VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đào Văn Chung

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG

TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT

NAM TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2023

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đào Văn Chung

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG

TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT

NAM TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Ngành: Quản lý kinh tế

Mã số : 9.34.04.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. Lê Xuân Sang

2. TS. Khuất Duy Tuấn

HÀ NỘI – 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án “Quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh phát triển

mới” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các nội dung nghiên

cứu trong luận án là kết quả nghiên cứu do tôi thực hiện, có kế thừa và trích dẫn đầy đủ kết quả nghiên cứu của các tác giả đã công bố. Số liệu sử dụng trong luận án là

trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng

được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

Tác giả luận án

Đào Văn Chung

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận án “Quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh phát triển

mới”, NCS bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, trách

nhiệm của tập thể giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Xuân Sang và TS. Khuất Duy Tuấn. NCS cũng cảm ơn về sự giúp đỡ, tạo điều kiện của: NHNN, các NHTM. NCS xin

trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa

học Xã hội Việt Nam, Phòng Quản lý đào tạo, các thầy cô, anh/chị Khoa Khoa học

Quản lý, các đồng nghiệp trong ngành ngân hàng đã động viên, tạo điều kiện cho

NCS trong quá trình thực hiện luận án.

Cuối cùng, NCS xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới bạn bè, gia đình và những người thân đã luôn sát cánh bên cạnh ủng hộ, giúp đỡ, thông cảm để NCS thực hiện

và bảo vệ luận án này.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

Tác giả luận án

Đào Văn Chung

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án .......................................................................... 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4

4. Khung phân tích luận án và phương pháp nghiên cứu ........................................ 5

5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................. 13

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ........................................................... 13 7. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 14

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 15

1.1. Các nghiên cứu liên quan đến tín dụng và thị trường tài chính tiền tệ ........... 15

1.2. Các nghiên cứu liên quan đến rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của

các ngân hàng thương mại ..................................................................................... 17

1.3. Các nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng và

quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại ............................................................................................................. 22

1.4. Những giá trị khoa học được kế thừa và khoảng trống nghiên cứu ............... 27

Kết luận chương 1 .................................................................................................. 28

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ....................................................................... 29

2.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ...................... 29

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngân hàng thương mại ..................... 29

2.1.2. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ........................................................................................................... 31 2.1.3. Tác động của rủi ro tín dụng lên hoạt động của ngân hàng thương mại và

nền kinh tế .......................................................................................................... 33 2.2. Lý luận về quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ............................................................................................ 34 2.2.1. Khái niệm, mục tiêu của quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ........................................................... 34

iii

2.2.2. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ........................................................... 37

2.2.3. Các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động quản lý nhà nước đối với rủi ro tín

dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ......................................... 44

2.2.4. Công cụ và phương pháp quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại .......................................................... 50

2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với rủi ro tín

dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ......................................... 52

2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học rút ra trong quản lý nhà nước đối với

rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại .................................. 55 2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại ......................................... 55

2.3.2. Bài học rút ra trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt

động của các ngân hàng thương mại ................................................................... 63

Kết luận chương 2 .................................................................................................. 64

Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN

DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT

NAM .............................................................................................................................. 65

3.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ........................................... 65

3.1.1. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ............................................................ 65

3.1.2. Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam ........................................ 67

3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt

Nam ........................................................................................................................ 72

3.2.1. Đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Việt Nam theo nguyên nhân của rủi ro .............................................................. 72

3.2.2. Đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo các chỉ tiêu ................................................................................. 75 3.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các

ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2022 ............................... 85 3.3.1. Thực trạng hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam ............. 85 3.3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng

trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam ................................ 88

iv

3.3.3. Thực trạng thanh tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Việt Nam .......................................................................................................... 106

3.3.4. Thực trạng quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của

các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua các tiêu chí ........................... 109 3.4. Thực trạng các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nước đối với rủi ro

tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam ................... 114

3.4.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô ......................................................... 114

3.4.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô ......................................................... 118

3.5. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022 ........................ 120 3.5.1. Những thành tựu và nguyên nhân............................................................ 120

3.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân .............................................................. 122

Kết luận chương 3 ................................................................................................ 124

Chương 4: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH

PHÁT TRIỂN MỚI................................................................................................... 125

4.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt

động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 ................. 125

4.1.1. Bối cảnh môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với

rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam ........ 125

4.1.2. Bối cảnh nội sinh của ngành ngân hàng ảnh hưởng đến quản lý nhà nước

đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

.......................................................................................................................... 126

4.2. Quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới ....................................................................................................................... 129

4.2.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng ............. 129 4.2.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng ................ 130 4.3. Giải pháp chính sách hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng ........... 131 4.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng ..... 131

4.3.2. Triển khai hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng ............ 134

v

4.3.3. Tăng cường kiểm tra giám sát rủi ro tín dụng và xử lý vi phạm của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................... 144

4.3.4. Nâng cao nhận thức về rủi ro tín dụng và quản lý nhà nước đối với rủi ro

tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam ............. 147

Kết luận chương 4 ................................................................................................ 148 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt Từ viết tắt Tiếng Việt Từ viết tắt Tiếng Anh

Ngân hàng Phát triển Châu Á The Asian Development Bank ADB

Công ty quản lý nợ và khai thác Asset Management Company AMC tài sản NHTM

Anti-Money Laundering Chống rửa tiền AML

Hiệp hội các quốc gia Đông Association of Southeast Asian ASEAN Nations Nam Á

Bất động sản BĐS

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu Capital Adequacy Ratio CAR

Cán bộ quản lý CBQL

Hệ số chuyển đổi tín dụng Credit Conversion Factor CCF

CMCN 4.0 Cách mạng công nghiệp 4.0

CNTT Công nghệ thông tin

Comprehensive and Hiệp định Đối tác Toàn diện và CPTPP Progressive Agreement for Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương Trans-Pacific Partnership

Cơ quan thanh tra giám sát ngân CQTTGSNH hàng

Dự phòng rủi ro DPRR

Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement FTA

Hoạt động kinh doanh HĐKD

Hoạt động tín dụng HĐTD

Hạn mức tín dụng HMTD

International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế IMF

Kế hoạch KH

Kinh tế thị trường KTTT

Kinh tế - xã hội KT-XH

Ngân hàng nhà nước NHNN

NHNNg Ngân hàng nước ngoài

Ngân hàng thương mại NHTM

Quản lý nhà nước QLNN

vii

Quản lý rủi ro QLRR

Quản trị rủi ro QTRR

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn Regional Comprehensive RCEP diện Khu vực Economic Partnership

Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản Return on assets ROA

Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Return On Equity ROE

Rủi ro tín dụng RRTD

Tổ chức tín dụng TCTD

Thương mại cổ phần TMCP

Tài sản bảo đảm TSBĐ

Vietnam Asset Management VAMC Công ty Quản lý tài sản Company

Xử lý rủi ro XLRR

Ngân hàng Thế giới World Bank WB

viii

DANH MỤC BẢNG Bảng 1. Phân bổ mẫu phiếu khảo sát theo các tiêu chí . .......................................... 1 0 Bảng 3.1. Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022..........................67 Bảng 3.2. Các NHTM nhà nước tính đến 31/12/2022............................................68 Bảng 3.3. Các NHTM cổ phần tính đến 31/12/2022 .............................................69 Bảng 3.4. Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tính đến 31/12/2022 . ..................71 Bảng 3.5. Các ngân hàng liên doanh tính đến 31/12/2022......................................72 Bảng 3.6. Cơ cấu dư nợ cho vay theo ngành nghề kinh doanh, 2011-2022 ...........77 Bảng 3.7. Khả năng sinh lời tài sản và nguồn vốn của hệ thống NHTM Việt Nam

2011-2022 ...................................................................................................................79 Bảng 3.8. Kết quả đánh giá về triển khai các nội dung QLNN đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM ........................................................................................... 105 Bảng 3.9. Số lượng văn bản cảnh báo NHTM giai đoạn 2011-2022 ..................... 108

Bảng 3.10. Số lượng Biên bản xử phạt vi phạm hành chính ..................................... 108

Bảng 3.11. Mức độ hiệu lực trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam......................................................................................................... 110

Bảng 3.12. Mức độ hiệu quả trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam......................................................................................................... 111

Bảng 3.13. Mức độ công bằng trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam......................................................................................................... 112

Bảng 3.14. Mức độ phù hợp trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

...................................................................................................................................... 113

Bảng 3.15. Kết quả lấy ý kiến về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến QLNN đối

với RRTD trong hoạt động của các NHTM ............................................................... 116

ix

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH Hình 3.1. Vị trí của ngân hàng trong hệ thống các TCTD tại Việt Nam . ..................66 Hình 3.2. Tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2022 ............................................................................................................76

Hình 3.3. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM giai đoạn 2011 - 2022 ........78 Hình 3.4. Hệ số CAR của hệ thống NHTM Việt Nam, 2011 - 2022 ..........................79

Hình 3.5. Tỷ lệ trích lập dự phòng trung bình của các NHTM giai đoạn 2011 -2022 81 Hình 3.6. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM giai đoạn 2011 - 2022 ..........................82

Hình 3.7. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam năm 2021, 2022...........................82 Hình 3.8. Cơ cấu tổ chức NHNN . ................................................................................. 8 9 Sơ đồ 1. Khung phân tích luận án .................................................................................. 6 Sơ đồ 2. Quy trình thu thập dữ liệu thứ cấp ................................................................... 8 Sơ đồ 3. Quy trình thu thập dữ liệu sơ cấp ..................................................................... 9

x

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Về lý luận, tín dụng là hoạt động nền tảng, cốt lõi của các NHTM và đem lại nguồn thu chính yếu, nhưng hiện nay các NHTM đều phải đối mặt với nguy cơ chịu tổn thất bởi RRTD, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam bởi hệ thống thông tin vẫn còn thiếu minh bạch và chưa đầy đủ, trình độ quản lý rủi ro còn hạn chế và tính chuyên nghiệp của cán bộ chưa cao. RRTD có thể gây tổn thất về tài chính, giảm giá trị thị trường về vốn, trong trường hợp nghiêm trọng hơn có thể làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thua lỗ, thậm chí là phá sản ngân hàng. Chính vì thế, quản lý RRTD không chỉ là nhiệm vụ của các NHTM mà còn là nhiệm vụ của NHNN. Từ góc độ nghiên cứu và đào tạo thì tại hầu hết các quốc gia đều có trường đại học, viện nghiên cứu liên quan đến các chuyên ngành ngân hàng, tài chính, tín dụng nhằm nghiên cứu sâu hơn, cũng như đào tạo ra những đội ngũ nhân lực có chuyên môn nhằm thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động liên quan đến quản lý tài chính - ngân hàng nói chung, RRTD nói riêng. Việc nghiên cứu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM sẽ làm rõ hơn cơ sở lý luận liên quan đến QLNN về kinh tế, thương mại, qua đó giúp các nhà quản lý có căn cứ triển khai hoạt động này trong thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay các nghiên cứu về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM còn hạn chế. Các đề tài nghiên cứu, các luận án, sách chuyên khảo... mới chỉ tập trung làm rõ về QLNN nói chung hoặc QLNN đối với một lĩnh vực cụ thể nhưng chưa trực tiếp nghiên cứu về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Việc nghiên cứu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá hệ thống văn bản quản lý hoặc đánh giá RRTD như là một nguyên nhân quan trọng có thể dẫn đến hạn chế trong HĐTD của các NHTM...

Về thực tiễn, thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua đã luôn được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhất là NHNN quan tâm. Việc xây dựng thể chế, chính sách, tổ chức bộ máy và việc thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm trong quản lý RRTD đối với hoạt động của các NHTM đã thu được nhiều kết quả quan trọng, góp phần kiểm soát và xử lý hiệu quả vấn đề rủi ro tín dụng, gia tăng khả năng cạnh tranh, uy tín của ngân hàng và tăng niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng thương mại trong nước. Đại hội XII đề ra nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cụ thể: “…cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân

1

sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công...” và kết quả hoạt động tín dụng ngân hàng giai đoạn 2011-2022 đã đóng góp quan trọng vào ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2011- 2022, NHNN đã ban hành nhiều quy định mới về quản lý nhà nước đối với RRTD, về an toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng, đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế. Dưới sự quản lý của NHNN, công tác quản lý RRTD tại các NHTM đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực theo hướng thống nhất, phù hợp với các quy định quốc tế và pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực Ngân hàng.

Về bối cảnh, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

cũng có những thay đổi do những thay đổi trong bối cảnh phát triển mới:

Thứ nhất, những vấn đề nội tại của hệ thống ngân hàng như nợ xấu gia tăng, tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống. Nợ xấu được các NHTM nhận diện là thách thức lớn nhất phải đối diện trong giai đoạn 2011-2022 cũng như trong giai đoạn sắp tới. Bên cạnh đó, rủi ro đặc biệt hiện hữu và tăng lên xuất phát từ sự đóng băng của “thị trường bất động sản” trong giai đoạn vừa qua và dự báo trong giai đoạn vẫn tiếp diễn - lĩnh vực đóng góp tới 21% dư nợ tín dụng của toàn hệ thống NHTM, chưa tính đến khoảng 4% dư nợ trái phiếu sở hữu ngoài hệ thống tín dụng. Mặt khác, giai đoạn 2021-2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán rơi vào tình trạng đóng băng cùng thanh khoản căng thẳng “gõ cửa” các ngân hàng khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn vốn, gây nên ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường vốn nói chung và tác động ngược lại đến chất lượng tài sản sinh lãi của ngân hàng, các khoản trái phiếu doanh nghiệp do ngân hàng nắm giữ cũng có khả năng trở thành nợ xấu. Thị trường vốn bị thu hẹp, suy giảm, phát triển chậm sẽ đè nặng lên hệ thống ngân hàng tạo ra những RRTD mà các NHTM phải đối mặt.

Thứ hai, những tác động từ toàn cầu hóa. Hậu Covid-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức thấp và có rủi ro suy thoái. Thương mại toàn cầu giảm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2019-2022 và triển vọng tăng trưởng kinh tế trong nước năm 2023 và những năm tiếp theo, dẫn đến giảm cầu tín dụng; đầu tư, tiêu dùng, du lịch quốc tế đều suy yếu. Những tác động của chính sách lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khi đã tăng lãi suất 10 lần với biên độ tăng 5%, lần gần nhất là tháng 5/2023 tăng lãi suất thêm 0,25% lên mức 5-5,25% - mức cao nhất trong 15 năm qua, gần bằng với mức trước cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 2008. Chính điều này đã tạo áp lực, ảnh hưởng đến chính sách lãi suất của NHNN. Thực tế là Việt Nam đã phải duy trì mức lãi suất cao đặc biệt giai đoạn quý cuối năm 2022.

2

Ngoài ra, xung đột giữa Nga và Ukraine và xu hướng suy thoái của thị trường Châu Âu ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng không tránh khỏi những hệ lụy do cuộc chiến này gây ra. Đặc biệt là sự biến động của thị trường năng lượng thế giới, thị trường chứng khoán, thị trường nông sản... qua đó tác động đến thị trường tài chính thể giới cũng như của Việt Nam.

Thứ ba, sự hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào khu vực và thế giới (với các hiệp định song phương, đa phương và vận dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật của quốc tế vào các hoạt động ngân hàng), việc tích cực tham gia đàm phán và ký kết các Hiệp định FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA... đã mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam, tuy nhiên, đi liền với đó là không ít thách thức đòi hỏi nền kinh tế nước ta nói chung và các NHTM Việt Nam nói riêng phải có nỗ lực vượt bậc để đạt được thành công như các NHTM trong nước có cơ cấu hoạt động chưa chuẩn hóa và chưa tiếp cận chuẩn mực quốc tế về an toàn tài chính;

Thứ tư, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với những ứng dụng công nghệ mới, hiện đại dự báo sẽ tạo ra hàng loạt thay đổi mang tính bước ngoặt lịch sử, ảnh hưởng sâu rộng tới kinh tế - xã hội ở tất cả các quốc gia, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Bên cạnh đó, chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu và 100% ngân hàng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh tiến trình chuyển đổi số ngân hàng, tăng cường an ninh mạng là ưu tiên số một trong những chiến lược trọng tâm năm nay. Tuy nhiên, đi cùng quá trình này, rủi ro an ninh mạng, rò rỉ dữ liệu… cũng ngày càng gia tăng. Cuối cùng, trong thời đại công nghệ và bùng nổ thông tin như hiện nay, khách hàng dễ dàng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin không chính thống, đặc biệt là từ mạng xã hội, dễ bị tác động tâm lý nhiều hơn, nên việc quản trị RRTD, khủng hoảng truyền thông hay khủng hoảng thanh khoản của các ngân hàng càng trở nên thách thức hơn bao giờ hết.

Thứ năm, những chính sách của Việt Nam hậu Covid-19 như gói hỗ trợ thực hiện thông qua việc gia hạn nợ, giảm lãi suất khi vay vốn ngân hàng đối với các doanh nghiệp; rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn, nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng hay sự bùng nổ của thị trường bất động sản cũng như vấn đề bảo đảm phát triển bền vững, ứng phó với dịch bệnh của Việt Nam sẽ tác động rất lớn đến những chính sách của NHNN nhằm quản lý đối với thị trường tín dụng nói chung và giám sát các RRTD nói riêng.

Bên cạnh những bối cảnh đang dần được hóa giải hay biến mất, vẫn còn một số bối cảnh phát triển mới đang tồn tại, thậm chí gia tăng mức độ, cũng như xuất hiện những bối cảnh mới, có thể ảnh hưởng lên hoạt động của các NHTM trong năm nay và dài hạn ở giai đoạn kế tiếp. Chính những bối cảnh này đã tạo ra những thách thức

3

đối với quản lý nhà nước của NHNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Từ những lý do nêu trên, cùng nền tảng kiến thức được tích lũy trong quá trình học tập và công tác, NCS chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới” làm luận án tiến sĩ kinh tế của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận án là đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với

RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu (i) Hệ thống hóa, luận giải, làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến RRTD trong hoạt động của các NHTM, vai trò, chức năng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Trong đó tập trung làm rõ đặc thù của RRTD trong hoạt động của các NHTM trong bối cảnh mới; khái niệm, nội hàm, tiêu chí và nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM trong bối cảnh mới;

(ii) Tham khảo kinh nghiệm QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM của một số quốc gia chọn lọc trên thế giới.

(iii) Đánh giá thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam; đánh giá những thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022.

(iv) Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế, bối cảnh mới, cũng như định hướng, mục tiêu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những lý luận và thực tiễn QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM (NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần) trong bối cảnh phát triển mới.

3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Về nội dung (1) Hướng tiếp cận của luận án: QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM có thể tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên luận án tiếp cận chức năng của quản lý với: xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quản lý; tổ chức triển

4

khai quản lý; thanh tra kiểm tra và xử lý vi phạm trong QLNN đối với RRTD trong các hoạt động của NHTM.

(2) Các nội dung triển khai thực hiện bao gồm: Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD; Nhận biết và đo lường RRTD; Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro; Kiểm soát và tài trợ RRTD.

(3) Luận án không nghiên cứu các RRTD, QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; các công ty, tổ chức tài chính; các hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng và ngân hàng chính sách; ngân hàng số).

(4) Các tiêu chí (chỉ số) trực tiếp được chọn lọc sử dụng để đánh giá về RRTD

cũng như QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM: CAR, CAMELS,...

3.2.2. Về không gian (1) Luận án nghiên cứu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM tại Việt Nam.

(2) Luận án nghiên cứu sự quản lý của Nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tập trung vào vai trò quản lý của NHNN (Chủ thể quản lý là NHNN). Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quản lý RRTD của các NHTM ở Việt Nam (Khách thể quản lý là các NHTM).

(3) Đối tượng khảo sát đại diện tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh (là các địa phương tập trung nhiều TCTD và có quy mô lớn của cả nước), tỉnh Quảng Ninh (do hạn chế về thời gian, ngân sách thực hiện luận án, đề tài chọn tỉnh Quảng Ninh là địa phương nghiên cứu đại diện cho việc đánh giá triển khai QLNN của chi nhánh NHNN ở cấp tỉnh khác với hai thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh).

(4) Tham khảo kinh nghiệm của Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản,

Hoa Kỳ về quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM.

3.2.3. Về thời gian Luận án nghiên cứu thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2022 (đây là khoảng thời gian Việt Nam thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cho 02 giai đoạn. Đặc biệt là giai đoạn mà Luật TCTD năm 2010 được triển khai vào thực tiễn với nhiều văn bản quản lý của Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan).

Các giải pháp, kiến nghị về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM được đề xuất đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035.

4. Khung phân tích luận án và phương pháp nghiên cứu 4.1. Khung phân tích luận án

5

Khung phân tích luận án được xác định bảo đảm bám sát các nội dung

nghiên cứu của luận án:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RRTD TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM

- Lý luận về RRTD trong hoạt động của các NHTM; - Lý luận về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM: Mục tiêu, nội dung và các tiêu chí, công cụ và yếu tố ảnh hưởng; - Kinh nghiệm của Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và bài học rút ra về về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RRTD TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM

Thực trạng rủi ro tín dụng và các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

+ Thực trạng bộ máy QLNN; + Thực trạng hệ thống pháp luật, chính sách; + Thực trạng tổ chức thực hiện; + Thực trạng kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm;

Hạn chế và nguyên nhân

Bối cảnh mới: FTA thế hệ mới, CMCN 4.0, chính sách của Mỹ-Fed, xung đột Ucraina, biến động của thị trường BĐS….

Những thành công nguyên và nhân

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RRTD TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM

(Nguồn: Tác giả xây dựng)

Sơ đồ 1. Khung phân tích luận án

4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Tiếp cận nghiên cứu

Luận án được thực hiện với cách tiếp cận cụ thể sau:

6

Cách tiếp cận tổng thể - hệ thống: Luận án nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM một cách

tổng thể, toàn diện từ lý luận đến thực tiễn nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị

trường tín dụng và hoạt động của các ngân hàng. Nghiên cứu QLNN đối với RRTD

trong hoạt động của các NHTM được đặt trong tổng thể hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam, trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu các TCTD, tác động của

bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu về đổi mới và ứng dụng công nghệ 4.0

trong quản lý tín dụng của các NHTM.

Cách tiếp cận giám sát tuân thủ: đề tài nghiên cứu QLNN đối với RRTD

trong hoạt động của các NHTM theo tiếp cận giám sát tuân thủ của các NHTM trong triển khai thực hiện pháp luật và chính sách của Nhà nước trong quản trị rủi ro; giám sát của NHTW đối với các NHTM về sự tuân thủ, qua đó có những biện

pháp phù hợp để kịp thời phát hiện rủi ro, lệch hướng và giúp điều chỉnh thị trường

tín dụng phát triển lành mạnh.

Các lý thuyết về quản lý kinh tế và lý thuyết về tài chính ngân hàng, công

nghệ ngân hàng; liên ngành, động trong QLNN về kinh tế: nghiên cứu QLNN đối

với RRTD theo góc độ quản lý kinh tế với các chức năng của quản lý và nghiên cứu

các phản ứng của NHTM trong kiểm soát RRTD trong các HĐTD theo các lý

thuyết về tài chính ngân hàng hiện đại. Nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên

quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM dựa trên sự phối hợp

liên ngành Ngân hàng, Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư, có sự phối hợp giữa trung ương

và địa phương...

4.2.2. Phương pháp cụ thể

4.2.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp

(1) Thu thập dữ liệu thứ cấp

Mục đích: Dự liệu thứ cấp được thu thập nhằm phục vụ nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết của luận án, phân tích kinh nghiệm của các quốc gia trong thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Đồng thời, các dữ

liệu thứ cấp là cơ sở quan trọng giúp tác giả phân tích thực trạng RRTD trong hoạt động của các NHTM, thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

Quy trình thu thập dữ liệu thứ cấp phục vụ nghiên cứu luận án, cụ thể như sau:

7

Xác định rõ nguồn cung cấp dữ liệu cần thu thập

Tổng hợp, phân tích và chọn lọc dữ liệu

Hình thành bộ dữ liệu thứ cấp phục vụ nghiên cứu

Xác định các dữ liệu cần thiết để phục vụ nghiên cứu luận án

Tổ chức thu thập dữ liệu

Sơ đồ 2. Quy trình thu thập dữ liệu thứ cấp

Luận án sử dụng các dữ liệu đã được công bố liên quan đến QLNN đối với

RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

Các sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các báo cáo khoa học, bài báo có liên quan tại các thư viện và một số trang website

chính thức trong nước và nước ngoài để có tài liệu cơ bản ban đầu. Bên cạnh đó, luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp chủ yếu từ các báo cáo, thống kê của NHNN Việt Nam, các NHTM... Các văn bản quản lý của Nhà nước về RRTD trong hoạt động của

các NHTM như: Các văn bản luật, các văn bản dưới luật của Chính phủ, Bộ, ngành liên

quan cấp liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(2) Xử lý dữ liệu thứ cấp

Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: Tác giả sử dụng phương pháp này chủ

yếu ở chương 1, 2 nhằm phân loại và sắp xếp các thông tin, dữ liệu theo từng mặt, nội

dung vấn đề, từng đơn vị có cùng tính chất, đặc điểm qua đó đánh giá, nhân định để

xác định khoảng trống nghiên cứu cũng như hệ thống lý luận của đề tài luận án. Đồng

thời, tác giả sắp xếp các dữ liệu thống nhất với quy trình nghiên cứu của luận án.

Phương pháp thống kê mô tả: Qua các dữ liệu thu thập được, tác giả sử dụng

phương pháp ở chương 3 của luận án để sắp xếp, phân loại và xử lý tổng hợp số liệu

thu thập, từ đó xây dựng các bảng biểu để phân tích dữ liệu đánh giá thực trạng

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

Phương pháp so sánh: Thông qua số liệu đã thống kê về thực trạng RRTD, thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, tác giả

tiến hành so sánh các chỉ tiêu theo thông số tuyệt đối và thông số tương đối như tăng trưởng, thị phần, giữa các năm, thực trạng giữa các ngân hàng... Phương pháp này được tác giả chủ yếu sử dụng để phân tích đánh giá tại chương 3 của luận án.

Phương pháp phân tích tổng hợp: phương pháp này được nghiên cứu sinh sử

dụng cho tất cả các chương của luận án. Mỗi một vấn đề sẽ được phân tích theo nhiều

khía cạnh, phân tích từng chiều, từng cá thể và cuối cùng tổng hợp các mối quan hệ

8

của chúng lại với nhau. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp này để hệ thống hóa những vấn đề về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

bao gồm việc xây dựng chính sách, thực thi chính sách và QLNN trong giai đoạn

nghiên cứu.

Phương pháp SWOT: NCS sử dụng phương pháp này nhằm xác định được các thuận lợi, khó khắn cũng như cơ hội, thách thức trong hoạt động quản lý RRTD của

các NHTM cũng như hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM. Đồng thời, thông qua phương pháp này, NCS xác định rõ định hướng QLNN

đối với RRTD.

4.2.2.2. Thu thập và xử lý dữ liệu sơ cấp Thu thập dữ liệu sơ cấp nhằm bổ sung thêm nguồn dữ liệu mới, khách quan kết hợp với dữ liệu thứ cấp để đánh giá đúng thực trạng QLNN đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM.

Tổ chức khảo sát

Tổng hợp, thống kê và xử lý dữ liệu khảo sát

Xây dựng kế hoạch và liên hệ khảo sát

Xác định mục đích khảo sát (điều tra bảng hỏi, phỏng vấn)

Xác đinh các nội dung khảo sát và đối tượng khảo sát

Quy trình thu thập dữ liệu thứ cấp phục vụ nghiên cứu trong luận án, cụ thể như sau:

Sơ đồ 3. Quy trình thu thập dữ liệu sơ cấp

Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn

chuyên gia.

(1) Thu thập và xử lý dữ liệu sơ cấp thông qua khảo sát bằng bảng hỏi * Thu thập dữ liệu - Mục đích: Thông qua bảng hỏi được thiết kế với hợp theo thang đo Likert 5 mức độ, người trả lời đưa ra các ý kiến về các tiêu chí đánh giá gắn với các nội

dung, nhân tố, tiêu chí về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Đây được coi là một công cụ hữu hiệu trong việc thu thập các thông tin, nhận định, quan điểm và đánh giá khách quan của các đối tượng liên quan đến nội dung nghiên cứu. Việc xây dựng bảng hỏi cần đáp ứng được các yêu cầu là bao trùm đồng thời tập trung vào các nội dung cần thu thập thông tin.

- Đối tượng khảo sát

9

Đối tượng tham gia khảo sát là các chuyên viên, viên chức, nhà quản lý tại NHNN và chi nhánh NHNN; lãnh đạo, quản lý các NHTM, nhân viên phụ trách và

tham gia vào quản trị RRTD, thanh tra, giám sát tại các NHTM.

- Mẫu nghiên cứu và kích thước mẫu

Trong quá trình thực hiện điều tra bằng bảng hỏi, đối với từng đối tượng mà câu hỏi được tác giả đề xuất các câu hỏi chung, câu hỏi riêng phù hợp với nội dung

nghiên cứu của luận án, nguồn lực tổ chức khảo sát. Đề tài sử dụng công thức xác

định kích thước mẫu tối thiểu đảm bảo trong phân tích dữ liệu thu thập được của

Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2011) là tối thiểu 50 phiếu hoặc 4 đến 5

lần số tiêu chí đánh giá (Luận án sử dụng số mẫu tối thiểu là >= 5*m (với m là số tiêu chí được hỏi trong mẫu phiếu khảo sát). Bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, thuận tiện phi xác suất, tác giả đã lựa chọn các đối tượng tham gia khảo sát với

kích thước mẫu như trên, cho phép tác giả thực hiện các phân tích định lượng đảm

bảo độ tin cậy, phù hợp với yêu cầu nội dung và nguồn lực thực hiện luận án. Tổng

số phiếu được sử dụng để tổng hợp, đánh giá thực trạng là 446 phiếu:

Chuyên viên làm tại Ngân hàng trung ương, NHNN chi nhánh Hà Nội, chi

nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và chi nhánh Quảng Ninh (130 phiếu). Số phiếu thu

về là 125 phiếu (chiếm 96,15%). Lãnh đạo, quản lý và nhân viên tại các NHTM: 370

phiếu, số phiếu thu về là 321 phiếu (chiếm 86,76%).

Phân bổ cụ thể theo các đối tượng tại Bảng sau:

Bảng 1. Phân bổ mẫu phiếu khảo sát theo các tiêu chí

Số lượng Tỷ lệ % TT Tiêu chí

Tổng

I Chuyên viên, viên chức, nhà quản lý 1 NHNN 2 NHNN chi nhánh Hà Nội 3 NHNN chi nhánh TP Hồ Chí Minh 4 NHNN chi nhánh Quảng Ninh II Lãnh đạo, quản lý và nhân viên tại các NHTM Thành viên Ban kiểm soát 1 Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc 2 Lãnh đạo khối Quản trị rủi ro, Pháp chế và AMC 3 4 Nhân viên khối Quản trị rủi ro, Pháp chế và AMC 446 125 20 47 39 29 321 12 16 45 248 100 28,03 4,48 10,54 8,74 6,50 71,97 2,69 3,59 10,09 55,61

III 321 100

Phân bổ mẫu phiếu theo quy mô lao động của các NHTM khảo sát 1 Dưới 3000 người 2 Từ 3000-5000 người 52 31 16,20 9,66

10

Tiêu chí Số lượng Tỷ lệ %

TT 3 4 5 93 83 62 28,97 25,86 19,31

IV 321 100 Từ 5000-10000 người Từ 10000-15000 người Trên 15000 người Phân bổ mẫu phiếu theo quy mô vốn điều lệ của các NHTM khảo sát

68 71 64 36 82 21,18 22,12 19,94 11,21 25,54 1 Dưới 5.000 tỷ đồng 2 3 4 5

Từ 5.000 đến dưới 10.000 tỷ đồng Từ 10.000 đến dưới 20.000 tỷ đồng Từ 20.000 đến dưới 30.000 tỷ đồng Trên 30.000 tỷ đồng - Thời gian, địa điểm:

Thời gian khảo sát: Từ tháng 08/2022 đến tháng 10/2022.

Địa điểm khảo sát: Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng Ninh.

- Cách thức tổ chức khảo sát: NCS tiến hành khảo sát các nội dung trong bảng

hỏi thông qua liên hệ email, gọi điện thoại hoặc liên hệ phỏng vấn trực tiếp.

* Xử lý dữ liệu

- NCS sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để nhập liệu và mã hóa các dữ liệu thu

thập được qua khảo sát.

- Kiểm tra tính chính xác của quá trình nhập liệu thông qua kỹ thuật outliers.

- Sử dụng phương pháp thống kê, mô tả để phân tích dữ liệu thông qua tính tỷ

lệ phần trăm, điểm trung bình theo thang đo Likert 5, (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn

Mộng Ngọc, 2008).

- Kết quả phân tích dữ liệu được đánh giá định tính kết hợp với dữ liệu thứ cấp

về các nội dung QLNN đối với với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(2) Thu thập và xử lý dữ liệu sơ cấp thông qua phỏng vấn

* Thu thập dữ liệu

Để thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phỏng vấn chuyên gia, tác giả triển khai các cuộc phỏng vấn trực tiếp với các đối tượng có liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM hiện nay. Tác giả xác định đối tượng tham gia phỏng vấn là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu về RRTD trong hoạt động của các NHTM tại các trường đại học, ngân hàng, viện, trung tâm nghiên cứu.

Căn cứ vào thực tiễn yêu cầu đối với các nội dung nghiên cứu của luận án, NCS xác định phạm vi các chuyên gia phỏng vấn và số lượng chuyên gia nhằm bảo đảm thu

thập đủ thông tin dữ liệu để xác thực nhận định cũng như bổ sung các thông tin liên

quan đến các nội dung nghiên cứu của luận án. Tổng số chuyên gia tham gia phỏng vấn

11

phục vụ cho nghiên cứu này là 45 người (Trong đó, 10 chuyên gia tại các trường đại học: Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,

Trường Đại học Thương mại và Trường Đại học Ngoại thương; 05 chuyên gia tại Viện

và trung tâm nghiên cứu, 05 chuyên gia làm việc tại NHNN; 05 chuyên gia làm việc tại

chi nhánh NHNN Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh; 05 chuyên gia tại Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam, Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam;

15 chuyên gia là các khách hàng doanh nghiệp của các NHTM: Agribank, BIDV,

Vietcombank, VPBank, TPBank).

- Mục đích: NCS sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia nhằm làm rõ

hơn các vấn đề mà phiếu điều tra bằng bảng hỏi chưa thể hiện hoặc đã thể hiện nhưng chưa được rõ ràng, bao quát; đồng thời thu thập các quan điểm, đánh giá riêng của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

- Nội dung phỏng vấn: NCS đã tiến hành xây dựng phiếu phỏng vấn tập

trung lấy ý kiến của các chuyên gia về:

(1) Thực tiễn RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam;

(2) Bối cảnh phát triển mới ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM Việt Nam;

(3) Thực trạng quản trị RRTD của các NHTM Việt Nam hiện nay;

(4) Vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM Việt Nam;

(5) Các tiêu chí đánh giá kết quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM;

(6) Các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM, các bất cập QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt

Nam trong bối cảnh phát triển mới;

(7) Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện QLNN đối với RRTD

trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

- Thời gian thực hiện phỏng vấn: từ tháng 08/2022 đến tháng 10/2022 - Kết quả phỏng vấn: Các ý kiến của các chuyên gia được NCS tổng hợp, là gợi ý để NCS phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

* Xử lý dữ liệu

12

Các dữ liệu phỏng vấn được tổng hợp lại và phân loại theo từng nội dung cụ thể để tạo thuận tiện cho quá trình nghiên cứu. Trong trường hợp một số thông tin phỏng vấn

chưa rõ ràng, tác giả nhanh chóng liên hệ với người tham gia phỏng vấn để xác nhận với

chuyên gia. Các dữ liệu định tính thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu được xử lý

bằng phương pháp phân tích diễn giải theo các nội dung nghiên cứu.

Chi tiết về các phương pháp nghiên cứu và vận dụng các phương pháp nghiên

cứu trong phân tích đánh giá luận án tại Phụ lục 6.

5. Đóng góp mới của luận án

Kết quả nghiên cứu đề tài: “QLNN đối với RRTD trong các hoạt động của

các NHTM Việt Nam” là quá trình vận dụng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn vấn đề cụ thể; kế thừa có chọn lọc các thành tựu khoa học của các nhà nghiên cứu, các tác giả và chuyên gia trong lĩnh vực quản

lý kinh tế, tài chính ngân hàng. Bên cạnh những đóng góp trong việc chứng minh

tính đúng đắn của chủ trương, chính sách thì luận án đã:

Thứ nhất, làm rõ hơn một số nội dung về cơ sở lý luận liên quan đến QLNN đối

với RRTD trong các hoạt động của các NHTM, xác định được nội dung, các tiêu chí và

yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong các hoạt động của các NHTM.

Thứ hai, xác định rõ các bối cảnh phát triển mới kết hợp với kết quả nghiên

cứu thực trạng và bài học kinh nghiệm được rút ra, xác định rõ các quan điểm, định

hướng quản lý qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với

RRTD trong các hoạt động của các NHTM Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận: luận án góp phần hệ thống hóa, làm rõ, luận giải và bổ sung

lý luận liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, cụ thể:

đã làm rõ đặc thù của RRTD trong hoạt động của các NHTM, xác định rõ các khái

niệm, lựa chọn và đề xuất các nội dung, tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM làm căn cứ để phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong

bối cảnh phát triển mới.

Ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở khung nghiên cứu, vận dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng RRTD trong hoạt động của các NHTM, thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

Việt Nam trong bối cảnh tham dự vào các FTA thế hệ mới, CMCN 4.0, tác động của

chiến sự tại Ucraina, biến động của thị trường bất động sản hay những chính sách

13

mới của Việt Nam về thắt chặt lãi suất, triển khai các gói hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19... qua đó chỉ ra những thành công, hạn chế của QLNN

đối với hoạt động này tại Việt Nam và nguyên nhân. Đồng thời, kết quả nghiên cứu

của luận án đã đề xuất 04 nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính

sách, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá và nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý và nhân viên đối với RRTD và QLNN về RRTD. Kết quả nghiên cứu của luận án

có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để các cơ quan QLNN về RRTD hoàn thiện

việc tổ chức triển khai QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt

Nam trong bối cảnh phát triển mới.

7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

án được kết cấu thành 04 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu;

Chương 2. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về QLNN đối với RRTD

trong các hoạt động của các NHTM;

Chương 3. Thực trạng QLNN đối với RRTD trong các hoạt động của các

NHTM Việt Nam;

Chương 4. Quan điểm, định hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN đối với

RRTD trong các hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.

14

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu về thị trường tín dụng và thị trường tài chính trong bối cảnh hiện

Liên quan đến RRTD và quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM đã có nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế, tuy nhiên trong nghiên cứu này sẽ tập trung tổng quan các vấn đề sau: (1) các nghiên cứu liên quan đến thị trường tín dụng, thị trường tài chính trong bối cảnh mới (2) các nghiên cứu về RRTD và quản lý RRTD (3) các nghiên cứu về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, cụ thể: 1.1. Các nghiên cứu liên quan đến tín dụng và thị trường tài chính tiền tệ nay nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước: Nghiên cứu của Strauss-Kahn (2009), tại công trình “Need to fix banking sector for stimulus to work” [136] cho rằng, khi các quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế và đang theo đuổi các chính sách khôi phục, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng yếu kém, là một trong những ưu tiên hàng đầu. Thông qua phương pháp hệ thống hóa và phân tích các dữ liệu thứ cấp, kết quả phỏng vấn các chuyên gia, tác giả đã chỉ ra các dấu hiệu cần quan tâm: (i) Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP; (ii) Vay nợ nước ngoài lớn trong khi dự trữ ngoại hối mỏng và rủi ro tỷ giá cao; (iii) Giá tài sản biến động lớn; (iv) Khả năng đánh giá tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng kém; thông tin không đầy đủ, thiếu minh bạch; và (v) Các quy định về hoạt động ngân hàng không phù hợp, lỏng lẻo; giám sát ngân hàng không hiệu quả. Những dấu hiệu này là các gợi ý để các nhà quản lý có thể xác định được các giải phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

Chunxia và Shujie (2010), trong bài viết “Banking Reform and Efficiency in

China: 1995-2008” [130] đã sử dụng phương pháp khảo sát đối với 47 ngân hàng tại Trung Quốc, sử dụng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên một bước (One-step stochastic frontier analysis) để đánh giá hiệu quả của hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 1995-2008 gắn với các chính sách/biện pháp tái cấu trúc chủ yếu, trong đó tập trung phân tích các hiệu ứng về sở hữu, lựa chọn và hiệu ứng động về tác động của những thay đổi trong quản trị tới hoạt động của ngân hàng. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện trong giai đoạn 1995-2008 (cụ thể, hiệu quả về lợi nhận được cải thiện nhanh hơn hiệu quả về chi phí; yếu tố sở hữu thay đổi có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động chung của hệ thống ngân hàng), trong đó,

15

nhóm các ngân hàng thương mại tư nhân (JSCBs) và ngân hàng thương mại đô thị (CCBs) hoạt động hiệu quả hơn hẳn ngân hàng thương mại quốc doanh (SOCBs) trên hầu hết các chỉ tiêu. Do đó, nghiên cứu đưa ra kết luận, yếu tố then chốt để tái cấu trúc thành công hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong gian đoạn tới là thay đổi nền tảng điều hành, ra quyết định dựa trên yếu tố lợi nhuận (profit-driven) hơn là cho vay chính sách (policy-oriented) như hiện nay.

Tác giả Nguyễn Trúc Lê (2015), trong cuốn sách “Tăng cường công tác quản trị điều hành các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập” [45] cho rằng trong quá trình tái cơ cấu ngành ngân hàng tại Việt Nam, bên cạnh việc tái cấu trúc nợ, giảm nợ xấu, nâng cao hiệu quả đầu tư… nhiệm vụ quan trọng nhất là cải thiện môi trường quản trị điều hành trong các ngân hàng nhằm nâng cao tính minh bạch trong quản lý. Do đó, chiến lược quản trị điều hành sẽ đóng vai trò hỗ trợ cho việc xây dựng chiến lược tổng thể cho các NHTM Việt Nam trong giai đoạn mở cửa nền kinh tế, hội nhập với ngành tài chính ngân hàng trong khu vực và thế giới trong bối cảnh quốc tế mới. Trên cơ sở đánh giá thực hoạt động quản trị điều hành NHTM tại Việt Nam, bài viết sẽ đưa ra các đề xuất giải pháp nhằm cải thiện hoạt động của các ngân hàng, giúp quá trình hội nhập diễn ra sâu rộng. Nghiên cứu từ góc độ chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng Phạm Thị Huyền (2019), trong bài viết “Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam” [39], theo tác giả các thành tựu về công nghệ số và Fintech là động lực quan trọng và cũng là phương tiện để đạt được những kết quả đột phá về tài chính toàn diện ở nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Thông qua Fintech, các tổ chức tài chính có thể phát triển các kênh cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử, xóa đi rào cản về không gian cũng như thời gian, cho phép cung cấp các dịch vụ tài chính với chi phí rẻ hơn, từ đó tạo điều kiện cho người nghèo, người ở khu vực vùng xâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng mọi lúc, mọi nơi. Cùng nghiên cứu về vấn đề này Nguyễn Tú Quyên (2020), trong bài viết “Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại NHTM Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam” [83], Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến ngành ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong những năm trở lại đây, NHTM Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) luôn tiên phong đón đầu, cố gắng ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này trong việc triển khai, cải tiến các sản phẩm dịch vụ mới. Lê Thanh Tâm, Phạm Thị Thu Thảo (2018), “Tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: thực trạng

16

và một số khuyến nghị chính sách” [92] cho rằng, Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động sâu rộng toàn bộ mọi hoạt động, nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức, rủi ro. Tội phạm sử dụng công nghệ cao nói chung, trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng có xu hướng gia tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn mức độ tinh vi, diễn biến phức tạp và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Dương Nguyễn Thanh Phương và cộng sự (2021), trong bài viết “Định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam trong kỷ nguyên chuyển đổi số” [71], thì công nghệ số đã và đang tạo ra nhiều tác động mạnh mẽ lên hệ thống tài chính - ngân hàng. Việc định vị lại hệ thống ngân hàng trong thời kỳ chuyển đổi số là việc làm cần thiết, cấp bách và đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp các nhà quản trị ngân hàng vạch ra hướng đi và chiến lược phát triển phù hợp. Trên cơ sở phân tích, đối sánh, bài viết đề xuất hàm ý quản trị cho các NHTM, chính sách cho Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành nhằm định vị lại hệ thống ngân hàng Việt Nam để có thể hội nhập nhanh chóng trong kỷ nguyên số, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, trụ cột trong hệ thống tài chính Việt Nam.

Nguyễn Xuân Trình, Võ Trí Thành, Lê Xuân Sang (2010), trong sách chuyên khảo “Thị trường tài chính Việt Nam cải cách, phát triển và tầm nhìn đến năm 2020” [106], đã phân tích, đánh giá tổng quan về thị trường tài chính của Việt Nam trong tiến trình thời gian gắn với những cột mốc của quá trình cải cải, bối cảnh của quá trình đối mới, đánh giá được những RRTD của ngành tín dụng Việt Nam, những biện pháp đã được triển khai. Trên cơ sở đánh giá xu thế kinh tế, thị trường tài chính quốc tế đến năm 2020, triển vọng phát triển kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam trong thập niên tới cùng với tư tưởng và quan điểm chủ đạo về định hướng hoàn thiện thị trường tài chính phù hợp với tầm nhìn Việt Nam năm 2020, các tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tăng cường sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn tới. Nhìn chung, các nghiên cứu về thị trường tín dụng, thị trường tài chính rất đa dạng gắn với những thay đổi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng phát triển bền vững và chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng. Kết quả tổng quan sẽ giúp NCS hiểu rõ hơn về các bối cảnh ảnh hưởng đến RRTD cũng như QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. 1.2. Các nghiên cứu liên quan đến rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại

Nghiên cứu về RRTD và quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM đã nhận

được sự quan tâm của nhiều tác giả:

17

Theo Wang (2013), trong nghiên cứu “Credit risk management in rural commercial banks in China” [148] đánh giá quản trị rủi ro tín dụng ở Trung Quốc tiếp cận từ phía khách hàng bằng việc sử dụng phương pháp phân tích chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của khách hàng, tìm nguyên nhân dẫn tới sự thất bại trong kinh doanh của khách hàng từ đó ngân hàng đưa ra chính sách hạn chế rủi ro tín dụng. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra những tiềm tàng của thị trường tín dụng Trung Quốc trên cơ sở đối chiếu với các giai đoạn trước đó và so sánh với bối cảnh của các quốc gia trong khu vực.

Bekhet and Eletter (2014), “Credit risk assessment model for Jordanian commercial banks: Neural scoring approach” [129], chỉ ra rằng việc đo lường lượng hóa rủi ro tín dụng là quan trọng với bất kể ngân hàng nào. Thông qua phướng pháp định lượng trong việc phân tích, đánh giá và sử dụng các dữ liệu thu thập được, nghiên cứu đã xây dựng mô hình đánh giá rủi ro tín dụng sử dụng phương pháp chấm điểm ANN (Artificial neural networks) gồm các biến quan sát như: chấm điểm tín dụng; yếu tố nhân khẩu học, mức độ thu nhập của người vay…để ước lượng rủi ro tín dụng tránh tổn thất có thể xảy ra đối với ngân hàng. Một nghiên cứu ở Trung Quốc về quản trị rủi ro tín dụng của Li (2015), “Credit risk management in the current competitive condition in the Chinese banking industry” [140] cho rằng ngân hàng có quy trình cho vay thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của ngân hàng thì sẽ giảm được rủi ro tín dụng, tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.

Jonathan (2012) với nghiên cứu “Credit risk management in banking industry: case study Atwiman kwanwoma rural bank” [139], đã chỉ ra rằng ứng dụng Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng là hiệu quả đối với ngân hàng. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình điểm tín dụng có áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng ở ngân hàng Ghana bằng việc sử dụng dữ liệu lịch sử thanh toán, đặc điểm nhân khẩu học và kỹ thuật thống kê. Điều này lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu của Fadun (2013), “Implications and Challenges of Basel II Implementation in the Nigerian Banking System” [131] về việc áp dụng Basel II trong việc quản trị rủi ro ở ngân hàng Nigeria khi cho rằng Basel II là công cụ hữu ích cho các ngân hàng nhằm tăng cường và thiết lập các quy chế quản lý vốn, rủi ro và giám sát ngân hàng. Các ngân hàng Nigeria thực hiện quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II có những hạn chế nhất định, để tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II thì các ngân hàng Nigeria cần phải tăng vốn, tăng cường mức độ cung cấp, dự trữ và kiểm soát nội bộ. Để áp dụng Basel II thì các ngân hàng ở

18

Nigeria cần phải nâng cao hệ thống công nghệ thông tin, mô hình dữ liệu và mô hình kinh doanh nhưng việc áp dụng Basel II đòi hỏi chi phí lớn do đo các ngân hàng cần phải có sự chuẩn bị, cân nhắc kỹ lưỡng về chi phí.

Nguyễn Thành Duyên (2021), trong bài viết “RRTD tại các NHTM cổ phần Việt Nam” [13], khẳng định ngân hàng là nơi chịu nhiều rủi ro, bị ảnh hưởng chính bởi tác động của các yếu tố trực tiếp và gián tiếp. Bằng cách sử dụng phương pháp định tính, phương pháp phân tích và tổng hợp đối với tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng RRTD làm đại diện cho RRTD của ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố về tỷ lệ dư nợ cho vay, tỷ lệ biên lãi ròng và tỷ suất sinh lợi có tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng rủi ro. Kết quả nghiên cứu của được tác giả đối chiếu với thực tiễn hệ thống quản lý RRTD của một số quốc gia như Thái Lan, Hàn Quốc và Đức qua đó xác định được những cách tiếp cận trong giải quyết RRTD của các nhà quản lý. Võ Xuân Vinh (2017), “Rủi ro thanh khoản và RRTD: Trường hợp các NHTM Việt Nam” [123], sử dụng phương pháp định lượng, tiếp cận theo mô hình tự hồi quy dạng vectơ với hệ phương trình đồng thời và sử dụng phương pháp ước lượng hồi quy bình phương bé nhất. Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ báo cáo tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2007-2015. Kết quả của nghiên cứu cho thấy không tồn tại mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và RRTD tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2007-2015. Tuy nhiên, biến trễ của rủi ro thanh khoản và RRTD lại ảnh hưởng đến chính rủi ro đó ở hiện tại. Tiếp cận từ góc độ ảnh hưởng của RRTD, Huỳnh Thị Hương Thảo (2019), “Ảnh hưởng của RRTD đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam” [99], trong HĐKD ngân hàng, tín dụng là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Đây là loại rủi ro chủ yếu của ngân hàng trong kinh doanh nên ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Bài viết nghiên cứu tác động của RRTD đến hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu: Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA- return on assets), lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE- return on equity), hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần, hiệu quả quy mô bằng mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM, FGLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy RRTD có tác động ngược chiều đến HQHĐ, từ đó tác giả đề xuất giải pháp hạn chế RRTD nhằm nâng cao HQHĐ của các NHTM Việt Nam. Cùng nghiên cứu về tác động của RRTD đến hoạt động của các NHTM, tác giả Nguyễn Thành Đạt, Thi Thị Mỹ Duyên và Lê Hồng Nga (2021), với bài viết “Tác động của RRTD đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam” [18]. Tác giả đã tiến hành khảo sát 30 NHTM Việt Nam từ năm 2007 - 2019, sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu bảng

19

thông qua kiểm định hausman để chọn ra phương pháp ước lượng phù hợp để kiểm định tác động của các yếu tố tỷ lệ nợ xấu đến hiệu quả hoạt động của các NHTM cổ phần. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các chỉ số về RRTD có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Ngoài ra, có một mối quan hệ tích cực giữa quy mô ngân hàng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hạn chế tác động của RRTD đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam. Lê Thị Quyên (2014), trong luận án “Một số giải pháp cụ thể phân tán rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam” [83] đưa ra nhận định trong mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn, nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như các hoạt động kinh doanh khác không tránh khỏi những rủi ro. Do đó, QLRR là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Nguyễn Anh Tuấn (2012), trong luận án “QTRR trong kinh doanh của NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel” [117] phân tích khả năng áp dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel và chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực QTRR theo Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam. Dựa trên sự phân tích, tác giả nghiên cứu thực trạng QTRR của các NHTM Việt Nam theo các trụ cột của Hiệp ước Basel. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực QTRR cho các NHTM Việt Nam dựa trên các nội dung của Hiệp ước Basel trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và ngành tài chính -ngân hàng Việt Nam nói riêng đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Tác giả đưa ra các giải pháp tổng thể để hệ thống NHTM Việt Nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực của Basel trong công tác QTRR [29]. Võ Thị Hoàng Nhi (2014), trong nghiên cứu “Xây dựng mô hình 3 lớp bảo vệ trong cấu trúc QTRR của các NHTM Việt Nam” [68] nhấn mạnh vai trò của QTRR trong doanh nghiệp và đi sâu phân tích mô hình 3 lớp phòng vệ trong ngân hàng để QTRR với vai trò của từng bộ phận trong mỗi lớp phòng vệ đó. Mô hình phòng vệ này có ưu điểm là tất cả các bộ phận đều tham gia vào quy trình QTRR nên mọi rủi ro trong mỗi nghiệp vụ của ngân hàng đều được nhận diện, kiểm soát nhằm giảm thiểu ở mức thấp nhất. Trên cơ sở đó, tác giả nêu giải pháp hoàn thiện mô hình phòng vệ 03 lớp trong ngân hàng, chuẩn hóa khung năng lực của CBNV, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về QTRR trong ngân hàng, hoàn thiện bộ máy QTRR từ đó nâng cao năng lực QTRR. Lê Tấn Phước (2013), trong luận án “Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của các NHTM cổ phần trên địa bàn thành

20

phố Hồ Chí Minh” [72] đã nêu được những giải pháp nhằm góp phần đảm bảo an toàn tín dụng cho các NHTM gồm ba cụm giải pháp: vĩ mô, vi mô và các giải pháp hỗ trợ khác. Luận án quan tâm đến việc nâng cao kỹ thuật quản trị rủi ro tín dụng bằng cách xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng đánh giá, xếp loại khách hàng, chấp hành đầy đủ các quy định về đảm bảo tiền vay, thực hiện tốt cân đối tín dụng [34].

Tô Thị Ánh Dương (2021), với sách chuyên khảo “QTRR tại các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” [14]. Bằng tiếp cận tổ chức thực hiện QTRR ở cấp độ vi mô, gắn với định hướng quản lý nhà nước, tác giả cho rằng: Các ngân hàng cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt khi rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng. Cùng với QTRR ngân hàng tốt, ngân hàng sẽ minh bạch hơn, có giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn. Công tác tổ chức và QTRR của ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng phát triển về quy mô hoạt động, đồng thời nghiệp vụ cũng phong phú và phức tạp hơn trong khi đó số lượng các NHTM được duy trì và có xu hướng giảm do sáp nhập... Thực tiễn phát triển của hệ thống ngân hàng đòi hỏi phải quản trị gửi sau theo thông lệ quốc tế, theo đó cần có các mô hình QTRR, các công cụ và phương pháp quản trị rủi cho nó hiện đại và thích hợp với thực tiễn Việt Nam thể đảm bảo an toàn hệ thống.

Nguyễn Nhật Linh (2022), trong bài viết “Tác động của rủi ro thanh khoản và RRTD đến sự ổn định của các Ngân hàng TMCP tại Việt Nam”, tác giả sử dụng bộ dữ liệu cân bằng của 27 NHTM cổ phần ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019, tác giả thực hiện bài nghiêm cứu nhằm đánh giá tác động của RRTD và rủi ro thanh khoản đối với sự ổn định của ngân hàng thông qua mô hình Z-score trong việc sử dụng phương pháp hồi quy moment tổng quát (GMM), dựa trên kết quả tổng thể của phương pháp hồi quy 2SLS, không thể xác định được mối quan hệ giữa RRTD và rủi ro thanh khoản. Nghiên cứu từ góc độ RRTD bất động sản, tác giả Huỳnh Sĩ Đại (2020), trong bài viết “Hạn chế RRTD trong hoạt động cho vay bất động sản tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Phú Yên” [17], theo tác giả thì Phú Yên phát triển mạnh đặc biệt ở lĩnh vực du lịch, các dự án bất động sản được xây dựng ngày càng nhiều và đi đôi với đó hoạt động cho vay tín dụng bất động

21

sản cũng trở nên sôi động, đề xuất các giải pháp cần thiết để hạn chế RRTD trong hoạt động cho vay bất động sản tại Vietinbank Phú Yên. Nhằm đảm bảo vừa cung ứng vốn đầy đủ để phát triển thị trường bất động sản ở địa phương, vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của chi nhánh so với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu từ góc độ rủi ro do sự thay đổi của môi trường Trần Thị Thanh Trúc (2021), trong bài viết “RRTD tại các NHTM cổ phần Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu tài chính, 68-2021 [114]. Trong những năm gần đây, sự phát triển của thị trường bất động sản đi kèm với đó là sự phát triển mạnh mẽ tín dụng cho vay thế chấp bất động sản từ các NHTM. Các NHTM xác định đây là sản phẩm chiến lược trong giai đoạn 2017-2020. Đã có nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng có sự ảnh hưởng từ việc cho vay bất động sản lên tỷ suất sinh lợi của các NHTM. Phạm Xuân Quỳnh (2022), trong bài viết “Tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh dịch Covid-19”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Trà Vinh tháng 3- 2022 [84]. Bài viết đã đánh giá tình hình tăng trưởng tín dụng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh dịch Covid-19. Tác giả sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của 25 NHTM Việt Nam giai đoạn từ quý 1/2018 đến quý 3/2021. Nguyễn Đức Tú (2012), “QLRR tín dụng tại NHTM Cổ phần Công thương Việt Nam” [116] cho rằng: Trong xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung và QTRR nói riêng theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành Ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và gần hơn với các chuẩn mực đó. Bài viết đã đưa ra 04 nguyên tắc về QTRR hoạt động và 08 giải pháp nâng cao QTRR.

Nhìn chung, các nghiên cứu về RRTD và quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM có sự đa dạng với nhiều góc độ từ đánh giá thực trạng các RRTD, nguyên nhân của RRTD, tác động của RRTD đến các tác động của RRTD. Việc tìm đọc và nghiên cứu các bài viết trên giúp NCS có thể hiểu rõ bản chất của RRTD, các nội dung liên quan đến làm căn cứ xây dựng lý luận và phân tích thực trạng về vấn đề này. 1.3. Các nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng và quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Nghiên cứu trực tiếp về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM hiện nay theo tìm hiểu của NCS là chưa nhiều, các công trình nghiên cứu

22

chỉ tập trung làm rõ một số khía cạnh liên quan đến công tác quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này, có thể kể đến một số công trình:

Theo Matsubayashi (2015), “The effort to stabilise the financial system in Japan: an outline and the characteristics of the programme for financial revival” [132]. Thông qua cách tiếp cận từ quản lý công của Chính phủ Nhật Bản, tác giả đã khẳng định việc xây dựng thể chế, chính sách về cho hoạt động tín dụng và quản lý RRTD của NHTM là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất nhằm quản lý tốt nợ xấu tại Nhật Bản. Hệ thống chính sách liên quan đến quản lý nợ xấu tại quốc gia này được ban hành bởi NHNN Nhật Bản (Bank of Japan - BOJ). Cơ quan này thiết lập một Hội đồng chính sách với 09 thành viên và không cho đại diện của chính phủ trong hội đồng này. Với quy trình ban hành chính sách như vậy, hệ thống pháp lý liên quan đến quản lý nợ xấu của Nhật Bản đảm bảo được tính minh bạch và rõ ràng. Theo Mazzu và Francesco (2018), “A Strategic Approach to Non- Performing Loans Treatment in Banking: Options and Rules for Decision-Making” [141]. Liên minh châu Âu sử dụng pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật là khuôn khổ để quản lý hoạt động tín dụng của các NHTM. Văn bản có vai trò quan trọng hỗ trợ việc thiết lập một khuôn khổ chung trên các hệ thống ngân hàng EU để nhận biết, phân loại và đánh giá nợ xấu đó là dự thảo hướng dẫn của Cơ quan Ngân hàng Châu Âu (European Banking Authority) từ năm 2014 (European Banking Authority, 2014, 2016a, 2016b). Các tiêu chuẩn này cung cấp các tiêu chí hài hòa để xác định các khoản nợ xấu, tăng cường tính minh bạch của rủi ro tín dụng được thực hiện bởi các ngân hàng châu Âu (Mazzu và Francesco, 2018). Ngày 11/07/2017, Hội đồng châu Âu (European Council) đã đồng ý một kế hoạch hành động để giải quyết vấn đề nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng, dựa trên các khuyến nghị trong báo cáo của Ủy ban Dịch vụ Tài chính. Kế hoạch hành động bao gồm các giải pháp chính sách, pháp luật về giảm nợ xấu và ngăn chặn xuất hiện trong tương lai.

