biến áp điện cũng góp phần giúp HTX hoa lan

Đan Hoài yên tâm mở rộng đầu tư sản xuất.

Bảng 4.10. Nội dung hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại một số huyện trên địa bàn Hà Nội

Đan Phượng

Huyện Nội dung hỗ trợ

- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông trong các khu sản xuất nông nghiệp tập trung - Hỗ trợ xây dựng trạm biến áp điện cho HTX hoa lan Đan Hoài - Hỗ trợ xây dựng kho lạnh cho HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ CNC Cuối Quý

Thường Tín

Quốc Oai - Hỗ trợ xây dựng nhà lưới, trạm biến áp, đường giao thông cho vùng sản xuất rau an toàn tại xã Tân Phú và xã Nghĩa Hương

- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông vào khu sản xuất rau ăn lá CNC của HTX SX và dịch cụ nông nghiệp Thanh Hà - Hỗ trợ kinh phí xây dựng kho lạnh cho HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà - Hỗ trợ kinh phí mua thiết bị làm mát trong sản xuất nấm CNC cho Công ty Cổ phần xây dựng và phát triển thương mại Minh Phương

Ứng Hòa

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phỏng vấn cán bộ tại các huyện khảo sát

- Sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu cho các mô hình SX nông nghiệp ứng dụng CNC (30.000 đồng/m2 nhà lưới; 50.000 đồng/m2 nhà màng, và không quá 500 triệu/1 mô hình

103

Huyện Thường Tín còn lồng ghép các chương trình hỗ trợ cho nông nghiệp,

nông thôn của Chính phủ để hỗ trợ cho các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. UBND huyện đã sử dụng nguồn vốn từ Chương trình Nông thôn mới để hỗ trợ đầu tư đường giao thông ra các khu sản xuất tập trung, đường giao thông vào khu sản xuất của HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, xã Ninh Sở, sử dụng nguồn kinh phí Quỹ khuyến nông (kinh phí hỗ trợ không quá 75 triệu đồng/mô hình) hỗ trợ kinh phí mua thiết bị làm lạnh phục vụ cho sản xuất nấm của cho Công ty cổ phần xây dựng và Phát triển thương mại Minh Phương ở xã Hiền Giang; hỗ trợ kinh phí làm kho lạnh cho HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, xã Ninh Sở (Kết quả phỏng vấn bà Đặng Thị Thanh Hương, Phó trưởng phòng Kinh tế, huyện Thường Tín, tháng 03/2020).

Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC, UBND huyện Ứng Hòa sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ kinh phí (30.000 đồng/m2 nhà lưới, 50.000 đồng/m2 nhà màng, kinh phí hỗ trợ không quá 500 triệu đồng/mô hình) cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu của các mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC. Theo chương trình này,

UBND huyện đã hỗ trợ khoảng 1 tỷ đồng cho mô hình 5.000 m2 trồng rau, dưa lưới trong nhà kính của nhóm hộ ông Nguyễn Chí Nghĩa tại thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn Công; hỗ trợ 500 triệu đồng cho Trang trại Minh Châu EcoFarm tại xã Hồng Quang (Kết quả phỏng vấn bà Đặng Thị Tươi, Trưởng phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa, tháng

03/2020). 4.2.2.3. Thực trạng thực hiện các chính sách ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp để phát triển nông nghiệp CNC

Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có và được hưởng nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhất hiện nay, cụ thể như: Quyết định 62/2013/QĐ-TTg ngày

25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng mẫu lớn; Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Đầu tư. Theo quy định của 02 văn bản này các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chế biến, bảo quản nông sản... là các lĩnh vực thuộc danh mục được ưu đãi đầu tư.

Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ thay thế Nghị định 41/2010/NĐ-

CP của Chính phủ quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Theo đó, Nghị định quy định với nhiều chính sách ưu đãi như: Doanh nghiệp được vay khi không có tài sản bảo đảm, với mức vay 70% - 80% giá trị dự

án theo mô hình liên kết với hình thức cho vay linh hoạt linh hoạt, giảm lãi suất cho

104

vay 0,2%/ năm nếu mua bảo hiểm... Và gần đây nhất, Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn” đã có quy định về hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

Riêng đối với nông nghiệp CNC cũng có nhiều chính sách ưu đãi được đưa ra như: Tài trợ toàn bộ chi phí đối với các dự án nghiên cứu CNC, các doanh nghiệp hoạt động trong khu nông nghiệp CNC được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu…

Ngày 24/4/2017, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 813/QĐ- NHNN về “Chương trình cho vay ưu đãi nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch” theo Nghị quyết 30/NĐ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ. Theo đó, đối tượng áp dụng của chương trình bao gồm: (1) pháp nhân và cá nhân có nhu cầu vay vốn để triển khai thực hiện dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch theo tiêu chí đã được xác định trong các chương trình, dự án nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch quy định tại Quyết

định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; (2) Các ngân hàng thương mại cho vay được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.

Chính sách ưu đãi tín dụng của Hà Nội cho phát triển nông nghiệp CNC được

quy định tại rất nhiều văn bản, chính sách của các cấp chính quyền.

- Khoản 7, Điều 1, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm 2015 của HĐND Thành phố Hà Nội đã quy định chi tiết về hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình có dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cụ thể như sau:

Ngân sách Thành phố bố trí, hỗ trợ 100% lãi suất ngân hàng (theo mức lãi suất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Hà Nội) nếu

vay vốn tại các ngân hàng, tính từ thời điểm ký hợp đồng tín dụng, thời hạn vay tối đa 36 tháng. Mỗi đối tượng chỉ được hỗ trợ về lãi suất vốn vay duy nhất cho 01 dự án (phương án), và tổng mức vốn vay làm căn cứ để được tính hỗ trợ tối đa không quá 50

tỷ đồng/dự án (phương án).

- Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND, ngày 05/12/2018, của HĐND Thành phố Hà Nội quy định hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC theo từng hạng mục cụ thể như sau:

105

+ Đối với hạng mục đầu tư xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản

giống, bảo quản nông sản: Được hỗ trợ 100% số tiền lãi suất ngân hàng theo mức lãi suất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (chi nhánh thành phố Hà Nội) tính từ thời điểm ký hợp đồng tín dụng vay vốn, thời hạn hỗ trợ tối đa là 3 năm với mức vay tối đa 70% giá trị đầu tư của dự án.

+ Đối với việc đầu tư, trang bị các loại máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến nông sản: Được hỗ trợ 100% lãi suất, thời hạn tối đa là 3 năm, mức vay tối đa được hỗ trợ là 100% giá trị trang thiết bị, máy móc theo mức lãi suất của Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Hà Nội tình từ thời điểm ký hợp đồng tín dụng vay vốn.

Trong thực tế đã có cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC nhận được hỗ trợ tín dụng

từ các chương trình ưu đãi tín dụng cho các cơ sở đầu tư vào nông nghiệp CNC của Thành phố Hà Nội như hợp tác xã Nông nghiệp Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ đã được ngân sách nhà nước hỗ trợ 80% chi phí mua giống để phát triển vùng bưởi hữu cơ ứng dụng CNC trong sản xuất. Theo, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn Hà Nội, ông Chu Phú Mỹ, mặc dù quá trình triển khai vẫn còn có những bất cập, nhưng các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐND ngày 8/7/2015 của HĐND Thành phố đã bước đầu giúp doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức giải quyết được bài toán về nguồn vốn để đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Tuy

nhiên, số cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội được khảo sát biết đến và được hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ tín dụng của Thành phố còn thấp.

- Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản chất lượng cao trên địa bàn thành phố rất lớn, nên chính sách hỗ trợ đầu tư giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản được lồng ghép vào các nội dung hỗ trợ từ nguồn kinh phí khuyến nông theo Nghị định 02/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 2/8/2010 về khuyến nông; Nghị định 83/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/5/2018 về khuyến nông. Nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất như giống lúa chất lượng cao Japonica J02, ĐS1, Vaas16, Lộc trời 604, J01, J02; cây ăn quả chất lượng cao như nhãn chín muộn, bưởi Diễn, bưởi đỏ Tân Lạc…Với ngành chăn nuôi như giống bò chất lượng cao F1 BBB; hỗ trợ hàng ngàn liều tinh dịch lợn mỗi năm.

Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và phù hợp của các chính sách hỗ trợ vay vốn và tín dụng cũng cho thấy sự đánh giá khác nhau giữa cán bộ quản lý của chính

quyền địa phương với đối tượng được thụ hưởng của chính sách. Đặc biệt, trong khi

106

các đối tượng thụ hưởng chính sách đánh giá mức độ phù hợp của chính sách này ở

mức độ rất thấp (chưa tới 3%) thì đánh giá của cán bộ chính quyền địa phương về mức độ phù hợp vẫn ở mức rất cao.

Kết quả khảo sát về mức độ phù hợp của chính sách và tỷ lệ thụ hưởng từ chính

sách này từ các đối tượng thụ hưởng được thể hiện qua bảng sau:

Biết đến chính sách

Sự phù hợp

Người dân được thụ hưởng chính sách

TT

Nội dung

Tổng số phiếu

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Kết luận về sự phù hợp

Số phiếu trả lời biết

Điểm đánh giá

Số phiếu có

Thấp

34

23,4%

1

2,2

145

102

70,3%

Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay trong 36 tháng cho 1 DA

58

40%

Thấp

2

122

84,1%

145

2,32

Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với hạng mục đầu tư cơ sở chế biến

sách hỗ

Thấp

45

31,0%

3

2,13

145

125

86,2%

trợ Chính 100% lãi suất mua máy móc thiết bị trong 36 tháng

4

145

115

79,31

55

37,9%

2,43

Thấp

Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi từ nguồn kinh phí khuyến nông

Bảng 4.11: Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của các chính sách hỗ trợ vốn và tín dụng cho phát triển nông nghiệp CNC

2,26

Đánh giá chung về sự phù hợp của chính sách hỗ trợ tín dụng

5

Thấp Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019

Kết quả khảo sát ở bảng trên cho thấy mặc dù có 70,3% số người đước hỏi biết đến các chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng cho 1 dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC, 84,1% biết đến chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với các hạng mục đầu tư cơ sở chế biến, 86,2% biết đến chính sách hỗ trợ100% lãi suất trong 36 tháng để mua máy móc thiết bị nhưng khả năng tiếp cận và được thụ hưởng lợi ích từ chính sách cũng chỉ đạt rất thấp với mức tương ứng 23,4%; 40% và 31,0%.

Đối với chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi đước hỗ trợ qua các chương trình khuyến nông tỷ lệ biết đến chính sách là 79,3% và được thụ hưởng chỉ đạt 37,9%. Mức độ phù hợp của tất cả các chính sách này đều được đánh giá ở mức

thấp chỉ đạt 2,26 điểm.

107

Kết quả phỏng vấn các chủ cơ sở sản xuất nông nghiệp cũng cho thấy, mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách quy định các ưu đãi về vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, tuy nhiên, tiếp cận nguồn vốn luôn là vấn đề nan giải với nhiều doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Theo Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Tuệ Viên (Hà Nội), bà Nguyễn Thị Phương Liên, để có nguồn vốn đầu tư vào khâu chế biến các sản phẩm từ cây ổi, công ty cần từ 10 tỷ đồng đến 20 tỷ đồng, song các thủ tục xác nhận, chứng minh tài sản, đảm bảo để thế chấp… tiếp tục cản trở việc tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại. Khó khăn trong việc tiếp cận với các ngân hàng thương mại để vay vốn đầy tư vào nông nghiệp công nghệ cao là vấn đề được đề cập bởi rất nhiều các cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Trong thực tế, chi phí đầu tư cho 1 ha nhà màng tốn từ 4-5 tỷ đồng, nhưng khi các doanh nghiệp muốn thế chấp vay vốn thì chỉ được định giá theo giá đất nông nghiệp thông thường khoảng vài trăm triệu/ha.

Theo ông Mai Hữu Đoan, HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, mặc dù tổng đầu tư thiết bị, máy móc cho sản xuất rau ứng dụng CNC của HTX khoảng 5 tỷ đồng, nhưng khi làm thủ tục vay vốn tại các ngân hàng thương mại thì những tài sản này không được coi là tài sản thế chấp, do đó việc tiếp cận với các nguồn vốn của HTX gặp rất nhiều khó khăn.

Để tháo gỡ nguồn vốn cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, Tiến sỹ Nguyễn Hải An, Giám đốc Trung tâm ươm tạo Doanh nghiệp Nông nghiệp CNC cho rằng, chỉ dựa vào hệ thống các ngân hàng thương mại là không đủ mà cần phải đa dạng hóa nguồn vốn bằng việc thông qua cơ chế thu hút vốn từ các quỹ đầu tư, tổ chức, cá nhân, đầu tư vào nông nghiệp CNC. Để làm được điều đó thì Nhà nước cần sớm ban hành các quy định về việc xác lập quyền tài sản trên đất nông nghiệp, trong đó bao gồm cả nhà lưới, nhà màng, nhà kính, hệ thống tưới tiêu…để doanh nghiệp, HTX có cơ sở vay vốn, tiếp cận được nguồn vốn để sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp CNC. 4.2.2.4. Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để phát triển nông nghiệp CNC của Hà Nội

Chủ trương hỗ trợ đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao được quy định chi tiết tại Điều 7, Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ. Cụ thể, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư được ngân sách nhà nước hỗ trợ tiền đào tạo nghề cho lao động với mức hỗ trợ là 2 triệu đồng/tháng/lao động, thời gian hỗ trợ là 03 tháng.

108

Tại Hà Nội, công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động nông

nghiệp nông thôn cũng được quy định rất chi tiết tại các văn bản, chính sách của chính quyền các cấp. Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội đã đưa ra nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, trong đó có nhấn mạnh “Xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp ở cơ sở và tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân để đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất”. Theo nội dung của giải pháp này “Thành phố đầu tư xây dựng một trung tâm đào tạo và thực hành sản xuất nông nghiệp CNC với quy mô đào tạo từ

1.800 – 2.000 lao động nông nghiệp/năm theo hướng Nhà nước đầu tư xây dựng toàn bộ hạ tầng và các công trình phục vụ giảng dạy; hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình đầu tư các mô hình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản….ứng dụng CNC để nông dân

thực hành tại chỗ”. Đối với chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp CNC, luận án tập trung nghiên cứu chính sách đào tạo nghề và chính sách tập huấn hỗ trợ kỹ thuật.

(i) Chính sách đào tạo nghề

Kế hoạch số 188/KH-UBND ngày 06/10/2016 của UBND Thành phố Hà Nội thực hiện Chương trình số 02-CTr/Tu ngày ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội cũng nhấn mạnh trong giải pháp trọng tâm để phát triển nông nghiệp nội dung liên quan đến nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, cụ thể: “Tập trung đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên sâu về kỹ thuật nông nghiệp cho cán bộ kỹ thuật và quản lý từ Thành phố đến cơ sở đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao”. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08/7/2015 của HĐND Thành phố Hà Nội quy định hỗ trợ chi tiết về hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp CNC (chi tiết tại Khoản 3, Điều 1), và hỗ trợ tập huấn kỹ thuật nông nghiệp CNC (chi tiết tại Khoản 4, Điều 1).

+ Đối với công tác đào tạo nghề nông nghiệp CNC.

Đối tượng được thụ hưởng: Là người lao động trực tiếp có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên, có nhu cầu bồi dưỡng, học tập trang bị kiến thức về CNC trong sản xuất nông nghiệp. Người lao động phải được doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại đủ điều kiện chuyển giao, đào tạo về ứng dụng CNC và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc được cơ sở đào tạo có đủ điều kiện theo quy định đào tạo, bồi dưỡng ứng dụng CNC trong nông nghiệp. Và phải có trong kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và dự

toán ngân sách hàng năm của Thành phố.

109

Mức hỗ trợ: Mỗi lao động được hỗ trợ một lần bằng 100% học phí đào tạo nghề và tiền tài liệu theo quy định, mức hỗ trợ tối đa không quá 4,5 triệu đồng/người/khóa đào tạo.

Mặc dù có nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành liên quan đến hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp CNC, hỗ trợ tập huấn kỹ thuật nông nghiệp CNC, nhưng theo đánh giá chung trên phạm vi cả nước vẫn còn khoảng 46% (số liệu đầu năm 2019) nguồn nhân lực trong nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Tại Hà Nội, số lượng lao

động nông thôn được đào tạo từ trình độ sơ cấp trở lên có xu hướng tăng dần và đạt khoảng 55% vào năm 2019 (Hình 4.4). Đây có thể được coi là tín hiệu tốt để tạo ra nguồn nhân lực nông thôn có chất lượng nhằm đáp ứng được yêu cầu của nông nghiệp

60

54.8

47.2

50

44.3

40.2

36.7

40

30

Tỷ lệ (%)

20

10

2019

2016

2017

2018

0 2015

CNC và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC.

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020

Hình 4.4. Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo của Hà Nội, 2015-2019

Kết quả khảo sát thực tế đối với đại diện các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang

trại đã đầu tư vào sản xuất nông nghiệp CNC tại các địa phương của thành phố Hà Nội cho thấy, rất ít các đơn vị biết đến các chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực cho các cơ sở đầu tư vào nông nghiệp CNC. Thêm vào đó, cũng rất ít doanh nghiệp, HTX, trang trại

đã đầu tư vào nông nghiệp CNC được hưởng lợi từ các chính sách này. Theo một số chủ cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp CNC, thực tế họ mới chỉ được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về nông nghiệp CNC. Điều này cho thấy, hiệu quả của các chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về sản xuất nông nghiệp CNC ở Hà

110

Nội chưa cao và cần có sự cải thiện trong thời gian tới để tạo ra điều kiện để thu hút

thêm các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC.

Qua tổng hợp, khảo sát cho thấy, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề là cần thiết và phù hợp với nhu cầu của người dân sản xuất. Trong giai đoạn 2016-2019, toàn thành phố Hà Nội đã tổ chức đào tạo nghề sơ cấp cho 76.203 lao động, trong đó tập trung vào các huyện, các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao như tại Đông Anh, Hoài Đức, Ba Vì…

(ii) Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật

Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật hỗ trợ phát triển nông nghiệp CNC dành cho các đối tượng áp dụng liên quan đến nông nghiệp CNC, cụ thể: “Cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, người lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,

trang trại, hộ gia đình sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp ứng dụng CNC. Mỗi người chỉ được hỗ trợ tham gia 01 lần/01 nội dung tập huấn”.

Nghị quyết 10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 cũng đề cập đến hỗ trợ đào tạo nghề về sản xuất nông nghiệp CNC cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp CNC tại Khoản 3, Điều 1. Cụ thể đối tượng được thụ hưởng là người lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, trong độ tuổi lao động theo quy định, có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên, có nhu cầu bồi dưỡng, học tập, đào tạo về nông nghiệp CNC, nông nghiệp hữu cơ.

Điều kiện được thụ hưởng: Là người lao động được doanh nghiệp, HTX, trang trại đủ điều kiện để chuyển giao, đào tạo về ứng dụng CNC và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc cơ sở đào tạo có đủ điều kiện đào tạo, bồi dưỡng ứng dụng

CNC trong nông nghiệp theo quy định. Có trong kế hoạch đào tạo và dự toán ngân sách hàng năm của Thành phố.

Công tác phòng chống dịch bệnh được các đơn vị sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC đặc biệt quan tâm, nên chính sách hỗ trợ phòng chống dịch bệnh chủ yếu được thành phố thực qua các lớp tập huấn kĩ thuật tại các địa phương cũng đã tập huấn công tác phòng chống dịch bệnh trên các giống cây, con.

Nội dung và mức hỗ trợ: Hỗ trợ một lần bằng 100% học phí đào tạo nghề/lao động và tiền tài liệu theo quy định của cơ sở đào tạo hoặc theo phương án đào tạo của các cơ sở tự đào tạo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, mức hỗ trợ tối đa không vượt quá 4,5 triệu đồng/người/khóa đào tạo.

Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hàng năm đã tổ chức các lớp tập huấn

111

về tiến bộ khoa học kỹ thuật mới và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp cho học

viên là nông dân, chủ trang trại, khuyến nông viên, thành viên các HTX nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội, cộng tác viên khuyến nông. Năm 2016, Sở đã tổ chức 210 lớp cho 14.300 lượt người tham dự, tổng kinh phí 1.251.017.000 đồng, năm 2017 tổ chức 211 lớp cho 14.330 lượt người tham dự, tổng kinh phí 1.305.411.000 đồng, năm 2018 tổ chức 110 lớp cho 7.300 lượt người tham dự tổng kinh phí 553.339.000 đồng, năm 2019 tổ chức 132 lớp cho 8.360 lượt người tham dự tổng kinh phí 1.233.642.000 đồng.

Các học viên được giới thiệu về quy trình và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp

công nghệ cao; trao đổi về hệ thống nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới nước tiết kiệm; một số vấn đề về giống và vườn ươm giống; về hình thức tổ chức sản xuất; giới thiệu về VietGAP và quy trình sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP; tập huấn quy

trình kỹ thuật sản xuất một số loại rau và hoa,…

Qua các lớp tập huấn giúp các hộ dân đang có nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng CNC tìm hiểu về những kiến thức, kỹ thuật cơ bản của qui trình trồng cây trong nhà màng; lợi ích và những yêu cầu đặt ra trong sản xuất theo tiêu

chuẩn VietGap, từ đó lựa chọn những kỹ thuật phù hợp để đầu tư sản xuất một cách có hiệu quả nhất.

(iii) Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn được xây dựng nhằm làm mẫu để các đơn vị trong khu vực tham quan học tập, từ đó có thể nhân ra diện rộng.

Giai đoạn từ 2016 – 2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã hỗ trợ các hộ tham gia mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Cụ thể, trồng trọt 08 dạng mô hình, chăn nuôi 02 dạng mô hình, thủy sản 08 dạng mô hình. Những mô hình trình diễn do

Trung tâm khuyến nông Hà Nội triển khai được người dân đánh giá cao là mô hình nuôi thủy sản theo VietGAP với quy mô 20ha, triển khai trên địa bàn 5 huyện: Mỹ Đức, Ba Vì, Chương Mỹ, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Với việc sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường, ao nuôi cá 1ha sinh trưởng,

phát triển tốt, cho năng suất trên 18 tấn, cao hơn 15% so với ao nuôi thông thường; mô hình ứng dụng hệ thống tưới tiết kiệm cho cây trồng đã giảm đáng kể chi phí sản xuất. Để tưới cho 1ha rau, hệ thống chỉ cần hoạt động với thời gian 60 phút/ngày, giảm được

khoảng 40% lượng nước tưới. Lượng phân bón ít bị thất thoát, năng suất, chất lượng rau tăng lên rõ rệt; hệ thống tưới đã giúp giảm công lao động, giảm chi phí nhân công so với phương pháp tưới truyền thống.