Baudino và Yun (2017), với cách tiếp cận từ góc độ pháp luật, trong bài viết “Resolution of non-performing loans - policy options” [127] tác giả đã khẳng định rằng, pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quy định các nội dung liên quan đến việc quản lý hoạt động tín dụng của các NHTM như các quy định về các hình thức cấp tín dụng; về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, về đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng (thẩm định tài sản và năng lực trả nợ, giới hạn cấp tín dụng, dự phòng rủi ro nợ xấu, đảm bảo tiền vay...) và các dịch vụ khác nằm trong danh mục hoạt động của các NHTM. Nghiên cứu chỉ ra các bằng chứng chứng minh sự thành công của các chính sách giải quyết khác nhau tuỳ theo từng

23

trường hợp và nghiên cứu cũng đã xác định một số yếu tố quyết định tính khả thi của các chính sách giải quyết riêng lẻ. Nghiên cứu cũng đề xuất việc giải quyết nợ xấu cần gắn kết với các chính sách kinh tế vi mô, vĩ mô để giảm thiểu các vấn đề về nợ xấu. Theo Thakor (2019), “Politics, credit allocation and bank capital requirements, Journal of Financial Intermediation” [142] cho rằng NHNN quản lý các hoạt động tín dụng của hệ thống các NHTM thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chương trình phát triển hoạt động xây dựng trên cơ sở các văn bản pháp luật hiện hành. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chương trình phát triển hoạt động có vai trò hướng dẫn, định hướng và điều chỉnh các hoạt động tín dụng của các NHTM nhưng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của từng ngân hàng. Ghosh (2017), “Sector-specific analysis of non-performing loans in the US banking system and their macroeconomic impact” [138] NHNN chỉ đạo các NHTM tự xây dựng và cải thiện nguồn vốn tự có trên cơ sở đảm bảo nguồn vốn điều lệ luôn bằng hoặc cao hơn so với mức vốn pháp định và phải thỏa mãn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo luật định và chuẩn mực quốc tế hoặc theo chuẩn mực của Hiệp ước Basel II nhằm nâng cao năng lực tài chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị và điều hành của các NHTM. Bên cạnh đó, NHNN cũng có nhiệm vụ hướng dẫn các NHTM xây dựng chiến lược và triển khai lộ trình tăng nguồn vốn tự có thông qua các nguồn khác nhau, triển khai đồng bộ và quyết liệt các biện pháp nhằm xử lý triệt để nợ xấu ngay từ thời điểm cấp tín dụng. Theo Beltratti và Paladino (2016), “Basel II and regulatory arbitrage. Evidence from financial crises” [126] cho rằng cơ quan thanh tra và giám sát thuộc NHNN đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý chất lượng tín dụng và xử lý các vi phạm trong quản lý RRTD đối với hoạt động của các NHTM, cụ thể như sau: (1) Kiểm tra và đánh giá các quy định về chuẩn mực nợ xấu do chính NHTM ban hành, kiểm tra mức độ tuân thủ và chất lượng thực hiện đáp ứng các chuẩn mực này. (2) Kiểm tra và đánh giá việc thực hiện cấp tín dụng, quản lý tiền vay và chính sách dự phòng rủi ro của các NHTM trong quá trình hoạt động nhằm đảm bảo các NHTM. (3) Kiểm tra, thanh tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng và sử dụng tiền dự phòng vào việc xử lý rủi ro tín dụng cũng như việc lập báo cáo về quá trình quản lý và xử lý nợ xấu của các NHTM.

Phan Thị Thu Hà và Lê Thị Vân Khanh (2015), “Thực trạng và giải pháp về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro huy động theo Basel II tại các NHTM Việt Nam” [25], đã đi sâu phân tích trên các nội dung: (i) Lý luận cơ bản về khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô và kinh nghiệm các nước trong việc xây dựng khuôn khổ chính sách an

24

toàn vĩ mô; (ii) Thực trạng thị trường tài chính của Việt Nam và yêu cầu xây dựng khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô ở Việt Nam; (iii) Đề xuất khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô cho hệ thống tài chính Việt Nam, trong đó nêu rõ các mục tiêu và công cụ thực hiện, khuôn khổ pháp lý, quy trình và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, Bộ, ngành liên quan trong quá trình thực hiện chính sách an toàn vĩ mô cho hệ thống tài chính Việt Nam.

Lê Vinh Danh (2015), “Chính sách tiền tệ và điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương” [11] đi sâu phân tích rất cụ thể về sự ra đời, vai trò, chức năng, các hoạt động mang tính nghiệp vụ, kinh doanh của: NHNN và NHTM; Đồng thời khẳng định vai trò của NHNN trong nền kinh tế thông qua điều hành chính sách tiền tệ, hệ thống mục tiêu và hệ thống các công cụ can thiệp. Các cuốn sách trên cũng đã giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam; Phân tích những mặt thành công và chưa thành công trong hoạt động điều tiết vĩ mô của NHNN ở một số quốc gia tiêu biểu: Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Trên cơ sở những kinh nghiệm đó, tác giả nêu một số kiến nghị nhằm góp phần đổi mới hoạt động của NHNN Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển của nền KTTT hội nhập.

Nguyễn Thị Hòa (2019), “Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các TCTD - Thực trạng và giải pháp” [30], phân tích thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của NHNN Việt Nam đối với các TCTD từ khi triển khai hoạt động này đến 31/12/2018. Từ đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế làm cơ sở đề xuất hoàn thiện hoạt động này. Các giải pháp khắc phục những hạn chế trong thực tiễn khi triển khai phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro và xây dựng lộ trình cụ thể để thực hiện các giải pháp đã đề ra cho 2 giai đoạn: từ nay đến năm 2020 và từ năm 2021 đến năm 2025.

Lê Xuân Sang (2013),“Tái cơ cấu hệ thống giám sát thị trường tài chính Việt Nam” [86] đã ra chỉ một trong những nguyên nhân dẫn tới bất ổn và khủng hoảng tài chính - tiền tệ xuất phát từ sự giám sát tài chính yếu kém, các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về giám sát trong ngân hàng đã bị coi nhẹ, đặc biệt vẫn chưa áp dụng các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo, kiểm định (như Mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng - Early Warning System EWS; Kiểm định khả năng chịu đựng rủi ro của các NHTM trước những cú sốc tài chính, tiền tệ (Stress Test – ST); Giá trị có thể tổn thất (Varlue at Risk - VAR) cho cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính/ danh mục đầu tư hầu như chưa được phát

25

triển, áp dụng. Qua đánh giá, tác giả đã đưa ra giải pháp nhằm tái cơ cấu hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, trong đó cần áp dụng rộng rãi chuẩn mực quốc tế và bảo đảm tính thực thi trong áp dụng chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế.

Phạm Huy Hùng (2015) “Các yêu cầu của chuẩn mực Basel II về đánh giá rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam” [37] đã chỉ ra những bất cập hiện nay trong công tác xếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam, trong đó xác định rõ những nguyên nhân dẫn tới những hạn chế này gồm: (i) chưa có khung pháp lý rõ ràng cho xếp hạng tín dụng nội bộ; (ii) hạ tầng công nghệ thông tin tại các NHTM không đồng đều; (iii) chất lượng nguồn nhân lực thấp; (iv) chất lượng thông tin đầu vào thiếu minh bạch và hệ thống cơ sở dữ liệu không đáng tin cậy. Một số giải pháp, kiến nghị được đưa ra, tuy nhiên cần được nghiên cứu cụ thể, chi tiết hơn bởi những giải pháp trong bài nghiên cứu này mang tính định hướng là chính. Bùi Thị Hương Liên (2021), “Giám sát NHTM tại cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” [45] cho rằng, hoạt động giám sát đối với NHTM của NHNN Việt Nam vẫn còn một số hạn chế: Các NHTM chưa được giám sát một cách chặt chẽ và toàn diện; Hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động của các NHTM; NHNN còn yếu và lỏng lẻo trong việc giám sát dựa trên cơ sở giám sát hợp nhất tất cả các lĩnh vực hoạt động của các NHTM; Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ hoạt động giám sát NHTM còn lạc hậu, chưa theo kịp sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng.

Trần Việt Hưng (2020), trong luận án “Nâng cao hiệu quả quản lý tín dụng NHTM Việt Nam” [42] đã đưa ra hệ thống một số nhóm chỉ tiêu để phản ánh hiệu quả quản lý TDNH trong quá trình hội nhập. Cụ thể, các nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả quản lý TDNH phản ánh: Năng lực tài chính của NHTM, lợi ích chủ sở hữu NHTM, mức độ an toàn hoạt động quản lý tín dụng NHTM, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu, hiệu suất sử dụng vốn... trên cơ sở nguồn số liệu của các NHTM Việt Nam từ năm 2010 - nay và từ việc sử dụng hệ thống các nhóm chỉ tiêu đã xây dựng để đánh giá hiệu quả quản lý tín dụng NHTM trên mặt định tính, định lượng, luận án đã chỉ ra việc ứng dụng hệ thống các nhóm chỉ tiêu phản ánh được thực trạng hiệu quả quản lý tín dụng của các NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập.

Phạm Quốc Khánh (2021), “Quản lý tiền tệ trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam” [44] cho rằng cuộc cách mạng công nghệ số khiến cho các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nói riêng và hoạt động tài chính nói chung có thể đi trước khá xa so với các quy định QLNN. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong quản lý tiền tệ, giám sát và RRTD đã có trước khi công nghệ số xuất hiện, chính vì thế hoạt

26

động QLNN đối với thị trường tiền tệ trong bối cảnh chuyển đổi số đã đạt ra những thách thức nhất định đến các cơ quan quản lý.

Các nghiên cứu về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tuy không nhiều, nhưng với những công trình nghiên cứu trên đã giúp NCS có thể hiểu rõ hơn về RRTD trong hoạt động của các NHTM, vận dụng các lý luận về QLNN về kinh tế, thương mại vào nghiên cứu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới. 1.4. Những giá trị khoa học được kế thừa và khoảng trống nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu tổng quan cho thấy những công trình chuyên khảo, các luận án, bài viết khoa học trên đều có nhiều nội dung liên quan chặt chẽ đến vấn đề nghiên cứu của luận án và kết quả nghiên cứu của các công trình đó có giá trị khoa học và kế thừa cao, cụ thể:

Một là, các công trình nghiên cứu trên đã phân tích và làm rõ sự phát triển của thị trường tài chính, tín dụng, các RRTD cũng như quản lý RRTD của các NHTM;

Hai là, đã có một số nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM như tại Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, qua đó giúp NCS có cái nhìn khái quát về thực tiễn hoạt động quản lý liên quan đến RRTD của các quốc gia, tổ chức trên thế giới qua đó có thể rút ra được bài học trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam. Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển mới với mức độ hội nhập quốc tế sâu rộng của ngành ngân hàng, những biến động của thị trường bất động sản, tác động của CMCN 4.0 và xu hướng tín dụng xanh và đặc biệt là sự cập nhật trong nghiên cứu vấn đề này đến năm 2022... NCS nhận thấy các khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề này còn rất nhiều, tuy nhiên trong giới hạn cho phép, NCS tập trung vào một số khoảng trống cấp thiết nhất cần nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay:

Về lý luận: Nghiên cứu để hệ thống hóa, luận giải, làm lý luận liên quan đến

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thông qua:

Một là, làm rõ đặc thù của RRTD trong hoạt động của các NHTM; làm rõ các nội hàm về khái niệm, vai trò, tiêu chí đánh giá QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM;

Hai là, xác định rõ các nội dung quản lý của Nhà nước được tiếp cận theo hướng tiếp cận chức năng với xây dựng hệ thống văn bản quản lý, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát;

27

Ba là, chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM.

Về thực tiễn: Một là, đánh giá, phân tích thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới (bối cảnh tham gia vào các hiệp định FTA thể hệ mới, tác động của CMCN 4.0, biến động của thị trường bất động sản, sự tác động của chiến sự Ucraina, các chính sách tài chính của Fed…).

Hai là, chỉ ra được các hạn chế, vướng mắc và xác định được các nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế, vướng mắc đó, qua đó đề xuất giải pháp để hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM trong bối cảnh phát triển mới.

Ba là, tại Việt Nam, RRTD trong hoạt động của các NHTM ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà đầu tư. Mặc dù, thời gian qua hoạt động quản lý của Nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế chưa giải quyết được.

Chính vì vậy, “QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới” là một đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu để phát huy những thành công và khắc phục những hạn chế, bất cập còn tồn tại ở trên.

Kết luận chương 1

Nội dung Chương 1 của luận án tập trung tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tập trung vào 03 nhóm: Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến RRTD; Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến quản lý nhà nước về tín dụng và các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Chương 1 đã chỉ ra những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, rút ra được những khoảng trống cần phải giải quyết. Trên cơ sở đó, NCS đã đưa ra những câu hỏi liên quan cần phải giải quyết của luận án.

28

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngân hàng thương mại 2.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại NHTM ra đời cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, được coi là một sản phẩm được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. NHTM là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, hay nói cách khác là nhà “cung vốn” và nhà “cầu vốn” [16]. Ngân hàng là doaпh nghiệp đặc biệt, là hệ thần kinh, là trái tim của nền kinh tế. Điều này không thể thiếu đối với một nền kinh tế lành mạnh, có tốc độ tăng trưởng cao, bền vững.

Theo Peter Rose, nhà kinh tế học Mỹ định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [Dẫn theo 42]. Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (Wordbank): “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm)” [67]. Các ngân hàng bao gồm: các NHTM chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn - trung - dài hạn; các ngân hàng đầu tư tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành... Ngoài ra, tại một số nước còn có ngân hàng đa năng, kết hợp hoạt động NHTM với hoạt động ngân hàng đầu tư và cả dịch vụ bảo hiểm.

Từ các các khái niệm NHTM trên, theo NCS “NHTM là một định chế tài chính trung gian có khả năng thực hiện toàn bộ các dịch vụ tài chính ngân hàng cụ thể như nhận gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán vì mục tiêu lợi nhuận”. NHTM dù ở quốc gia nào cũng là trung gian tài chính lớn nhất và là tổ chức tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất, không chỉ vậy, ngân hàng còn có những chức năng riêng có mà không một TCTD nào được phép có như: Chức năng tạo tiền; Chức năng trung gian tài chính; Chức năng trung gian thanh toán.

2.1.1.2. Đặc điểm ngân hàng thương mại Trên cơ sở các quan điểm khác nhau về NHTM ở trên, có thể xác định đặc

điểm của NHTM như sau:

29

Thứ nhất, NHTM là loại ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện thông qua các hình thức: huy động vốn, trên cơ sở đó cấp tín dụng cho khách hàng (cho vay, chiết khấu chứng từ có giá, bao thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính) [95]. Hoạt động dịch vụ của NHTM được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền, ngân quỹ, kiều hối, uỷ thác (bảo quản, thu hộ, chi hộ…), dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin, ngân hàng điện tử...

Thứ hai, sự gia tăng nhanh chóng và đa dạng các hình thức dịch vụ của NHTM. Bên cạnh là một định chế trung gian tài chính thì NHTM hoạt động như một doanh nghiệp và hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Chính vì vậy, nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa, các NHTM không ngừng đa dạng hoá dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng, đa dạng hoá dịch vụ tài chính - ngân hàng tăng lên trong các năm gần đây trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các tổ chức tài chính khác, từ sự phát triển công nghệ, từ sự đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng [45].

Thứ ba, NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện. Muốn được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, NHTM phải thoả mãn các điều kiện bắt buộc do pháp luật quy định (phải có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định; người quản lý, người điều hành, thành viên ban kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định; có Điều lệ phù hợp với quy định...). Khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá thông thường, đối với NHTM kinh doanh hàng hoá đặc biệt - đó là hàng hoá tiền tệ. Do đó, mức độ rủi ro đối với NHTM sẽ lớn hơn rất nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và có thể ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống tài chính ngân hàng [24].

Thứ tư, phần lớn các hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để phòng ngừa, hạn chế các rủi ro trong quá trình hoạt động, NHTM cần nhận biết, lượng hoá và có biện pháp phòng chống rủi ro.

Thứ năm, sự khác biệt so với công ty tài chính: NHTM và công ty tài chính khác biệt nhau ở chỗ phạm vi hoạt động của NHTM rộng hơn rất nhiều; trong khi NHTM là loại hình TCTD được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng thì phạm vi hoạt động nghiệp vụ của công ty tài chính bị pháp luật giới hạn hơn nhiều theo quy định của Luật tín dụng. Theo đó thì công ty tài chính chỉ được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.

2.1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại NHTM có những vai trò quan trọng sau: Đầu tiên, NHTM là một hình thức quản lý thị trường tài chính quả Nhà nước

30

Bên cạnh việc hoạt động như một doanh nghiệp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận thì NHTM còn đóng vai trò quan trọng trong điều tiết thị trường tiền tệ. Điều này thể hiện rất rõ thông qua qua việc các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ được tác động đến nền kinh tế mà NHTM là một mắt xích quan trọng.

Thứ hai, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với vai trò trung gian tài chính của mình, các NHTM là cầu nối gắn kết các chủ thể trong xã hội, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; từ đó cung ứng vốn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thông qua các nghiệp vụ cấp tín dụng, thanh toán, tiền tệ, dịch vụ các NHTM hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh [24].

Thứ ba, NHTM là kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. NHNN thực thi chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở... Chính các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công cụ này, đồng thời NHTM đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế, vì hoạt động kinh doanh của các NHTM gắn liền với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế.

2.1.2. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại

2.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại

Theo hai nhà kinh tế A. Saunder và H. Lange (1999): “Financial Institutions Management - A Modern Perpective” thì RRTD được định nghĩa là “khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian” [136].

Theo quan niệm của Ủy ban Basel (2000), thì: “RRTD là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận” [120].

Ở Việt Nam, theo Nguyễn Kim Anh (2010): “RRTD phải được hiểu ở cả hai góc độ, rủi ro trong huy động vốn và rủi ro trong cho vay”; Trong đó, “Rủi ro trong là khoản tổn thất phát sinh khi cấp tín dụng cho khách hàng mà chỉ thu được một phần gốc và lãi, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn, hoặc không thu được gốc và lãi” [1].

Như vậy, từ các khái niệm tham khảo qua các nghiên cứu đi trước, cùng với quan điểm của bản thân, trong phạm vi luận án RRTD của NHTM được hiểu là rủi ro phát sinh do khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng

31

tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong HĐKD của NHTM.

2.1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại

Đặc điểm đầu tiên của RRTD phải kể đến đó là nó có tác động rất lớn, gây tổn thất nghiêm trọng đối với NHTM. Thậm chí, nếu RRTD không được khống chế và khắc phục một cách hiệu quả có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia, sự phát triển của một đất nước [83].

RRTD có thể xảy ra ở nhiều mảng, nhiều lĩnh vực khác nhau trong HĐTD NHTM bao gồm bảo lãnh, tài trợ thương mại, chứng khoán… Nhìn chung, các HĐTD có quy mô càng rộng, có khả năng đem lại nguồn lợi nhuận cao thì càng ẩn chứa nhiều rủi ro. RRTD sẽ dẫn đến tổn thất tài chính tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn.

Hoạt động quản lý rủi ro là việc ngân hàng tác động và điều chỉnh các HĐTD nhằm ngăn chặn và hạn chế tối đa những ảnh hưởng xấu đến nguồn tiền. Việc làm này được thực hiện bởi nhiều công cụ khác nhau từ công cụ rà soát đến công cụ quản lý cũng như hệ thống cán bộ nhân viên trong ngân hàng.

2.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Có nhiều cách phân loại và tiếp cận RRTD khác nhau, sau đây là một số cách

phân loại phổ biến:

Thứ nhất, phân loại theo quan điểm của Ủy ban Basel: - RRTD (Credit Risk) là khả năng xảy ra tổn thất khi có sự vi phạm từ phía

đối tác của ngân hàng.

- RRTD có thể hiểu là rủi ro đối tác (Counterparty Risk) xuất hiện khi có sự

vi phạm các thỏa thuận giữa ngân hàng và đối tác trong giao dịch của họ [83]

Thứ hai, phân loại theo Nguyễn Văn Tiến (2005), thì RRTD gồm: - Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận: Rủi ro lựa chọn; Rủi ro bảo đảm; Rủi ro nghiệp vụ.

- Rủi ro danh mục: Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại: Rủi ro nội tại (Intrinsic) và rủi ro tập trung (Concentration risk).

Thứ ba, căn cứ phạm vi của RRTD, có thể phân RRTD thành rủi ro cá biệt và

rủi ro hệ thống.

32

- RRTD cá biệt: là RRTD xảy ra đối với một khoản vay của một khách hàng cụ thể, thuộc một nhóm ngành cụ thể. RRTD cá biệt xảy ra do một số nguyên nhân: (i) Đặc điểm ngành và loại hình kinh tế của khách hàng: (ii) Tình hình tài chính của khách hàng, (iii) Khả năng quản trị của khách hàng, (iv) Đạo đức khách hàng, (v) Các nguyên nhân khác... Tóm lại, việc nghiên cứu rủi ro cá biệt sẽ giúp ngân hàng đa dạng hóa HĐTD để giảm thiểu rủi ro, đem lại hiệu quả cho ngân hàng.

- RRTD hệ thống: là RRTD xảy ra không chỉ đối với một ngân hàng mà mang tính chất hệ thống, lan truyền đến cả khu vực ngân hàng. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống bao gồm: sự thay đổi chính sách thể hiện ở chính sách tài chính tiền tệ, chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu; các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế ảnh hưởng đến rủi ro hệ thống bao gồm: tỉ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, GDP, chỉ số chứng khoán, chỉ số giá tiêu dùng; luật pháp và môi trường đầu tư và các yếu tố bất khả kháng.

Ngoài ra, việc phân loại rủi ro có thể phục thuộc vào nhiều yếu tố môi trường qua đó xác định RRTD như rủi ro công nghệ do quá trình chuyển đối số trong lĩnh vực ngân hàng; rủi ro đầu tư do quá trình thẩm định đầu tư các dự án của các NHTM hay rủi ro cơ chế gắn với sự chậm chễ của hệ thống văn bản và quản lý của các cơ quan quản lý với các vấn đề phát sinh của thị trường tín dụng và thị trường tài chính.

2.1.3. Tác động của rủi ro tín dụng lên hoạt động của ngân hàng thương

mại và nền kinh tế

2.1.3.1. Tác động của rủi ro tín dụng lên hoạt động của ngân hàng thương mại Như phân tích trên đây, HĐTD luôn đem lại thu nhập chủ yếu cho một ngân hàng, do vậy RRTD cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cụ thể các tác động của RRTD như sau:

Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Khi RRTD xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó đòi, sự ứ đọng vốn dẫn đến giảm vòng quay vốn ngân hàng, phát sinh các khoản chi phí quản trị, giám sát thu nợ... các chi phí này cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất nợ quá hạn, vì đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, một trong những biện pháp xử lý của ngân hàng, thực tế ngân hàng rất khó có thể thu hồi đầy đủ chúng. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa RRTD và khả năng sinh lời của Aduda and Gitonga (2011), Gizaw và cộng sự (2015), Li and Zou (2014) kết quả đều chỉ ra rằng RRTD có ảnh hưởng tới khả năng sinh lời (ROA, ROE) của ngân hàng và làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng [83].

Thứ hai, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay...) tại các thời điểm trong

33

tương lai. Khi các hợp đồng vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền.

Thứ ba, rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng. Tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần, hay những thông tin về RRTD của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút, đây là cơ hội tốt cho các đối thủ cạnh tranh giành giật lấy thị trường và khách hàng.

Thứ tư, phá sản ngân hàng. Nếu nhiều khách hàng vay vốn ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những khoản vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của chính ngân hàng. Khi ngân hàng không chuẩn bị trước các phương án dự phòng, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu rút vốn quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.

2.1.3.2. Tác động của rủi ro tín dụng lên nền kinh tế Một khi RRTD xảy ra, uy tín và khả năng thanh toán của NHTM ảnh hưởng đầu tiên. Tiếp đó, người dân và các tổ chức đang có tiền gửi tại ngân hàng kéo đến ồ ạt đến rút tiền và chấm dứt quan hệ. NHTM đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, NHTM có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Khi RRTD xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng, có khả năng lây lan các ngân hàng khác tạo ra sự phá sản của Ngân hàng mà đua nhau rút tiền ào ạt, tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đưa nhau đến ngân hàng rút tiền trước thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các ngân hàng và sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Khi các NHTM phá sản sẽ kéo theo một bộ phận, các xí nghiệp, doanh nghiệp, dân cư mất vốn làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống. Ngoài ra việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn, người gửi tiền không lấy lại tiền được. Những hậu quả này còn giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, những như hiệu lực của các chính sách tiền tệ của Chính phủ.

2.2. Lý luận về quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động

của các ngân hàng thương mại

2.2.1. Khái niệm, mục tiêu của quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng

trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động

của các ngân hàng thương mại

Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể lên các đối tượng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Có thể hiểu, QLNN là hoạt động quản lý xã hội đặc biệt, do các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước

34

thực hiện thông qua hệ thống pháp luật và chính sách. Mục đích của QLNN là điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ của cá nhân, tổ chức để duy trì sự phát triển ổn định của toàn xã hội [33].

Quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thông qua NHNN là một bộ phận trong quản lý kinh tế vĩ mô. Bằng việc sử dụng các công cụ đặc thù như hệ thống pháp luật, các chính sách để định hướng, tác động vào HĐTD, nhà nước - thông qua NHNN, thể hiện vai trò quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế đã đề ra. Hay nói cách khác, QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thể hiện khả năng định hướng, điều chỉnh của nhà nước đến việc mở rộng hoặc thu hẹp HĐTD để phù hợp với từng giai đoạn kinh tế khác nhau, đồng thời tác động đến cả chất lượng của HĐTD.

Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM trong bối cảnh phát triển mới là sự tác động có tổ chức, có định hướng và mang tính quyền lực Nhà nước thông qua NHNN bằng những phương pháp và công cụ quản lý đến việc cấp tín dụng của các NHTM nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà NHTM có thể chấp nhận được trước sự thay đổi của bối cảnh mới.

Có thể nói, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM trong bối cảnh mới được diễn ra thông qua sự tương tác giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Vì thế, yếu tố cấu thành chủ yếu cho hoạt động QLNN đối với các NHTM là chủ thể quản lý và khách thể quản lý.

Chủ thể quản lý vĩ mô nói chung là các cơ quan nhà nước, trong đó hệ thống các cơ quan quản lý chuyên ngành thường được coi là chủ thể trực tiếp thực hiện chức năng QLNN đối với từng lĩnh vực trong đời sống xã hội. Đối với hoạt động của các NHTM, chủ thể QLNN ở đây là: Quốc hội, Chính phủ, dưới đó là: NHNN, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi... Đây là các cơ quan Nhà nước hoặc được Nhà nước ủy thác để quản lý, giám sát hoạt động tài chính - tiền tệ nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động được an toàn và phục vụ các mục tiêu KT-XH của Nhà nước.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả giới hạn “Chủ thể QLNN” đối với các NHTM là NHNN. Do vậy, khi nghiên cứu về các nội dung quản lý của nhà nước đối với các NHTM, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu trên phương diện quản lý của NHNN đối với các NHTM. Khách thể nghiên cứu của đề tài là các NHTM Việt Nam thực tế hoạt động từ năm 2011 đến 2022.

35

2.2.1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt

động của các ngân hàng thương mại

Quản lý của nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là cần

thiết khách quan xuất phát từ năm yếu tố sau:

Thứ nhất, chức năng chung của Nhà nước: Bên cạnh vai trò bảo vệ nền kinh tế, Nhà nước còn có vai trò quan trọng trong việc tham gia điều tiết các ngành và lĩnh vực để đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập có tầm ảnh hưởng sâu rộng và tác động lớn đến định hướng chính trị và pháp lý của mỗi nước [22].

Thứ hai, vai trò quan trọng của NHTM trong nền kinh tế: hệ thống NHTM ổn định tạo tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế bền vững. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 hay khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã cho thấy hoạt động của hệ thống NHTM đã tác động đến nền kinh tế như thế nào. Vì thế, hoạt động QLNN cần được lên kế hoạch và triển khai phù hợp với thực tiễn nền kinh tế [138].

Thứ ba, đặc điểm HĐKD: so với các loại hình kinh doanh khác, hoạt động của NHTM có độ rủi ro cao hơn và có ảnh hưởng lớn, mang tính dây chuyền đối với nền kinh tế. Vì thế, hoạt động của các ngân hàng thường được điều chỉnh và kiểm soát chặt chẽ thông qua những đạo luật riêng biệt để đảm bảo sự vận hành an toàn và hiệu quả của hoạt động này.

Thứ tư, vai trò quản lý vĩ mô về tài chính ngân hàng của nhà nước: hệ thống tài chính tiền tệ được nhà nước sử dụng như một công cụ trong quản nền kinh tế ở mức độ vĩ mô nên có thể nói hệ thống ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. Sự phát triển hay trì trệ của hệ thống ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, nhà nước cần phải QLRR của các NHTM thông qua NHNN để đảm bảo sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường tiền tệ [142].

Thứ năm, yêu cầu cần phải đảm bảo hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, việc ban hành và soạn thảo trình các cấp ban hành văn bản pháp luật về quản lý RRTD tại Việt Nam cần phải được chú trọng nhằm đảm bảo một môi trường pháp lý phù hợp cho HĐTD của NHTM cũng như hoạt động tổ chức kiểm tra, giám sát và xử lý RRTD của các NHTM Việt Nam. Trong đó, việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến RRTD của NHTM Việt Nam là rất cần thiết [146].

2.2.1.3. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt

động của các ngân hàng thương mại

36

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước. Đây cũng được xem là hoạt động chủ đạo của các NHTM. QLNN cần hướng đến mục tiêu đảm bảo tính hiệu quả của HĐTD tại các NHTM để ngày càng nâng cao chất lượng của hoạt động này. Cụ thể hơn, có bốn mục tiêu cụ thể QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM:

Thứ nhất, duy trì sự an toàn và lành mạnh và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng: ngân hàng là đối tượng chịu nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế bởi đây là nguồn thanh khoản dự phòng cho tất cả các tổ chức khác trong xã hội và là công cụ truyền tải chính sách tiền tệ của nhà nước.

Thứ hai, khuyến khích, hỗ trợ hoạt động của hệ thống NHTM: mục tiêu của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là tạo động lực và khuyến khích HĐTD phát triển, ngăn ngừa các RRTD có thể xảy ra hoặc kiểm soát tốt hơn các RRTD trong hoạt động của các NHTM. Điều này được thực hiện thông qua hệ thống chính sách tiền tệ và tiềm lực kinh tế nhà nước, từ đó hình thành đòn bẩy thúc đẩy hoạt động chung của cả hệ thống NHTM.

Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi để các NHTM phát triển: trong nền kinh tế, tác động của mỗi chủ thể đều có ảnh hưởng qua lại với nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng. Thông qua QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thì các chủ thể có thể phối hợp với nhau để hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ mà Nhà nước giao.

Thứ tư, định hướng, dẫn dắt và điều tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo lập sự cân đối vĩ mô trong nền kinh tế và ngăn ngừa nợ xấu: nền hiện nay hoạt động theo các quy luật vốn có của nó.

2.2.2. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng

trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Các nội dung của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM đã được nhiều tổ chức, nhà nghiên cứu đề cập gắn với từng bối cảnh và thời kỳ khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, các nội dung cơ bản được đề cập là: (1) xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM; (2) tổ chức triển khai thực hiện (tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý, phân công phối hợp và tổ chức triển khai quản lý đối với xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD, nhận biết và đo lường RRTD, theo dõi, đánh giá và điểu chỉnh rủi ro, kiểm soát và tài trợ RRTD; (3) kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện, cụ thể:

37

2.2.2.1. Xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nhà nước đối với

rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

NHTM giữ vai trò đặc biệt quan trọng và chi phối mọi hoạt động KT-XH. Việc tham gia của các NHTM vào quan hệ tài chính - ngân hàng thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, thể hiện bản chất của nhà nước và phục vụ Nhà nước. Với lý do đó, Nhà nước phải trực tiếp can thiệp, chi phối các quan hệ tài chính - ngân hàng nhằm làm cho các quan hệ này một mặt tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, mặt khác phải phù hợp với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kỳ. Yêu cầu này mang tính khách quan xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ QLNN. Do vậy nhiệm vụ đầu tiên quan trọng nhất trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là ban hành pháp luật, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các vấn đề liên quan đến RRTD trong hoạt động của các NHTM, nhất là khi có sự phát triển chóng mặt của các công nghệ mới, mang tính đột phá và có thể thay đổi cấu trúc nhiều ngành nghề, lĩnh vực, cơ quan QLNN hiện nay. Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền ban hành các văn bản luật, các văn bản hướng dẫn dưới luật về nhận diện rủi ro, về các biện pháp hạn chế rủi ro và cách thức ứng phó với RRTD, qua đó giúp các NHTM dễ dàng hơn trong triển khai các nhiệm vụ liên quan đến quản lý rủi ro tại đơn vị mình.

Hệ thống này bao gồm các văn bản luật quy định về tổ chức, hoạt động của NHNN, các NHTM; các văn bản luật có liên quan đề quản lý RRTD... Căn cứ vào các quy định về phòng ngừa RRTD, các cơ quan QLNN sẽ thiết lập tổ chức bộ máy quản lý, huy động và sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính công; tái cơ cấu hệ thống ngân hàng; thực hiện các hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực hoạt động của các NHTM nói chung và quản lý RRTD nói riêng.

2.2.2.2. Tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại

* Xây dựng bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Hệ thống ngân hàng thường được ví là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Có thể nói bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM gốm các bộ phận sau:

- Chính phủ là cơ quan thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, thông qua các Nghị định, các quyết định mang tính chất chiến lược như tái cấu trúc các TCTD theo từng giai đoạn gắn với những đặc thù bối cảnh của từng giai đoạn…

38

- NHNN (hay Ngân hàng trung ương): Là cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện QLNN trực tiếp đối với hệ thống các TCTD nói chung và có nội dung về RRTD trong hoạt động của các NHTM. Hiện nay tổ chức bộ máy NHNN có thể theo mô hình thuộc Chính phủ hay độc lập với Chính phủ cho phù hợp với việc thực hiện các chức năng, trong đó có QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Các chi nhánh của NHNN được thành lập ở địa phương không có tư cách pháp nhân, không tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ và chịu sự điều hành trực tiếp của NHNN. Hầu hết các NHNN đều tổ chức thành một hệ thống tập trung, thống nhất bao gồm: Trụ sở chính, Chi nhánh, các văn phòng đại diện (trong và ngoài nước) và các đơn vị trực thuộc. Cơ cấu tổ chức NHNN được bố trí thành các khối để thực hiện chức năng, nhiệm vụ mang tính chất chuyên ngành cao (hoạch định chính sách, phát hành, tín dụng...).

Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, Bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM sẽ tập trung nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của NHNN trong vai trò là đầu mối được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý đối với hệ thống NHTM.

* Phân công phối hợp trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể, Nhà nước trao quyền thực hiện quản lý phù hợp bảo đảm việc triển khai hiệu quả trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

NHNN là chủ thể được Chính phủ phân công thực hiện quản lý đối với lĩnh vực tín dụng, thị trường tiền tệ, thông qua chức năng của mình, NHNN thiết lập các đơn vị thực hiện quản lý gắn với từng lĩnh vực, vấn đề liên quan. Đồng thời, phối hợp với cơ quan tài chính, cơ quan công an và các đơn vị liên quan để thực hiện quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Bên cạnh đó, các NHTM cũng phối hợp với NHNN trong thực hiện quản lý

nhằm bảo đảm kiểm soát RRTD tại cấp vi mô, theo hướng dẫn của NHNN.

* Triển khai các nội dung quản lý QLNN đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM

Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý đối với các NHTM, đối với các RRTD trong hoạt động của các NHTM… NHNN triển khai quản lý thông qua:

(1) Chỉ đạo xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD: Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, NHNN chỉ đạo các NHTM thực hiện xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD tại các NHTM của mình. Chiến lược quản lý RRTD của NHTM là hệ thống các quan điểm, các mục đích và mục tiêu cơ

39

bản cùng các giải pháp, chính sách nhằm sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực, lợi thế của NHTM nhằm đạt được các mục đích, mục tiêu đặt ra trong việc kiểm soát RRTD của NHTM. Việc xây dựng chiến lược quản lý RRTD của NHTM phụ thuộc vào từng thời kỳ nhất định, những điều kiện bên trong và bên ngoài của NHTM. Các chiến lược, chính sách, quy trình này cần được căn cứ vào quy định của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn của NHNN cũng như bảo đảm thống nhất với các quy định, thông lệ quốc tế (Ví dụ: Các nội dung liên quan đến RRTD của Basel). Bên cạnh đó, các mô hình quản lý RRTD được các NHTM triển khai theo hướng dẫn của NHNN sẽ giúp việc kiểm soát và hạn chế những ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động của các NHTM trong bối cảnh hiện nay.

(2) Hướng dẫn nhận biết và đo lường RRTD: NHNN cần hướng dẫn các NHTM xác định các RRTD thông qua những chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể bảo đảm xác định chính xác các rủi ro có thể gặp trong từng bối cảnh (thông qua cơ chế quản lý rủi ro tín dụng vĩ mô), các NHTM thực hiện nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động của mình xác định rõ các RRTD (quản lý RRTD cấp vi mô). Sau khi nhận biết được các RRTD, NHTM thông qua hướng dẫn của NHNN thực hiện đo lường RRTD nhằm làm căn cứ đánh giá mức độ tác động của RRTD đến hoạt động NHTM và thông qua cơ chế báo cáo, NHNN thực hiện tổng hợp đo lường RRTD chung của thị trường tín dụng đối với tất cả các NHTM nói chung.

Về bản chất đo lường RRTD được coi là bước quan trọng nhất trong QLNN đối với RRTD của các NHTM. Từ những đánh giá sơ bộ về các loại RRTD có thể có, các NHTM sẽ tiến hành đánh giá và đo lường các loại RRTD dựa trên các phương pháp khác nhau nhằm xác định khả năng có thể xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM cũng như ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tín dụng. Công việc này đòi hỏi phải thu thập số liệu, lập ma trận đo lường rủi ro và phân tích trên cơ sở thống nhất hướng dẫn của NHNN. Ngoài ra, NHNN hướng dẫn các NHTM thực hiện xếp hạng tín dụng nhằm đánh giá, phân loại khách hàng để xác định RRTD đối với từng khách hàng thông qua việc chấm điểm khách hàng dựa vào hệ thống các tiêu chí tài chính và phi tài chính xây dựng cho từng khách hàng cụ thể; phục vụ cho việc cấp tín dụng và đánh giá định kỳ. (3) Theo dõi, đánh giá và điểu chỉnh rủi ro: Nội dung này được triển khai theo hai cấp: Một là, Nhà nước thành lập cơ quan thanh tra, giám sát đối với hệ thống ngân hàng (có thể do NHNN quản lý) nhằm theo dõi, giám sát đối với hoạt động của NHTM và trong đó có các RRTD của NHTM. Bên cạnh đó, NHNN với vai trò là chủ thể quản lý đối với RRTD của hệ thống NHTM thường xuyên theo dõi, đánh

40

giá đối với RRTD của hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và của các NHTM nói riêng qua đó có những chính phù hợp nhằm tác độc điều chỉnh, giảm thiểu tác động của RRTD đối với hoạt động của các NHTM.

Hai là, NHTM quy định rõ nhiệm vụ theo dõi, đánh giá thường xuyên của các NHTM đối với RRTD trên cơ sở đánh giá môi trường hoạt động của ngân hàng. Thông qua chỉ đạo và hướng dẫn của NHNN, NHTM thực hiện việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro qua đó hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm soát, quản lý rủi ro cùa chính NHTM và QLNN của NHNN.

(4) Kiểm soát và tài trợ rủi ro * Xây dựng, thực thi các chính sách, công cụ để kiểm soát RRTD Chính sách tín dụng: Định hướng tín dụng với giới hạn tăng trưởng tín dụng trong từng giai đoạn, giới hạn tín dụng cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm cấp tín dụng, định giá tín dụng, tài sản đảm bảo, phê duyệt cấp tín dụng, hệ thống thẩm định RRTD, quản lý tín dụng, quản lý danh mục cho vay; chính sách khách hàng. Do vậy, để đảm bảo HĐTD của NHTM phát triển đúng định hướng, đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả, tăng trưởng bền vững và kiểm soát được RRTD thì mỗi NHTM phải xây dựng được một chính sách tín dụng nhất quán, hợp lý và phù hợp với đặc điểm của ngân hàng mình.

Quy trình tín dụng: là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó, xây dựng các ước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi tất toán khoản cấp tín dụng. Việc xây dựng quy trình cấp tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị RRTD, nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi cho ngân hàng.

* Tài trợ RRTD: là để bù đắp những khoản RRTD xảy ra, làm lành mạnh hóa tài chính ngân hàng, chứ không có nghĩa là xóa hoàn toàn nợ vay cho khách hàng. Đối với các khoản tín dụng được tài trợ rủi ro thì chuyển theo dõi ngoại bảng và ngân hàng tiếp tục sử dụng các biện pháp khắc phục và xử lý để tận thu hồi nợ.

Nguồn vốn để tài trợ RRTD bao gồm: Trích lập quỹ dự phòng RRTD, quỹ dự phòng tài chính, trợ cấp của Chính phủ. Quỹ dự phòng rủi ro được hình thành sau khi phân loại các khoản cấp tín dụng trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của các khoản cấp tín dụng và được hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Quỹ dự phòng RRTD được dùng để ù đắp những tổn thất trong HĐTD. Việc áp dụng cụ thể nguồn bù đắp này phụ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia.

41

Phát mại tài sản đảm bảo: Ngân hàng cố gắng thu hồi tài sản đảm bảo và tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để phát mại. Trường hợp khách hàng không có thiện chí tự nguyện bán tài sản thì ngân hàng sẽ tiến hành bán tài sản để thu hồi nợ theo sự giám sát và sự phán quyết của cơ quan pháp luật.

Trả nợ thay: Trong trường hợp có bảo lãnh của bên thứ ba, ngân hàng yêu cầu bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hoặc yêu cầu bên thứ ba phát mại tài sản (trong trường hợp bảo lãnh bằng tài sản) để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Bán nợ: Đây là hình thức bán một phần hoặc toàn bộ khoản nợ cho chủ thể

khác để thu hồi khoản nợ đang rủi ro, nhằm giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng.

Khởi kiện: Trong trường hợp cần khởi kiện, ngân hàng phải khẩn trương

hoàn thiện thủ tục pháp lý cần thiết khởi kiện ra tòa để thu hồi nợ.

Biện pháp đối với cán bộ ngân hàng, cán bộ liên quan trong ngân hàng: Cần xác định nguyên nhân, trách nhiệm của từng cá nhân, từng đơn vị để RRTD xảy ra. Trên cơ sở đó, ngân hàng lựa chọn mức độ xử lý như: truy cứu trách nhiệm, bồi thường vật chất… để giảm thiểu, khắc phục, phòng ngừa RRTD.

(5) Xử lý ngân hàng gặp khó khăn và cứu trợ Trong thực tiễn, mỗi quốc gia sẽ thiết lập khuôn khổ hiệu quả về ổn định tài chính và giám sát an toàn vĩ mô hệ thống tài chính. Đây là điều kiện tiền đề quan trọng cho việc xử lý, tái cấu trúc các ngân hàng gặp khó khăn, đặc biệt là các ngân hàng quan trọng hệ thống bởi mục tiêu cuối cùng của xử lý các ngân hàng gặp khó khăn là đảm bảo ổn định tài chính, duy trì sự liên tục dịch vụ tài chính quan trọng, bảo vệ người gửi tiền và loại trừ vấn đề rủi ro đạo đức như hiện tượng “Quá lớn để cho phá sản”. Việc can thiệp, xử lý các ngân hàng gặp khó khăn đòi hỏi tính kịp thời để giảm thiểu các tổn thất không đáng có đối với giá trị các tài sản của tổ chức bị xử lý mà còn giảm thiểu quy mô các hỗ trợ trong quá trình tái cấu trúc tổ chức tín dụng, nhất là hỗ trợ liên quan đến ngân sách nhà nước. Để đảm bảo sự can thiệp là kịp thời, hệ thống giám sát vi mô cần liên tục tăng cường và thực sự hiệu quả. Hệ thống này phát triển và duy trì hồ sơ rủi ro của từng ngân hàng, qua đó, cho phép cơ quan giám sát xác định, đánh giá và có hành động đối với từng loại rủi ro phát sinh từ cá nhân tổ chức đó hoặc từ hệ thống tài chính nói chung, xây dựng cơ chế, quy trình kỹ thuật tăng cường giám sát đối với các ngân hàng đang đối mặt rủi ro ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và đảm bảo rằng tăng cường giám sát sẽ hỗ trợ việc can thiệp sớm và xử lý theo trật tự trong trường hợp việc mất khả năng thanh toán của ngân hàng đó có thể là mối đe dọa đối với ổn định tài chính. Việc xây dựng một hệ thống giám sát đáp ứng được những tiêu chuẩn nêu tại các chuẩn mực/nguyên tắc được ban hành bởi Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng - BCBS, Ủy ban chứng

42

khoán quốc tế - IOSCO, Hiệp hội bảo hiểm quốc tế - IAIS và Ủy ban quốc tế về hệ thống thanh, quyết toán - CPSS là gợi ý tốt nhất cho mỗi quốc gia.

Ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại dựa trên 3 lớp bảo vệ. Hệ thống kiểm soát, phòng ngừa rủi ro do các ngân hàng thương mại xây dựng và phát triển là lớp thứ nhất. Lớp thứ hai là hệ thống giám sát tài chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lớp cuối cùng là giám sát thông qua kỷ luật thị trường, ở đó, các cổ đông, chủ nợ của ngân hàng và người gửi tiền dựa trên thông tin được công bố để “trừng phạt” các ngân hàng thương mại đang có dấu hiện thực hiện các hành vi rủi ro quá mức.

2.2.2.3. Thanh tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong quản lý nhà nước đối

với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần túy cho các ngân hàng trung gian, mà còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền tại các ngân hàng. Việc tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng để thực hiện chức năng thanh tra, giám sát các TCTD giữa các quốc gia có thể khác nhau, nhưng phương pháp và nội dung thanh tra cơ bản là giống nhau và đều nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền. Tùy theo điều kiện chính trị, pháp lý của từng quốc gia mà cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể được tổ chức trực thuộc Chính phủ hay Quốc hội; trực thuộc NHNN hay Bộ tài chính, hoặc trực thuộc NHNN nhưng phải chịu sự giám sát và chỉ đạo của các cơ quan khác như Chính phủ, Cơ quan thanh tra của Chính phủ hoặc Bộ tài chính.

Trong nội dung nghiên cứu của đề tài, NCS giới hạn việc xem xét thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN. Với chức năng của NHNN, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng là chức năng tối quan trọng nhằm QLRR trong hệ thống thông qua việc cấp phép thành lập, yêu cầu sáp nhập, giải thể ngân hàng, ban hành các quy định quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, các quy định về công bố thông tin...

Trên thế giới hiện nay, Ủy ban Basel cùng với 10 cơ quan thanh tra khác đã phát hành bộ các nguyên tắc cơ bản, toàn diện về thanh tra ngân hàng có hiệu quả (gọi là nguyên tắc Basel). Nguyên tắc Basel đã được cơ quan thanh tra ở 140 quốc gia nhất trí tán thành và được coi là nguyên tắc chuẩn mực quốc tế làm căn cứ cho hoạt động thanh tra ngân hàng có hiệu quả [122].

Kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là hoạt động được tiến hành thường xuyên, kịp thời, nhằm đảm bảo tuân thủ luật pháp của các NHTM và KH. Để hoạt động này có hiệu quả cần có những điều kiện

43

nhất định về nhân lực có trình độ đáp ứng dược yêu cầu chuyên môn, cách thức tổ chức, kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể, phân công trách nhiệm, cũng như các mục tiêu rõ ràng... Các sai phạm, thiếu sót qua kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM sớm được phát hiện, phân tích và có thông tin phản hồi nhanh chóng, giúp xử lý nghiêm minh các vi phạm, đảm bảo nâng cao hiệu lực QLNN và điều chỉnh, bổ sung kịp thời những quy định, cơ chế, chính sách pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Định hướng tạo nền tảng cho triển khai, áp dụng các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức trong từng hình thức cấp tín dụng phù hợp và quy định pháp luật ban hành, tạo điều kiện cho các NHTM triển khai các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng theo mục tiêu như đã định hướng. Quy định pháp luật được ban hành giúp cho hoạt động điều tiết của Nhà nước trong quá trình QLNN đối với RRTD theo đúng định hướng.

2.2.3. Các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động quản lý nhà nước đối với rủi

ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

2.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng * Các chỉ tiêu vĩ mô (1) Quy mô tín dụng của NHTM Quy mô tín dụng không phải là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp RRTD nhưng nếu quy mô tín dụng tăng quá nóng, không tương ứng với khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó, quy mô tín dụng sẽ phản ánh RRTD. Quy mô tín dụng thể hiện rõ qua các chỉ tiêu:

Dư nợ trên tổng tài sản = Tổng dư nợ/Tổng tài sản Dự nợ bình quân trên số lượng nhân viên tín dụng = Tổng dư nơ/Tổng số nhân

viên tín dụng bình quân

Số lượng khách hàng trên số lượng nhân viên tín dụng = Tổng số khách

hàng/Tổng số cán bộ tín dụng bình quân.

Nếu ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng theo hướng nới lỏng tín dụng cho các khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro là khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay… điều này sẽ gây rủi ro cho ngân hàng.

(2) Tăng trưởng tín dụng Nhiều nghiên cứu trước đây: Thiagarajan và cộng sự (2011), Laeven and Giovanni (2002)... đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với RRTD. Tuy

44

nhiên, không phải tất cả các ngân hàng có tăng trưởng tín dụng đều tiềm ẩn RRTD, chỉ có các ngân hàng có tăng trưởng vượt mức tăng trưởng tín dụng trung bình của từng quốc gia mới có nguy cơ RRTD (Daniel và cộng sự, 2010).

Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế = Tốc độ

tăng trưởng tín dụng/Tốc độ tăng trưởng kinh tế.

(3) Khả năng sinh lời và chỉ số an toàn vốn của hệ thống NHTM ROA, ROE,

CAR…

ROA - tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (Return on total assets), là chỉ tiêu đo

ROA =

lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng.

x 100% Lợi nhuận ròng Tài sản có bình quân

ROA là chỉ số lợi nhuận cho biết lợi nhuận ròng công ty đạt được từ một đồng đầu tư vào tổng tài sản. Đây là thước đo hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng vì mọi tài sản đều là những khoản đầu tư. Một mức ROA thấp là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không hiệu quả hoặc chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Ngược lại, mức ROA cao phản ánh ngân hàng sử dụng một cơ cấu tài sản hợp lý, chính sách kinh doanh và đầu tư tài sản hiệu quả.

ROE =

ROE - tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (Return on common equyty), là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.

x 100% Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu bình quân

Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn chủ sở hữu, nó cho biết một đơn vị

tiền tệ vốn chủ sở hữu bỏ tạo ra được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận ròng. ROE cao là mục tiêu tìm kiếm của bất kỳ người chủ sở hữu ngân hàng nào.

Đối với hệ số an toàn vốn CAR: Ủy ban Basel của BIS đã ban hành 3 hệ chuẩn mực, bao gồm Base I (1988), II (2004) và III (2010). Basel II đã có cách tiếp cận mới hơn về giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tài chính dựa trên 3 cột trụ chính: (1) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (2) tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng; và (3) tuân thủ kỷ luật thị trường. Theo đó, cơ sở giám sát an toàn không chỉ dựa trên các chỉ tiêu giám sát tuân thủ mà yêu cầu giám sát dựa trên cơ sở đo lường và dự báo mức độ rủi ro.

CAR =

Vốn ngân hàng

Tài sản có điều chỉnh rủi ro

45

(4) Cơ cấu tín dụng Cơ cấu tín dụng phản ảnh mức độ tập trung tín dụng trong một ngành nghề, lĩnh vực, loại tiền... do đó, tuy không phản ánh trực tiếp mức độ rủi ro, nhưng nếu cơ cấu tín dụng quá thiên lệch vào những lĩnh vực mạo hiểm, sẽ phản ánh RRTD tiềm năng [95].

(5) Ngưỡng định biên cảnh báo rủi ro Hệ thống cảnh báo sớm có thể được xem như một cơ chế chuyển đổi thông tin nội hàm trong các chỉ số kinh tế và tài chính thành thước đo xác suất xảy ra rủi ro trong tương lai. Hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng là công cụ hữu hiệu giúp các ngân hàng thương mại nhận biết và giảm thiểu tỷ lệ khách hàng nợ xấu, nợ quá hạn bằng cách đánh giá danh mục đầu tư thường xuyên, giúp duy trì chất lượng tín dụng. Đồng thời, hệ thống cảnh báo sớm cũng giúp các ngân hàng giảm thiểu những thiệt hại trong trường hợp có khách hàng gặp rủi ro, không thực hiện được các trách nhiệm tài chính với ngân hàng (trả lãi, trả gốc) bằng cách tăng giá trị tài sản đảm bảo cần thiết của những khoản nợ. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu, phát triển và áp dụng mô hình cảnh báo sớm rủi ro tín dụng còn hạn chế, tùy thuộc vào khẩu vị rủi ro, hệ thống thông tin giám sát của từng ngân hàng cũng như của toàn bộ hệ thống.

Để xác định ngưỡng cảnh báo sớm hay ngưỡng định biên cảnh báo rủi ro thì các nhà quản lý sẽ sử dụng phương pháp chỉ tiêu. Các nhà quản lý sẽ lựa chọn một số chỉ tiêu có ảnh hưởng trực tiếp và trọng yếu tới việc xảy ra RRTD. Các chỉ tiêu này sẽ được lựa chọn dựa trên các lý thuyết kinh tế hoặc dựa vào kinh nghiệm của nhà quản lý. Một khi các chỉ tiêu để dự báo được xác định, các nhà quản lý sẽ theo dõi chúng với tần suất cao (hàng ngày, hàng tuần hoặc hàng tháng) nhằm đưa ra những phân tích, cảnh báo mang tính định tính về những rủi ro tiềm ẩn, khoanh vùng những khu vực tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao. Việc xác lập các ngưỡng cảnh báo cho các chỉ tiêu này có thể dựa trên phương pháp chuyên gia (tự ấn định dựa trên kinh nghiệm) hoặc phương pháp định lượng. Sau đó, phân rủi ro thành các cấp độ cảnh báo khác nhau.

(6) Tỷ lệ cho vay/ huy động Trong thời gian gần đây, hệ thống ngân hàng áp dụng tỷ lệ an toàn trong so sánh mức độ cho vay so với nguồn vốn, góp phần phòng ngừa rủi ro thanh khoản và an toàn hoạt động. Tỷ lệ cho vay/tiền gửi quá cao cho thấy sức rướn vốn của ngân hàng bị kéo căng và khó đẩy mạnh cho vay thêm. Tỷ lệ này có điều chỉnh qua các giai đoạn khác nhau, cả về mức độ và nội hàm của quy định.

(7) So sánh Basel 1, 2

46

Basel 1 được thiết lập để quy định tỷ lệ vốn tối thiểu trên tài sản có rủi ro cho các ngân hàng trong khi Basel 2 được thiết lập để đưa ra trách nhiệm giám sát và tăng cường hơn nữa yêu cầu vốn tối thiểu và Basel 3 để thúc đẩy nhu cầu cho bộ đệm thanh khoản (một lớp bổ sung của vốn chủ sở hữu).

Basel 2 đã giới thiệu cách tiếp cận 3 trụ cột để quản lý rủi ro, trong khi đó Basel 1 có trọng tâm rủi ro tối thiểu. Basel 2 bao gồm một loạt các rủi ro bao gồm rủi ro hoạt động, chiến lược và danh tiếng, Basel 1 chỉ quan tâm đến RRTD.

* Các chỉ tiêu vi mô (1) Dự phòng RRTD Dự phòng rủi ro đánh giá khả năng chi trả của ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Mục đích của việc sử dụng dự phòng rủi ro của một ngân hàng là nhằm để bù đắp tổn thất đối với những khoản nợ của ngân hàng xảy ra trong trường hợp khách hàng không có khả năng chi trả do giải thể, phá sản, chết, mất tích, hoặc khi khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Dự phòng tín dụng được tính trên số dư nợ gốc của khách hàng bao gồm: (i) dự phòng cụ thể - để bảo hiểm rủi ro cụ thể cho từng khoản vay, và (ii) dự phòng chung - bảo hiểm các rủi ro chung không xác định trong danh mục tín dụng và toàn bộ dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp.

Chỉ tiêu này cho biết dự phòng RRTD được trích lập có khả năng bù đắp bao nhiêu với khoản nợ có khả năng mất vốn. Chỉ tiêu này được một số nghiên cứu sử dụng để đo lường RRTD, chỉ tiêu này là sự kết hợp của hai cách tính ở trên để tính RRTD Daniel và cộng sự (2010), Gizaw và cộng sự (2015)... Các chỉ số thể hiện dự phòng RRTD:

Tỉ lệ dự phòng RRTD = Dự phòng RRTD được trích lập Tổng dư nợ cho kỳ báo cáo

= Hệ số khả năng bù đắp các khoản vay bị mất Dự phòng RRTD được trích lập Dư nợ bị xóa

Hệ số bù đắp RRTD = Dự phòng RRTD được trích lập Dư quá hạn khó đòi

(2) Nợ quá hạn Theo Lê Thanh Huyền (2018), thông lệ và chuẩn mực quốc tế thì nợ quá hạn được định nghĩa là: “Một khoản nợ gốc hoặc lãi chậm thanh toán vượt quá số ngày tối thiểu được xác định theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng và phản ánh các thông lệ trong nước đối với loại hình nợ đó” [40]. Nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản phản ánh RRTD. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi đến thời hạn trả nợ theo cam kết,

47

người vay không có khả năng trả được nợ một phần hay toàn bộ khoản vay cho người cho vay. Nợ quá hạn được phản ánh qua 2 chỉ tiêu sau:

Tỷ lệ nợ quá hạn = Số dư nợ quá hạn Tổng dư nợ

= Số khách hàng có nợ quá hạn Tổng số khách hàng có dư nợ

Tỉ lệ khách hàng có nợ quá hạn trên tổng khách hàng có dư nợ Nếu ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ quá hạn lớn thì

ngân hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại.

(3) Nợ xấu Nợ xấu chính là các khoản tiền cho khách hàng vay, mà khó hoặc không thể thu hồi được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản, nợ phải trả tăng, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán... Nợ xấu sẽ phản ánh một cách rõ nét chất lượng tín dụng của ngân hàng thông qua việc đánh giá cả thời hạn quá hạn của khoản vay và tiêu chí đánh giá rủi ro của khoản vay. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu đã được một số các nghiên cứu (Berger and DeYoung (1997), Aduda and Gitonga (2011), Li and Zou (2014)...) sử dụng để đánh giá RRTD của ngân hàng. Nợ xấu được phản ánh rõ nhất qua các chỉ số: Tỉ lệ nợ xấu = Nợ xấu/ Tổng dư nợ, Tỉ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu = Nợ xấu/Vốn chủ sở hữu, Tỉ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất = Nợ xấu/Quỹ dự phòng tổn thất 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định tính Hiệu quả của hoạt động QLNN nói chung và QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM có thể được đo thông qua đánh giá chủ quan của các đối tượng liên quan, cụ thể ở đây gồm: NHNN và các cơ quan trực thuộc liên quan, các NHTM và các chuyên gia. Trong phạm vi luận án này, tác giả lựa chọn đối tượng đánh giá là các NHTM; vì đây vừa là - đối tượng quản lý chịu sự điều chỉnh tuân thủ theo các hoạt động QLNN; vừa là đối tượng thực hiện các chính sách của hoạt động QLNN đến khách hàng cuối cùng là người vay vốn, qua đó đảm bảo an toàn tính dụng và phát triển bền vững của chính các NHTM và của cả hệ thống ngân hàng nói chung - vốn là mục đích điều chỉnh của các hoạt động QLNN. Để đánh giá hiệu quả của hoạt động QLNN, mô hình 3Es được áp dụng phổ biến trên thế giới với ba tiêu chí: tính kinh tế (economy), hiệu quả (efficiency), hiệu suất (effectiveness) (Boyne, 2002; OECD, 2005, 2011; Walker và cộng sự, 2010; Walker và Andrews, 2013). Tại Việt Nam, các tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả hoạt động QLNN gồm: tính hiệu lực hay tuân thủ, hiệu quả, phù hợp (Nguyễn Thị Ngọc Diễm, 2018; Trần Đình Thắng, 2019) [100].

48

Trong luận án này, tác giả kết hợp sử dụng 4 tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt

động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Cụ thể gồm:

Thứ nhất, là tính hiệu lực hay tuân thủ: Đây là tiêu chí phản ánh mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối quan hệ giữa nhà nước với các NHTM liên quan đến quản lý RRTD trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa rộng, tính hiệu lực hay tuân thủ để đánh giá hiệu quả hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM chú trọng trả lời hai câu hỏi: Các mục tiêu của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM có thể hiện được tính đúng đắn hay không? Và, mức độ thực hiện mục tiêu có cao không? Theo nghĩa hẹp, hiệu lực QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM được đo lường thông qua việc so sánh giữa kết quả của việc thực hiện các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM với các mục tiêu đã đề ra.

Thứ hai, là tính hiệu quả, thể hiện qua đánh giá về sự tương quan giữa chi phí của hoạt động QLNN với chất lượng QLNN đề ra đối với RRTD trong hoạt động của NHTM. Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả tối đa với mức chi phí tối thiểu trong hoạt động quản lý RRTD của các NHTM. Hiệu quả của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phản ánh năng suất lao động, hiệu suất sử dụng kinh phí của bộ máy QLNN trong việc QLRR của các NHTM. Hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM được đánh giá thông qua các hoạt động QLNN để hoàn thành các mục tiêu QLRR của NHTM với chi phí thấp nhất. Ngoài ra, hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM còn được đo lường thông qua các lợi ích về mặt KT-XH mà việc QLRR của các NHTM mang lại cho ngân hàng, dân cư và xã hội.

Thứ ba, sự công bằng, trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thì việc triển khai các nội dung quản lý phải đảm bảo tính cân đối về quyền và nghĩa vụ giữa các NHTM. Mỗi NHTM đều chịu những điều chỉnh chung của pháp luật liên quan đến quản lý RRTD... không phân biệt quy mô, hình thức sở hữu... Việc đảm bảo tính công bằng thể hiện qua việc ban hành các văn bản quản lý, hướng dẫn các NHTM về quyền hạn và nghĩa vụ của họ đối với quản lý RRTD và phối hợp với NHNN trong quản lý RRTD nói chung.

Thứ tư, là sự phù hợp: Sự phù hợp của hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM bao gồm sự phù hợp của các mục tiêu định hướng QLRR; sự phù hợp trong quy định của pháp luật liên quan; phù hợp về nội dung và phương pháp điều hành; sự phù hợp về nội dung, phương thức, hình thức kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý RRTD của các NHTM. Tính phù hợp của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM được đo lường thông qua sự phù hợp của các yếu tố

49

liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM như: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về RRTD của NHTM, bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực QLRR của các NHTM, mục tiêu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM... có phù hợp với các yêu cầu QLRR của các NHTM không? Xem xét mục tiêu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM có phù hợp với các mục tiêu phát triển KT- XH của đất nước hay không?