Kết quả đánh giá sự phù hợp và tỷ lệ thụ hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nâng

cao trình độ, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn có sự khác nhau

112

trong đánh giá giữa đối tượng được thụ hưởng chính sách và các cán bộ trong cơ quan

quản lý nhà nước. Điểm đánh giá cụ thể của đối tượng thụ hưởng chính sách như sau:

Bảng 4.12. Kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận và sự phù hợp của chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ và tập huấn kỹ thuật

Sự phù hợp Biết đến chính sách Người dân được thụ hưởng chính sách TT Nội dung Tổng số phiếu Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Điểm đánh giá Kết luận phù hợp Số phiếu trả lời biết Số phiếu trả lời có

145 125 86,2% 88 60,6 2,75 1 Trung bình Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề

145 115 79,3 85 58,62 2 Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật Trung bình

3 42 28,9% 3.05 2.35 Chính sách hỗ trợ mô hình trình diễn 145 87 60%

4 2.71 Đánh giá chung về mức độ phù hợp của chính sách đào tạo

Thấp Trung bình Nguồn: Kết quả khảo sát, năm 2019

Kết quả khảo sát cho thấy mức độ phù hợp của chính sách đào tạo được đánh giá chung ở mức độ trung bình (2,71điểm) trong đó chỉ chính sách hỗ trợ mô hình

trình diễn được đánh giá ở mức thấp (2,35 điểm). Tỷ lệ biết đến chính sách đào tạo nghề và tập huấn kỹ thuật tương đối cao, tỷ lệ hưởng thụ cũng đạt trên mức trung bình. Trong khi đó tỷ lệ người được hỏi biết đến chính sách hỗ trợ trình mô hình trình diễn 60% và tỷ lệ được thụ hưởng từ chính sách này chỉ đạt 28,9%. Điều này cho thấy việc

tiếp cận để thụ hưởng được lợi từ chính sách còn vô cùng khó khăn đối với các cơ sở sản xuất nông nghiệp dẫn đến tạo ra các rào cản trong phát triển nông nghiệp CNC của Hà Nội trong thời gian qua.

4.2.3. Thực trạng giám sát và khắc phục các thất bại của thị trường 4.2.3.1. Thực trạng cải thiện thủ tục hành chính để phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội

Vấn đề cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế luôn được quan tâm bởi các cấp

chính quyền của Thành phố Hà Nội. Ngày 18/10/2011, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 08-CTr/TU về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ công chức, viên chức giai đoạn 2011-2025”. Kết

113

quả tổng kết Chương trình số 08-CTr/TU giai đoạn 2011-2015 của Thành ủy Hà Nội

cho thấy, qua 4 năm tổ chức, triển khai, thực hiện Chương trình số 08- CTr/TU của Thành ủy, công tác cải cách hành chính (CCHC) của Hà Nội đã được thực hiện toàn diện cả 6 nội dung. Bên cạnh đó, chỉ số CCHC cấp tỉnh (PAR INDEX) của thành phố Hà Nội luôn được Bộ Nội vụ đánh giá đạt kết quả cao, là một trong những địa phương dẫn đầu về CCHC (năm 2012 xếp thứ 7/63 tỉnh, thành phố; năm 2013 xếp thứ 5/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của thành phố Hà Nội đã có sự cải thiện đáng kể, năm 2013 tăng 18 bậc so với năm 2012,

năm 2014 tăng 7 bậc so với năm 2013 và thuộc nhóm các địa phương có chất lượng điều hành khá tốt trong các tỉnh, thành. Ngày 24/6/2016, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 08-CTr/TU giai đoạn 2016-2020. Công tác cải cách hành chính tiếp

tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền của Hà Nội. Gần đây nhất vào ngày 11/6/2020, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 124/KH-UBND về “Cải thiện, nâng cao chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính của Thành phố trong năm 2020 và các năm tiếp theo”, trong đó đặt ra mục đích “Phấn đấu

chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính của Hà Nội tiếp tục đạt trên 80% và cao hơn mức trung bình chung của cả nước”.

Mặc dù công tác cải cách hành chính để nâng cao chất lượng phục vụ người dân và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế luôn được quan tâm bởi các

cấp chính quyền của Hà Nội, tuy nhiên kết quả của công tác cải cách hành chính trên địa bàn Thành phố vẫn chưa đạt được các kết quả như kỳ vọng. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Hà Nội chưa có sự đột phá: (1)Một số chỉ số đánh giá còn

thấp, chuyển biến chậm; (2) tính minh bạch, khả năng tiếp nhận thông tin, các chi phí không chính thức, mất nhiều thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước, chi phí gia nhập thị trường, đất đai còn lớn. Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng của Thủ đô chưa được xây dựng; việc ban hành các

cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút đầu tư còn chậm và chưa đồng bộ.

Theo kết quả nghiên cứu của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam

(VCCI) vào năm 2017, thủ tục hành chính về đất đai là phiền hà nhất và đang là một trong các cản trở lớn đối với các doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Kết quả nghiên cứu của VCCI năm 2017 chỉ ra rằng, có đến 76% doanh nghiệp đang sản xuất, hoạt động trong lĩnh vực

nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai. Đến mức có những doanh nghiệp nông nghiệp đánh giá thủ tục hành chính về đất đai

114

là phiền hà nhất, khó khăn nhất so với các lĩnh vực khác như: Thuế, bảo hiểm, môi

trường, giao thông... Đồng thời khi doanh nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất, thường gặp rất nhiều cản trở đối với: Các thủ tục thuê, mua đất phức tạp (49% doanh nghiệp được khảo sát đồng ý); quy hoạch chưa phù hợp (38% doanh nghiệp đồng ý), 32% số doanh nghiệp được khảo sát cho rằng thông tin về đất đai được cung cấp không rõ ràng.

Kết quả khảo sát thực tế tại các huyện cũng cho thấy, phần lớn cán bộ phụ trách nông nghiệp (71,4% số người được hỏi) và đại diện các cơ sở đã đầu tư vào nông

nghiệp CNC (72,7% số người được hỏi) đều cho rằng thủ tục hành chính của các chính sách phát triển nông nghiệp nông nghiệp CNC còn phức tạp. Đây là một trong những hạn chế đối với phát triển nông nghiệp CNC của Hà Nội.

Bảng 4.13. Kết quả khảo sát về thủ tục hành chính của các chính sách phát triển nông nghiệp CNC ở Hà Nội

Cán bộ các sở Các đối tượng được STT ngành, UBND thụ hưởng chính sách

1 Quá nhiều thủ tục hành chính 54,3% 75,5%

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát năm 2019

2 Thủ tục hành chính còn phức tạp 71,4% 72,7%

Theo ông Bùi Văn Chung, Giám đốc Trang trại Minh Châu Ecofarm, thời gian để hoàn thiện các thủ tục hành chính cho việc xin phép xây dựng 3.000 m2 nhà màng, nhà lưới sản xuất dưa lưới, dưa chuột công nghệ cao trên xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa là đúng 1 năm do thủ cấp phép phải qua nhiều cơ quan. Chính điều này đã làm cho chi phí giao dịch của cơ sở tăng lên đáng kể và cũng làm giảm nhiệt huyết và cơ hội đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao (Kết quả khảo sát tháng 03/2020). Theo ông Đặng Hữu Hỷ, chủ trang trại chăn nuôi lợn sử dụng dây chuyền cho ăn tự động tại xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, mặc dù rất được lãnh đạo huyện ủng hộ, nhưng thủ tục xin cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho trang trại của ông cũng tốn rất nhiều thời gian và chi phí do phải đi lại nhiều lần. Bên cạnh đó, từ khi nộp hồ sơ xin vay vốn từ Ngân hàng NN&PTNT huyện đến khi được vay cũng mất gần 1 năm. Ông Hỷ cũng đã từng làm thủ tục để xin vay vốn (khoảng 5 tỷ đồng) từ Quỹ hỗ trợ đầu tư của Thành phố Hà Nội,

nhưng cũng không vay được do thủ tục yêu cầu các công trình xây dựng, dự án phải có hóa đơn, chứng từ, trong khi theo ông Hỷ đầu tư cấp độ trang trại thì việc hoàn thiện được các thủ tục này là tương đối khó, chi phí giao dịch cao.

115

Các quy định hành chính chưa linh hoạt trong các chính sách hỗ trợ cho sản

xuất nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội đã làm hạn chế khả năng mở rộng đầu tư của các cơ sở đã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn hành phố cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới quyết định đầu tư vào nông nghiệp của doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đang có dự định đầu tư vào lĩnh vực này của Hà Nội. Kết quả phỏng vấn lãnh đạo của HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện Thường Tín cho thấy, mặc dù vốn đầu tư của cơ sở rất lớn (5 tỷ đồng), doanh thu năm 2019 của HTX đạt khoảng 6 tỷ đồng, nhưng do quy mô diện tích của HTX chỉ đạt 1,2

ha nên HTX không được hưởng các chính sách hỗ trợ đối với các trang trại. Theo quy định tại Điều 5 của Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ NN&PTNT, quy mô diện tích tối thiểu của trang trại phải đạt 2,1 ha. Chính quy định

này đã hạn chế khả năng tiếp cận đến các chính sách hỗ trợ và thu hút đầu tư đối với các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao do trong thực tế các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao cũng rất khó khăn trong việc tiếp cận đất đai nên việc đàm phán và thuê được 2,1 ha theo quy định cũng không phải là câu chuyện đơn giản.

Theo ông Nguyễn Trọng Long, Giám đốc HTX Hoàng Long tại xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, mặc dù là HTX chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao với dây chuyền

khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, nhưng HTX gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các chính sách ưu đãi dành cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC. Cụ thể, HTX đã làm thủ tục chuyển đổi để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chăn nuôi, nhưng khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn ghi là đất trồng lúa nên

khi vay vốn từ các ngân hàng thì việc thế chấp giấy chứng nhận này chỉ được cho vay với lượng vốn rất nhỏ. HTX cũng không tiếp cận được các chính sách hỗ trợ cho cơ sở chăn nuôi vì theo quy định để nhận được hỗ trợ cho các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia

súc lớn thì cơ sở giết mổ phải cách xa khu vực chăn nuôi 1 km.

Như vậy, những vướng mắc trong thủ tục hành chính về cấp phép đầu tư, thụ hưởng hỗ trợ thu hút đầu tư về vốn, đất đai… đã làm cản trở mục tiêu thu hút doanh

nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội trong thời gian vừa qua. Trong thời gian tới, Hà Nội cần tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm thay đổi môi trường để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC. 4.2.3.2 Thực trạng xúc tiến thương mại và đầu tư của Hà Nội để phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Xúc tiến đầu tư được xác định là một trong các hoạt động quan trọng đối với

các địa phương trong phát triển kinh tế nói chung, và phát triển nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Về bản chất, xúc tiến đầu tư được hiểu là tổng thể các biện pháp, các

116

hoạt động của địa phương nhằm định hướng nhà đầu tư hoặc thu hút sự quan tâm của

các nhà đầu tư. Các hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm: tổ chức các hội thảo thu hút đầu tư; tổ chức các phái đoàn xúc tiến đầu tư; tham gia hội chợ giới thiệu cơ hội đầu tư; phát hành các ấn phẩm, tài liệu; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đến thăm viếng, hợp tác; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.

Xúc tiến đầu tư để phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã được cụ thể hóa trong các văn bản của các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội. Chương trình 02- CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội đã xác định thực hiện các chính sách

hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp đã được xác định là một trong các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp của Thủ đô. Các hoạt động cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm được xác

định bao gồm:

+ Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tổ chức, tham gia các hội chợ, triển lãm hàng nông sản và làng nghề; xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng nghề của Thủ đô.

+ Thành lập đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT làm chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ các doanh nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm, xây dựng, phát triển thương hiệu hàng hóa, hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng nghề.

Chương trình 02-CTr/TU ngày 26/04/2011 của Thành ủy Hà Nội đã xác định “tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm nông nghiệp” là một trong các giải pháp trọng tâm đối với phát triển nông nghiệp của Hà Nội nói chung và nông nghiệp

CNC nói riêng. Các hoạt động chủ yếu bao gồm: (i) Tổ chức các hội chợ, triển lãm, chương trình xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm nông nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ; (ii) Hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, liên kết với nông dân đầu tư vào nông nghiệp.

Để cụ thể hóa chủ trương của Thành ủy về xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, rất nhiều các hoạt động liên quan đã được tiến hành từ cấp Thành phố tới các huyện. Hàng năm

UBND Thành phố Hà Nội đều ban hành Chương trình Xúc tiến đầu tư, Thương mại và Du lịch của Thành phố, trong đó “thu hút đầu tư vào nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao” được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của công tác xúc tiến đầu tư. Nhằm tăng cường hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực

nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại

117

và Du lịch thành phố Hà Nội được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2015

với các chức năng chủ yếu như: (i) Đề xuất, tổ chức triển khai, thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, nông nghiệp của Hà Nội; (ii) Là cơ quan tổng hợp các đề xuất, kiến nghị và phối hợp với các cơ quan có liên quan đề xuất UBND thành phố Hà Nội ban hành các chính sách để thu hút về đầu tư, thương mại, du lịch, nông nghiệp; (iii) Triển khai thực hiện hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu tìm cơ hội đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển dịch vụ, du lịch tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố ở Việt

Nam và nước ngoài.

Sở NN&PTNT Hà Nội luôn phối hợp với Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch Hà Nội tổ chức các cuộc tọa đàm, hội nghị xúc tiến đầu tư về nông

nghiệp, nông nghiệp CNC. Ngày 27/10/2017, “Tọa đàm xúc tiến phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Hà Nội” đã được tổ chức nhằm: (1) Giới thiệu về chính sách hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng CNC của thành phố Hà Nội; (2) Trao đổi và giải đáp các thông tin, khó khăn, vướng mắc trong quá trình

đầu tư, triển khai các dự án nông nghiệp trên địa bàn Thành phố.

Qua khảo sát cho thấy, đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC việc tiêu thụ sản phẩm tương đối thuận lợi do nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông sản sạch trên địa bàn rất lớn. Đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng

CNC của một số mô hình là do doanh nghiệp tự tìm đến đơn vị sản xuất để liên kết tiêu thụ, một phần do các mô hình sản xuất tự chủ động quảng bá, giới thiệu, phân phối sản phẩm đến các hệ thống siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch. Nhiều sản phẩm

nông nghiệp ứng dụng CNC đã tạo được thương hiệu và tiêu thụ rất tốt trong hệ thống siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, Phòng Kinh tế, UBND huyện đã giúp kết nối các hộ sản xuất đối với các đơn vị như ngân hàng, trường mầm non trên địa bàn huyện để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng

CNC nên đầu ra cho sản phẩm tương đối ổn định.

Nhằm nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến đầu tư, thay vì thực hiện đơn lẻ các hoạt động xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội đã được tổ chức lồng ghép, kết

nối các lĩnh vực như đầu tư, thương mại, du lịch, nông nghiệp... để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí cho ngân sách Thành phố. Trong khuôn khổ chương trình Lễ hội hoa anh đào Nhật Bản – Hà Nội 2019, UBND Thành phố Hà Nội đã tổ chức “Hội nghị trao đổi hợp tác xúc tiến đầu tư, du lịch giữa Hà Nội và Nhật Bản”. Trong hội nghị này, Hà

Nội đã giới thiệu, kêu gọi xúc tiến đầu tư trong nhiều lĩnh vực trong đó có nhấn mạnh lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

118

Ngày 22/04/2019, Sở NN&PTNT Hà Nội đã tổ chức hội nghị “Xúc tiến kết nối

doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; phát triển liên kết vùng, tạo sản phẩm nông nghiệp chủ lực, xúc tiến xuất khẩu chính ngạch”. Tại hội nghị này, Sở NN&PTNT Hà Nội đã giới thiệu 9 khu nông nghiệp CNC đã được quy hoạch tại các quận, huyện. Sở NN&PTNT Hà Nội cũng đã tổng hợp 11 dự án nông nghiệp công nghệ cao để kêu gọi, thu hút đầu tư trong giai đoạn 2019 – 2025 như bảng dưới đây:

Bảng 4.14. Danh mục các dự án nông nghiệp công nghệ cao kêu gọi đầu tư trực tiếp của thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2025

TT

Tên dự án

Quy mô diện tích (ha)

Dự kiến vốn đầu tư (tỷ VNĐ)

668

1.000

1 Dự án nông nghiệp công nghệ cao tại các xã An Thượng, Song Phượng (huyện Hoài Đức)

2 Dự án nông nghiệp công nghệ cao tại xã Hiền

120

350

Ninh (huyện Sóc Sơn)

70

150

3 Dự án nông nghiệp công nghệ cao ở các xã Thanh Xuân, Tân Dân (huyện Sóc Sơn)

4 Dự án nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái tại

200

1.300

xã Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ)

2,74

350

5 Dự án khu giết mổ gia súc tập trung các xã Quang Lãng, Tri Thủy (huyện Phú Xuyên)

23,3

1.000

6 Dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại vũng bãi ven sông Đáy thuộc xã Đồng Tháp (huyện Đan Phượng)

80

1.300

7 Dự án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở xã Kim Sơn (thị xã Sơn Tây)

8 Dự án vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ

300

100

cao ở huyện Ba Vì

9 Dự án khu giết mổ gia súc thôn Tri Lai, xã

4

350

Đồng Thái (huyện Ba Vì)

10 Dự án khu giết mổ gia súc, gia cầm ở xã Trạch

10

400

Mỹ Lộc (huyện Phúc Thọ)

11 Dự án khu giết mổ gia súc, gia cầm tại xã Minh

10

400

Phú, huyện Sóc Sơn

Nguồn: Tổng hợp từ Công thông tin điện tử của UBND Thành phố Hà Nội, 2020

119

Có thể thấy hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội đã được thực hiện hàng năm ở cấp độ Thành phố. Hoạt động này cũng được thực hiện lồng ghép với rất nhiều hoạt động khác và đã được chú trọng bởi Sở NN&PTNT Hà Nội. Bên cạnh đó, một số huyện cũng đã quan tâm đến hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao như: Thường Tín, Đan Phượng, Mỹ Đức...

9.00

8.00

7.00

6.00

5.00

4.00

3.00

2.00

1.00

0.00

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Tại các huyện tiến hành khảo sát, hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao cũng bắt đầu được quan tâm chú trọng và thực hiện dưới nhiều các hình thức khác nhau. Chẳng hạn, UBND huyện Mỹ Đức tổ chức các cuộc gặp mặt với các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp là người con của quê hương để giới thiệu các tiềm năng và cơ hội đầu tư trong nông nghiệp. UBND huyện Thường Tín chỉ đạo các phòng, ban chức năng, đặc biệt là Phòng Kinh tế đồng hành để hỗ trợ các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao về các thủ tục hành chính, thủ tục để tiếp cận với các chính sách hỗ trợ, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố. Bên cạnh việc tổ chức hội chợ giới thiệu nông sản, kết nối đầu tư, huyện Đan Phượng còn thực hiện hỗ trợ thủ tục hành chính để tiếp cận với các chính sách hỗ trợ, thu hút đối với các doanh nghiệp, cơ sở có dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn huyện.

Nguồn: https://www.pcivietnam.vn

Hình 4.5. Chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Hà Nội, 2010-2019

Các chủ trương, chính sách xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội trong thời

gian qua đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận. Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ số về dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp để thu hút đầu tư của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2010-2019 luôn đạt ở mức khá và có xu

120

hướng tăng trưởng nhẹ (Hình trên đây). Đây được coi là một trong các dấu hiệu tích

cực để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố.

4.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp CNC của chính quyền Hà Nội 4.3.1. Thành công chủ yếu

Quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp CNC thời gian qua đã đạt được

một số kết quả nhất định thể hiện như sau:

Thứ nhất, Thành phố Hà Nội đã chủ động xây dựng qui hoạch và chiến lược cũng như ban hành các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC. Trong đó, một số chính sách đã đến người dân, các HTX, hộ kinh doanh để khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC.

Thứ hai, việc tổ chức thực hiện qui hoạch, triển khai chính sách phát triển nông nghiệp CNC đã được thực hiện trên toàn thành phố. Nhiều chính sách bước đầu đã có

đóng góp tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn cho DN, HTX và các hộ kinh doanh để phát triển nông nghiệp CNC trong việc tiếp cận đất đai, vốn, công nghệ và đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nâng cao năng lực của người lao động.

Thứ ba, nhiều chính quyền cấp huyện của thành phố Hà Nội đã có những giải pháp tích cực, chủ động đưa chính sách vào cuộc sống góp phần quan trọng trong việc tạo ra nhưng thành quả đáng ghi nhận với các mô hình nông nghiệp CNC ngày càng tăng lên.

Thứ tư, số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội có xu hướng biến động và tăng. Trong giai đoạn từ 2014-2018, số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản của Hà Nội tăng đạt tốc độ bình quân 1,2%/năm. Lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này lại có xu hướng

tăng mạnh. Bình quân trong giai đoạn 2015-2019, lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội tăng với tốc độ 24,1%/năm.

121

1182

1200

1220 1200 1180 1160 1140

1125

1120

1115

Số lượng DN

1100

1080 1060 1040 1020

1089

2014

2015

2016

2017

2018

Hình 4.6. Số lượng doanh nghiệp, HTX trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Hà Nội, 2014-2018

Thứ năm, bên cạnh sự phát triển của các DN thì nhiều mô hình nông nghiệp CNC đã và đang phát triển. Từ chỗ Hà Nội chỉ có chưa đến 10 mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và việc ứng dụng công nghệ mới chỉ ở một số

khâu, thì trong 5 năm trở lại đây, lĩnh vực này đã có sự phát triển mạnh mẽ. Đến nay, trên địa bàn thành phố đã có 123 mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, cho giá trị gia tăng lớn. Trong đó, lĩnh vực trồng trọt chiếm 18%, chăn nuôi

34%, thủy sản 13%, tập trung tại các huyện: Mê Linh (18 mô hình), Gia Lâm (17 mô hình), Thường Tín (14 mô hình), Thanh Oai (9 mô hình), Phúc Thọ (8 mô hình), Đông Anh (8 mô hình), Đan Phượng (8 mô hình)...

Trong lĩnh vực trồng trọt, hầu hết các huyện đều có mô hình điểm, đem lại giá

trị cao, bảo đảm chất lượng xuất khẩu. Hiện nay, Hà Nội có 119 ha nhà lưới trồng rau, 15 ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, nông dân Hà Nội đã ứng dụng thêm nhiều công

nghệ mới như công nghệ vi sinh, bảo đảm chăn nuôi an toàn dịch bệnh, không ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, trong khâu giống đã có sự đột phá với 100% giống bò sữa, 61% giống bò thịt, 79% giống lợn đã áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, Hà Nội có mô hình cho ăn tự động, kiểm tra môi trường, nhiệt độ… được tích hợp trên điện thoại di động thông minh để giám sát và điều khiển từ xa...