2.2.4. Công cụ và phương pháp quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng

trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

2.2.4.1. Công cụ quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động

của các ngân hàng thương mại

Công cụ QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là tập hợp những phương tiện mà NHNN sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý về RRTD của NHTM nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. NHNN thông qua các công cụ quản lý này để chuyển tải ý định và ý chí của mình đến các NHTM hoạt động trong nền kinh tế [22]. Hiện nay, có năm nhóm công cụ chính để QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, bao gồm: (i) Nhóm công cụ thể hiện mục tiêu quản lý gồm: Chủ trương, đường lối phát triển ngành ngân hàng; Chiến lược phát triển ngành ngân hàng; Quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành ngân hàn; các chương trình quản lý đối với RRTD; (ii) Nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các NHTM bao gồm hệ thống các văn bản quản lý như luật, các văn bản hướng dẫn...; (iii) Nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các RRTD của NHTM bao gồm các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; các chính sách về hội nhập; các chính sách đối với thị trường tài chính... (iv) Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào các NHTM gồm: ngân sách và các quỹ chuyên dùng trong quản lý RRTD, và (v) Nhóm công cụ để sử dụng các công cụ trên gồm hệ thống các cơ quan quản lý và các phương pháp kinh tế [22]. Các công cụ quản lý trên được NCS phân tích và đánh giá lồng ghép trong thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại chương 3.

2.2.4.2. Phương pháp quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt

động của các ngân hàng thương mại

Phương pháp QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là cách thức mà NHNN sử dụng đối với đối tượng quản lý là các NHTM nhằm đạt được những mục đích đã định trước liên quan đến RRTD của NHTM. Có nhiều cách thức tác động đến RRTD của NHTM. Cụ thể, NHNN có thể tác động trực tiếp, gián tiếp, để NHTM tự giác thực hiện yêu cầu, hoặc bắt buộc các NHTM phải thực hiện [33].

50

Hiện nay, có một số phương pháp được áp dụng phổ biến trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, đó là: phương pháp hành chính, phương pháp cưỡng chế nhà nước, phương pháp thuyết phục, phương pháp kinh tế, phương pháp quản lý tác nghiệp, phương pháp quản lý có mục tiêu, phương pháp kiểm tra… [22]. Các phương pháp quản lý trên được NCS phân tích và đánh giá lồng ghép trong thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại chương 3.

Gắn với lĩnh vực ngân hàng hoạt động giám sát tiến hành thông qua giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô, trong đó giám sát an toàn vi mô được hiểu là hình thức giám sát an toàn đối với từng NHTM riêng lẻ và giám sát an toàn vĩ mô là hình thức giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các NHTM (giám sát an toàn hệ thống). Đây là hai hình thức giám sát không thể tách rời nhau, sẽ là không đầy đủ nếu chỉ xem xét, đánh giá mức độ an toàn, lành mạnh của toàn bộ hệ thống các NHTM theo các phân tích tổng hợp mà không xem xét tới từng NHTM riêng lẻ do đặc điểm lan truyền rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ở chiều ngược lại, việc chỉ xem xét, đánh giá từng NHTM sẽ không có được cái nhìn hệ thống, phân tích tác động của hoạt động ngân hàng lên nền kinh tế để từ đó có các quyết sách đúng đắn vừa thúc đẩy, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo an toàn hệ thống.

Gắn với hình thức giám sát trên thì trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động

của các NHTM có tương ứng phương pháp giám sát phù hợp:

- Phương pháp giám sát tuân thủ: Đây là phương pháp mà NHTƯ sử dụng để kiểm tra và theo dõi việc tuân thủ của các NHTM về quy định pháp luật liên quan tới an toàn hoạt động ngân hàng. Theo đánh giá của các chuyên gia của Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức (GIZ) thì phương pháp tuân thủ thường được dùng ở những giai đoạn mà hoạt động ngân hàng đơn thuần là những hoạt động truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phát triển, số lượng ngân hàng chưa nhiều.

- Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro: Đây là phương pháp được xây dựng dựa trên việc giám sát hoạt động chung của NHTM thông qua việc đánh giá các loại rủi ro mà NHTM đang và sẽ gặp phải như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro pháp lý…

Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro thường được áp dụng tại các quốc gia mà hoạt động ngân hàng tương đối phát triển, hoạt động ngân hàng không còn bao gồm các hoạt động truyền thống mà còn mở rộng các loại hoạt động và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Theo các chuyên gia ngân hàng, phương pháp này đòi hỏi phải có một sự phát triển đồng bộ về hệ thống cơ sở pháp lý, về hệ thống quản lý thông tin, các công cụ định lượng và trình độ của cán bộ giám sát ngân hàng, đặc biệt là khả năng phân tích và sử dụng các công cụ định lượng.

51

2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với rủi

ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại 2.2.5.1. Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô Môi trường vĩ mô ổn định thúc đẩy hiệu quả hoạt động và sự tăng trưởng của các NHTM; từ đó hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM được giảm bớt áp lực và khó khăn. Ngược lại, sự bất ổn của môi trường vĩ mô có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính ổn định và sự phát triển của các NHTM, làm tăng áp lực cho hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(1) Thể chế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ: Tính ổn định của thế chế có ý nghĩa quan trọng với hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, từ đó tác động đến hiệu quả của hoạt động này, đặc biệt là trong dài hạn (Bhattarai, 2016). Cụ thể, tính ổn định và hiệu quả của thể chế có thể ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất quản lý, đóng góp trực tiếp vào hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Mặt khác, môi trường thể chế ổn định trực tiếp ảnh hưởng tích cực đến điều kiện HĐKD của các NHTM và các doanh nghiệp trong nền kinh tế, qua đó giảm áp lực cho hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, giúp hoạt động này trở nên hiệu quả hơn.

(2) Môi trường pháp lý: Hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM chịu tác động mạnh mẽ của môi trường pháp lý liên quan. Nếu môi trường pháp lý phù hợp sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, ngược lại nếu môi trường pháp lý không phù hợp sẽ cản trở, kìm hãm hoạt động này. Do đó, môi trường pháp lý là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(3) Môi trường kinh tế: Tình trạng phát triển của nền kinh tế (còn gọi là tính chu kỳ của nền kinh tế) có ảnh hưởng trực tiếp đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Các nghiên cứu của Fisher (1933), Minsky (1986), Kiyotaki và Moore (1997) chỉ ra rằng giai đoạn mở rộng của nền kinh tế được đặc trưng bởi một số lượng tương đối ít các RRTD, trong đó người tiêu dùng và các doanh nghiệp đi vay phải bảo đảm có một dòng thu nhập đầy đủ cùng các khoản thu khác để trả nợ. Tuy nhiên, trong thời kỳ bùng nổ tiếp theo, tín dụng được mở rộng hơn, kể cả đối với các khoản nợ chất lượng thấp hơn, kéo theo tình trạng nợ xấu gia tăng khi đến giai đoạn suy thoái kinh tế. Từ đó ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM [132].

(4) Xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng: Chuyển đổi số trong các ngành kinh tế là xu hướng tất yếu ngày nay và ngân hàng nằm trong những lĩnh vực dẫn đầu xu hướng này. Bởi vậy, những rủi ro tiềm ẩn trong quá trình chuyển đổi

52

số cần phải được kiểm soát và quản lý nghiêm ngặt, nếu không những rủi ro, tiềm ẩn này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến QTRR của các NHTM qua đó tác động trực tiếp đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(5) Nhu cầu tín dụng của thị trường: Các nghiên cứu chỉ ra rằng các QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM chịu tác động đáng kể của việc tăng trưởng tín dụng một cách nhanh chóng. Tăng trưởng tín dụng nóng quá nhanh sẽ gắn liền với RRTD tăng cao. Sinkey và Greenwalt (1991) nghiên cứu các NHTM lớn ở Mỹ và phát hiện ra rằng việc cho vay quá nhiều chính là lý do giải thích tỷ lệ tăng trưởng của các khoản nợ rủi ro cao, gây khó khăn cho QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Salas và Saurina (2002), nghiên cứu hệ thống các ngân hàng Tây Ban Nha, cũng khẳng định lại kết luận trên.

(6) Hệ thống tài chính thế giới: Hệ thống tài chính toàn cầu đã phát triển đáng kể từ cuối thế kỷ 19 cho đến những làn sóng đầu tiên của toàn cầu hóa kinh tế, được đánh dấu bằng việc thành lập các NHNN, các hiệp ước đa phương và các tổ chức liên chính phủ để cải thiện tính minh bạch và hiệu quả của thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên, do những biến động về thâm hụt thơng mại, sụt giảm đầu tư và tiêu dùng làm cho thị trường tài chính không ổn định (thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường vốn khó khăn, thị trường tiền tệ không an toàn). Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tất cả các quốc gia đề cao nhiệm vụ đảm bảo ổn định hệ thống tài chính thế giới, từ đó làm gia tăng áp lực lên hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(7) Xu thế hội nhập toàn cầu của NHTM vào hệ thống tài chính thế giới: Xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng trên lĩnh vực kinh tế nói chung, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng là tất yếu. Xu thế hội nhập của các NHTM vào hệ thống tài chính thế giới cũng có ảnh hưởng lớn đến tình hình tăng giảm nợ xấu cũng như các yêu cầu trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(8) Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương: Ngoài chức năng là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN còn có chức năng quản lý các hoạt động liên quan đến tiền tệ - ngân hàng. Vì vậy, tính độc lập của NHNN trong công tác hoạch định và thực thi các CSTT có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Cụ thể nhất là chính sách lãi suất của NHNN, Asfaw và các cộng sự (2016) chi ra rằng lãi suất cho vay cao sẽ kéo theo sự gia tăng nợ xấu, cụ thể lãi suất cho vay cao đồng nghĩa với việc khách hàng sẽ phải chi trả khoản lãi lớn, dễ rơi vào nguy cơ mất khả năng thanh toán.

53

(9) Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng: Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng có tác động đáng kể đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Hiện trạng phát triển của các NHTM là căn cứ để các cơ quan quản lý có thẩm quyền nói chung, NHNN nói riêng hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến nợ xấu của NHTM; đây cũng là căn cứ để cơ quan quản lý có thẩm quyền nói chung, NHNN nói riêng đề ra các biện pháp QLRR của các NHTM cho từng thời kỳ nhất định.

(10) Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN: Trong thời gian gần đây, NHNN của các quốc gia ngày càng tăng cờng triển khai hiệu quả các hoạt động quản lý và kiểm soát nợ xấu của các NHTM. Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN tác động mạnh mẽ đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Trong bối cảnh phát triển thị trường tài chính như hiện nay, trình độ và năng lực quản lý tín dụng của NHNN càng cao sẽ càng nâng cao hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Chính vì vậy, bên cạnh trình độ chuyên môn, các NHNN cần nỗ lực cải thiện năng lực quản lý tín dụng của đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm về QLRR của các NHTM.

2.2.5.2. Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô Hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phụ thuộc

nhiều vào các yếu tố nội tại của các NHTM, cụ thể nh sau:

(1) Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM: Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng liên quan đến quy trình nghiệp vụ ngân hàng, hoạt động thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro; kiểm tra, giám sát trước, trong và sau cho vay; xử lý RRTD… Việc chú trọng hoàn thiện cơ chế quản lý tín dụng của các NHTM giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời các sai phạm liên quan đến HĐTD, từ đó ngăn ngừa rủi ro và giảm khó khăn cho hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

(2) Trình độ công nghệ của NHTM: Hệ thống công nghệ của NHTM góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả của công tác QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Nhờ công nghệ hiện đại, các NHTM có thể khai thác một cách đột phá cả về số lượng và chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, từ đó khẳng định được uy tín của ngân hàng. Đồng thời, công nghệ hỗ trợ hoạt động quản lý nội bộ trong ngân hàng, nâng cao tính chặt chẽ và hiệu quả; nhờ vậy công tác QTRR của các ngân hàng tốt hơn.

54

(3) Nguồn nhân lực của NHTM: Theo đánh giá của Bhattarai (2016), chất lượng đội ngũ cán bộ có tác động trực tiếp đến tình hình nợ xấu của ngân hàng cũng như hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Đặc biệt, năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Năng lực và trình độ của các nhà lãnh đạo ngân hàng yếu kém sẽ dẫn đến việc đưa ra các quyết định cho vay sai lầm, từ đó làm suy giảm chất lượng tín dụng ngân hàng.

(4) Quy mô ngân hàng và cơ cấu sở hữu của NHTM có sự tham gia của nhà nước: Quy mô ngân hàng có tác động đến RRTD theo cả chiều hướng tích cực (Rajan và Dhal, 2003) và tiêu cực (Salas và Saurina, 2002; Hu và các cộng sự, 2006), từ đó cũng có ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM (Viswanadham và Nahid, 2015). Cole và các cộng sự (2004) chỉ ra rằng việc tiến hành các hoạt động bảo lãnh cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng nhỏ có tỷ lệ rủi ro cao hơn so với các ngân hàng lớn, đồng thời các ngân hàng nhỏ thường xuyên phát hành tín dụng cho các công ty nhỏ khó khăn thiếu dữ liệu tài chính cũng phải đối mặt với rủi ro cao hơn là khi cho các doanh nghiệp lớn vay. Rajan và Dhal (2003), cũng khẳng định quy mô của các ngân hàng đóng một vai trò đáng kể đối với sự xuất hiện của nợ xấu, từ đó tác động đến công tác QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Ngoài ra, cơ cấu vốn chủ sở hữu trong NHTM cũng là yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Hu và các cộng sự (2006) đi sâu phân tích mối liên hệ giữa tình trạng nợ xấu với cơ cấu sở hữu trong ngân hàng, theo đó những ngân hàng có sở hữu nhà nước cao hơn được ghi nhận là có nợ xấu ít hơn các ngân hàng khác và giảm bớt áp lực lên hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học rút ra trong quản lý nhà

nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

2.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý nhà nước đối với rủi

ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Chính sách tín dụng là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hoặc hạn chế tín dụng để đạt mục tiêu đã được hoạch định và hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong HĐKD tín dụng. Chính vì vậy, trong HĐKD tín dụng, đã xây dựng mục tiêu của chính sách tín dụng là lợi nhuận, an toàn và lành mạnh. Mỗi quốc gia và khu vực đều có những thế mạnh trong quản lý RRTD từ góc độ quản lý nhà nước. Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ là những quốc gia, tổ chức có hệ thống pháp luật, chính sách về quản lý RRTD hoàn thiện từ rất sớm, việc vận dụng

55

triển khai tại đây được đánh giá là hiệu quả kể từ sau khi có khủng hoảng tài chính 2009 ở Hoa Kỳ như chú trọng việc thẩm định khoản vay hơn là việc kiểm soát khoản vay; tránh sử dụng những đơn vị môi giới... Bên cạnh đó, việc lựa chọn nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Nhật Bản là cần thiết vì những thành tựu trong triển khai quản trị RRTD hữu hiệu của các NHTM tại nước này với những mô hình riêng có đó là rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng gắn liền với rủi ro của nền kinh tế và hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế Nhật Bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đối với Trung Quốc là quốc gia mà Việt Nam có sự tương đồng rất nhiều về hệ thống pháp luật, chính sách về tín dụng nói chung và quản lý RRTD nói riêng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù khác nhau về quy mô nhưng được đánh giá là có nhiều điểm tương đồng như: Đều phát triển từ ngân hàng một cấp; các ngân hàng thương mại nhà nước (do chính phủ nắm phần lớn cổ phần) chi phối thị trường ngân hàng, tỷ lệ tín dụng chảy vào khu vực doanh nghiệp nhà nước (SOEs) lớn gắn liền với cơ chế cho vay chính sách… Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những điều kiện tiền đề và định hướng cải cách tương tự nhau.

2.3.1.1. Kinh nghiệm Liên minh châu Âu Tại Châu Âu, Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) là ngân hàng được thành lập để giám sát chính sách tiền tệ tại các quốc gia thuộc Cộng đồng Châu Âu chấp nhận đồng tiền chung Châu Âu: Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Ngân hàng Trung ương Châu Âu điều phối chính sách với các ngân hàng trung ương của 11 quốc gia tham gia trong khu vực đồng Euro. Tổng thể ECB và các ngân hàng trung ương của các quốc gia Châu Âu tạo thành Hệ thống Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ESCB). Bản thân ECB được điều hành bởi ủy ban Thống đốc, mà những thành viên đến từ ban quản trị và các thống đốc ngân hàng của các ngân hàng trung ương quốc gia. Ban điều hành của ECB gồm chủ tịch ngân hàng, phó chủ tịch và bốn thành viên được bổ nhiệm, phục vụ trong nhiệm kỳ lên đến tám năm. Trong giai đoạn vừa qua, việc quản lý đối với RRTD của ECB được triển khai liên tục do những tác động từ bối cảnh của sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) và Ngân hàng Signature (SB) tại Mỹ vào tháng 3/2023, và sau đó là việc Credit Suisse - ngân hàng lớn thứ hai của Thụy Sĩ và là một trong những ngân hàng lớn nhất của châu Âu. Sự sụp đổ này đến từ cộng hưởng của ba yếu tố: thua lỗ liên tục trong nhiều năm, mất niềm tin của nhà đầu tư, và gia tăng tâm lý một cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng ở toàn cầu. Trong khi đó, kinh tế phục hồi chậm do tác động của đại dịch và xung đột, căng thẳng địa chính trị (xung đột Nga - Ukraine), từ đó đưa hệ thống các

56

NHTM vào bẫy thanh khoản - tức là tăng trưởng chậm, lạm phát cao. Những năm gần đây, ECB duy trì mức lãi suất thấp, thúc đẩy hoạt động kinh tế, chi tiêu tiêu dùng, kinh tế khu vực đã có tín hiệu tích cực. ECB cũng đã thành công khi ổn định tỷ lệ lạm phát dưới mức 2% (tỷ lệ lạm phát trong Eurozone trung bình trong 20 năm qua là 1,7%/năm. Trong quá trình quản lý RRTD, những thành công chủ yếu của ECB được thể hiện:

Một là, xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của NHTM: ECB sử dụng pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật là khuôn khổ để quản lý HĐTD của các NHTM. Văn bản có vai trò quan trọng hỗ trợ việc thiết lập một khuôn khổ chung trên các hệ thống ngân hàng EU để nhận biết, phân loại và đánh giá RRTD đó là dự thảo hướng dẫn của Cơ quan Ngân hàng Châu Âu (European Banking Authority) từ năm 2014 (European Banking Authority, 2014, 2016a, 2016b). Các tiêu chuẩn này cung cấp các tiêu chí hài hòa để xác định các khoản nợ xấu, tăng cường tính minh bạch của RRTD được thực hiện bởi các ngân hàng châu Âu [141]. Ngày 11/07/2017, Hội đồng châu Âu (European Council) đã đồng ý một kế hoạch hành động để giải quyết vấn đề RRTD (chủ yếu là nợ xấu) trong lĩnh vực ngân hàng, dựa trên các khuyến nghị trong báo cáo của Ủy ban Dịch vụ Tài chính. Kế hoạch hành động bao gồm các giải pháp chính sách, pháp luật nhằm giảm nợ xấu và ngăn chặn xuất hiện trong tương lai. Về xử lý nợ xấu, tái cơ cấu, Nghị viện và Hội đồng Châu Âu ban hành Chỉ thị 2014/59/EU ngày 15/5/ 2014 thiết lập khuôn khổ tái cơ cấu và xử lý các tổ chức tín dụng và công ty đầu tư (BRRD). Chỉ thị BRRD được thông qua vào mùa xuân năm 2014 nhằm cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền các thỏa thuận toàn diện và hiệu quả để xử lý các ngân hàng đổ vỡ ở cấp quốc gia, các thỏa thuận hợp tác để giải quyết các vụ đổ vỡ ngân hàng xuyên biên giới [141].

Hai là, ban hành quy định về quản lý RRTD trong HĐTD của NHTM: Ủy ban châu Âu xác định rõ vai trò của chiến lược xử lý RRTD, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong HĐTD của NHTM. Ủy ban châu Âu tập trung đề xuất các phương án để đưa ra mức dự phòng tối thiểu cho các khoản nợ xấu trong tương lai. Trong đó đặc biệt đề xuất quy định về dự phòng tổn thất tối thiểu đối với các khoản vay mới không hiệu quả. Sự hỗ trợ này bao gồm hai yếu tố chính: (i) yêu cầu các ngân hàng phải chi trả đến mức tối thiểu chung cho các khoản lỗ phát sinh và dự kiến đối với các khoản vay mới không hiệu quả (yêu cầu dự phòng tối thiểu) và (ii) khi yêu cầu dự phòng tối thiểu không được đáp ứng, một khoản khấu trừ chênh lệch giữa dự phòng thực tế và dự phòng tối thiểu sẽ được thực hiện.

Ba là, tổ chức kiểm tra, giám sát RRTD của các NHTM: Ủy ban châu Âu chú trọng cải thiện tính khả dụng và khả năng so sánh của dữ liệu liên quan đến RRTD

57

của các NHTM (Magnus và cộng sự, 2018). Trên cơ sở kết quả kiểm tra, giám sát RRTD của các NHTM, các chiến lược quản lý RRTD được đưa ra, về cơ bản, ECB xác định bốn thành phần cơ bản, đó là: (1) Đánh giá môi trường hoạt động, (2) phát triển chiến lược, (3) Thực hiện kế hoạch hành động, và (4) Đưa chiến lược vào quy trình quản lý ở các cấp độ. Trong tương lai, Ủy ban châu Âu sẽ cho phép những nhà giám sát ngân hàng nhiều quyền hạn hơn để họ có thể tích cực thúc đẩy các ngân hàng giải quyết vấn đề RRTD nhiều năm qua.

Bốn là, xử lý RRTD của NHTM: NHNN Châu Âu có thể buộc các ngân hàng tăng vùng đệm đối với các khoản nợ xấu hiện tại. Các ngân hàng cũng có thể buộc phải tự động trích thêm vốn cho các khoản vay mới khi thấy mức nợ xấu vượt quá mức chấp nhận được [141]. Về xử lý nợ xấu, tái cơ cấu, Nghị viện và Hội đồng Châu Âu ban hành Chỉ thị 2014/59/EU ngày 15/5/ 2014 thiết lập khuôn khổ tái cơ cấu và xử lý các tổ chức tín dụng và công ty đầu tư. Đồng thời, trao cho các cơ quan chính quyền quốc gia quyền hạn để đảm bảo giải quyết có trật tự các ngân hàng đổ vỡ với chi phí tối thiểu cho người nộp thuế. Chỉ thị bao gồm các quy tắc để thiết lập một quỹ giải quyết quốc gia phải được thành lập bởi mỗi quốc gia thành viên EU. Tất cả các tổ chức tài chính phải đóng góp vào các quỹ này. Các khoản đóng góp được tính toán trên cơ sở quy mô và hồ sơ rủi ro của tổ chức. Các quy tắc xử lý ngân hàng của EU đảm bảo rằng các cổ đông và chủ nợ của ngân hàng phải trả phần chi phí của họ thông qua cơ chế “bảo lãnh”. Nếu điều đó là chưa đủ, các quỹ xử lý quốc gia được thành lập theo Chỉ thị 2014/59/EU ngày 15/5/ 2014 có thể cung cấp các nguồn lực cần thiết để đảm bảo rằng một ngân hàng có thể tiếp tục hoạt động trong khi đang được tái cấu trúc.

2.3.1.2. Kinh nghiệm Trung Quốc Tại Trung Quốc, quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của nước này đã diễn ra từ thập niên 1990 và cho đến nay quá trình này vẫn còn tiếp diễn. Trong giai đạn 2010-2022, hoạt động tín dụng tại Trung Quốc xuất hiện nhiều rủ ro mà nguyên nhân của những rủi ro này xuất phát từ: dư nợ tín dụng tăng quá nhanh, trong khi cho vay những lĩnh vực ngoài thị trường truyền thống và dựa vào thế chấp, người bảo lãnh, danh tiếng - là những nguồn trả nợ thứ yếu - mà không đánh giá nguồn trả nợ chính; trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng có nhiều hạn chế so với tiêu chuẩn; coi nhẹ các tiêu chuẩn an toàn tín dụng, như: cho vay với kỳ vọng tài sản hình thành từ vốn vay sẽ có giá trị cao (tuy nhiên tình trạng sốt và giảm giá nhà đất nghiêm trọng ở Thượng Hải gần đây đã làm cho sự kỳ vọng vô nghĩa, giá bất động sản sụt giảm, trị giá thế chấp không đủ bù đắp khoản vay, thanh khoản kém, nguy cơ không trả được nợ là rất lớn); Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản thế chấp quá cao;

58

Cho vay đảm bảo bằng chính cổ phiếu ngân hàng mình; Cơ cấu khoản vay kém hiệu quả, cho vay quá khả năng chi trả; Không văn bản hoá thoả thuận cụ thể về mục đích và cách sử dụng khoản vay, kế hoạch nguồn trả nợ…

Để thực hiện quản lý đối với RRTD trong hoạt động ngân hàng, Chính phủ

Trung Quốc đã thực hiện:

Một là, xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của NHTM: Trung Quốc từng bước cải cách khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý RRTD. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy chế mua cổ phần tại các định chế tài chính Trung Quốc của các định chế tài chính nước ngoài, Quy định các tiêu chuẩn về quy mô tài sản, mức vốn và khả năng sinh lời cũng như giới hạn tối đa được mua cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Hai là, ban hành quy định về đo lường RRTD trong HĐTD của NHTM: Trong quản lý RRTD, Trung Quốc yêu cầu ngành Ngân hàng của quốc gia này phải tuân thủ 4 nguyên tắc sau: (i) Đáp ứng các yêu cầu quản lý RRTD trong khuôn khổ tối ưu hoá hiệu suất NHTM; (ii) Thúc đẩy cải cách ngân hàng, cạnh tranh thị trường công bằng và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc; (iii) Tuân thủ các cam kết WTO và tiếp tục mở cửa khu vực ngân hàng nội địa; (iv) Triển khai hoạt động cho vay phải thận trọng để có thể đảm bảo an ninh tài chính cũng như duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, NHNN Trung Quốc thực hiện các nguyên tắc cơ bản về thanh tra ngân hàng hiệu quả do Ủy ban Basel về thanh tra ngân hàng đề ra để tăng cường tính hiệu quả và minh bạch của các khoản cho vay.

Ba là, tổ chức kiểm tra, giám sát RRTD của các NHTM: Hệ thống quản lý giám sát tài chính Trung Quốc đảm nhiệm chức năng phát triển thị trường tài chính và nền kinh tế bao gồm NHTW Trung Quốc và 3 cơ quan song song quản lý định chế bao gồm Ủy ban giám sát chứng khoán Trung Quốc (CSRC), Ủy ban giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC), Ủy ban giám sát bảo hiểm Trung Quốc (CIRC). Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc chịu trách nhiệm quản lý sự hoạt động và các định chế tài chính trên toàn lãnh thổ. Trung Quốc tích cực sử dụng các phương pháp kiểm tra, giám sát hệ thống để đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Các cơ quan giám sát ngân hàng và bảo hiểm của Trung Quốc đã được sáp nhập để có thể giải quyết tốt hơn vấn đề RRTD cũng như nhiều thách thức trong HĐTD.

Bốn là, xử lý RRTD của các NHTM: Chính phủ Trung Quốc tiến hành mua lại nợ xấu của các NHTM. Hoạt động này góp phần tạo vốn cho các NHTM, đồng thời kích thích đầu tư để tái hoạt động nền kinh tế. Nhờ vậy, các NHTM yếu kém có thể khắc phục được các vấn đề thanh khoản tạm thời, mở ra cơ hội tái cấu trúc hệ

59

thống. Công tác QLNN về RRTD tại Trung Quốc chú trọng vào việc xử lý các NHTM khi có với RRTD vượt ngưỡng trong HĐTD. Hoạt động này góp phần hạn chế sự xuất hiện của RRTD trong tương lai. Các công ty AMC của Trung Quốc là nhân tố quan trọng trong việc xử lý RRTD tại quốc gia này. Đây là các doanh nghiệp tài chính độc lập nhà nước do Bộ Tài chính bỏ vốn thành lập. Khác với các công ty AMC nước ngoài, AMC Trung Quốc có đặc điểm đa mục tiêu, vừa xử lý RRTD, vừa phải duy trì nền tài chính ổn định, và thúc đẩy cải cách hệ thống ngân hàng.

2.3.1.3. Kinh nghiệm Nhật Bản Hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế Nhật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi nền kinh tế có vấn đề thì ngành kinh doanh ngân hàng cũng không thể hoạt động tốt được. Cho dù ngân hàng đóng vai trò hỗ trợ đối với các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ, nhưng hệ thống ngân hàng cũng có thể làm tình hình xấu hơn và trì trệ sự ổn định của nền kinh tế nếu bản thân ngân hàng cũng gặp khó khăn. Thực tế hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhật Bản cho thấy việc cho vay không chặt chẽ cùng với chính sách mở rộng quá tham vọng càng được kích thích thêm do cạnh tranh trên thị trường là kết quả gây ra thua lỗ của ngân hàng. Mặt khác, do không có kinh nghiệm với những khoản vay bị thất thoát nghiêm trọng trước đây nên các ngân hàng Nhật không biết cách quản lý khi có phát sinh lãi lỗ tín dụng. Các ngân hàng không hiểu rõ hậu quả nghiêm trọng của việc trì hoãn những biện pháp dứt khoát đối với các khách hàng vay có rủi ro, do đó mức lỗ lãi của ngân hàng không thể được giải quyết nhanh chóng và với phí tổn thấp hơn. Nói cách khác, ngân hàng nên chủ động trong việc đánh giá một khách hàng có tiềm năng rủi ro trong tương lai gần và xa, từ đó có biện pháp xử lý càng sớm càng tốt. Ngoài ra, thực tế ở Nhật cũng cho thấy, nếu mức lỗ của ngân hàng vượt quá khả năng của các ngân hàng thương mại, Nhà nước sẽ dùng các nguồn quỹ quốc gia để can thiệp và tất yếu Ban điều hành các ngân hàng cũng phải được thay thế.

Một là, xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của NHTM: Xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của NHTM là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất nhằm quản lý tốt RRTD tại Nhật Bản. Hệ thống chính sách liên quan đến quản lý RRTD tại quốc gia này được ban hành bởi NHNN Nhật Bản (Bank of Japan - BOJ). Cơ quan này thiết lập một Hội đồng chính sách với 9 thành viên và không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này. Với quy trình ban hành chính sách như vậy, hệ thống pháp lý liên quan đến QLRR của Nhật Bản đảm bảo được tính minh bạch và rõ ràng (Matsubayashi, 2015).

Hai là, quản lý RRTD: Tại Nhật Bản, trong HĐTD và quản lý RRTD, BOJ yêu cầu các NHTM phải áp dụng những tiêu chuẩn quy định quốc tế như Basel II,

60

III. Các ngân hàng tại quốc gia này thường xuyên phân loại nợ một cách khắt khe và cẩn trọng. Bên cạnh đó, các ngân hàng của Nhật Bản cũng tích cực công khai số liệu nợ xấu thực tế và quyết liệt xử lý chúng để góp phần đảm bảo tính bền vững của thị trường tài chính trong nước (Matsubayashi, 2015). Đáng chú ý, các quy định về RRTD và chuẩn mực nợ xấu trong HĐTD của NHTM của Nhật Bản được ban hành và tuyên truyền rộng rãi. Vì vậy, nhận thức xã hội về vai trò của xử lý RRTD tại Nhật Bản nhìn chung rất cao. Nhờ đó, người dân tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo.

Ba là, tổ chức kiểm tra, giám sát RRTD của các NHTM: NHNN Nhật Bản coi công tác kiểm tra, giám sát RRTD nhằm giúp kịp thời phát hiện, ngăn chặn và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình cấp tín dụng và quản lý thu hồi nợ của các NHTM trong nước. Tổ chức kiểm tra, giám sát RRTD còn nhằm phát hiện và ngăn chặn những sai phạm về đạo đức, sự lạm dụng quyền lực và tư lợi cá nhân có thể xảy ra ở các cán bộ tín dụng của NHTM, từ đó ngăn chặn những thiệt hại có nguy cơ xảy ra đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng [105].

Bốn là, xử lý RRTD của các NHTM: Để xử lý RRTD của các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong HĐTD, Nhật Bản thành lập Công ty chuyên thu hồi nợ (RCC) để mua nợ. Đồng thời, Cơ quan tái thiết công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) cũng được thành lập để tái cơ cấu lại các doanh nghiệp quan trọng. Toàn bộ số tiền thành lập IRCJ là của các ngân hàng đóng góp chứ không phải từ Nhà nước (Trịnh Thị Thủy, 2015; Matsubayashi, 2015). Đặc biệt, đối với các ngân hàng thực sự yếu kém và không quản lý tốt RRTD, Chính phủ Nhật Bản cho thực hiện việc phá sản. Đồng thời, Chính phủ quốc gia này tích cực triển khai các biện pháp đảm bảo thanh toán tiền gửi tiết kiệm và hỗ trợ thanh khoản tại các ngân hàng này.

2.3.1.4. Kinh nghiệm Hoa Kỳ Trong quản lý RRTD, tại Hoa Kỳ thì Cục dự trữ Liên bang (FED) với vai trò là Ngân hàng Trung ương thực hiện các nhiện vụ quản lý đối với hệ thống tài chính - tín dụng trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, trong đó có vấn đề về quản ly RRTD. Từ cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ, cho thấy nguyên nhân xuất phát phần lớn từ việc quản lý kiểm soát khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán còn yếu kém, chất lượng tín dụng không được coi trọng, có nhiều khoản cho vay dưới chuẩn, không thẩm định kỹ trước khi cho vay, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để đầu tư vào những khoản dài hạn như bất động sản nên không tránh khỏi rủi ro mất khả năng thanh toán và không thu hồi được nợ. Kể từ cuộc đại khủng hoảng tài chính 2007- 2009, Fed đã thay đổi cách thức thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Thay vì dựa vào nghiệp vụ thị trường mở (open market operations), giờ đây Fed dựa vào lãi suất

61

của quỹ liên bang (Federal Funds Rate, FFR) như công cụ chính của chính sách tiền tệ. Vào tháng 3/2020, giữa đại dịch Covid-19 và với tỷ lệ lạm phát thực tế dưới mức 2%, Fed đã quyết định kích thích nền kinh tế bằng cách hạ thấp phạm vi mục tiêu FFR và lãi suất tín dụng cơ bản (xuống 0-0,25% và 0,25%), bằng cách mua thêm các chứng khoán Kho bạc Mỹ và chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp của các cơ quan chính phủ. Để khuyến khích các ngân hàng cho vay cho các hộ gia đình và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch, Fed đã xóa bỏ yêu cầu dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng và các công ty tài chính. Có thể nhận thấy, vai trò của FED trong quản lý RRTD từ các góc độ sau:

Một là, xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của NHTM: Ở Mỹ, các ngân hàng hoạt động trong một hệ thống quản lý ngân hàng kép, nghĩa là cả chính quyền liên bang và tiểu bang đều có quyền kiểm soát đối với ngân hàng. Việc xác lập môi trường pháp lý cho HĐTD của các NHTM tại Hoa Kỳ tập trung vào một số nội dung chính như các quy định về các hình thức cấp tín dụng (cho vay, chiết khấu và tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng ...); về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, về đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng và các dịch vụ khác nằm trong danh mục hoạt động của các NHTM tại quốc gia này. Trên cơ sở khung pháp lý được cải thiện, các chiến lược và các chương trình hành động đã được đưa ra.

Hai là, quản lý RRTD: Việc ban hành các quy định về đo lường, xếp hạng tín dụng, đặc biệt là các chuẩn mực nợ xấu trong HĐTD của các NHTM tại Hoa Kỳ tập trung vào một số hoạt động chính như phân loại nợ, đo lường nợ xấu, chấm điểm tín dụng và trích lập dự phòng RRTD. Trong đó, việc trích lập dự phòng RRTD được thực hiện trên cơ sở chấm điểm và xếp hạng tín dụng. FED yêu cầu các NHTM thực hiện phân loại nợ, từ đó trích lập đủ dự phòng và sử dụng khoản dự phòng này vào việc xử lý RRTD. Đồng thời, theo quy định của FED, các NHTM Hoa Kỳ cần chủ động áp dụng các chuẩn mực xử lý nợ xấu bằng các giải pháp cổ điển như khoanh nợ, giãn nợ, cơ cấu nợ... kết hợp với các giải pháp mới như sáp nhập, chứng khoán hóa tài sản nợ... [138].

Ba là, tổ chức kiểm tra, giám sát RRTD của các NHTM: Các cơ quan quản lý hệ thống tài chính quan trọng của Chính phủ Mỹ là Cục kiểm soát tiền tệ, Hệ thống dự trữ liên bang, Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang, Bộ Tư pháp, Ủy ban chứng khoán và hối đoái cũng có vai trò quản lý ngân hàng nhưng kém quan trọng hơn, trong khi đó Hội đồng ngân hàng bang là cơ quan quản lý cấp bang cao nhất đối với ngân hàng Mỹ. Trong những năm gần đây, các công cụ để FED thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động cấp tín dụng và xử lý RRTD của các NHTM tại Hoa Kỳ bao gồm một số công cụ phổ biến như: kế hoạch và chiến lược phát triển và tín dụng;

62

luật và các văn bản quy phạm pháp luật; hệ thống thanh tra, giám sát HĐTD của các NHTM [138].

Bốn là, xử lý RRTD của các NHTM: Hoa Kỳ ban hành chính sách chứng khoán hóa các RRTD của các NHTM. Chính sách này được ưu tiên và được xem là trọng tâm trong chuỗi giải pháp xử lý các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong HĐTD của quốc gia này. Để bảo lãnh chứng khoán hóa nợ xấu, Bộ Tài chính, Cục Dự trữ liên bang (FED) và Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ, tồn tại dưới dạng các gói tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD, thậm chí là 700 tỷ USD. Ngoài ra, quốc gia này tiến hành mua lại nợ xấu cho các NHTM. Bên cạnh đó, các công ty nợ xấu còn hỗ trợ các NHTM yếu kém giải quyết các vấn đề thanh khoản tạm thời. Chẳng hạn như, sau khi tập đoàn cho vay thế chấp lớn nhất Mỹ - Countrywide Financial bị mất tiền do khách hàng thua lỗ không hoàn vốn, Bank of America đã mua lại tập đoàn này [105] [138]. Tại Hoa Kỳ việc xử lý rủi ro theo Basel II, được triển khai rất sớm.

2.3.2. Bài học rút ra trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM một số quốc gia trên thế giới, tác giả rút ra được một số bài học cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần tăng cường khung pháp lý nhằm giám sát chặt chẽ ngành Ngân hàng, từ đó quản lý tốt và hạn chế sự xuất hiện của RRTD. Để làm được điều này, cần chủ động thiết lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ trên cơ sở các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn tín dụng ngân hàng.

Thứ hai, cần chú trọng đến việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong HĐTD của các NHTM. Việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong HĐTD của NHTM cần hướng đến mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh, xây dựng hệ thống ngân hàng lành mạnh, bền vững, từ đó có thể huy động được cả các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển.

Thứ ba, NHNN cần đánh giá chính xác tình hình RRTD của các NHTM để có thể nhanh chóng đưa ra các biện pháp kịp thời để giảm thiểu thiệt hại. Đặc biệt, cần chú trọng đến việc phân loại nợ tại các NHTM để triển khai quản lý một cách phù hợp với tình hình tín dụng và RRTD của các ngân hàng trong nước.

Thứ tư, cần tăng cường quy chế quản lý, giám sát các HĐKD tín dụng và xử lý RRTD của từng NHTM, đồng thời củng cố sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN trong việc giám sát hoạt động của hệ thống tài chính. Đặc biệt, Nhà nước và NHNN cần đẩy mạnh đổi mới và nâng cao hiệu quả của các phương pháp giám sát tín dụng và

63

RRTD của các NHTM thông qua một số hoạt động cụ thể như cải thiện chất lượng giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Để làm được điều này, NHTN cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống và công cụ giám sát bảo đảm thống nhất, liên thông trong quá trình thực hiện giám sát đối với RRTD.

Thứ năm, cần mở rộng kênh xử lý RRTD tương tự Hoa Kỳ như sáp nhập, chứng khoán hóa tài sản nợ... nhằm giúp các NHTM tại Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn trong xử lý các RRTD. Đây là một bài học cần được nghiên cứu kỹ, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi ngân sách của NHNN khi đầu tư cho công ty mua nợ xấu còn thiếu hụt chưa thể hiện được vai trò quan trọng như một công cụ quản lý điều tiết RRTD của NHNN. Bên cạnh đó, theo kinh nghiệm của các quốc gia nêu trên, việc thành lập cơ quan xử lý RRTD chuyên biệt trực thuộc Chính phủ (có thể ủy quyền cho NHNN quản lý) là biện pháp cần thiết....

Kết luận chương 2

Nội dung chương 2 của luận án làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM, trong đó làm rõ bản chất của RRTD, đặc điểm, nguyên nhân của RRTD, các nguyên nhân dẫn đến RRTD, phân loại rủi ro tín dung để làm căn cứ giúp các nhà quản lý định vị đúng RRTD mà đơn vị mình đang gặp phải. Mặt khác, những tác động của rủi ro tín đụng đến nền kinh tế, đối với chính NHTM cũng được lảm rõ trong nội dung chương. Làm rõ bản chất của hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM là một bộ phận của quản lý kinh tế, các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tập trung vào làm rõ: (1) Xây dựng hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM; (2) Tổ chức triển khai thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM; (3) Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Bên cạnh đó, nội dung chương đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia và tổ chức về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM đặc biệt là vấn đề nợ xấu của các NHTM từ Liên minh châu âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản từ một số khía cạnh như hệ thống văn bản quản lý đối với HĐTD; các quy định về đo lường tín dụng; kiểm tra, giám sát đối với RRTD của NHTM và xử lý RRTD của NHTM... qua đó rút ra được 06 bài học gắn với thực tiễn bối cảnh của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

64

Chương 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng tại Việt Nam 3.1.1. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam có thể được đánh dấu từ sự ra

đời của NHNN Việt Nam vào ngày 06/05/1951. Tuy nhiên, trước 1990, hệ thống

ngân hàng Việt Nam là hệ thống một cấp, không có sự tách biệt giữa chức năng

quản lý và chức năng kinh doanh. NHNN vừa đóng vai trò Ngân hàng Trung ương vừa là NHTM. Đến năm 1990, do nhu cầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước trong chủ

trương phát triển nền kinh tế đa thành phần, ngày 23/05/1990, Hội đồng Nhà Nước

ban hành pháp lệnh về NHNN Việt Nam và pháp lệnh về các TCTD.

Hai pháp lệnh này đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân

hàng Việt Nam từ hệ thống một cấp sang hệ thống hai cấp. Từ đó, hệ thống ngân

hàng Việt Nam đã được tổ chức tương tự như hệ thống ngân hàng các nước có nền

kinh tế thị trường: chức năng của NHNN được thu hẹp lại, chỉ còn giám sát chính

sách tiền tệ, phát hành tiền, quản lý hệ thống tín dụng, giám sát các NHTM, quản lý

dự trữ ngoại hối với mục tiêu hàng đầu là bình ổn tiền tệ và kiểm soát lạm phát,

trong khi chức năng trung gian tài chính (huy động và phân bổ vốn) được chuyển

sang cho các NHTM.

Chặng đường 70 năm hình thành và phát triển của ngành Ngân hàng Việt

Nam luôn gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc, trong đó, đặc biệt là 35 năm

đổi mới của đất nước (từ năm 1986 đến nay). Trong bất cứ thời kỳ nào, ngành Ngân

hàng cũng đóng vai trò rất quan trọng và nổi bật, là huyết mạch của cả nền kinh tế. Mọi thành công của công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước đều có những dấu ấn vô cùng tự hào của ngành Ngân hàng. Cùng với đó, hệ thống Ngân

hàng Việt Nam với bề dày truyền thống vẻ vang của mình, cũng luôn nỗ lực, tích cực tự đổi mới, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Tất cả những điều đó đã củng cố vững chắc vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam, tạo dựng và duy trì niềm tin bền chặt trong nhân dân và cộng

đồng doanh nghiệp.

65

(Nguồn: SBV, 2022)

Hình 3.1. Vị trí của ngân hàng trong hệ thống các TCTD tại Việt Nam Với việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác, NHNN đã đảm bảo kiểm soát lạm phát bám sát mục tiêu Quốc hội đặt ra hàng năm, bình quân giai đoạn 2011-2022 khoảng 4,21% so với mục tiêu của Quốc hội là khoảng 4%, củng cố niềm tin của người dân vào môi trường vĩ mô ổn định và sự ổn định giá trị đồng nội tệ. Quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng cũng đã được NHNN kiên trì thực hiện suốt những năm qua, giúp nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng là 12,17% trong khi lãi suất cho vay bình quân giảm khoảng 1%/năm, có những khoản vay được áp dụng lãi suất giảm đến 2%/năm so với thời điểm trước dịch bệnh, là kết quả của những nỗ lực, đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng trong việc tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, hỗ trợ kết quả tăng trưởng kinh tế 2,91% [121].

66

3.1.2. Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam 3.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển Có thể nói trải qua hơn 30 năm ra đời và phát triển, hệ thống NHTM Việt Nam

đã không ngừng phát triển về quy mô, chất lượng và hiệu quả hoạt động [64]...

Bảng 3.1. Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022

Chỉ tiêu

2011 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

TT 1 NHTM Nhà nước 2 NHTM Cổ phần 3 Ngân hàng liên doanh

5 34 4

4 31 2

4 31 2

4 31 2

4 31 2

4 31 2

4 31 2

4 31 2

4

5

8

9

8

8

9

9

9

Ngân hàng 100% vốn nước ngoài

5 Chi nhánh NHNNg

49

51

49

50

49

49

49

50 (Nguồn: Số liệu báo cáo của NHNN 2011 - 2022)

Hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2022 không có sự biến động lớn

về số lượng nhiều. Cụ thể: hệ thống ngân hàng thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống

ngân hàng của Chính phủ giai đoạn 1 (2011-2015) theo Quyết định 454/QĐ-TTg

ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ và giai đoạn 2 (2016- 2020) đã được Thủ tướng ký phê duyệt tại Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 và giai đoạn

2021-2025 theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính

phủ. Một số NHTM Nhà nước chuyển mô hình từ NHNN (Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng đồng

bằng sông Cửu Long) sang NHTM cổ phần, do sự mua bán sáp nhập của các

NHTM và mua lại giá 0 đồng của NHNN với các ngân hàng yếu kém (Ngân hàng

Đại dương, Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Dầu khí). Đến hết 31/12/2022 thì toàn

hệ thống NHTM của Việt Nam có 46 ngân hàng trong đó có 31 NHTM cổ phần.

Cho đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đã lớn mạnh cả về mặt số lượng cũng

như chất lượng đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế và ngày càng khẳng

định được vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế [64] [122].

3.1.2.2. Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam * Khái quát thực trạng phát triển KT-XH Việt Nam giai đoạn 2011-2022 Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016-2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011-2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên

67

thế giới. KT-XH nước ta đến năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao. GDP năm 2022 tăng 8,02%. Về cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,88%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế, là kênh dẫn vốn chủ yếu phục vụ sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao đời sống nhân dân. Giai đoạn 2011-2022, vốn điều lệ và giá trị tài sản của các NHTM Việt Nam có xu hướng biến động tăng, năm 2011 giá trị trung bình tài sản của các NHTM là 171.950,9 tỷ đồng tăng lên là 536.265,75 tỷ đồng năm 2022 [64].

* Đối với NHTM Nhà nước NHTM Nhà nước có sự thay đổi cả về số lượng ngân hàng và cả về quy mô. Quy mô các NHTM Nhà nước ngày càng lớn mạnh cả về vốn điều lệ và về số chi nhánh, Sở giao dịch, cụ thể:

Bảng 3.2. Các NHTM nhà nước tính đến 31/12/2022

TT

Tên ngân hàng

Vốn điều lệ

Số chi nhánh và Sở GD

1

30.709,9

940

2

3.018,0

15

3

4.000,1

21

4

3.000,0

21

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) Ngân hàng TNHH một thành viên Dầu khí toàn cầu (GPBank) Ngân hàng TNHH một thành viên Đại Dương (OceanBank) Ngân hàng TNHH một thành viên Xây dựng (CBBank)

Nguồn: Thống kê của NHNN, 2022 (www.sbv.gov.vn) Năm 2015 thực hiện đề án tái cấu trúc ngân hàng, NHNN đã bắt buộc mua toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng 3 ngân hàng yếu kém (GPBank, OceanBank và CBBank) nên số lượng NHTM nhà nước là 4 ngân hàng. Đến nay, Agribank vẫn là ngân hàng có số vốn điều lệ lớn nhất (30.709,9 tỷ đồng) và có số lượng chi nhánh, sở giao dịch nhiều nhất (940) trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với 3 ngân hàng (gồm GPBank, OceanBank và CBBank) số vốn điều lệ thể hiện trên Bảng 3.2 chỉ là con số trên danh nghĩa còn thực tế sau khi được mua lại với giá 0 đồng thì theo kết quả của kiểm toán nhà nước cho thấy gần 3 năm được NHNN mua lại nhưng thực trạng tài chính của các ngân hàng này chưa được cải thiện, hàng năm các ngân hàng vẫn lỗ hàng ngàn tỷ đồng và bị âm vốn chủ sở hữu.

68

* Đối với NHTM cổ phần Tính đến 31/12/2022, hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay có 31 NHTM cổ phần, các ngân hàng ngày càng tăng cả về quy mô vốn và số chi nhánh, sở giao dịch. Số vốn điều lệ, số lượng chi nhánh và sở giao dịch của các NHTM cổ phần tính đến 31/12/2022 được chi tiết ở Bảng 3.3.

Tên ngân hàng

TT

Bảng 3.3. Các NHTM cổ phần tính đến 31/12/2022 Số CN và SGD

Vốn điều lệ (Tỷ đồng)

Tỷ lệ cho vay/ huy động

1

37.234,0

157

104,7%

2

40.220,2

190

105,7%

3

37.088,8

116

94,4%

Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)

4 Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) 5 Ngân hàng TMCP An Bình (ABB)

21.615,0 5.713,1

86 35

101,8% 108,1%

6

3.150,0

22

80,1%

7

3.171,0

76

82,3%

Ngân hàng TMCP Bảo Việt (BaoViet bank) Ngân hàng TMCP Bản Việt (VietCapital Bank)

8 Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank)

7.086,5

44

96,6%

9

10.746,43

76

117,8%

10

9.000,0

40

84,6%

Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LPB) Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank)

11 Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) 12 Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (Seabank) 13 Ngân hàng TMCP Hàng Hải (MSB) 14 Ngân hàng TMCP Kiên Long (KLB)

5.000,0 12.087,4 11.750,0 3.237,0

56 39 62 31

86,5% 132,3% 117,2% 97,2%

15

35.001,4

62

128,7%

Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)

16 Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A bank) 17 Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) 18 Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) 19 Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) 20 Ngân hàng TMCP Quốc dân (NCB) 21 Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)

3.890,0 7.898,6 27.987,6 9.244,9 4.101,6 15.231,7

27 39 101 52 24 50

95,7% 115,6% 113,0% 119,6% 70,2% 79,4%

22

3.080,0

33

100,0%

23

12.036,2

58

110,4%

24

18.852,2

109

91,9%

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SGB) Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)

25 Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB)

10.716,7

36

96,0%

69

TT

Tên ngân hàng

26 Ngân hàng TMCP Việt Á (Viet A Bank)

Vốn điều lệ (Tỷ đồng) 3.500,0

Số CN và SGD 24

Tỷ lệ cho vay/ huy động 83,7%

27

25.299,7

62

145,1%

28

4.190,2

18

81,9%

29

3.000,0

17

94,3%

30

12.355,2

44

87,7%

31

16.088,5

67

118,6%

Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (Vietbank) Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank) Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu (Eximbank) Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)

Nguồn: Thống kê của NHNN (www.sbv.gov.vn) Về quy mô vốn: trong số các NHTM cổ phần hiện nay có 3 ngân hàng có số vốn điều lệ lớn kể đến đầu tiên là BIDV với số vốn điều lệ là 40.220,2 tỷ đồng, tiếp theo là Vietinbank với số vốn điều lệ là 37.234 tỷ đồng và sau nữa là Vietcombank với số vốn điều lệ là 37.088,8 tỷ đồng. Nhóm các ngân hàng có số vốn điều lệ thấp ở mức tối thiểu theo quy định của NHNN là 3.000 tỷ gồm có các ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Bản Việt, NHTM Bảo Việt, Ngân hàng Sài Gòn Công thương, Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex [64].

Tỷ trọng cho vay/huy động Kết quả tổng hợp báo cáo tài chính của 31 ngân hàng cho thấy, tỷ lệ cho vay khách hàng/huy động khách hàng bình quân của nhóm hiện đã ở mức 105,3% thời điểm cuối năm 2022, tăng khá mạnh so với con số 97,9% vào cuối năm 2021. Trong đó, có tới 16 thành viên có tỷ lệ cho vay/tiền gửi khách hàng vượt hoặc bằng 100%, điều này có nghĩa, ngân hàng đang cho vay nhiều hơn cả số tiền gửi của khách hàng. VPBank hiện đang là ngân hàng có tỷ lệ cho vay/tiền gửi khách hàng cao nhất trong nhóm khảo sát, tới 145,1%, tức ngân hàng đang cho vay ra tới 145,1 đồng trong khi tiền gửi từ khách hàng 100 đồng. Tuy nhiên, đây cũng là điển hình cho khác biệt với quy định LDR nói trên, do VPBank vừa tăng đột biến vốn điều lệ, có nguồn thặng dư vốn rất lớn từ thương vụ bán vốn năm trước, nguồn vốn quốc tế, hoặc trường hợp có nguồn ủy thác cho vay và bên ủy thác nhận rủi ro thì được loại trừ tính LDR... Tương tự, SeABank cũng đang sở hữu tỷ lệ này khá cao với 132,3%, tại Techcombank là 128,7%, tại VIB là 119,6%, HDBank là 118,6%,…

Kết quả tại Bảng 3.3 cũng cho thấy, có tới 23/31 thành viên có tỷ lệ cho vay/huy động khách hàng đi lên trong giai đoạn 2011-2022. Kienlongbank (tăng 22,6 điểm %), MBB (tăng 18,5 điểm %), Techcombank (tăng 18,4 điểm%), SeABank (tăng 16,1 điểm%),… là những nhà băng ghi nhận tăng trưởng tỷ lệ này

70

lớn nhất trong 3 quý qua. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, chỉ có 4 ngân hàng là TPBank, PGBank, SHB và VPBank có tỷ lệ cho vay/tiền gửi giảm so với cuối năm 2021. Tuy nhiên, mức giảm là không đáng kể.

Nhìn chung, việc tỷ lệ cho vay/tiền gửi khách hàng toàn hệ thống tăng cao trong thời gian qua có thể được giải thích do sự lệch pha lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tiền gửi. Mặt khác, ở những thành viên có tỷ lệ này rất cao nói trên còn phản ánh họ có nguồn vốn khác để cho vay bên cạnh nguồn tiền gửi của khách hàng. Theo số liệu mới nhất từ NHNN, tính đến cuối tháng 12/2022, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã đạt 11,5% so với cuối năm 2021. Với tốc độ tăng trưởng như trên, tín dụng đã tăng trên 17% so với cùng kỳ năm ngoái và cũng là mức cao so với cùng kỳ nhiều năm trước đây. Trong khi đó, trong cùng khoảng thời gian trên, huy động vốn mới chỉ tăng khoảng 4,6% so với đầu năm, tức là chỉ bằng 1/3 so với tốc độ tăng trưởng của tín dụng. Điều này đặt ra thách thức đối với hệ thống ngân hàng trong việc điều tiết hệ số sử dụng vốn.

Về số lượng chi nhánh/ phòng giao dịch: các ngân hàng ngày càng mở rộng mạng lưới hoạt động, số lượng chi nhánh, sở giao dịch ngày càng tăng. Tính đến hết 31/12/2022 theo thống kê của NHNN thì số lượng chi nhánh, sở giao dịch của các NHTM cổ phần thì ngân hàng có số lượng chi nhánh, phòng giao dịch lớn nhất là Vietinbank (1.120 chi nhánh/phòng giao dịch), tiếp theo là BIDV (1.042 chi nhánh/phòng giao dịch), Vietcombank (582 chi nhánh/phòng giao dịch) và ngân hàng có số lượng chi nhánh ít nhất là Ngân hàng PGbank (79 chi nhánh/phòng giao dịch).

* Đối với ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Bảng 3.4. Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tính đến 31/12/2022

TT

Tên ngân hàng

1 Ngân hàng ANZ Việt Nam (ANZVL) 2 Ngân hàng Hong Leong Việt Nam (HLBVN) 3 Ngân hàng HSBC Việt Nam (HSBC ) 4 Ngân hàng Shinhan Việt Nam (SHBVN) 5 Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam (SCBVL) 6 Ngân hàng TNHH MTV Public Bank Việt Nam (PBVN) 7 Ngân hàng CIMB Việt Nam 8 Ngân hàng TNHH MTV Woori Việt Nam 9 Ngân hàng TNHH MTV UOB Việt Nam

Vốn điều lệ (Tỷ đồng) 3.000,0 3.000,0 7.528,0 5.709,9 4.902,0 6.000,0 3.467,2 4.600,0 3000,0

Nguồn: Thống kê của NHNN,2022 (www.sbv.gov.vn) Trong số các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam thì ngân hàng HSBC Việt Nam có số vốn điều lệ lớn nhất đạt 7.528 tỷ đồng, tiếp theo là Ngân

71

hàng TNHH MTV PublicBank Việt Nam 6.000 tỷ đồng, còn có các ngân hàng ở mức đủ yêu cầu vốn điều lệ quy định ở mức 3.000 tỷ đồng như ANZ, HLB, UOB.

* Đối với ngân hàng liên doanh Số lượng các ngân hàng liên doanh Việt Nam giai đoạn 2011-2022 có xu hướng giảm dần, năm 2008 có 5 ngân hàng đến nay còn có 2 ngân hàng đó là ngân hàng TNHH Indovina (IVB) và ngân hàng liên doanh Việt Nga (VRB). Bảng 3.5. Các ngân hàng liên doanh tính đến 31/12/2022

Tên ngân hàng

TT 1 Ngân hàng TNHH Indovina (IVB) 2 Ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB)

Vốn điều lệ (Tỷ đồng) 3.377,5 3.008,4

Nguồn: Thống kê của NHNN, 2022 (www.sbv.gov.vn) Các ngân hàng này đều có số vốn điều lệ thấp chỉ ở mức quy định, trong đó ngân hàng Indovina có số vốn điều lệ là 3.377,5 tỷ đồng, ngân hàng Việt Nga có số vốn điều lệ là 3.008,4 tỷ đồng [64].

3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng

thương mại Việt Nam

3.2.1. Đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương

mại Việt Nam theo nguyên nhân của rủi ro

Tiếp cận thực trạng RRTD từ góc độ nguyên nhân của các RRTD trong hoạt

động của các NHTM, cho thấy những RRTD mà các NHTM đang gặp phải cụ thể:

Thứ nhất, thực trạng RRTD xuất phát từ khách quan Về nhận diện rủi ro khi hội nhập và bối cảnh dịch bệnh như hiện nay: Giai đoạn 2011-2022, lĩnh vực ngân hàng Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường tài chính khu vực và thế giới. Bên cạnh những cơ hội, thì những thách thức có thể gặp phải của các NHTM nếu không được kịp thời chuẩn bị và xử lý thì có thể trở thành những rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng như: áp lực cạnh tranh từ quy mô vốn, sản phẩm dịch vụ, công nghệ... ngày càng gay gắt hay yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, am hiểu khoa học kĩ thuật, có trình độ ngoại ngữ... Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 xảy ra đã làm thay đổi căn bản nhiều dự báo, thậm chí những dự báo và lý thuyết mang tính chất kinh điển. Dịch COVID-19 xuất hiện làm thay đổi nhiều hành vi, thói quen, tập quán của con người đến mọi tổ chức, và đặc biệt với các NHTM. Loại hình đặc thù trong HĐKD, đã phải thay đổi, điều chỉnh lớn chiến lược quản trị trong hoạt động, đó là cách nhận diện RRTD và cách quản trị nó. Đại dịch COVID-19 xảy ra gần như nằm ngoài mọi dự liệu của các ngân hàng trong khâu thiết kế quy trình nhận diện - đo lường - giảm thiểu - giám sát/xử lý. Chính vì vậy, lần này, các NHTM

72

phải tiếp cận cách nhận diện rủi ro theo các tiêu chí khác hơn, theo cách nhìn “ảnh hưởng của rủi ro do nguyên nhân khách quan sẽ rất phức tạp và lớn”, thay đổi quan điểm trong khâu thiết kế quy trình tín dụng.

Về các thị trường liên quan có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tín dụng: Thị trường Bất động sản: Tín dụng BĐS với bản chất là tín dụng trung dài hạn và giá trị khoản vay thường lớn, chất lượng tín dụng BĐS phụ thuộc rất nhiều vào diễn biến của thị trường BĐS, tiềm ẩn yếu tố rủi ro cao. Năm 2020 và 2021, dưới tác động của dịch Covid-19, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn có sự tăng trưởng tuy nhiên ở mức thấp hơn những năm trước (năm 2020 tăng 12,06%, năm 2021 tăng 15,37%). Còn đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các TCTD đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế (cao nhất trong 5 năm qua), tỷ lệ nợ xấu là 1,81% (năm 2021 là 1,67%). Hiện nay, NHNN thực hiện quản lý, điều hành theo các phân khúc bất động sản; theo đó chỉ đạo các TCTD ưu tiên cấp tín dụng đối với các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại giá rẻ; các nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và người dân; đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro cấp tín dụng với những mục đích đầu cơ để đảm bảo an toàn hệ thống. Theo ông Đ.M.Đ: “Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ lại là một yếu tố tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng”. Trong giai đoạn 2011-2022, NHNN cũng chỉ đạo các NHTM nâng cao chất lượng tín dụng, trong đó kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn ủi ro như bất động sản.

Về thị trường chứng khoán: Theo TS. TTT: “Dư nợ cho vay chứng khoán hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 0,5% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng. Những tiềm ẩn rủi ro tín dụng từ thị trường chứng khoán thể hiện: hiện phần lớn cơ cấu vốn nợ của các công ty chứng khoán là vốn ngắn hạn và rất ngắn hạn. Nợ dài hạn bao gồm trái phiếu chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng cơ cấu nguồn vốn (bao gồm vốn vay và vốn chủ) của các công ty chứng khoán”. Để hạn chế rủi ro, cơ quan quản lý ngành ngân hàng hoàn thiện các quy định kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán như quy định hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi để đầu tư kinh doanh chứng khoán là 150%. Hiện tại, các tổ chức tín dụng chỉ được cấp tín dụng với thời hạn đến 01 năm cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và khi cấp tín dụng phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Ngoài ra, tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho khách hàng là công ty con, công ty liên kết để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu. Đặc biệt Thông tư 22/2019/TT-NHNN cũng quy định cụ thể những trường hợp

73

các ngân hàng không được cấp tín dụng cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.