Các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà

Nội thời gian qua đều phát huy hiệu quả. Nông sản làm ra tới đâu tiêu thụ hết tới đó,

122

nhờ chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp, đồng đều. Dù giá thành cao hơn các sản

phẩm sản xuất đại trà từ 20 đến 30% nhưng vẫn được nhiều người tiêu dùng lựa chọn.

Ngoài việc ứng dụng công nghệ cao trong các mô hình sản xuất nông nghiệp, Hà Nội còn tập trung triển khai rộng rãi quy trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP… góp phần tăng hiệu quả sản xuất từ 15 đến 20%.

Giá trị sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đồng bộ về giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công nghệ tưới tiết kiệm đối với trồng trọt; giống, thức ăn, phòng chống dịch bệnh, thiết bị công nghệ, hệ thống thu gom, xử lý chất thải, nước

thải chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Thành phố còn ở mức thấp, chủ yếu ứng dụng công nghệ cao từng phần; sản phẩm công nghệ cao còn ở quy mô nhỏ, phân tán, thiếu đồng bộ; chưa có doanh nghiệp, trang trại sản xuất công nghệ cao…

Thứ sáu, Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các nhà khoa học đầu ngành, các cơ sở nghiên cứu hàng đầu cả nước nên việc liên kết lực lượng này với doanh nghiệp, họ nông dân bước đầu cũng có những kết quả nhất định. Một số dự án nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Thủ đô đã được ứng dụng vào thực tế.

Trong đó, những lĩnh vực cần quan tâm là công nghệ sinh học; công nghiệp chế biến; giống; phát triển mô hình nông nghiệp thông minh… Cùng với đó là các biện pháp giới thiệu sản phẩm, gắn kết ứng dụng khoa học công nghệ với sản xuất, thương mại, truy suất nguồn gốc hàng hóa để đảm bảo chất lượng, gây dựng niềm tin cho người

tiêu dùng.

Thứ bảy, Hà Nội đã cơ bản hoàn thành dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp. Đây là cơ sở quan trọng cho ngành Nông nghiệp Thủ đô triển khai những mô hình sản xuất

chuyên canh công nghệ cao quy mô lớn. Trong đó, rau, hoa, trái cây, thịt, thủy sản… là những sản phẩm chủ lực của Thủ đô mà các địa phương có thể tiếp tục mở rộng diện tích sản xuất công nghệ cao.

4.3.2. Hạn chế của quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố Hà Nội

Mặc dù thành phố Hà Nội đã có qui hoạch và nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp CNC như Chương trình số 02-CTr/TU), Hội đồng nhân dân Thành phố đã ban hành rất nhiều các Nghị quyết và các văn bản liên quan (Nghị quyết số số 03/2012/NQ-HĐND, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND, Nghị quyết

10/2018/NQ-HĐND) để hỗ trợ, thu hút doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại... đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên các văn bản chính sách liên quan đến hỗ trợ, thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC của Hà Nội

123

cũng còn nhiều điểm hạn chế, vẫn còn nhiều đơn vị thụ hưởng chưa biết đến và cũng

chưa được tiếp cận các chính sách, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, công tác xây dựng quy hoạch nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu; nhiều điểm quy hoạch không còn phù hợp hoặc khó thực hiện, cần được rà soát, điều chỉnh. Thành phố chưa xây dựng và công bố công khai quy hoạch khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố theo quy định tại Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp công nghệ

cao đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Trong khi đó, quy định pháp luật có nhiều thay đổi; có việc thay đổi thẩm quyền dẫn đến việc xây dựng quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch mất nhiều thời gian, mất tính thời sự, như việc rà soát, xây dựng, điều

chỉnh quy hoạch nông nghiệp trước đây thuộc thẩm quyền HĐND cấp tỉnh, nay Luật Quy hoạch 2017 thẩm quyền thuộc Trung ương…; Do chức năng, nhiệm vụ pháp luật quy định: Sở chuyên ngành cũng có chức năng kiểm tra, UBND các cấp cũng thực hiện việc kiểm tra, dẫn đến có lúc trùng lặp, có việc lại chưa phối hợp tốt, ít kiểm tra,

giám sát; Quy trình công tác kiểm tra còn nhiều bước, địa bàn Hà Nội rộng; số lượng và chất lượng cán bộ làm bộ phận thanh tra, kiểm tra các sở, ngành, UBND các huyện còn ít dẫn đến khó kiểm tra, bao quát hết địa bàn.

- Thứ hai, chậm triển khai một chính sách về khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, chuỗi giá trị trong sản xuất, phân phối sản phẩm nông nghiệp đã được HĐND Thành phố thông qua (ví dụ như: Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND về “Một số chính sách thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụngCNCcủa Thành

phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020” được HĐND Thành phố Hà Nội thông qua ngày 08/07/2015. Tuy nhiên, ngày 07/8/2017 (sau hơn 2 năm kể từ khi Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND được thông qua) UBND Thành phố Hà Nội mới ban hành “Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà

Nội” thông qua Quyết định số 28/2017/QĐ-UBND ngày 07/08/2017 của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội).

Việc thực hiện một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp

của Trung ương và Thành phố còn triển khai chậm và chưa đạt được các mục tiêu so với yêu cầu. Một số nội dung hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp của Thành phố gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, kết quả rất hạn chế (ví dụ như chính sách hỗ trợ lãi suất vốn vay phát triển sản xuất).

124

- Thứ ba, công tác tuyên tuyền để phổ biến các chính sách hỗ trợ và phát triển nông nghiệp CNC của Hà Nội cũng chưa thực sự hiệu quả, chưa góp phần giải quyết những khó khăn của các doanh nghiệp và những cơ sở sản xuất nông nghiệp khi tham gia đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao.

- Thứ tư, việc triển khai các qui hoạch khu nông nghiệp chậm, chưa thực hiện phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, 8 – 10 khu nông nghiệp công nghệ cao cấp vùng hiện chậm triển khai, chưa hình thành; việc triển khai khu nông nghiệp công nghệ cao

sông Đáy theo quy hoạch còn rất chậm.

- Thứ năm, Thành phố cũng đã ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên,

trong quá trình triển khai trong thực tế, các địa phương cũng mới chỉ triển khai công tác đào tạo lao động nông thôn một cách chung chung, số lượng các lớp đào tạo chuyên sâu về nông nghiệp công nghệ cao còn hạn chế. Năng lực của cán bộ sở, ngành trong công tác thẩm định, định hướng xây dựng quy hoạch đối với các đơn vị tư vấn

còn hạn chế; việc đánh giá tác động của quy hoạch đến các đối tượng khi xây dựng quy hoạch còn hạn chế. Chậm ban hành các chính sách Trung ương giao cho cấp tỉnh ban hành (như: Ban hành danh mục dự án khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ)

Các hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân, cụ thể như sau:

Thứ nhất, chưa xác định được lĩnh vực ưu tiên để phát triển nông nghiệp, nông thôn của Thành ủy Hà Nội (Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội), Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn của Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐND ngày 05 tháng 04 năm 2012 của HĐND Thành phố Hà Nội), phát triển nông nghiệp CNC; hỗ trợ và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC được coi là nhiệm vụ, giải pháp hàng đầu. Tuy nhiên, trong các văn bản chính sách này chưa xác định được lĩnh vực nào là lĩnh vực ưu tiên để thu hút đầu tư, do đó các chiến lược thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC vẫn chung chung và thiếu các chiến lược thu hút doanh nghiệp đầu

tư vào CNC trong từng lĩnh vực cụ thể. Tình trạng tự phát, manh mún trong phát triển sản xuất còn phổ biến ở một số địa phương, còn thiếu một định hướng phát triển rõ nét nhằm nâng cao sức thu hút đầu tư.

Thứ hai, chiến lược phát triển nông nghiệp CNC còn chung chung cho các loại đối tượng (doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình), chưa xác định được

125

chiến lược thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC riêng biệt đối với các doanh nghiệp.

Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm 2015 của HĐND Thành phố Hà Nội về “Một số chính sách thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020” có quy định rất nhiều các chính sách hỗ trợ để thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC của Thành phố. Tuy nhiên, các chính sách này lại quy định chung cho tất cả các đối tượng từ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình mà không có quy định riêng biệt cho từng nhóm đối tượng, chưa xác định rõ các đối tượng mục tiêu để thu hút đầu tư vào nông nghiệp

CNC. Vì vậy, Thành phố cũng chưa có các chính sách riêng biệt để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp CNC. Trên thực tế, mỗi đối tượng doanh nghiệp lại có những nhu cầu hỗ trợ khác nhau chẳng hạn, đối với doanh nghiệp lớn 100% vốn nước

ngoài họ lại quan tâm tới vấn đề đất đai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong khi các doanh nghiệp trong nước lại cần hỗ trợ về tín dụng… Tình trạng chăn nuôi phân bố gần hoặc xen kẽ ngay trong khu dân cư cũng như sử dụng hóa chất tùy tiện trong trồng trọt vẫn còn khá phổ biến gây ô nhiễm môi trường đất đai, nguồn nước, không khí,…

tác động xấu không chỉ tới môi trường sống và sản xuất mà còn khiến nông sản không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh - an toàn thực phẩm, giảm sức cạnh tranh trên thị trường, hạn chế đáng kể tới hiệu quả trong quá trình lưu thông - tiêu thụ sản phẩm; nhất là với thị trường vốn được coi là khắt khe về chất lượng sản phẩm như Hà Nội.

Thứ ba, chưa vận hành được các khu nông nghiệp công nghệ cao. Năm 2015 Thành phố Hà Nội đã được phê duyệt Khu nông nghiệp CNC đầu tiên tại huyện Đông Anh với diện tích 96,6 ha theo Quyết định số 575/QĐ-Ttg ngày 04/05/2015 của Thủ

tướng Chính phủ, và tính đến hiện tại Thành phố đã quy hoạch 9 khu nông nghiệp CNC. Tuy nhiên, Thành phố Hà Nội chưa vận hành được bất cứ khu nông nghiệp CNC nào, chưa xây dựng được mô hình trình diễn về nông nghiệp CNC mà tất cả mới chỉ dừng lại ở quy hoạch. Chính điều này đã hạn chế sức hút đối với các doanh nghiệp

muốn đầu tư vào nông nghiệp CNC do Thành phố chưa có các mô hình thuộc khu nông nghiệp CNC để dẫn dắt, quảng bá cách làm nông nghiệp công nghệ cao thông qua các hoạt động trình diễn và chuyển giao công nghệ.

Thứ tư, Thành phố đã thực hiện các chính sách đào tạo đối với lực lượng lao động nông thôn, và tính đến hiện tại đã có khoảng 56% lao động nông thôn của Hà Nội được đào tạo nghề từ sơ cấp trở lên (Niên giám Thống kê Hà Nội, 2020). Thành phố cũng đã ban hành các chủ trương, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đáp

ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai trong thực tế, các địa phương cũng mới chỉ triển khai công tác đào tạo lao động

126

nông thôn một cách chung chung, số lượng các lớp đào tạo chuyên sâu về nông nghiệp công nghệ cao còn hạn chế (Kết quả trao đổi, thảo luận với cán bộ phụ trách nông nghiệp tại các huyện). Khi xây dựng chính sách, việc đánh giá đối tượng chịu sự tác động của chính sách còn hạn chế, làm chưa tốt dẫn đến nhiều chính sách khó triển khai trong cuộc sống, hiệu quả không cao như: Chính sách tín dụng, chính sách đào tạo nghề…

Thứ năm, các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp cao của Hà Nội (từ đất đai, tín dụng...) còn thiếu các hướng dẫn cụ thể, hoặc các hướng dẫn được ban hành rất chậm. Chẳng hạn, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND về “Một số chính sách thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020” được HĐND Thành phố Hà Nội thông qua ngày 08/7/2015. Tuy nhiên, ngày 07/8/2017 (sau hơn 2 năm kể từ khi Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐND được thông qua) UBND Thành phố Hà Nội mới ban hành “Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà Nội” thông qua Quyết định số 28/2017/QĐ-UBND ngày 07/08/2017 của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội.

Các chính sách cần thiết làm căn cứ, cơ sở phát triển nông nghiệp công nghệ cao chưa được xây dựng và quan tâm đúng mức: Chính sách đất đai, chính sách tín dụng. Ngoài chính sách hỗ trợ lãi suất ngân hàng cho đối tượng vay để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, còn cần nhiều chính sách khác mà Thành phố chưa quan tâm, đánh giá, khảo

sát, xây dựng như: Chính sách hỗ trợ tiền thuê đất, chính sách bảo hiểm nông nghiệp, chính sách phát triển thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, chính sách thu hút đầu tư…

Việc xây dựng các chính sách về phát triển khoa học công nghệ, chuyển giao khoa học công nghệ trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn chưa đạt được nhiều kiết quả. Mặc dù, Hà Nội là trung tâm lớn về khoa học và công nghệ, song quy mô đầu tư, khả năng nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt là các

công nghệ tiên tiến cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.

Việc xây dựng ban hành chính sách chưa quan tâm đến chính sách liên kết trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao giữa Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông

Hồng, đặc biệt các tỉnh giáp ranh (mặc dù đã có phối hợp, xây dựng các chuỗi liên kết) trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.

Chưa có chính sách cụ thể nhằm mục tiêu nâng cao năng lực của các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ

cao. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực chủ yếu là chính sách tập huấn kỹ thuật hiện

127

đang thực hiện, mức độ nâng cao, đưa khoa học kỹ thuật mới, hiện đại vào sản xuất ít.

Đào tạo đội ngũ cản bộ quản lý về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, cản bộ quản lý về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của các sở, ngành Thành phố, quản lý kinh tế của các doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân còn chưa được quan tâm xây dựng, ban hành chính sách.

Thứ sáu, các chủ trương, chính sách hỗ trợ và thu hút đầu tư vào nông CNC đã được ban hành. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến đối với các chủ trương, chính sách này chưa cao. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, tỷ lệ số lượng

cơ sở sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội (kể cả các cơ sở đã đầu tư và chưa đầu tư vào nông nghiệp CNC) biết đến các chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư (đất đai, cơ sở hạ tầng, tín dụng...) vào nông nghiệp CNC của Hà Nội còn rất thấp. Công tác thông tin

tuyên truyền đến người dân để thực hiện các cơ chế, chính sách còn hạn chế. Việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá chưa được quan tâm đúng mức, sức cạnh tranh của nông sản chưa cao

Thứ bảy, đất nông nghiệp tại các địa phương đã được giao ổn định và lâu dài cho người dân, nhưng diện tích đất nông nghiệp bình quân của 1 hộ là không lớn nên có trường hợp doanh nghiệp thuê được đất để thực hiện dự án nông nghiệp CNC tuy nhiên chi phí giao dịch để thuê được đất là tương đối lớn. Mặc dù được chính quyền địa phương ủng hộ, người dân có quỹ đất để cho thuê, nhưng Công ty Cổ phần Nông

nghiệp Công nghệ cao Hiệp Thành phải tiến hành đàm phán với khoảng 200 hộ gia đình tại xã Cao Dương, huyện Thanh Oai để thuê lại 11 ha đất trồng măng tây ứng dụng công nghệ cao. Để có diện tích 1,2 ha phục vụ đầu tư mô hình sản xuất rau công

nghệ cao, HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà ở xã Ninh Sở phải đàm phán và ký hợp đồng thuê đất với 18 hộ gia đình và với chi phí thuê đất tương đối cao là 1,5 triệu đồng/360 m2/năm (Kết quả phỏng vấn lãnh đạo HTX Thanh Hà, tháng 03

năm 2020). Cũng theo lãnh đạo của HTX Thanh Hà, đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, trong khi thời gian các hộ cho thuê đất không dài (chỉ theo hợp đồng 5 năm), nên HTX cũng không yên tâm để mở rộng quy mô đầu tư.

Trong giai đoạn đến năm 2020, áp lực của việc giảm diện tích đất nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp (khu công nghiệp, đất đô thị, giao thông ...), dẫn đến số hộ bị mất đất sản xuất và lao động thiếu việc làm sẽ tăng lên, đặt ra nhiều vấn đề kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần giải quyết; tốc độ đô thị hóa nhanh do đó các quy

hoạch về đô thị, các quy hoạch chuyên ngành liên quan đến phát triển đô thị thường

128

được quan tâm thực hiện do có nhiều vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến dân sinh bức

xúc, do vậy, việc xây dựng các quy hoạch về nông nghiệp có cấp còn chưa quan tâm đúng mức.

Thứ tám, chi phí đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao lớn cũng là một trong những rào cản để phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Ông Nguyễn Xuân Trường, Giám đốc Công ty cổ phần Vật tư và Giống cây trồng Hà Nội cho rằng, một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức muốn đầu tư vào nông nghiệp CNC là khó khăn về nguồn vốn và quỹ

đất. Để đầu tư cho 1ha đất sản xuất nông nghiệp CNC, doanh nghiệp cần số vốn từ 1,5 tỷ đến hơn 2 tỷ đồng. Theo ông Nguyễn Đức Thắng – Bí thư huyện Đan Phượng, để đầu tư 1m2 nông nghiệp CNC cần nguồn vốn 350 triệu đồng. Chi phí đầu tư cho 1,2 ha

để sản xuất rau mầm, rau ăn lá ứng dụng công nghệ cao của HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà tại xã Ninh Sở, huyện Thường Tín là khoảng 5 tỷ đồng (Kết quả phỏng vấn cán bộ lãnh đạo HTX Thanh Hà, tháng 03/2019).

Mặc dù trong Nghị định 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ (Khoản 2, Điều 8) đã

quy định “Các công trình xây dựng trên đất (bao gồm nhà lưới, nhà kính, nhà màng, các công trình thủy lợi” của doanh nghiệp đầu tư được tính là tài sản để thế chấp vay vốn từ ngân hàng thương mại”. Tuy nhiên trong thực tế, khi làm thủ tục vay vốn tại các ngân hàng thương mại thì các tài sản này lại không được các ngân hàng công nhận

là tài sản thế chấp nên việc tiếp cận với các nguồn vốn vay để đầu tư vào nông nghiệp CNC là tương đối khó khăn (Kết quả phỏng vấn ông Mai Hữu Đoan, HTX Thanh Hà, Ninh Sở, Thường Tín, 03/2020).

Việc vận dụng quy định về diện tích là 2,1 ha (Theo quy định tại Điều 5 của Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ NN&PTNT) đối với các trang trại nông nghiệp CNC là chưa thực sự phù hợp. Nguyên nhân là do, đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao rất lớn, và việc tích tụ đất để đầu tư vào nông nghiệp CNC

cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tại Hà Nội nơi đất đai có giá trị lớn. Chính quy định này đã hạn chế các cơ hội tiếp cận với các chính sách ưu đãi dành cho các trang trại đối với các cơ sở sản xuất nông nghiệp CNC, đặc biệt là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ.

Thứ chín, việc triển khai, tổ chức thực hiện, phối hợp giữa các sở, ngành Thành phố với UBND các huyện, thị xã, các đơn vị, cơ quan liên quan có lúc còn lúng túng, chậm tham mưu, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các đơn vị trong phát

triển sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao; Cơ quan chuyên môn còn

129

thiếu chủ động, chưa kịp thời rà soát tổng thể, toàn diện các cơ chế, chính sách của

Trung ương và Thành phố để đề xuất tham mưu Thành phố ban hành, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung, phát triển chuỗi nói riêng cho phù hợp với tình hình mới; một số chính sách chưa đồng bộ, phân tán trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng; năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố tư duy còn chậm thay đổi, gần như theo phương pháp truyền thống. Bên cạnh đó, sự vào cuộc chỉ đạo của một số chính quyền địa phương chưa tập trung: Việc đôn đốc kiểm tra, thực hiện

các cơ chế, chính sách. Công tác kiểm tra, xử lý chưa nghiêm.

130

CHƯƠNG 5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

5.1. Mục tiêu, quan điểm, định hướng về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Hà Nội

5.1.1. Mục tiêu, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao 5.1.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về

nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29/01/2010 về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, theo đó quan điểm, chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao: (i) Phát triển nông nghiệp CNC phải gắn với quá trình CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn, phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển nông nghiệp của ngành và của địa phương; (ii) Phát triển nông nghiệp CNC phải có sự lựa chọn, đầu tư phải đồng bộ, kết hợp hài hoà giữa nghiên cứu tạo CNC với ứng dụng để

tạo ra sản phẩm nông nghiệp hàng hoá có năng suất, chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp; (iii) Phát triển nông nghiệp CNC phải khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tiếp thu nhưng có chọn lọc thành tựu CNC của thế giới để làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến trong nông

nghiệp, đồng thời HĐH các công nghệ truyền thống; (iv) Phát triển nông nghiệp CNC phải huy động sự tham gia của các lực lượng nghiên cứu, của các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trước tiên là các doanh nghiệp và các tổ chức KHCN; thu hút nguồn đầu tư nước ngoài; (v) Tập trung chú trọng đào tạo nguồn nhân lực về CNC trong nông nghiệp đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng cao cho phát triển nông nghiệp CNC ở nước ta.

Mục tiêu: Phát triển nông nghiệp CNC góp phần xây dựng nền nông nghiệp

phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị và sức cạnh tranh cao và đạt mục tiêu tăng trưởng trên 3,5%/năm; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

131

5.1.1.2. Mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội đến năm 2025 và những năm tiếp theo Mục tiêu chung

Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp Thủ đô theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, tăng năng suất, chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi

trường sinh thái; tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của nhân dân Thủ đô. Ưu tiên phát triển những cây, con có lợi thế, tăng sản xuất rau an toàn công nghệ cao; chuyển mạnh phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, tập trung xa khu dân cư; phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, ứng dụng khoa

học công nghệ trong nuôi trồng, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững. Mục tiêu đến năm 2020, năm 2025

Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các dự báo về tình hình phát triển kinh tế xã hội, thực trạng phát triển nông nghiệp của Thủ đô thời gian qua, thành phố Hà Nội đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng giá trị gia tăng

cao: Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trong giai đoạn 2016-2020 là 2,06%; giá trị sản xuất nông nghiệp trên một ha đất nông nghiệp năm 2020 đạt 340 triệu đồng; tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao trong giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2020 chiếm 30%.

- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp gắn với hình thành vành đai cây xanh, vùng trồng rau sạch, trồng hoa cây cảnh... Nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, an toàn thực phẩm; nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất

nông nghiệp; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn (sản xuất rau, hoa, chăn nuôi, thủy sản...)

- Tăng nhanh diện tích sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung quy

hoạch, xây dựng cơ chế chính sách để khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC.