Về thị trường BOT: việc cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông tiềm ẩn rủi ro trong dài hạn vì đây là các dự án có tổng mức đầu tư lớn, thời gian cho vay dài, năng lực tài chính của chủ đầu tư hạn chế; tài sản đảm bảo chủ yếu là quyền thu phí trong khi chính sách phí chưa thực sự ổn định, nguy cơ chuyển nợ sang nhóm nợ xấu rất lớn. Nguyên nhân được cơ quan này nhận định là hầu hết nhà đầu tư có năng lực tài chính hạn chế, khó có khả năng hỗ trợ dự án khi có biến động trái chiều. Nhiều dự án sụt giảm doanh thu so với phương án tài chính ban đầu khi chính sách thu phí không ổn định (giảm phí theo chỉ đạo của Chính phủ, chưa được tăng phí theo lộ trình theo hợp đồng dự án…). Đồng thời, việc mất an ninh, trật tự tại trạm thu phí dẫn đến nhiều dự án chưa được thu phí hoặc phải dừng thu phí, lưu lượng xe giảm do xuất hiện các tuyến đường song hành. Mặt khác, theo Ngân hàng Nhà nước, việc ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, đặc biệt đợt bùng phát lần thứ 4, nhiều tỉnh trên cả nước thực hiện giãn cách xã hội, việc đi lại vận chuyển giảm mạnh cũng ảnh hưởng tới các dự án BOT giao thông.

Bên cạnh đó, những tiềm ẩn rủi ro từ các thị trường khác như xuất khẩu lao động, thị trường trái phiếu doanh nghiệp... cũng tiềm ẩn những rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến RRTD tại các NHTM.

Thứ hai, các RRTD của NHTM Việt Nam từ khách hàng Trong bối cảnh hội nhập, ngoài những yếu tố làm ảnh hưởng đến rủi ro trong quá trình cho vay thì rủi ro chủ quan mang lại từ ảnh hưởng bởi hội nhập kinh tế quốc tế là rất sâu sắc, xét trên các mặt sau: (1) Do trình độ, năng lực, kinh nghiệm quản lý của khách hàng hạn chế; (2) Năng lực tài chính của bên vay yếu kém, không lành mạnh; (3) Do ý chí bên vay nợ...

Thứ ba, các RRTD của NHTM Việt Nam từ bản thân các ngân hàng (1) Thông tin cơ sở thẩm định: Trong sự biến động của thị trường với sự ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề ngân hàng không có đủ thông tin chuẩn, đúng, phù hợp, cần thiết để đánh giá một cách đầy đủ bên vay vốn (thông tin về tài chính và phi tài chính). Từ đó, các phán quyết cho vay của ngân hàng sẽ không chuẩn, làm cho ngân hàng thiết kế khoản vay bị lệch về số tiền cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ… Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều này cũng làm cho tính chính xác về thông tin bị thay đổi, xoay chiều theo hướng khó lường.

(2) Kẽ hở giám sát khoản vay: Đó là sự không kịp thời kiểm tra, giám sát hoặc thực hiện không kỹ các khâu trong suốt quá trình cho vay, bao gồm các kỹ thuật kiểm tra về mục đích sử dụng vốn - các chứng từ chứng minh quá trình này,

74

tiến độ phương án/dự án sản xuất kinh doanh bị chậm/trễ so với kế hoạch, chất lượng sản phẩm của phương án/dự án không đạt yêu cầu, nhà cung ứng, nhà thầu không đáp ứng, công nghệ của dự án/phương án bị lỗi/không bảo đảm... làm cho hiệu quả dự án/phương án cho vay không đạt kế hoạch, dẫn đến khách hàng không trả được nợ hoặc không trả nợ vay đúng hạn.

(3) Vi phạm nguyên lý 5C trong nguyên tắc tín dụng: Nhiều quan điểm cho vay chỉ tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó như là kênh tốt nhất cho việc thu nợ, dẫn đến các phán quyết thiếu chuẩn xác.

(4) Thiết kế khoản vay: Việc thiết kế khoản vay phù hợp là vô cùng cần thiết để bảo đảm khoản vay đến hạn trả đủ nợ cho dù ở điều kiện, hoàn cảnh nào. Với bối cảnh đại dịch covid-19, khâu khởi tạo, thiết kế một khoản vay phù hợp (tiên lượng được) cho khách hàng là vô cùng quan trọng và cần thiết để bảo đảm các khâu của quá trình cho vay được ổn định.

(4) Đạo đức cán bộ cho vay: Đây là nguyên nhân không nằm trong các khâu của quy trình cấp tín dụng, từ khởi tạo khoản vay đến khâu cuối cùng là thu nợ khoản vay. Bất cứ khâu nào, nếu có sự tạo điều kiện cho khách hàng (mạnh hơn là tiếp tay) thì đều có thể gây là RRTD với khoản vay.

(5) Sản phẩm cho vay: Các NHTM, theo thế mạnh của mình hoặc qua từng giai đoạn thông qua các sản phẩm cho vay để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng trong bối cảnh dịch bệnh. Nếu thiết kế sản phẩm cho vay không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến bên vay, vì bên vay chính là người thụ hưởng sản phẩm (vai trò ngân hàng lúc này chính là nhà tư vấn cho bên vay trong từng giải pháp vay, ngắn hạn, trung hạn, dài hạn…). Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng đổ bể.

3.2.2. Đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương

mại Việt Nam theo các chỉ tiêu

3.2.2.1. Chỉ tiêu dư nợ cho vay/Tổng tài sản Tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011- 2022 có sự chênh lệch khá lớn giữa các NHTM. Năm 2012 có độ lệch chuẩn cao nhất là 15.3625 về tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM, tỷ lệ này dao động từ 27,0% đến 83,5%. Năm 2019 mức giao động này thấp nhất với độ lệch chuẩn 9.34312, tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM từ 40,5%-77,3% Điều này cho thấy có sự khác biệt giữa các ngân hàng về cơ cấu tài sản [83]. Cụ thể tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2021 được biểu hiện dưới biểu đồ sau:

75

65.93

65.32

64.41

64.41

70

62.61

61.19

59.94

57.67

60

52.28

52.26

51.86

46.52

50

40

30

20

10

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Nguồn: Thống kê và tính toán của tác giả

Hình 3.2. Tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2022

Giai đoạn 2011-2022, các NHTM Việt Nam có tỷ lệ dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình khoảng trên dưới 50%, có xu hướng tăng dần ngoại trừ năm 2014 và có sự chênh lệch không lớn giữa các năm. Tỷ lệ trung bình Dư nợ cho vay/Tổng tài sản năm 2011 tỷ lệ tỷ lệ này ở mức thấp là 46,52%; các năm 2012, 2013, 2014 tỷ lệ này lần lượt là 51,86%, 52,28%, 52,26% nhưng đến năm 2015, 2016, 2017 tỷ lệ này tăng cao lần lượt là 57,67%, 59,94%, 61,19%, nhưng tỷ lệ này không biến động ở năm 2019, 2020, 2021 với tỷ lệ 64,41% và 65,32%. Điều này phù hợp với thực tế bởi năm 2011, 2012 là những năm tỷ lệ lạm phát tăng cao, nền kinh tế gặp khó khăn, do đó ngân hàng thắt chặt hơn hoạt động tín dụng do đó dư Nợ cho vay giảm. Năm 2015-2020 tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, nền kinh tế khởi sắc, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn do vậy dư Nợ tín dụng tăng. Tuy nhiên dư nợ tín dụng tăng trưởng nóng sẽ nguy cơ tiềm ẩn RRTD [83].

Đối với xu hướng tín dụng thì đến cuối năm 2022, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh (12 dự án xanh do NHNN xây dựng và ban hành từ năm 2015) đạt gần 500.000 tỉ đồng (chiếm khoảng 4,2% tổng dư nợ nền kinh tế), tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm tỉ trọng cao nhất 47%), tiếp đến là nông nghiệp xanh (chiếm trên 30%). Các TCTD tích cực thực hiện đánh giá rủi ro về môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ đạt hơn 2,2 triệu tỉ đồng với hơn 1,1 triệu món vay. Trong giai đoạn 2017 - 2021, dư nợ cấp tín dụng xanh có tăng trưởng bình quân đạt hơn 25%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình quân tín dụng chung nền kinh tế. Tuy nhiên, tỉ trọng tín dụng xanh vẫn còn rất khiêm tốn, dư nợ tín dụng xanh chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ toàn nền kinh tế do đây là lĩnh vực mới. Các khoản vay tín dụng xanh chủ yếu được tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh (chiếm khoảng 46%), lĩnh vực quản lí nước bền vững (chiếm khoảng 13%), gần đây có xu hướng dịch chuyển sang một số lĩnh vực khác như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (Trần Thế Anh, 2022). Nhiều lĩnh vực quan

76

trọng trong công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu như quản lí chất thải, giao thông và xây dựng bền vững... còn rất hạn chế.

Cơ cấu dư nợ cho vay của các NHTM trong những năm gần đây không có sự biến động nhiều, chủ yếu cho vay ngắn hạn (chiếm khoảng 60% dư nợ cho vay). Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhìn chung chiếm khoảng gần 40%, dao động quanh mức 38%. Năm 2013, 2014 có sự sụt giảm nhẹ so với các năm 2011, 2012 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trên 37,12%. Xu hướng thay đổi về tỷ trọng cho vay này được lý giải do nguyên chủ yếu là bối cảnh kinh tế trong nước. Trong bối cảnh sản xuất công nghiệp đứng trước khá nhiều khó khăn, thách thức do tình hình kinh tế, chính trị chung thì các TCTD tiếp tục quan tâm đến các lĩnh vực ưu tiên có dấu hiệu dẫn dắt tăng trưởng tín dụng toàn ngành trong đó có tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Bảng 3.6. Cơ cấu dư nợ cho vay theo ngành nghề kinh doanh, 2011-2022

8,83 9,64 10,53 12,32 17,12 16,20 18,70 19,00 19,25 19,87 21,06 21,95

38,96 38,59 37,76 37,02 35,98 31,10 31,60 31,90 30,89 30,24 30,58 30,85

27,29 23,82 22,97 22,12 20,90 16,90 21,80 22,70 23,06 22,84 23,18 23,41

Đơn vị tính: % 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

Ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Thương mại, vận tải và viễn thông Dịch vụ

24,92 27,95 28,74 28,54 26,10 36,80 27,90 26,40 26,80 27,05 25,18 23,79 Nguồn: NHNN và tính toán của tác giả Dự báo tín dụng đối với lĩnh vực này sẽ tiếp tục được cải thiện khi mà NHNN đã và đang tập trung, kết hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả các chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nông dân, triển khai thêm các chương trình thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn theo mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất nông nghiệp, các mô hình sản xuất áp dụng kỹ thuật và công nghệ cao, các mô hình sản xuất nông sản xuất khẩu và mở rộng thêm các điều kiện ưu đãi, đặc biệt là hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay thuộc lĩnh vực này.

3.2.2.2. Tốc độ tăng trưởng tín dụng Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng là một trong những chỉ tiêu đánh giá RRTD của ngân hàng. Chỉ tiêu này tăng trưởng quá nóng sẽ dẫn tới việc ngân hàng mất kiểm soát tín dụng, dẫn tới RRTD sẽ gia tăng trong tương lai (Nguyễn Văn Tiến, 2015). Nhìn vào số liệu thống kê trên cho thấy NHTM Việt Nam nghiên cứu có tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình từ 15,77% - 26,43% giai đoạn 2011-2020, và có sự chênh lệch khá lớn giữa các ngân hàng nhất là năm 2012. Tốc độ tăng

77

17.26 18.25

20

15.71

14.5

14.33

13.8

13.89 13.65

12.7

15

11.24 11.82

8.75

10

5

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

trưởng tín dụng trung bình có sự biến động. Do đó với chính sách tiền tệ này nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đã có sự tăng trưởng phát triển ổn định, dư nợ tín dụng tăng, lạm phát giảm. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM năm 2020 được chi tiết dưới Biểu đồ sau:

Nguồn: Thống kê và tính toán của tác giả từ báo cáo tài chính của các NHTM

Hình 3.3. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM giai đoạn 2011 - 2022

Kết quả số liệu thống kê cho thấy các NHTM Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể về tốc độ tăng trưởng tín dụng trong ngưỡng 10%-18%. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mặc dù lãi suất cho vay thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây nhưng tín dụng năm 2020 vẫn thấp hơn so với những năm trước. Cả năm 2021, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tăng 13,47% so với cuối năm 2020. Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trong khi đó tín dụng vào bất động sản và chứng khoán được NHNN kiểm soát chặt chẽ, cùng với động thái tăng cường kiểm soát của Bộ Tài chính. Năm 2021, NHNN cũng ban hành 02 thông tư quan trọng là Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 và Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Năm 2022, theo Thông tư số 14/2021/TT-NHNN, các TCTD sẽ tiếp tục giảm lãi suất, phí, cơ cấu lại nợ…; với tổng mức hỗ trợ khoảng 20 - 25 nghìn tỷ đồng [83]. Việc NHNN ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN và các thông tư sửa đổi (Thông tư số 03/2021/TT-NHNN, Thông tư số 14/2021/TT-NHNN) với mục đích tạo điều kiện, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua dịch Covid-19. Đồng thời, giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng, xuất phát từ việc Thông tư tạm thời cho phép TCTD giữ nguyên nhóm nợ, chưa ghi nhận mức độ rủi ro thực tế.

3.2.2.3. Khả năng sinh lời và chỉ số an toàn vốn của hệ thống NHTM

78

Trái ngược với sự tăng trưởng dương của tổng tài sản và quy mô hoạt động, khả năng sinh lời (ROA) của hệ thống NHTM Việt Nam khá thấp và có xu hướng giảm trong giai đoạn 2011 - 2022. Bảng 3.7. Khả năng sinh lời tài sản và nguồn vốn của hệ thống NHTM Việt Nam, 2011-2022

0.1 -0.48 -0.13 0.02 0.01 -0.23 0.40 -0.16 -0.24 0.33 0.07 0.12

11.02 7.82 6.09 6.12 6.03 7.05 9.86 12.76 11.02 8.07 10.03 14.62

-1.38 -3.20 -1.73 0.03 -0.09 1.02 2.81 2.90 -1.74 -2.95 1.96 4.59

Đơn vị tính: % 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 1.10 0.40 0.60 0.51 0.52 0.56 0.69 0.72 0.70 0.84 0.91 0.87

Chỉ số ROA Tăng/giảm so với năm trước ROE Tăng/giảm so với năm trước

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN, 2022 ROE cho biết hiệu quả sinh lời trên 1 đồng vốn của một ngân hàng, ROE càng lớn, hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng càng cao, mà gần như thu nhập của ngân hàng bắt nguồn từ 70% hoạt động tín dụng, vậy hiệu quả quản lý tín dụng càng tốt. ROE<10, hiệu quả thấp; 1020 hiệu quả tốt.

20

16.5

13.75

13.25

13.14

12.75

12.73

11.88

11.64

15

11.35

11.11

10.68

10.52

10

5

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

CAR

Như vậy có thể thấy rằng mặc dù số lượng khá nhiều, quy mô tài sản và hoạt động tăng trưởng, tuy nhiên các NHTM Việt Nam đang HĐKD với hiệu quả, chất lượng và lợi nhuận thấp, được thể hiện ở các chỉ số tài chính như khả năng sinh lời trên tổng tài sản thấp trong khi mức độ rủi ro cao thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu và các khoản nợ bán sang VAMC chưa có biện pháp hữu hiệu để thu hồi, xử lý. Các tồn tại trong HĐKD nói chung và mức độ rủi ro nói riêng của các NHTM trong thời gian qua trước hết xuất phát từ những yếu tố chủ quan về năng lực quản trị, điều hành và khả năng triển khai các HĐKD của các NHTM, song không thể không có sự liên quan đến cơ chế quản lý của NHNN, đặc biệt là hoạt động kiểm soát và giám sát của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng.

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN

Hình 3.4. Hệ số CAR của hệ thống NHTM Việt Nam, 2011 - 2022

79

Kết quả tại hình trên đã chỉ ra hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR của toàn hệ thống từ năm 2011 đến năm 2021 đã cao hơn quy định của NHNN Việt Nam, cũng như khuyến cáo của Basel. Tuy vậy, xu hướng chung là CAR đang giảm dần trong những năm gần đây khi khả năng tăng vốn bị chững lại trong khi các NH chưa thể cấu trúc tài sản theo hướng hợp lý hơn để giảm thiểu rủi ro. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) bình quân của hệ thống tổ chức tín dụng năm 2018 cũng được cải thiện. CAR toàn hệ thống đạt 11,1%, do vốn tự có tăng 12,2%, trong khi tổng tài sản có rủi ro tăng thấp hơn (khoảng 10,8%). Tỷ lệ vốn cấp 1/tổng tài sản có hệ số rủi ro là 8,8% (năm 2017 là 7,8%).

Basel I, trụ cột chỉ là yêu cầu vốn tối thiểu, rủi ro tín dụng và cách tiếp cận tiêu chuẩn đối với việc đo lường rủi ro và tính toán vốn. Nhưng với Basel II, về trụ cột có 3 yêu cầu là vốn tối thiểu, giám sát và kỷ luật thị trường & công bố thông tin. Về rủi ro là rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Về cách tiếp cận thông tin gồm nhiều cách tiếp cận đối với việc đo lường từng loại rủi ro và tính toán vốn. Cách tính tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của Basel II yêu cầu cao hơn. Ở Việt Nam, cách tính CAR hiện nay là Vốn tự có/Tài sản rủi ro. Nhưng với Basel II, CAR là

Vốn tự có/Tài sản rủi ro +12,5 *(COP + CMR). Trong đó, tài sản rủi ro là tài sản có rủi ro tín dụng * Hệ số rủi ro. COP là yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động. CMR là yêu cầu vốn đối với rủi ro thị trường. Sự khác biệt quan trọng giữa Basel I và Basel II : Nếu như Basel I tập trung vào bảo toàn vốn chủ sở hữu, phân định vốn tự có theo nhiều cấp độ thì Basel II đề cập thêm những rủi ro về thị trường, vận hành, đồng thời tỷ lệ an toàn vốn cũng phải khắt khe hơn. Theo đuổi Basel II là theo đuổi mục tiêu trở thành một ngân hàng an toàn bởi Basel gồm các bộ tiêu chuẩn khắt khe về vốn, giúp ngân hàng đảm bảo an toàn trong hoạt động. Nhưng khi theo đuổi Basel II, nhiều NHTM chưa thể sẵn sàng. Bởi một áp lực trong việc áp dụng Basel II, đó là tăng vốn đối với các ngân hàng. Việc áp dụng Basel II sẽ khiến CAR của các ngân hàng giảm/yêu cầu vốn tăng lên do ngoài rủi ro tín dụng, Basel II tính đến yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Do đó, những ngân hàng có CAR xung quanh 9% sẽ phải tính đến phương án tăng vốn cấp 1 hoặc cấp 2 để cải thiện CAR. Điều này không chỉ là thách thức rất lớn đối với các NHTMNN mà còn cả đối với các NHTM nói chung. Đứng trước tình hình đó, các NHTM Việt Nam cần có chiến lược, chính sách hợp lý để cải thiện chỉ số CAR, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đồng thời khẳng định mình trước sự cạnh tranh ngày một sâu sắc của các ngân hàng nước ngoài.

3.2.2.4. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro

80

2

1.77

1.63

1.63

1.49

1.49

1.41

1.35

1.34

1.5

1.32

1.31

1.27

1.23

1

0.5

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Việc sử dụng dự phòng để bù đắp những rủi ro theo nguyên tắc dự phòng cụ thể với những khoản nợ cụ thể trước sau đó phát mại tài sản nếu không đủ thì sử dụng dự phòng chung. Dự phòng phải được trích lập đủ để bù đắp rủi ro nhưng nếu tăng cao sẽ tăng chi phí ảnh hưởng tới thu nhập ròng của ngân hàng. Tỷ lệ này cao thể hiện mức độ RRTD của danh mục tín dụng lớn. Tỷ lệ trích lập dự phòng trung bình của các NHTM giai đoạn 2011-2022 được phản ánh rõ hơn dưới biểu đồ sau:

Nguồn: Thống kê của tác giả Hình 3.5. Tỷ lệ trích lập dự phòng trung bình của các NHTM giai đoạn 2011-2022 Tỷ lệ dự phòng RRTD là tỷ lệ giữa dự phòng rủi ro tín dụng và dư nợ tín dụng trong đó dự phòng RRTD được trích lập dựa trên cơ sở phân loại nhóm nợ, giá trị tài sản đảm bảo được khấu trừ, tỷ lệ trích lập dự phòng. Nhìn vào biểu đồ và bảng số liệu trên có thể thấy năm 2012, 2013, 2015 có tỷ lệ trích lập dự phòng trung bình khá cao, không có sự chênh lệch nhiều giữa các ngân hàng. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cao có thể thấy rằng ngân hàng có nhiều danh mục tín dụng có mức độ rủi ro cao, tổng dư nợ cho vay ở nhóm nợ có rủi ro cao (nhóm nợ 3,4,5) và nhất là nợ nhóm 5. Năm 2012, 2013 là năm nền kinh tế khó khăn, lạm phát tăng cao, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng cao. Do đó tỷ lệ dự phòng RRTD ở những năm này cũng tăng cao.

3.2.2.5. Tỷ lệ nợ xấu Số liệu từ NHNN cho thấy, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực (Hình 3.6). Theo báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt tại một số ngân hàng, thí dụ như VPBank (tăng 60% so với 2020), Vietinbank (49%), VIB (58%), HDB (43%)…; bình quân số dư nợ xấu 28 NHTM niêm yết và Agribank tăng 17,3% so với năm 2020 [83].

81

14

11.8

11.6

11.2

10.8

12

10.5

10.3

10

7.4

8

6.3

5.9

5.1

6

4.5

4.43

3.26

3

2.9

2.8

4

2.7

2.46

2

2

1.9

1.7

1.6

1.49

2

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Nợ xấu nội bảng

Nợ xấu gộp

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN

Hình 3.6. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM giai đoạn 2011 - 2022

Giai đoạn 2011-2022, tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng đều < 3% ngoại trừ năm 2012 là 3,26% và trong đó năm 2019-2022 các ngân hàng đều kiểm soát tốt RRTD, công tác thu hồi nợ được thực hiện tốt nên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đều ở mức dưới hoặc bằng 3%. Điều này sẽ thấy rõ hơn qua biểu đồ dưới đây: Nhìn vào Biểu đồ cho thấy tỷ lệ nợ xấu trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có sự biến động, ở mức thấp và dao động từ 1,49% - 3,26%. Năm 2012 là năm có tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng là cao nhất ở mức 3,26%, tiếp theo là năm 2011 với tỷ lệ nợ xấu là 2,90% [83]. Cụ thể:

Nguồn: Thống kê của tác giả từ báo cáo tài chính của các NHTM

Hình 3.7. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam năm 2021, 2022

Theo báo cáo tài chính năm 2021 của các ngân hàng đang niêm yết trên thị trường chứng khoán, VPBank hiện là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất, với 4,47% tổng dư nợ, tăng mạnh so với mức 3,41% hồi cuối năm 2020. Tiếp đến là VietBank

82

với mức tăng gần gấp đôi năm trước, lên tỷ lệ 3,65%. Sau đó nữa là NCB với 3%, VIB với 2,32%, SHB với 2,22%... Các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất là MBBank với 0,64%, Vietcombank và Nam Á Bank với 0,63%. Trong số các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm, Kiên Long Bank là ví dụ tiêu biểu nhất khi giảm mạnh từ mức hơn 5,42%, xuống chỉ còn 1,89% tổng dư nợ [83].

Theo số liệu cập nhật báo cáo tài chính quý 4/2022 ngành ngân hàng cho thấy, tỷ lệ nợ xấu trung bình của 27 ngân hàng được thống kê đến thời điểm cuối năm 2022 tăng 0,23 điểm % so với năm trước, lên 1,6% và tính đến ngày 31/12/2022, tổng nợ xấu tại các ngân hàng này đã tăng lên trên 136.400 tỷ đồng, tương ứng tăng 35% so với năm 2021 là 100.853 tỷ đồng. Trong đó, NCB là ngân hàng có tỷ lệ cao nhất hệ thống ở mức 17,93%. Trong năm, số dư nợ xấu của ngân hàng tăng mạnh từ 1.249 tỷ đồng lên 8.556 tỷ đồng. Tiếp theo là Vietbank, ABBank, Ngân hàng Bản Việt, PG Bank, SHB, VIB, OCB, VPBank và Saigonbank, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng này đều trên 2%. Và sau đó là BIDV và Vietinbank, tại BIDV, quy mô nợ xấu tại ngân hàng này đang ở mức 17.622 tỷ đồng, tăng 30% so với cuối năm 2021. Trong khi tại Vietinbank, con số nợ xấu cũng đã tăng lên 10% so với cùng kỳ, lên 15.726 tỷ đồng. Kế đến, Vietcombank cũng không tránh khỏi nợ xấu gia tăng, với mức tăng 28%, từ 6.121 tỷ đồng vào cuối năm 2021 lên 7.808 tỷ đồng tại ngày 31/12/2022 và dừng chân ở vị trí Top 6 trong bảng [83].

Trong khối ngân hàng có vốn nhà nước, BIDV đã kiểm soát và xử lý nợ xấu khá tốt khi nhiều năm qua, BIDV luôn trích lập dự phòng rủi ro tăng cao hơn lợi nhuận. Tính đến cuối năm 2021, nợ xấu của ngân hàng này đã giảm mạnh còn 0,81%. Đặc biệt, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (dư quỹ dự phòng RRTD/dư nợ xấu) đạt 235%, mức cao nhất trong những năm gần đây và cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra và tính đến hết 31/12/2022, mức trích lập dự phòng của BIDV đã tăng so với năm 2021, với 38.198 tỷ đồng. Vietcombank cũng tương tự, tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên tới 424%. Đặc biệt, toàn bộ dư nợ cơ cấu theo Thông tư 03, 14 của NHNN đã được trích lập đủ 100%, sớm trước 2 năm so với thời hạn quy định. Tính đến 31/12/2022, Vietcombank đã trích lập dự phòng là 24.779 tỷ đồng.

VietinBank cũng nâng tỷ lệ bao phủ nợ xấu năm 2021 lên 171%, thay vì mức 132% hồi cuối năm 2020. Năm 2021, VietinBank kiểm soát nợ xấu ở mức rất thấp. Trên cơ sở đánh giá hết sức thận trọng để đưa ra kịch bản an toàn cho năm 2022, VietinBank đã tăng mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu, giá trị trích lập dự phòng đến 31/12/2022 là 29.764 tỷ đồng [83].

Đối với các khoản nợ xấu được mua lại bởi VAMC thì sau khi mua nợ, VAMC đã chủ động phối hợp với các TCTD nhằm đưa ra các giải pháp thu hồi, xử

83

lý nợ. Theo báo cáo từ VAMC, 276,5 nghìn tỷ đồng dư nợ gốc lũy kế đã được VAMC xử lý tính từ năm 2017 đến hết năm 2022. Con số này cao gấp gần 5 lần so với tổng dư nợ gốc xử lý giai đoạn từ 2013 đến 2016. Trong đó, 267,3 nghìn tỷ đồng dư nợ gốc được xử lý từ khoản nợ mua bằng TPĐB và 9,2 nghìn tỷ đồng dư nợ gốc xử lý từ khoản nợ mua theo giá trị thị trường.

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác xử lý nợ xấu (tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống TCTD cao hơn nhiều so với thời điềm bắt đầu áp dụng Nghị quyết 42, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD vẫn được kiểm soát ở ngưỡng an toàn dưới 3% theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD). Do đó, nếu tính toán tỷ lệ nợ xấu gộp (tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các TCTD) thì SBV ước tính tỷ lệ nợ xấu gộp vào cuối tháng 2/2023 là 5% (tăng so với mức 4,5% vào cuối năm 2022). Đây cũng là điều mà NHNN, các TCTD cần hết sức lưu ý, có những chuẩn bị và cần cần ghi nhận những khoản nợ xấu tiềm ẩn này để có giải pháp quản lý, xử lý phù hợp nhằm ngăn ngừa nguy cơ nợ xấu tăng mạnh trong tương lai.

Về tổng thể, giai đoạn 2011-2022, hoạt động tín dụng của các NHTM tiềm ẩn những rủi ro về sự mất cân đối trong cho vay hoặc phát triển nóng bởi một số ngành và do biến động địa chính trị - chính sách của Fed, dịch bệnh covid-19, chiến sự Nga-Ucraina, quá trình hội nhập của Việt Nam cũng như các chính sách ứng phó của NHNN trong bối cảnh mới hiện nay, đó là:

Một là, trong giai đoạn này, các TCTD chạy đua phát triển tín dụng nhưng tập trung tỷ lệ lớn vào thị trường bất động sản, chứng khoán; theo NHNN, kể từ năm 2017 tới hết năm 2019 (thời điểm trước khi xảy ra dịch Covid-19), tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng trưởng trên 20%/năm; cao hơn mức độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (từ 13-14%) và giữ tỷ trọng từ 18-19% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Còn đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các TCTD đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế (cao nhất trong 5 năm qua).

Hai là, bước sang năm 2021, do mặt bằng lãi suất thấp nên một lượng tiền nhàn rỗi lớn đổ vào bất động sản. Đi kèm, tăng trưởng tín dụng cho riêng mảng BĐS cũng đột ngột tăng trở lại xu hướng cao. Cụ thể hơn, theo số liệu của NHNN, đến cuối năm 2022, dư nợ cho vay lĩnh vực BĐS đạt hơn 2,58 triệu tỷ đồng, tăng 24,27% so với cuối năm 2021 (cao hơn mức tăng 14,5% tín dụng chung toàn ngành ngân hàng). Đây là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế, cao nhất trong 5 năm qua.

84

Ba là, tỷ lệ nợ xấu biến động và có xu hướng đạt đỉnh vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024 và luôn tiềm ẩn là một trong những rủi ro mà hệ thống NHTM hiện nay cần quyết liệt giải quyết. Theo số liệu từ báo cáo tài chính quý 1/2023 của nhiều ngân hàng cho thấy, nợ dưới chuẩn gia tăng. Nợ cần chú ý (nhóm 2) đã tăng 43% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ dư nợ vay nhóm 2-5/tổng dư nợ tăng mạnh từ 3,4% trong quý 4/2022 lên 4,4% trong quý 1/2023.

Bốn là, tiềm ẩn rủi ro từ hệ thống NHTM, các rủi ro này xuất phát từ biến động của công nghệ số trong ngành ngân hàng, những phản ứng chính sách cũng như năng lực phòng thủ, quản trị rủi ro của hệ thống NHTM…

3.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động

của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2022

3.3.1. Thực trạng hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nhà nước đối

với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trên cơ sở Hiến pháp, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, trong đó phải kể đến hai đạo luật chuyên ngành là Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam được Quốc hội ban hành năm 2010. Luật các TCTD năm 2010 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đã góp phần hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - dịch vụ ngân hàng; tạo lập môi trường pháp lý minh bạch và công bằng trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống; điều chỉnh mọi hoạt động tiền tệ, ngân hàng không phân biệt đối tượng tiến hành hoạt động ngân hàng bảo đảm hiệu quả hơn trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Trong giai đoạn 2011-2022, NHNN cũng đã rà soát bãi bỏ khoảng 70 văn bản quản lý, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp góp phần tạo sự thống nhất trong QLNN đối với các NHTM [42]. Luật Các TCTD được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ ngày 15/01/2018 là văn bản pháp lý cao nhất về hoạt động của các TCTD. Ngoài ra, Quốc hội cũng ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Thời gian qua, các văn bản dưới Luật đã được ban hành phù hợp với tinh thần của Luật. Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng chính phủ nhằm định hướng cho NHNN và NHTM trong triển khai hoạt động cũng như có định hướng trong quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM. Bên cạnh đó, việc tái cấu trúc các TCTD nhằm bảo đảm phù hợp với các điều kiện trong

85

bối cảnh mới như: Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” và Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”. Trước xu thế phát triển của CMCN 4.0, NHNN Việt Nam đã kịp thời ban hành các quy định liên quan như Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của NHNN phê duyệt “Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/01/2022 của NHNN về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng...) theo hướng tạo điều kiện, khuyến khích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt và phát triển các phương tiện thanh toán điện tử hiện đại trên nền tảng công nghệ tiên tiến, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế.

Về đo lường RRTD, có Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định về xếp hạng TCTD, chi nhánh NHNNg nhằm hướng dẫn các NHTM thực hiện việc xếp hàng nội bộ cũng như xếp hạng khách hàng trong thực hiện quản lý RRTD. Liên quan đến tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, có Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN về quy định việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam; Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh NHNNg; Thông tư số 01/2020/TT- NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 tạo hành lang pháp lý mới về chuẩn mực an toàn để bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, xử lý các ngân hàng yếu kém trong trật tự, từng bước áp dụng chuẩn mực tiền tệ quốc tế vào hoạt động ngân hàng, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng và hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả. Thông tư số 26/2022/TT-NHNN ngày 31/12/2022 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT- NHNN ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…

Về kiểm soát và tài trợ RRTD, NHNN cũng đã ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN về quy định việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; Thông tư 14/2014/TT-NHNN ngày 20/5/2014 của NHNN về sửa đổi Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN do

86

Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành; Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 Quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg; Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh NHNNg; Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh NHNNg; Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg...

Bên cạnh đó, để bảo đảm thực hiện quản lý RRTD theo thông lệ quốc tế và Basel II, Chính phủ và NHNN đã sửa đổi hàng loạt các văn bản pháp lý hoặc ban hành mới nhằm tạo một môi trường kiểm soát rủi ro tốt hơn, ràng buộc các NHTM hoạt động trong một khuôn khổ an toàn hơn. Đối với hệ thống các NHTM Việt Nam, bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các NHTM đang hoàn thiện hệ thống QTRR theo thông lệ quốc tế, cụ thể là quy định tại Basel II, Basel III. Hiện hầu hết các ngân hàng đến nay đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II, có 18 NHTM đã áp dụng trước thời hạn do NHNN quy định. NHNN cũng đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc triển khai trụ cột 2 của Basel II. Danh sách 18 NHTM đạt chuẩn Basel II gồm: VIB, Vietcombank, MB Bank, Techcombank, ACB, MSB, HDBank, OCB, VPBank, VietBank, Vietcombank, VietCapitalBank, SeABank, ShinhanBank, LienVietPostBank, NamABank, Standard Chartered Việt Nam và BIDV. Triển khai chuẩn mực Basel II được coi là giải pháp có tính chiến lược, thay đổi về chất, tạo nền tảng giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam đầy đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, việc áp dụng Basel tại các NHTM Việt Nam còn chưa đồng bộ, đầy đủ, thể hiện theo từng trụ cột trong Basel II (Phụ lục 8).

Kết quả khảo sát tại Bảng 1 (Phụ lục 11), cho thấy hệ thống văn bản quản lý

của Nhà nước trong hướng dẫn, quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tương đối hoàn thiện và đầy đủ. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển mới với sự hội nhập kinh tế quốc tế, sự tác động của CMCN 4.0 và những thay đổi thói quen

của khách hàng sau giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19... Nhà nước đã liên tục có những điểu chỉnh, cập nhật văn bản kịp thời bảo đảm giúp các NHTM nhanh chóng có những cách thức triển khai phù hợp với điều kiện của mình trong quả lý RRTD. Với điểm đánh giá là 3,61/5 và 4,32/5 tiêu chí “Hệ thống văn

bản quản lý về RRTD đầy đủ theo hướng bao trùm được các nội dung quản lý và phù

hợp với thực tiễn, quy định của quốc tế như Basel…” được đánh giá cao nhất từ của

87

cán bộ quản lý tại NHNN (bao gồm các Chi nhánh) và các cán bộ quản lý, nhân viên tại các NHTM. Tiếp đến là tiêu chí “Hệ thống văn bản công khai minh bạch, dễ

tiếp cận và rõ ràng theo các nội dung quản lý” được đánh giá 3,48/5 từ các NHTM

và 4,29/5 từ các chi nhánh NHNN. Tiêu chí được đánh giá thấp hơn các tiêu chí còn

lại là “Hệ thống văn bản quản lý RRTD của NHNN được cập nhật thường xuyên và thống nhất, không chồng chéo” hoàn toàn phù hợp với điều kiện bối cảnh phát triển

của ngành ngân hàng giai đoạn 2011-2022. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra sự chênh

trong đánh giá của CBQL, NV tại NHNN và NHTM thể hiện góc độ tiếp cận và nhu

cầu đối với hệ thống văn bản quản lý của hai chủ thể thể này có sự khác nhau nhất

định. Kết quả này phản ánh thực tế trong triển khai hệ thống văn bản quản lý về đỗ trễ nhất định nhằm cụ thể hoá các văn bản phù hợp với yêu cầu quản lý RRTD tại các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Nguyên nhân của vấn đề này là yêu

cầu quản lý RRTD của các NHTM thường thay đổi rất nhanh do sự biến động liên tục

của bối cảnh về hội nhập về các yêu cầu trong Basel II, III hay yêu cầu của chuyển

đổi số, sự biến động của thị trường bất động sản cũng như thị trường chứng khoán.

Trong khi đó, phản ứng chính sách của NHNN thường chậm hơn do yêu cầu quản lý

chung của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ cũng như khó khăn về nguồn lực…

3.3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín

dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

3.3.2.1. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tại Việt Nam, Quốc hội là cơ quan cao nhất có thẩm quyền quyết định về chính

sách tiền tệ. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 [73], quy định về vị trí và

chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo đó “Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam là cơ quan ngang bộ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng QLNN về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng phát hành tiền, là ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ” [73]. Luật các Tổ chức tín dụng

Việt Nam năm 2010 [74], quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể TCTD; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh NHNNg, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Luật các TCTD cũng quy định các cơ quan QLNN đối với hoạt động

ngân hàng. Trong cơ cấu thực hiện QLNN của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng

nói chung và đối với RRTD tại các NHTM nói riêng NHNN có vai trò trung tâm, các

88

Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Công Thương... có vai trò phối hợp thực hiện quản lý chuyên môn theo chức năng nhiệm vụ của mình. Trong phạm vi nghiên cứu

của luận án, nghiên cứu sinh tập trung làm rõ vai trò của NHNN trong thực hiện QLNN

đối với RRTD trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.

Hình 3.8. Cơ cấu tổ chức NHNN

(Nguồn: Nghị định số 102/2022/NĐ-CP ngày 12/12/2022 của Chính phủ) NHNN Việt Nam trước đây là Ngân hàng quốc gia Việt Nam, được thành lập theo Sắc lệnh số 15 ngày 06/5/1951 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nghị định số 171-CP ngày 26/10/1960 của Hội đồng Chính phủ quy định lại chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng quốc gia Việt Nam và chính thức đổi là NHNN Việt Nam. Với chức năng của cơ quan QLNN, NHNN Việt Nam thực hiện QLNN về tiền

89

tệ và hoạt động ngân hàng như: cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với TCTD, cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức khác; quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.... Với chức năng là NHTW. Theo Nghị định số 102/2022/NĐ-CP ngày 12/12/2022 của Chính phủ, NHNN Việt Nam có 26 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị có trách nhiệm hỗ trợ Thống đốc NHNN thực hiện chức năng QLNN và chức năng NHNN, 6 đơn vị là tổ chức sự nghiệp.

Theo quy định hiện hành, NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất bao gồm: Bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở trung tâm và các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các văn phòng đại diện trong nước, nước ngoài và các đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở quy định của Luật NHNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2022/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [8]. Trong đó, tiếp tục kiện toàn “Vụ Ổn định tiền tệ, tài chính” kể từ khi được thành lập năm 2014 nhằm tăng cường khả năng giám sát an toàn vĩ mô, thực hiện nhiệm vụ “ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính”, bao gồm việc “đề xuất các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính” và “xây dựng chính sách, biện pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính”. Việc thành lập Vụ Ổn định tiền tệ, tài chính được các chuyên gia nước ngoài (IMF, WB, ADB...) đánh giá cao trong chính sách của Việt Nam, vì đã giải quyết một phần trong hệ thống tài chính hiện hành. Về cơ bản sự ổn định, an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững. Năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành, các chuẩn mực, thiết chế an toàn của hệ thống TCTD từng bước được củng cố, tiệm cận thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Đối với vai trò giám sát đối với các NHTM thì Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập và là một bộ phận quan trọng giúp NHNN thực hiện chức năng giám sát vĩ mô và giám sát vi mô đối với hoạt động của các NHTM, cụ thể:

Điều 15, Thông tư 08/2022/TT-NHNN quy định nội dung giám sát an toàn vĩ mô đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài qua đó Cục 4 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện chức năng giám sát vĩ mô thông qua việc phân tích, nhận định mức độ lành mạnh tài chính nhằm phát hiện rủi ro ảnh hưởng đến an toàn hệ thống; Phân tích, nhận định các diễn biến kinh tế vĩ mô, tác động của các lĩnh vực khác trong nền kinh tế có nguy cơ ảnh hưởng đến mức độ ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài… Mô hình thanh tra, giám sát tại Phụ lục 13-14.

Đồng thời, bản thân Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng cũng thực hiện chức năng giám sát vi mô theo khoản 3 Điều 9 Thông tư 08/2022/TT-NHNN quy đinh về

90

giám sát rủi ro an toàn vi mô thông qua việc sử dụng mô hình và phương pháp phân tích rủi ro do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ và/hoặc thực hiện phân tích, nhận định về rủi ro của đối tượng giám sát ngân hàng…

Để bảo đảm hiệu quả trong QLNN đối với RRTD thì cần có sự phối hợp giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trong việc thực hiện kế hoạch thanh tra. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đầu mối phối hợp, hướng dẫn toàn hệ thống bảo đảm việc giám sát vĩ mô, vi mô được hiệu quả. Thực tiễn giai đoạn 2011-2022 thì việc giám sát sát vi mô và giám sát vĩ mô đã được Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng quan tâm thực hiện nghiêm túc theo quy định đặc biệt sau khi Thông tư 08/2022/TT-NHNN có hiệu lực thi hành.

Thực hiện phân cấp QLNN giữa NHNN và chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Trong cơ cấu tổ chức của NHNN, các Chi nhánh ngân hàng là đơn vị trực thuộc, được thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo ủy quyền của Thống đốc, thực hiện chức năng QLNN về hoạt động tiền tệ trên địa bàn. Bên cạnh đó, trong thực hiện QLNN đối với RRTD của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn vừa qua thì bản thân các NHTM vừa đóng vai trò là chủ thể giúp Nhà nước trong thực hiện chính sách tiền tệ qua đó bảo đảm quản lý tốt các RRTD, phối hợp với NHNN trong cơ chế báo cáo sự tuân thủ đối với quản lý RRTD. Đồng thời, NHTM là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của NHNN trong quản lý vĩ mô đối với RRTD qua đó bảo đảm sự ổn định của thị trường tiền tệ của Việt Nam.

Kết quả thống kê dữ liệu tại Bảng 2 (Phụ lục 11), cho thấy, đánh giá về phân công chức năng, nhiệm vụ và hoạt động phối hợp của các cơ quan trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM cho thấy, chủ thể quản lý đánh giá cao hơn các doanh nghiệp kinh doanh, cụ thể: Đối với việc phân công chức năng, nhiệm vụ thì ý kiến đánh giá từ các cơ quan QLNN đều đánh giá ở mức độ tốt với 3,67 và 3,68/5 điểm. Ngược lại, đối với đánh giá từ các NHTM đánh giá ở mức độ trung bình với mức điềm là 3,28 và 3,06/5 điểm. Tương tự, điều này được lặp lại khi NCS lấy ý kiến hai nhóm đối tượng này về hoạt động phối hợp trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Sự chênh lệch trong kết quả lấy ý kiến thể hiện góc nhìn của hai nhóm đối tượng khác nhau về bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, đối với năng lực của đội ngũ cán bộ QLNN đối với RRTD cũng cho thấy sự chênh lệch trong đánh giá giữa CBQL từ các chi nhánh NHNN có sự đánh giá cao hơn với 4,14; 4,23 và 4,12/5 điểm so với 3,48; 3,62 và 3,47/5 từ các cán bộ, nhân viên tại các NHTM. Hiện nay, vị thế của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều thay đổi, tuy vẫn thuộc Chính

91

phủ nhưng tính độc lập ngày càng thể hiện rõ trong việc điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, chủ động hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế cũng như quản lý đối với RRTD của các NHTM. Mô hình cơ chế tài chính của NHNN được xây dựng với các nội dung riêng, đặc thù, là sự pha trộn giữa nguyên tắc quản lý tài chính của các bộ, ngành hiện nay và cơ chế tài chính của một ngân hàng trung ương theo thông lệ quốc tế. Theo đó, NHNN được giao quản lý, sử dụng nguồn vốn, quỹ thuộc sở hữu nhà nước, có bảng cân đối tài sản riêng; NHNN không sử dụng kinh phí từ (NSNN) mà sử dụng nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ngân hàng Trung ương để bù đắp các chi phí hoạt động, kết quả tài chính hàng năm được trích lập vào các quỹ và nộp phần còn lại vào NSNN. Tuy nhiên, đối với các khoản thu, chi tài chính và quy trình lập, thực hiện kế hoạch kinh phí khoán hàng năm của NHNN, về nguyên tắc phải tuân thù Luật NSNN.

3.3.2.2. Thực trạng triển khai các nội dung quản lý nhà nước đối với rủi ro

tín dung trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

(1) Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 nhằm định hướng cho NHNN và NHTM trong triển khai hoạt động cũng như có định hướng trong quản lý RRTD. Các NHTM căn cứ vào chiến lược của ngành có thể xây dựng Chiến lược phát triển của mình trong đó xây dựng lồng ghép các nội dung liên quan đến quản lý RRTD. Hơn nữa, theo từng giai đoan 05 năm, Chính phủ đều ban hành các đề án tái cấu trúc các TCTD nhằm bảo đảm phù hợp với các điều kiện trong bối cảnh mới như: Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” và Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”. Trong đó, xác định rõ việc “Triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại các NHTM Nhà nước nắm cổ phần chi phối và NHTM cổ phần có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn vào cuối năm 2025; phấn đấu đến năm 2023, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của các NHTM đạt tối thiểu 10 - 11%; đến năm 2025, đạt tối thiểu 11-12%”, để làm căn cứ định hướng cho các NHTM triển khai xây dựng chiến lược, chính sách liên quan. Bên cạnh đó, chất lượng dữ liệu và hệ thống CNTT là yêu cầu bắt buộc để quản lý rủi ro trong giai đoạn hiện nay.

Với sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, các NHTM tiếp tục tập trung khai thác có hiệu quả Kho dữ liệu doanh nghiệp (EDW) để hỗ trợ các đơn vị nâng

92

cao hoạt động quản lý cũng như giám sát và quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, các NHTM đồng thời thực hiện tăng cường hiệu quả công tác cảnh báo sớm thông qua sử dụng ứng dụng AI (trí tuệ nhân tạo) để nhận biết sớm các khách hàng tiềm ẩn rủi ro suy giảm khả năng trả nợ, từ đó kịp thời triển khai các giải pháp ứng xử phù hợp, hỗ trợ tích cực công tác quản lý chất lượng nợ và kiểm soát kế hoạch tài chính của NHTM. Để đảm bảo công tác quản lý RRTD đưoc hiệu quả, một số ngân hàng như Vietcombank, ViettinBank đã xây dựng “văn hóa” QTRR trong bộ máy tổ chức. “Văn hóa” này được tạo nên bởi quá trình xây dựng HĐKD, để từ đó có thể triển khai đồng bộ và sâu rộng tới tất cả nhân viên trong ngân hàng.

(2) Nhận biết và đo lường RRTD * Nhận biết RRTD: CMCN 4.0 với sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số sẽ làm tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao hoạt động. Điều này đặt ra thách thức cho các NHTM về an toàn hệ thống, vấn đề bảo mật thông tin, về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thức về số lượng, chất lượng, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin phục vụ cho các NHTM. Tuy nhiên, với sự tiến bộ về khoa học công nghệ của CMCN 4.0, xu hướng “ngân hàng không giấy” sẽ trở nên phổ biến và khi đó vai trò của các chi nhánh sẽ giảm đi. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ đối với ngành Ngân hàng trong việc giảm dần vai trò của các chi nhánh.

Kết quả khảo sát cán bộ, nhân viên tại một số NHTM tại Bảng 3 (Phụ lục 11) về việc nhận diện RRTD cho thấy nội dung nhận diện RRTD chưa được đánh giá cao. Các chỉ tiêu đánh giá như tính trung thực trong việc cung cấp thông tin của các bộ tín dụng, việc tìm hiểu kỹ về người vay, mục đích vay, đánh giá khả năng trả nợ của cán bộ thẩm định hay kiểm tra đều chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình. Cụ thể, tiêu chỉ cán bộ tín dụng trung thực trong việc cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng và thực hiện đúng quy định về cho vay đối với khách hàng có điểm đánh giá là 3,51/5 điểm; “Cán bộ tín dụng thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình” có điểm đánh giá là 3,18/5 điểm và tiêu chí “Cán bộ thẩm định cho vay luôn tìm hiểu kỹ về người vay, mục đích vay, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trung thực và cụ thể” có điểm đánh giá là 3,49/5 điểm. Riêng tiêu chí “Việc cấp tín dụng dựa trên giao dịch thương mại thực tế và đúng với mục đích vay vốn” có điểm đánh giá rất thấp là 2,91/5 điểm. Có thể nhận thấy trong các nguyên nhân gây ra rủi ro thì nguyên nhân khách quan là khó phòng tránh nhất. Tuy nhiên, cũng có thể giảm bớt tổn thất nếu dự đoán đúng xu hướng để thực thi chính sách phân tán rủi ro hợp lý. Và với nhận diện chủ quan này, lâu nay chúng ta thường cho rằng: “Tổn thất do nguyên nhân khách quan thường chiếm tỷ trọng không lớn”. Có thể

93

nói rằng, đại dịch COVID-19 xảy ra đã làm thay đổi căn bản nhiều dự báo, thậm chí những dự báo và lý thuyết mang tính chất kinh điển. Dịch COVID-19 xuất hiện làm thay đổi nhiều hành vi, thói quen, tập quán của con người đến mọi tổ chức, và đặc biệt với các NHTM.

* Đo lường RRTD: Hiện nay, có nhiều phương pháp khác nhau để đo lường RRTD, tuy nhiên phương pháp được các NHTM Việt Nam sử dụng phổ biến hơn cả là phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ. Cụ thể, quy định tại Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định xếp hạng TCTD, chi nhánh NHNNg và Thông tư số 23/2021/TT-NHNN ngày 31/12/2021 của Thống đốc NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định về xếp hạng TCTD, chi nhánh NHNNg đã có những chỉ dẫn cụ thể, chi tiết trong từng cấu phần với cả những tiêu chí định tính và định lượng. Hệ thống tiêu chí được sử dụng để xếp hạng khá tương đồng với thông lệ quốc tế thông qua các trọng số nhất định gồm có: Vốn (20%), chất lượng tài sản (30%), quản trị điều hành (10%), kết quả HĐKD (20%), khả năng thanh khoản (15%) và mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (5%). Từng tiêu chí nêu trên sẽ bao gồm nhóm chỉ tiêu định lượng và nhóm chỉ tiêu định tính. Nhóm chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ lành mạnh hoạt động ngân hàng trên cơ sở các số liệu phản ánh hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg. Nhóm chỉ tiêu định tính đo lường mức độ tuân thủ các quy định pháp luật của TCTD, chi nhánh NHNNg. Căn cứ vào mức xếp hạng đạt được, các ngân hàng được xếp vào một trong những hạng sau: Tốt (A) nếu có tổng điểm xếp hạng lớn hơn hoặc bằng 4,5; Khá (B) nếu tổng điểm xếp hạng nhỏ hơn 4,5 và lớn hơn hoặc bằng 3,5; Trung bình (C) nếu tổng điểm xếp hạng nhỏ hơn 3,5 và lớn hơn hoặc bằng 2,5; Yếu (D) nếu tổng điểm nhỏ hơn 2,5 và lớn hơn hoặc bằng 1,5; Yếu kém (E) nếu tổng điểm xếp hạng nhỏ hơn 1,5. Có thể nói, việc ban hành một khuôn khổ chung trong việc đánh giá mức độ an toàn, lành mạnh trong hoạt động của các TCTD có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hội nhập ngày càng tăng của thị trường tài chính toàn cầu. Qua đó, giúp cơ quan quản lý có các biện pháp can thiệp và xử lý phù hợp, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Việc xếp hạng tín dụng được thực hiện theo quy trình cụ thể gắn với quy định của Nhà nước (Phụ lục 10).

Theo Basel, có hai phương pháp tiếp cận là phương pháp tiêu chuẩn và phương pháp xếp hạng nội bộ (Internal Rating Based Approach - IRB bao gồm FIRB - xếp hạng nội bộ cơ bản và AIRB - Xếp hạng nội bộ nâng cao). Theo cách tiếp cận IRB, ngân hàng phải xây dựng các công cụ đo lường PD, LGD và EAD để tính toán tổn thất dự kiến và ngoài dự kiến cho mỗi khoản vay. Trong đó PD là xác

94

suất khách hàng không trả được nợ, LGD là tỷ trọng tổn thất ước tính và EAD là tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ. PD được sử dụng để đo lường khả năng khách hàng không trả được nợ trong một khoảng thời gian thường là một năm. Với Quyết định số 2505/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chấp thuận cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) triển khai áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN kể từ ngày 01/12/2019, trước thời hạn hiệu lực của Thông tư 41/2016/TT-NHNN. BIDV luôn thể hiện rõ quyết tâm triển khai áp dụng các chuẩn mực Basel. VietinBank quan tâm đến việc đo lường RRTD và đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ việc chấm điểm, xếp hạng và phân loại đối với khách hàng theo mức độ RRTD. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của VietinBank gồm 2 cấu phần được xây dựng tương ứng với 2 đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp. Đối với khách hàng doanh nghiệp, VietinBank thực hiện việc phân loại theo 4 nhóm ngành nghề (gồm: nông, lâm và ngư nghiệp; thương mại và dịch vụ; xây dựng; công nghiệp) và 3 nhóm quy mô (gồm: doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp nhỏ). Trên cơ sở đó, VietinBank chấm điểm cho doanh nghiệp theo 2 bộ chỉ tiêu (chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính) và phân chia doanh nghiệp thành 10 hạng khác nhau theo mức độ RRTD tăng dần (AA+, AA, AA-, BB+, BB, BB-, CC+, CC, CC-, C). Điểm quan trọng nhất trong xếp hạng tín dụng nội bộ của VietinBank là xây dựng một hệ thống chỉ tiêu rất chi tiết để đánh giá các mặt năng lực cụ thể của doanh nghiệp và một hệ thống trọng số đo lường ảnh hưởng của từng chỉ tiêu đến kết quả đánh giá năng lực doanh nghiệp. Do đó, việc đo lường và lượng hoá RRTD của khách hàng được thực hiện tương đối chính xác và dễ dàng.

Qua bảng kết quả đánh giá tại Bảng 4 (Phụ lục 11), chỉ có 2 tiêu chí nhận được sự đồng tình cao của các CBQL, cao nhất là tiêu chí “Việc chấm điểm xếp hạng khách hàng đảm bảo kịp thời, chính xác cho công tác đo lường, theo dõi rủi ro” với mức điểm 3,54/5 điểm và còn tiêu chí “Phương pháp chấm điểm xếp hạng tín dụng phù hợp” với mức điểm 3,15/5 điểm. Các tiêu chí còn lại chỉ được đánh giá ở mức độ bình thường, đó là: Tiêu chí “Các dữ liệu được sử dụng chấm điểm đảm bảo độ tin cậy” với điểm đánh giá là 3,07/5 điểm; tiêu chí “Kết quả chấm điểm, xếp hạng khách hàng hợp lý” với mức điểm 3,10/5 điểm. Trong đó có 3 tiêu chí có điểm đánh giá thấp hơn hẳn là “Phương pháp chấm điểm được kiểm tra, đánh giá định kỳ về tính chính xác, hợp lý” và “Các chỉ tiêu chấm điểm xếp hạng chính xác” đều có mức điểm là 3,03 và 2,88/5 điểm; Chỉ tiêu “Thông tin thu thập chấm điểm phong phú” có mức điểm 2,8179/5 điểm. Điều đó có nghĩa là tại các chi nhánh phương pháp và thông tin thu thập chấm điểm phong phú còn chưa được cán

95

bộ ngân hàng đánh giá cao chỉ có thông tin tài chính của khách hàng được chú trọng. Các chỉ tiêu chấm điểm, cách thức chấm điểm chưa được kiểm tra đánh giá thường xuyên để đảm bảo tính chính xác, cập nhật. Kết quả khảo sát cũng có sự thống nhất khi NCS thực hiện phỏng vấn các chuyên gia về vấn đề này khi hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thường được cấu trúc riêng biệt đối với ba nhóm đối tượng khách hàng chính, bao gồm: Nhóm khách hàng doanh nghiệp (doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp tiềm năng), nhóm khách hàng cá nhân/hộ kinh doanh và nhóm khách hàng là định chế tài chính. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tuy giúp ngân hàng đo lường rủi ro giao dịch nhưng chưa đánh giá được rủi ro danh mục tổng thể. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng cho thấy bước tiến mới của các ngân hàng trong vận dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro vào điều kiện cụ thể tại Việt Nam.

(3) Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro: Năm 2010, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ- NHNN với tinh thần từng bước tiếp cận Basel II. Các cam kết có thời hạn ban đầu dưới 01 năm và từ 01 năm trở lên sẽ nhận được CCF lần lượt là 20% và 50%, các khoản thay thế tín dụng trực tiếp (bảo lãnh, thư tín dụng dự phòng và chấp nhận thanh toán) có CCF 100%. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN bổ sung hệ số chuyển đổi của các hợp đồng giao dịch lãi suất và giao dịch ngoại tệ so với Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Thông tư số 13/2010/TT- NHNN có một số bất cập; do đó, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014, Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 27/5/2016 và Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016.

Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN thay thế Thông tư số 13/2010/TT-NHNN với phương pháp tiếp cận nhiều hơn các nội dung của Basel II, yêu cầu các NHTM ban hành nhiều quy định nội bộ về cấp tín dụng, đánh giá chất lượng tài sản và tuân thủ hệ số an toàn vốn (CAR), quản lý thanh khoản nhằm nâng cao năng lực quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn cho HĐKD. Quy định về CCF của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN điều chỉnh hệ số RRTD từ 20% lên 50% đối với thư tín dụng không thể hủy ngang. Tiếp theo đó, Thống đốc NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 27/5/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN thay đổi một số hệ số rủi ro cho khoản vay bất động sản nhằm tạo điều kiện thực hiện dễ dàng hơn cho các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời, Thông tư số 06/2016/TT-NHNN bổ sung cam kết hạn mức

96

cấp tín dụng không thể hủy ngang trong nhóm hoạt động ngoại bảng có CCF 100% và làm rõ các cam kết được áp dụng CCF 50% là các cam kết không thể hủy ngang. Mặc dù được đánh giá là đã tiếp cận khá gần với quy định trong Basel II, song, Thông tư số 36/2014/TT-NHNN và Thông tư số 06/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung, xét trên 3 trụ cột còn nhiều hạn chế. Vì vậy, ngày 30/12/2016, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định CAR đối với các ngân hàng ở Việt Nam tiệm cận gần 100% nội dung của Basel II trên cơ sở tiếp cận cả 3 trụ cột của Basel II. Theo nội dung Basel II, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN bổ sung quy định CCF 100% sẽ được áp dụng cho việc cho vay chứng khoán ngân hàng hoặc đăng ký chứng khoán làm tài sản thế chấp của ngân hàng, bao gồm cả những trường hợp phát sinh từ giao dịch theo kiểu repo (ví dụ như repo/repo đảo ngược và cho vay chứng khoán/vay chứng khoán giao dịch) để tính toán các tài sản có rủi ro, trong đó mức độ tiếp xúc tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp đủ điều kiện. Đáng lưu ý, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN đã đưa ra quy định CCF 10% thay vì 0% cho các khoản cam kết có thể hủy ngang vô điều kiện theo quy định của Basel III. Ngày 18/5/2018, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 13/2018/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó chỉ rõ trạng thái rủi ro của NHTM phải kể đến cả phần giá trị của các khoản mục có rủi ro ngoại bảng, bên cạnh giá trị của tài sản có rủi ro và nợ phải trả rủi ro nội bảng. Trong đó, NHNN cũng nêu cụ thể các rủi ro của hoạt động ngoại bảng yêu cầu NHTM nhận diện và quản lý là RRTD, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tập trung, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, rủi ro hoạt động (có rủi ro gian lận).

Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh NHNNg, các NHTM Việt Nam cần đưa ra tỷ lệ nợ xấu mục tiêu, tỷ lệ cấp tín dụng xấu mục tiêu the đối tượng khách hàng, ngành, lĩnh vực kinh tế. Bên cạnh đó các NHTM Việt Nam cũng đưa ra nguyên tắc xác định chi phí bù đắp RRTD trong phương pháp tính lãi suất, định giá sản phẩm tín dụng pricing theo mức độ RRTD của khách hàng và cần thực hiện nguyên tắc áp dụng các biện pháp giảm thiểu RRTD bao gồm cả thẩm quyền phê duyệt các biện pháp giảm thiểu RRTD). Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 cũng yêu cầu về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM như sau: (i) Các mô hình xếp hạng phải lượng hoá các tiêu chí để đánh giá khả năng xác suất KH không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thoả thuận, (ii) Có cơ sở dữ liệu và các phương pháp quản lý dữ liệu để lượng hoá RRTD theo yêu cầu, (iii) Có đầy đủ thông tin về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để cung cấp theo yêu cầu của kiểm

97

toán nội bộ, tổ chức kiểm toán độc lập và các cơ quan chức năng khác, (iv) Kết quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được đánh giá độc lập.