5.1.2. Quan điểm quản lý nhà nước phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội

- Phát triển công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trên cơ sở khai thác triệt để mọi tiềm năng, thế mạnh nhưng phải đảm bảo bền vững về môi trường sinh thái. Điều này dựa trên cơ sở thực trạng nông nghiệp Hà Nội hiện nay chịu sức ép to lớn trong

việc suy giảm nguồn lực đất đai do đô thị hóa song vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác triệt để để có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ

132

cao, giá trị cao. Đối với Hà Nội việc quán triệt quan điểm này là hết sức quan trọng,

bởi vì những năm qua sản xuất nông nghiệp Thủ đô đã bắt đầu có bước chuyển dịch theo hướng nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch và bền vững với việc hình thành các vùng sản xuất sinh thái, tập trung, các mô hình phát triển công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Song song việc chuyển dịch này còn mang tính tực phát, bị động, phân tán nên hiệu quả chưa được như kỳ vọng do đó quan điểm này là hết sức cần thiết và quan trọng. Trên cơ sở quan điểm chung này, Thành phố sẽ tập trung chỉ đạo trong công tác quản lý nhà nước để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng

phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

- Lấy khoa học công nghệ làm then chốt nhằm biến đổi mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp công

nghệ cao. Để phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng giá trị cao thì đòi hỏi việc lấy khoa học công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất là tất yếu, coi là khâu then chốt để tạo động lực cải tiến mạnh mẽ cơ cấu sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị kinh tế. Các công nghệ tiên tiến, hiện đại phải được ưu tiên

quan tâm, có chính sách được tăng cường ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ sinh học. Lấy khoa học công nghệ làm then chốt trong phát triển nông nghiệp gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Đây vừa là mục tiêu, phương hướng sản xuất, đồng thời cũng là phương tiện, động lực thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Để thực hiện quan điểm này đòi hỏi chính quyền các cấp Thành phố phải làm tốt công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, bố

trí sản xuất theo hướng khai thác tiềm năng và lợi thể so sánh, đặc biệt những vùng có nhiều tiềm năng chưa được khai thác, hình thành các vùng trọng điểm chuyên môn hóa, các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; phải thực hiện tốt các chính sách đầu tư và ưu tiên mô hình nông nghiệp công nghệ cao, đầu tư đồng bộ hạ tầng,

ưu tiên cho các công nghệ sạch, hiện đại...

- Đảm bảo phát triển nông nghiệp công nghệ cao giải quyết tốt mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Thước đo quan trọng để

đánh giá thành công của việc ứng dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao là các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Các chỉ tiêu này phải được giải quyết tốt trong mối quan hệ kết hợp hài hòa, hợp lý mà không thể bỏ qua hoặc xem nhẹ bất cứ chỉ tiêu nào.

- Khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp tham gia phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Phat triển nông nghiệp công nghệ cao đòi

133

hỏi nhà đầu tư phải có nguồn lực, tri thức để tham gia vào quá trình sản xuất, cộng thêm

sự hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các cơ chế chính sách, chính sách tích tụ ruộng đất, dồn điền đổi thửa, chính sách khuyến nông... để phát triển sản xuất nông nghiệp.

5.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao

5.2.1. Rà soát quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao 5.2.1.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với quy hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp

Các quy hoạch, kế hoạch phát triển của Thủ đô thời gian qua như quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2020, đến năm 2025 đã chứa đựng các tiêu chí cơ bản của phát triển nông nghiệp công nghệ cao, phát triển theo hướng giá trị cao và bền vững. Tuy nhiên các

nội dung đó về cơ bản mới chỉ là mô hình thí điểm ở những vùng có tính đặc thù chứ chưa được xây dựng trên diện rộng. Hà Nội đã quy hoạch 9 khu nông nghiệp công nghệ cao nhưng trên thực tiễn chưa có khi nào được đưa vào vận hành, do đó làm hạn chế việc thu hút đầu tư vào nông nghiệp CNC trên địa bàn. Để đẩy mạnh phát

triển nông nghiệp Thủ đô theo định hướng nông nghiệp công nghệ cao cần làm tốt việc rà soát lại các quy hoạch cũ, tổng kết đánh giá việc thực hiện các mô hình thí điểm như: Vùng trồng lúa hàng hóa chất lượng cao, trồng rau an toàn, chè an toàn, hoa, thủy

sản, chăn nuôi xa khu dân cư... để tiếp tục điều chỉnh và chi tiết hóa, cụ thể hết vào quy hoạch phát triển nông nghiệp của Thành phố, việc này cần hoàn thiện sớm trong năm 2021,2022 làm căn cứ, cơ sở để thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC.

Để khắc phục yếu kém về chất lượng quy hoạch như thiếu đồng bộ, lộn xộn,

thiếu tính khả thi, cần nâng cao năng lực và trách nhiệm của bộ phận lập kế hoạch từ năng lực đội ngũ cán bộ, phương pháp làm việc xây dựng kế hoạch, tinh thần làm việc cho đến kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác lập quy hoạch nâng cao

chất lượng. Nâng cao năng lực thẩm định các quy hoạch của đội ngũ cán bộ làm quy hoạch, định hướng được mục tiêu, giải pháp cho các đơn vị tư vấn lập kế hoạch. Để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, cần phân định rõ chức năng và sự phối hợp của các sở, ngành Thành phố. 5.2.1.2. Các giải pháp quy hoạch cụ thể với quy hoạch ngành - Đối với ngành trồng trọt

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần phối hợp chặt chẽ với các

134

ngành hữu quan, UBND các huyện để rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển từng

loại cây trồng trên địa bàn Thành phố trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm, cây trồng của từng vùng, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa hoặc vùng nguyên liệu gắn với chế biến công nghiệp; gắn quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng giá trị cao và bền vững.

UBND các huyện, thị xã tổ chức rà soát, hoàn thiện từng cây trồng chủ yếu trên phạm vi của địa phương cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp của Thành phố và quy hoạch các cơ sở chế biến. Khi xây dựng quy hoạch từng cây

trồng, nếu cần thiết điều chỉnh cho sát với thực tiễn và khả năng mới thì cần đảm bảo tính cân đối với các cây trồng trong quy hoạch tổng thể.

- Đối với ngành chăn nuôi

Hiện nay Thành phố đang thực hiện theo quy hoạch hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn Thành phố. Quy hoạch khu chăn nuôi, đưa chăn nuôi ra khỏi các quận nội thành theo quy định của Luật Chăn nuôi đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu Thành phố ban hành cần được nghiên cứu, lấy ý kiến thấu

đáo, rộng rãi của nhân dân Thủ đô, đặc biệt đối với các đối tượng liên quan, chịu tác động của quy hoạch.

- Đối với quy hoạch ngành nuôi trồng thủy sản

Rà soát, đánh giá lại các trang trại sản xuất con giống hiện có. Đầu tư nâng cấp

các cơ sở vật chất sản xuất con giống, tăng nhanh tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật cho sản xuất đại trà phù hợp với điều kiện từng vùng. Xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến thủy sản tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung.

5.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo điều kiện đầu vào cho phát triển nông nghiệp CNC

Để đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo đúng mục tiêu đã xác định thì vai trò tạo hành lang, môi trường pháp lý, chính sách của Nhà nước, của Thành phố là hết sức quan trọng. Yêu cầu của chính sách là phải được ban hành với

nội dung phù hợp, đồng bộ, khả thi. Qua nghiên cứu kiến nghị Thành phố cần có một số chính sách tập trung như: Chính sách đất đai, chính sách tài chính tín dụng, chính sách phát triển thị trường, chính sách hỗ trợ đào tạo, lao động, việc làm, chính sách hỗ trợ khuyến khích công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp...

- Về chính sách đất đai

+ Xây dựng chính sách hỗ trợ các địa phương dồn điền đổi thửa. Sự manh mún

135

đất đai trong sản xuất nông nghiệp là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sản xuất nông

nghiệp công nghệ cao, do đó cần có sự tập trung đất đai với quy mô đủ lớn trên cơ sở dồn điền đổi thửa và khuyến khích các hộ nông dân tích tụ, tập trung ruộng đất. Việc này tuy thành phố Hà Nội đã làm rất tốt song cơ bản mới tích tụ được một phần (chưa thực sự triệt để như một hộ bình quân từ hơn 10 thửa xuống dưới 10 thửa). Vấn đề sẽ khó thành công khi mà có hiện tượng các hộ dân ngầm chuyển nhượng cho nhau đất nông nghiệp, do đó vai trò của quản lý nhà nước là rất quan trọng trong việc xây dựng phương án dồn điền đổi thửa trên tinh thần dân chủ, tự nguyện, thỏa thuận, công khai,

minh bạch.

+ Chính sách hỗ trợ huy động đất đai xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Để xây dựng hạ tầng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch

cơ cấu nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao cần phải chuyển một phần diện tích đất phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng vì vậy cần có chính sách hỗ trợ các hộ nông dân mất diện tích đất nông nghiệp này.

+ Vận dụng linh hoạt các chính sách về đất đai, tạo quỹ đất sạch thu hút doanh

nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tập trung, tăng cường việc liên kết giữa doanh nghiệp với các HTX và hộ nông dân trong tích tụ ruộng đất với nhiều hình thức như: Chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đấ; có chính sách ưu đãi đối hộ dân trong thu hồi đất phục vụ quy hoạch các khu phát triển

nông nghiệp CNC; xây dựng các chính sách ưu tiên tiếp tục thuê đất công đã đấu thầu để phát triển nông nghiệp CNC.

- Về chính sách tài chính, tín dụng

+ Chính sách thuế: Thực hiện ưu đãi về thuế, giảm thuế, miễn thuế, hỗ trợ tiền thuê đất cho các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: Hỗ trợ tiền thuê đất cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp theo quy định; miễn giảm thuế cho các trang trại, đơn vị thực hiện các mô hình sản

xuất nông nghiệp công nghệ cao.

+ Chính sách tín dụng: Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho đối tượng nông dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao. Có

chính sách hỗ trợ tín dụng cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để khuyến khích nhà đầu tư đầu tư vào nông nghiệp CNC. Cần tập trung có giải pháp mạnh hơn để tạo điều kiện cho nông dân được vay vốn nhiều hơn, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thủ tục thế chấp, bảo lãnh. Tập trung tháo gỡ các khó khăn, hoàn

thiện thủ tục vay vốn theo hướng đơn giản, thuận tiện tạo điều kiện để đẩy mạnh việc

136

cho vay vốn trung hạn và dài hạn, tạo điều kiện cho cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư

chiều sâu, thực hiện hiện đại hóa cơ sở vật chất và đổi mới công nghệ như cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, làm nhà kính, nhà lưới, áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt và công nghệ sau thu hoạch; tăng cường tiếp cận giữa các tổ chức ngân hàng, tổ chức tín dụng và người nông dân.

- Chính sách phát triển thị trường

Thị trường là nhân tố quyết định sự sống còn của sản xuất, kinh doanh nói chung, kinh doanh sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Đặc

biệt đối với sản phẩm công nghệ cao trong sản xuất, nếu không có biện pháp cụ thể để phát triển thị trường thì rất khó khăn trong vấn đề sản xuất, phát triển. Cần tạo điều kiện để các sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn được dễ dàng đến tay người tiêu dùng.

Qua nghiên cứu cho thấy nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô đối với các sản phẩm an toàn như rau an toàn, hoa quả đặc sản ngày càng tăng nhưng các điều kiện để đảm bảo gắn kết người tiêu dùng với sản phẩm sạch còn yếu kém, đó là các kênh thông tin phân biệt sản phẩm sạch để người tiêu dùng yên tâm lựa chọn và sử dụng; các kênh tiêu thụ

thông suốt, thường xuyên, kịp thời đến các siêu thị trong Thành phố; mức giá cả hợp lý vừa đảm bảo lợi ích của người sản xuất với thu nhập của người tiêu dùng.

Hỗ trợ người sản xuất xây dựng thương hiệu sản phẩm, cấp chứng chỉ về chất lượng sản phẩm và phải thực hiện cho tất cả các vùng sản xuất (Thành phố mới thí

điểm một số vùng) sau đó quảng bá, giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng cho người dân biết. Nghiên cứu, hỗ trợ thành lập các HTX tiêu thụ và tổ chức hoạt động tiêu thụ. Các HTX này hình thành tại các vùng sản xuất, làm nhiệm vụ

ký hợp đồng cung ứng và vận chuyển trực tiếp sản phẩm vào siêu thị và cửa hàng tại nội thành của Thành phố. Cần nghiên cứu trợ giá trong giai đoạn đầu khi mới đưa ra thị trường các sản phẩm an toàn có giá thành cao để người tiêu dùng tiếp cận và quen dần sản phẩm.

Có giải pháp tổ chức tốt khâu bao tiêu sản phẩm cho người nông dân, gắn kết các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm ký kết trực tiếp với người nông dân cùng đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Với vùng sản xuất hàng hóa tập trung, trọng

điểm cần đầu tư xây dựng thành khu liên hợp từ cung cấp nguyên liệu, đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ, xây dựng mối liên kết 4 nhà. Rà soát lại quy hoạch để triển khai đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, chợ đầu mối, các hợp tác xã vùng chuyên canh, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các khu dân cư hoặc khu công nghiệp. Tổ

chức đa dạng hóa các hình thức tiêu thụ nông sản cho nông dân, khuyến khích tạo mọi

137

điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tham gia chế biến và tiêu thụ sản phẩm; các

hoạt động thông tin, tiếp cận thị trường, nâng cao trình độ tiếp thị cho nông dân và các tổ chức kinh doanh nông sản, nâng cao vai trò quản lý của chính quyền Thành phố trong việc quảng cáo và môi giới xuất khẩu. Thành phố cũng cần đầu tư nâng cao năng lực dự báo thị trường, về tình hình cung – cầu trong cả dài hạn và trung hạn, giá cả của mỗi loại hàng hóa. Trên cơ sở dự báo thị trường xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch đầu tư sản xuất, lựa chọn hình thức, thời điểm tham gia thị trường để có hiệu quả nhất.

+ Hỗ trợ phát triển thông tin thị trường, tăng cường hơn nữa vai trò của chính quyền thành phố Hà Nội trong việc tư vấn cho người sản xuất về thông tin thị trường bằng việc phát triển mạng lưới công nghệ thông tin xuống cấp huyện, cấp xã để cập

nhật công nghệ thông tin trong nước và quốc tế đến với người sản xuất; hỗ trợ các hoạt động triển lãm và quảng bá sản phẩm trên thị trường, đào tạo kiến thức quản lý kinh tế, về thị trường cho nông dân vùng sản xuất nông nghiệp CNC.

+ Xác tiến các hình thức tiêu thụ sản phẩm bằng cách tạo hành lang pháp lý

thuận lợi trong tiêu thụ, khuyến khích mọi hình thức tiêu thụ để khai thông kênh phân phối nhất là đối với các sản phẩm có hàm hượng công nghệ cao.

+ Tăng cường biện pháp quản lý thị trường, tăng cường vai trò của các cơ quan nhà nước thực hiện tốt công tác quản lý thị trường đầu vào và đầu ra, đặc biệt đối với

cây, con giống, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc, thuốc thú y...

+ Nghiên cứu, ban hành chính sách bảo hiểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bảo hộ bản quyền sản xuất, xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm quy định về bản

quyền sản xuất như hàng nhái, hàng giả...

+ Tiếp tục thực hiên các chính sách khuyến khích, đào tạo việc làm Thành phố đang triển khai, đồng thời tập trung có biện pháp đi vào thực chất hơn trong công tác đào tạo, tạo điều kiện sắp xếp vị trí, việc làm phù hợp sau khi đào tạo; thực hiện tốt

công tác xã hội hóa đào tạo nghề, xây dựng đội ngũ trí thức phục vụ nông nghiệp...

- Chính sách thu hút vốn đầu tư

Thực hiện đa dạng hóa các nguồn huy động vốn từ nhiều nguồn, không chỉ từ

nguồn ngân sách, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tín dụng và nguồn vốn của người sản xuất, hình thức huy động có thể từ đấu thầu quyền sử dụng đất, tự đầu tư hoặc nhà nước và người dân cùng làm. Thực hiện việc đấu thầu quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật để huy động vốn vào đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao

138

như: Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học công nghệ, thiết bị hiện đại vào sản

xuất... Đối với những nơi khó khăn, các công trình gắn bó trực tiếp với sản xuất nông nghiệp như cầu cống, kênh mương... hộ sản xuất đóng vai trò chính, nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn.

Đề thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao cần có sự vào cuộc, sự phối hợp chặt chẽ giữa Thành phố và các bộ, ngành, đầu tư phát triển đồng bộ và hiện đại các cơ sở hạ tầng, ưu tiên cho khu vực có dự án khu nông nghiệp công nghệ cao; quan tâm đẩy mạnh

công tác cải cách hành chính, thủ tục cấp phép, phê duyệt các dự án, chương trình phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.

Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, cải tiến các cơ chế, chính sách trong đầu tư,

tăng tỷ lệ đầu tư cho ngoại thành và nông nghiệp, tập trung tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp.

- Có chính sách ưu tiên người dân sử dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp như: Vay ưu đãi, đầu tư cơ sở hạ tầng... Khuyến khích các doanh nghiệp và nông dân

mạnh dạn đầu tư áp dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nhằm tăng hàm lượng khoa học trong sản phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm.

5.2.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao

- Việc triển khai, đôn đốc thực hiện quy hoạch phải được thực hiện thường

xuyên; quan tâm đến vấn đề tổ chức, phối hợp, chỉ đạo hoạt động để đảm bảo các kế hoạch đi vào thực tế

- Tập trung triển khai kịp thời, có hiệu quả các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp mà Trung ương đã ban hành tại các Nghị định như: Số

98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu

tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 83/2018/NĐ-CP ngày 24/5/2018 của Chính phủ về khuyến nông…, các Nghị quyết của HĐND Thành phố.

- Tập trung nhân rộng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao với các cơ chế chính sách đang áp dụng có hiệu qủa để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy

mô lớn và hàm lượng công nghệ cao.

- Thực hiện giám sát, khảo sát, kiểm tra, đánh giá việc triển khai, tổ chức thực

139

hiện chính sách, phát hiện, đề xuất điều chỉnh, bổ sung hoặc bãi bỏ cơ chế, chính sách

không còn phù hợp. Quan tâm đến các chính sách như: Tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn vay, bố trí nguồn ngân sách trong việc hỗ trợ sau đầu tư; các chính sách liên quan đến tiếp cận đất đai, cải cách thủ tục hành chính, thể chế, pháp lý, chính sách, cho các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp CNC... nhằm đạt mục tiêu tổng thể là phát triển nông nghiệp Thủ đô bền vững, có giá trị gia tăng cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội, ổn định trật tự xã hội khu vực nông thôn trên địa bàn Thành phố. Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế,

hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp CNC. Khuyến khích phát triển các mối liên kết 4 nhà giữa nhà nước, hộ nông dân, các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp

công nghệ cao.

- Tăng cường quản lý, củng cố và hỗ trợ, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các HTX nông nghiệp theo hướng công nghệ cao vào sản xuất để hướng dẫn, giúp đỡ nông dân trong sản xuất nông nghiệp; triển khai hướng dẫn và

thực hiện hỗ trợ của nhà nước (hiện nay một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao có đối tượng thụ hưởng là HTX). Tổ chức hiệp hội, ngành hàng nông nghiệp nhằm tạo chuỗi liên kết giúp tăng cường quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tạo môi trường thuận lợi để

hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp tại nông thôn, nhất là các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

- HĐND Thành phố tăng cường giám sát việc triển khai các quy định, kế hoạch phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo nhiệm vụ Trung ương giao và các Nghị quyết của HĐND Thành phố đã ban hành về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố. UBND Thành phố xây dựng quy chế, tăng cường công tác

phối hợp giữa các sở, ngành Thành phố, UBND các huyện, thị xã trong việc thực thi chính sách, trong đó đặc biệt là sự phối hợp giữa sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, sở Khoa học công nghệ, sở Công thương và các đơn vị khác.

- Tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về các chính sách của Trung ương và Thành phố; các nội dung, vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đề người dân biết, tham gia thực hiện. Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của khoa học, công nghệ, yêu cầu của an toàn thực phẩm và

bảo vệ môi trường sinh thái đối với hoạt động của sản xuất nông nghiệp.

140

5.2.4. Giải pháp về kiểm soát và khắc phục tốt các thất bại của thị trường

- Đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy hoạch, chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trong đó quan tâm chú trọng kiểm tra đột xuất, kiểm tra sâu, kiểm tra quy trình, thủ tục hỗ trợ.

- HĐND các cấp xây dựng kế hoạch hàng năm, tổ chức giám sát việc thực hiện quy hoạch, chương trình và các chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn, đồng thời giám sát, đôn đốc việc thực hiện các kết luận giám sát, kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện quy hoạch, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

- Tổ chức rà soát kết quả thực hiện quy hoạch, chương trình, chính sách để nhận

định các hạn chế và đề xuất điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.

- Thực hiện công khai, minh bạch quy hoạch, chương trình, các chính sách, quy trình, thủ tục hành chính liên quan đến hỗ trợ theo các chính sách của Trung ương và Thành phố đã ban hành.

- Tăng cường cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục để giúp các

cơ sở SXKD, người nông dân tiếp cận được chính sách dễ dàng hơn.

5.2.5. Các giải pháp khác 5.2.5.1. Giải pháp về đẩy mạnh phát triển liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Hà Nội với nông nghiệp các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng

Nông nghiệp Hà Nội do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ tiếp tục bị thu hẹp dần về quy mô đất đai, trong khi đó nhu cầu sản phẩm nông sản lại không ngừng tăng cả về số lượng, chất lượng, an toàn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy việc mở rộng liên kết giữa Hà Nội và các tỉnh phụ cận là hết sức cần thiết. Để làm tốt được giải pháp này, chúng ta cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết về liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Hồng. Yêu cầu này ngày càng tăng, càng quan trọng khi kinh tế nước ta chuyển dần sang sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên thực tế mặc dù Hà Nội và một số tỉnh thành lân cận đã ký kết được 21 chuỗi liên kết cung ứng hàng hóa nông sản, tuy nhiên việc liên kết nông nghiệp Hà Nội vẫn cần phải tuyên truyền nâng cao nhận thức được cả ở cấp vĩ mô và cấp vi mô. Nội dung tuyên truyền có thể quan tâm vào sự cần thiết phải liên kết, lợi ích của việc liên kết và cần làm rõ cả về hình thức và nội dung của các mối quan hệ trong liên kết để người sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm lựa chọn cho phù hợp.

141

Thứ hai, tiến hành việc rà soát, đánh giá tiềm năng và các cơ hội phát triển liên

kết trong nông nghiệp giữa Hà Nội với các tỉnh.

Thứ ba, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong phát triển các mối quan hệ liên kết nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh. Vai trò quản lý vĩ mô trong liên kết kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao giữa Hà Nội với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng đã được xác định rõ trong lý luận và cả thực tiễn. Quản lý nhà nước trong các hoạt động liên kết giữa nông nghiệp Hà Nội và các tỉnh những năm qua đã có bước chuyển, phát triển tuy nhiên vẫn chưa đạt yêu cầu

như công tác kiểm soát xuất sử nguồn gốc sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm... Vì vậy, việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong liên kết nông nghiệp giữa Hà Nội và các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, vừa là giải pháp để đẩy mạnh mối liên kết này.