Số liệu từ NHNN cho thấy, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực. Giai đoạn 2011-2021, tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng đều < 3% ngoại trừ năm 2012 là 3,26% và trong đó năm 2019, 2020 các ngân hàng đều kiểm soát tốt RRTD, công tác thu hồi nợ được thực hiện tốt nên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đều ở mức dưới hoặc bằng 3%. Điều này sẽ thấy rõ hơn qua biểu đồ dưới đây: Nhìn vào Biểu đồ cho thấy tỷ lệ nợ xấu trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2020 có sự biến động, ở mức thấp và dao động từ 1,6% - 3,26%. Năm 2012 là năm có tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng là cao nhất ở mức 3,26%, tiếp theo là năm 2011 với tỷ lệ nợ xấu là 2,63%. Điều này dẫn tới tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao. Các NHTM Việt Nam đã thực hiện tốt các biện pháp quản trị RRTD nên tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ mất vốn của ngân hàng được kiểm soát. Năm 2020 tỷ lệ nợ xấu của các NHTM được kiểm soát khá tốt đều < 3%. Cụ thể:

Dựa trên việc phân loại nhóm nợ khách hàng về mặt định lượng, định tính và tỷ lệ trích lập dự phòng theo quy định của NHNN hiện hành các ngân hàng tính toán và trích lập dự phòng RRTD. Tỷ lệ này cao thể hiện mức độ RRTD của danh mục tín dụng lớn. Tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011- 2022 có sự chênh lệch khá lớn giữa các NHTM. Năm 2012 có độ lệch chuẩn cao nhất là 15.3625 về tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM, tỷ lệ này dao động từ 27,0% đến 83,5%. Năm 2019 mức giao động này thấp nhất với độ lệch chuẩn 9.34312, tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản của các NHTM từ 40,5%-77,3% Điều này cho thấy có sự khác biệt giữa các ngân hàng về cơ cấu tài sản. Cụ thể tỷ lệ Dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được biểu hiện dưới biểu đồ sau:

Giai đoạn 2011-2022, các NHTM Việt Nam có tỷ lệ dư nợ cho vay/Tổng tài sản trung bình khoảng trên dưới 50%, có xu hướng tăng dần ngoại trừ năm 2014 và có sự chênh lệch không lớn giữa các năm. Tỷ lệ trung bình Dư nợ cho vay/Tổng tài sản năm 2011 tỷ lệ tỷ lệ này ở mức thấp là 46,52%; các năm 2012, 2013, 2014 tỷ lệ này lần lượt là 51,86%, 52,28%, 52,26% nhưng đến năm 2015, 2016, 2017 tỷ lệ này tăng cao lần lượt là 57,67%, 59,94%, 61,19%, nhưng tỷ lệ này không biến động ở

98

năm 2019, 2020, 2021 với tỷ lệ 64,41% và 65,32%. Năm 2015-2020 tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, nền kinh tế khởi sắc, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn do vậy dư Nợ tín dụng tăng. Tuy nhiên dư nợ tín dụng tăng trưởng nóng sẽ nguy cơ tiềm ẩn RRTD. Theo kết quả đánh giá tại bảng 5 (Phụ lục 11) ta thấy, công tác theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro nhận được đánh giá ở mức bình thường. Tiêu chí “Đánh giá đúng thực trạng RRTD” được đánh giá cao nhất với mức điểm là 3,32/5 điểm, tiếp đến là “NHTM luôn theo dõi thường xuyên các RRTD” và “Có các biện pháp điều chỉnh RRTD” được đánh giá lần lượt là 3,05 và 3,11/5 điểm. Hai tiêu chí còn lại “Hệ thống thông tin đồng bộ cho việc đánh giá” và “Các chỉ tiêu đánh giá hợp lý” chỉ được đồng ý ở mức bình thường với điểm đánh giá là 3,01 và 2,83/5 điểm.

(4) Kiểm soát và tài trợ RRTD * Kiểm soát RRTD Các kỹ thuật kiểm soát RRTD được thể hiện khá rõ nét trong hệ thống các văn bản thực thi chính sách tín dụng của các NHTM Việt Nam. Các kỹ thuật kiểm soát rủi ro bao gồm:

Né tránh rủi ro: Kỹ thuật này được thể hiện khá rõ nét thông qua chính sách khách hàng của các NHTM như BIDV, Vietcombank, TPBank... Mục tiêu chính sách nhằm chọn lọc khách hàng vay vốn, chủ động né tránh RRTD bằng chính sách cấp tín dụng riêng cho từng nhóm khách hàng. Căn cứ vào kết quả đo lường rủi ro cho từng khách hàng từ hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, khách hàng sẽ được xếp thành 10 mức xếp hạng và phân thành 7 nhóm khách hàng để áp dụng chính sách cụ thể theo nhóm. Với các mức xếp hạng khác nhau khách hàng sẽ được áp dụng các chính sách cho vay và mức tài sản đảm bảo khác nhau.

Kỹ thuật ngăn ngừa rủi ro: Kỹ thuật này triển khai áp dụng thông qua quy trình cấp tín dụng chặt chẽ qua nhiều công đoạn xử lý đảm bảo sự tách bạch giữa các chức năng và quy chế phân cấp ủy quyền trong phán quyết tín dụng nhằm phát huy nguyên tắc bỏ phiếu trong quyết định cho vay. Quy trình tín dụng đảm bảo tính độc lập các công đoạn trong quá trình xét duyệt tín dụng, tách bạch được các chức năng, có thể hạn chế RRTD phát sinh. Tuy nhiên trên thực tế thời gian phê duyệt tín dụng sẽ bị kéo dài do ý kiến không đồng nhất giữa các bộ phận, làm giảm khả năng cạnh tranh ngân hàng.

Kỹ thuật giảm thiểu tổn thất: Kỹ thuật này cơ bản dựa vào tài sản đảm bảo với cơ chế linh hoạt trong việc cho phép m ở rộng đối tượng tài sản đảm bảo và phương pháp định giá khoa học nhằm hạn chế thấp nhất sự trượt giá tài sản đảm bảo khả năng giảm thiểu tổn thất khi xảy ra RRTD. Chính sách cho phép mở rộng đối tượng tài sản đảm bảo được phép nhận cả những tài sản chưa hoàn thiện giấy tờ sở

99

hữu cho thấy quan điểm rất tiến bộ của các NHTM. Tuy nhiên với hệ số điều chỉnh kèm theo đã thể hiện sự thận trọng của các NHTM với “nguồn thu nợ thứ hai” này. Có thể nhận thấy sự linh hoạt trong quá trình điều chỉnh chính sách này là một kênh giám sát RRTD rất hữu hiệu.

Đa dạng hoá rủi ro: Kỹ thuật này được triển khai thông qua định hướng công tác tín dụng trong từng thời kỳ nhằm xác định danh mục lĩnh vực, ngành nghề và sản phẩm tín dụng phù hợp với sự thay đổi môi trường kinh doanh.

Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam hiệu nay cũng cố gắng xây dựng môi trường RRTD thích hợp và quy trình cấp tín dụng lành mạnh: Những năm qua, các NHTM đã xây dựng hệ thống chế độ, chính sách tín dụng khá đồng bộ trên cơ sở nghiên cứu và đề xuất của các phòng, ban nghiệp vụ và sự tham mưu của các đơn vị, chuyên gia tư vấn, được phê duyệt bởi Ban lãnh đạo và Hội đồng quản trị. Chính sách tín dụng được ban hành đồng bộ, bao gồm Quy định cấp giới hạn tín dụng; Quy trình cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân; Quy chế Hội đồng tín dụng; Quy định bảo đảm tiền vay; Quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng…

* Khẩu vị RRTD của các NHTM Việt Nam: Xây dựng khung khẩu vị rủi ro là một nội dung khá mới đối với các NHTM tại Việt Nam. Việc xác định khẩu vị rủi ro chỉ được quan tâm đúng mức từ khi các NHTM thực hiện triển khai Basel II và sau đó là Thông tư 13/2018/TT-NHNN ra đời. Theo Thông tư 13/2018/TT-NHNN, các NHTM phải xây dựng một bộ máy quản trị rủi ro và giám sát rủi ro bao gồm các ủy ban thuộc Hội đồng quản trị (ủy ban QLRR, ủy ban nhân sự) và các hội đồng thuộc Ban Tổng giám đốc (hội đồng rủi ro, hội đồng ALCO, hội đồng quản lý vốn). Vai trò của Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên và Ban điều hành trong khung QLRR bao gồm: (1) xác định mức KVRR; (2) giám sát và đánh giá về quy trình quản trị rủi ro; (3) phê duyệt kế hoạch về vốn của ngân hàng. Theo đó, để triển khai khẩu vị rủi ro theo thông lệ quốc tế và Thông tư 13/2018/TT- NHNN, các NHTM Việt Nam cần xây dựng một khung khẩu vị rủi ro bao gồm các nội dung: (i) Nguyên tắc quản lý (ii) tuyên bố cấp cao về khẩu vị rủi ro, (iii) xác định mức chịu đựng rủi ro tổng thể, (iv) xây dựng các chỉ số rủi ro chính và (v) xác định ngưỡng chịu đựng cho mỗi chỉ số rủi ro chính.

Về việc xây dựng mức chịu đựng rủi ro tổng thể, các chỉ số rủi ro chính và các ngưỡng chỉ số rủi ro chính. Hiện nay, theo Điều 24 Khoản 2 Thông tư 13/2018/TT- NHNN quy định mức chịu đựng rủi ro tổng thể của các NHTM Việt Nam bao gồm các chỉ tiêu sau (trích Thông tư 13): “...(i) Tỷ lệ an toàn vốn mục tiêu; (ii) Chỉ tiêu về thu nhập: Tỷ suất giữa lợi nhuận so với Vốn chủ sở hữu (Returns on Equity - ROE);

100

tỷ suất giữa lợi nhuận có điều chỉnh rủi ro so với Vốn tự có (Risk Adjusted Returns on Capital - RAROC); (iii) Chỉ tiêu khác theo quy định nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;…”.

Đồng thời trong Thông tư 13/2018/TTNHNN cũng đưa ra các chỉ số rủi ro chính cho các rủi ro trọng yếu. Từ việc triển khai Thông tư 13/2018/TT-NHNN, phần lớn các NHTM Việt Nam đang triển khai Basel 2 đã dựa trên chính sách, quy trình quản trị các loại rủi ro trọng yếu để thiết lập nên khung khẩu vị rủi ro bao gồm việc xây dựng mức chịu đựng rủi ro tổng thể, thiết lập các chỉ số rủi ro chính và dựa trên hệ số chịu đựng rủi ro tổng thể để đưa ra ngưỡng cho các chỉ số rủi ro chính theo yêu cầu. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng, các chỉ số rủi ro chính theo Thông tư 13/2018/TT-NHNN cho mỗi rủi ro còn đơn giản và mới tập trung ở các rủi ro chính, còn một số rủi ro vẫn chưa có hướng dẫn quy định cụ thể. Đánh giá về khẩu vị rủi ro tại các NHTM hiện tại: - Về hệ thống văn bản: các NHTM Việt Nam đã ban hành quy định về khẩu vị

rủi ro và có rà soát chỉnh sửa định kỳ.

- Về việc xây dựng khẩu vị rủi ro hàng năm: Từ năm 2011-2021, các NHTM đều duyệt tuyên bố khẩu vị rủi ro gồm 4 nhóm chỉ tiêu: Chỉ tiêu thu nhập, chỉ tiêu vốn, chỉ tiêu rủi ro, chỉ tiêu định hạng tín nhiệm.

- Về việc vận hành, giám sát khẩu vị rủi ro: các NHTM Việt Nam mới có khâu giám sát chứ chưa thực sự vận hành khẩu vị rủi ro, đưa khẩu vị rủi ro vào thực tiễn kinh doanh bằng việc phân bổ thành các hạn mức một cách khoa học và định lượng, qua đó có thể tích hợp khẩu vị rủi ro vào chiến lược kinh doanh và kế hoạch kinh doanh. Việc đánh giá tình hình khẩu vị rủi ro được hầu hết các NHTM thực hiện 6 tháng/lần.

* Tài trợ RRTD: Tài trợ tín dụng là số dư tín dụng tối đa chi nhánh cấp cho khách hàng trong một thời kỳ, bao gồm giới hạn cho vay, giới hạn bảo lãnh, giới hạn chiết khấu và các giới hạn tín dụng khác. Các NHTM đã thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN về quy định việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; Thông tư 14/2014/TT-NHNN ngày 20/5/2014 của NHNN về sửa đổi Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Trong quá trình triển khai thực hiện NHNN đã có Công văn số 417/NHNN-TTGSNH ngày 17/01/2019 của Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN về việc trích lập dự phòng ruit ro khi bán nợ cho VAMC. Đặc biệt, gần đây nhất NHNN đã ban hành Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự

101

phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg.

Nghiên cứu số liệu của NHNN có thể thấy được tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM ổn định trong giai đoạn 2011-2019 và tăng trong giai đoạn 2019 - 2022. Tính đến ngày 31/12/2022, dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của VietinBank là 21.500 tỷ đồng, tăng 8.900 tỷ đồng (tương đương tăng 71%) so với đầu năm. Chi phí dự phòng rủi ro cho vay trích lập trong năm 2021 là 14.000 tỷ đồng, tăng 2.500 tỷ đồng (tương đương tăng 22%) so với cùng kỳ năm trước. Đối với Vietcombank, đây là ngân hàng có tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro thấp. Năm 2019 số tiền trích lập dự phòng rủi ro chiếm 0,39% tương đương 7,2 tỷ đồng đến năm 2020 tăng lên 0,75% tương đương 15,1 tỷ đồng và năm 2021 là 0,53% tương đương với 11,36 tỷ đồng. Đối với VPBank, giá trị trích lập dự phòng rủi ro tăng lên trong giai đoạn 2016 - 2022 và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cũng khá cao. Năm 2019 là 2,19% tương đương là 10,6 tỷ đồng. Năm 2020 là 2,67% tương ứng là 13,4 tỷ đồng và năm 2021 là 2,54% tương ứng với 13,7 tỷ đồng. Tại VIB, giá trị trích lập dự phòng rủi ro từ 2017 đến 2019 lần lượt là 8,6 tỷ đồng; 9,85 tỷ đồng và 8 tỷ đồng. Tương ứng với tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro là 1,78%; 1,97% và 1,48%...Tuy nhiên, theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, ngân hàng bắt buộc phải trích 30% dự phòng phần dư nợ tái cơ cấu vào cuối năm nay và 100% trong 2 năm tới. Do đó, áp lực trích dự phòng rủi ro của các TCTD đối với các khoản nợ cơ cấu cho khách hàng là rất lớn.

Quyết định số 689/2022/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025” đã được ban hành ngày 8/6/2022. Như vậy, tính từ năm 2012, đây là Đề án thứ ba được phê duyệt, trước đó là hai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng” được phê duyệt lần lượt theo Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg (giai đoạn 2011-2015) và Quyết định số 1058/2016/QĐ-TTg (giai đoạn 2016-2020). Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trong giai đoạn 2011-2020 đã đạt được một số thành công nổi bật như không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng, khả năng chi trả được đảm bảo, trật tự kỷ cương hoạt động ngân hàng được thắt chặt. Tuy nhiên, những mục tiêu mang tính bản chất của tái cơ cấu như xử lý dứt điểm nợ xấu, tạo ra một hệ thống ngân hàng thực sự lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế với cấu trúc sở hữu đa dạng dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến vẫn chưa thực sự được giải quyết.

102

Tình hình nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015 được xử lý qua các hình thức đa dạng khác nhau như khách hàng tự trả nợ, NHTM sử dụng dự phòng rủi ro (DPRR), NHTM phát mại tài sản bảo đảm (TSBĐ), NHTM bán nợ cho DATC, VAMC hoặc bên thứ ba… Các khoản nợ do khách hàng tự trả được tăng dần sau 3 năm tái cơ cấu, song song với đó, các NHTM cũng đẩy nhanh việc sử dụng DPRR, phối hợp với các cơ quan khác trong việc phát mại TSBĐ để xử lý nợ xấu. Biện pháp chuyển nợ bằng vốn góp hầu như chưa được sử dụng trong thời gian qua, tuy nhiên, nhiều chuyên gia dự báo trong tương lai khi có thêm các tổ chức mua nợ xấu thì khả năng chuyển nợ thành vốn góp sẽ diễn ra nhiều hơn.

Các khoản nợ được cơ cấu lại sẽ có khả năng chuyển sang nợ xấu nếu khách hàng sau khi được cơ cấu lại khoản nợ vẫn không cải thiện được hoạt động kinh doanh và không thể tự trả được nợ sau đó. Còn với các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC (chiếm 4,85% tổng dư nợ tính đến hết tháng 12/2015) thì tiến độ thu hồi nợ của VAMC so với tốc độ mua các khoản nợ xấu cho thấy số nợ được VAMC xử lý trong giai đoạn này khá khiêm tốn, chỉ đạt khoảng 9% trong tổng số nợ gốc đã mua (tính đến hết tháng 12/2015) (Hải Lý, 2016). Trong khi đó, các ngân hàng sau khi bán nợ cho VAMC vẫn phải trích lập dự phòng cho khoản nợ cũng như vẫn phải chịu trách nhiệm chính với các khoản nợ đã bán và nếu hết thời hạn trái phiếu đặc biệt mà VAMC chưa xử lý được khoản nợ thì TCTD phải nhận lại khoản nợ đã bán. Chưa kể số nợ xấu nằm trong ngân hàng đến năm 2015 ước tính khoảng 2,9% theo công bố của NHNN. Với tốc độ xử lý nợ xấu đã mua về của VAMC chậm như vậy, rõ ràng việc bán nợ cho VAMC chỉ là biện pháp kỹ thuật và khả năng các NHTM phải nhận lại các khoản nợ đã bán sau 5 năm là có tồn tại, điều này càng làm tồi tệ hơn tình hình nợ xấu của hệ thống TCTD.

Nghị quyết 42 đã bổ sung quy định cho phép VAMC được bán nợ xấu cho các tổ chức, cá nhân bao gồm cả pháp nhân không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Cuối cùng, bổ sung thêm phương thức mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC. Để tạo điều kiện cho VAMC thực hiện mua bán nợ của TCTD theo giá thị trường, Nghị quyết 42 đã có quy định cho phép VAMC được thỏa thuận với TCTD Việt Nam: (i) Mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập; (ii) Xử lý, bán, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu này sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý. Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi của các bên, Nghị quyết 42 cũng yêu cầu khi thực hiện mua bán nợ theo phương thức này, VAMC phải thống nhất với TCTD lựa chọn tổ chức định giá độc lập.

103

Mặc dù chưa thể xử lý căn bản, triệt để nợ xấu ở giai đoạn này khi tỷ lệ nợ xấu gộp vẫn ở mức cao, thậm chí giai đoạn sau năm 2020 do ảnh hưởng của COVID-19, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của Nghị quyết 42 đối với quá trình xử lý nợ xấu. Luỹ kế từ ngày 15/8/2017 đến hết tháng 4/2022, hệ thống các TCTD đã xử lý gần 435.000 tỷ đồng nợ xấu, trung bình mỗi tháng xử lý được khoảng gần 8.000 tỷ đồng nợ xấu, cao hơn gấp đôi so với kết quả xử lý nợ xấu giai đoạn 2011-2015.

Trong các hình thức xử lý nợ xấu, các khoản nợ do khách hàng tự trả được tăng dần, số nợ bán cho VAMC thông qua trái phiếu đặc biệt giảm dần từ sau năm 2017. Với cơ chế tài chính được nới lỏng khi VAMC được cấp thêm vốn điều lệ năm 2017, tỷ trọng các khoản nợ được mua với giá thị trường tăng lên, góp phần nâng cao năng lực trở thành trung tâm mua bán nợ của VAMC.

Nhờ các biện pháp tích cực, đẩy mạnh xử lý nợ xấu và xử lý TSBĐ trong thời gian qua, năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng nhanh dần qua các năm. Ngoài ra, thị trường mua bán nợ tại Việt Nam còn chậm phát triển. Trong hoạt động thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam, VAMC đóng vai trò trung tâm. Với gần 10 năm đi vào hoạt động, VAMC đang trở thành công cụ đắc lực trong việc mua, bán, xử lí nợ xấu của hệ thống các TCTD. Tính từ ngày 15/8/2017 - khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 chính thức có hiệu lực đến nay, VAMC mua được khoảng 114.200 tỉ đồng nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt. Còn các khoản nợ do VAMC mua theo giá thị trường đạt khoảng 11.822 tỉ đồng.

Một trong những đóng góp lớn nhất của VAMC về việc xử lí nợ xấu đó là phát triển thị trường mua bán nợ, mặc dù các hành lang pháp lí liên quan đến thị trường mua bán nợ bước đầu mới được hình thành. Với nhiều nỗ lực, trong năm 2021, VAMC thành lập Sàn giao dịch nợ VAMC. Đến cuối năm 2023, con số nợ xấu đang niêm yết ở trên giao dịch nợ của VAMC đạt trên 30.000 tỉ đồng, đóng góp quan trọng trong việc hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam. Nhờ đó, hoạt động của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam bước đầu đã có chuyển biến tích cực, góp phần thúc đẩy quá trình xử lí thu hồi nợ của ngành Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Tuy vậy, giai đoạn 2021 đến nay, nợ xấu tiềm ẩn gia tăng cũng do điều kiện khách quan như dịch bệnh COVID-19, biến động địa chính trị như xung đột Nga - Ukraine khiến tỷ lệ nợ xấu khó về đích khi kết thúc thời gian thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14. Chính vì vậy, ngay trong mục tiêu đưa ra trong Quyết định số 689/2022/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2021 - 2025” nhấn mạnh phấn đấu đến năm 2025 tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho

104

VAMC, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu dưới 3% (không bao gồm các NHTM yếu kém). Kết quả khảo sát tại Bảng 6 (Phụ lục 11), về kiểm soát RRTD cho thấy “Định giá lại tài sản đảm bảo của khách hàng phù hợp” nhận được sự đồng tình lớn nhất từ các CBQL tại các NHTM với 3,65/5 điểm. Tiếp đến là “Thực hiện đúng quy trình kiểm soát RRTD” với 3,31/5 điểm. Các nội dung khác được đánh giá ở mức thấp hơn với điểm trung bình từ 3,10 - 3,21/5 điểm. Có thể khẳng định để hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trong giai đoạn vừa qua, NHNN chỉ đạo các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19; tiết giảm chi phí hoạt động, để có điều kiện giám lãi suất ở mức tối đa; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, đa dạng hóa các chương trình, sản phẩm tín dụng phù hợp và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, áp dụng công nghệ tiên tiến để hạn chế giao dịch trực tiếp mà vẫn tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng tiếp cận tín dụng và dịch vụ ngân hàng... Bảng 3.8. Kết quả đánh giá về triển khai các nội dung QLNN đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM (Đơn vị tính: %)

MH

Tiêu chí

Đơn vị

ĐTB

Mức đánh giá 3

2

4

1

5

61

81

91

12

76

TK1

3,49

Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD

3,74 19,00 25,23 28,35 23,67

35

65

124

88

9

TK2 Nhận biết RRTD

2,91

10,90 20,25 38,63 27,41 2,80

14

57

134

89

27

TK3 Đo lường RRTD

3,18

4,36 17,76 41,74 27,72 8,40

38

52

108

108

15

TK4

3,03

Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro

11,84 16,20 33,64 33,64 4,67

6

18

24

26

12

TK5 Kiểm soát RRTD

3,23

6,98 20,93 27,91 30,23 13,95

36

33

111

98

43

TK6 Tài trợ RRTD

3,25

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) %

11,21 10,28 34,58 30,53 13,39

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022) Kết quả khảo sát tại Bảng 3.8 cho thấy, trên cơ sở hướng dẫn tại của NHNN việc triên khai thực hiện quản lý RRTD tại các NHTM được thực hiện ở mức trung

105

bình hoặc khá với nội dung triển khai tốt nhất được đánh giá với 3,49/5 điểm là “Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD”, tiếp đến việc tài trợ RRTD thông qua việc trích lập quỹ dự phòng và các biện pháp phù hợp được đánh giá ở mức 3,25/5 điểm. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn những nội dung chưa được thực hiện tốt và hiệu quả như việc nhận biết rủi ro trong hoạt động của các NHTM mới chỉ được đánh giá ở mức 2,79/5 điểm. Có thể nói việc triển khai hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào sự phản ứng chính sách từ các NHTM qua đó ổn định thị trường tài chính, tiền tệ giúp lưu thông huyết mạch của nền kinh tế trong bối cảnh phát triển mới.

3.3.3. Thực trạng thanh tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Cơ sở của việc thực hiện các hoạt động giám sát ngân hàng của NHNN đối với các NHTM là Luật NHNN năm 2010. Năm 2017, NHNN đã chính thức ban hành Thông tư 08/2017/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng và Sổ tay giám sát ngân hàng ban hành kèm thông tư. Các văn bản này giúp chuẩn hóa và thống nhất nội dung, trình tự, thủ tục giám sát TCTD nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng. Năm 2018, NHNN ban hành thông tư 04/2018/TT- NHNN việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-NHNN. Thông tư 08/2017/TT-NHNN nêu rõ: “Giám sát ngân hàng là hoạt động của đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Trong giai đoạn 2011-2022, Cơ quan thanh tra, giám sát đã liên tục có những văn bản nhắc nhỏ các NHTM trong triển khai các hoạt động của mình nhằm kiểm soát và hạn chế RRTD trong bối cảnh phát triển mới của nước ta cũng như của lĩnh vực ngân hàng như: Công văn số 1270/TTGSNH ngày 25/4/2016 của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN về việc khuyến nghị kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ; Công văn số 417/NHNN-TTGSNH ngày 17/01/2019 của Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN về việc trích lập dự phòng rủi ro khi bán nợ cho VAMC; Công văn số 5876/NHNN-TTGSNH ngày 31/7/2019 của Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN về việc nâng cao chất lượng công tác tín dụng thẩm định tài sản bảo đảm; Công văn số 6128/NHNN-TTGSNH ngày 08/8/2019 về việc kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; Công văn số 6423/NHNN-TTGSNH ngày 19/8/2019 về chỉ đạo TCTD tiếp tục đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42; Công văn

106

số 3029/NHNN-TTGSNH ngày 29/4/2021 về việc một số vấn đề trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh NHNNg...

Trong xu thế toàn cầu hóa và tác động của CMCN 4.0 đến hoạt động của các NHTM của hệ thống tài chính, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng của một nước, dù là nước đang phát triển hay nước phát triển đều có thể đe dọa sự ổn định tài chính cả ở trong nước đó và quốc tế. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã chủ động tham mưu cấp có thẩm quyền xây dựng các cơ chế, chính sách và soạn thảo để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về QLNN và thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Từ năm 2011 đến 2021, CQTTGSNH tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, xử lý các ngân hàng yếu kém, từng bước áp dụng chuẩn mực quốc tế vào hoạt động ngân hàng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, cụ thể: Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD: CQTTGSNH đã chủ động tham mưu Thống đốc NHNN trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, góp phần giải quyết khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của TCTD, VAMC, đảm bảo quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD, VAMC cũng như thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Để triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu quả, tham mưu ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 và các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC13 nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý tạo tiền đề để VAMC đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ theo cơ chế thị trường, Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 17/9/2018 về tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD: Trong năm 2017, CQTTGSNH đã tham mưu Thống đốc NHNN đã xây dựng, trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD (Luật số 17/2017/QH14). Sau khi Luật được thông qua, NHNN đã ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết Luật (bao gồm 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 03 Thông tư), đồng thời tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung với quy định tại Luật. Đặc biệt, trước tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, kịp thời ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/20220 quy định về việc TCTD, chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19; Thông tư số 08/2020/TT-NHNN ngày 14/8/2020 cho phép các TCTD lùi lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn; tạo điều kiện cho các TCTD hỗ trợ tốt hơn cho khách hàng vay vốn phục hồi sản xuất, kinh doanh.

107

Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2011-2022, Cơ quan Thanh tra, giám

sát ngân hàng đã ban hành 345 văn bản cảnh báo gửi đến các NHTM, cụ thể: Bảng 3.9. Số lượng văn bản cảnh báo NHTM giai đoạn 2011-2022

32

29

25

26

31

25

36

40

35

59

62

71

lượng

13

16

14

18

14

19

28

32

16

35

33

32

Đơn vị: số lượng VB/NHTM 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

Chỉ tiêu Số lượng văn bản cảnh báo, khuyến nghị Số NHTM

Nguồn: Báo cáo tổng kết của CQTTGSNH

Số lượng văn bản cảnh báo, khuyến nghị tăng dần qua các năm, trong đó

riêng năm 2020 có số lượng văn bản tăng đột biến, cụ thể:

Bảng 3.10. Số lượng Biên bản xử phạt vi phạm hành chính

Đơn vị: số lượng BB/NHTM

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

4

4

3

5

3

3

4

7

4

3

6

5

Chỉ tiêu BB xử phạt vi phạm hành chính Số lượng NHTM

4

4

3

4

2

3

2

3

2

3

3

6 Nguồn: Báo cáo tổng kết của CQTTGSNH, 2022 NHNN đã thực hiện giám sát toàn bộ hoạt động của từng tổ chức và cả hệ thống TCTD; Mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng giám sát rủi ro, đánh giá chất lượng hoạt động theo các chỉ tiêu CAMELS; Tổ chức các đợt làm việc, khảo sát các TCTD để nắm bắt, giám sát kịp thời tình hình tổ chức, hoạt động và đề xuất biện pháp xử lý phù hợp đối với các TCTD vi phạm và làm cơ sở xây dựng kế hoạch thanh tra. Theo dõi, giám sát chặt chẽ việc chấn chỉnh, xử lý sau thanh tra của các TCTD và yêu cầu các TCTD phải tự xây dựng Phương án tái cơ cấu, củng cố, chấn chỉnh theo Quyết định số 254/QĐ-TTg [42].

Về phía các NHTM, mô hình 3 tuyến phòng thủ trong kiểm soát nội bộ và QTRR đang được các ngân hàng áp dụng và hoàn thiện trong những năm qua: Tuyến phòng thủ đầu tiên là các Đơn vị kinh doanh vừa thực hiện nghiệp vụ vừa quản lý rủi ro phát sinh từ chính hoạt động của mình. Tuyến phòng thủ thứ hai là Khối Quản lý rủi ro có chức năng thiết lập các chính sách, nguyên tắc, hạn mức kiểm soát và giám sát độc lập việc quản lý rủi ro. Tuyến phòng thủ thứ ba là kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban kiểm soát với mục tiêu định hướng rủi ro, thông báo kịp thời về bản chất và mức độ ảnh hưởng của những tồn tại trong hoạt động ngân hàng và đưa ra những kiến nghị ngăn ngừa, khắc phục kịp thời.

108

Mặt khác, các NHTM Việt Nam đang tích cực phối hợp với các công ty kiểm toán lớn để xây dựng lộ trình nâng cao năng lực QTRR như sự hợp tác của Sacombank, Techcombank với E&Y Việt Nam, MB với E&Y Singapore; BIDV, Vietinbank hợp tác với PwC; Vietcombank với E&Y và công ty tư vấn Oliver Wyman... Sự tư vấn từ các công ty kiểm toán và các chuyên gia nước ngoài giúp cho các ngân hàng đi đúng hướng trong quá trình hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro theo mô hình của Basel II.

Kết quả khảo sát tại Bảng 7 (Phụ lục 11) cho thấy hoạt động kiểm tra, thanh tra đối với quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM được quan tâm và thực hiện ở mức trung bình với ĐTB từ 2,83 đến 3,32/5 điểm. Trong đó, việc kiểm tra, giám sát thường xuyên từ Cơ quan kiểm tra, giám sát thuộc NHNN được đánh giá cao nhất, tiếp đến là việc NHNN xử lý việc vi phạm trong quản lý RRTD của các NHTM với 3,11/5 điểm. Ngược lại, việc kiểm tra, thanh tra của NHNN không có sự đa dạng thường là định kỳ hoặc nhắc nhở thông qua các công văn và yêu cầu báo cáo. Tuy nhiên với sự biến động ngày càng lớn bởi bối cảnh hội nhập cũng như tác động của các hiệp định và chuyển đổi số việc kiểm tra, thanh tra cần liên tục đổi mới về hình thức và phương pháp bảo đảm quản lý hiệu quả đổi với các phản ứng của NHTM đối với các RRTD có thể xảy ra.

3.3.4. Thực trạng quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động

của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua các tiêu chí

Để làm rõ hơn thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2022, luận án phân tích kết quả khảo sát đối với cán bộ quản lý, nhân viên tại NHNN và chi nhánh NHNN tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh thông qua các tiêu chí tính phù hợp, sự công bằng, tính hiệu lực, tính hiệu quả của hoạt động quản lý này:

Thứ nhất, mức độ hiệu lực QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam

Kết quả lấy ý kiến đánh giá về nội dung này cho thấy có 5/5 tiêu chí đánh giá trên 3 điểm, trong đó: Tiêu chí được đánh giá cao nhất là “Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong triển khai các văn bản quản lý theo định hướng của Nhà nước” với ĐTB = 3,56/5 điểm, thể hiện việc tổ chức QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam được triển khai theo đúng định hướng phát triển của thị trường tiền tệ và chiến lược phát triển ngành ngân hàng. Hiện nay, hệ thống các văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam bao gồm các văn bản luật như Luật NHNN 2015, Luật các Tổ chức tín dụng 2010…; các văn bản dưới luật là các Nghị định, Chỉ thị của Chỉnh

109

phủ và Thủ tướng chính phủ trong các vấn đề liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, các Thông tư, quyết định của NHNN, Bộ Tài chính... và các đơn vị liên quan; các điều ước quốc tế được ký kết liên quan đến lĩnh vực tài chính, ngân hàng khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, của CPTTP, EVFTA… đã được các chủ thể quản lý triển khai nghiêm túc và đầy đủ, gắn với các định hướng của Nhà nước trong phát triển thị trường tín dụng tại Việt Nam.

Tiếp theo là tiêu chí “Mức độ đầy đủ, kịp thời của hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam” với ĐTB = 3,50/5 điểm. Kết quả đánh giá từ các chuyên gia cho thấy sự đầy đủ, đồng bộ của hệ thống luật pháp với các văn bản luật điều chỉnh về RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam cũng như các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, NHNN và các bộ ngành qua đó giúp các cơ quan quản lý có thể phối hợp nhịp nhàng trong triển khai các hoạt động như xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD; đo lường và đánh giá RRTD; nhận diện RRTD...

Bảng 3.11. Mức độ hiệu lực trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

Các tiêu chí đánh giá

Đơn vị

ĐTB

Ký hiệu

Mức đánh giá 4 3 2

5

1

19

43

37

24

2

Số phiếu (Σ = 125)

3,50

HL1

%

1,60

15,20 34,40 29,60 19,20

0

18

44

38

25

Số phiếu (Σ = 125)

3,56

HL2

0

%

14,40 35,20 30,40 20,00

7

15

35

35

33

3,13

HL3

Mức độ đầy đủ, kịp thời của hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong triển khai các văn bản quản lý theo định hướng của Nhà nước Mức độ tuân thủ các quy định của Nhà nước của các NHTM trong quản lý RRTD

5,60

28,00 26,40 28,00 12,00

Số phiếu (Σ = 125) % Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả Với đặc thù là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường tín dụng hiện nay của nước ta có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, Nhà nước tham gia vào quản lý nhằm tạo ra một môi trường tín dụng an toàn, ổn định giúp các NHTM yên tâm trong thực hiện các chiến lược, kế hoạch kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho biết một số nội dung chưa đạt được các kỳ vọng trong mục tiêu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này như “Mức độ tuân thủ các quy định của Nhà nước của các NHTM trong quản lý RRTD” với ĐTB = 3,13/5 điểm. Có thể nhận thấy, tính hiệu lực của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam được người trả lời đánh giá chỉ trên mức 3 điểm, kết quả này nói rõ các cơ quan quản lý nhà nước đã và đang thể hiện ở mức trên trung bình trong triển

110

khai chức năng, nhiệm vụ của mình. Điển hình như những vụ việc về phát hiện những RRTD liên quan đến nợ xuất xuất phát từ biến động của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản hay những RRTD liên quan đến hội nhập và ảnh hưởng từ các xung đột chính trị, kinh tế của các nước trên thế giới…

Thứ hai, mức độ hiệu quả của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam được đánh giá cả ở góc độ kinh tế và góc độ xã hội và được đánh giá thông qua 03 tiêu chí. Kết quả khảo sát của luận án cho thấy, các chuyên gia chưa đánh giá cao nội dung này. Tiêu chí “Mức độ đảm bảo quyền lợi chính đánh của các NHTM” được đánh giá cao nhất nhưng ĐTB chỉ đạt 3,20/5 điểm. Tiêu chí “Mức độ hiệu quả của bộ máy tổ chức thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM” đều được đánh giá chưa được tốt với mức điểm có ĐTB = 2,93/5 điểm. Kết quả trên thể hiện ở một số nhiệm vụ vẫn còn sự chồng chéo trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Bảng 3.12. Mức độ hiệu quả trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

Các tiêu chí đánh giá

Đơn vị

ĐTB

Ký hiệu

Mức đánh giá 4 3 2

1

5

34

35

37

5

14

Số phiếu (Σ = 125)

3,17

HQ1

%

4,00

27,20 28,00 29,60 11,20

11

37

34

36

7

Số phiếu (Σ = 125)

2,93

HQ2

%

18,40 24,00 63,20 34,40 8,80

Mức độ hiệu quả của hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam Mức độ hiệu quả của bộ máy tổ chức thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

7

13

42

34

29

3,20

HQ3

Mức độ đảm bảo quyền lợi chính đánh của các NHTM

5,60

23,20 27,20 33,60 10,40

Số phiếu (Σ = 125) % Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả Về bản chất hiệu quả quản lý nhà nhà nước được đo lường bằng kết quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM đã giải quyết được hết các nhiệm vụ, có đáp ứng được các mục tiêu đề ra trong quản lý hay không. Đối với QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, kết quả quả quản lý phải đảm bảo thực hiện tốt 03 mục tiêu chính là đảm bảo lợi ích hài hòa của các chủ thể liên quan, đảm bảo sự ổn định của thị trường tín dụng và đảm bảo yêu cầu ổn định của thị trường tiền tệ cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của các NHTM.

Thứ ba, mức độ công bằng trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Đây được đánh giá làm một tiêu chí mang tính chất đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam khi tiêu chí “công bằng” được xác định là một trong những cái đích quan trọng của quản lý nhà

111

nước đối với các hoạt động kinh tế, thương mại nói chung và RRTD trong hoạt động của các NHTM nói riêng. Kết quả khảo sát nội dung trên với tiêu chí “Mức độ đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các NHTM, Nhà nước và xã hội” với mức điểm có ĐTB = 3,40/5 điểm (trong đó có 16,17% người tham gia trả lời đánh giá là thực hiện rất tốt nội dung này, có 27,94% người được hỏi đánh giá là tốt, ngược lại có tới 11,76% người được hỏi đánh giá ở mức kém và đặc biệt là có 4,41% tương đương với 3 phiếu lấy ý kiến đánh giá ở mức 01 điểm tức là rất kém). Bảng 3.13. Mức độ công bằng trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

Các tiêu chí đánh giá

Đơn vị

ĐTB

Ký hiệu

Mức đánh giá 4 3 2

1

5

0

17

34

29

45

3,40

CB1

0

23,20 27,20 36,00 13,60

Mức độ đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa NHTM, Nhà nước và xã hội

Số phiếu (Σ = 125) % Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả Nhà nước luôn tạo ra một môi trường phát triển kinh tế lành mạnh giúp các NHTM có thể triển khai HĐKD của mình tốt nhất, bảo đảm việc thực hiện điều chỉnh, hướng dẫn đối với quản lý RRTD đối với các NHTM không phân biệt quy mô, hình thức sở hữu... Để đảm bảo sự công bằng, Nhà nước đã ban hành đồng bộ hệ thống các văn bản quản lý việc xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD; đo lường và đánh giá RRTD; nhận diện RRTD...

Thứ tư, mức độ phù hợp của hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM

Tính phù hợp được xây dựng trên cơ sở 04 tiêu chí trong đó có 02 tiêu chí được đánh giá ở mức tương đối tốt và 02 tiêu chí đánh giá ở mức bình thường, cụ thể: Tiêu chí được đánh giá cao nhất là “Mức độ phù hợp của các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM với mục tiêu định hướng quản lý ban đầu” với ĐTB = 3,62/5 điểm (trong đó có 58,81% người được hỏi đánh giá là tốt hoặc rất tốt, 26,47% đánh giá ở mức bình thường). Để thực hiện mục tiêu giúp hoạt động của các NHTM Việt Nam được triển khai thông suốt, hiệu quả, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản quản lý, xây dựng các chính sách QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM đảm bảo cho thị trường tài chính Việt Nam phát triển ổn định, hoạt động của các NHTM được bảo đảm giảm thiểu các RRTD có thể phát sinh trong quá trình hoạt động… Kết quả khảo sát mức độ phù hợp của các công cụ QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM như luật pháp, các chính sách tín dụng với các yêu cầu trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM (đáp ứng đúng cơ chế, chính sách về quản lý RRTD; đảm bảo

112

sự phân công, phân cấp trong quản lý; đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và cá nhân…) được đánh giá với ĐTB = 3,26/5 điểm, thể hiện các công cụ quản lý mới đáp ứng được một phần mức độ các yêu cầu đề ra trong công tác QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Ngược lại, tiêu chí “Mức độ phù hợp của hoạt động QLNN với thực tiễn thị trường tín dụng của Việt Nam” lại chưa được đánh giá cao với ĐTB = 3,15/5 điểm. Sở dĩ có kết quả trên là do thị trường tín dụng, tài chính có rất nhiều đặc thù riêng biệt gắn với huyết mạch của nền kinh tế nên yêu cầu về các nội dung quản lý cần phải toàn diện, gắn với từng khâu, từng bước trong kiểm soát các RRTD trong hoạt động của các NHTM qua đó đảm bảo không để ra những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra liên quan đến hoạt động của các NHTM.

Bảng 3.14. Mức độ phù hợp trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

Mức đánh giá

Các tiêu chí đánh giá

Đơn vị

ĐTB

Ký hiệu

1

2

3

4

5

0

17

34

53

21

Số phiếu (Σ = 125)

3,62

PH1

%

0 13,60 27,20 42,40 16,80

0

24

55

35

11

Số phiếu (Σ = 125)

3,26

PH2

%

0 19,20 44,00 28,00 8,80

0

22

56

35

12

Số phiếu (Σ = 125)

3,30

PH3

%

0 17,60 44,80 28,00 9,60

6

21

55

34

9

3,15

PH4

Số phiếu (Σ = 125) %

4,80 16,80 44,00 27,20 7,20

Mức độ phù hợp của các nội dung quản lý với mục tiêu định hướng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ban đầu Mức độ phù hợp của các công cụ, phương pháp quản lý với yêu cầu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Mức độ phù hợp của văn bản Luật trong nước điều tiết quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM với các văn bản Luật quốc tế Mức độ phù hợp của hoạt động QLNN với thực tiễn thị trường tín dụng của Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả Kết quả khảo sát mức độ phù hợp của các hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM cho thấy hệ thống văn bản pháp luật mặc dù đã ngày càng được hoàn thiện, các chính sách ngày càng gắn với thực tiễn nhưng với thực trạng của thị trường tín dụng hiện nay tại Việt Nam có thể nhận thấy sự thay thế của hệ thống văn bản, chính sách liên tục của Nhà nước nhằm điều chỉnh phù hợp nhất với thực tiễn thị trường tín dụng và các rủ ro có thể xuất hiện liên quan đến những thay đổi của bối cảnh tại Việt Nam.

113

3.4. Thực trạng các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nước đối

với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Để làm rõ hơn thực trạng QLNN đối với nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam, luận án này phân tích và đánh giá thực trạng các yếu tố tác động đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Cụ thể:

3.4.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô Trước tiên, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng các yếu tố thuộc về môi trường tác động đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Có 7 yếu tố thuộc về môi trường được lựa chọn nghiên cứu, cụ thể như sau:

(1) Thể chế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ: Thực tế cho thấy, đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII là làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng và chuyển đổi môi trường đã tạo ra nhu cầu mới cho thể chế và các chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Càng nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn đầu tư, mở rộng quy mô, nguy cơ nợ xấu của hệ thống ngân hàng ngày càng tăng cao trước những rủi ro từ doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải đề ra các chính sách phát triển kinh tế mang tính dài hạn, từ đó các tổ chức tài chính trong hệ thống nền kinh tế mới hoạt động một cách hiệu quả và an toàn. Theo kết quả khảo sát điều tra, thể chế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ có tác động lớn đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với điểm trung bình đạt 3,60/5 điểm.

(2) Môi trường pháp lý và các quy định của Basel II: Kết quả khảo sát chỉ ra môi trường pháp lý ảnh hưởng đáng kể đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam (điểm trung bình đạt 3,51/5 điểm). Hơn nữa, đến thời điểm hiện tại, sau hơn 6 năm NHNN chấp thuận áp dụng chuẩn mực về vốn Basel II, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) luôn đạt ở mức trên 9%, cao hơn so với quy định 8%, đảm bảo được thước đo quan trọng nhất về mức độ an toàn hoạt động của ngân hàng.

(3) Sự phát triển KT-XH (Tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp): Kết quả khảo sát cho thấy, tình trạng phát triển của nền kinh tế có tác động lớn đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với số điểm trung bình là 3,14/5 điểm. Các chuyên gia tham gia phỏng vấn cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế phát triển một cách ổn định, tiết kiệm tăng thì lượng tiền gửi vào các NHTM tăng cao. Thực tế, tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên ở mức thấp với 2,05% (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2023). Các chuyên gia cho rằng, Chính phủ Việt Nam đang ngày càng chú trọng để giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp,

114

tạo công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao động, từ đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

(4) Xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng: Theo báo cáo đánh giá chỉ số chuyển đổi số (DTI), NHNN được xếp vị trí thứ nhất về chỉ số xếp hạng an toàn thông tin mạng, thứ hai về chỉ số thể chế số và thứ tư về chỉ số hoạt động chuyển đổi số. Cho đến nay, hơn 95% TCTD (TCTD) đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số. Các NHTM đều đang thúc đẩy đầu tư, ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), máy học (ML), xử lý dữ liệu lớn (Big Data)..., cũng như các ứng dụng, phần mềm hiện đại như tự động hóa quy trình bằng robot (RPA), giao diện lập trình ứng dụng (API)… để tự động hóa quy trình nghiệp vụ, phân tích hành vi/thói quen tiêu dùng, mở rộng hệ sinh thái cung ứng sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những tác động tích cực của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, thì quá trình chuyển đổi số cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và cần phải được quản lý nghiêm ngặt. Các ngân hàng không thể liên tục thay đổi công nghệ của mình do rào cản chi phí, nhưng nếu không liên tục đổi mới công nghệ thì họ có thể phải đánh đổi bằng năng lực cạnh tranh. Kết quả khảo sát điều tra cho thấy xu hướng chuyển đổi số có tác động rất lớn đến đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, điểm trung bình của tiêu chí này là 4,05/5 điểm.

(5) Nhu cầu tín dụng của thị trường: Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng tính đến cuối tháng 12/2022 đạt 9,4% so với đầu năm, cao hơn mức tăng 6,4% của cùng kỳ năm trước. Diễn biến theo tháng cho thấy tín dụng tăng tốc khá mạnh cho đến cuối tháng 6, nhưng sau đó đã chững lại đáng kể do NHNN chưa cấp room tín dụng. Từ năm 2013 đến nay, tăng trưởng tín dụng thường tăng cao hơn trong nửa cuối năm so với nửa đầu năm, chỉ trừ năm 2019. Điều này phù hợp với quy luật nhu cầu vốn mạnh hơn trong nửa cuối năm, tuy nhiên, năm 2022 có một đặc thù là năm phục hồi sau đại dịch, do đó, nhu cầu vốn đã tăng tốc mạnh trong giai đoạn đầu năm. Theo kết quả khảo sát điều tra, với số điểm trung bình đạt 3,68/5 điểm - cao nhất trong số 07 yếu tố thuộc về môi trường, nhu cầu tín dụng của thị trường là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

(6) Hệ thống tài chính thế giới: Những thay đổi trong môi trường tài chính quốc tế gần đây, chẳng hạn như các chính sách kinh tế mà chính phủ Mỹ sử dụng nhằm nỗ lực vực dậy nền kinh tế đang suy giảm trong đại dịch COVID-19; tham vọng vươn ra toàn cầu và quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc; những thay đổi trong xu hướng chuyển dịch của dòng vốn quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu;

115

hay khả năng tái định vị các trung tâm tài chính quốc tế được cho là sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế toàn cầu trong những năm tới. Bên cạnh đó, trí tuệ nhân tạo, công nghệ Blockchain… đang đưa đến những thay đổi lớn chưa từng có trong lịch sử tài chính tiền tệ. Sự phát triển các đồng tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương ở nhiều quốc gia và các tổ chức phi chính phủ (ví dụ Trung Quốc đang đẩy nhanh quá trình ra mắt đồng tiền số Nhân dân tệ - DCEP; Facebook đang có kế hoạch tung ra đồng tiền số Diem), cùng với những biểu hiện về sự suy yếu của hệ thống tiền tệ toàn cầu hiện nay, có thể đe dọa sự chi phối của đồng đô la Mỹ trong các giao dịch tài chính, thương mại, đầu tư, và dự trữ quốc tế. Những thay đổi như thế có thể tạo ra các cơ hội lẫn thách thức rất lớn đối với Việt Nam. Theo kết quả khảo sát điều tra, yếu tố hệ thống tài chính thế giới có tác động đáng kể đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với điểm trung bình đạt 3,55/5 điểm.

(7) Xu thế hội nhập toàn cầu: Hội nhập quốc tế sẽ đặt ra yêu cầu và mục đích đối với NHNN, nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ; đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, góp phần quan trọng tạo môi trường hoạt động chính sách tiền tệ hiệu quả ở mức độ cao hơn. Một ví dụ điển hình cho thành công trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập vừa qua là việc không sử dụng công cụ đổi tiền để ổn định tiền tệ. Kết quả khảo sát điều tra chỉ ra tác động đáng kể của xu thế hội nhập toàn cầu đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, điểm số trung bình của tiêu chí này là 3,51/5 điểm. Theo các chuyên gia tham gia phỏng vấn, xu thế hội nhập toàn cầu đang là xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng trên toàn thế giới. Xu thế này đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. Đối với hệ thống tài chính, những thay đổi liên quan đến xu thế hội nhập toàn cầu có tác động đáng kể đến nợ xấu và QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Bảng 3.15. Kết quả lấy ý kiến về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến QLNN đối

với RRTD trong hoạt động của các NHTM

Mức đánh giá (NHTM)

TT

Tiêu chí

Đơn vị

ĐTB Đơn vị

ĐTB

Mức đánh giá (CBQL tại hệ thống NHNN) 3

4

2

1

5

1

2

3

4

5

I Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô

0

0

31 57 37

8

32

66

190

25

Số phiếu (Σ = 125)

Số phiếu (Σ = 321)

AH1

4,05

3,60

0

%

0 24,8 45,6 29,6

%

2,49 9.97 20,56 59,19 7,79

Thể và chế chính sách phát tế triển kinh của Chính phủ

0

2

24 45 54

7

29

103

157

25

trường

AH2

4,21

3,51

Môi pháp lý

Số phiếu (Σ = 125) %

0

1,6 19,2 36,0 43,2

2,18 9,03 32,09 48,91 7,78

Số phiếu (Σ = 321) %

AH3 Xu

hướng Số phiếu 1

9

33 54 28 3,79 Số phiếu 1

12

58

148

102 4,05

116

(Σ = 321)

(Σ = 125)

0,8 7,2 26,4 43,2 22,4

0,31 3,74 18,07 46,11 31,77

0

2

33 42 48

23

91

72

87

48

% Số phiếu (Σ = 321)

% Số phiếu (Σ = 125)

4,09

AH4

3,14

0

%

1,6 26,4 33,6 38,4

%

7,17 28,35 22,43 27,10 14,95

0

0

17 41 67

9

46

67

117

82

4,40

tín thị

AH5

3,68

chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng triển Sự phát KT-XH (Tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp) Nhu cầu dụng của trường

0

0 13,6 32,8 53,6

2,80 14,33 20,87 36,45 25,54

0

1

19 55 50

18

42

88

91

82

thống

tài

4,23

AH6

3,55

Hệ chính thế giới

0

0,8 15,2 44,0 40,0

5,61 13,08 27,41 28,35 25,55

0

0

21 58 46

4

21

127

146

23

4,20

AH7

3,51

Xu thế hội nhập toàn cầu

0

0 16,8 46,4 36,8

1,25 6,54 39,56 45,48 7,16

0

0

21 43 61

9

24

106

126

56

4,32

AH8

3,61

Chính sách tiền tệ của NHNN

0

0 16,8 34,4 48,8

2,8 7,48 33,02 39,25 17,44

0

0

19 51 55

11

31

107

136

36

4,29

AH9

3,48

0

0 15,2 40,8 44,0

3,43 9,66 33,33 42,37 11,21

0

2

27 56 40

4

22

129

144

22

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321)

Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125)

4,07

AH10

3,49

%

0

1,6 21,6 44,8 32,0

%

1,25 6,85 40,19 44,86 6,85

Trình độ phát triển hệ của thống ngân hàng Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN đối với các NHTM

II Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô

0

1

22 60 42

13

23

119

127

39

Số phiếu (Σ = 321)

Số phiếu (Σ = 125)

4,14

AH11

3,48

Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM

0

0,8 17,6 48,0 33,6

4,05 7,16 37,07 39,56 12,15

0

0

24 48 53

4

26

116

118

57

4,23

AH12

3,62

Trình độ công nghệ

0

0 19,2 38,4 42,4

1,25 8,10 36,14 36,76 17,76

0

1

17 68 39

14

24

119

125

39

4,16

AH13 Nguồn nhân lực

3,47

0

0,8 13,6 54,4 31,2

4,36 7,48 37,07 38,94 12,15

0

2

22 60 41

16

47

99

91

68

% Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321)

% Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125) % Số phiếu (Σ = 125)

4,12

AH14

3,46

%

0

1,6 17,6 48,0 32,8

%

4,98 14,64 30,84 28,35 21,18

Quy mô ngân hàng và cơ cấu sở hữu có sự tham gia của nhà nước

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

(8) Chính sách tiền tệ của NHNN Theo kết quả khảo sát điều tra, chính sách tiền tệ của NHNN có tác động rất lớn đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với điểm trung bình của tiêu chí này là 3,61/5 điểm. Theo kết quả phỏng vấn chuyên gia, thời kì sau khủng khoảng kinh tế năm 2008, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt. Trong đó, chính sách về lãi suất được điều chỉnh tăng giảm theo

117

những biến động của thị trường. Chính sách tiền tệ của NHNN đã được điều chỉnh theo hướng tích cực, đến 6 tháng đầu năm 2022, NHNN đã giữ ổn định các mức lãi suất điều hành, đồng thời chỉ đạo các TCTD cân đối tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lí. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay cơ bản tiếp tục ổn định, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6 - 9%/năm và 9 - 11%/năm đối với trung và dài hạn. Giai đoạn 2020-2021 cũng là lúc tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp nhất khoảng 1,89%. Tùy thuộc vào sự điều chỉnh các công cụ trong chính sách tiền tệ của NHNN mà có thể làm gia tăng hoặc giảm vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng, những chính sách tiền tệ của NHNN có ảnh hưởng đến QLRR của các NHTM.

(9) Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Kết quả khảo sát cho thấy trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với điểm trung bình của tiêu chí này là 3,48/5 điểm. Hệ thống ngân hàng đã và đang xây dựng một bộ máy quản lý và mạng lưới tổ chức phù hợp với yêu cầu của từng thời kì. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ cho quá trình làm việc cũng được tăng cường và đảm bảo phù hợp với điều kiện làm việc. Nhìn chung, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang từng bước được cải thiện, điều này góp phần trong việc giảm nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam. Tuy nhiên so với nhiều quốc gia trên thế giới, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn rất thấp, điều này làm ảnh hưởng đến QLRR của các NHTM và nợ xấu vẫn là một trong những vấn đề cần giải quyết của ngành ngân hàng

(10) Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN đối với các NHTM Với điểm trung bình 3,49/5 điểm, trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN đối với các NHTM là yếu tố thuộc về NHNN có tác động mạnh nhất đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

3.4.2. Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô Trong nghiên cứu này, tác giả chú trọng nghiên cứu năm yếu tố thuộc về NHTM tác

động đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam:

(1) Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM Cơ chế quản lý tín dụng là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất trong số năm yếu tố thuộc về NHTM đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Điểm trung bình, theo kết quả khảo sát, của tiêu chí này là 4,500/5 điểm. Các chuyên gia tham gia khảo sát điều tra cho rằng các ngân hàng Việt Nam đang từng bước hoàn thiện mô hình kiểm soát rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II với 03 vòng kiểm soát. Nhiều NHTM hiện nay vẫn chưa ứng dụng phương pháp chuẩn và phương pháp đánh giá nội bộ của Basel II trong đánh giá RRTD. Điều này bộc lộ những hạn chế trong cơ chế quản lý tín dụng của các NHTM, là nguyên nhân làm nợ xấu tăng. Nhìn chung, theo kết quả phỏng vấn và khảo sát điều tra, tình hình quản lý

118

tín dụng tại các NHTM Việt Nam còn khá nhiều vấn đề bất cập khiến cho nợ xấu vẫn đang là một trong những vấn đề nhức nhối của toàn hệ thống ngân hàng. Điều này có tác động đến hoạt động QLRR đối với NHTM cả ở nội bộ ngân hàng và quản lý từ phía NHNN. Quản lý tín dụng càng lỏng lẻo, nguy cơ nợ xấu càng tăng cao, và càng làm gia tăng áp lực lên việc QLNN.

(2) Trình độ công nghệ của các NHTM Với điểm trung bình đạt 3,62/5 điểm, yếu tố trình độ công nghệ có tác động đáng kể đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Các chuyên gia đánh giá, trong môi trường cạnh tranh ngày nay, trình độ công nghệ là một trong những yếu tố chiến lược quyết định sự phát triển hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Trình độ công nghệ làm tăng tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động QLRR của các NHTM, giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động này và tiết kiệm chi phí quản lý cho nhà nước.

(3) Nguồn nhân lực của các NHTM Theo kết quả khảo sát điều tra, nguồn nhân lực có tác động mạnh mẽ đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam với điểm trung bình đạt 3,47/5. Đây là yếu tố có tác động mạnh thứ hai sau yếu tố cơ chế quản lý tín dụng. Theo các chuyên gia, về cơ bản, chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam có quan hệ cùng chiều với nhau. Khi chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam được chú trọng và cải thiện thì hiệu quả của hoạt động này càng cao. Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực giải quyết một trong những thách thức lớn nhất của ngành ngân hàng là khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là yếu tố quyết định đến sự thành công và cạnh tranh về nguồn lực chất lượng cao cũng như hiệu quả của hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

(4) Quy mô ngân hàng và cơ cấu sở hữu có sự tham gia của nhà nước Theo kết quả khảo sát điều tra, quy mô ngân hàng với điểm trung bình đạt 3,46/5 điểm, là yếu tố có tác động lớn đến hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Tổng hợp số liệu thực tế năm 2019 của một số ngân hàng hàng đầu Việt Nam, tác giả chưa thể kết luận được mối quan hệ giữa nợ xấu và quy mô tổng tài sản của các ngân hàng. Theo các chuyên gia, có nhiều vấn đề cần phải nhanh chóng giải quyết đối với hệ thống ngân hàng hiện nay, trong đó bao gồm vấn đề cơ cấu sở hữu có sự tham gia của Nhà nước. Vì vậy, NHNN đã xác định thực hiện chương trình tái cơ cấu là phải đảm bảo nguyên tắc thận trọng, đảm bảo sự ổn định cho hệ thống ngân hàng và tận dụng được nguồn lực của nền kinh tế. Đến nay, cơ cấu sở hữu của hệ thống NHTM tại Việt Nam đang dần ổn định, tạo thuận lợi cho hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

119

3.5. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong

hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022

3.5.1. Những thành tựu và nguyên nhân 3.5.1.1. Những thành tựu Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số thành tựu đã đạt được trong hoạt động

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về hệ thống pháp luật và chính sách QLNN đối với RRTD trong hoạt động của hệ thống NHTM đã dần được hoàn thiện, thường xuyên được cập nhật, bổ sung bảo đảm thống nhất với yêu cầu của hội nhập, thông lệ trong quản lý RRTD của quốc tế đặc biệt là những quy định, khuyến nghị từ Basel… điều này được thể hiện rõ hơn trong kết quả khảo sát, đánh giá về tính hiệu lực và sự phù hợp của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM.

Thứ hai, Nhà nước đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của NHNN trong vai trò là chủ thể thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, đặc biệt sau khi Nghị định 102/2022 được ban hành và có hiệu lực từ đầu năm 2023. Trong giai đoạn 2011-2022, NHNN đã phát huy hiệu quả hoạt động tái cơ cấu hệ thống các NHTM. Trong quá trình triển khai thực hiện tái cơ cấu, NHNN đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan trong việc quản lý và tuyên truyền các biện pháp tài chính, chính sách hoạt động nhằm tạo sự ổn định cho các đơn vị trong hệ thống NHTM. Kết quả thực hiện các đề án tái cơ cấu theo từng giai đoạn, hoạt động tái cơ cấu hệ thống các NHTM của NHNN từng bước phát huy hiệu quả.

Thứ ba, NNHN đã triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý RRTD song song cùng các giải pháp kiểm soát, phòng ngừa RRTD mới phát sinh, từ đó làm giảm tỷ lệ RRTD và cải thiện chất lượng tín dụng. Đặc biệt, NHNN chủ trương xử lý nhanh chóng và hiệu quả RRTD của các TCTD trong giai đoạn 2011-2022 bằng việc hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến cơ cấu lại các TCTD yếu kém. Kết quả cho thấy, tính đến 31/12/2022 về cơ bản, RRTD được xử lý của toàn hệ thống TCTD Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Cả hệ thống TCTD đã xử lý được gần 140 nghìn tỷ đồng nợ xấu chỉ trong 10 tháng thí điểm (từ giữa tháng 8/2017-tháng 6/2018). Như vậy, mỗi tháng bình quân xử lý được khoảng gần 14 nghìn tỷ đồng, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (cao hơn khoảng 4 nghìn tỷ đồng/tháng). Cuối tháng 6/2018, có 61,04 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro được các TCTD sử dụng để xử lý nợ xấu nội bảng.