Cần tập trung thiết lập các tổ chức thực thi các hoạt động quản lý nhà nước về liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Thủ đô với nông nghiệp các tỉnh trong vùng Đồng

bằng sông Hồng; xây dựng cơ chế phối hợp để tổ chức thực hiện. Rà soát các quy hoạch, bố trí các vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp trong mối quan hệ vùng, chú ý đến vùng cung cấp nông sản cho Hà Nội, làm cơ sở hỗ trợ mang tính nhà nước của Hà Nội cho các tỉnh. Có kế hoạch triển khai các hoạt động liên kết trong sản xuất

nông sản mang tính chất vùng để tạo điều kiện cho nông sản cung cấp vào Hà Nội, đảm bảo an toàn ngay từ nơi sản xuất, có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Xây dựng các cơ chế liên kết giữa nông nghiệp Thủ đô với nông nghiệp các tỉnh và Hà Nội cần phát huy

vai trò, vị thế của Thủ đô để chủ động tổ chức xây dựng các cơ chế liên kết.

Tăng cường công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát trong sản xuất, lưu thông nông sản để đảm bảo công tác phòng dịch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng Thủ đô.

Thứ tư, đẩy mạnh gắn kết giữa các chủ thể sản xuất, chế biến tiêu thụ nông sản nông nghiệp Hà Nội với các tỉnh nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Hoàn thiện, đổi mới các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường cho phát triển các mối liên kết. Qua

nghiên cứu cho thấy hiện nay sự phối hợp giữa Hà Nội và các tỉnh mới chỉ tập trung nhiều trong khâu kiểm soát lưu thông nông sản khi có dịch bệnh. Các chính sách sản xuất và lưu thông các sản phẩm an toàn như rau an toàn gần đây mới được chú ý.

Quan tâm thiết lập trật tự trong hoạt động liên kết trong hệ thống tiêu thụ sản

phẩm nông sản các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng ở Hà Nội. Một thực tế cho

142

thấy khó khăn trong kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm là thiếu sự giám sát trong

quá trình liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Người sản xuất nông sản an toàn, nông sản công nghệ cao trong sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm theo đúng giá trị thực của nó nên sản xuất nông sản an toàn chưa thực sự hấp dẫn đối với người sản xuất. Cần phải liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở sản xuất với các quầy hàng, cửa hàng, siêu thị để sản phẩm có nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng. Tổ chức tạo lập mối quan hệ lâu dài giữa những người lưu thông, phân phối với người sản xuất nông sản và cần thông qua các thỏa thuận, cam kết, hợp đồng kinh tế. Tổ chức các hình thức tiêu

thụ nông sản theo hướng văn minh, hiện đại, thuận tiện.

Thực tế hiện nay cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở sản xuất, chế biến nông sản hiện nay còn mang tính tự phát, chưa có tổ chức và sự liên kết chặt chẽ,

do đó cơ quan quản lý nhà nước của Hà Nội cần tổ chức thực hiện chuyên môn hóa khâu lưu thông, tiêu thụ sản phẩm nông sản, nâng tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua các kênh có tổ chức nột cách khoa học, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tăng cường công tác quản lý thị trường, chú trọng công tác quản lý thị trường nông sản, kiểm soát

chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm; tổ chức các đơn vị có chức năng lấy mẫu thử nhanh về chất lượng nông sản.

Thứ năm, nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đáp ứng yêu cầu liên kết giữa Hà Nội với các tỉnh. Tập trung ruộng đất theo mô hình cánh

đồng mẫu lớn; rà soát và hướng sản xuất kinh doanh đối với các cơ sở nông nghiệp ở những vùng kinh doanh chuyên môn hóa theo yêu cầu liên kết. Đặc biệt cần nghiên cứu về sự kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông

Hồng với các cơ sở chế biến, tiêu thụ ở Hà Nội. 5.2.5.2. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi rất cao đối với nguồn nhân lực về

trình độ, mặc dù hiện nay nguồn nhân lực của Hà Nội có chất lượng mặt bằng cao hơn các địa phương khác, nhưng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao là hết sức cần thiết. Đối với từng ngành cần xây dựng kế hoạch,

nội dung đào tạo cho phù hợp

Đối với ngành trồng trọt công nghệ cao cần đào tạo đội ngũ khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ khuyến nông ở các cấp; tăng cường đào tạo người nông dân sản xuất trồng trọt theo các hình thức thích hợp để trở thành người sản xuất chuyên nghiệp.

Đối với ngành chăn nuôi: Đầu tư cho công tác đào tạo, trang thiết bị cho công tác thú y, nâng cao năng lực công tác phòng dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm;

143

năng lực khảo nghiệm của các trung tâm giống vật nuôi, quản lý các cơ sở sản xuất

thức ăn chăn nuôi...

Đối với ngành nuôi trồng thủy sản: Đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, nguồn nhân lực trong sản xuất con giống; mở các lớp tập huấn nuôi trồng thủy sản, đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản... 5.2.5.3. Giải pháp về khoa học công nghệ

- Về loại hình công nghệ, cần ưu tiên cho công nghệ cao, công nghệ sạch và

công nghệ sinh học, như công nghệ sản xuất rau an toàn trong nhà lưới và tưới bằng nước ngầm qua xử lý, công nghệ sinh học trong lai tạo giống, công nghệ vi sinh trong chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh, công nghệ chăn nuôi chất lượng cao...

- Về lĩnh vực áp dụng khoa học công nghệ, cần tập trung nghiên cứu và chuyển

giao cho khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Tập trung mở rộng tập huấn và chuyển giao kỹ thuật, áp dụng giống mới và sản xuất sạch. Tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học –

công nghệ vào sản xuất nông nghiệp:

+ Đối với ngành trồng trọt: Thực hiện ứng dụng quy trình cơ giới hóa đồng bộ triển khai áp dụng một số máy móc nông nghiệp phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp tại địa phương nhằm thúc đẩy cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp; quy trình thâm

canh lúa cải tiến, công nghệ kiểm soát và chủ động điều tiết nước theo nhu cầu sinh trưởng đối với cây lúa hàng hóa chất lượng cao; kỹ thuật trồng hoa, rau an toàn, trong nhà lưới, theo tiêu chuẩn VietGap; mô hình tưới tiết kiệm nhỏ giọt, các biện pháp

trong khâu làm đất... Tập trung nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai để tạo ra các giống lúa, rau... có các đặc tính ưu việt, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu của thị trường; áp dụng công nghệ vi sinh giống để đáp ứng nhu cầu cây giống chất lượng cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

+ Đối với ngành chăn nuôi: Qua nghiên cứu cho thấy cần phải tập trung nghiên cứu phát triển và ứng dụng quy trình chăn nuôi VietGap; công nghệ chuồng kín trong chăn nuôi công nghiệp, hệ thống thức ăn tự động, cấp điện chủ động; áp dụng công

nghệ chăn nuôi gà sạch khép kín quy mô công nghiệp, tự động hóa...

Nghiên cứu, lai tạo giống bò thịt, lợn thịt chất lượng cao, ứng dụng cải tiến công nghệ sinh sản, đặc biệt là công nghệ tế bào động vật trong đông lạnh tinh, ứng dụng công nghệ gen trong xác định giới tính phôi, sử dụng tinh phân giới tính để tạo ra

đàn bê có từ 85 - 90% bê cái.

144

Về chuyển giao kỹ thuật trong công tác giống: Đưa giống ngoại có năng suất, chất lượng cao phục vụ cho lai tạo với đàn nái nền địa phương; tiếp tục tổ chức phối giống bò miễn phí (bò lai Zebu) cho các hộ dân theo phương pháp thụ tinh nhân tạo nhằm cái tiến nhanh chất lượng giống; bảo tồn giống gà mía, đưa giống mới vào sản xuất, nâng cao năng lực về quản lý chăn nuôi; đầu tư, nâng cấp cơ sở sản xuất tinh dịch lợn tại Thạch Thất, Gia Lâm, Ứng Hòa với quy mô khoảng 100 - 200 lợn đực giống chất lượng cao; đẩy mạnh công tác khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao giá trị, hiệu quả kinh tế. Thành phố hỗ trợ các loại vắcxin tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm gia súc, gia cầm, xây dựng các trại chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGap, ứng dụng công nghệ xử lý môi trường trong chăn nuôi.

+ Đối với ngành nuôi trồng thủy sản: Cần đẩy mạnh ứng dụng quy trình công nghệ nuôi thâm canh thủy sản theo quy trình VietGap; nghiên cứu hệ thống nuôi thích ứng với từng điều kiện, thổ nhưỡng. Tiếp tục nhân rộng công nghệ sinh sản nhân tạo với giống thủy sản có giá trị kinh tế cao, phù hợp với địa phương và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đưa các giống mới có hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất; chuyển giao công nghệ sản xuất giống tiên tiến cho các cơ sở sản xuất con giống, phát triển các giống thủy sản đặc sản.

- Về các khu nông nghiệp công nghệ cao cần ưu tiên đầu tư và nhân rộng như mô hình ở xã Nam Hồng (huyện Đông Anh), mô hình nuôi trồng thủy sản tại xã Đông Mỹ (huyện Thanh Trì)... Tổng kết các mô hình thực tiễn về công nghệ cao trong nông nghiệp để mở rộng và nâng cao hiệu quả mô hình.

- Tăng lượng vốn đầu tư trực tiếp cho khoa học, công nghệ trong nông nghiệp để nghiên cứu phát triển công nghệ cao, sạch, sinh học vào giải quyết được các vấn đề thuộc 3 lĩnh vực: Sản xuất, chế biến, vệ sinh an toàn thực phẩm và xử lý môi trường.

- Tăng cường tiềm lực về điều kiện vật chất, trình độ cán bộ và cơ chế, chính sách cho các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ gắn với yêu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Thành phố. Việc chuyển giao khoa học, công nghệ cần lựa chọn được những tiến bộ kỹ thuật phù hợp với điều kiện địa phương, phù hợp với trình độ, khả năng tiếp nhận của cơ sở để chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra cần căn cứ vào điều kiện đất đai, khí hậu, trình độ và mức độ phát triển cơ sở hạ tầng của từng vùng.

5.3. Kiến nghị với Trung ương và các bộ ngành liên quan

Nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai để tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quản lý sử dụng đất đai hiện nay, cần có quy định cụ thể về tích tụ tập trung ruộng đất, có chính

145

sách thông thoáng hơn cho người dân được giao đất, cho thuê đất tạo điều kiện phát triển hàng hóa chuyên canh quy mô lớn, phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Đề xuất Trung ương, Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy hoạch phân lũ thuộc lưu vực các sông chảy qua địa bàn thành phố Hà Nội phù hợp với thực tiễn hiện nay để làm căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông nghiệp công

nghệ cao đối với khu vực ngoài đê, là khu vực có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội.

Hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về các chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất

và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ban hành các quy định về các định mức kinh tế kỹ thuật còn thiếu để Thành phố áp dụng trong quá trình hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao (như: Nhà màng, nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới tiết kiệm tự

động, bán tự động, hệ thống chuồng kín điều tiết nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường đối với lĩnh vực thủy sản...

Ban hành quy định về phát triển kinh tế trang trại, cơ giới hóa trong sản xuất

nông nghiệp công nghệ cao.

Quan tâm, có chính sách điều tiết nguồn thu cho Thành phố (từ 35% lên 42%) để thực hiện các chương trình mục tiêu trên địa bàn; thực hiện chương trình công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Các bộ, ngành quan tâm phối hợp chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật để thúc đẩy, ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp của Thủ đô; tăng cường đẩy nhanh thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố đã được Trung ương quy

hoạch và phê duyệt.

146

KẾT LUẬN

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang trở thành xu hướng tất yếu. Nông nghiệp công nghệ cao đóng góp vai trò rất quan trọng cho phát triển nông nghiệp bền

vững trong dài hạn. Thực tế cho thấy, để phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì vai trò quản lý nhà nước là rất quan trọng, nhà nước định hướng, quy hoạch, hỗ trợ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Qua quá trình nghiên cứu đề tài quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của chính quyền địa phương cấp tỉnh,

nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, luận án đã đạt được các mục tiêu đã đặt ra.

Luận án đã nghiên cứu, tổng quan được các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, về vai trò của nhà nước trong việc

phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các chương trình, cơ chế chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của một số nước trên thế giới và một số địa phương trong nước. Qua đó đã làm rõ vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển nông nghiệp công nghệ

cao trên địa bàn thành phố Hà Nội; hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn, làm rõ nội hàm, khung lý thuyết về quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội (xây dựng chương trình, quy hoạch; ban hành các chính sách; tổ chức thực

hiện và kiểm tra, giám sát). Luận án cũng đã làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về nông nghiệp công nghệ cao, phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội trong những năm qua; chỉ ra những thành công, tìm ra các tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cản trở,

gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó đề xuất các quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Hà Nội đến năm 2025 và những

năm tiếp theo, đặc biệt chú trọng đến giải pháp quản lý nhà nước về quy hoạch, về xây dựng cơ chế chính sách, thu hút, đầu tư cho khoa học công nghệ; đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác trong lĩnh vực nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao; các giải pháp về thực thi chính sách, khắc phục thất bại của thị trường và

một số giải pháp khác.

147

NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Minh Tuân (2018), “Liên kết chuỗi tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Hà Nội cần có chính sách hỗ trợ”. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2018.

2. Nguyễn Minh Tuân (2019), “Chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thành phố Hà Nội”, Thực trạng và giải pháp Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2019.

3. Nguyễn Minh Tuân (2020), “Nông nghiệp Hà Nội sau hơn 10 năm điều chỉnh địa giới hành chính: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 271(II), tháng 01/2020.

4. Nguyễn Minh Tuân (2020), “Nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hà Nội: Thực trạng và giải pháp.” Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 14, tháng 5/2020.

148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Andersson, L., Bengtsson, J., Dahlén, L., Ekelund Axelsson, L., Eriksson, C., Fedrowitz, K., Fischer, K., Friberg, H., Hallin, S., Hunter, E., Jansson, T.,

Johnsson, P., Mobjörk, M., Oskarsson, D., Patel, M., Rydhmer, L., Räty, R., Röös, E., Slätmo, E., Stenström, M., Sundberg, C., Svensson, C., Westholm, E., Wikman Svahn, P. (2017), Agriculture in 2030 – stories of the future, Uppsala,

Swedish University of Agricultural Sciences.

2. Ánh Dương (2018), Đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao: Tháo gỡ những “nút thắt”, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020 từ http://hanoimoi.com.vn/tin- tuc/kinh-te/902266/dat-tu-cho-nong-nghiep-cong-nghe-cao.

3. Ban chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.

4. Banerjee, B., Martin, S., Roberts, R., Larson, J., Paxton, K., English, B., Mara, M, and Reeves, J. (2008), “A Binary logit estimation of factors affecting adoption of GPS guidance systems by cotton producers”, Journal of agricultural and applied economics. pp. 345-355.

5. Barbara Chmielewska (2009), "The Problems of Agriculture and Rural Areas in the Process of European Integration”, Journal of international studies, Vol 2, No 1, 2009, pp 127-132.

6. BELIZE (2003A), Agricultural Development Management and Operational

Strategy, TCP.

7. Bonabana-Wabbi J.

(2002), Assessing Factors Affecting Adonption of Agraicultural Technologies: The Case of Integgrated Pest Management (IPM) in kumi District, Msc. Thesis. Eastern UgandaChalla.

8. Bongiovanni R and J Lowenberg-Deboer (2004), “Precision agriculture and

sustainability”, Precision Agriculture 5: 359-387.

9. Bui Hong Nhung (2016), “Foreign investors show little interest in Vietnam’s

April 2018, agricultural sector”, retrieved on 4th

show-little-interest-in-

https://e.vnexpress.net/news/business/foreign-investors- vietnam-s-agriculture-sector-3491102.html.

149

10. C.Ramasamy (2004), “Constraints to Growth in Indian Agriculture: Needed Technology, Resource Management and Trade Strategies”, Ind. Jn. of Agri. Econ. Vol.59, No.1, Jan.-March.

11. Dan senor – saul singer (2008), Start –up nation The story of Israel’s Ecomomic

miracle, Warner Books Inc.

12. Dan Senor - Saul singer (2008), Trong tác phẩm quốc gia khởi nghiệp, câu

chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel, NXB Thế giới.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

14. Đặng Kim Sơn (2009), Xây dựng chiến lược nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn.

15. Đăng Nguyên (2011), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Thực trạng và định hướng phát triển tại Sơn La”, Bản tin khoa học và công nghệ Sơn La, số 2, trang 17-18

16. Đỗ Phú Hải (2016), “Về chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước

ta”. Tạp chí Cộng sản, số 881, tr 50-53.

17. Đỗ Xuân Trường (2017) “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Doanh nghiệp

khó tiếp cận các chính sách ưu đãi”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.

18. Đỗ Xuân Trường và Lê Thị Thu (2010). “Nông nghiệp công nghệ cao: Hướng đi

tất yếu của nông nghiệp Việt Nam”, Kinh tế và dự báo, số 18, tr 14-16.

19. E. Wesley và F. Peterson (1986), Agricultural structure and economic adjustment, in: Agriculture and Hunman Values, september 1986, volume 3, http://link.springer.com.

20. FAO (2006), Rapid growth of selected Asian economies Lessons and

implications for agriculture and food security China and India.

21. Frankelius P, C Norrmann and K Johansen (2017), “Agricultural innovation and the role of institutions: lessons from the game of drones”, Journal of Agricultural and Environmental Ethics http://doi.org/10.1007/s10806-017-9703-6.

22. Guy Hunter Director (1974), The Implementation of Agricultural Development Policies: Organisation, Management and Institutions, Overseas Development Institute Ltd. London.

150

23. Hà Nội Mới (2016), Phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nội: vẫn khó vì thiếu vốn, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ https://hanoimoi.com.vn/tin- tuc/Kinh-te/856319/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-tai-ha-noi-van-kho- vi-thieu-von.

24. Hallam D (2011), “International investment in developing country agriculture -

issue and challenges”, Food Security 3 (Suppl 1), S91-S98.

25. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Về thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016, Hà Nội.

26. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Chính sách khuyến khích phát triển vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2020, Hà Nội.

27. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Về chính sách khuyến khích phát triển vùng sản xuất chuyên canh tập trung thành phố Hà Nội giai đoạn 2014- 2020, Hà Nội.

28. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Về một số chính sách thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.

29. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05/4/2012 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội về thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016, Hà Nội.

30. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2018), Về một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội. Hà Nội.

31.

Julian M.Alston (2014 ), Agriculture in the Global Economy, University of California.

32. Kiệt Vũ (2017), Hà Nội chờ dự án nông nghiệp công nghệ cao, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020 từ https://baodautu.vn/ha-noi-cho-du-an-nong-nghiep-cong-nghe- cao-d68187.html..

151

33.

Lai, C. S. K., & Pires, G (2010), “Testing of a model evaluating e-government portal acceptance and satisfaction”, The Electronic Journal Information Systems Evaluation, 13(1), 35–46.

34. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2017), chia sẻ ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ http://www.vca.org.vn.

35. Linda Lundmark, Camilla Sandstrom (2013), Natural resources and regional

development theory, http://www.diva-fortal.org.

36. Magoutas, B., & Mentzas, G (2010), “SALT: A semantic adaptive framework for monitoring citizen satisfaction from e-government services”, Expert Systems With Applications, 37(6), 4292–4300.

37. Mikkola (2008) “Coordinative structures and development of food supply chains”, British Food Journal, Volume 110, Number 2, 2008, pp 189-205.

38. Modal P and M Basu (2009), “Adoption of agriculture technologies in India and in some developing countries: Scope, present status and strategies”, Progress in Natural Science 19: 659-666.

39. Murakami E, AM Saraiva, LCM Ribeiro, Jr., CE Cugnasca, AR Hirakawa and PLP Correa (2007), “An infrastructure for the development of distributed service-oriented information systems for precision agriculture”, Computers and Electronics in Agriculture 58: 37-48.

40. Ngô Thị Lan Hương (2016), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững từ năm 2001 - 2013, luận án Tiến từ sỹ 2018, tháng ngày năm truy cập 16 3

https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/simple_document.php?subfolder=66/53/ 33/&doc=66533322397796946109516353201827715&bitsid=ebaee238-8824- 4736-9ee2-efacab5acae0&uid=.

41. Nguyễn Anh Phong, Phạm Thị Thu Hà (2017), “đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: thách thức và giải pháp”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 113-128.

42. Nguyễn Đắc Thu và Nguyễn Thị Thanh Hà. (2016). “Phát triển nông nghiệp

công nghệ cao ở Bắc Ninh”. Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 18, tr 53-55.

43. Nguyễn Điền (1997), CNH nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

152

44. Nguyễn Hạnh (2017). Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp ở Hà Nội: Doanh nghiệp chưa mặn mà, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020 từ https://baomoi.com/ung-dung-cong-nghe-cao-trong-nong-nghiep-tai-ha-noi-doanh- nghiep-chua-man-ma/c/24420437.epi.

45. Nguyễn Minh Phong (2011), Sáu đột phá phát triển nông nghiệp, Viện Nghiên

cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.

46. Nguyễn Thị Kim Sang (2017), “Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 183-190.

47. P.W.Heringa, C.M.Van der Heideb và W.J.M.Heijman (2013), "The economic

impact of multifunctional agriculture in Dutch regions: An input-output model”, Njas – Wageningen joural of life sciences, Volumes 64-65, September 2013, pages 59-66.

48. Paul Higgins (2007), “Performance and user satisfaction indicators in British local Government lessons from a case study- Public” Management Review ISSN 1471-9037 print/ISSN 1471-9045 online, Vol. 7 Issue 3 2005, 445 – 464.

49. Phạm S (2014), Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc

tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

50. Phạm S (2014), trong tác phẩm, Nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu tất yếu

để hội nhập quốc tế, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

51. Phạm Trần Minh Trang (2017), “Các yếu tố tác động đến việc đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ cao của các hộ nông dân nhỏ tại Việt Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 85 – 95.

52. Phạm Văn Hiển (2014), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam: Kết quả ban đầu và những khó khăn cần tháo gỡ”. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 12/2014, tr 64-70.

53. Shaik. N. Meera, Anita Jhamtani, and D.U.M. Rao (2004), Information and communication technology in agricultural development: a comparative analysis of three projects from India, Agricultural Research & Extension Network. Network Paper No.135.

153

54. Silva CB, SMLR do Vale, FAC Pinto, CAS Müler and AD Moura (2007), “The economic feasibility of precision agriculture in Mato Grosso do Sul State, Brazil:

a case study”, Precision Agriculture 8: 255-265.

55. Singh H and KW Jun (1995), Some New Evidence on Determinants of Foreign Direct Investment in Developing Countries, The World Bank International

Economics Department International.

56. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2019), Kết quả thực hiện công tác nông nghiệp, nông dân, nông thôn năm 2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019.

Báo cáo số 59/BC-SNN ban hành ngày ngày 25 tháng 02 năm 2019.

57. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2020), Kết quả phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới năm 2019, 3 tháng đầu năm 2020;

phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của ngành nông nghiệp Thủ đô Hà Nội. Báo

cáo số 102/BC-SNN ban hàng ngày 30 tháng 3 năm 2020.

58. Tạp chí Lao động và Xã hội (2017), thực trạng đô thị hóa và hướng đi bền vững cho phát triển nông nghiệp khu vực ven đô Hà Nội, truy cập ngày 01 tháng 4 năm

2018, từ http://laodongxahoi.net/thuc-trang-do-thi-hoa-va-huong-di-ben-vung-

cho-phat-trien-nong-nghiep-khu-vuc-ven-do-ha-noi-1308276.html.

59. Tạp chí Mặt trận (2017), tìm hướng tháo gỡ khó khăn cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ

http://tapchimattran.vn/kinh-te/tim-huong-thao-go-kho-khan-cho-phat-trien-

nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-9788.html.

60. Tạp chí tài chính (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: cần giải quyết 5 vấn đề, truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2018, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-

-trao-doi/trao-doi-binh-luan/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-can-giai-

quyet-5-van-de-131249.html.

61. Tey YS and M Brindal (2012), “Factors influencing the adoption of precision implications”, Precision technologies: a agricultural for policy review

Agriculture 13: 713-730.

62. Thành ủy Hà Nội (2015), Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng

cao đời sống nông dân giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.

63. Thời báo tài chính Việt Nam (2017), phát triển nông nghiệp công nghệ cao: doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách ưu đãi, truy cập ngày 01 tháng 4 năm

154

2018, từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2017-06-27/phat-trien-

nong-nghiep-cong-nghe-cao-doanh-nghiep-kho-tiep-can-cac-chinh-sach-uu-dai-

44889.aspx.

64. Thời báo tài chính Việt Nam (2017), thu hút đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: tháo gỡ nút thắt chính sách, truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2018, từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2017-09-15/thu-hut-dau- tu-vao-nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-thao-go-nut-that-chinh-sach- 47874.aspx.

65. Thủ tướng Chính phủ (2010), về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020. Hà Nội.

66. Thủ tướng Chính phủ (2012), về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020. Hà Nội.

67. Thủ tướng Chính phủ (2015), về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Nội.

68. Thư viện Đại học An Giang (2018), thông tin chuyên đề bước đầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam, truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2018, từ http://lib.agu.edu.vn.

69. Thư viện học liệu mở Việt Nam, Đại cương về quản lý hành chính nhà nước,

truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018, từ https://voer.edu.vn.

70. Trần Đình Thao và cộng sự (2010), Nghiên cứu môi trường đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thành phố Hà Nội, Báo cáo nghiên cứu Đề tài cấp thành phố Hà Nội.

71. Trần Ngọc Ngoạn (2008), Phát triển nông thôn bền vững những vấn đề lý luận

và kinh nghiệm thế giới , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

72. Trần Thanh Quang (2016), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta”,

Tạp chí Cộng sản, số 884, tr.83-88.

73. Trần Thị Vân Hoa (2017), “kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Israel và bài học cho Việt Nam”, kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr 171-182.

74.

155

75. Trịnh Kim Liên (2016), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng giá trị cao, kinh tế xanh và phát triển bền vững, NXB chính trị quốc gia.

76. Trọng Nguyễn (2014), “Hướng đến nền nông nghiệp công nghệ cao”, Kinh tế

Châu Á – Thái Bình Dương, số 438, tr 19.

77. Trương Vĩnh Xuân (2010), “Nông nghiệp công nghệ cao Cần Thơ: Từ chính sách

đến thực tế”, Tạp chí khoa học Cần Thơ, số 2, tr 15-18.

78. Tseng W and H Zebregs (2002), “Foreign Direct Investment in China: Some Lessons for Other Countries”, IMF Policy Discussion Paper, Asia and Pacific Department.

79. TTC Việt Nam (2017), cùng tìm hiểu nền nông nghiệp của Nhật Bản, truy cập

ngày 02 tháng 4 năm 2018, từ http://japan.net.vn.

80. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (năm 2016), Báo cáo tổng hợp Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

81. Vũ Thanh Nguyên (2017), xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp hiện tại tại tỉnh Hải Dương, luận án Tiến sỹ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

82. Zhang J. J Wang and C Li (2010), “Problems and countermeasures on the development of presicion agriculture in Heilongjiang province”, International Federation for Information Processing 317: 461-465.

156

PHỤ LỤC PHỤ LỤC: 01

Mã phiếu: 01/ _______

PHIẾU KHẢO SÁT CÁN BỘ QUẢN LÝ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI *****

4

3

5

2

Không cần điều chỉnh

Không có ý kiến

Chúng tôi đang khảo sát về việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trân trọng cảm ơn ông/bà đã dành thời gian điền phiếu khảo sát. Mọi thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, Câu 1: Ông/Bà biết đến qui hoạch và chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội như thế nào?  Biết đến chương trình/qui hoạch  Chưa nghe đến chương trình/qui hoạch phát triển NN CNC Nếu biết, xin ông bà đánh giá mức độ phù hợp của các chương trình/qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội theo điểm từ 1 đến 5 với 5 là mức độ phù hợp cao nhất và 1 là mức độ phù hợp thấp nhất 1 Theo ông bà, Thành phố có cần thiết phải điều chỉnh qui hoạch/chương trình phát triển nông nghiệp CNC hay không Cần Điều chỉnh Câu 2: Hãy thể hiện cảm nhận của Ông/bà về sự phù hợp của các các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội bằng cách khoanh tròn hoặc đánh dấu vào điểm số theo lựa chọn của ông bà từ 1 đến 5 với 1 là ít phù hợp nhất và 5 là điểm thể hiện mức độ phù hợp cao nhất. STT Các chính sách phát triển nông nghiệp CNC

Đánh giá mức độ phù hợp

1 2 3 4 5

I

Chính sách liên quan đến đất đai

1 2 3 4 5

1.1

Chính sách miễn/giảm tiền sử dụng đất và cho thuê đất

1 2 3 4 5

1.2

Chính sách tích tụ và tập trung ruộng đất

1 2 3 4 5

1.3

Qui hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp CNC tập trung

1 2 3 4 5

II

Chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật

2.1

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ khoan giếng, xử lý môi trường: hỗ trợ 1 lần kinh phí khoan giếng, đào giếng tối đa 10 triệu/1 ha;

157

2.2

1 2 3 4 5

hỗ trợ kinh phí mua thùng chứa vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật 2 thùng/ha; hỗ trợ chi phí xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật

2.3

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất thải chăn nuôi

2.4

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ 1 lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng nước nuôi trồng thủy sản

2.5

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp, tiêu nước

2.6

1 2 3 4 5

Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật liệu xây dựng theo định mức như nhà lạnh, …....

1 2 3 4 5

III

Các chính sách hỗ trợ tín dụng vay vốn đển SXKD

1 2 3 4 5

3.1

Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay trong 36 tháng cho 1 DA

3.2

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với hạng mục đầu tư cơ sở chế biến

3.3

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất mua máy móc thiết bị trong 36 tháng

3.4

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi từ nguồn kinh phí khuyến nông

1 2 3 4 5

IV

Chính sách hỗ trợ đào tạo

4.1

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề: mỗi lao động được hỗ trợ 100% học phí đào tạo + tài liệu

4.2

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật đối với các cơ sở sản xuất: thời gian tập huấn tối đa 03 ngày/lớp; hỗ trợ tiền ăn: 50 ngàn/học viên/ngày; miễn phí học phí và các tài liệu

4.3

1 2 3 4 5

Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn: mô hình thủy sản tối thiểu 3ha được tối đa 300 triệu; mô hình chăn nuôi lợn tối thiểu 2.000 con được tối đa 500 triệu

V

Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại

1 2 3 4 5

Các thông tin chung - Ông/ bà thuộc đối tượng khảo sát nào  Lãnh đạo và cán bộ bộ công chức các sở ngành  Cán bộ công chức cấp huyện  Đối tượng khác……………………………………. -

Độ tuổi:  Dưới 30 tuổi  Từ 30 – 50 tuổi  Trên 50 tuổi TRÂN TRỌNG CẢM ƠN!

158

Mã phiếu: 02/ _______

PHIẾU KHẢO SÁT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI *****

Không cần điều chỉnh

Không có ý kiến

Chúng tôi đang khảo sát về việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trân trọng cảm ơn ông/bà đã dành thời gian điền phiếu khảo sát. Mọi thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học Câu 1: Ông/Bà biết đến qui hoạch và chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội như thế nào?  Biết đến chương trình/qui hoạch  Chưa nghe đến chương trình/qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC lần nào Nếu biết, xin ông bà đánh giá mức độ phù hợp của các chương trình/qui hoạch phát triển nông nghiệp CNC của thành phố Hà Nội theo điểm từ 1 đến 5 với 5 là mức độ phù hợp cao nhất và 1 là mức độ phù hợp thấp nhất 1 2 3 4 5 Theo ông bà, Thành phố có cần thiết phải điều chỉnh qui hoạch/chương trình phát triển nông nghiệp CNC hay không Cần Điều chỉnh Câu 2: Hãy thể hiện cảm nhận của Ông/bà về sự phù hợp của các các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hà Nội bằng cách khoanh tròn hoặc đánh dấu vào điểm số theo lựa chọn của ông bà từ 1 đến 5 với 1 là ít phù hợp nhất và 5 là điểm thể hiện mức độ phù hợp cao nhất.

STT

Biết hay không

Các chính sách phát triển nông nghiệp CNC

Đánh giá Mức độ phù hợp

Được thụ hưởng hay không

Chính sách liên quan đến đất đai

Biết Không Có  

Không 

I 1.1 Chính sách miễn/giảm tiền sử dụng

đất và cho thuê đất

 

1.2 Chính sách tích tụ và tập trung

ruộng đất

1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5  

1.3 Qui hoạch các vùng sản xuất nông

1 2 3 4 5  

II

nghiệp CNC tập trung Chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật

159

STT

Biết hay không

Các chính sách phát triển nông nghiệp CNC

Đánh giá Mức độ phù hợp

Được thụ hưởng hay không 

1 2 3 4 5

2.2

1 2 3 4 5

2.1 Chính sách hỗ trợ khoan giếng, xử lý môi trường: hỗ trợ 1 lần kinh phí khoan giếng, đào giếng tối đa 10 triệu/1 ha; hỗ trợ kinh phí mua thùng chứa vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật 2 thùng/ha; hỗ trợ chi phí xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật

1 2 3 4 5

2.3 Chính sách hỗ trợ 1 lần kinh phí xây dựng công trình xử lý chất thải chăn nuôi

1 2 3 4 5

2.4 Chính sách hỗ trợ 1 lần 50% kinh phí mua thiết bị làm giàu ôxy vùng nước nuôi trồng thủy sản

1 2 3 4 5

2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng đường giao thông, kênh mương trục chính cấp, tiêu nước

1 2 3 4 5

2.6 Hỗ trợ toàn bộ bằng tiền để mua vật liệu xây dựng theo định mức như nhà lạnh, …....

1 2 3 4 5

III Các chính sách hỗ trợ tín dụng

vay vốn đển SXKD

3.1 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất vay

trong 36 tháng cho 1 DA

 

 

 

 

3.2 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất trong 36 tháng đối với hạng mục đầu tư cơ sở chế biến

1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

3.3 Chính sách hỗ trợ 100% lãi suất mua máy móc thiết bị trong 36 tháng

1 2 3 4 5

3.4 Chính sách hỗ trợ vốn mua giống cây trồng vật nuôi từ nguồn kinh phí khuyến nông

 

1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

IV Chính sách hỗ trợ đào tạo 4.1 Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề: mỗi lao động được hỗ trợ 100% học phí đào tạo + tài liệu

160

STT

Biết hay không

Các chính sách phát triển nông nghiệp CNC

Đánh giá Mức độ phù hợp

Được thụ hưởng hay không 

1 2 3 4 5

1 2 3 4 5

V









1 2 3 4 5

4.2 Chính sách hỗ trợ tập huấn kỹ thuật đối với các cơ sở sản xuất: thời gian tập huấn tối đa 03 ngày/lớp; hỗ trợ tiền ăn: 50 ngàn/học viên/ngày; miễn phí học phí và các tài liệu 4.3 Chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn: mô hình thủy sản tối thiểu 3ha được tối đa 300 triệu; mô hình chăn nuôi lợn tối thiểu 2.000 con được tối đa 500 triệu Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại

Nếu đã đầu tư, ông bà hãy nêu lý do mình đầu tư vào nông nghiệp CNC bằng cách

Câu 3: Ông/Bà đã đầu tư vào dự án hay mô hình nông nghiệp CNC nào?:  Đã đầu tư Tổng số vốn đầu tư là: …………….  Không đầu tư đánh dấu (X) hoặc tick (V) vào ô thích hợp trong bảng dưới đây:

Biết đến chính sách

Được thụ hưởng từ chính sách

Tiếp cận được chính sách vay vốn

Tiếp cận được chính sách đất đai

Liên kết trong sản xuất

Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm

Có Không Có Không Có Không Có Không Có Không Có

Không

Ông/ bà thuộc đối tượng khảo sát nào

Các thông tin chung -  Lãnh đạo doanh nghiệp nông nghiệp  Cán bộ lãnh đạo HTX  Hộ gia đình  Đối tượng khác……………………………………. -

Độ tuổi:  Dưới 30 tuổi  Từ 30 – 50 tuổi  Trên 50 tuổi

TRÂN TRỌNG CẢM ƠN!

161

PHỤ LỤC 02: DANH SÁCH PHỎNG VẤN SÂU

STT Họ và tên

Chức danh và nơi làm việc

Ghi chú

Cán bộ cơ quan quản lý

Chu Phú Mỹ

Giám đốc sở NN&PTNT, thành phố HN

1

Tạ Văn Tường

Phó giám đốc Sở NN&PTNT thành phố HN

2

Dương Bá Mẫn

Trưởng phòng kinh tế huyện Thanh Oai

3

Nguyễn Công Thanh

Chủ tịch UBND xã Tân Phú, Huyện Quốc Oai

4

Đặng Thị Tươi

Trưởng phòng kinh tế huyện Ứng Hòa

5

Nguyễn Viết Đạt

Trưởng phòng kinh tế huyện Đan Phượng

6

Đặng Thị Thanh Hương

Phó phòng kinh tế huyện Thường Tín

7

Nguyễn Đức Thắng

Bí thư huyện ủy huyện Đan Phượng

8

Lãnh đạo các HTX, DN và hộ kinh doanh nông nghiệp CNC

Bùi Minh Chung

Giám đốc trang trại Minh Châu Ecofarm

1

Đặng Thị Cuối

2

Giám đốc HTX SX& tiêu thụ rau hữu cơ nông nghiệp CNC Cuối Quý, Huyện Đan Phượng

3

Trương Cao Sơn

Giám đốc Công ty TNHH Hòa Lạc – Kinh doanh nông nghiệp CNC kết hợp du lịch sinh thái, Huyện Thạch Thất

Dương Thị Thu Huệ

Giám đốc Công ty TNHH nhập khẩu KINOKO.

4

Đặng Hữu Hỷ

Chủ trang trại chăn nuôi lợn

5

Nguyễn Trọng Long

Giám đốc HTX Hoàng Long, Tân Hữu, Thanh Oai

6

Nguyễn Thị Phương Liên

7

Giám đốc công ty cổ phần nông nghiệp hữu cơ Tuệ Liên

8

TS. Nguyễn Hải An

Giám đốc trung tâm ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp CNC

9

Bùi Thanh Hà; Mai Hữu Đoan

HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín

10

Nguyễn Thị Phương Liên Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp hữu cơ Tuệ Viên (Hà Nội)

162

PHỤ LỤC 03: Tổng hợp về chương trình dự án được nhận các cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Thành phố Hà Nội

TT

Quy mô

Nội dung thực hiện

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

I

Huyện Mê Linh (18 Chương trình, Đề án)

100ha

Xã Tam Đồng

1

Chương trình sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao

Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí phòng chống dịch bệnh

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX DVNN) Văn Lôi

(90ha),

HTX DVNN Yên Nhân

161,7ha

2

Xã Tiền Phong Tiến Thắng (71.17ha)

12ha

Xã Văn Khê (12ha)

HTX DVNN Văn Quán

3

Đề án sản xuất và tiêu thụ rau an toàn (RAT) Đề án phát triển, sản xuất hoa cây cảnh

Hỗ trợ 70% chi phí thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nguồn gốc sinh học Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí thuốc BVTV

386ha

HTX DVNN Yên Nhân

4

Đề án sản xuất và tiêu thụ RAT

Hỗ trợ 50% chi phí thuốc BVTV nguồn gốc sinh học

203ha

5

Hỗ trợ 50% giống, 50% chi phí phòng chống dịch bệnh

303ha

6

Vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao chuyên canh tập trung Vùng sản xuất hoa, cây cảnh

Các xã: Tiền Phong (90ha), Tiến Thắng (72ha), Văn Khê (90ha), Tráng Việt (134ha) Các xã: Tam Đồng (50ha), Tự lập (50ha), Kim Hoa (53ha), Liên Mạc (50ha) Các xã: Văn Khê (114ha), Mê Linh (189ha)

HTX DVNN Văn Lôi, HTX DNVNN Bồng Mạc, HTX DVNN Phú Mỹ HTX DVNN Văn Quán, HTX DVNN Liễu Trì

Vùng thủy sản tập trung

20ha

Xã Tự Lập (20ha)

HTX DVNN Phú Mỹ

7

Hỗ trợ 100% thùng chứa bao bì thuốc BVTV và chi phí thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV Hỗ trợ 50% thuốc khử trùng môi trường ao nuôi, 50% chi phí mua thiết bị làm giàu oxi môi trường ao nuôi không quá 15 triệu đồng/máy

tích

8

Đề án cơ giới hóa gieo, cấy, thu hoạch lúa

Hỗ trợ 30% chi phí mua máy gặt đập liên hợp, máy cấy, máy gieo hạt, không quá 75 triệu đồng/máy

Phục vụ 30% diện lúa trên toàn huyện

9

Đề án hỗ trợ phát triển cây vụ đông

Hỗ trợ 100% giống khoai tây, đậu tương, chi phí tập huấn, chỉ đạo kỹ thuật...

1.125ha 33 máy gặt đập liên hợp, 202 máy gieo cấy 30ha cây khoai tây, 200ha cây đậu tương

Các xã: Liên Mạc, Vạn Yên, Tiến Thinh, Tự Lập, Tam Đồng, Thanh Lâm

Trên toàn huyện

10

Đề án hỗ trợ phát triển chăn nuôi trên địa bàn huyện giai đoạn 2017- 2019

80 hầm Bioga, 600kg bột và 1,500 lít chế phẩm sinh học, 01 công trình xử lý nước thải khu chăn nuôi

- Hỗ trợ 1 lần sau đầu tư hầm Biogas bằng composite cho các trang trại, gia trại nuôi thường xuyên từ 10 con trâu, bò, 10 con lợn sinh sản, 30 con lợn thương phẩm trở lên (hỗ trợ đến 50% chi phí và không quá 4.500.000đ/hầm). - Hỗ trợ 1 lần chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi cho gia cầm, thủy cầm (áp dụng cho các gia trại, trang trại chăn nuôi thường xuyên từ 1.000 con gia cầm, thủy cầm trở lên,

163

TT

Quy mô

Nội dung thực hiện

Địa điểm thực hiện

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

11

Cấp chứng nhận NHTT

Các xã: Mê Linh, Đại Thịnh, Văn Khê

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ 2.000 con chim cút trở lên) (không quá 10kg bột và 15 lít chế phẩm/hộ). Hỗ trợ: 100% chi phí xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu; 100% xây dựng hệ thống quản lý và sử dụng NHTT; 100% chi phí quảng bá sản phẩm mang NHTT hoa Mê Linh

12

Hỗ trợ 100% giống, công cấy và 30% vật tư

13ha

Xã Liên Mạc

13

Hỗ trợ 100% gốc hồng thế, 30% vật tư

3.300 cây

Xã Mê Linh

HTX DVNN Hạ Lôi

14

Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư

5.000 con

Xã Tráng Việt

HTX DVNN Tráng Việt

15

Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư

900 con

Xã Mê Linh

16

Hỗ trợ 100% giống, 30% vật tư

20 con

Xã Liên Mạc

Dự án xây dựng nhãn hiệu tập thể (NHTT) hoa Mê Linh Cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa Sản xuất hoa Hồng thế trên địa bàn huyện Chăn nuôi gà thả vườn Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nuôi cá chất lượng cao trắm giòn, chép giòn Thí điểm chăn nuôi bò thịt BBB

xã:

Tráng

17

Nuôi lợn công nghệ cao

2.500m2

Các Việt, Liên Mạc, Tự Lập

18

2.000m2

Xã Văn Khê

Sản xuất hoa, rau công nghệ cao

Nuôi lợn công nghệ cao (với hệ thống máng ăn, máng uống tự động, chuồng nuôi có hệ thống làm mát và quạt thông gió vào mùa hè và hệ thống làm ấm vào mùa đông tại các xã: Tráng Việt, Liên Mạc, Tự Lập) Sản xuất rau, hoa công nghệ cao trong nhà màng, nhà lưới quy mô 2000m2 tại xã Văn Khê từ nguồn kinh phí tự chủ

II

19

Ứng dụng công nghệ nuôi Giun Quế xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi bò sữa trên địa bàn xã Phù Đổng

Huyện Gia Lâm Điểm xử lý phân, chất thải hữu cơ trong chăn nuôi bò sữa chống ô nhiễm môi trường bằng công nghệ nuôi Giun Quế

Thôn Phù Dực 2, xã Phù Đổng

Hợp tác xã Phát triển nông nghiệp và Dịch vụ Thương mại Hiệp Thư

20

Trồng các loại hoa lan ứng dụng công nghệ cao, hệ thống tưới tự động trong nhà kính

Trồng hoa lan ứng dụng công nghệ cao nhà màng, nhà lưới

Tổng diện tích khu vực thực hiện: 15,6ha (hiện nay đã đầu tư: 01 nhà xưởng, 50 bể nuôi Giun Quế): 1500m2; nhà trồng hoa lan ứng dụng công nghệ cao nhà màng, nhà lưới 2000m2), đang tiếp tục đầu tư xây

164

TT

Quy mô

Nội dung thực hiện

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

HTX Làng Gióng

21

Điểm xử lý phân, chất thải hữu cơ trong chăn nuôi chống ô nhiễm môi trường bằng công nghệ nuôi Giun Quế

Thôn Đổng Xuyên, xã Đặng Xá

Điểm xử lý phân, chất thải hữu cơ trong chăn nuôi bò sữa chống ô nhiễm môi trường bằng công nghệ nuôi Giun Quế

22

Chế biến sữa bò

Thu gom, chế biến sữa bò thành phẩm: kem, sữa tươi,...

Thôn Phù Dực, xã Phù Đổng

HTX chế biến sữa bò tươi Phù Đổng

dựng 01 nhà xưởng nuôi Giun Quế 1500m2. Diện tích còn lại trồng cây ăn quả, nuôi thủy sản 8804m2 nhà xưởng xử lý phân, chất thải hữu cơ trong chăn nuôi bò sữa nuôi Giun Quế 1746m2 gồm có các nhà xưởng sơ chế, chế biến các sản phẩm từ sữa là 520m2

Chăn nuôi bò sữa

Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao

20 con bò sữa

Thôn Trân Tảo, xã Phú Thị

23

Hộ gia đình bà Nguyễn Thị Loan

Chăn nuôi bò sữa

Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao

Xã Phù Đổng

24

100 con bò sữa, 200 con bò thịt

Chăn nuôi bò sữa

Chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao

15 con bò sữa

Xã Phù Đổng

25

Chăn nuôi lợn

Chăn nuôi lợn ứng dụng công nghệ cao

Thôn Hàn Lạc, xã Phú thị

26

150 lợn nái, 650 lợn thịt

Hộ gia đình ông Nguyễn Văn Hoạt Hộ gia đình ông Hoàng Đại Dương Hộ gia đình ông Nguyễn Văn Mạnh

thân

Xã Lệ Chi

27

Sản xuất công nghệ cao từ chăn nuôi đến chế biến các sản phẩm từ thịt lợn sinh học

5ha với 400 lợn nái, 2500 lợn thịt

Công ty cổ phần Hải Nguyên

Giết mổ gia cầm bán công nghiệp

5200m2

Xã Yên Thường

28

Chăn nuôi trang trại xanh thiện với môi và trường Tổ hợp giết mổ gia cầm Lan Vinh

Công ty cổ phần thương mại Lan Vinh

29

Sản xuất cây giống

Sản xuất cây giống ứng dụng công nghệ cao

Thôn Trung Quan, xã Văn Đức

HTX Công nghệ nông nghiệp Văn Đức

1000m2 với diện tích nhà lưới là 750m2

TT

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

165

30

Sản xuất rau an toàn

Nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn theo chuỗi với Công ty cổ phần công nghệ cao An Sinh

Thôn Đổng Xuyên, xã Đặng Xá

Công ty cổ phần công nghệ cao An Sinh

31

Sản xuất rau thủy canh

Thôn Ngọc Động, xã Đa Tốn HTX DVTH Đa Tốn

Sản xuất rau thủy canh ứng dụng công nghệ cao nhà lưới, hệ thống tưới tự động

32

Sản xuất giống và hoa lan nuôi cấy mô

Sản xuất giống và hoa lan các loại có nhà khung thép để nuôi cấy mô cho đến khi ra hoa

Ngô Xuân Quảng, thị trấn Trâu Quỳ

HTX sản xuất và thương mại Thư Thủy

theo

tiêu

Sản xuất cam canh, cam vinh theo tiêu chuẩn VietGAP

Thôn Báo Đáp, xã Kiêu Kỵ

33

Chi hội làm vườn thôn Báo Đáp, xã Kiêu Kỵ

Sản xuất cam canh, cam chuẩn vinh VietGAP

theo

tiêu

Sản xuất cam, chuối, bưởi diễn theo tiêu chuẩn VietGAP

34

Xứ đồng bãi, thôn Kim Sơn, xã Kim Sơn

Sản xuất cam, chuối, bưởi diễn chuẩn VietGAP

HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao Gia Lâm

35

Trồng chuối Cổ Bi

Trồng chuối

Xứ đồng bãi xã Cổ Bi

HTX DV tổng hợp Cổ Bi

50 hộ với 5ha có nhà lưới 750m2 và khu sơ chế sản phẩm rau an toàn quy mô 1800m2 Quy mô thực hiện là 9456m2 trong đó có 540m2 nhà màng nhà lưới ứng dụng công nghệ cao hệ thống tưới tự động 1000m2 nhà khung thép tiền chế sản xuất hoa lan các loại nuôi cấy mô 20,2ha sản xuất cam canh, cam vinh theo tiêu chuẩn VietGAP 6,98ha trong đó diện tích trồng chuối là 5,64ha, diện tích bưởi diễn 6200m2, diện tích cam 7200m2 Diện tích trồng cây ăn quả xã Cổ Bi là 70ha. Năm 2015 được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu tập thể Chuối Cổ Bi với 40ha.

TT

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

III

Huyện Thường Tín

166

Nuôi trồng thủy sản

50ha

Xã Nghiêm Xuyên

36

Nuôi trồng thủy sản

4.2ha

Xã Thư Phú

37

Các hộ nuôi trồng thủy sản trong xã Các hộ nuôi trồng thủy sản trong xã

0,648ha

Xã Tiền Phong

Hộ ông Nguyễn Văn Bảo

38

Nuôi trồng thủy sản cá sông trong ao

Máy quạt nước tạo oxy và chế phẩm sinh học xử lý môi trường ao nuôi Máy quạt nước tạo oxy và chế phẩm sinh học xử lý môi trường ao nuôi. Nuôi cá sông trong ao, có áp dụng máy quạt nước tạo oxy và chế phẩm sinh học xử lý môi trường ao nuôi

Sản xuất Rau

171ha

39

Sử dụng chế phẩm sinh học có nguồn gốc sinh học trong công tác BVTV.

Xã Tân Minh, Thư Phú, Hà Hồi

Các hộ trồng rau của HTX NN Tân Minh, Thư Phú, Hà Hồi

1,1ha

Xã Ninh Sở

Sản xuất rau Thanh Hà

40

Cơ sở Nguyễn Thị Thanh Hà

Có nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tự động, sơ chế và bảo quản; dấm chuối ứng dụng công nghệ cao (Sản xuất rau tiêu chuẩn GAP)

ty TNHH Nông

Đang xây dựng nhà lưới, nhà màng

1,2ha

Xã Lê Lợi

41

Công nghiệp Hoàng Gia

85ha

Các hộ dân

42

20ha

Xã Tự Nhiên, xã Chương Dương Xã Tự Nhiên

Sản xuất rau, củ quả an toàn Chuối Tây thái và chuối Tiêu hồng nuôi cấy mô Cam canh

43

ty TNHH Vinh

200ha

Xã Liên Phương

Giết mổ lợn Vinh Anh

44

Sử dụng chế phẩm sinh học trong bảo vệ thực vật và giống nuôi cấy mô Áp dụng công nghệ tưới phun bán tự động Giết mổ trên dây truyền bán tự động (Công suất thiết kế 200 con/ giờ, thực tế 100-120 con/ ngày)

Giết mổ gia cầm bán công nghiệp

1.200 con/ngày

Xã Lê Lợi

theo Dự

45

Giết mổ gia cầm bán công nghiệp án LISALF

Các hộ dân Công Anh Hộ ông Hoàng Văn Chiểu, Nguyễn Văn Thông

Chăn nuôi chuồng kín

3.1 ha

Các hộ chăn nuôi

46

Các xã: Vân Tảo, Hồng Vân, Thư Phú

Chăn nuôi lợn quy mô lớn theo hệ thống chuồn khép kín, máng ăn, uống tự động, sử dụng các loại thức ăn gia súc đạt tiêu chuẩn

80m2(02 kho lạnh) Xã Hà Hồi

47

300m2

KCN Quất Động

Bảo quản Nông sản

48

HTX NN Hà Hồi Công ty TNHH Xã Hội Thọ An

Các cá nhân mua máy

49

Sử dụng hệ thống máy nông nghiệp công nghệ cao của hãng Kubota: máy làm đất, máy gieo hạt, máy cấy

Các xã: Quất Động, Minh Cường, Văn Bình

IV

18ha

HTX NN Kim An

50

Bảo quản giống khoai Tây Kho lạnh bảo quản giống Khoai tây Bảo quản nông sản Thọ An Thực hiện cơ giới hóa đồng bộ sử dụng hệ thống máy nông nghiệp công nghệ cao Huyện Thanh Oai Cây ăn quả Kim An (theo hướng VietGAP)

Áp dụng khoa học kỹ thuật (KHKT) theo hướng VietGAP (đã có nhãn hiệu (Cam đường Kim An)

Thôn Tràng Cát và Tjppm Ngọc Liên xã Kim An

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

TT

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

Rau hữu cơ

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ Ứng dụng KHKT vào sản xuất rau hữu cơ (cã có chứng

2ha

Thôn Song Khê - xã Tam Công ty Bắp Cải

51

167

Hưng

theo hướng

52

Xã Đỗ Động

Nguyễn Mạnh Hùng

2.000 con lợn thương phẩm

53

30ha

HTXNN Tam Hưng

Chăn nuôi VietGAP Nếp cái hoa vàng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP

nhận VietGAP) Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm (đã có nhãn hiệu)

54

Mạ khay máy cấy

Áp dụng cơ giới hóa từ gieo mạ đến thu hoạch

20ha

HTXNN Bình Minh

Thôn Song Khê, xã Tam Hưng Thôn Sinh Liên, xã Bình Minh

55

Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học

01ha, 02 hộ

Xã Thanh Thùy

Hộ chăn nuôi

56

Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học

01ha, 02 hộ

Xã Liên Châu

Hộ chăn nuôi

Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học Ứng dụng KHKT vào chăn nuôi theo tiêu an toàn sinh học

5.000 con, 11 hộ Xã Đỗ Động 5.000 con, 11 hộ Xã Liên Châu

Hộ chăn nuôi Hộ chăn nuôi

57 58 V

Chăn nuôi thủy sản theo hướng an toàn sinh học Chăn nuôi thủy sản theo hướng an toàn sinh học Chăn nuôi gà Ai Cập Chăn nuôi gà Ai Cập Huyện Đông Anh

59

Sản xuất rau hữu cơ

Sản xuất rau hữu cơ

01ha

Xã Tiên Dương

60

Sản xuất rau an toàn

Sản xuất rau an toàn ứng dụng công nghệ tưới Israel

0,5ha

Xã Liên Hà

HTX sản xuất rau hữu cơ Tiên Dương Ông Nguyễn Minh Chuyên

61

SX rau an toàn

Xã Đại Mạch

HTX Sông Hồng

Sản xuất rau an toàn, diện tích 6000m2, 2000m2 nhà màn lắp hệ thống tưới theo công nghệ Israel

62

Trang trại lợn giống, thịt

Nuôi 500 lợn nái ngoại, 200 con lợn thương phẩm

Xã Tiên Dương

Ông Đinh Văn Đoàn

63

Trang trại lợn giống, thịt

Nuôi 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm

Xã Tiên Dương

Ông Nguyễn Văn Minh

64

Trang trại lợn giống, thịt

Nuôi 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm

Xã Uy Nỗ

Ông Dương Văn Phong

65

Cung cấp gà giống

Tiên Dương

Ông Nguyễn Văn Hiệu,

0,6ha, 0,2ha nhà màn tưới theo CN Israel 500 lợp nái ngoại, 200 thương phẩm 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm 400 lợn nái ngoại, 500 lợn thương phẩm 15 vạn gà siêu trứng, 10 vạn gà thương phẩm

66

Cung cấp gà giống

Xã Liên Hà

Ông Hoàng Minh Ngọc

25 vạn gà sinh sản siêu trứng, 27 lò ấp

Nuôi 15.000 con gà siêu trứng, 10.000 gà thương phẩm. 18 lò ấp với công suất 2 vạn quả/mẻ/lò, hàng năm cung cấp 1,2 triệu gà con cho các tỉnh thành miền Bắc. Nuôi 25.000 gà sinh sản siêu trứng. 27 lò ấp với công suất 2 vạn quả/mẻ/lò, hàng năm cung cấp 1,8 triệu gà con cho các tỉnh thành cả nước.

Nội dung thực hiện

TT

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

Huyện Phúc Thọ

VI

168

Nông trại sinh thái

15ha

Xã Hát Môn

67

Rau an toàn Chăn nuôi lợn Sơ chế trứng gia cầm

Dự án nông trại chia sẻ tự bền vững theo hướng sinh thái tổng hợp công nghệ cao kết hợp du lịch - giáo dục Sản xuất rau các loại Chăn nuôi lợn thịt Sơ chế trứng gia cầm

0,2ha 7.000 con 2ha

Xã Thanh Đa Xã Cẩm Đình thị trấn Phúc Thọ

68 69 70

ty

CP

Rau an toàn, rau hữu cơ

Sản xuất rau an toàn, rau hữu cơ

3ha

Xã Cẩm Đình

71

72

Rau an toàn

Sản xuất rau các loại

0,5ha

Xã Thanh Đa

73

Rau an toàn

Sản xuất rau các loại

3,9ha

Xã Hát Môn

Công ty TNHH nông trại chia sẻ SHAREFARM Bà Nguyễn Thị Hương ông Ngô Xuân Cường Công ty TNHH Ba Huân thực Công phẩm hữu cơ BQ Công ty Cổ phần sản xuất và xuất nhập khẩu rau chất lượng cao Việt Phúc Công ty TNHH MTV Lam Sơn sản xuất rau VietGAP tại Hát Môn Công ty Greentek Vision

Trồng cỏ Alfalfa và sản xuất rau hữu cơ

50ha

Xã Xuân Phú

74 VII

Trồng cỏ và rau hữu cơ Huyện Đan Phượng

25.000m2

75

Sản xuất giống và hoa lan Hồ Điệp

Khu bãi Đáy, xã Phương Đình, huyện Đan Phượng

Hộ gia đình bà Nguyễn Thị Kim Dung

Sản xuất giống hoa và hoa lan Hồ Điệp có nhà khung thép tền chế để nuôi cấy mô, sản xuất giống hoa lan Hồ Điệp là 661m2 để sản xuất 02 triệu cây giống; diện tích nhà màng kính là 4.500m2 để sản xuất 50.000 cây giống cho các cơ sở nuôi trồng đến khi ra hoa và 20.000 cây nuôi trồng tại cơ sở đến khi ra hoa.

76

Sản xuất 640.000 cây giống và 610.000 cây thương phẩm

Khu Trại Nái, thị trấn Phùng

HTX Đan Hoài

Sản xuất giống và hoa lan Hồ Điệp

Tổng diện tích 50.000m2 trong đó 4.000m2 nhà kính sản xuất giống, 16.000m2 sản xuất giống, thương phẩm trong nhà màng

77

Sản xuất nấm

Sản phẩm chủ yếu là nấm ăn, nấm dược chất lượng cao

7.979m2

HTX nấm Nghĩa Minh

Xứ đồng Bãi Non, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng

78

Sản xuất rau hữu cơ

Sản phẩm rau hữu cơ

Xử đồng bãi tổng màu xã Đan Phượng

Hộ ông Nguyễn Đăng Quý (Đặng Thị Quế) xã Đan Phượng

Tổng diện tích 45.800m2 trong đó 4.000m2 nhà màng lưới, 41.800m2 sản xuất ngoài tự nhiên

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

TT

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

Sản xuất rau hữu cơ

Sản phẩm rau hữu cơ

Tổng diện tích

Đất bãi sông Hồng, xã Thọ Hộ ông Trần Văn Bảy

79

169

Xuân

80

Trồng rau hữu cơ

Sản phẩm rau hữu cơ

HTX Song Phượng

Xứ đồng Vòng, xã Song Phượng

81

Trồng rau an toàn

Sản phẩm rau an toàn

Xử đồng Bãi Nổi, thôn Thống Nhất, xã Song Phượng

25.000m2 trong đó 3.500m2 nhà màng lưới 1.200m2 nhà màng lưới 23.000m2 trong đó: 4.500m2 nhà màng lưới, 18.500m2 sản xuất ngoài tự nhiên

82

Nấm xã Hạ Mỗ

Sản phẩm nấm ăn

0,11ha

Trung tâm nghiên cứu và phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao (Viện Nghiên cứu Ngô) Bà Bùi Thị Hiền, cụm 8, xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội

Xứ đồng Mẽo, cụm 8, xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội

VIII

Huyện Sóc Sơn

40ha

83

Sản xuất đu đủ theo tiêu chuẩn VietGAP

Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình VietGAP

HTX NN&KDTH Nam Sơn

20ha

Xã Nam Sơn Xã Nam Sơn

84

140ha

Xã Bắc Sơn

85

Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình Vietgap Hỗ trợ 50% giống, thực hiện sản xuất theo quy trình VietGAP

Sản xuất chuối tiêu hồng theo tiêu chuẩn VietGAP Sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP

Sản xuất rau hữu cơ

37,5ha

86

Hỗ trợ 50% thuốc BVTV thảo mộc, sản xuất theo quy trình hữu cơ, hỗ trợ vật tư làm nhà lưới (0.425ha)

Các xã: Thanh Xuân, Đông Xuân, Hiền Ninh, Tân Dân

rau an

toàn

Hỗ trợ vật tư làm nhà lưới (0,28ha), đầu tư kho lạnh (60m3)

25,28ha

Xã Đông Xuân

87

Sản xuất VietGAP

Sản xuất hoa, nấm

07ha

88

HTX NN&KDTH Nam Sơn HTX nông lâm nghiệp Bắc Sơn HTX rau hữu cơ Bái Thượng, HTX NN rau hữu cơ Thanh Xuân… HTX SX KDTH Đông Xuân HTX Hoa Lợi, HTX NN &KDTH Minh Trí, Công ty CP SX&TM KMS

Sản xuất cây dược liệu

01ha

Xã Bắc Sơn

89

31.000 con

Hộ dân

90

Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi gà đẻ trứng

Nhà lưới 2,1ha; kho lạnh 50m3 (sản xuất hoa 2,5ha); Hỗ trợ 100% khay nhựa, lọ nhựa chuyên dụng cho sản xuất 01ha nấm (bao gồm 40.000 lọ nhựa, 2.500 khay nhựa) Hỗ trợ 100% vật tư, lưới chuyên dụng làm nhà lưới chuyên dụng Chăn nuôi gà trong chuồng kín, kiểm soát được dịch bệnh, hiệu quả cao

Các xã: Xuân Giang, Minh Trí, Minh Phú, Hiền Ninh Xã Bắc Sơn Các xã: Bắc Sơn, Xuân Thu, Bắc Phú. Phú Cường, Minh Trí

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

TT

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

6.000 con

Hộ dân

91

Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi lợn thịt

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ Toàn bộ chất thải chăn nuôi được xử lý bằng biogas, men vi sinh hoặc dùng công nghệ ép phân khô

Các xã: Việt Long, Bắc Phú. Phú Minh, Minh Trí

170

IX

Huyện Thanh Trì

Trồng các loại rau ăn lá, cây ăn quả ngắn ngày (cà chua, dưa lưới, dưa leo) trên diện tích 5000m2, trong đó 2.300m2 nhà màng khung thép sử dụng hệ thống quạt đối lưu không khí, lưới cắt nắng cảm biến nhiệt tự động đóng mở; mái che phủ nilon,

92

Sản xuất Rau Thủy Canh

5.000m2

Xã Yên Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội

Ông Nguyễn Mạnh Hồng xã Yên Mỹ

bao quanh bằng hệ thống lưới chắn côn trùng; hệ thống pha chế dinh dưỡng và máng thủy canh. Mô hình cho doanh thu dự kiến khoảng 01tỷ/năm, lãi bình quân 200 triệu đồng/năm, tạo công ăn việc làm cho 03 lao động với thu nhập bình quân 5 triệu đồng/tháng. UBND Huyện bố trí ngân sách hỗ trợ 50% kinh phí

làm nhà kính công nghệ cao và lắp đặt hệ thống thủy canh, chuyển giao công nghệ sử dụng dinh dưỡng

Sản xuất các loại rau theo phương pháp hữu cơ không sử dụng phân bón vô cơ và các thuốc BVTV hóa học; liên kết

Nhóm hộ trồng rau hữu cơ có liên kết tiêu thụ sản

93

01ha

Thôn Đại Lan, xã Duyên Hà

Ông Nguyễn Văn Minh xã Duyên Hà và Công ty

phẩm

Anstcom

tiêu thụ sản phẩm với công ty Anstcom, cho doanh thu 105 triệu/năm, tạo việc làm cho 02 lao động, UBND huyện hỗ trợ 100% kinh phí mua giống rau trong 2 năm Sản xuất nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn theo chuỗi với HTX An Phát tại xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà

Nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn

với 39 hộ trên diện tích hơn 02ha, các hộ sản xuất theo kế hoạch của Công ty, Công ty thu mua theo giá đã thỏa

94

2,2ha

Xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà

Các hộ nông dân xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà và

theo chuỗi

HTX An Phát

thuận, HTX An Phát đã được cấp giấy xác nhận chuỗi thực phẩm an toàn

Mô hình cơ giới hóa đồng bộ sử dụng hệ thống máy nông

95

45ha

Xã Vĩnh Quỳnh, xã Đại Áng

Thực hiện cơ giới hóa đồng bộ

HTX Vĩnh Ninh, HTX Đại Áng, HTX Vĩnh Trung

nghiệp công nghệ cao của hãng Kubota: Máy sản xuất giá thể công suất: 01 tấn/giờ; Máy gieo hạt tự động công suất: 800 khay/giờ; Máy cấy động cơ công suất: 5 - 6ha/ngày; Máy gặp

171

đập liên hợp công suất: 01ha/giờ; giảm chi phí sản xuất, tạo thêm khâu dịch vụ cho các HTX, tạo thêm việc làm cho các xã

viên HTX, giảm sức lao động. Doanh thu dự kiến của HTX khoảng 140 triệu đồng/năm, lãi suất bình quân 30 triệu

96

Trồng nấm công nghệ cao

2.000m2

Xã Vĩnh Quỳnh

Hộ cá nhân thực hiện

97

Xã Đại Áng

Hộ cá nhân thực hiện

Chăn nuôi lợn theo tiêu chuẩn VietGAP

1.200 lợn thương phẩm và 150 lợn nái

đồng/năm. UBND huyện hỗ trợ 50% kinh phí mua máy móc từ khâu gieo hạt đến cấy, 80% kinh phí mua giống lúa và 100% kinh phí chuyển giao kỹ thuật sản xuất giá thể mạ khay Ấp dụng công nghệ của Nhật với diện tích 2.000m2 trong trang trại 03ha: Sử dụng các vật liệu cách nhiệt để làm vách và mái nhà trồng nấm, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm bằng hệ thống tủ robot chạy dọc theo các dẫy nhà; áp dụng công nghệ men vi sinh để kiểm soát dịch bệnh tại các nhà trồng nấm; xử lý nước mặt ao nuôi thủy sản để sản xuất nấm. Sản lượng nấm bình quân cung cấp cho thị trường ước đạt 13 tấn/tháng cho doanh thu đạt 650 triệu đồng/tháng, tạo công việc làm cho 20 lao động địa phương, thu lãi bình quân ước đạt 35 triệu đồng/tháng. Nuôi lợn theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Đại Áng với diện tích 2,16ha. Hộ thực hiện mô hình có liên kết tiêu thụ sản phẩm với Công ty thực phẩm Song Đạt (giết mổ tại cơ sở giết mổ tập trung xã Vạn Phúc) hình thành chuỗi thực phẩm thịt lợn an toàn. Hộ sản xuất đã được cấp giấy chứng nhận VietGAP