Thứ tư, công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM được duy trì thường xuyên, NHNN kịp thời phát hiện các sai phạm của NHTM, từ đó nhanh chóng xử lý và khắc phục các sai phạm. Công tác xử lý vi phạm hành chính đối với các ngân hàng vi phạm pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng, trích lập dự phòng và xử lý RRTD cũng đã mang lại hiệu quả răn đe trong hệ thống NHTM. Từ đó góp

120

phần giảm thiểu các sai phạm diễn ra trong hoạt động cấp tín dụng, trích lập quỹ dự phòng và xử lý RRTD trong hệ thống NHTM.

Thứ năm, kết quả đánh giá thông qua các tiêu chí cho thấy hiện nay hệ thống văn bản quản lý được đánh giá là đầy đủ, kịp thời; các cơ quan quản lý bảo đảm thực hiện đúng chức năng và hoàn thành nhiệm vụ theo đúng định hướng của Nhà nước đối với quản lý RRTD. Đồng thời, trong hoạt động QLNN cũng đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa NHTM, Nhà nước và xã hội. Đặc biệt, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thời gian qua đã bảo đảm đáp ứng được mục tiêu đề ra trong công tác quản lý.

3.5.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu Có được những thành tựu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau: * Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, NHNN trong quản lý thị trường tài chính, RRTD. Điều này thể hiện thông qua các đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng được Thủ tướng chính phủ ban hành 05 một lần, thường xuyên rà soát, phát hiện và xử lý những phát sinh trong điều hành thị trường tài chính, thị trường tín dụng. Giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa NHNN và các NHTM trong triển khai mô hình 3 cấp trong quản lý RRTD...

Thứ hai, việc lựa chọn các công cụ QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phù hợp. Với hệ thống chính sách dần hoàn thiện đã tạo tiền đề cho các NHTM tham chiếu để chuẩn hóa hoạt động QTRR, đồng thời NHNN và các bộ ngành liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Công Thương... dễ dàng hơn trong quản lý, giám sát RRTD trong hoạt động của các NHTM. Có thể Nhà nước đã lựa chọn các công cụ phù hợp nhằm tác động đến quá trình kiểm soát, giám sát RRTD trong hoạt động của các NHTM. Công cụ pháp luật được ban hành để hình thành các mô hình quản lý, quản trị RRTD, từ đó giúp điều tiết thị trường tín dụng cũng như có những phản ứng nhanh nhạy đối với các RRTD. * Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành ngân hàng nói riêng đã có những thay đổi to lớn với những bước tiến trong quản lý của NHNN từ kinh nghiệm của các NHTW tại các quốc gia trên thế giới, trong QTRR tại các NHTM từ các quan hệ hợp tác, đối tác giữa các ngân hàng và nhà đầu tư...

Thứ hai, bản thân các NHTM đã có những biện pháp phù hợp với điều kiện nguồn lực của ngân hàng nhằm xác định các RRTD cũng như triển khai QTRR theo hướng dẫn của NHNN cũng như theo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế trong QTRR tại các NHTM. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ cũng đã được các NHTM triển khai đồng bộ bảo đảm việc chia sẻ thông tin và QTRR nhanh chóng.

121

3.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân 3.5.2.1. Một số hạn chế Bên cạnh các thành tựu, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động

của các NHTM Việt Nam còn tồn tại một vài hạn chế nhất định, đó là:

Thứ nhất, về hệ thống pháp luật và chính sách trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM còn có những hạn chế nhất định. Sự thay đổi liên tục của bối cảnh hội nhập, của chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, sự biến động của thị trường bất động sản cũng như thị trường chứng khoán… đã tác động rất nhiều đến hệ thống văn bản quản lý.

Thứ hai, mặc dù chức năng, nhiệm vụ của NHNN đã dần được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với tính độc lập của ngân hàng và tự chủ trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý như một đơn vị sự nghiệp công lập nhưng việc phối hợp với các NHTM trong thực hiện chính sách quản lý đối với RRTD của NHNN vẫn còn những hạn chế cần được hoàn thiện thể hiện trong cơ chế báo cáo, công tác triển khai quản lý RRTD tại các NHTM… Bên cạnh đó, việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM của NHNN còn chậm, tình hình RRTD tại các NHTM vẫn ở mức cao. Thực tế, số lượng các NHTM tự nguyện sáp nhập, hợp nhất còn hạn chế. Do đó, hoạt động tái cơ cấu NHTM của NHNN chưa thực sự được thực hiện đúng với mục tiêu các đề án tái cơ cấu từng giai đoạn. Tình hình RRTD tại các NHTM vẫn còn diễn biến phức tạp, tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn có xu hướng tăng nhanh.

Thứ ba, những hạn chế trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý RRTD. Cụ thể, việc hướng dẫn tố tụng, thi hành án còn chưa có được hướng dẫn cụ thể liên quan đến giải quyết tranh chấp tài sản bảo đảm. Ngoài ra, có sự khác nhau về quy định thu giữ tài sản theo các văn bản pháp luật tại Việt Nam. Về mua bán khoản nợ xấu, các NHTM chưa được hướng dẫn cụ thể cách thức xác định giá bán phù hợp với thị trường. Thị trường mua bán nợ chưa thực sự chuyên nghiệp mặc dù VAMC đã dần thể hiện được hiệu quả của mình trong việc xử lý nợ. Hơn nữa, công tác QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả, vì vậy các NHTM vẫn gặp nhiểu khó khăn trong việc xử lý RRTD. Do các biện pháp xử lý RRTD triệt để (xử lý tài sản bảo đảm và khách hàng vay trả nợ) còn ở mức thấp khiến tính hiệu quả của việc xử lý RRTD còn chưa cao.

Thứ tư, trong công tác kiểm tra, giám sát của NHNN, về cơ cấu tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra giám sát NHNN từ trung ương đến địa phương được đánh giá còn khá cồng kềnh, mạng lưới nhiều tầng trung gian. Vì vậy, công tác phối hợp trong kiểm tra giám sát tình hình RRTD, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và quản lý RRTD còn nhiều khó khăn, chưa thực sự chặt chẽ, do đo chưa phát huy triệt để các nguồn lực sẵn có. Phương pháp thanh tra, kiểm tra giám sát vi phạm của các NHTM vẫn nặng về phương pháp kiểm tra tuân thủ quy định pháp lý về hoạt động ngân hàng.

122

Thứ năm, kết quả nghiên cứu thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM qua các tiêu chí cũng đã chỉ ra được một số hạn chế nhất định như mức độ hiệu quả của bộ máy tổ chức thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam còn chưa cao, hoạt động QLNN còn chưa thực sự bảo đảm sự phù hợp với sự biến động, thực tiễn trong hoạt động của các NHTM...

3.5.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế Những tồn tại hạn chế trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Cụ thể:

* Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, các công cụ và chính sách hỗ trợ NHTM năng lực tài chính, điều hành và xử lý RRTD của NHNN chưa phát huy được hiệu quả cao là do chưa xác định được những mục tiêu ưu tiên cụ thể trong điều hành chính sách tiền tệ.

Thứ hai, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN còn yếu kém. Hoạt động này cũng chưa có nhiều thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển của hệ thống NHTM trong bối cảnh mới. Thêm vào đó, trình độ của cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng vẫn còn hạn chế khiến hiệu quả thanh tra, giám sát của NHNN không cao. Thứ ba, hiện nay, tại một số NHTM, quy trình tín dụng chưa thực sự chặt chẽ, tạo cơ hội cho cán bộ ngân hàng và khách hàng lợi dụng sơ hở và sai phạm. Bên cạnh đó, nhìn chung, năng lực QTRR của các ngân hàng còn hạn chế. Công tác kiểm soát nội bộ chưa thực sự được chú trọng khiến tính tuân thủ các quy định chưa cao, dẫn đến các RRTD ngân hàng.

Thứ tư, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng. Một số cán bộ ngân hàng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cấu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy định. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng.

Thứ năm, cơ sở dữ liệu thông tin về tín dụng và RRTD NHTM đã được quan tâm, chú trọng xây dựng và đồng bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá của hệ thống NHTM. NHNN đã quan tâp đến công tác đào tạo, hướng dẫn thực hiện chính sách tiền tệ ngân hàng đối với các NHTM, quy nhiên chưa xây dựng được những kênh đối thoại và tham vấn chính sách để trao đổi thông tin trực tiếp để nâng cao năng lực tài chính, điều hành, QLRR của ngân hàng.

* Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Chất lượng kinh tế tăng trưởng còn thấp; đồng thời, nợ công có xu hướng tăng trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19. Trong khi đó, kinh tế - chính trị thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ từ các hoạt động cấm vận, chiến tranh kinh tế từ các nước Phương Tây.

123

Thứ hai, hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, với tiềm lực tài chính hạn hẹp. Theo Tổng cục thống kê, trong giai đoạn 2011 - 2021, mỗi năm bình quân có trên 63.000 doanh nghiệp giải thể và phá sản. Năng lực hoạt động còn nhiều hạn chế của các doanh nghiệp khách hàng tín dụng, cùng với tác động tiêu cực của đại dịch Covid -19, càng khiến áp lực gia tăng nợ xấu trong nền kinh tế và RRTD của hệ thống ngân hàng.

Thứ ba, các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập, thiếu ổn định. Điều này tác động tiêu cực đến khả năng sản xuất kinh doanh cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, hệ thống các cơ chế chính sách về tiền tệ, quản lý và xử phạt vi phạm ngân hàng còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và sự biến động của thực tiễn.

Thứ tư, tại Việt Nam, hiện nay, ngân hàng vẫn là kênh tài trợ vốn chủ yếu cho các hoạt động đầu tư và phát triển do thị trường vốn chưa thực sự phát triển. Vì vậy, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thêm vào đó, mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư theo chiều rộng và sử dụng vốn vay là nguyên nhân khiến nợ xấu của nền kinh tế chủ yếu là nợ xấu của hệ thống ngân hàng.

Thứ năm, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện trong khi hệ thống ngân hàng và kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ có nhiều tác động đến hiệu quả QLNN.

Kết luận chương 3

Nội dung chương tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Mở đầu chương, tác giả đưa ra cái nhìn khái quát về hệ thống NHTM Việt Nam trong những năm gần đây. Tiếp theo, tác giả phân tích thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các đánh giá chung về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Tác giả đánh giá các thành tựu đã đạt được, một số hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế, từ đó tạo tiền đề để xây dựng các giải pháp tăng cường và hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong chương tiếp theo.

124

Chương 4 QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI

4.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 4.1.1. Bối cảnh môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối

với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

4.1.1.1. Tiếp tục xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình toàn cầu hoá trong bối cảnh hiện nay là toàn cầu hoá ở cấp độ quốc tế hoá kinh tế đã và đang phát triển trên qui mô toàn cầu, được diễn ra một cách khách quan theo hai quá trình song song là tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam hiện đã và đang tham gia nhiều tổ chức kinh tế, diễn đàn quốc tế quan trọng như: thành viên WTO, ASEAN, ASEAN+3, ASEM, APEC,... các hiệp định thương mại song phương với các đối tác kinh tế quan trọng như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Bên cạnh đó, việc tham gia và thực thi các FTA mới đặt ra thách thức không nhỏ đối với các định chế tài chính của Việt Nam như: Tăng cạnh tranh với các định chế tài chính quốc tế, gia tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tài chính Việt Nam, áp lực nâng cao chất lượng và dịch chuyển nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng sang các tổ chức nước ngoài và khu vực. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính Việt Nam trước khi tham gia CPTPP và EVFTA còn tương đối thấp so với các đối tác thành viên. Ngoài những thách thức trên, các FTA thế hệ mới sẽ tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, các cơ quan quản lý nhà nước trong việc nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm. Đây là áp lực đối với cả hệ thống tài chính cần phải nâng cao năng lực tài chính, quản trị và hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu của các cam kết, từ đó thúc đẩy hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

4.1.1.2. Tiếp tục ứng dụng những thành tựu của Cách mạng công nghệ 4.0 Cuộc CMCN 4.0 đã đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho hoạt động ngân hàng. Sự xuất hiện của các sản phẩm tài chính công nghệ cao và xu hướng ứng dụng các công nghệ phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng số tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức trong công tác QLNN để đảm bảo sự ổn định tiền tệ, an toàn, an ninh mạng, ổn định tài chính và bảo vệ người tiêu dùng. Trong xu hướng chuyển đổi số sẽ hình thành những rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng: Rủi ro về quản trị dữ liệu và tính riêng tư; Rủi ro về mặt đổi mới do liên tục đề xuất các sản

125

phẩm dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng; Rủi ro an ninh mạng. Bên cạnh tiền kỹ thuật số do ngân hàng trung ương phát hành, tiền kỹ thuật số không chính thống do một nhóm người phát hành cũng đang phát triển nhanh. Tính đến hết năm 2022, trên thế giới ghi nhận sự xuất hiện của 4.684 loại tiền kỹ thuật số khác nhau với tổng giá trị vốn hóa hơn 3.000 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong phòng ngừa và trấn áp tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng; làm chủ 90% hệ sinh thái các sản phẩm an toàn, an ninh mạng và đầu tư nhiều giải pháp an toàn thông tin như tường lửa thế hệ mới, phần mềm ngăn chặn mã độc, xác thực bằng sinh trắc học (vân tay, tĩnh mạch lòng bàn tay, giọng nói), chữ ký số. Tuy nhiên, hoạt động phòng chống tội phạm tài chính - ngân hàng còn gặp nhiều thách thức do hạn chế về thể chế, năng lực tổ chức quản lý.

4.1.1.3. Những biến động chính trị và kinh tế trên thế giới Xung đột Nga - Ukraine là một trong các rủi ro lớn nhất đối với triển vọng kinh tế toàn cầu do hậu quả của cuộc chiến này khiến giá năng lượng và một số hàng hóa thiết yếu tăng cao, cùng với tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Chiến sự tại Ukraine hiện đã qua tháng thứ 17 và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Đến năm 2023, dịch bệnh Covid-19 giảm mạnh trên phạm vi toàn cầu song kinh tế thế giới còn gặp nhiều khó khăn. Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục chậm lại từ mức 3,19% năm 2022 xuống còn 2,66% năm 2023, chủ yếu do suy giảm tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển (từ 2,43% năm 2022 xuống còn 1,11% năm 2023), trong khi không có thay đổi lớn ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (3,73% so với 3,74%). Đây được xem là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2001 ngoại trừ giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và giai đoạn khó khăn nhất trong đại dịch Covid-19 vừa qua.

Bên cạnh đó, những bối cảnh do thiên tai, dịch bệnh những thay đổi của thị trường cũng ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM: Dịch bệnh Covid-19 xuất hiện khiến tâm lý, hành vi tiêu dùng và đầu tư của khách hàng thay đổi, nhưng cũng chính là chất xúc tác thúc đẩy cả các NHTM và khách hàng tiến tới sử dụng các dịch vụ ngân hàng số nhiều hơn, thanh toán không dùng tiền mặt nhiều hơn. Đây cũng là cơ hội để ngân hàng cơ cấu lại nguồn thu, dịch chuyển dần từ thu dịch vụ tín dụng sang thu dịch vụ thông qua phát triển cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân [122].

4.1.2. Bối cảnh nội sinh của ngành ngân hàng ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

4.1.2.1. Ảnh hưởng từ những rủi ro từ hệ thống ngân hàng

126

Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, đặc biệt là khi ASEAN chính thức thúc đẩy quá trình hội nhập tài chính khu vực bằng việc thông qua khuôn khổ hội nhập ngân hàng (ASEAN Banking Integration Framework). Theo Kaufman và Scott (2003), hệ thống ngân hàng có tính chất dễ vỡ (Fragility) nhưng không tự động chuyển sang đổ vỡ (Breakage). Nếu có một hệ thống giám sát hữu hiệu, một cơ chế quản lý an toàn và hiệu quả sẽ có thể ngăn chặn sự đổ vỡ của các ngân hàng. Do vậy, việc tìm hiểu hiện trạng về rủi ro hệ thống của các ngân hàng Việt Nam để kịp thời đưa ra những gợi ý chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống bằng cách gián tiếp điều chỉnh các nhân tố này là điều cần thiết.

Trong xu hướng bùng nổ của thị trưởng tín dụng, việc kiểm soát hiệu quả và chặt chẽ các hoạt động của các NHTM đã được quan tâm nhưng những hạn chế trong cơ chế, nguồn lực... việc giám sát tuân thủ của NHTW đối với quản lý RRTD còn nhiều hạn chế. Chính vì thể, việc chưa bảo đảm trong công tác giám sát, qua đó ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai các chính sách của Nhà nước về quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM là chưa thực sự tốt.

Đối mặt rủi ro từ phía hệ thống quản lý: đó chính là rủi ro về chất lượng trình độ cán bộ nói chung của cả các cấp quản lý cũng như các NHTM là không đáp ứng và không theo kịp được tốc độ phát triển của các sản phẩm số ngân hàng số và các sản phẩm mới dạng thức này.

4.1.2.2. Sức cạnh tranh của thị trường tín dụng Việt Nam Hiện nay có thể nhận diện rằng sức cạnh tranh của thị trường tín dụng của Việt Nam còn thấp so với khu vực nên nguy cơ rủi ro cao và sức chịu đựng có thể suy giảm. Mặc dù đã đạt kết quả ấn tượng trong năm 2022 nhưng quy mô, giá trị giao dịch và vốn hóa thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm chưa tương xứng với tiềm năng.

Áp lực cho vay dưới chuẩn vẫn tiếp tục tiếp diễn do quy mô tài sản quy mô doanh số và quy mô tín dụng của các ngân hàng vẫn tiếp tục áp lực phải tăng đây cũng là một rủi ro phải đối mặt. Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ đã dẫn tới việc siết chặt các quy định giám sát và điều hành thị trường chứng khoán hóa thế giới nói chung và thị trường Hoa Kỳ nói riêng với mục tiêu là nhằm ngăn ngừa hoạt động cho vay thiếu trách nhiệm phát sinh trong tương lai. Thực tiễn, thị trường bất động sản toàn cầu đang đứng trước thử thách bởi lãi suất tăng lên trong năm 2022 và tiếp tục tăng lên trong giai đoạn đến năm 2025. Các chương trình kích thích tài khóa và nới lỏng tiền tệ để “cứu” nền kinh tế trong đại dịch đã đẩy giá nhà trên khắp thế giới tăng cao và dư nợ vay thế chấp nhà đang tăng nhanh chóng tại ra những rủi ro vì áp lực cho vay dưới chuẩn của các NHTM.

127

4.1.2.3. Vấn đề dư nợ tín dụng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục tài sản của

ngân hàng

Kết quả nghiên cứu thực trạng chỉ ra bối cảnh dư nợ tín dụng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục tài sản của ngân hàng đang xảy ra và có những ảnh hưởng rất lớn đến quản lý nhà nước đối với RRTD của các NHTM. Thực trạng này là do ảnh hưởng của việc thực hiện giãn cách xã hội nhằm hạn chế sự lây lan đại dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất vì thiếu hụt nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào bị đứt gãy, hàng hóa tiêu thụ chậm, lao động thiếu hụt… Hơn nữa, bản thân các doanh nghiệp bị hạn chế tiếp cận nguồn vốn do không đáp ứng được điều kiện ngân hàng đặt ra. Ngoài ra, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, yêu cầu chặt chẽ hơn việc sử dụng các nguồn vốn trong hoạt động của các TCTD cũng khiến các NHTM phải giảm dư nợ tín dụng. Để giảm tác động tiêu cực của thực trạng trên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Chính phủ, NHNN đã sử dụng các công cụ khác và nới lỏng tín dụng như giảm lãi suất cho vay, gia hạn nợ… nhằm hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất và đời sống.

4.1.2.4. Bối cảnh tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng gia tăng Số liệu trên báo cáo tài chính của 31 NHTM, hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam phát triển theo hướng tăng quy mô gắn với nâng cao chất lượng tín dụng để ứng phó với những biến động bất lợi của nền kinh tế giai đoạn 2020 - 2022. Tuy vậy, chất lượng tín dụng chưa cải thiện được nhiều, cụ thể tỉ lệ nợ xấu mặc dù nằm trong ngưỡng cho phép (nhỏ hơn 3%) nhưng chưa đạt được các tiêu chuẩn về chất lượng tín dụng Basel II (2004) đưa ra. Bên cạnh đó, theo NHNN dư nợ thuộc lĩnh vực cho vay đầu tư bất động sản và các tập đoàn Nhà nước trở thành mối quan tâm trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Các NHTM đã tích cực đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng như thiết lập hạn mức tín dụng tương đương mức độ rủi ro của từng khách hàng vay vốn, thiết lập quy trình chặt chẽ kiểm soát chất lượng tín dụng. Những thay đổi trong việc ghi nhận và trích lập dự phòng giúp các ngân hàng thương mại có thêm thời gian xử lý nợ xấu, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, có thể nhận thấy áp lực nợ xấu sẽ còn dâng cao trong thời gian còn lại của năm 2023 do: (i) tỷ lệ nợ xấu mở rộng chưa đạt đỉnh; (ii) lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp sắp đáo hạn, đặc biệt là trong quý 3 năm 2023, quý 2 và 4 năm 2024; (iii) sự bất định của các điều kiện vĩ mô. Theo thống kê của Công ty chứng khoán Mirae Asset (MASVN), tỷ lệ nợ xấu (NPL) và nợ xấu mở rộng (bao gồm nợ nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng niêm yết đều tăng mạnh trong quý 1/2023. Tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng niêm yết tăng lên mức 2,9%

128

(+0,4% so với cuối năm 2022) và tiệm cận mức trần nợ xấu là 3% (áp dụng cho ngân hàng mẹ). Tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh chủ yếu đến từ việc lãi suất tăng cao đi kèm với tình hình kinh doanh kém khả quan. Tổng dư nợ cho vay nhóm 3 trở xuống của 27 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán đạt 168,3 nghìn tỷ, tăng 21,1% so với cuối năm 2022 và tăng 51,4% so với cùng kỳ. Tỷ lệ nợ dưới chuẩn (bao gồm nợ nhóm 2) trung bình tăng từ 1,4% trong quý 1/2022 lên mức 5,8% trong quý 1/2023. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu mở rộng cho thấy nợ xấu chưa đạt đỉnh. Ngoài ra, kinh tế vĩ mô nói chung sẽ phục hồi dần nhưng chưa thực sự khả quan. Tuy nhiên, với các biện pháp điều hành linh hoạt từ phía Ngân hàng Nhà nước trong việc cắt giảm lãi suất cũng như những điều chỉnh tạm thời đối với quy định ghi nhận nợ xấu sẽ phần nào giảm áp lực phát sinh nợ xấu mới. Do đó, kỳ vọng nợ xấu sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2023 hay đầu 2024.

4.2. Quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới

4.2.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan đến yêu cầu của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế, thương mại nói chung. Trên cơ sở đánh giá của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, kết quả thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 và Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025” cho thấy quan điểm của Nhà nước về tái cấu trúc hệ thống tín dụng, xử lý RRTD và nợ xấu đối với ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thời gian qua đạt ra những thay đổi trong quản lý bắt buộc Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ban ngành, các cơ quan nhà nước… phải vào cuộc để xử lý RRTD chứ không thể chỉ NHNN. Đồng thời, từ kết quả nghiên cứu lý luận QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, thực trạng tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022, luận án đề xuất các quan điểm tăng cường QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam đến năm 2030 và những năm tiếp theo, cụ thể:

Thứ nhất, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phải dựa trên những quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước đối với việc ổn định hệ thống tài chính quốc gia. NHNN nhìn nhận rõ tầm quan trọng của các NHTM đối với hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia, nhận thấy sự ảnh hưởng của RRTD trong hệ thống NHTM có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, từ đó NHNN xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc QLRR ở

129

các NHTM, đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật do NHNN ban hành trong việc điều chỉnh hoạt động liên quan đến QLRR.

Thứ hai, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phải dựa trên cơ sở phân định rõ chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ giữa NHNN với các cơ quan tổ chức khác cũng tham gia vào quá trình quản lý và giám sát hoạt động của các NHTM như kiểm toán nhà nước, Bộ tài chính… Bên cạnh đó, hoạt động quản lý có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành khác để hoạt động quản lý được hiệu quả, toàn diện, phòng chống các hiện tượng gian giận, tham nhũng, vi phạm pháp luật khác.

Thứ ba, hoạt động của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM dựa trên cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn. Cơ sở pháp lý cho hoạt động QLNN được thể hiện bằng các văn bản pháp luật do Quốc hội và Nhà nước ban hành bao gồm các bộ Luật, Nghị định, Thông tư có các quy định liên quan đến hoạt động QLNN, cụ hơn nữa là hoạt động QLRR của các NHTM.

Thứ tư, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM không làm ảnh hưởng đến HĐKD của NHTM. Bên cạnh đó, phía NHNN tích cực triển khai các biện pháp khác nhau để phòng ngừa rủi ro và giúp các NHTM có thể xử lý hiệu quả nợ xấu bằng việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách rõ ràng và tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động của các NHTM.

Thứ năm, hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM phải nhằm vào mục tiêu hiệu quả, bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ TW đến các NHNN ở các địa phương. Các phương thức QLRR phải linh động, hiệu quả, đảm bảo không chống chéo, không trùng lặp nội dung; vận dụng tối đa nguồn lực sẵn có và không ngừng hợp tác, học tập từ các nước trên thế giới để tiếp thu và vận dung những phương án QLRR phù hợp với tình hình và điều kiện của Việt Nam.

4.2.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng Trên cơ sở quan điểm hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, kết quả nghiên cứu thực trạng và bối cảnh phát triển mới ảnh hưởng đến công tác này như hội nhập kinh tế quốc tế với những biến động của chiến tranh thương mại, cấm vận thương mại; cách mạng công nghiệp 4.0, các quy định pháp lý trong nước và các hiệp ước Basel đang trong lộ trình triển khai, NCS đề xuất định hướng hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam:

* Giai đoạn đến năm 2030 Thứ nhất, nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh, tăng sự minh bạch và tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt trong quản trị và trong hoạt động của các

130

TCTD. Triển khai áp dụng các chuẩn mực của Basel trong quản lý RRTD. Từ năm 2014, theo Công văn số 1601/NHNN-TTGSNH, NHNN đã chủ động xây dựng lộ trình triển khai và áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM và đã chọn 10 NHTM thí điểm áp dụng Basel II. Sau khi một số NHTM trong nhóm này được Thống đốc NHNN trao quyết định được áp dụng Thông tư 41 trước thời hạn một năm, ngành Ngân hàng đã chứng kiến những biến chuyển mạnh mẽ của các NHTM còn lại để tuân thủ Basel II. Khác với Basel I, Basel II không chỉ đưa ra các yêu cầu về quản lý rủi ro mà còn có các yêu cầu về quản trị điều hành, quản lý vốn. Do đó, việc thực hiện Thông tư 41/2016/TT-NHNN cũng như các văn bản của NHNN ban hành trong thời gian tới để hướng dẫn thực hiện Basel II đòi hỏi các NHTM có sự thay đổi mạnh mẽ về nhận thức và tăng cường đáng kể năng lực quản lý RRTD.

Thứ hai, về ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 trong quản lý RRTD. Ngày 08/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo những mục tiêu ngành Ngân hàng cần đạt được, đặc biệt là phát triển hệ thống các TCTD theo hướng dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế.

* Giai đoạn đến năm 2035 Một là, tiếp tục phát triển thị trường tín dụng theo hướng ổn định, minh bạch, hiện đại, phù hợp với chủ trương, chính sách quản lý của Nhà nước đối với ngành ngân hàng. Tập trung đa dạng hóa các công cụ, phương thức phòng ngừa RRTD.

Hai là, thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM theo hướng phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, đóng góp tích cực cho phát triển bền vững.

Ba là, tiếp tục củng cố và nâng cao năng lực giám sát dựa trên cơ sở RRTD theo hướng xây dựng hệ thống giám sát dựa trên RRTD, cảnh báo sớm rủi ro, cơ chế xử lý khủng hoảng hệ thống và xử lý các định chế tài chính tiềm ẩn rủi ro cao nhằm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới của cuộc CMCN 4.0 như: Dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ chuỗi khối... vào quá trình xử lý, thu thập, phân tích, nhận định và dự báo kịp thời những vấn đề liên quan đến thị trường tín dụng.

4.3. Giải pháp chính sách hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng 4.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng Mục tiêu của giải pháp: Để đảm bảo triển khai hiệu quả và thống nhất QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam thì cần một hệ

131

thống các văn bản luật hoàn thiện, đầy đủ và tiếp cận với luật pháp quốc tế. Việc triển khai giải pháp trên sẽ giúp các cơ quan QLNN có thêm công cụ trong quản lý, giúp các chủ thể kịp thời và dễ dàng hơn trong việc ra quyết định gắn với những biến động của bối cảnh phát triển mới hiện nay.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: Xuất phát từ những hạn chế trong hệ thống văn bản quản lý đã được rút ra tại chương 3, gắn với thực tiễn yêu cầu của bối cảnh phát triển mới với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng trong lĩnh vực ngân hàng, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM như sau:

Thứ nhất, NHNN cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khung khổ pháp lý về quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM như mua bán nợ tham gia xử lý nợ xấu, nợ quá hạn hiệu quả, triệt để trong các giai đoạn tiếp theo. Cụ thể, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, như sau:

Các khó khăn, vướng mắc Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 chủ yếu do bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác và xuất phát từ quá trình thực thi, từ các quy định tại các luật hiện hành, một số quy định tại Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 không áp dụng được trên thực tế, cần phải có chính sách, cơ chế đặc thù của nhà nước mới xử lý được. Bên cạnh đó là vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật khác... Đến nay, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 dưới hình thức ban hành một Luật về xử lý nợ xấu, hay đưa vào một số điều của Luật các TCTD sửa đổi, bổ sung mang tính cấp bách. Luật về xử lý nợ xấu sẽ kế thừa các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung các nội dung khác để phù hợp với thực tiễn hoạt động xử lý nợ xấu, khắc phục những khó khăn, bất cập khi thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017, góp phần đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu của TCTD.

Đối với nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng: Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; Nghị định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng; Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngân hàng; Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật phòng, chống rửa tiền…

Đối với thông tư: Thông tư quy định về việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu; Thông tư quy định về mua bán nợ của các TCTD, quy định về đảo nợ; Thông tư quy định về trình tự thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng; một số Thông tư quy định về ngoại hối…. Gần nhất, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông

132

tư 02/2023/TT-NHNN cho phép các ngân hàng thương mại: (i) tái cấu trúc dư nợ (tiêu dùng và sản xuất) phát sinh từ 24/04/2023 tới 30/06/2024 mà không thay đổi nhóm nợ; (ii) tái cấu trúc thời hạn trả nợ lên đến 12 tháng; (iii) cho phép ngân hàng thương mại trích lập dần trong năm 2023 và 2024.

Thứ hai, cải thiện công cụ chính sách tiền tệ trong quản lý hoạt động của hệ thống NHTM. NHNN cần thực hiện các chính sách an toàn vĩ mô và đặt trong mối quan hệ phối hợp với các chính sách kinh tế khác cũng như trong việc giám sát, kiểm tra an toàn vĩ mô và vi mô, trong đó có công tác kiểm tra giám sát tình hình RRTD, quản lý xử lý vi phạm của các NHTM. Từ đó NHNN tạo sự đồng bộ và thống nhất trong các chính sách tiền tệ và kinh tế, xây dựng sự ổn định trong quá trình phát triển của hệ thống NHTM. NHNN cần tăng cường sự phối hợp với cơ quan QLNN, NHTM trong việc xử lý RRTD, nhất là các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.

Đối với một số công cụ chính sách tiền tệ mang biện pháp hành chính trực tiếp (như quy định trần lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên), thời gian qua đã mang lại các tác dụng tích cực đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian đến quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM và xử lý RRTD đã hoàn thành cơ bản, cần dừng các biện pháp can thiệp mang tính hành chính này, trả lại cho thị trường quyết định.

Đối với các công cụ lãi suất, tỷ giá: Việc điều hành lãi suất cần được điều chỉnh ngày càng linh hoạt theo hướng thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ; và gắn kết chặt chẽ với điều hành tỷ giá. Để hoàn thiện công cụ lãi suất, NHNN cần lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với điều kiện của thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay (giai đoạn đầu của phát triển, ở mức độ thấp) và dựa trên cơ sở quy định của Luật NHNN và Luật Các TCTD.

Thứ ba, ban hành và thực thi các nguyên tắc, chuẩn mực an toàn liên quan đến HĐTD nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế cũng như tình hình thực tiễn của Việt Nam. Một trong những yêu cầu khắt khe với các ngân hàng hiện nay là phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về quản lý rủi ro và an toàn không chỉ theo chuẩn của Việt Nam mà phải là chuẩn quốc tế, cụ thể là Basel II và Basel III. Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy định về tiêu chuẩn QTRR theo Basel II phù hợp với năng lực và thực tiễn hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, NHNN cần tổ chức các hoạt động đánh giá thường xuyên để đảm bảo việc triển khai của các ngân hàng đáp ứng được các yêu cầu của tiêu chuẩn.

Hiện nay, theo hướng dẫn của Hiệp ước an toàn vốn Basel III, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ phải được xây dựng cho từng nhóm khách hàng với những

133

tính chất rủi ro đặc thù khác nhau. Bên cạnh đó, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ phải định lượng được xác suất vỡ nợ của khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định ứng với từng hạng tín nhiệm cụ thể. Mặt khác, NHNN cần đưa ra một hệ thống quy chuẩn cho việc xây dựng hệ thống tại các NHTM, nhằm khắc phục tình trạng mỗi NHTM xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại mỗi ngân hàng theo cách riêng, dẫn đến tốn kém chi phí và gây ra những bất cập, bất tương xứng trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng.

Điều kiện thực hiện giải pháp: - Xây dựng kế hoạch, tiến độ, có biện pháp cụ thể và bố trí đủ nguồn nhân lực, vật lực để hoàn thành việc ban hành chi tiết và hướng dẫn thi hành đối với các văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành thời gian qua; cần chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

- NHNN cần thành lập tổ nghiên cứu, rà soát và xây dựng các quy định hướng dẫn về quản lý RRTD trong hoạt động của các NHTM bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật của Việt Nam nhưng phù hợp với yêu của của quốc tế trong bối cảnh phát triển mới hiện nay.

4.3.2. Triển khai hoàn thiện quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng 4.3.2.1. Hoàn thiện bộ máy và công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối

với rủi ro tín dụng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Mục tiêu của giải pháp: Để triển khai hiệu quả hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM thì bên cạnh có môi trường pháp lý đầu đủ và phù hợp thì cần xây dựng bộ máy quản lý tinh gọn, hiệu quả nhằm triển khai các văn bản quản lý vào thực tiễn. Giải pháp này đề xuất các gợi ý trên cơ sở các hạn chế liên quan đến tổ chức bộ máy tại Chương 3, qua đó giúp các cơ quan quản lý có thể đưa ra các quyết định nhằm hoàn thiện và tăng cường sự phối hợp trong triển khai nhiệm vụ của mình.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: Thứ nhất, tiếp tục nâng cao vị thế độc lập của NHNN theo hướng NHNN hiện đại. Để nâng cao hiệu quả QLNN thì điều kiện tiên quyết đó là NHNN phải có vị thế độc lập trong quản lý, giám sát, điều tiết đối với các hoạt động NHTM. Vị thế độc lập sẽ tạo cơ sở cho NHNN chủ động trong việc ra quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các biện pháp quản lý của mình, mà không bị phụ thuộc vào sự can thiệp của bên thứ 3. Cho đến thời điểm hiện tại, NHNN vẫn là cơ quan trực thuộc Chính phủ, giống như các bộ, ngành khác, có chức năng QLNN và chịu sự quản lý, điều hành toàn diện về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Theo quy định tại Điều 2

134

Luật NHNN năm 2010 thì NHNN Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là NHNN của nước CHXH Việt Nam, thực hiện chức năng QLNN về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối. Hoạt động của NHNN có liên quan đến tài chính đều do Chính phủ hoặc Thủ tướng quy định. Mặc dù, bước sang giai đoạn 2021 - 2030, kỳ vọng đổi mới NHNN Việt Nam theo mô hình NHNN hiện đại có vị thế độc lập hoàn toàn, là khó khăn.

Thứ hai, tăng cường sự phối hợp của NHNN, Bộ Tài chính và đơn vị liên quan trong triển khai quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Thúc đẩy cải cách cơ chế hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước. Từng bước hạn chế tiến tới chấm dứt tình trạng các NHTM ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ. Trong thời gian tới, NHNN cùng với Bộ Tài chính, cùng các đơn vị liên quan tiếp tục rà soát lại tất cả những điểm giao thoa giữa các luật như ngân hàng thương mại lại sở hữu công ty chứng khoán, nhưng công ty chứng khoán lại hoạt động theo Luật Chứng khoán; hay giao thoa giữa bảo hiểm mới với ngân hàng, những sản phẩm ngân hàng có tính chất đầu tư... Bên cạnh đó, Bộ Tài chính với vai trò là đơn vị quản lý, theo dõi giám sát đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp... tiếp tục đề xuất các giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả để xử lý dứt điểm các vấn đề tồn tại, hạn chế hiện nay qua đó tránh ảnh hưởng đến thị trường tài chính nói chung và thị trường tín dụng nói riêng.

Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc hệ thống NHTM theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”. Hiệu quả QLNN đối với hoạt động của các NHTM sẽ thấp, nếu quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng kéo dài. Do đó cần tập trung đẩy nhanh tiến độ quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM theo lộ trình và kế hoạch đã đề ra.

Thứ tư, tập trung, xử lý RRTD đối với các NHTM. Để giải quyết vấn đề RRTD một cách hiệu quả, cần nghiêm túc thực hiện các giải pháp chung sau: Giải quyết vấn đề RRTD song song với triển khai các biện pháp ngăn chặn nguy cơ phát sinh RRTD trong tương lai; giải quyết vấn đề RRTD trên cơ sở tôn trọng kỷ luật thị trường và đảm bảo thực hiện công bằng xã hội.

Thứ năm, giải pháp về xử lý sở hữu chéo trong hệ thống các NHTM. NHNN cần có đánh giá đầy đủ về tình hình sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, từ đó rà soát lại các quy định pháp lý để tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng ban hành mới các quy định để kiểm soát, hạn chế, ngăn ngừa các tác động tiêu cực của sở hữu chéo đem lại đối

135

với NHTM. Tiếp tục giám sát an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng thông qua thanh tra vốn, tình hình sở hữu cổ phần, hoạt động cho vay, đầu tư, góp vốn... Thứ sáu, hoàn thiện khẩu vị rủi ro toàn ngân hàng Thực tế phân tích cho thấy khẩu vị rủi ro tại các NHTM hiện nay đã có nhưng chưa cụ thể hóa, thống nhất và sát với thông lệ quốc tế. Do đó, để nâng cao năng lực quản trị điều hành, các NHTM trước hết cần coi trọng việc xây dựng và tuyên bố Khẩu vị rủi ro chính thức, thống nhất toàn ngân hàng đối với tất cả các loại rủi ro trọng yếu (RRTD, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất). Khẩu vị rủi ro xây dựng trên cơ sở kỳ vọng của các đối tượng liên quan (cổ đông, HĐQT, BĐH, khách hàng, nhân viên, Cơ quan quản lý Nhà nước) để cân đối và hài hòa lợi ích. Khẩu vị rủi ro phải xác định được mức độ chấp nhận, khả năng chịu đựng rủi ro theo quy mô, năng lực của từng ngân hàng. Khẩu vị rủi ro phải cụ thể hóa, chi tiết đến từng ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối tượng khách hàng, bám sát với các chiến lược kinh doanh, quyết định kinh doanh đảm bảo sự cân đối giữa vốn, lợi nhuận, rủi ro và phải bám sát các thông lệ quốc tế như chuẩn mực Basel II nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của ngành tài chính ngân hàng.

Thứ sáu, chủ động nâng cao chất lượng quản lý thông qua việc nâng cấp hệ thống pháp lý và hoàn thiện các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán đảm bảo tiêu chuẩn an toàn Basel II. Nguyên nhân do hệ thống NHTM hiện nay chưa được cập nhật đầy đủ so với các quy định và tiêu chuẩn an toàn mới trong Basel. Do đó, NHNN cần tiếp tục cải cách hệ thống kế toán ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là vấn đề về quản lý RRTD, đánh giá mức độ rủi ro và trích lập dự phòng, xử lý RRTD dựa trên xu hướng hợp nhất giữa hai chuẩn mực kế toán Mỹ và chuẩn mực kế toán quốc tế.

Điều kiện thực hiện giải pháp: - Chính phủ cần cần tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai tái cấu trúc hệ thống NTMM, các quy định về Basel II; trong đó, sớm ban hành thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, chi nhánh NHNN và tiếp tục dự thảo thông tư tính toán vốn theo phương pháp nâng cao (FIRB) đảm bảo đúng lộ trình triển khai Basel II.

- NHNN cũng cần chủ trọng nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại trung tâm thông tin tín dụng CIC. Ngoài ra, NHNN cần công khai hoạt động của NHTM (công khai báo cáo tài chính) để các nhà đầu tư, đơn vị tổ chức có nhu cầu tìm kiếm thông tin về hoạt động của các NHTM. Từ đó góp phần giảm thiểu sự gia tăng của nợ xấu NHTM trong hoạt đông cung cấp tín dụng ngân hàng. NHNN cần thực hiện đào tạo và phát triển một văn hoá giám sát mới. Thực tế, tiêu chuẩn an

136

toàn Basel II buộc các cơ quan giám sát NHNN nắm bắt được các kỹ thuật đo lường, đánh giá rủi ro, nhận biết các sai phạm. Do đó cần phải thay đổi văn hoá giám sát từ kiểm tra tuân thủ sang đánh giá rủi ro.

- Với vai trò là cơ quan giám sát, điều hành hoạt động, NHNN cần tích cực hướng dẫn, đôn đốc các NHTM ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu trong QLRR cũng như những quy định và chính sách xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín dụng, quản lý xử lý RRTD tại các NHTM.

- Các có sự rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý liên quan đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM như Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông... qua đó có những hướng dẫn cụ thể trong việc phối hợp triển khai các nhiệm vụ liên quan đến QLNN về nội dung này.

4.3.2.2. Đẩy mạnh triển khai các nội dung quản lý nhà nước đối với rủi ro

tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Mục tiêu của giải pháp: Hoàn thiện các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM sẽ giúp các NHTM có khả năng dễ dàng hơn trong tiếp cận với hệ thống văn bản quản lý, dễ dàng hơn trong triển khai các văn bản quản lý nhằm phù hợp với điều kiện của từng NHTM. Nội dung và cách thức thực hiện: (1) Thực hiện đúng quy trình, quy chế tín dụng nhằm nâng cao công tác

quản lý RRTD

Để nâng cao công tác quản lý RRTD tại các NHTM thì bản thân NHNN cần có những chế tài, những hướng dẫn nhằm giúp các NHTM có sự tách bạch giữa HĐKD và hoạt động quản lý rủi ro. Chức năng quản lý RRTD cần được giao cho một bộ phận độc lập với phần kinh doanh của các NHTM. Quy trình tín dụng bao gồm tất cả những quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Quy trình này được bắt đầu từ khi tập hợp thông tin về khách hàng xin vay; Phân tích nguồn trả nợ; Phân tích tín dụng chi tiết, giải ngân món vay, kiểm tra trong và sau khi vay cho đến khi thu hồi hết nợ gốc và lãi. HĐTD có an toàn hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình này.

Nội dung quản trị RRTD phải được xây dựng dựa trên những đánh giá tổng thể về tình hình kinh doanh của NHTM, môi trường kinh tế vĩ mô, những kỳ vọng về phát triển trong tương lai của ngân hàng và đảm bảo trên cả hai phương diện là đo lường rủi ro giao dịch tín dụng và rủi ro danh mục tín dụng.

Đo lường, theo dõi, cảnh báo và kiểm soát RRTD, cần phân tích và định lượng một cách đầy đủ các loại RRTD và xây dựng một quy trình giám sát đầy đủ

137

nhằm hạn chế các loại rủi ro này và có các kế hoạch để đối phó trong các trường hợp có biến động đột xuất của môi trường kinh doanh, sự thay đổi cơ cấu tổ chức, thay đổi công nghệ. Xây dựng hệ thống đánh giá tín dụng chất lượng, tránh việc xét duyệt cho vay phần nhiều dựa trên tài sản thế chấp và dựa trên sự trình bày của cán bộ tín dụng về khách hàng, thiếu sự kiểm tra, tái thẩm định lại thông tin. Cần đưa ra các quy định nội bộ về HĐTD, cụ thể hóa trách nhiệm của các cá nhân đối với việc thẩm định, kiểm tra, giám sát khoản vay và quản lý tài sản đảm bảo. Cụ thể như: trách nhiệm về sự xác thực của các thông tin nêu trong báo cáo thẩm định, trách nhiệm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và kiểm tra khách hàng, nội dung kiểm tra, định kỳ kiểm tra đối với từng khoản vay và tài sản đảm bảo.

Việc quán triệt thực hiện đúng theo quy trình quy chế, thường xuyên tổ chức học tập quy trình, quy chế cho cán bộ, giải đáp thắc mắc về những bất hợp lý của quy định, quy trình, những khó khăn vướng mắc khi thực hiện để phản hồi lại với các NHTM thực hiện sửa đổi cho phù hợp với hoạt động thực tiễn.

(2) Nâng cấp hệ thống thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời Trong công tác quản lý RRTD, thông tin giữ vai trò quyết định quan trọng đến chất lượng thẩm định. Nguồn thông tin được cung cấp một cách chính xác, kịp thời sẽ cho quyết định tín dụng đúng đắn hơn, hạn chế rủi ro một cách thấp nhất. Do vậy, yêu cầu bức thiết hiện nay là phải xây dựng được hệ thống thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác để phục vụ công tác quản lý rủi ro.

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NHTM: hệ thống thông tin này tập hợp dữ liệu toàn bộ các khách hàng, thông tin về thị trường, tình hình KT-XH với đầy đủ các chỉ tiêu tài chính dự án, các thông tin về khách hàng, về thị trường chính xác và cập nhật... Các thông tin này được lưu giữ theo từng khách hàng hoặc theo từng ngành kinh tế trên thư mục chung của NHTM để các cán bộ nếu cần các thông tin về ngành tương tự có thể tiện truy suất.

- Xây dựng các kênh thu thập thông tin thẩm định từ bên ngoài: thiết lập mối quan hệ với các cơ quan liên quan trong và ngoài ngành (các NHTM, cơ quan tài chính, cơ quan thuế, kiểm toán, cơ quan quản lý chuyên ngành) để cung cấp và trao đổi thông tin liên quan đến dự án như: chiến lược phát triển kinh tế của ngành, tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật, dự báo về thị trường hoặc chính sách chế độ về quản lý ngành, tình hình tài chính của các doanh nghiệp; tham gia vào hệ thống cung cấp thông tin cảnh báo tín dụng của NHNN; mua thông tin cần thiết từ các tổ chức tư vấn trong và ngoài nước.

(3) Xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng phù hợp

138

Đổi mới cách thức xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách và quy trình bằng văn bản liên quan đến việc phát hiện, đánh giá, giám sát và kiểm soát RRTD. Các chính sách và quy trình tín dụng cần phải được lập một cách rõ ràng, thống nhất với các thông lệ, thận trọng trong kinh doanh Ngân hàng và với các quy định của Nhà nước, đồng thời phải phù hợp với bản chất và mức độ phức tạp của khách hàng, đối tượng vay vốn. Chính sách và quy trình tín dụng phải đảm bảo:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy tín dụng theo nguyên tắc thương mại, thị trường, coi trọng hiệu quả bền vững trên cơ sở lợi nhuận có điều chỉnh rủi ro là yêu cầu cơ bản nhất xuyên suốt quá trình hoạt động.

Hai là, thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, nhu cầu tín dụng, thích ứng với môi trường kinh tế, trên cơ sở cập nhật thông tin, phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo triển vọng từng ngành hàng, sản phẩm.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng đảm bảo tính đầy đủ,

đồng bộ, nhất quán, ngắn gọn và tiện lợi người thực thi chính sách tín dụng.

Bốn là, phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng chuyên biệt và cải tiến các sản phẩm hiện có. Phát triển sản phẩm trọn gói bằng việc gắn sản phẩm tín dụng với các tiện ích khác của Ngân hàng.

Năm là, xây dựng quy trình phê duyệt nhanh đối với các sản phẩm tín dụng nhỏ lẻ như cho vay khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các sản phẩm tín dụng ít chịu rủi ro. Thiết lập luân chuyển tài liệu, hồ sơ điện tử để giảm thiểu thời gian giải quyết các khoản tín dụng vượt cấp. Trước mắt, cần ban hành quy trình xây dựng và quản lý giới hạn tín dụng một nhóm khách hàng và cho toàn bộ danh mục cho vay.

- Quản lý chặt giới hạn tín dụng của các khách hàng lớn và nhóm khách hàng liên quan, kiên quyết không tăng giới hạn tín dụng đối với bất kỳ khách hàng nào vượt quá các tỷ lệ theo quy định của Luật các TCTD, các thông tư và hướng dẫn của NHNN, bên cạnh đó, tích cực mở rộng đối tượng khách hàng để đa dạng hóa khách hàng và ngành nghề cho vay, phân tán RRTD.

- Xây dựng công cụ để xác định và quản lý giới hạn tín dụng nhóm khách hàng có liên quan về quan hệ sở hữu, quan hệ điều hành. Thiết lập công cụ nhận biết, phòng ngừa nhóm khách hàng có động cơ gian lận thuế và vay vốn Ngân hàng. Cần xây dựng mọi phương án nhằm hạn chế RRTD của cả nhóm khi phát sinh từ thất bại của một đơn vị kéo theo sự thất bại của các đơn vị khác trong nhóm.

- Các giới hạn cần bao gồm toàn bộ các rủi ro đối với từng khách hàng cụ thể đối với toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng, như tín dụng, tài trợ thương mại

139

(ngoài bảng tổng kết tài sản), hoạt động liên Ngân hàng với hoạt động nguồn vốn (tỷ giá hối đoái) và các giao dịch khác liên quan đến RRTD.

- Rủi ro thực tế đối với các giới hạn cần được giám sát, thống kê cụ thể ở cấp độ từng đơn vị vay riêng lẻ, từng nhóm đơn vị vay có quan hệ với nhau và từng danh mục tín dụng.

(4) Xây dựng các giới hạn an toàn trong HĐTD Căn cứ chỉ tiêu giao và định hướng Hội sở chính, chi nhánh cần xem xét và

xây dựng các giới hạn cần thiết trong từng thời kỳ một các rõ ràng:

- Tỷ trọng cho vay theo thời gian; - Tỷ trọng dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế; - Tỷ trọng cho vay trung dài hạn trên tổng dư nợ; - Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ; - Danh mục các ngành nghề, lĩnh vực hạn chế cho vay, hoặc cho vay với điều

kiện đặc biệt không cho vay;

- Giới hạn tín dụng cho các ngành, sản phẩm, khu vực địa lý. Trên cơ sở các phân tích, báo cáo về xu hướng phát triển, nhu cầu vốn, mức độ rủi ro của các ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm trên thị trường, đồng thời hạn chế RRTD do tập trung tín dụng vào một số lĩnh vực chủ yếu.

Danh mục cho vay phải được rà soát và có các báo cáo định kỳ về xu hướng rủi ro, các nguy cơ rủi ro chính, các lĩnh vực rủi ro cao của danh mục và các biện pháp để giảm thiểu rủi ro. Trên cơ sở rà soát, phân tích rủi ro ảnh hưởng đến khả năng giảm sút thu nhập và mất vốn của danh mục cho vay hiện tại (do sự thay đổi môi trường kinh doanh, chính sách của nhà nước, sự biến động của bản thân doanh nghiệp và các nguyên nhân thuộc về ngân hàng…) để điều chỉnh danh mục cho vay một cách kịp thời, hợp lý nhằm tạo sự cân đối giữa các tài sản có độ rủi ro cao và tài sản có độ rủi ro thấp từ đó tạo ra thu nhập hợp lý và điều tiết được rủi ro.

(5) Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát khoản vay Trên thực tế, nguyên nhân để RRTD xảy ra không phải tất cả đều do phương án vay vốn kém hiệu quả hay do khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích mà còn do cán bộ tín dụng không thực hiện việc kiểm tra giám sát khoản vay chặt chẽ và thường xuyên, dẫn đến việc ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi khách hàng kết thúc phương án kinh doanh, cũng như không phát hiện kịp thời việc khách hàng có thể dùng nguồn tiền này để đầu tư vào các mục đích khác kém hiệu quả hay không minh bạch... Ngay cả đối với các khoản vay tốt nhất cũng cần có một số kiểm tra nhất định, định kỳ để đảm bảo nó đang hoạt động theo dự kiến, tình trạng của khoản vay không xấu đi. Vì vậy, giai đoạn này mang ý nghĩa rất quan

140

trọng trong việc phòng ngừa rủi ro và giảm thiểu rủi ro trước khi nó xảy ra, gây hậu quả nặng nề với phần vốn vay. Tuy nhiên, hiện nay công tác này vẫn còn được thực hiện một cách đối phó cho đủ thủ tục quy định nên hiệu quả kiểm tra không cao.

- Phải có kế hoạch định kỳ đi kiểm tra tình hình hoạt động thực tế đối với từng khách hàng vay và chú trọng thực hiện nội dung của kế hoạch này: cần xây dựng tần suất thực hiện kiểm tra sau khi cho vay chi tiết đối với từng loại khoản vay: vay theo món, từng lần, vay theo hạn mức, vay trung hạn, dự án, vay dài hạn… - Thực hiện kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng phải dựa trên số

liệu thực tế và các chứng từ gốc chứng minh hợp lệ.

- Biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay phải thể hiện đầy đủ các thông tin về tình hình tài chính, tình hình HĐKD, hàng tồn kho, công nợ của khách hàng, hiện trạng và giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm kiểm tra… nhằm có thể đánh giá chính xác hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Đồng thời phát hiện kịp thời những rủi ro có thể xảy ra, từ đó có những biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời khi phát sinh.

- Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời những dấu hiệu của RRTD như khi khách hàng vay thường xuyên chậm trả lãi, trả gốc, sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tình hình thị trường ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh… để có những biện pháp xử lý chủ động và kịp thời khi RRTD có nguy cơ xảy ra.

- Cần vấn tin CIC thường xuyên để nắm bắt kịp thời tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng, từ đó có những biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời khi RRTD phát sinh. Cán bộ phải thường xuyên tiếp cận thực tế khách hàng để nắm bắt tình hình hoạt động của khách hàng, không được quản lý chỉ trên giấy tờ báo cáo của khách hàng. Kết hợp giữa quản lý dòng tiền về trên tài khoản ngân hàng với sổ sách của khách hàng, thông tin từ bên ngoài. Thường xuyên đánh giá, chấm điểm khách hàng định kỳ để đánh giá sức khỏe của đơn vị và có biện pháp xử lý thích hợp.

(6) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt đội ngũ quản lý và xây

dựng chính sách

Xây dựng hệ thống quy chuẩn đạo đức và hành vi của cán bộ tín dụng: Nhằm đưa ra các nguyên tắc ứng xử và tài liệu hướng dẫn cán bộ tín dụng xử lý các tính huống khác nhau từ khi tiếp xúc với khách hàng cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng; các tính huống đơn giản đến các tình huống phức tạp trong xử lý nợ, đòi nợ. Xây dựng chính sách đào tạo để nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Công tác đào tạo cần tập trung vào một số vấn đề như:

+ Tăng cường hình thức đào tạo tập trung, kết hợp hình thức tập huấn tại chỗ, hình thức đào tạo này nhằm làm cho cán bộ tín dụng nắm bắt được một số nghiệp vụ nhất định trong thời gian ngắn như: Tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ

141

theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong công tác tín dụng, văn bản, quy trình nghiệp vụ. NHTM thường xuyên định kỳ tối thiểu 1 lần/năm, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, hiểu biết các chế độ văn bản pháp luật, chính sách, quy trình nghiệp vụ có liên quan đến công tác tín dụng. Trong quá trình học tập, bồi dưỡng phải gắn lý luận với thực tiễn để cán bộ tín dụng có thể vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt và có hiệu quả trong thực tế. Ngoài ra, ngân hàng cần phải xây dựng chính sách đãi ngộ nhân sự thật hợp lý, thực hiện cơ chế tài chính thông thoáng nhằm thu hút được nhân tài và duy trì đủ nhân lực chất lượng có thể đảm trách các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì việc tăng trưởng tín dụng hàng ngày không đồng bộ với số lượng và chất lượng của nhân viên tín dụng phụ trách nên dễ dẫn đến có nhiều rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng như tình trạng chảy máu chất xám nhất là trong tình hình khan hiếm nhân lực trong ngành tài chính ngân hàng như hiện nay.

(7) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong phòng ngừa và hạn chế RRTD Công nghệ thông tin là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lực hoạt động của ngân hàng bởi lẽ công nghệ thông tin sẽ cải thiện môi trường làm việc, tăng nhanh tốc độ xử lý công việc, xử lý giao dịch với độ an toàn cao hơn do giảm bớt sự can thiệp thủ công và vì vậy cải thiện được dịch vụ. Theo Basel II, sự đầu tư công nghệ này theo thời gian tất yếu sẽ phát huy được lợi ích tiềm tàng to lớn của nó trong hoạt động ngân hàng nói chung, cũng như trong quản lý rủi ro nói riêng. Công nghệ là chìa khóa để có thể xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại tối ưu, là cơ sở cần thiết để có thể áp dụng các mô hình đo lường định lượng. Do đó, công nghệ và hệ thống thông tin quản lý là điều kiện cần thiết để xác định và thực thi mô hình quản lý rủi ro.

(8) Hình thành thị trường mua bán nợ ở Việt Nam Nhà nước cần có quy định cụ thể về xử lý nợ xấu của các TCTD theo hướng tập trung bán nợ, kiểm soát thời gian xử lý nợ, nếu nợ quá hạn thì phải bán theo giá của tổ chức đánh giá trung gian. Trong trường hợp nguồn vốn của công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của công ty không đủ để thực hiện việc mua nợ liên quan đến việc tái cấu trúc doanh nghiệp, Nhà nước sẽ yêu cầu cung cấp vốn (có trả nợ) cho công ty mua bán nợ hoặc phát hành trái phiếu công ty để xử lý nợ. Đồng thời, các quy định của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) về quản lý nợ xấu trong tương lai cần sớm được sửa đổi với mục đích tạo ra quyền sở hữu của VDB như các TCTD. Để thị trường giao dịch mua bán nợ hoạt động có hiệu quả, cần phải có công ty định giá tài sản chuyên nghiệp chuyên định giá độc lập các khoản nợ sẽ được giao dịch trên thị trường. Sự tham gia của các công ty này vào quá trình mua bán nợ

142

sẽ cho phép cả người mua nợ và người bán nợ có cơ sở để xem xét và quyết định mua hoặc bán nợ, đảm bảo giao dịch mua bán nợ được thực hiện một cách khách quan. Các công ty định giá tài sản sẽ phân loại, thẩm định, đánh giá các khoản nợ một cách khách quan, phản ánh đúng bản chất của tài sản gắn liền với khoản nợ tại thời điểm mua. Hoạt động của các công ty này sẽ góp phần minh bạch và thúc đẩy thị trường mua bán nợ, tuy nhiên cần được giám sát chặt chẽ bởi các đơn vị liên quan để tạo niềm tin cho người mua và người bán nợ trên thị trường. Ngoài ra, cần tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng, vận hành sàn giao dịch nợ/nợ xấu, cơ chế thu thập, chia sẻ, kết nối thông tin giữa các chủ thể trên thị trường mua bán nợ. Mặt khác, cần tổ chức đánh giá chính xác, thẳng thắn, toàn diện kết quả cũng như những hạn chế trong hoạt động của Sàn giao dịch nợ VAMC sau 02 năm hoạt động, xác định rõ định hướng về mô hình tổ chức, hoạt động của Sàn giao dịch nợ VAMC đến năm 2025, định hướng 2030.

Cùng với sự quan tâm, ủng hộ của Quốc hội, Chính phủ, NHNN trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động xử lý nợ và sự chủ động triển khai của mình, VAMC thực hiện thành công việc mua nợ theo giá trị thị trường đầu tiên vào tháng 8/2017 và đến nay đã thực hiện mua hơn 45 khoản nợ xấu với giá mua là 5.959 tỷ đồng. Đây là một tín hiệu tốt cho thấy các TCTD đã bước đầu nhập cuộc. Trong điều kiện Việt Nam không sử dụng trực tiếp vốn ngân sách nhà nước, VAMC đã và đang là một công cụ xử lý nợ xấu đặc thù hữu hiệu và có tính khả thi nhất, góp phần xử lý nợ xấu cho hệ thống các TCTD, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.

Để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu, VAMC cần được tham gia đề xuất xây dựng, chỉnh sửa, hoàn thiện các văn bản pháp luật, tham gia đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của VAMC, điều đó được thể hiện: sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 được ban hành, để triển khai thực hiện VAMC phối hợp và tham gia ý kiến để ban hành nhiều văn bản nghiệp vụ như: Chỉ thị số 32/CT- TTg ngày 19/07/2017 triển khai thực hiện Nghị quyết 42, Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 về việc thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14...

VAMC là doanh nghiệp đặc thù của Nhà nước do vậy trong quá trình xử lý nợ xấu VAMC cần tiếp tục nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ trợ từ các bộ ngành, địa phương, đặc biệt trong công tác thu giữ tài sản bảo đảm. VAMC cần có đủ khả năng, tiềm lực trở thành trung tâm kết nối, thiết lập mối quan hệ với các đối tác, nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đồng thời, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới để áp dụng hiệu quả, phù hợp với hoạt động của thị trường Việt Nam.

143

Điều kiện thực hiện giải pháp: - Chính phủ cần nâng cao hiệu quả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu ngành ngân hàng. Chính phủ cần có định hướng thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế hướng tới chiều sâu, giảm sự ảnh hưởng của yếu tố vốn bằng các chính sách như: khuyến khích doanh nghiệp cải tiến công nghệ, trang bị công nghệ mới phù hợp nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, nâng cao hiệu quả đầu tư công, giải quyết tốt mối quan hệ tích lũy và tiêu dùng…

- Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các NHTM: Thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín dụng để các NHTM có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro.

- Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NHTM, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các NHTM về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho các NHTM.

- Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước phải phối hợp xây dựng hệ thống tài chính phát triển, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế bền vững. Trong đó, phải xây dựng thị trường chứng khoán, thị trường vốn dài hạn song hành với thị trường vốn ngắn hạn từ hệ thống ngân hàng góp phần đa dạng hóa các kênh huy động vốn của doanh nghiệp, giảm lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng đồng thời phải ban hành các quy định cũng như các chế tài phù hợp để tránh tình trạng thông tin không minh bạch, lũng đoạn, làm giá, sử dụng thông tin nội bộ hay công bố thông tin không kịp thời… nhằm đảm bảo thị trường này phát triển ổn định.

- NHNN cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của TCTD, của cơ quan Công an, của Chính quyền cơ sở, của ngành Tài nguyên Môi trường làm cơ sở pháp lý để đi đến ban hành thông tư liên ngành hướng dẫn thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ, cụ thể hóa từng công việc trong thi hành án. Hiện nay, xử lý nợ xấu là một trong những nội dung quan trọng trong đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD.

4.3.3. Tăng cường kiểm tra giám sát rủi ro tín dụng và xử lý vi phạm của

hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

144

Mục tiêu của giải pháp: Từ những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại trong công tác quản lý hệ thống NHTM, công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát RRTD cần thực thực hiện một số giải pháp để nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát RRTD của hệ thống NHTM. Việc triển khai đồng bộ giải pháp này cùng các giải pháp khác giúp các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng nắm bắt được tiến trình triển khai và hiệu quản triển khai các văn bản quản lý về RRTD. Đồng thời giúp các NHTM có thể kiểm soát tốt hơn các hoạt động của mình khi thực hiện các nghiệp vụ liên quan.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: Thứ nhất, đổi mới cơ chế chỉ đạo điều hành hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát ngân hàng, đồng bộ và thống nhất công tác quản lý mang tính hệ thống từ trung ương đến đại phương và tạo sự tương thích với xu hướng QTRR tập trung của các NHTM hiện nay. Đặc biệt, cơ chế song trọng lãnh đạo trong một hệ thống cơ quan thanh tra cùng cấp không phát huy được vai trò và trách nhiệm của thanh tra, giám sát NHNN. Công tác tổ chức phân tán, phân cấp và uỷ quyền cho NHNN thực hiện thanh tra, giám sát các NHTM trên địa bàn quản lý không cụ thể. Vì vậy, công tác thanh tra toàn diện RRTD NHTM gặp nhiều khó khăn, việc kiểm tra, giám sát được thực hiện có nguy cơ rủi ro sai phạm. Do đó, việc quy định rõ quyền hạn, vai trò và trách nhiệm từng vị trí trong cơ quan thanh tra là thực sự cần thiết đối với nâng cao, phát huy hiệu quả QLNN đối với giám sát RRTD của NHTM.

Ngoài ra, việc phân cấp phân quyền trong thanh tra NHTM như hiện nay khiến công tác thanh tra kiểm tra thực hiện riêng lẻ, bộ phận của NHTM (Hầu hết các NHTM đều có mạng lưới trên cả nước, công tác điều hành, quản lý và QTRR tập trung tại hội sở chính) dẫn đến tình trạng cùng một ngân hàng, kết quả thanh tra, giám sát giữa các địa phương khác nhau được kết luận, công bố kết quả thanh tra khác nhau. Kết quả có thể ảnh hưởng đến hiệu lực, năng lực điều hành của thanh tra NHNN.

Thứ hai, NHNN chủ động xây dựng và thực hiện tuyển dụng, đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ cao, nâng cao năng lực nghiệp vụ và tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp để thích ứng kịp thời với sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng trong điều kiện kinh tế hội nhập sâu rộng. Với vai trò quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM, đội ngũ nhân lực cơ quan thanh tra, giám sát NHNN cần phải có trình độ và chất lượng cao, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kiểm tra giám sát nợ xấu NHNN trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Thứ ba, tiếp tục tăng cường thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định về cấp tín dụng, an toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro của các

145

TCTD; tăng cường quản lý, thanh tra, giám sát lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và doanh nghiệp nhà nước.

- Rà soát lại các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo hướng độc lập hơn nữa bảo đảm khách quan trong thanh tra, giám sát QLRR đối với hoạt động của các NHTM.

- Ban hành các Thông tư quy định quy trình, thủ tục thanh tra ngân hàng theo

hướng triển khai đồng thời giám sát vĩ mô và giám sát vi mô đối với các NHTM.

- Ban hành Quy định xử lý mối quan hệ giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

hàng về phân cấp trách nhiệm thanh tra, giám sát và quan hệ chỉ đạo, điều hành.

Thứ tư, để nâng cao chất lượng QLRR của NHTM, NHNN cần đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng, phát huy hiệu quả hoạt động của cả hệ thống thanh tra ngân hàng. NHNN cần xây dựng hệ thống giám sát từ xa và thực hiện giám sát thường xuyên liên tục nhằm cảnh báo sớm rủi ro đối với các NHTM trong hệ thống ngân hàng trong bối cảnh phát triển mới hiện nay.

Thứ năm, NHNN cần tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Từ đó, tăng cường quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa NHNN với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, mở rộng và duy trì sự hợp tác song phương với các tổ chức ngân hàng các nước. Thông qua đó để học hỏi kinh nghiệm trong công tác quản lý RRTD đối với hoạt động của các NHTM. Khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực nước ngoài thông qua hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn chính sách và hỗ trợ đào tạo từ các quốc gia khác để nâng cao chất lượng QLRR của NHTM.

Điều kiện thực hiện giải pháp: Nhìn chung, để thực hiện tốt công tác giám sát kiểm tra RRTD của NHTM, NHNN Việt Nam cần hoàn thiện cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng theo hướng nâng cao tính độc lập và thống nhất về công tác tổ chức nhân sự, hoạt động nghiệp vụ và cả công tác chỉ đạo điều hành nghiệp vụ thanh tra giám sát từ trung ướng đến địa phương dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của thống đốc NHNN.

- NHNN tăng cường hoàn thiện các công cụ, phương pháp và nội dung kiểm

tra, giám sát trong quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM;

- Các NHTM cần chú trọng xây dựng quy trình giám sát thường xuyên, liên tục kết hợp với giám sát định kỳ được thực hiện bởi kiểm toán nội bộ nhằm đưa ra các đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống KSNB.

- Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ định kỳ và đột xuất. Mục đích nhằm phát hiện kịp thời và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra đảm bảo cho toàn hệ thống hoạt động an toàn, hiệu quả, tuân thủ đúng các quy định của Nhà

146

nước, của ngân hàng. Qua đó cán bộ kiểm tra cũng có thể học tập kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn.

4.3.4. Nâng cao nhận thức về rủi ro tín dụng và quản lý nhà nước đối với

rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Mục tiêu của giải pháp: Trong bất kỳ hoạt động quản lý nào, việc nâng cao nhận thức sẽ là một trong những yêu cầu đầu tiên vì bởi lẽ các chủ thể quản lý, đối tượng quản lý có nhận thức đúng và kịp thời thì việc triển khai QLNN đối với nội dung, hoạt động đó sẽ dễ dàng hơn trong triển khai thực hiện. Trong QLNN đối với RRTD của các NHTM cũng thế, việc nhận thức được các RRTD, nguy cơ tiềm ẩn của các RRTD và những ảnh hưởng của RRTD đến hiệu quả hoạt động tín dụng tại các NHTM sẽ tác động rất lớn đến hiệu quả của QLNN về nội dung này.

Nội dung và cách thức thức hiện: NHNN cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đến các bên liên quan và NHTM về RRTD cũng nhưng vai trò của QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Thúc đẩy hình thành văn hóa quản trị rủi ro tại các NHTM, cũng như cần được lan tỏa đến tất cả các đơn vị trong hệ thống của NHNN. Theo đó, chỉ đạo các NHTM tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo để tất cả các cá nhân đều hiểu rõ vai trò trách nhiệm của mình trong việc nhận diện và kiểm soát rủi ro trong các mảng hoạt động, các quyết định được đưa ra không chỉ dựa trên định hướng về kinh doanh, lợi nhuận mà cần có sự xem xét trên cơ sở rủi ro; tăng cường truyền thông, chia sẻ bài học kinh nghiệm, sự kiện rủi ro để cho các cá nhân, đơn vị trong toàn hệ thống NHTM hiểu rõ và rút kinh nghiệm, nâng cao ý thức quản trị rủi ro. Ngoài ra, các NHTM không ngừng tiếp thu chuyển giao từ phía các TCTD quốc tế và các đối tác định chế tài chính nước ngoài trong việc học tập chính sách quản trị rủi ro và tiếp thu công nghệ phục vụ xây dựng công cụ quản trị, nhằm mục tiêu tăng trưởng hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, bền vững.

NHNN, hệ thống các NHTM cần nhận thức đúng đắn về quản lý RRTD và tầm quan trọng của quản lý RRTD, cần đặt quản lý RRTD ngang bằng với các hoạt động khác. Tuy không mang lại lợi nhuận nhưng đây là hoạt động sẽ hạn chế rủi ro và tránh gây thất thoát tiền của và thời gian của NHTM và giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội.

Một trong những công cụ để trao đổi thông tin về các vấn đề chiến lược và tôn chỉ là thông qua chiến lược tín dụng (hay tầm nhìn tín dụng), chiến lược này được thể hiện như một tuyên ngôn về các mục tiêu và xác định thái độ của lãnh đạo ngân hàng đối với rủi ro tài sản và thái độ sẵn sàng chấp nhận các rủi ro đó. Chiến

147

lược tín dụng cần được truyền đạt tới toàn thể cán bộ ngân hàng để mọi cán bộ liên quan đều hiểu về phương pháp tiếp cận của ngân hàng trong quá trình cấp tín dụng. Lãnh đạo, quản lý tại các NHTM đều nhận biết được bản chất và mức độ RRTD mà ngân hàng sẵn sàng chấp nhận trong chiến lược của mình là rất quan trọng.

Điều kiện thực hiện giải pháp: - Nhà nước cần tiếp tục duy trì ổn định về chính trị. Bởi lẽ một môi trường chính trị ổn định sẽ không gây những biến động bất lợi cho nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là khá ổn định. Tuy nhiên, Nhà nước cần tiếp tục duy trì tốt vấn đề này nhằm giữ vững niềm tin của công chúng và các nhà đầu tư, tạo một môi trường thuận lợi trong kinh doanh của các chủ thể kinh tế, đặc biệt là các NHTM, từ đó giúp cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng tránh những biến động bất ngờ về kinh doanh tránh được những rủi ro trong kinh doanh của NHTM.

- Sự thay đổi các chính sách của Nhà nước cần được công bố rõ ràng và có thời gian cần thiết để chuyển đổi qua đó giúp các bên liên quan có thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tăng cường nhận thức về nội dung trên. Nếu không có thể dẫn đến những thiệt hại do không kịp thay đổi hoạt động của các NHTM cho phù hợp với chính sách mới. Và điều này cũng nằm ngoài khả năng dự báo của ngân hàng phải gánh chịu.

Kết luận chương 4

Trong chương này, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Trước tiên, tác giả đưa ra một số định hướng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Trong định hướng quản lý nói chung của NHNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt nam trong giai đoạn đến năm 2030 và những năm tiếp theo, việc làm tiên quyết là khắc phục những yếu kém về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Có ba nhóm giải pháp được tác giả đưa ra, gồm: ((1) Hoàn thiện hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, (2) Triển khai hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, (3) Tăng cường kiểm tra, giám sát RRTD và xử lý vi phạm của hệ thống NHTM Việt Nam, (4) Nâng cao nhận thức về RRTD và QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam.

148

KẾT LUẬN

Luận án đã chú trọng phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong những năm gần đây, kinh nghiệm và bài học rút ra cho Việt Nam trong QLNN đối với RRTD của các tổ chưc và quốc gia trên thế giới. Mở đầu, tác giả nêu lên khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu, từ đó đánh giá khoảng trống nghiên cứu và những vấn đề mà chuyên đề sẽ kế thừa và phát triển. Sau đó, tác giả hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN của NHNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào nội dung chính là phân tích và đánh giá thưc trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Trước tiên, tác giả khái quát về hệ thống NHTM Việt Nam. Tiếp theo, tác giả phân tích ba nội dung chính về thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. Nhìn chung, NHNN đã triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý về RRTD song song cùng các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa RRTD mới phát sinh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ RRTD của hệ thống các NHTM. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động QLNN về RRTD đối với các NHTM Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả triển khai. Trên cơ sở tác giả nghiên cứu, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp tăng cường và hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Ba nhóm giải pháp được đưa ra đó là: (1) Hoàn thiện hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, (2) Triển khai hoàn thiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, (3) Tăng cường kiểm tra, giám sát RRTD và xử lý vi phạm của hệ thống NHTM Việt Nam, (4) Nâng cao nhận thức về RRTD và QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam.

Bên cạnh những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn, luận án vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến QLNN của NHNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Ngoài ra, do hạn chế về thời gian và chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, một số vấn đề về thực trạng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam những năm gần đây chưa được nghiên cứu hết. Bên cạnh đó, các giải pháp đưa ra nhằm tăng cường và hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới còn có tính khả thi chưa cao. Trên cơ sở các hạn chế nêu trên, tác giả hy vọng các nghiên cứu tương lai sẽ chú trọng nghiên cứu sâu hơn về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt

149

Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển thị trường tài chính như hiện nay, các nhà nghiên cứu cần gắn hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM với những thay đổi của nền kinh tế hội nhập nhằm mang lại các kết quả nghiên cứu có tính thực tiễn cao hơn, phù hợp với bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NCS LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đào Văn Chung (2018), “Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng

trong các ngân hàng thương mại hiện nay”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái

Bình Dương, ISSN 0868-3808, (số chuyên đề tháng 8/2018), tr.31-32. Đào Văn Chung (2018), “Quản lý danh mục cho vay tại các Ngân hàng 2.

Thương mại: Quan niệm và ý nghĩa”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình

Dương, ISSN 0868-3808, (số 523, tháng 8/2018), tr.48, tr.91.

3. Đào Văn Chung (2021), “Giải pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng của các Ngân

hàng Thương mại Việt nam trong bối cảnh Đại dịch covid-19”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, ISSN 1859-2805, số 10 (571) năm 2021, tr.25-28; Đào Văn Chung (2021), “Hiện tượng rủi ro cam kết và kỹ thuật ngăn ngừa, 4.

kiểm soát trong hoạt động tín dụng ngân hàng”, Tạp chí Thị trường Tài chính

Tiền tệ, ISSN 1859-2805, số 10 (571) năm 2021, tr.25-28;

5. Dao Van Chung (2021), “Impact of Credit Risk Management on the

Business Efficiency of Commercial Banks in Vietnam”, Design Engineering,

Toronto, Canada, ISSN: 0011-9342, Vol 2021: Issue 7, Pp: 14341-14353,

(http://www.thedesignengineering.com/index.php/DE/article/view/4700),

(Tạp chí thuộc SCOPUS);

6. Đào Văn Chung (2021), “Ảnh hưởng của dịch covid-19 và một số giải pháp,

khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại ngân hàng thương

mại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, ISSN 0868-

3808, (số 600, tháng 11/2021), tr.98-100.

7. Dao Van Chung, Nguyen Dinh Toan (2021), “Credit risk management of

commercial banks following basel II in vietnam in the state of emergency: a

The International Conference on view from covid-19 pandemic”, “Contemporary Issues in Sustainable Development 2021” (CISD2021), ISBN: 978-604-67-2127-7;

8.

Đào Văn Chung (2021), “Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, ISSN-2615-8973, số 766 (kỳ 1 - Tháng 12/2021), tr.56-58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Kim Anh (2010), “Nghiệp vụ NHTM”, Nxb Thống kê, Hà Nội.

2. Nguyễn Tuấn Anh (2020), QLNN đối với hoạt động chuyển giá của các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), “Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng thông

qua áp dụng Basel II - nhìn từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Thị trường Tài

chính Tiền tệ số 20 (413) phát hành tháng 10/2014.

4.

Bạch Văn Bảy (1991), Hiệu lực QLNN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, TP. Hồ Chí Minh.

5. Mai Văn Bưu, Phan Kim Chiến (2006), Giáo trình lý thuyết quản trị kinh

doanh, Nxb Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

6. Chính phủ (2013), Nghị định số 102/2022/NĐ-CP của Chính phủ ngày

12/12/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt

Nam, Hà Nội.

7. Chính phủ (2014), Nghị định số 26/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày

07/04/2014 về Tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân

hàng, Hà Nội.

8. Chính phủ (2017), Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ

tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử

lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”, Hà Nội.

9. Chính phủ (2018), Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ

tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam

đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, Hà Nội.

10. Chính phủ (2022), Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”, Hà Nội.

11.

Lê Vinh Danh (2015), “Chính sách tiền tệ và Điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương”, Nxb Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Ngọc Diễm (2018), QLNN đối với dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán nội địa của các NHTM Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội.

13. Nguyễn Thành Duyên (2021), trong bài viết “RRTD tại các NHTM cổ phần

Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 28-2021.

14. Tô Thị Ánh Dương (2021), QTRR tại các NHTM Việt Nam trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội.

15. Hà Văn Dương (2013), QLNN về đa dạng hóa HĐTD của các NHTM cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, Luận án tiến sĩ

kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.

16. Trần Khánh Dương (2019), Phòng ngừa và hạn chế RRTD tại NHTM cổ

phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài

chính, Hà Nội.

17. Huỳnh Sĩ Đại (2020), “Hạn chế RRTD trong hoạt động cho vay bất động sản tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Phú Yên”,, Tạp chí

Công Thương số 43, tr.36-38.

18. Nguyễn Thành Đạt, Thi Thị Mỹ Duyên và Lê Hồng Nga (2021), Tác động

của RRTD đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, Tạp chí Nghiên

cứu Tài chính - Marketing số 63 (2021).

19. Phạm Thành Đạt - Đặng Anh Tuấn (2014), “Vai trò của Ngân hàng trung

ương đối với quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam”, Tạp chí Kinh

tế và Phát triển, số 207/tháng 9/2014.

20. Phạm Thành Đạt (2017), Quản lý rủi ro thanh khoản NHTM của NHNN Việt

Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

21. Phan Huy Đường (2017), Các công cụ quản lý kinh tế, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

22. Phan Huy Đường, Phan Anh (2017), QLNN về kinh tế, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Hương Giang (2019), QLNN đối với bán hàng đa cấp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội. 24. Ha Nam Khanh Giao (2020), “Nhận biết và nhận thức về ngân hàng xanh tại

Việt Nam” (Awareness and Awareness About Green Bank in Vietnam) (June 2, 2020. Phan Thị Thu Hà (2010), Quản trị NHTM, Nxb Giao thông vận tải. 25.

26.

Phan Thị Thu Hà và Lê Thị Vân Khanh (2015), “Thực trạng và giải pháp về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro huy động theo Basel II tại các NHTM Việt

Nam” Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 22, tháng 11/2015.

27. Lê Thị Hạnh (2017), Quản trị RRTD tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương

Việt Nam theo tiêu chuẩn Basel II, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

28. Nguyễn Quang Hiện (2016), Quản trị RRTD tại NHTM Cổ phần Quân đội,

Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

29. Nguyễn Quỳnh Hoa (2014), Tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam, Trường

Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

30. Nguyễn Thị Hòa (2019), Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các TCTD- Thực trạng và giải pháp, Luận

án TS, Học viện Ngân hàng.

31. Đặng Xuân Hoan (2021), QLNN về kinh tế trong nền kinh tế thị trường, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

32. Nguyễn Mạnh Hoàng (2008), Hoàn thiện nội dung QLNN về thương mại

hàng hóa trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020, Luận án Tiến sĩ kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

33. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tài liệu QLNN ngạch

chuyên viên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Học viện hành chính quốc gia (2012), Giáo trình QLNN đối với các ngành,

lĩnh vực, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

35. Trần Thị Quang Hồng (2020), Điều kiện kinh doanh là công cụ QLNN trong

quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư

pháp, Hà Nội.

36. Nguyễn Đăng Hồng (2010), Giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học, NHNN Việt

37.

Nam. Phạm Huy Hùng (2015), Các yêu cầu của chuẩn mực Basel II về đánh giá rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số Tháng 10/20215.

38. Đỗ Việt Hùng - Tô Thị Hồng Anh - Lê Công Hội (2017), “Hướng tới khuôn khổ chính sách giám sát an toàn vĩ mô toàn diện và hiệu quả”, Đặc san toàn

cảnh ngân hàng Việt Nam.

39. Phạm Thị Huyền (2019), “Ứng dụng Fintech trong thúc đẩy tài chính toàn

diện tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Hà Nội. Lê Thanh Huyền (2018), Kinh nghiệm xử lý nợ xấu ngân hàng ở một số nước 40.

Đông Á và bài học cho Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Thanh Huyền (2015), Chính sách QLNN đối với HĐKD vàng ở Việt

42.

Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại. Trần Việt Hưng (2020), Nâng cao hiệu quả quản lý tín dụng NHTM Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Viện Quản lý Kinh tế TW.

43. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), Định hướng và giải pháp thực hiện công tác

thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước

ngoài tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, NHNN Việt Nam.

44. Phạm Quốc Khánh (2021), “Quản lý tiền tệ trong điều kiện phát triển nền kinh

tế số ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Việt Nam.

45. Nguyễn Trúc Lê (2015), trong cuốn sách “Tăng cường công tác quản trị

điều hành các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập”, Nxb Kinh tế

quốc dân.

46. Bùi Thị Hương Liên (2021), Giám sát NHTM tại cơ quan thanh tra giám sát

NHNN Việt Nam, Luận án Tài chính ngân hàng, Học viện Hành chính quốc

gia, 2021.

47. Đinh Mai Long (2018), Cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc và một số

bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt

Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Ngô Trí Long (2014), “Đánh giá kết quả tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (2012-2014) và những khuyến nghị”, Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu 2014,

Tr.381-407.

49. Nguyễn Đức Lợi (2009), Giáo trình khoa học quản lý, Nxb Tài chính, Hà

Nội.

50

Trần Hương Mai (2020), “Các nhân tố ảnh hưởng đến định giá, thẩm định giá trong lĩnh vực đất đai”, Tạp chí Kinh tế dự báo số 18, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Hà Nội.

51. Nguyễn Thị Mùi (2013), “Hệ thống ngân hàng Việt Nam sau 6 năm hội nhập

- những khuyến nghị chính sách và giải pháp”, Tạp chí Ngân hàng số 14/Tháng 7-2013.

52. Nguyễn Việt Nga (2020), “Các tiêu chí đánh giá hiệu quả QLNN đối với

HĐKD sữa bột trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo

số 14/2018, tr.52-54.

53. NHNN (2010), Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010, Quy định

về các Tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, Hà Nội.

54. NHNN (2012), Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN về

quy định việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, Hà Nội.

55. NHNN (2013), Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN về

quy định việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các

TCTD Việt Nam, Hà Nội.

56. NHNN (2014), Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định

các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh

NHNNg, Hà Nội.

57. NHNN (2016), Thông tư 06/2016/TT-NHNN ngày 27 tháng 5 năm 2016 về

sửa đổi một số điều của Thông tư 36/2014/TT-NHNN “Quy định các giới

hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, Chi nhánh NHNNg”,

Hà Nội.

58. NHNN (2016), Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Quy định tỷ

lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh NHNNg, Hà Nội.

59. NHNN (2018), Thông tư 31/2018/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối

đối với đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí, Hà Nội.

60. NHNN (2019), Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 quy định

các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh NHNNg, Hà Nội.

61. NHNN (2020), Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi,

phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, Hà Nội.

62. NHNN (2021), Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 quy định về

phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và

việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg, Hà Nội.

63. NHNN (2021), Thông tư số 23/2021/TT-NHNN ngày 31/12/2021 của Thống

đốc NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-

NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định về xếp hạng TCTD,

chi nhánh NHNNg, Hà Nội.

64. NHNN (2021), Báo cáo kết quả phát triển hệ thống NHTM Việt Nam giai

đoạn 2011-2020, Hà Nội.

65. NHNN (2022), Báo cáo kết quả phát triển hệ thống NHTM Việt Nam năm

2020, Hà Nội.

66. Ngân hàng phát triển Châu Á (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành

chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Ngân hàng Thế giời (2000), Lịch sử phát triển của ngàng Ngân hàng, Nxb

Trẻ, Hà Nội.

68. Võ Thị Hoàng Nhi (2014), Xây dựng mô hình 3 lớp bảo vệ trong cấu trúc

QTRR của các NHTM Việt Nam, Tạp Ngân hàng, số 16, tháng 8/2014.

69. Philip Kotler (2008), Quản trị Marketing, Nxb Thống kê, Hà Nội.

70. Trần Trọng Phong - Cao Việt Thắng (2014), “Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý

về quản trị rủi ro hệ thống NHTM trong quá trình tái cấu trúc hệ thống

NHTM”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 207/Tháng 9/2014.

71. Dương Nguyễn Thanh Phương và cộng sự (2021), “Định vị hệ thống ngân

hàng Việt Nam trong kỷ nguyên chuyển đổi số”, Tạp chí Khoa học Thương mại, số 32-2021. Lê Tấn Phước (2013), Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của các 72.

NHTM cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ kinh tế của tiến sỹ.

73. Quốc hội (2010), Luật NHNN 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Quốc hội (2010), Luật các TCTD năm 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Quốc hội (2012), Luật Quảng cáo năm 2012, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Quốc hội (2012), Luật Giá năm 2012, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 81. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về

thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, Hà Nội.

82. Quốc hội (2019), Luật Doanh nghiệp năm 2019, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Nguyễn Tú Quyên (2020), “Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong thời

đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại NHTM Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam”, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Phạm Xuân Quỳnh (2022), “Tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam 84.

trong bối cảnh dịch Covid-19”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Trà Vinh

tháng 3-2022.

85. Lê Xuân Sang chủ biên, (2005), Cục diện kinh tế thế giới hai thập niên đầu

thế kỷ XXI, NXB Thế giới, Hà Nội.

86. Lê Xuân Sang (2013), “Tái cơ cấu hệ thống giám sát thị trường tài chính

Việt Nam”, Tạp chí Quản lý Kinh tế (56), tr. 43-47.

87. Lê Xuân Sang, (2015), Tự do hóa hệ thống tài chính Trung Quốc: Kết quả,

vấn đề và một số định hướng chính sách cho Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học “Sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc trong lĩnh vực tài chính

– tiền tệ”, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, tháng 8/2015.

88. Nguyễn Hồng Sơn (2012), Đánh giá chính sách kinh tế - Những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Trẻ, Hà Nội.

89. Hà Văn Sự - chủ biên (2015), Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

90. Hà Văn Sự - chủ biên (2021), Giáo trình Nguyên lý quản lý kinh tế, Nxb Hà Nội. 91. Ninh Thị Minh Tâm (2020), QLNN đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh

92.

tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. Lê Thanh Tâm, Phạm Thị Thu Thảo (2018), “Tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0:

thực trạng và một số khuyến nghị chính sách”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 192-Tháng 5/2018.

93. Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor (2020), Báo cáo nghiên cứu thị

trường RRTD Việt Nam năm 2019, Hà Nội.

94. Nguyễn Hùng Tiến (2016), Quản lý RRTD tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học

Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.

95. Nguyễn Văn Tiến (2015), Quản lý RRTD từ thực tiễn Ngân hàng Việt Nam

thịnh vượng, Tạp chí Kinh tế phát triển số 213, Hà Nội.

96. Võ Trí Thành, Lê Xuân Sang, Đinh Hiền Minh và Trịnh Quang Long (2004), Thị trường Tài chính Việt Nam: Thực trạng, Vấn đề và Giải pháp chính sách, NXB Tài chính, Hà Nội.

97. Nguyễn Xuân Thành (2015), “Khủng hoảng tiền tệ: Lý thuyết thế hệ thứ

nhất và thứ hai”, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

98. Đoàn Phương Thảo - Tạ Nhật Linh (2014), “Nợ xấu hệ thống NHTM Việt

Nam: Thực trạng và định hướng giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển,

số 207, tháng 9/2014.

99. Huỳnh Thị Hương Thảo (2019), Ảnh hưởng của RRTD đến hiệu quả hoạt

động của các NHTM Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng, số

202-Tháng 3.2019.

100. Trần Đình Thắng (2020), “Tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với

HĐKD dịch vụ thẩm định giá”, Tạp chí Tài chính số 446, tr.54-56.

101. Hồ Nguyễn Nhật Thịnh (2020), “Hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay

mua bất động sản liên kết tại NHTM Cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Ngân hàng số 23-2020.

102. Lưu Đan Thọ (2016), Quản trị dịch vụ, Nxb Tài chính, Hà Nội. 103. Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Ngọc Linh (2014), “Thách thức đối với ngân hàng Việt Nam khi triển khai Basel II”, Tạp chí Ngân hàng, số 18, tháng

9/2015.

104. Nguyễn Quang Thu (2008), Quản lý lý rủi ro trong kinh doanh của doanh

nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.

105. Trịnh Thị Thủy (2015), QLNN đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính

Quốc gia.

106. Nguyễn Xuân Trình, Võ Trí Thành, Lê Xuân Sang (2010), “Thị trường tài

chính Việt Nam cải cách, phát triển và tầm nhìn đến năm 2020”, NXB Tài chính, Hà Nội.

107. Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2005), Giáo trình QLNN về kinh tế, Nxb.

Lao động - Xã hội.

108. Tổng cục Hải Quan (2017), Báo cáo hoạt động xuất nhập khẩu 2017, Hà Nội.

109. Tổng cục Hải Quan (2021), Báo cáo thực hiện công tác giai đoạn 2016 -

2020, Hà Nội.

110. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo kết quả điều tra dân số và gia đình, Hà Nội.

111. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo thống kê năm 2019, Hà Nội.

112. Lê Hà Trang (2019), QLNN đối với HĐKD của các doanh nghiệp bảo hiểm

phi nhân thọ ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương

mại, Hà Nội.

113. Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên

cứu với SPSS - 2 tập, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.

114. Trần Thị Thanh Trúc (2021), “RRTD tại các NHTM cổ phần Việt Nam”, Tạp

chí Nghiên cứu tài chính, 68-2021.

115. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), Giáo trình QLNN về kinh tế, Nxb

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

116. Nguyễn Đức Tú (2012), QLRR tín dụng tại NHTM Cổ phần Công thương

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng, Học viện Ngân hàng, Hà

Nội.

117. Nguyễn Anh Tuấn (2012), QTRR trong kinh doanh của NHTM Việt Nam

theo Hiệp ước Basel, luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương.

118. Nguyễn Quốc Tuấn (2015), QLNN đối với dịch vụ Logistics ở cảng Hải

Phòng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.

119. Đặng Quang Tuyến (2019), Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel II, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa

học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

120. Ủy ban Basel (2000), Báo cáo giám sát rủi ro hệ thống tín dụng, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

121. Viện chiến lược Ngân hàng (2022), “Xử lý nợ xấu trong quá trình tái cấu

trúc các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2021”, NHNN.

122. Viện chiến lược Ngân hàng (2022), “Thực trạng chuyển đổi số trong lĩnh

vực Ngân hàng”, NHNN.

123. Võ Xuân Vinh (2017), “Rủi ro thanh khoản và RRTD: Trường hợp các

NHTM Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế số 86-2017, Trường Đại học

Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.

124. Mai Quốc Vương (2019), QLNN đối với kinh doanh dịch vụ vận chuyển hành khách bằng taxi tại Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội.

Tài liệu Tiếng Anh

125. Afande, F.O, (2014), “Credit Risk Management Practices of Commercial

Banks in Kenya”, European Journal of Business and Management Tập.6,

Số.34, tr 35­42

126. Beltratti Andrea, Paladino Giovanna (2016), Basel II and regulatory

arbitrage. Evidence from financial crises, Journal of Empirical Finance,

Volume 39, Part B, December 2016, Pages 180-196.

127. Baudino Patrizia, Yun Hyuncheol (2017), Resolution of non-performing

loans – policy options, FSI insights on policy implementations, No 3, Bank

for International Settlements.

128. Basel (2000), Basel Committee on Banking Supervision, September.

129. Bekhet. H.A and Eletter.S.F (2014), “Credit risk assessment model for

Jordanian commercial banks: Neural scoring approach”, Review of

Development Finance, Số.4, tr.20–28.

130. Chunxia Jiang, Shujie Yao, (2010), Banking Reform and Efficiency in China: 1995-2008, Research Paper 2010/11, research paper series: China and the

World Economy, University of Nottingham.

131. Fadun Olajide (2013), “Implications and Challenges of Basel

II Implementation in the Nigerian Banking System”, Journal of Business and Management, tập 7, số 4, tr. 53­61.

132. Matsubayashi Yoichi (2015), The effort to stabilise the financial system in Japan: an outline and the characteristics of the programme for financial

revival, Bruegel working paper.

133. García Fernando, Gim nez Vicente, Guijarro Francisco (2013), Credit risk

management: A multicriteria approach to assess creditworthiness, Mathematical and Computer Modelling, Volume 57, Issues 7–8, April 2013,

Pages 2009-2015.

134. Glen Bullivant (2005), Credit Management, Journal of Economics and

Business, Volume 34, September 2005

135. A. Saunder và H. Lange (1999), Financial Institutions Management - A

Modern Perpective.

136. Strauss-Kahn, Dominique, (2009), Need to fix banking sector for stimulus to

work, IMF.

137. Mazzu Sebastiano, Muriana Francesco (2018), A Strategic Approach to Non-

Performing Loans Treatment in Banking: Options and Rules for Decision-

Making, International Research Journal of Finance and Economics, Issue

166, March, 2018

138. Ghosh Amit (2017), Sector-specific analysis of non-performing loans in the

US banking system and their macroeconomic impact, Journal of Economics

and Business, Volume 93, September, October 2017, Pages 29-45.

139. Jonathan, P. (2012), Credit risk management in banking industry: case study

Atwiman kwanwoma rural bank, Thesis Submitted to the Department of

Mathematics, Kwame Nkrumah University of Science and Technology

140. Li, Z. (2015), Credit risk management in the current competitive condition in

the Chinese banking industr, Thesis is submitted to the University of Wales

Institute, Cardiff for the degree of Doctor of Philosophy.

141. Mazzu Sebastiano, Muriana Francesco (2018), A Strategic Approach to Non- Performing Loans Treatment in Banking: Options and Rules for Decision-

Making, International Research Journal of Finance and Economics, Issue 166, March, 2018.

142. Thakor Anjan V. (2019), Politics, credit allocation and bank capital Intermediation, requirements, Financial Journal of

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2019.03.005.

143. Enrique Marshall (2007), “Transition to Basel II: Policy Lessons of the

Chilean Experience”,

144. Nguyen Thi Thieu Quang, Gan Christopher, Li Zhaohua (2019), Bank

capital regulation: How do Asian banks respond?, Pacific-Basin Finance

Journal, Volume 57, October 2019, 101196.

145. Stephan Cowan, Glen Bullivant, Robert addlestone (2004), Effective credit

control & debt recovery handbook - Tottel Publisher.

146. John Hawkins and Philip Turner (1999), Bank restructuring in practice: an

over view.

147. Trueck Stefan, Svetlozar Rachev T. (2008), Rating Based Modeling of Credit Risk: Theory and Application of Migration Matrices, Academic Press; 1 edition.

148. Wang, Y. (2013), Credit risk management in rural commercial banks in

China, Theris accounting, financial services and law.

PHỤ LỤC Phụ lục 1

MẪU PHIẾU KHẢO SÁT 01

Đối tượng khảo sát: CBQL, nhân viên tại hệ thống NHNN

Kính chào: Ông/ bà Tôi là Đào Văn Chung, NCS của Học viện Khoa học xã hội. Trong khuôn

khổ thực hiện nghiên cứu “Quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới”, NCS tiến hành điều tra về

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Rất mong Ông/bà cho ý

kiến của mình về các nội dung trong bảng hỏi dưới đây. NCS cam kết mọi thông tin về tổ chức/ cá nhân cũng như quan điểm của quý vị về các nội dung trong phỏng vấn được giữ kín và chỉ sử dụng với mục đích nghiên cứu trong luận án này.

A. Thông tin người trả lời

1. Họ và tên:....................................................

2. Chi nhánh NHNN:..........................................................

3. Đại diện cho:

Đơn vị

Cá nhân

B. Thông tin khảo sát

1. Đánh giá của Ông/ bà về sự cần thiết phải QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM?

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường

Ít cần thiết Không cần thiết

2. Đánh giá của Ông (bà) về hệ thống văn bản quản lý đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng

ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

VB1

Hệ thống văn bản quản lý về RRTD đầy đủ theo hướng bao trùm được các nội dung quản lý và phù hợp với thực tiễn, quy định của quốc tế như Basel…

Hệ thống văn bản công khai minh bạch, dễ tiếp cận VB2 và rõ ràng theo các nội dung quản lý

Hệ thống văn bản quản lý RRTD của NHNN được

VB3 cập nhật thường xuyên và thống nhất, không chồng

chéo

3. Đánh giá của Ông (bà) về bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình

thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Đối với phân công, phối hợp trong thực hiện chức I năng, nhiệm vụ

Có sự thống nhất trong quản lý từ NHNN đến các chi BM1 nhánh NHNN tại các tỉnh, thành phố

Có sự minh bạch, không chồng chéo giữa các cơ BM2 quan của NHNN

Các cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ đã

BM3 phối hợp linh hoạt trong quản lý RRTD của hệ thống

NHTM

Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý II

Đội ngũ cán bộ quản lý có nhận thức và sự am hiểu BM5 về RRTD trong hoạt động của NHTM

Kỹ năng nghề nghiệp trong phát hiện, xử lý vấn đề

BM6 liên quan đến RRTD của các NHTM của đội ngũ

CBQL, NV tại các NHNN tốt

Phẩm chất, đạo đức của người CBQL, NV tại NHNN BM7 và các chi nhánh được thực hiện và đánh giá

4. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1- Rất kém, 2-Kém, 3-Bình thường,

4-Tốt, 5-Rất tốt)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

TK1 Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý RRTD

Nhận biết RRTD TK2

TK3 Đo lường RRTD

TK4 Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro

TK5 Kiểm soát RRTD

TK6 Tài trợ RRTD

5. Đánh giá của Ông (bà) về công tác kiểm tra, thanh tra đối trong QLNN đối

với RRTD trong hoạt động của NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý,

2-Không đồng ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

KT1 Hệ thống văn bản hướng dẫn kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm

Hoạt động kiểm tra, thanh tra diễn ra thường xuyên KT2

Hình thức kiểm tra, thanh tra đa dạng KT3

Kết quả kiểm tra, thanh tra mang tính định hướng KT4 góp ý

Xử lý nghiêm các hành vi sai phạm trong quản lý KT5 RRTD

5. Đánh giá của Ông (bà) về QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM

thông qua các tiêu chí?

Các tiêu chí đánh giá

MH

Mức độ đánh giá 5 3 1

2

4

I

HL1

HL2

HL3

IV

HQ1

HQ2

Hiệu lực quản lý nhà nước Mức độ đầy đủ, kịp thời của hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong triển khai các văn bản quản lý theo định hướng của Nhà nước Mức độ tuân thủ các quy định của Nhà nước của các NHTM trong quản lý RRTD Hiệu quả quản lý nhà nước Mức độ hiệu quả của hệ thống văn bản QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam Mức độ hiệu quả của bộ máy tổ chức thực hiện QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam

HQ3 Mức độ đảm bảo quyền lợi chính đánh của các NHTM III

Sự công bằng trong quản lý nhà nước

CB1

IV

PH1

PH2

PH3

PH4

Mức độ đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa NHTM, Nhà nước và xã hội Sự phù hợp quản lý nhà nước Mức độ phù hợp của các nội dung quản lý với mục tiêu định hướng QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ban đầu Mức độ phù hợp của các công cụ, phương pháp quản lý với yêu cầu QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Mức độ phù hợp của văn bản Luật trong nước điều tiết quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM với các văn bản Luật quốc tế Mức độ phù hợp của hoạt động QLNN với thực tiễn thị trường tín dụng của Việt Nam

6. Đánh giá của Ông (bà) về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến QLNN đối

với RRTD trong hoạt động của NHTM? (Trong đó: 1- Không ảnh hưởng, 2-Ít

ảnh hưởng, 3-Bình thường, 4-Ảnh hưởng, 5-Rất ảnh hưởng)

Các yếu tố MH Mức độ 1 2 3 4 5

AH1 AH2 AH3 AH4 AH5 AH6 AH7 AH8 AH9

AH10

AH11 AH12 AH13

AH14 Thể chế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ Môi trường pháp lý và các quy định của Basel II Sự phát triển KT-XH (Tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp) Xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng Nhu cầu tín dụng của thị trường Hệ thống tài chính thế giới Xu thế hội nhập toàn cầu Chính sách tiền tệ của NHNN Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN đối với các NHTM Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM Trình độ công nghệ của các NHTM Nguồn nhân lực của các NHTM Quy mô ngân hàng và cơ cấu sở hữu có sự tham gia của nhà nước

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông (Bà).

Phụ lục 2 MẪU PHIẾU KHẢO SÁT 02

Đối tượng khảo sát: CBQL, nhân viên tại hệ thống các NHTM

Kính chào: Ông/ bà

Tôi là Đào Văn Chung, NCS của Học viện Khoa học xã hội. Trong khuôn khổ thực hiện nghiên cứu “Quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới”, NCS tiến hành điều tra về

QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM. Rất mong Ông/bà cho ý

kiến của mình về các nội dung trong bảng hỏi dưới đây. NCS cam kết mọi thông tin

về tổ chức/ cá nhân cũng như quan điểm của quý vị về các nội dung trong phỏng vấn được giữ kín và chỉ sử dụng với mục đích nghiên cứu trong luận án này. A. Thông tin người trả lời

1. Họ và tên:....................................................

2. NHTM:...............................................................

3. Đại diện cho:

Đơn vị

Cá nhân

B. Thông tin khảo sát

1. Đánh giá của Ông (bà) về hệ thống văn bản quản lý đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng

ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Hệ thống văn bản quản lý đầy đủ, phù hợp với thực VB1 tiễn

VB2 Hệ thống văn bản minh bạch, rõ ràng

VB3 Hệ thống văn bản mang tính ổn định và bền vững

3. Đánh giá của Ông (bà) về bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Đối với phân công, phối hợp trong thực hiện chức I

năng, nhiệm vụ

Có sự thống nhất từ NHNN đến các chi nhánh BM1 NHNN

BM2 Có sự minh bạch, không chồng chéo giữa các bộ phận chức năng trong cùng một cấp quản lý

Các cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ đã BM3 phối hợp linh hoạt

Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý II

Đội ngũ cán bộ quản lý về RRTD trong hoạt động BM5 của các NHTM có nhận thức và sự am hiểu về RRTD

Kỹ năng nghề nghiệp trong phát hiện, xử lý vấn đề BM6 liên quan đến RRTD của đội ngũ tốt

Phẩm chất, đạo đức của người cán bộ được bảo đảm BM7

4. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai nhận diện RRTD tại các NHTM? (Trong

đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn

toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Cán bộ thẩm định cho vay luôn tìm hiểu kỹ về người

ND1 vay, mục đích vay, đánh giá khả năng trả nợ của

khách hàng trung thực và cụ thể

Cán bộ tín dụng trung thực trong việc cung cấp các

ND2 thông tin liên quan đến khách hàng và thực hiện đúng

quy định về cho vay đối với khách hàng

Việc cấp tín dụng dựa trên giao dịch thương mại thực ND3 tế và đúng với mục đích vay vốn

ND4 Cán bộ tín dụng thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình

5. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai đo lường RRTD tại các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Các chỉ tiêu chấm điểm xếp hạng chính xác DL1

Phương pháp chấm điểm xếp hạng tín dụng phù hợp DL2

Phương pháp chấm điểm được kiểm tra, đánh giá DL3 định kỳ về tính chính xác, hợp lý

Việc chấm điểm xếp hạng khách hàng đảm bảo kịp DL4 thời, chính xác cho công tác đo lường, theo dõi rủi ro

Kết quả chấm điểm, xếp hạng khách hàng hợp lý DL5

DL6 Các dữ liệu được sử dụng chấm điểm đảm bảo độ tin cậy

Thông tin thu thập chấm điểm phong phú DL7

6. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai theo dõi, đánh giá và điều chỉnh RRTD

tại các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình

thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá Các tiêu chí đánh giá MH 1 2 3 4 5

NHTM luôn theo dõi thường xuyên các RRTD TD1

Đánh giá đúng thực trạng RRTD TD2

Các chỉ tiêu đánh giá hợp lý TD3

Hệ thống thông tin đồng bộ cho việc đánh giá TD4

Có các biện pháp điều chỉnh RRTD kịp thời TD5

7. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai theo dõi, đánh giá và điều chỉnh RRTD

tại các NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình

thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá Các tiêu chí đánh giá MH 1 2 3 4 5

Thực hiện đúng quy trình kiểm soát RRTD KS1

Biện pháp tài trợ RRTD hiệu quả KS2

Định giá lại tài sản đảm bảo của khách hàng phù hợp KS3

Công tác quản lý kiểm soát theo đúng quy định KS4

Phân loại nợ của khách hàng đúng quy định KS5

8. Đánh giá của Ông (bà) về triển khai các nội dung QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM? (Trong đó: 1- Rất kém, 2-Kém, 3-Bình thường,

4-Tốt, 5-Rất tốt)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Xây dựng chiến lược, chính sách, quy trình quản lý TK1 RRTD

Nhận biết RRTD TK2

Đo lường RRTD TK3

Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh rủi ro TK4

Kiểm soát RRTD TK5

Tài trợ RRTD TK6

9. Đánh giá của Ông (bà) về công tác kiểm tra, thanh tra đối trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM? (Trong đó: 1-Hoàn toàn không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Bình thường, 4-Đồng ý, 5-Hoàn toàn đồng ý)

Mức độ đánh giá MH Các tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5

Hệ thống văn bản hướng dẫn kiểm tra, thanh tra và KT1 xử lý vi phạm

Hoạt động kiểm tra, thanh tra diễn ra thường xuyên KT2

Hình thức kiểm tra, thanh tra đa dạng KT3

Kết quả kiểm tra, thanh tra mang tính định hướng KT4 góp ý

Xử lý nghiêm các hành vi sai phạm trong quản lý KT5 RRTD

10. Đánh giá của Ông (bà) về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến QLNN đối

với RRTD trong hoạt động của NHTM? (Trong đó: 1- Không ảnh hưởng, 2-Ít

ảnh hưởng, 3-Bình thường, 4-Ảnh hưởng, 5-Rất ảnh hưởng)

ảnh

Mức độ hưởng MH Các yếu tố

1 2 3 4 5

AH1 Thể chế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ

Môi trường pháp lý và các quy định của Basel II AH2

Sự phát triển KT-XH (Tăng trưởng, lạm phát, thất AH3 nghiệp)

Xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng AH4

Nhu cầu tín dụng của thị trường AH5

Hệ thống tài chính thế giới AH6

Xu thế hội nhập toàn cầu AH7

Chính sách tiền tệ của NHNN AH8

Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng AH9

Trình độ, năng lực quản lý tín dụng của NHNN đối AH10 với các NHTM

Cơ chế quản lý tín dụng của NHTM AH11

Trình độ công nghệ của các NHTM AH12

Nguồn nhân lực của các NHTM AH13

Quy mô ngân hàng và cơ cấu sở hữu có sự tham gia AH14 của nhà nước

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông (Bà).

Phụ lục 3 MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN 01

Đối tượng phỏng vấn: các nhà nghiên cứu, các chuyên gia là CBQL cấp cao tại

NHNN, các NHTM và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo

Kính chào: Ông/ bà Tôi là Đào Văn Chung, NCS của Học viện Khoa học xã hội. Trong khuôn khổ

thực hiện nghiên cứu “Quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới”, NCS mong nhận được ý kiến

tham vấn của các chuyên gia về thực tiễn và định hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý

nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới. Thông tin và nội dung trả lời phỏng vấn trong phiếu của chuyên gia được NCS thu nhận và chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong luận án.

A. Thông tin chuyên gia được phỏng vấn

Họ và tên:……………………………………… Mã chuyên gia: PV………...........

Giới:………………………………………………………………………………….

Trình độ học vấn:…………………………………………………………………......

Cơ quan công tác:…………………………………………………………………….

Phần II. Nội dung câu hỏi phỏng vấn

1. Đánh giá của ông/ bà về thực tiễn RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt

Nam? Bối cảnh phát triển mới ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM Việt Nam?

2. Đánh giá của ông/ bà về thực trạng quản trị RRTD của các NHTM Việt Nam

hiện nay?

3. Đánh giá của ông/ bà về vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM Việt Nam? Những khác biệt của quản lý đối với RRTD

trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam và thế giới? 4. Theo Ông (bà), có những tiêu chí nào để đánh giá hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam?

5. Ông/bà cho biết những nhân tố tăng cường/ hạn chế hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam? 6. Theo Ông (bà), hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc nào?

7. Để hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, theo Ông (bà), Nhà nước cần có những định hướng, mục tiêu nào?

8. Ông (bà) có những kiến nghị gì để hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD

trong hoạt động của các NHTM Việt Nam?

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông (bà).

Phụ lục 4 MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN 04

Đối tượng phỏng vấn: các khách hàng của các NHTM

Kính chào: Ông/ bà

Tôi là Đào Văn Chung, NCS của Học viện Khoa học xã hội. Trong khuôn khổ thực hiện nghiên cứu “Quản lý nhà nước đối với RRTD trong hoạt động của

các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới”, NCS mong nhận được ý

kiến đánh giá khách quan về dịch vụ của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh phát

triển mới. Thông tin và nội dung trả lời phỏng vấn trong phiếu của chuyên gia được

NCS thu nhận và chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu trong luận án. A. Thông tin chuyên gia được phỏng vấn Họ và tên:…………………………………………… Mã đối tượng: PV………......

Giới:…………………………………………………………………………………..

Trình độ học vấn:…………………………………………………………………......

Cơ quan công tác:…………………………………………………………………….

Phần II. Nội dung câu hỏi phỏng vấn

1. Đánh giá của ông/ bà về thực trạng thị trường tín dụng Việt Nam hiện nay?

2. Đánh giá của ông/ bà về các dịch vụ và gói sản phẩm của các NHTM Việt Nam?

3. Theo ông bà hoạt động của các NHTM chịu tác động của những yếu tố nào?

Chuyển đổi số có phải là xu hướng trong các giao dịch tín dụng của các ông bà?

4. Theo Ông (bà), xu hướng tiêu dùng xanh và phát triển bền vững có phải là yếu tố

để thay đổi định hướng kinh doanh của các NHTM?

5. Ông/bà có biết về những RRTD có thể xảy ra đối với hoạt động của các NHTM?

6. Theo Ông (bà), các NHTM và NHNN cần làm gì để có thể quản lý RRTD trong

bối cảnh mới hiện nay?

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông (bà).

Phụ lục 5 HỆ THỐNG VĂN BẢN QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

TT Tên văn bản

Quốc hội ban hành I

Luật các TCTD năm 2010 1

Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý 2 nợ xấu của các TCTD.

II Chính phủ ban hành

Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/11/2006 về việc ban 1 hành Danh mục mức vốn pháp định của các TCTD

Nghị định số 156/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/11/2013 quy định 2 chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam

Nghị định số 26/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/04/2014 về Tổ chức và 3 hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng

Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng chính phủ phê

4 duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn

2016 - 2020”

Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng chính phủ phê

5 duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định

hướng đến năm 2030”

Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng chính phủ phê

6 duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn

2021 - 2025”

III NHNN (và các cơ quan thuộc NHNN) ban hành

Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam ngày

1

19/04/2005 ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD.

2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD

3

Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 1 năm 2007, Sửa đổi bổ sung quyết định 457/2005/QĐ-NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD.

Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010, Quy định về các Tỷ lệ đảm 4

bảo an toàn trong hoạt động của TCTD.

Quyết định 734/2012/QĐ-NHNN ngày 18/04/2012 của Thống đốc NHNN

5 Việt Nam về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng triển

khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015

Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN về quy định việc 6 phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro.

Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN về quy định việc

7

mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tún dụng Việt Nam;

Thông tư 14/2014/TT-NHNN ngày 20/5/2014 của NHNN về sửa đổi Quy

định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt 8 động ngân hàng của TCTD theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN do Thống

đốc NHNN Việt Nam ban hành

Thông tư số 30/2014/TT-NHNN ngày 06/11/2014 quy định về ủy thác và 9 nhận ủy thác của TCTD, chi nhánh NHNNg.

Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 Quy định các giới hạn, tỷ lệ 10 đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg.

Thông tư 14/2015/TT-NHNN ngày 28/8/2015 của NHNN về sửa đổi, bổ sung

một số điều Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN về quy 11 định việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ

chức tún dụng Việt Nam;

Thông tư số 35/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 Quy định chế độ báo cáo 12 thống kê áp dụng đối với các TCTD, chi nhánh NHNNg.

Công văn số 1270/TTGSNH ngày 25/4/2016 của Cơ quan thanh tra, giám sát 13 ngân hàng, NHNN về việc khuyến nghị kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.

14

Thông tư 06/2016/TT-NHNN ngày 27 tháng 5 năm 2016 về sửa đổi một số điều của Thông tư 36/2014/TT-NHNN “Quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, Chi nhánh NHNNg”.

15 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chỉ nhánh NHNNg đối với khách hàng.

16 Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh NHNNg.

17 Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 23/02/2016 về tăng cường bảo đảm an toàn hệ

thống các TCTD, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dung

và xử lý nợ xấu.

Thông tư 09/2017/TT-NHNN ngày 14/8/2017 của NHNN về sửa đổi, bổ sung

18 một số điều Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013, Thông tư 08/2016/TT-NHNN ngày 16/6/2016 của NHNN về quy định việc mua, bán và

xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tún dụng Việt Nam;.

Chỉ thị số 07/CT-NHNN ngày 11/10/2017 của NHNN về tăng cường phòng,

19 chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, đảm

bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ, tài chính

Công văn số 563/NHNN-TTGSNH ngày 23/01/2018 của NHNN về việc hạn

20 chế cấp tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều

rủi ro.

Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 của Thống đốc NHNN quy 21 định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh NHNNg

Thông tư 31/2018/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư 22 ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 17/9/2018 của Thống đốc NHNN về tiếp tục 23 đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dung và xử lý nợ xấu.

Thông tư số 37/2018/TT-NHNN ngày 25/12/2018 của Thống đốc NHNN Việt

Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2013/TT-NHNN ngày 24 31/12/2013 của Thống đốc NHNN Việt Nam quy định về xác định, trích lập,

quản lý và sử dụng khoản dự phòng rủi ro.

Thông tư số 40/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 của Thống đốc NHNN sửa

đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 của 25 Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi

nhánh NHNNg

26 Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định về xếp hạng TCTD, chi nhánh NHNNg

27 Công văn số 417/NHNN-TTGSNH ngày 17/01/2019 của Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN về việc trích lập dự phòng rủi ro khi bán nợ cho VAMC

Công văn số 5876/NHNN-TTGSNH ngày 31/7/2019 của Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN về việc nâng cao chất lượng công tác tín dụng thẩm định 28

tài sản bảo đảm

Công văn số 6128/NHNN-TTGSNH ngày 08/8/2019 về việc kiểm soát rủi ro 29 trong hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.

Công văn số 6423/NHNN-TTGSNH ngày 19/8/2019 về chỉ đạo TCTD tiếp 30 tục đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42.

Công văn số 8698/NHNN-PC ngày 07/11/2019 về việc tăng cường biện pháp 31 quản lý rủi ro khi nhận thế chấp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất.

Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 quy định các giới hạn, tỷ lệ 32 bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh NHNNg

Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi

33 nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên

nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19

Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 của NHNN về các giải pháp cấp

34 bách của ngành ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và khắc phục khó

khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19

Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều

của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, 35 chi nhánh NHNNg cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên

nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19

Công văn số 3029/NHNN-TTGSNH ngày 29/4/2021 về việc một số vấn đề 36 trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh NHNNg

Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của NHNN phê duyệt “Kế

37 hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm

2030”

Thông tư số 06/2021/TT-NHNN ngày 30/6/2021 của Thống đốc NHNN Việt

Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2013/TT-NHNN ngày

38

31 tháng 12 năm 2013 của Thống đốc NHNN Việt Nam quy định về xác định, trích lập, quản lý và sử dụng khoản dự phòng rủi ro của NHNN Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 8 năm 2021.

39

Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NHNNg

Thông tư số 23/2021/TT-NHNN ngày 31/12/2021 của Thống đốc NHNN về 40 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày

31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định về xếp hạng TCTD, chi nhánh

NHNNg

Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/01/2022 của NHNN về việc đẩy mạnh

41

chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng

Phương pháp phân loại và hệ thống hóa

TỔNG QUAN VÀ CÁC NỘI DUNG PHẦN MỞ ĐẦU

- Thu thập các dữ liệu thứ cấp để nghiên cứu các nội dung của chương - Phân loại, hệ thống hóa, thống kê và mô tả các nghiên cứu trong và ngoài nước - Mô tả thực trạng thị trường tín dụng nhằm xác định tính cấp thiết

Phương pháp thống kê mô tả

Phương pháp thu thập dự liệu thứ cấp

LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Phụ lục 6 SƠ ĐỒ VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phân tích các khái niệm, so sánh đánh giá và làm rõ các khái niệm. - Phân tích các nội dung quản lý và nhân tố ảnh hưởng đến nội dung này - Tổng hợp các bài học kinh nghiệm và rút ra cho Việt Nam

Phương pháp phân tích tổng hợp

THỰC TRẠNG

- Thu thập các dữ liệu thứ cấp, sơ cấp - Thống kê, mô tả các dữ liệu - Xử lý các dữ liệu - Phân tích, tổng hợp và đánh giá các nội quản lý nhà nước

Phương pháp so sánh

Phương pháp thu (Nguồn: Tác giả xây dựng) thập dữ liệu sơ cấp

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

Phương pháp chuyên gia

Phân tích các quan điểm, định hướng của Nhà nước trong quản lý nhà nước đối với rủi ro tín dụng. Đề xuất các giải pháp cụ thể và các kiến nghị về điều kiện thực hiện giải pháp

Phương pháp xử lý dữ liệu

(Nguồn: Tác giả xây dựng)

Phụ lục 7 DANH SÁCH VÀ KẾT QUẢ PHỎNG VẤN ĐIỂN HÌNH

7.1. DANH SÁCH CÁC ĐỐI TƯỢNG PHỎNG VẤN

TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị công tác

I Trường đại học, học viện (10 chuyên gia)

1 TS. Đ.V.L Giảng viên Trường Đại học Ngoại thương

2 TS. M.T.Q Quản lý Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

3 TS. N.T.T Quản lý Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

4 PGS.TS. L.T.T Quản lý Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

5 TS. T.V.Đ Giảng viên Học viện Tài chính

6 PGS.TS. N.T.T Quản lý Học viện Tài chính

7 TS. N.Đ.T Quản lý Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

8 PGS.TS.P.T.H.A Quản lý Học viện Ngân hàng

9 TS.T.V.D Giảng viên Học viện Ngân hàng

10 TS.N.V.Đ Giảng viên Trường Đại học Thương mại

II VIỆN, TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU (5 chuyên gia)

1 TS.T.T.A Quản lý Viện NC Khoa học Ngân hàng

2 TS.N.T.H Quản lý Viện Kinh tế Việt Nam

3 TS.T.T.T Quản lý Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng BIDV

4 TS.N.Đ.C Quản lý Viện quản lý kinh tế trung ương

5 TS.N.V.N Quản lý Trung tâm đào tạo kinh tế, tài chính ngân hàng

III NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC (10 Chuyên gia)

1 Ông Đ.Q. H Quản lý Thanh tra NHNN VN

2 Ông M.V.D Quản lý Thanh tra NHNN VN

3 Ông N. M.A Quản lý Thanh Tra NHNN VN

4 Ông N.N.Q Quản lý Vụ chính sách tiền tệ, NHNN VN

5 Ông P.V. K Quản lý Thanh tra Ngân hàng Nhà nước VN

6 Ông.Đ.V.M Quản lý Vụ ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước VN

7 Ông.T.M.T Quản lý Ngân hàng Nhà nước VN

8 Ông.T.V.T Quản lý Ngân hàng Nhà nước VN chi nhánh Tp. HCM

9 Ô.Đ.N.L Quản lý Ngân hàng Nhà nước VN chi nhánh Hà Nội

10 Ô.Đ.T.G Quản lý NHNN VN chi nhánh Quảng Ninh

IV HIỆP HỘI (5 chuyên gia)

1 Ông N.T.H Chuyên gia Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam

2 Ông Đ.M.Đ Chuyên gia Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam

3 Ông P.T.N Chuyên gia Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam

4 Ông Đ.V.T Chuyên gia Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam

5 Ông Đ.T.C Chuyên gia Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam

V DOANH NGHIỆP (15 người)

1 Ông V.CT Quản lý Tập đoàn BĐS Toàn Cầu

2 Ông N.V.N Quản lý Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam

3 Ông N.N.B Quản lý Hoàng Hải Holding

4 Ông Đ.K.M Quản lý Thuận An Group

5 Ông P.S.M Quản lý Công ty CP sữa Ba vì

6 Ông N.T.H Quản lý Tập đoàn Điện lực Việt Nam

7 Ông N.Đ.P Quản lý Công ty CP Chương Dương

8 Ô T.V.D Quản lý Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

9 Ông N.V.H Quản lý Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

10 Ông N.X.K Quản lý VRI Group

11 Ông Đ.V.T Quản lý Tập đoàn Anh Phát

12 Ông T.V.D Quản lý Công ty Lọc hóa Dầu Bình Sơn

13 Ông L.H.H Quản lý Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí

14 Ông T.Q.H Quản lý Tập đoàn Xăng Dầu Việt Nam

15 Ông N.Q.T Quản lý Tổng công ty Điện lực Miền Bắc

7.2. TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN A. ĐỐI TƯỢNG PHỎNG VẤN: CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU, CÁC CHUYÊN GIA LÀ CBQL CẤP CAO TẠI NHNN, CÁC NHTM VÀ CÁC CƠ SỞ NGHIÊN CỨU, ĐÀO TẠO 1. Đánh giá của ông/ bà về thực tiễn RRTD trong hoạt động của các NHTM tại Việt Nam? Bối cảnh phát triển mới ảnh hưởng đến QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam?

Tổng hợp các câu trả lời

- So với thập niên trước đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trở nên lành mạnh hơn với tỉ lệ nợ xấu được kiểm soát và hệ số an toàn rủi ro cải thiện đáng kể. Nhưng

một rủi ro khác đang lớn dần là xu thế tập trung tín dụng tại một số ngân hàng vào

số ít tập đoàn tư nhân, thậm chí là các sân sau của ngân hàng mà phần lớn dính đến

thị trường bất động sản. - Xuất hiện tình trạng căng thẳng thanh khoản trong hệ thống NHTM tại một số giai

đoạn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng thanh khoản này trước hết do tốc

độ tăng trưởng tín dụng cao hơn so với huy động trong một thời gian dài từ trước đó

dẫn tới tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa nguồn vốn và sử dụng nguồn.