X

Huyện Phú Xuyên

98

Măng tây xanh

5,0ha

Xã Hồng Thái

HTX xã Rau quả Hồng Thái

TT

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

99

Chăn nuôi lợn nái, lợn thịt

7,9ha

Xã Châu Can

Hộ ông Cao Minh Tuệ

100

Chăn nuôi lợn nái, lợn thịt

2,1ha

Xã Phúc Tiến

HTX chăn nuôi Minh Tuấn

Sử dụng nguồn giống nhập nội, trồng trên vùng đất bãi ven sông Hồng. Một số diện tích áp dụng đồng bộ các khâu từ làm đất, chăm sóc. Có sử dụng trồng trong nhà màng và áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm. Doanh thu khoảng 1,3-1,9 tỷ/ha, trừ mọi chi phí, mỗi năm HTX có thể thu lãi 500 - 900 triệu/năm trên 01ha. Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn nái và lợn thành phẩm, uống nước, máng ăn bán tự động; quy mô: 2000 lợn thịt và 400 lợn nái; sản lượng thịt: 460 tấn. Nuôi lợn nái và lợn thành phẩm chuồng kín, uống nước, máng bán tự động. Quy mô: 1.500 lợn thịt và 300 lợn nái; sản lượng thịt: 340 tấn Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn thịt, uống nước, máng ăn tự

101

Nuôi lợn thịt

3,5ha

Xã Quang Lãng

Hộ ông Đinh Văn Bắc

172

102

Chăn nuôi lợn hậu bị

1,8ha

Xã Tân Dân

Hộ ông Nguyễn Phú Dũng

103

3,4ha

Xã Minh Tân

Hộ ông Trương Công Hộ

Trồng dưa lưới và cà chua cherry

104

Trồng nấm sò

1,6ha

Xã Nam Triều

HTX NN Phú Triều

105

Trồng nấm mộc nhĩ

0,5ha

Xã Tân Dân

HTX NN Phú Tân

động. Quy mô: 1.500 con; sản lượng thịt: 300 tấn Sử dụng chuồng kín, nuôi lợn giống; hệ thống uống nước, máng ăn tự động. Quy mô: 1.000 con Tổng diện tích trang trại 3,4ha, trong đó diện tích áp dụng công nghệ cao là 1.500m2 (xây dựng nhà màng có ứng dụng công nghệ kiểm soát khí hậu và công nghệ tưới, cung cấp chất dinh dưỡng tự động, sử dụng khò diệt cỏ bằng gas, sử dụng máy làm đất đa năng,....) Tổng diện tích 1,6ha, chủ cơ sở đầu tư được 01 lò hấp công suất 2.000 bịch/lần hấp, 01 nồi hơi, 01 máy trộn, 01 băng truyền, 01 máy băm rơm; sản phẩn là nấm Sò Chủ cơ sở đã đầu tư được 01 lò hấp công suất 25.000 bịch/lần hấp, 01 nồi hơi, 01 máy đóng bịch, 01 máy nghiền mùn cưa, 01 xe vận chuyển, 02 máy bơm nước; sản phẩm là nấm Sò và nấm Mộc nhĩ

XI

Huyện Thạch Thất

106

Trang trại Hoa viên

12ha

Thôn Dục, xã Yên Bình

Nuôi lợn rừng, sản xuất rau hữu cơ, rau bản địa cho các siêu thị

Công ty TNHH khai thác tiềm năng sinh thái Hòa Lạc

107

Nấm

01ha

Xã Đại Đồng

108

Thung lũng ngọc Linh

Thôn Trại Mới, xã Tiến Xuân

Chuyên sản xuất và chế biến đông trùng hạ thảo và nấm linh chi Ứng dụng công nghệ cao sản xuất và chế biến đông trùng hạ thảo, nấm linh chi và các sản phẩm rau hữu cơ theo phương pháp thủy canh Ứng dụng công nghệ cao sản xuất rau hữu cơ

109

15ha

Xã Yên Trung

Trồng hoa lily và trồng hoa đồng tiền chậu trong nhà kính

110

12ha

Xã Đại Đồng

Rau Hữu cơ Hoa lily và trồng hoa đồng tiền chậu

TT

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

XII

Huyện Quốc Oai

Diện tích chè được trồng tập trung chủ yếu ở khu cực Nông

trường chè Long Phúkhoảng 200ha. Năm 2016 mô hình trồng và

Trồng và thâm canh chè -

Thôn Long Phú, xã Hòa

111

thâm canh chè với diện tích 25ha được Cục Sở hữu trí tuệ cấp

200ha

HTX Chè Long Phú

xã Hòa Thạch

Thạch

nhãn hiệu tập thể "Chè Long Phú - Quốc Oai". Đề xuất Thành

phố hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà sơ chế, chế biến, máy xao sấy

173

chè và hệ thống đóng gói tự động

Trên cơ sở quy hoạch vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi

đã được UBND Huyện phê duyệt, UBND xã Cấn Hữu đã quy

hoạch khu trang trại chăn nuôi tập trung, trong đó có 83 hộ tham

gia Hội chăn nuôi; các hộ chăn nuôi lợn nái, gà đẻ trứng. Áp dụng

Chăn nuôi công nghệ cao

Thôn Cấn Thượng, xã Cấn

112

công nghệ vi sinh, nuôi trong chuồng kín, có hệ thống xử lý môi

55,3ha

Chi Hội chăn nuôi

xã Cấn Hữu

Hữu

trường, đã hình thành chuỗi sản xuất lợn sinh học (HTX Đồng

Tâm).Đề xuất Thành phố hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng đường

đi, đường điện cấp cho khu chăn nuôi, xây dựng lò mổ tập trung

và chuỗi sản phẩm an toàn.

Diện tích trồng cây ăn quả xã Đại Thành là 106,35ha, chủ yếu trồng

nhãn chín muộn, năm 2015 được Cục Sở hữu trí thuệ cấp nhãn hiệu

Trồng cây ăn quả xã Yên

tập thể Nhãn chín muộn Đại Thành; năm 2016 xuất khấu được 05

Xã Đại Thành, xã Yên Sơn và

113

Sơn, xã Đại Thành và xã

tấn sang thị trường Malaysia; diện tích trồng cây ăn quả xã Yên Sơn

232,95ha

Các hộ

xã Sài Sơn

Sài Sơn

là 126,6ha, chủ yếu trồng bưởi diễn, cam canh, ổi Đài Loan, diện

tích trồng cây ăn quả xã Sài Sơn là 187,2ha, chủ yếu trồng các loại

cây bưởi diễn, cam V2, ổi Đài Loan.

Chăn nuôi bò sữa thực hiện theo chuỗi an toàn của Trung

114

Bò sữa xã Phượng Cách

tâm phát triển chăn nuôi Hà Nội. Đề xuất Thành phố hỗ trợ

300 con

Xã Phượng Cách

Các hộ chăn nuôi

cơ giới hóa vào sản xuất, máy trộn thức ăn, máy vắt sữa

Tóm tắt các nội dung chính sách được

Tổ chức, cá

TT

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

Thành phố hỗ trợ

nhân thưc hiện

Trồng rau an toàn các xã:

HTX Nghĩa Hương,

Các xã: Nghĩa Hương, Yên

115

Nghĩa Hương, Yên Sơn,

31,2ha

HTX Yên Sơn và HTX

Sơn, Tân Phú

Tân Phú

Tân Phú

Trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển mạng lưới SX rau an toàn trên địa bàn Thành phố đến năm 2020, UBND huyện lập quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chung vùng SX RAT xã Tân Phú với kinh phí 16,5 tỷ đồng xây dựng nhà sơ chế, trạm cấp nước tập trung phục vụ SX rau. Năm 2016 UBND huyện phê duyệt Kế hoạch phát triển vùng SX RAT trong đó đã hỗ trợ xã Tân Phú xây dựng 1,5ha nhà lưới và xã Nghĩa Hương xây dựng 02ha

174

nhà lưới. Diện tích rau hiện đang SX của xã Tân Phú là 36ha, xã Nghĩa Hương là 20ha, xã Yên Sơn là 27,7ha. Các loại rau chủ yếu là rau ăn lá, đậu trắng, su hào, cà chua... Hình thức tổ chức SX: Các HTX quản lý điều hành SX, sản phẩm SX được tiêu thụ tại các chợ nông thôn

XIII

Huyện Ứng Hòa

Rau sạch

Trồng rau sạch trong nhà màng kính

5,000m2

116

Trồng dưa lưới

Trồng dưa lưới trong nhà kính

3,000m2

117

Thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn Công Thôn Phù Lưu Hạ, xã Phù Lưu

Chăn nuôi lợn

Tự động hóa trong chăn nuôi

2,246 tấn/năm

Thôn Nội Xá, xã Vạn Thái

118

119

Thủy sản

Nuôi cá truyền thống bằng mô hình sông trong ao

15 sông

Xã Trầm lộng xã Liên Bạt

HTX nông nghiệp Vĩnh Thượng Hộ Nguyễn Phúc Bách, xã Phù Lưu HTX Hòa Mỹ, xã Vạn Thái 4 hộ gia đình tại xã Trầm Lộng và 02 hộ tại xã Liên Bạt

XIV

Huyện Chương Mỹ

120

1,1ha

Sản xuất rau ứng dụng công nghệ cao

Thôn Giáp Ngọ, thị trấn Chúc Sơn

HTX rau quả sạchChúc Sơn

5,2ha

Xã Ngọc Hòa

121

Nuôi cá ứng dụng công nghệ cao

Nhóm Liên kết sản xuất cá sạch

Sản xuất rau trong nhà lưới với hệ thống tưới tiết kiệm, kiểm soát và quy trình sản xuất VietGAP. Rau được sản xuất quanh năm giá trị tăng 50% so với sản xuất rau tháng đạt 120.000.000 đồng/ha Tạo các sông trong ao với hệ thống tạo dòng chảy và sục khí, nuôi các với mật độ cao.Năng suất đạt 80 tấn/ha (tăng 6-8 lần so với nuôi thông thường), giá trị 3,5 tỷ đồng/ha, lợi nhuận ước đạt 0,4 tỷ đồng/ha, chất lượng cá thịt ngon hơn, giá cao hơn

Nội dung thực hiện

Quy mô

Địa điểm thực hiện

TT

Tóm tắt các nội dung chính sách được Thành phố hỗ trợ

Tổ chức, cá nhân thưc hiện

XV

Ứng dụng công nghệ KHKT sản xuất Rau an toàn

05ha

122

Thôn Chu Quyến, xã Chu Minh

10ha

Xã Ba Trại

123

Ứng dụng KHCN để sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP

HTX nông nghiệpChu Quyến và Công ty Ra Vi UBND xã, Hội nông dân xã Ba Trại

XVI

Thôn Trại Láng, xã Cổ Đông

124

Công ty cổ phần PAN FARM

Huyện Ba Vì Sản xuất Rau an toàn Chu Minh Sản xuất Chè an toàn theo quy chình VietGAP Thị xã Sơn Tây Trồng rau CNC Trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng

Áp dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp từ Nhật Bản trồng và phát triển các loại như: Giống rau an toàn: cải ngọt, cải bẹ xanh lá mỡ...; Giống dưa lưới ruột vàng, ruột

- Tổng diện tích xây dựng: 8.000 m2, trong đó: 4.000

175

xanh... nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, mang lại hiệu quả kinh tế cao.Hiện nay chuyên trồng dưa lưới 03 vụ/ năm, mỗi vụ cho thu hoạch khoảng 10.000 quả

m2 nhà màng,còn lại là nhà kho, sân vườn…

XVII

Huyện Hoài Đức

125

Sản xuất rau an toàn

1,5ha

Thôn Tiền Lệ, xã Tiền Yên

Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP trong nhà lưới

HTX nông nghiệp Tiền Lệ

XVIII

Huyện Mỹ Đức

126

Sản xuất Nấm Kim châm

03 tấn/ngày

Thôn Đốc Kính, xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức

Công ty TNHH XKN Kinoko Thanh Cao

Nhà máy sản xuất Nấm Kim châm công nghệ Nhật Bản, công suất hiện tại 1,5 tấn nấm/ngày, công suất tối đa đạt 3,0 tấn/ngày. Giải quyết cho 25 lao động với mức lương từ 3,5-7 triệu đồng/người/tháng. Hiện nay, Công ty chỉ phân phối cho 02 đơn vị: Công ty Thực phẩm lý tưởng Việt Nam cho thị trường miền Bắc và 1 đơn vị ở TP Hồ Chí Minh. Dự kiến sẽ bán cho các nhà phân phối vào cửa hàng rau sạch, nhà hàng trung - cao cấp, một số siêu thị như Aeon, Vinmart.

176

Phụ lục 04: Tổng hợp chỉ tiêu KTXH năm 2019 và kế hoạch năm 2020 của thành phố Hà Nội

TT Tên chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch Năm 2020 TH Năm 2019

A NHÓM CHỈ TIÊU KINH TẾ TỔNG HỢP

Tốc độ tăng GRDP (cách tính mới) 7.46 > 7,5 % 1

Trong đó:

% - Dịch vụ 6.80 > 6,8

% - Thuế NK và thuế SP trừ trợ cấp SP 8.48 > 8,1

% - Công nghiệp và xây dựng 9.16 > 9,1

% 8.13 > 8,0 + Công nghiệp

% 11.68 > 11,6 + Xây dựng

% -0.96 > 3,0 - Nông nghiệp

GRDP/người (giá hiện hành) 2 Triệu đồng 127.6 > 136

Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển % 12.9 > 10,5 3

Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu % 25.8 > 8 4

177

Phụ lục 05: Thực hiện chỉ tiêu Kế hoạch KT-XH 5 năm 2016-2020 của thành phố Hà Nội

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

TH 2016

TH 2017

TH 2018

TH 2019

KH 2020

T T

TH 2011- 2015

TB 2016- 2020

Nghị quyết Đại hội XVI

Nghị quyết 05/NQ- HĐND

8.65

8.80

8.52

8.20

8.48

8.46

8,5-9,0 7,8-8,3

1 A

-

GRDP quy đổi cách tính mới

- B - - -

8,5-9,0 7,8-8,3 8,8-9,4 6,0-6,5 10-10,5 10,0-10,5 11,4-11,7 6,4-7,4 3,5-4,0

3,5-4,0

7,34 7,0 7,16 6,36 8,47 10 … 3,66 6,74 6,63 5,57 8,12 9,45 … 3,60

% % % % % % % % % % % % % % %

8.61 8.50 8.67 7.85 10.68 3.27 7.12 6.89 6.67 8.34 7.73 9.87 3.27

8.60 8.90 9.55 8.29 12.56 -0.96 7.46 6.80 8.48 9.16 8.13 11.68 -0.96

8.60 8.90 9.60 8.20 12.60 3.00 7.53 6.82 8.10 9.15 8.20 11.60 3.00

100

100

100

100

100

100 61-62

- 2 A -

8.71 8.30 9.33 7.18 8.46 9.00 7.20 7.30 13.82 11.40 1.97 2.21 7.31 7.15 7,3-7,8 6.68 6.76 7,0-7,5 7.74 6.85 6,5-6,9 9.47 8.89 9,0-9,3 8,6-9,0 8.53 7.37 9,9-10,2 13.02 11.88 2.19 3.22 2,5-3,0

100

8.56 8.56 9.05 7.77 12.21 1.89 7.31 6.79 7.57 9.00 7.99 11.61 2.13

35-36,5 2,5-3,0

100 67-67,5 57,5-58,5 8,5-9,5 30-30,5 2,5-3,0

57.28 57.63 9.81 9.83 29.69 29.71 2.84 3.22 100 100 63,8-64,2 64.60 64.31

57.07 9.67 30.44 2.82 100 64.04

56.65 9.76 31.01 2.58 100 63.76

56.17 9.70 31.68 2.46 100 63.47

Tăng trưởng GRDP Tăng trưởng GRDP (Cách tính cũ) Dịch vụ + Hoạt động ngành dịch vụ + Thuế SP trừ trợ cấp SP Công nghiệp - xây dựng + Công nghiệp + Xây dựng Nông nghịêp Tăng trưởng GRDP (Cách tính mới) Hoạt động ngành dịch vụ Thuế SP trừ trợ cấp SP Công nghiệp - xây dựng + Công nghiệp + Xây dựng Nông nghịêp Cơ cấu ngành kinh tế Cách tính cũ Dịch vụ + Hoạt động ngành dịch vụ + Thuế NK và thuế SP trừ trợ cấp SP Công nghiệp - xây dựng Nông nghịêp Cách tính mới Hoạt động ngành dịch vụ

100 66.87 57.07 9.80 29.68 3.44 100 64,8

% % % % % % % %

- - B -

178

Thuế SP trừ trợ cấp SP Công nghiệp - xây dựng Nông nghịêp

7,6-7,8 11.29 11.44 26,0-26,5 21.93 22.30 1.95 1,8-2,4

2.18

11.40 22.63 1.94

11.31 23.13 1.80

11.20 23.59 1.74

11,8 21,2 2,2

- - -

103.00 115.00

3

GRDP bình quân/người/năm (Cách tính cũ)

79.65 85.97

93,70

77,1 (3.660)

140-145 (6.700- 6.800)

140-145 (6.700- 6.800)

GRDP bình quân/người/năm (Cách tính mới)

104.5 110.1

117,2 (5.134)

127,6 (5.500)

137,0 (5.830)

126-129 (5.600- 5.730)

---

---

---

---

---

---

---

4

Huy động vốn đầu tư xã hội (Cách tính cũ)

1.421,66

2.500- 2.600

2.500- 2.600 60-62

Tỷ trọng ĐTXH trong GRDP (Cách tính cũ)

Huy động vốn đầu tư xã hội (Cách tính mới)

1.054,33

278.88 305.20 339.43 383.30 435.50 1,742.31

5

52,07

70-75

80.0

35.49 36.18 76.2 66.1

36.88 83.9

37.25 91.9

% % % Triệu đồng (USD) Triệu đồng (USD) 1.000 tỷ đ. % 1.000 tỷ đ. % %

67.50

38.62 95.8 55.6 70.20

37.02

1.700- 1.750

53,14 6,05

70-75 6,5-7,0

70-75

5.99

Tỷ trọng ĐTXH trong GRDP (Cách tính mới) Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới Tỷ lệ số huyện đạt chuẩn nông thôn mới Tỷ lệ lao động (đang làm việc) qua đào tạo 9 Năng suất lao động xã hội tăng bình quân 15 Năng suất lao động xã hội tăng bq (cách tính mới) Tỷ lệ đô thị hóa 16

49,1

58-60

56.93 60.66 8.10 8.10 6.59 5,44-5,87 6.23 49.2 49.2

63.18 6.50 5.49 49.2

5.80 49.2

5.84 49.2

% % % %

179

Phụ lục 06: Tổng hợp kết quả và hiệu quả của một số mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Hà Nội

Tên mô hình Địa chỉ Quy mô đầu tư Kết quả, hiệu quả Chính sách hỗ trợ nhận được

Xã Đốc Tín,Tổng đầu tư- Sản lượng: 30 tấn nấm/tháng - Doanh thu: 120 – 180 tỷ

- Được Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ 8,5 tỷ đồng theo dự - Được thuê đất công ổn định, lâu gói - Nộp ngân sách 3,6 tỷ đồng/năm dài (Công ty thuê lại Trại dâu tằm (năm 2018)

của huyện Mỹ Đức) 5-7 Công ty TNHH xuất nhập khẩu KINOKO huyện Mỹ Đức Thanh Cao khoảng 70 tỷ đồng cho dây chuyền sản đồng/năm xuất và đóng nấm kim châm theo công nghệ của Nhật Bản - Tạo việc làm cho 25 lao động nhập vớithu đồng/tháng triệu

Công ty cổ phần Vật Xã Đại Thịnh, tư và Giống cây trồng huyện Mê Linh Hà Nội - Tổng đầu tư: 8 tỷ bao gồm Phòng nuôi cấy mô và 7 ha trồng hoa ứng dụng công nghệ cao - Doanh thu hàng năm: 10 tỷ đồng - Tạo việc làm ổn định cho khoảng 10 lao động với thu nhập bình quân: 8-10 triệu đồng/tháng

HTX sản xuất và dịch Xã Ninh Sở, huyện Thường vụ nông nghiệp Tín Thanh Hà - Quy mô diện tích: 1,2 ha - Tổng đầu tư: 5 tỷ đồng - Doanh thu: 6 tỷ đồng/năm (năm 2019) - Tạo việc làm ổn định cho 10 lao động với thu nhập bình quân: 6-8 triệu đồng/người/tháng - Được hỗ trợ đường bê tông vào khu sản xuất, kinh phí xây dựng kho lạnh bảo quản sản phẩm. - Được hỗ trợ đăng ký sản phẩm OCOP

Đan5 ha - Quy mô diện tích: – - Được hỗ trợ đường bê tông vào 36 tỷkhu sản xuất, kinh phí xây dựng

- Kinh phí đầu tư: 11 tỷ đồng (20 nhà

- Sản lượng: 2-4 tấn rau/ngày - Doanh đồng/năm huyện Phượng thu: 30 kho lạnh bảo quản sản phẩm HTX Rau hữu cơ Xã Đan Phượng, công nghệ cao Cuối Quý

180

- Tạo việc làm cho khoảng 15 lao động với thu nhập 5-10 triệu đồng/tháng màng, nhà lưới)

ĐanXã

Phương- Diện tích 12.500 huyệnm2 (năm 2019) bao các loại/năm nuôi- Doanh thu: 4-5 tỷ đồng/năm

- Giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng 30 lao động với thu nhập bình quân 5-7 triệu đồng/người/tháng Đình, Đan Phượng - Sản lượng: 250.000 cây hoa lan - Được thuê đất công ổn định, lâu dài (HTX được thuê lại diện tích Trại chăn nuôi của huyện). - Huyện hỗ trợ xây dựng trạm biến áp điện gồm Phòng cấy mô hiện đại và các nhà lưới HTX Hoa lan Hoài – Flora Việt Nam

LongXã Tân Ước,

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát năm 2020

huyện Oai - Doanh thu 2019: 52 tỷ - Tạo việc làm ổn định cho 40 người với thu nhập bình quân: 7 triệu đồng/tháng lợn - Tổng đầu tư: 50 Thanhtỷ (bao gồm trang trại chăn nuôi lợn, nhà máy giết mổ và chế biến) trên diện tích 5ha - 4.000 con thịt; 400 con lợn nái sinh sản HTX Hoàng (Chuỗi sản phẩm chăn nuôi khép kín)