2. Đánh giá của ông/ bà về thực trạng quản trị RRTD của các NHTM Việt Nam hiện nay? Tổng hợp các câu trả lời

- Thời gian qua, quản lý RRTD của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đã

từng bước được hoàn thiện, trong đó điển hình như: Chiến lược, chính sách định

hướng cho hoạt động quản trị RRTD ngày càng rõ ràng và mang tính thực tiễn; hình

thành mô hình tổ chức theo hướng tập trung cho quản trị RRTD; Xây dựng được

quy trình cấp tín dụng chặt chẽ, tạo điều kiện để kiểm soát RRTD ngay từ khi mới

xuất hiện.

- Hầu hết các ngân hàng đã xây dựng được mô hình tổ chức theo thông lệ quốc tế,

chú trọng QTRR nói chung, trong đó có quản trị RRTD. Cụ thể, các ngân hàng đều

hình thành Ủy ban Quản lý rủi ro với vai trò tư vấn cho Hội đồng quản trị, Hội đồng

thành viên trong vấn đề liên quan đến quản trị rủi ro.

- Công tác quản lý RRTD tại các ngân hàng TMCP Việt Nam đã đạt nhiều kết quả

tích cực, song vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Cụ thể, môi

trường quản trị RRTD chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel và thông lệ

quốc tế. Việc hoạch định chiến lược về quản trị RRTD tại các NHTM còn khá đơn giản, hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung, chưa đưa ra được một danh mục tín dụng, kế hoạch cụ thể; trong đó tỷ trọng dư nợ từng ngành, từng khu

vực, từng đối tượng chưa được xây dựng cụ thể nhằm hạn chế RRTD tập trung. 3. Đánh giá của ông/ bà về vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam? Những khác biệt của quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM ở Việt Nam và thế giới?

Tổng hợp các câu trả lời

- Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không chỉ đóng vai trò bảo vệ cho nền kinh tế mà còn phải tham gia vào quá trình điều tiết các ngành và lĩnh vực để đạt

được mục tiêu phát triển đã đề ra.

- Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập có tầm ảnh hưởng sâu

rộng và tác động lớn đến định hướng chính trị và pháp lý của mỗi nước. Chính điều này thể hiện rõ được vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với RRTD trong hoạt

động của các NHTM Việt Nam

- Nhà nước sử dụng hệ thống tài chính tiền tệ là công cụ trong quản lý nền kinh tế ở

mức độ vĩ mô nên có thể nói hệ thống ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. Sự

phát triển hay trì trệ của hệ thống ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước cần quản lý hoạt động tín dụng và nợ xấu của các NHNN thông qua NHNN để đảm bảo sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường tiền tệ

4. Theo Ông (bà), có những tiêu chí nào để đánh giá hoạt động QLNN đối với

RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam?

Tổng hợp các câu trả lời

- Việc đánh giá hoạt động quản lý nói chung và QLNN cần phải có những tiêu chí

và thường thì gắn với quá trình triển khai như tiếng nói và trách nhiệm giải trình; ổn

định chính trị và khả năng của bạo lực; hiệu năng chính phủ; chất lượng quản lý; thi

hành pháp luật; kiểm soát tham nhũng.

- Ở góc độ quản lý nhà nước thì nên tập trung vào các tiêu chí như hiệu quả, hiệu

lực, sự phù hợp và tính công bằng. Đặc biệt, tính công bằng cần được quan tâm hơn

cả vì vai trò quan trọng của Nhà nước trong quản lý chung đối với nền kinh tế.

- Nhìn nhận kết quả QLNN trong ngành ngân hàng thì vai trò, hiệu lực, tính khách

quan trong quản lý được đánh giá cao. Khi đánh giá QLNN đối với RRTD trong

hoạt động của các NHTM Việt Nam cần gắn với các tiêu chí như tính khách quan,

công bằng, tính hiệu lực và tính ổn định của hệ thống văn bản. 5. Ông/bà cho biết những nhân tố tăng cường/ hạn chế hiệu quả QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam?

Tổng hợp các câu trả lời - Thị trường chứng khoán phát triển, đòi hỏi thông tin của khách hàng minh bạch hơn, giúp ngân hàng có thể giám sát người đi vay dễ dàng hơn cũng như đánh giá tốt hơn RRTD;

- Biến động thị trường BĐS có thể gây nên RRTD ngân hàng khi BĐS vừa là đối tượng cho vay vừa là vật thể dùng làm tài sản đảm bảo. Sự bùng nổ cho vay dựa

trên sự bùng nổ của thị trường nhà đất, khi đó các ngân hàng dễ dàng cho vay nhiều

hơn vào lĩnh vực này. Mặc khác khi các ngân hàng nắm giữ một tài sản thế chấp gia

tăng hơn giá trị khoản vay thì họ càng có xu hướng hạ chuẩn để gia tăng tín dụng. - Quy mô ngân hàng có thể tác động lên nợ xấu theo cả chiều hướng tích cực hoặc

tiêu cực. Những ngân hàng lớn có thể quản lý nợ xấu hiệu quả hơn nhờ khả năng đa

dạng hóa danh mục cho vay và khả năng quản trị RRTD vượt trội so với ngân hàng

nhỏ.

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng được xem như một trong những yếu tố ảnh hưởng và cảnh báo sớm tới RRTD trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng, trước áp lực cạnh tranh để phát triển, các ngân hàng có thể nới lỏng

điều kiện xét duyệt tín dụng. Điều này sẽ tích lũy rủi ro và bộc phát vào giai đoạn

kinh tế suy thoái.

6. Theo Ông (bà), hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các

NHTM Việt Nam hiện nay còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc nào?

Tổng hợp các câu trả lời

- Môi trường quản trị RRTD chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel và

thông lệ quốc tế: Trước hết, phải đề cập đến việc hoạch định chiến lược còn khá

đơn giản, hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung, chưa đưa ra được

một danh mục tín dụng, kế họach cụ thể; trong đó tỷ trọng dư nợ từng ngành, từng

khu vực, từng đối tượng chưa được xây dựng cụ thể nhằm hạn chế RRTD tập trung.

- Nhiều ngân hàng tại các nước phát triển đã sử dụng các mô hình khác nhau để đo

lường rủi ro, từ đó tiến hành trích lập dự phòng hoặc tính mức vốn tương xứng để

bù đắp cho tổn thất. Tuy nhiên, các mô hình này chưa được áp dụng tại Việt Nam.

- Xét về tổng thể, hệ thống NHTM Việt Nam đã chú trọng nghiêm túc triển khai công tác quản trị rủi ro và đặc biệt là quản trị RRTD. Tuy nhiên, về phương pháp đo lường RRTD, cách thức thực hiện quản trị RRTD giữa các NHTM Việt Nam vẫn

còn nhiều điểm khác nhau. 7. Để hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam, theo Ông (bà), Nhà nước cần có những định hướng, mục tiêu nào?

Tổng hợp các câu trả lời

- Các NHTM Việt Nam nên kiểm soát chặt chẽ hơn tín dụng BĐS để tránh rủi ro nợ xấu, cần xây dựng hệ thống dự báo tốt cũng như hệ thống quản trị RRTD hiệu quả,

tránh dựa quá nhiều vào tài sản đảm bảo là BĐS trong chính sách cho vay, đồng

thời đánh giá thêm các yếu tố vi mô và vĩ mô có ảnh hưởng đến RRTD.

- Các cơ quan liên quan cần tăng cường cải thiện tính minh bạch của thị trường BĐS bằng cách hoàn thiện xây dựng các chỉ số giá, tăng cường phân tích nhu cầu

nhà ở, theo dõi nguồn cung trên thị trường, tiếp tục cơ cấu thị trường, các dự án và

cơ cấu lại các sản phẩm BĐS để các sản phẩm đến với mọi người, phù hợp với nhu

cầu thực và khả năng chi trả.

8. Ông (bà) có những kiến nghị gì để hoàn thiện hoạt động QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM Việt Nam? Tổng hợp các câu trả lời

- Các ngân hàng cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tốt dựa trên chiến lược quản

trị rủi ro thích hợp với môi trường kinh doanh. Hệ thống quản trị rủi ro phải cho

phép chấp nhận mức độ rủi ro nói chung và mức độ chấp nhận về RRTD nói riêng

để tạo thuận lợi trong kinh doanh, cũng như trong quản trị rủi ro.

- Nội dung quản trị RRTD phải được xây dựng dựa trên những đánh giá tổng thể về

tình hình kinh doanh của NHTM, môi trường kinh tế vĩ mô, những kỳ vọng về phát

triển trong tương lai của ngân hàng và đảm bảo trên cả hai phương diện là đo lường

rủi ro giao dịch tín dụng và rủi ro danh mục tín dụng.

- Các ngân hàng cần phải xây dựng các giới hạn cấp tín dụng theo ngành/lĩnh vực

kinh tế, hoặc theo khu vực địa lý, tránh tình trạng đầu tư tín dụng tràn lan, thiếu

kiểm soát ở một số ngành như dụng vào kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng

khoán hoặc cho vay để sở hữu chéo...

- Các NHTM Việt Nam nên xây dựng vàvận hành mô hình quản lý rủi ro trong hoạt

động nói chung và RRTD nói riêng theo ba tuyến phòng vệ và đảm bảo luôn có sự kiểm tra, giám sát chéo lẫn nhau. - Ngân hàng cần hoàn thiện các văn bản, quy trình, quy định hướng dẫn công tác

kiểm soát và quản lý khoản vay. Các văn bản này cần cụ thể hóa về trình tự, mục đích, nội dung và cách thức kiểm soát sau đối với khách hàng, bao gồm cả khách hàng cá nhân và khách hàng là tổ chức. Các mẫu biểu ban hành kèm theo cần được thiết kế rõ ràng, chi tiết, khoa học và dễ áp dụng.

B. ĐỐI TƯỢNG PHỎNG VẤN: CÁC KHÁCH HÀNG CỦA CÁC NHTM

1. Đánh giá của ông/ bà về thực trạng thị trường tín dụng Việt Nam hiện nay? Tổng hợp các câu trả lời

- Tín hiệu mừng đối với thị trường tín dụng Việt nam trong bối cảnh kinh tế toàn

cầu phải đối mặt với nhiều khó khăn với nguy cơ suy giảm tăng trưởng trước tác

động thắt chặt chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trong nỗ lực kiểm soát lạm phát toàn cầu, kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục được đảm bảo ổn định,

tăng trưởng kinh tế phục hồi, lạm phát được kiểm soát. Có thể nói, nền kinh tế trong

nước đạt được những thành tựu lội ngược dòng đáng ghi nhận, được nhiều tổ chức

quốc tế đánh giá cao.

- Trong bối cảnh giải ngân vốn đầu tư công gặp nhiều khó khăn thì mức tăng trưởng tín dụng thời gian qua đã góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế. 2. Đánh giá của ông/ bà về các dịch vụ và gói sản phẩm của các NHTM Việt

Nam?

Tổng hợp các câu trả lời

- Ngày nay, công nghệ số đã dẫn đến một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực tài

chính - ngân hàng. Theo đó, công nghệ số đã được đưa vào ứng dụng rộng rãi trong

nhiều quy trình, hoạt động của ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, bán lẻ, bảo

hiểm, quản lý tài sản...; đồng thời, mang tới những lợi ích cho ngân hàng trong việc

quản lý dữ liệu.

- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đời sống dân cư ngày càng được cải

thiện và điều này dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư. Từ đó, góp phần

tạo nguồn vốn ổn định trong tương lai cũng như đảm bảo an toàn đối với thanh

khoản của ngân hàng.

- Hiện ngân hàng đang cung cấp dịch vụ thanh toán cho các khách hàng có tài

khoản giao dịch tại ngân hàng bao gồm tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết

kiệm dưới nhiều hình thức. Khi đó, khách hàng được đáp ứng các nhu cầu thanh toán thông qua các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như: thanh toán séc, ủy nhiệm chi, lệnh chuyển tiền…

- Dịch vụ thẻ là một trong những nguồn thu phí dịch vụ quan trọng của ngân hàng. Bên cạnh các dịch vụ thanh toán khác, thẻ ngân hàng đang được khách hàng sử dụng như một công cụ thanh toán thông minh và ngày càng đáp ứng các nhu cầu thông thường của khách hàng.

- Dịch vụ bảo lãnh đáp ứng chủ yếu nhu cầu của DNNVV. Một số loại hình bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, hoàn tiền ứng trước, thanh toán, bảo

hành…; trong đó bảo lãnh thanh toán có mức độ rủi ro tương đương một khoản vay

thông thường.

3. Theo ông bà hoạt động của các NHTM chịu tác động của những yếu tố nào? Chuyển đổi số có phải là xu hướng trong các giao dịch tín dụng của các ông

bà?

Tổng hợp các câu trả lời

- Môi trường kinh doanh của NHTM là một yếu quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến

hoạt động của các NHTM, môi trường kinh doanh bao gồm các yếu tố liên quan đến đặc điểm kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia mà ngân hàng đang hoạt động; - Các hệ thống văn bản pháp luật quy định hoạt động ngân hàng hiện nay ở nước ta

được xem là môi trường chính trị, pháp lý liên quan đến hoạt động của ngân hàng.

- CMCN 4.0 với những tác động to lớn khi ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực

ngân hàng giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí giao dịch, vận chuyển, quản lý và góp

phần tiết kiệm về mặt tài chính cho các ngân hàng.

- Với bất kỳ tổ chức nào, việc xây dựng chiến lược đều có ý nghĩa hết sức quan

trọng, bởi chiến lược đóng vai trò định hướng hoạt động trong dài hạn, là cơ sở

vững chắc cho việc triển khai các hoạt động của tổ chức một cách đồng bộ, nhất

quán và có hệ thống.

- Chất lượng nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì hầu hết các “cuộc sụp đổ”

của ngân hàng đều là hậu quả của những quyết định thiếu sót được tích tụ dần sau

một thời gian dài. Do đó, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực cũng là một yếu tố

dẫn đến thành công của các NHTM.

4. Theo Ông (bà), xu hướng tiêu dùng xanh và phát triển bền vững có phải là

yếu tố để thay đổi định hướng kinh doanh của các NHTM? Tổng hợp các câu trả lời - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay, một số NHTM tại Việt

Nam chỉ quan tâm đến tăng trưởng tín dụng và bỏ qua những tác động tiêu cực của các dự án đầu tư tới môi trường và xã hội, do đó để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các NHTM thì các quy định của NHNN liên quan đến chính sách tín dụng xanh cần mang tính chất bắt buộc đối với toàn bộ NHTM.

- Thực hiện cách mạng xanh trong hoạt động của ngân hàng như sử dụng các nguồn năng lượng ít ô nhiễm, số hóa, xây dựng văn phòng xanh và các biện pháp khác

nhằm giảm phát thải cac bon trong chính các hoạt động ngân hàng.

- Việt Nam là một trong những quốc gia chịu thiệt hại nhất do biến đổi khí hậu, với

vai trò trung gian tài chính, ngành Ngân hàng đã tham gia vào quá trình chuyển đổi kinh tế sang hướng tăng trưởng bền vững và tăng trưởng xanh, thông qua cơ chế tài

chính xanh, tín dụng xanh để huy động, cung ứng vốn cho các dự án bảo vệ môi

trường (BVMT).

5. Ông/bà có biết về những RRTD có thể xảy ra đối với hoạt động của các

NHTM? Tổng hợp các câu trả lời - Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau,

chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra

bên ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn…

- Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta thường phải xét

đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ quá hạn, người ta lại chia

ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên

một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi… Các tỷ trọng này

càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.

- Tín dụng bất động sản là một trong những lĩnh vực có thể dễ dàng xảy ra rủi ro do

những biến động và tập trung của lĩnh vực này;

- Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng; cho

vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc

trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

6. Theo Ông (bà), các NHTM và NHNN cần làm gì để có thể quản lý RRTD

trong bối cảnh mới hiện nay? Tổng hợp các câu trả lời - NHTM phải đề ra chiến lược kinh doanh tín dụng trên cơ sở phân tích tình hình

kinh doanh hiện tại, đánh giá rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay cũng như khả năng chịu đựng rủi ro của mình. Chiến lược này phải được ban điều hành xem xét lại hàng năm, phải lập được kế hoạch tổng thể của việc kinh doanh tín dụng, trên cơ sở bản chất, phạm vi, sự phức tạp và tính rủi ro của công việc kinh doanh tín dụng.

- NHTM phải tổ chức được hệ thống kinh doanh tín dụng với quy trình hoạt động tín dụng phù hợp, hiệu quả nhưng đảm bảo rủi ro tín dụng được hạn chế trong phạm

vi kiểm soát được, được ghi thành văn bản rõ ràng và được phổ biến đến mọi cán

bộ, nhân viên có liên quan.

- NHNN cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả, vừa đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý vừa đảm bảo đạt được các mục tiêu kinh

doanh của mỗi NHTM. Bởi vì, chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và

các nhà quản trị ngân hàng một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng

và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của một NHTM.

- Xây dựng các chế tài để đảm bảo rằng các qui định về an toàn trong hoạt động ngân hàng luôn được mỗi cán bộ quản lý cũng như cán bộ nghiệp vụ nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh.

Phụ lục 8 Đánh giá triển khai Basel theo các trụ cột

(i) Trụ cột 1: Vốn yêu cầu tối thiểu (CAR). Quy định về an toàn vốn tối thiểu quy định theo Thông tư 13 chỉ đáp ứng chuẩn mực yêu cầu vốn của Basel I, chủ yếu chỉ hướng đến hoạt động QTRRTD, chưa đề cập đến định hạng tín dụng, rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường;

(ii) Trụ cột 2: Quy trình đánh giá giám sát, quy trình này trong Basel không chỉ để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để giải quyết các rủi ro trong HĐKD mà còn khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, theo nhận định của các chuyên gia, chưa được xây dựng theo mô hình đồng bộ, chức năng Cơ quan giám sát tài chính quốc gia còn mờ nhạt, trong khi thanh tra ngân hàng chưa đảm bảo tính độc lập;

(iii) Trụ cột 3: Kỷ luật thị trường. Hiện nay tại Việt Nam đã có các quy định về việc các tổ chức tài chính phải thực hiện công khai minh bạch thông tin, cụ thể: Quyết định số 1407/2004/QĐ-NHNN quy định các NHTM CP phải công bố công khai các thông tin trong báo cáo tài chính năm; Công văn số 450/UBCK-PTTT về việc công bố thông tin của NHTM CP khi niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán; Luật chứng khoán quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc công bố thông tin còn chưa thực sự cụ thể, các thông tin về cơ cấu vốn, đánh giá rủi ro, mục tiêu, chính sách quản lý rủi ro, khẩu vị rủi ro chưa quy định công khai.

Phụ lục 9 Kết quả xây dựng quy hoạch, chiến lược, kế hoạch quản trị rủi ro của một số ngân hàng

Tại Vietcombank, chiến lược về quản lý RRTD tập trung vào những nội dung chính sau đây: Xây dựng mô hình quản lý rủi ro tập trung, thống nhất và độc

lập, có sự tham gia của Hội đồng thành viên, các Ủy ban, Ban điều hành và các

Ban/Trung tâm; Xây dựng và hoàn thiện các chính sách, quy trình, thủ tục quản lý

rủi ro phù hợp với chuẩn mực trong khu vực và quốc tế, giúp xác định, đo lường,

theo dõi và kiểm soát RRTD phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách có hiệu quả nhất; Cải tiến phương pháp đo lường, kiểm soát và hệ thống thông tin phòng

ngừa rủi ro để hỗ trợ hiệu quả cho các HĐKD và công tác quản lý rủi ro; Xây dựng

và hoàn thiện hệ thống thông tin khách hàng, hệ thống thông tin ngành và thị

trường, bảo đảm đáp ứng tốt các yêu cầu: Quản lý và cảnh báo RRTD; Quản lý và

cảnh báo RRTD tiêu dùng và tín dụng thẻ; Phân loại nợ và trích lập DPRR tự động;

Quản lý HMTD theo ngành và theo từng doanh nghiệp trong toàn hệ thống; Quản lý

và đôn đốc thu hồi những khoản nợ đã được XLRR; Cung cấp định kỳ những bản

phân tích, cảnh báo rủi ro ngành và thị trường; Phục vụ các chi nhánh/đơn vị thuộc Vietcombank khai thác thông tin tín dụng nội bộ trong hệ thống; Xây dựng văn hóa

quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế song phải phù hợp với đặc điểm của

Vietcombank. Vietcombank đã ban hành các văn bản liên quan đến chính sách tín

dụng dưới góc độ từng khoản vay. Tuy nhiên, các chính sách này được ban hành rải

rác và chưa đảm bảo được tính hệ thống trong các văn bản và quy định.

Vietcombank đã đáp ứng được yêu cầu xem xét khả năng trả nợ của khách hàng là

yếu tố then chốt trong quá trình phê duyệt tín dụng. Vietcombank sử dụng quá trình

phê duyệt tín dụng liên tiếp. Quá trình này liên quan đến hệ thống phê duyệt của

từng cán bộ tín dụng với cấp độ phê duyệt tín dụng tăng dần. Hồ sơ xin vay được chuyển dần lên các cấp cao hơn cho đến một cấp độ nhất định để thoả mãn các yêu cầu của chính sách tín dụng. Hội đồng tín dụng chỉ tập trung xem xét những giao

dịch lớn, rủi ro cao, nhạy cảm hoặc các giao dịch khác nằm ngoài phạm vi HĐTD thông thường của ngân hàng, phù hợp với kinh nghiệm của từng uỷ viên.

Bên cạnh đó, khi triển khai các chủ trương về chuyển đổi số, tăng cương cường ứng dụng CNTT trong bối cảnh CMCN 4.0 đã dựa trên thông tin trực tuyến,

Vietcombank xây dụng mô hình quản lý RRTD tập trung, kết nối trực tuyến từ chi

nhánh đến Hội sở chính. Đây là mô hình quản lý rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng Hội đồng quản trị và Ủy ban quản lý rủi ro sẽ là bộ phận ban

hành các chính sách tín dụng và quản lý rủi ro. Hội đồng quản trị điều hành những

việc chủ chốt, còn Ban điều hành thừa hành sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị. Bên

cạnh đó mỗi cấp quản lý có chức năng riêng trong công tác quản lý rủi ro. (Nguồn: Báo cáo chuyên đề Vietcombank năm 2022). Tại Hội sở chính, hoạt động quản lý

rủi ro của Vietcombank sẽ tập trung vào Ủy Ban quản lý rủi ro, Hội đồng xử lý rủi

ro và các phòng ban của Hội sở chính. Các phòng ban có nhiệm vụ quản lý tại Hội

sở chính chịu trách nhiệm tham mưu cho Tổng giám đốc trong việc điều hành các

hoạt động liên quan đến quản lý rủi ro trong đó có quản lý RRTD, bao gồm soạn thảo các văn bản hướng dẫn các quy trình nghiệp vụ và các chính sách chi đạo cụ thể phù hợp với các tình huống thị trường, giám sát và đánh giá hoạt động quản lý

RRTD nói chung trong ngân hàng và nói riêng đối với từng chi nhánh, đề xuất các

biện pháp cải thiện tình hình. Tại chi nhánh Các phòng khách hàng chịu trách

nhiệm thẩm định rủi ro toàn diện và chi tiết đối với các khoản đề xuất tín dụng của

khách hàng trong mức phán quyết của chi nhánh. Thực hiện công tác quản trị

RRTD theo quy định của Vietcombank.

Tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, chiến lược quản lý RRTD tập

trung vào các nội dung: Xây dựng một mô hình tăng trưởng bền vững, đạt điểm tối

ưu trong tam giác tăng trưởng QTRR, quản trị hiệu quả. Tăng cường chất lượng các

quy trình, quy định và chuẩn mực QTRR, trong đó có việc tuân thủ các chuẩn mực

của Basel II; Tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật và của NHNN, luôn

đảm bảo tuân thủ các giới hạn và các tỷ lệ bảo đảm an toàn, phân loại nợ và trích

lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định của pháp luật, chấp hành tốt chính sách

thuế và nghĩa vụ với Nhà nước; Tăng trưởng giá trị vốn hóa cho cổ đông. Chính

sách tín dụng của Ngân hàng quốc tế thường được đưa ra trong từng năm, trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có những khó khăn, thuận lợi cần điều chỉnh thì ngân hàng sẽ điều chỉnh cho phù hợp. Hiện tại Ngân hàng VIB đang thực hiện theo chính

sách tín dụng năm 2022 và chiến lược của Ngân hàng giai đoạn 2021-2025. Trong chính sách tín dụng, Ngân hàng chỉ rõ hạn mức tăng trưởng dư nợ trên toàn hệ thống mức tối đa được cho phép. Trên cơ sở đó Bộ phận Giám sát tín dụng của Ngân hàng sẽ theo dõi và cảnh báo. Trong chính sách tín dụng, dư nợ cho vay của 3

khối khách hàng là Khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMES), Khối khách

hàng doanh nghiệp lớn và có vốn đầu tư nước ngoài (BC&FDI) và Khối khách hàng cá nhân cũng được quy định cụ thể. Tỷ lệ dư nợ cho vay trung dài hạn và ngắn hạn

của từng khối cũng được tách biệt rõ ràng. Chính sách tín dụng cũng chỉ ra hạn mức

tín dụng theo ngành hàng và sản phẩm, theo đó chia rõ ngành có hạn mức tín dụng

tối đa từ 10%, 5%, 2% và dưới 2% tổng dư nợ cho vay trên toàn hệ thống. Những ngành ngừng cấp tín dụng; đối tượng ưu tiên và không khuyến khích cấp tín dụng.

Quy trình quản trị RRTD tại Ngân hàng VIB được thực hiện đan xen trong

quy trình tín dụng từ Hướng dẫn thủ tục vay vốn và tiếp nhận hồ sơ thông qua phần

mềm điện tử với kết quả ứng dựng thành quả của CMCN 4.0; Thẩm định hồ sơ vay

và lập tờ trình; Quyết định cho vay và thông báo khách hàng; Hoàn tất các thủ tục pháp lý về tài sản đảm bảo; Giải ngân, lưu trữ hồ sơ; Kiểm tra, theo dõi khoản vay sau giải ngân; Chuyển nợ quá hạn; Khởi kiện thu hồi nợ VIB đã xây dựng mô hình

3 tuyến phòng thủ. Trong đó, tuyến phòng thủ thứ nhất là các khối kinh doanh, bán

hàng, các chuyên viên khách hàng, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại hội sở...

Nhiệm vụ chính của các đơn vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và

theo dõi các rủi ro phát sinh trong HĐKD (cho vay) và các quy trình vận hành khác;

bảo vệ lợi ích của đơn vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả

của từng đơn vị. Tuyến phòng thủ thứ hai là khối QTRR, khối tuân thủ, QTRR hoạt

động và pháp chế. Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng hơn cả là việc

độc lập đánh giá và kiểm soát (kiểm tra và cân đối) tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến

phòng thủ thứ nhất; quản lý rủi ro chính thông qua việc thiết lập khẩu vị rủi ro/chính

sách cho vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn tín dụng và cho vay, theo dõi, cảnh báo

sớm, quản trị danh mục…; giám sát các chương trình kiểm soát nội bộ, tuân thủ…

Tuyến phòng thủ thứ ba là bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là bộ phận trực thuộc Ban

kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của Ngân hàng, nên việc đánh giá 2 tuyến

phòng thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được thực hiện độc lập và khách quan. Mô hình phòng thủ trên, nói thì rất đơn giản, nhưng để vận hành thành công, đòi hỏi phải đầu tư rất lớn cả về tiền bạc lẫn thời gian. Sau một thời gian tuân thủ nghiêm ngặt mô

hình quản trị phòng thủ 3 lớp tại Ngân hàng các chuẩn mực an toàn đã được tuân thủ và dần tiệm cận các chuẩn mực quản trị tiên tiến trên thế giới, đặc biệt, tạo nên văn hóa ý thức và kiểm soát rủi ro trong mỗi nhân viên của ngân hàng. Mỗi cá nhân, từ chuyên viên khách hàng tới nhân viên các khối hỗ trợ, đều phải tuân thủ quy định, quy trình và

ý thức được trách nhiệm đánh giá, phát hiện sớm rủi ro và tìm cách ngăn ngừa các rủi

ro phát sinh. Tức là, QTRR được thực hiện bởi cả hệ thống, chứ không phải là trách nhiệm riêng của khối QTRR.

Tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - VPBank, VPBank có

chính sách QLRR, quy định nội bộ về QLRR do HĐQT ban hành. Chính sách

QLRR, Quy định nội bộ về QLRR tại VPBank được xây dựng theo các nguyên tắc sau: Được xây dựng phù hợp với chiến lược kinh doanh, văn hóa kiểm soát, nguồn

nhân lực, điều kiện công nghệ thông tin và hệ thống thông tin quản lý; Các trạng

thái rủi ro, vi phạm về rủi ro phải được báo cáo kịp thời và có cơ chế xử lý; Xác

định được các hoạt động trọng yếu và rủi ro trọng yếu và rủi ro trọng yếu được quản

lý trên cơ sở xác định được chiến lược QLRR và các hạn mức, cách thức nhận dạng, đo lường, kiểm soát. Chính sách QLRR, Quy định nội bộ về QLRR tại VPBank có những nội dung sau đây: Chính sách QLRR bao gồm Chính sách khung QLRR và

Chính sách quản lý đối với các rủi ro trọng yếu; Hạn mức rủi ro đối với từng rủi ro

trọng yếu; Nhận dạng, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro đối với từng loại rủi ro

trọng yếu; Kiểm tra sức chịu đựng; Cơ chế báo cáo nội bộ về QLRR; QLRR đối với

sản phẩm mới, hoạt động trên thị trường mới;

VPBank duy trì mô hình QTRR 3 cấp, tất cả các thành viên trong hệ thống

đều phải tham gia vào quá trình QTRR:

- Cấp 1: là các Đơn vị kinh doanh, nhiệm vụ chính là đánh giá, xác định, báo

cáo, ngăn ngừa và theo dõi các rủi ro phát sinh trong các HĐKD của VP Bank, đảm

bảo kinh doanh được hiệu quả và an toàn;

- Cấp 2: là Khối QTRR, các khối nghiệp vụ, độc lập đánh giá, kiểm soát hoạt

động, tính hiệu quả của hệ thống cấp 1, nhận diện và cảnh báo rủi ro phát sinh, đánh

giá danh mục, thực hiện việc kiểm tra giám sát từ xa và trực tiếp…

- Cấp 3: là Bộ phận kiểm toán nội bộ - trực thuộc ban kiểm soát, kiểm soát

các rủi ro phát sinh được độc lập và khách quan.

Mô hình này đảm bảo mọi rủi ro trong hoạt động của VP Bank đều được nhận dạng, đánh giá và đo lường rủi ro, kiểm soát, giám sát, xử lý rủi ro và báo cáo

trong quá trình QTRR. Công tác QTRR tiếp tục được triển khai theo hướng chuyên môn hóa và tập trung tại Hội sở. Chức năng, quyền hạn được phân tách rõ ràng giữa bộ máy phê duyệt cấp tín dụng và bộ máy phê duyệt xử lý RRTD. Năm 2017, VP Bank đã thực hiện rà soát chuẩn hóa lại mô hình bộ máy phê duyệt cấp tín dụng từ

cấp Chuyên gia phê duyệt tín dụng (độc lập, kiêm nhiệm) đến cấp Hội đồng tín

dụng các cấp, thống nhất phân luồng thẩm định hồ sơ đảm bảo hiệu quả và QTRR. Ủy ban QLRR đã giải quyết các vấn đề liên quan đến hệ thống chính sách tổ chức

phê duyệt tín dụng, chính sách xử lý nợ, phân quyền phê duyệt tín dụng, phân quyền

phê duyệt xử lý nợ, định hướng xử lý nợ xấu và đã đạt được một số kết quả như sau:

(Nguồn: Quy định quản lý rủi ro của VP Bank năm 2018)

Hình 1. Mô hình tổ chức quản lý RRTD tại VP Bank

- Xây dựng hệ thống QTRR: trên cơ sở đổi mới toàn diện cơ cấu tổ chức, VP Bank đã lựa chọn khung QTRR đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo chuẩn mực 34 quốc tế: (i) Chiến lược của NH và phương pháp QTRR ăn khớp với nhau; (ii) Xác định được các phương pháp quản lý và đo lường rủi ro; (iii) Đưa ra các công cụ chuẩn mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, báo cáo rủi ro trong toàn hệ thống…

- Hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách; thực hiện rà soát ban hành các văn

bản, quy định, quy trình nghiệp vụ, các văn bản nội bộ theo quy định của NHNN

đảm bảo các nghiệp vụ của ngân hàng được vận hành thông suốt, kiểm soát được rủi ro; Xây dựng đổi mới sản phẩm dịch vụ có chất lượng phù hợp với xu thế và nhu

cầu của khách hàng. Chú trọng xây dựng sản phẩm mới phục vụ riêng theo từng

phân khúc khách hàng doanh nghiệp, cá nhân.

Phụ lục 10 Quy trình xếp hạng khách hàng của các NHTM Việt Nam

- Xác định thông tin khách hàng: Đối với khách hàng doanh nghiệp, các

thông tin khách hàng được xác định bao gồm: Ngành nghề kinh doanh, quy mô

doanh nghiệp, hình thức sở hữu, là khách hàng mới hay khách hàng cũ của ngân hàng. Đối với khách hàng cá nhân: Tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thời gian

công tác, cơ cấu gia đình, thu nhập cá nhân, thu nhập gia đình...

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)

Hình 1. Quy trình chấm điểm, xếp hạng khách hàng

- Phân loại khách hàng: Mỗi ngân hàng sẽ có những tiêu chí khác nhau để phân loại khách hàng. Trong đó, các tiêu chí được sử dụng nhiều để phân loại doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu, ngành nghề kinh doanh và quy mô của doanh nghiệp. Tiêu chí để phân loại khách hàng cá nhân là dựa vào nghề nghiệp, thu nhập, mục đích vay vốn...

- Chấm điểm khách hàng: Khi chấm điểm khách hàng, các ngân hàng thường sử dụng cả các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính. Việc đánh giá yếu tố tài chính của khách hàng doanh nghiệp thực hiện qua việc phân tích báo cáo tài chính năm gần nhất. Chỉ tiêu tài chính được chia làm nhiều nhóm: Nhóm chỉ tiêu thanh khoản, nhóm chi tiêu hoạt động, nhóm chi tiêu đòn cân nợ, nhóm chi tiêu thu nhập... Các yếu tố phi tài chính thường được sử dụng để đánh giá là trình độ quản lý, quan hệ tín dụng, triển vọng ngành, vị thế cạnh tranh, đối thủ cạnh tranh... Các chỉ tiêu chấm điểm khách hàng cá nhân bao gồm: tình hình trả nợ ngân hàng, tình hình chậm trả lãi, tổng nợ hiện tại, các dịch vụ sử dụng, số dư tiền gửi...

- Tổng hợp điểm và xếp hạng khách hàng: Sau khi tiến hành chấm điểm các chi tiêu tài chính và phi tài chính, cán bộ xếp hạng sẽ tiến hành tổng hợp điểm của

khách hàng cho cả 2 chỉ tiêu trên. Thông tin về các chỉ tiêu phi tài chính thường được xem xét nhiều hơn và trọng số cũng cao hơn. Dựa trên điểm đạt được khách hàng được đánh giá rủi ro vào các nhóm khác nhau.

Phụ lục 11 Bảng 1. Kết quả đánh giá về hệ thống văn bản quản lý đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

MH

Tiêu chí

Đối tượng Đơn vị

ĐTB

1

Mức đánh giá 4 3 2

5

9

24

106 126

56

3,61

CBQL (NHTM)

2,8 7,48 33,02 39,25 17,44

0

0

21

43

61

VB1

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125)

4,32

CBQL (NHNN)

%

0

0

16,8 34,4 48,8

Hệ thống văn bản quản lý về RRTD đầy đủ theo hướng bao trùm được các nội dung quản lý và phù hợp với thực tiễn, quy định của quốc như tế Basel…

11

31

107 136

36

3,48

CBQL (NHTM)

3,43 9,66 33,33 42,37 11,21

VB2

0

0

19

51

55

4,29

Hệ thống văn bản công khai minh bạch, dễ tiếp cận và rõ ràng theo các nội dung quản lý

CBQL (NHNN)

0

0

15,2 40,8 44,0

4

22

129 144

22

3,49

CBQL (NHTM)

1,25 6,85 40,19 44,86 6,85

VB3

0

2

27

56

40

4,07

CBQL (NHNN)

Hệ thống văn bản quản lý RRTD của NHNN được cập nhật thường xuyên và nhất, thống không chồng chéo

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) % Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) %

0

1,6 21,6 44,8 32,0

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Bảng 2. Kết quả đánh giá đối với bộ máy QLNN đối với RRTD trong hoạt động của các NHTM

MH

Đơn vị

Tiêu chí

ĐTB

Đối tượng

1

2

5

I

103

77

5

96

40

3,28

CBQL (NHTM)

1,56 23,99 32,09 29,91 12,46

BM1

33

18

0

46

28

3,67

CBQL (NHNN)

Mức đánh giá 4 3 Đối với phân công, phối hợp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ Có sự thống nhất trong quản lý từ NHNN đến các chi nhánh NHNN tại các tỉnh, thành phố

14,40 26,40 36,80 22,40

0

73

102

91

28

27

3,06

CBQL (NHTM)

8,41 22,74 31,77 28,34

8,72

BM2

14

42

39

30

0

Có sự minh bạch, không chồng chéo giữa các cơ quan của NHNN

3,68

CBQL (NHNN)

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) % Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) %

11,20 33,60 31,20 24,00

0

21

81

112

84

23

3,02

CBQL (NHTM)

6,54 25,23 34,89 21,17

7,16

BM3

4

25

40

31

25

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125)

3,38

CBQL (NHNN)

%

3,20 20,00 32,00 24,80 20,00

Các cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ đã phối hoạt hợp linh lý quản trong hệ của RRTD thống NHTM

II Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý

13

23

119

127

39

CBQL (NHTM)

3,48

4,05

7,16 37,07 39,56 12,15

BM5

1

22

60

42

0

CBQL (NHNN)

4,14

0,8

17,6

48,0

33,6

0

26

116

118

57

4

CBQL (NHTM)

3,62

1,25

8,10 36,14 36,76 17,76

BM6

0

24

48

53

0

CBQL (NHNN)

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) % Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125)

4,23

%

0

19,2

38,4

42,4

0

14

24

119

125

39

CBQL (NHTM)

3,47

4,36

7,48 37,07 38,94 12,15

BM7

1

17

68

39

0

CBQL (NHNN)

4,12

Đội ngũ cán bộ quản lý có nhận thức và sự am hiểu về RRTD trong hoạt động của NHTM Kỹ năng nghề nghiệp trong phát hiện, xử lý vấn đề liên đến quan RRTD của các NHTM của đội ngũ CBQL, NV tại các NHNN tốt Phẩm chất, đạo của người đức CBQL, NV tại NHNN và các chi nhánh được thực hiện và đánh giá

Số phiếu (Σ =321) % Số phiếu (Σ =125) %

0,8

13,6

54,4

31,2

0

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Bảng 3. Kết quả đánh giá công tác nhận diện RRTD tại các NHTM

(Đơn vị tính: %)

MH

Tiêu chí

Đơn vị

ĐTB

1

Mức đánh giá 4 3 2

5

12

61

81

91

76

Số phiếu (Σ = 321)

ND1

3,49

3,74

19,00 25,23 28,35 23,67

%

21

34

103

89

74

Số phiếu (Σ = 321)

ND2

3,51

6,54

10,59 32,09 27,73 23,05

%

35

65

124

88

9

ND3

2,91

Cán bộ thẩm định cho vay luôn tìm hiểu kỹ về người vay, mục đích vay, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trung thực và cụ thể Cán bộ tín dụng trung thực trong việc cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng và thực hiện đúng quy định về cho vay đối với khách hàng Việc cấp tín dụng dựa trên giao dịch thương mại thực tế và đúng

Số phiếu (Σ = 321)

với mục đích vay vốn

10,90 20,25 38,63 27,41 2,80

%

14

57

134

89

27

ND4

3,18

Cán bộ tín dụng thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ của mình

4,36

17,76 41,74 27,72 8,40

Số phiếu (Σ = 321) %

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Bảng 4. Kết quả đánh giá công tác đo lường RRTD tại các NHTM

(Đơn vị tính: %)

MH

Tiêu chí

Đơn vị

ĐTB

Mức đánh giá 3 2

4

1

5

52

105

9

43

20

DL1

2,88

Các chỉ tiêu chấm điểm xếp hạng chính xác.

13,40 16,20 32,71 28,35 6,23

35

54

93

107

32

DL2

3,15

Phương pháp chấm điểm xếp hạng tín dụng phù hợp

10,90 16,82 28,97 33,33 9,97

35

48

131

85

22

DL3

3,03

10,90 14,95 40,81 26,48 6,85

16

28

84

152

41

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321)

DL4

3,54

%

4,98 8,72 26,17 47,35

Phương pháp chấm điểm được kiểm tra, đánh giá định kỳ về tính chính xác, hợp lý Việc chấm điểm xếp hạng khách hàng đảm bảo kịp thời, chính xác cho công tác đo lường, theo dõi rủi ro

12,7 7

21

66

103

121

10

DL5

3,10

Kết quả chấm điểm, xếp hạng khách hàng hợp lý

Số phiếu (Σ = 321) %

6,54 20,56 32,09 37,69 3,12

33

61

89

126

12

Số phiếu (Σ = 321)

DL6

3,07

Các dữ liệu được sử dụng chấm điểm đảm bảo độ tin cậy

%

10,28 19,00 27,72 39,25 3,74

47

87

82

96

9

DL7

2,79

Thông tin thu thập chấm điểm phong phú

Số phiếu (Σ = 321) %

14,64 27,10 25,55 29,91 2,80

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022) Bảng 5. Kết quả đánh giá công tác theo dõi, đánh giá và điều chỉnh RRTD tại các NHTM (Đơn vị tính: %)

MH

Tiêu chí

ĐTB

Đơn vị

Mức đánh giá 4 3 2

5

1

58

106

87

32

38

theo dõi

TD1

3,05

NHTM luôn thường xuyên các RRTD

11,84 18,07 33,02 27,10 9,97

Số phiếu (Σ = 321) %

27

37

107

106

44

TD2

3,32

Đánh giá đúng thực trạng RRTD

8,41 11,53 33,33 33,02 13,71

31

75

146

54

15

TD3

2,83

Các chỉ tiêu đánh giá hợp lý

9,66 23,36 45,48 16,82 4,67

36

48

129

92

16

TD4

3,01

Hệ thống thông tin đồng bộ cho việc đánh giá

11,21 14,95 40,19 28,66 4,98

31

51

113

104

22

TD5

3,11

Có các biện pháp điều chỉnh RRTD kịp thời

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) %

9,66 15,89 35,20 32,40 6,85

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Bảng 6. Kết quả đánh giá công tác kiểm soát và tài trợ tín dụng đối với các NHTM

(Đơn vị tính: %)

TT

Tiêu chí

Đơn vị

ĐTB

Mức đánh giá 4 3 2

5

1

46

112

77

60

26

KS1

3,31

Thực hiện đúng quy trình kiểm soát RRTD

8,10 14,33 34,89 23,99 18,69

36

51

108

97

29

KS2

3,10

Biện pháp tài trợ RRTD hiệu quả

11,21 15,89 33,64 30,22 9,03

19

30

59

149

64

KS3

3,65

Định giá lại tài sản đảm bảo của khách hàng phù hợp

5,92

9,35 18,38 46,42 19,94

25

46

120

101

29

KS4

3,20

Công tác quản lý kiểm soát theo đúng quy định

7,79 14,33 37,38 31,46 9,03

24

49

105

122

21

KS5

3,21

Phân loại nợ của khách hàng đúng quy định

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) %

7,48 15,26 32,71 38,01 6,54

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Bảng 7. Kết quả đánh giá về công tác kiểm tra, thanh tra đối trong QLNN đối với RRTD trong hoạt động của NHTM

(Đơn vị tính: %)

ĐTB

MH

Tiêu chí

Đơn vị

1

Mức đánh giá 4 3 2

5

38

58

106

87

32

3,05

KT1

Hệ thống văn bản hướng dẫn kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm đầy đủ

11,84 18,07 33,02 27,10 9,97

Số phiếu (Σ = 321) %

27

37

107

106

44

KT2

3,32

Hoạt động kiểm tra, thanh tra diễn ra thường xuyên

8,41 11,53 33,33 33,02 13,71

31

75

146

54

15

KT3

2,83

Hình thức kiểm tra, thanh tra đa dạng

9,66 23,36 45,48 16,82 4,67

36

48

129

92

16

KT4

3,01

11,21 14,95 40,19 28,66 4,98

31

51

113

104

22

KT5

3,11

Kết quả kiểm tra, thanh tra mang tính định hướng góp ý Xử lý nghiêm các hành vi sai phạm trong quản lý RRTD

Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) % Số phiếu (Σ = 321) %

9,66 15,89 35,20 32,40 6,85

(Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, 2022)

Phụ lục 12 Các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại

Các yếu tố tác động đến RRTD đã được một số nghiên cứu khẳng định như

chính sách kiểm soát, quản lý yếu kém, cho vay ồ ạt, năng lực thể chế hạn chế, chính sách tín dụng không phù hợp, lãi suất biến động, tình trạng lỏng lẻo trong việc đánh

giá tín dụng, đánh giá nợ xấu, NHNN giám sát không chặt chẽ. Tổng quan cho thấy

có nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD trong hoạt động của ngân hàng bao gồm cả

nguyên nhân thuộc về bên trong và bên ngoài ngân hàng [94].

I. Yếu tố từ bên ngoài Thứ nhất, do sự thay đổi chính sách của Chính phủ: Khi mà nền kinh tế biến

động như lạm phát, thất nghiệp... thì lập tức chính phủ phải đưa ra các chính sách

kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn chế ảnh hưởng xấu tới nền

kinh tế đất nước. Các chính sách của chính phủ thường xuyên quan tâm và có sự

thay đổi kịp thời như là chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách đầu tư phát triển,

chính sách về tỷ giá cũng như các chính sách về lãi suất, cụ thể:

(1) Lạm phát tăng: Lạm phát tăng làm giảm giá trị thực của khoản vay và

giảm các khoản nợ không có khả năng trả nợ (Jabra và cộng sự, 2017). Mặt khác,

lạm phát làm mất giá đồng tiền, giảm tỷ lệ lợi nhuận nói chung. Khi lạm phát gia

tăng tương quan dẫn đến lãi suất tăng do chính sách thắt chặt tiền tệ. Cùng với các

phí tổn khác, chi phí của dịch vụ nợ cũng gia tăng, doanh nghiệp và cá nhân đi vay

có thể gặp khó khăn khi trả nợ.

(2) Giá trị vốn hóa thị trường theo thời gian: Thị trường chứng khoán phát

triển, đòi hỏi thông tin của khách hàng minh bạch hơn, giúp ngân hàng có thể giám

sát người đi vay dễ dàng hơn cũng như đánh giá tốt hơn RRTD.

(3) Lãi suất thực: Khi lãi suất thực tăng cao, chi phí vay mượn tăng làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư trở nên thấp hơn, dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, đặc biệt là đối với các khoản vay có lãi suất thả nổi, do khả năng đáp ứng nghĩa vụ của người đi vay giảm.

(4) Tỷ giá tăng: Khi đồng nội tệ mất giá, sức mua đồng nội tệ giảm làm giá hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, sẽ làm tăng chi phí sản xuất và gián tiếp làm tăng chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát có thể xảy ra và những doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên, phụ liệu hoặc sản phẩm trung gian nhập khẩu sẽ phải gánh nặng nợ khi

chi phí vốn vay tăng. Từ đó, RRTD có xu hướng tăng.

(5) Thị trường BĐS trầm lắng và đóng băng: Biến động thị trường BĐS có thể gây nên RRTD ngân hàng khi BĐS vừa là đối tượng cho vay vừa là vật thể dùng

làm tài sản đảm bảo. Sự bùng nổ cho vay dựa trên sự bùng nổ của thị trường nhà

đất, khi đó các ngân hàng dễ dàng cho vay nhiều hơn vào lĩnh vực này. Mặc khác

khi các ngân hàng nắm giữ một tài sản thế chấp gia tăng hơn giá trị khoản vay thì họ càng có xu hướng hạ chuẩn để gia tăng tín dụng.

Thứ hai, nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý: HĐKD của các NHTM

liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống

pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi trường kinh doanh của NHTM sẽ có nhiều

thuận lợi. Ngược lại nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản… Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh gặp nhiều khó khăn, người phải trả tiền không trả được nó

kéo theo những người khác bị vỡ nợ không trả được ngân hàng.

Thứ ba, môi trường tự nhiên: Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây

ảnh hưởng hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,

điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn

ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có thiên tai dịch hoạ xảy ra khách

hàng cùng các ngân hàng cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh

doanh không có nguồn thu… Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải

cùng chia sẽ rủi ro với khách hàng của mình.

Thứ tư, môi trường kinh tế xã hội: Môi trường kinh tế xã hội trong một nước

biến động chịu ảnh hưởng của những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là

nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong HĐKD của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới

các lĩnh vực kinh tế trong đó HĐKD tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất. Sự

thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của chính phủ cũng là

nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho HĐKD của ngân hàng, gây rủi ro cho vay của ngân hàng.

Thứ năm, sự yếu kém về kinh doanh và đạo đức của người vay trong HĐKD.

Năng lực kinh doanh và hành vi đạo đức của người vay (lừa đảo, vi phạm pháp luật...) cũng gây ra những tổn thất cho ngân hàng và nếu ngân hàng phát hiện sớm thì rủi ro sẽ được ngăn chặn.

Tất cả những yếu tố trên nếu không được dự báo và có biện pháp phòng ngừa

kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh và điều kiện kinh

doanh của ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn. Điều này được thể hiện là khi mà một người phải trả tiền do ảnh hưởng bởi yếu tố trên không trả được dẫn đến

những người khác liên quan cũng không trả được. Điều này lan rộng ra khắp thị

trường, nó dẫn tới việc ngân hàng không thu hồi được nợ do khách hàng vỡ nợ.

II. Yếu tố từ bên trong ngân hàng Ngoài ra, RRTD của ngân hàng còn bị ảnh hưởng từ nội bộ của ngân hàng.

Một là, quy mô ngân hàng: Quy mô là giá trị thị trường của ngân hàng, các

nghiên cứu thường đo bằng logarit của tổng dư nợ cho vay của ngân hàng để điều

chỉnh biến này về giá trị tương đồng với các biến khác trong mô hình. Quy mô ngân

hàng có thể tác động lên nợ xấu theo cả chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Hai là, cơ cấu vốn (đòn bẩy tài chính): Các nghiên cứu trước đây thường sử dụng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản là biến đại diện cho mức độ vốn hóa.

Delis, Tran và Staikouras (2011) cho rằng tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn, do các

yêu cầu về vốn khắt khe hơn, ngụ ý rằng ngân hàng thận trọng hơn trong hành vi

cho vay. Ngược lại, tỷ lệ đòn bẩy tài chính thấp dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu,

do nhà quản lý ngân hàng dễ dàng khuyến khích rủi ro đạo đức, tăng danh mục cho

vay trong khi ngân hàng chưa đủ vốn hóa.

Ba là, quy mô tín dụng: Tốc độ tăng trưởng tín dụng được xem như một

trong những yếu tố ảnh hưởng và cảnh báo sớm tới RRTD trong HĐKD ngân hàng.

Khi nền kinh tế tăng trưởng, trước áp lực cạnh tranh để phát triển, các ngân hàng có

thể nới lỏng điều kiện xét duyệt tín dụng. Điều này sẽ tích lũy rủi ro và bộc phát vào

giai đoạn kinh tế suy thoái. Nghiên cứu của Salas & Saurina (2002) cho thấy tác

động này có thể với độ trễ từ 1 đến 4 năm.

Bốn là, tỷ lệ dư nợ/Vốn huy động: Khi các khoản cho vay cao hơn tiền gửi

ngân hàng, để tránh thể hiện tình trạng đang muốn thu hút vốn từ bên ngoài của

mình, ngân hàng sẽ có động cơ để giảm tỷ lệ dự phòng rủi ro của họ.

Năm là, khả năng sinh lời của ngân hàng: Để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng, các nghiên cứu thường sử dụng ROA (Tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản) hoặc

ROE (Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), ngụ ý về mức độ quản lý hiệu quả trong việc sử dụng tài sản và vốn chủ sở hữu để tạo ra thu nhập. Nhiều nghiên cứu chứng minh mối quan hệ ngược chiều giữa khả năng sinh lời và nợ xấu.

Sáu là, lãi suất cho vay: Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được tính theo giá trị

danh nghĩa, không kể đến tác động của lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được

công bố chính thức trên hợp đồng tín dụng. Theo Brownbridge (1998), lãi suất cho vay cao sẽ làm lượng nợ xấu ngân hàng tăng lên làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của

ngân hàng. Khi tỷ lệ nợ xấu tăng thì tỷ lệ dự phòng RRTD của ngân hàng cũng tăng

để bù đắp những rủi ro có thể xảy ra.

Bảy là, năng lực quản trị rủi ro và hiệu lực văn bản: Về bản chất năng lực quản trị rủi ro trong các ngân hàng ảnh hưởng rất nhiều đến thực trạng RRTD mà

ngân hàng có thể gặp phải. Năng lực này thể hiện ở khả năng xác định, đánh giá và

ưu tiên hóa rủi ro nhằm có những phản ứng quản trị phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro

cũng như tài trợ rủi ro phù hợp. Bên cạnh đó, việc xây dựng một hệ thống văn bản

quản trị rủi ro phù hợp vơ thực tiễn ngân hàng, tương thích với hệ thống văn bản quản lý của Nhà nước sẽ giúp hạn chế được các RRTD trong hoạt động của các ngân hàng.

Tám là, rủi ro đạo đức: Rủi ro tiềm ẩn liên quan đến đạo đức là việc cho vay

mạo hiểm hoặc cố ý lách quy định giữa ngân hàng và khách hàng vay, thông qua

nhận định của nhân viên trực tiếp và cấp quản lý. Ngoài ra, rủi ro đạo đức có thể

đến từ phía khách hàng, khi họ cố tình che giấu, làm lệch thông tin cung cấp cho

ngân hàng và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vay. Rủi ro đạo đức

còn đến từ chính tuyển dụng, bổ nhiệm và bố trí nhân sự ngân hàng thiếu năng lực,

phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp. Nhìn chung, do các ngân hàng ban hành

các chính sách, tiêu chuẩn cho vay chưa rõ ràng, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa

học và cả do những bất cập trong công tác quản lý cán bộ... cho nên từ đó rủi ro về

đạo đức có thể phát sinh và tồn tại. Rủi ro đạo đức gia tăng khi có bất ổn trên thị

trường tài chính. Đồng thời, chính rủi ro đạo đức lại trực tiếp làm gia tăng những

căng thẳng và bất ổn này, làm gia tăng rủi ro, hệ lụy xấu không chỉ cho riêng mỗi

ngân hàng, mà còn làm ảnh hưởng đến sự ổn định và lành mạnh của cả hệ thống

ngân hàng, cộng đồng doanh nghiệp và đến tâm lý của khách hàng.

Phụ lục 13 Các cơ quan thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán

hiện hành ở Việt Nam và nhiệm vụ chủ yếu

Với sơ đồ trên, có thể thấy, các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính của Việt

Nam không phải cơ quan giám sát hợp nhất mà là cơ quan giám sát tài chính chuyên

ngành.

- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) thành lập theo quyết định

số 34/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ và quyền hạn của

UBGSTCQG bao gồm: (1) Đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc ban hành các quy định trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm ); (2) Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ về chiến lược, định hướng phát triển thị trường tài chính; kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước về cơ chế giám sát, áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát thị trường tài chính; (3) Điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về

hoạt động giám sát của cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; (4) Giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động

của các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; (5) Phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn

hệ thống tài chính - ngân hàng và nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia;

thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp các thông tin về thị trường tài

chính quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ; (6) Kiến nghị với các cơ quan thanh tra - giám sát nguyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá

nhân không chấp hành hoặc không thực hiện đầy đủ các điều kiện trong hoạt động

ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán; (7) Được yêu cầu bộ tài chính, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo

hiểm cung cấp định kỳ và đột xuất các thông tin liên quan về tài chính – ngân hàng; được trưng tập các cán bộ của các Bộ, ngành khi cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát được giao; (8)Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính

phủ giao.

Với 8 nhiệm vụ và quyền hạn nêu trên, UBGSTCQG được trao trọng trách

giám sát vĩ mô toàn bộ thị trường tài chính, điều phối hoạt động giữa các cơ quan

giám sát chuyên ngành của từng lĩnh vực của thị trường tài chính. UBGSTCQG

không có các quyền quản lý Nhà nước trong việc cấp phép, hay trong việc thanh tra,

giám sát trực tiếp các đối tượng thuộc diện chịu sự giám sát. Nhiệm vụ của Ủy ban chỉ

dừng lại ở việc giám sát các điều kiện cấp phép và kiến nghị của các cơ quan giám sát

chuyên ngành trong việc xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm các điều kiện hoạt động

trong từng lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm hay chứng khoán. Như vậy, vai trò tham mưu,

tư vấn của UBGSTCQG là lớn, nhưng quyền lực thanh tra, giám sát các tổ chức hoạt

động trong lĩnh vực tài chính thì rất hạn chế. Các cơ quan giám sát chuyên ngành nắm

thông tin tốt hơn và chủ động hơn trong việc phát triển các vi phạm.

- Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước

Theo Quyết định 83/2009/QĐ-TTg, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN, thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động NH đối với các tổ chức tín dụng. Cơ quan này gồm: (i)Vụ Thanh tra các TCTD trong nước (gọi tắt là

Vụ 1); (ii) Vụ Thanh tra các TCTD nước ngoài (Vụ 2); (iii) Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng (Vụ 3 ); (iv) Vụ Giám sát ngân hàng (Vụ 4 ); (v) Vụ chính sách an toàn hoạt động ngân hàng (Vụ 5); (vi)Vụ Quản lý cấp phép các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng (Vụ 6); Cục phòng,

chống rửa tiền; Văn phòng. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan này là:

+ Trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định hoặc ban hành quy chế, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, hướng dẫn tiêu chuẩn thành lập hay giải

thể đối với các TCTD; Trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra quyết định cấp hoặc

thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD;

+ Thanh tra chuyên ngành về ngân hàng bao gồm: thanh tra việc chấp hành luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi

ro, tình hình tài chính và hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng;

+ Giám sát chuyên ngành về ngân hàng bao gồm: giám sát các đối tượng trong

việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn hoạt động ngân hàng; phân tích

đánh giá tình hình tài chính, hoạt động quản trị điều hành và mức độ rủi ro của đối tượng giám sát; phát hiện, cảnh báo các rủi ro mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Với qui định trên, bên cạnh chức năng tham mưu cho Thống đốc về các quy

định đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng và việc ra quyết định cấp hoặc thu

hồi giấy phép hoạt động với các TCTD, nhiệm vụ chính của cơ quan Thanh tra giám

sát Ngân hàng là Thanh tra chuyên ngành và Giám sát chuyên ngành ngân hàng.

Để thực hiện chức năng thanh tra đối với các loại hình TCTD theo mô hình

công ty mẹ - con, Điều 52 Luật NHNN 2010 qui định “Trong trường hợp cần thiết,

Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối

hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”. Về cơ chế giám sát,

“Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có

thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức

tín dụng” (Điều 56 Luật NHNN 2010).

- Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTG VN) được thành lập theo quyết định số

218/1999/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ của BHTG VN là bảo vệ quyền lợi và lợi ích của hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân

hàng. Tuy nhiên, BHTG không phải là một cơ cấu quyền lực nhà nước, mà là một tổ chức tài chính đặc biệt. Chức năng giám sát nếu có thì cũng để phục vụ cho tôn chỉ mục đích hoạt động của chính tổ chức Bảo hiểm tiền gửi và không thể đóng vai trò là một cơ quan quản lý nhà nước. Điều 5 QĐ 218/1999/QĐ – TTg qui định “bảo hiểm

tiền gửi Việt Nam có nhiệm vụ theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các qui

định tại nghị định của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và các qui định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”.

- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập theo nghị định

số 75/CP năm 1996 của Chính phủ, trực thuộc Bộ Tài chính (lúc mới thành lập Cơ

quan này trực thuộc Chính phủ), thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Cơ cấu tổ chức của UBCKNN gồm: (1) Vụ Phát triển thị trường

chứng khoán; (2) Vụ Quản lý và phát hành chứng khoán; (3) Vụ Quản lý và kinh

doanh chứng khoán; (4) Vụ Quan hệ quốc tế; (5) Vụ Tổ chức các bộ và đào tạo; (6)

Thanh tra; (7) Văn phòng. Trong 12 nhiệm vụ của UBCKNN qui định tại NĐ 75/CP

thì có nhiệm vụ về quản lý, thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán và các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh chứng khoán; xử lý các vi phạm về hoạt động chứng khoán theo quy định của Pháp luật.

- Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm là đơn vị thuộc bộ máy quản lý nhà nước

của Bộ Tài chính. Cục có các phòng ban chuyên môn sau: Phòng Phát triển thị trường

bảo hiểm; Phòng Quản lý, giám sát bảo hiểm phi nhân thọ; Phòng Quản lý, giám sát

bảo hiểm nhân thọ; Phòng Quản lý giám sát trung gian bảo hiểm; Phòng Kiểm tra;

Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm. Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm có

chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực

kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động

kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

theo quy định của pháp luật.

Ngoài các cơ quan trên, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan

quyền lực của nhà nước có quyền triểm tra, giám sát hoạt động của các tập đoàn tài

chính có vốn cổ phần của Nhà nước.

Phụ lục 14 Cơ chế, chính sách về thanh tra, giám sát

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan quản lý trực tiếp của thị

trường liên ngân hàng (TTLNH). Trên thực tế, hoạt động thanh tra, giám sát TTLNH

gồm: (1) Hoạt động thanh tra; (2) Hoạt động giám sát; (3) Cơ chế, chính sách về thanh tra, giám sát thị trường liên ngân hàng.

Hoạt động thanh tra Thời gian qua, công tác thanh tra đã có những thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực, toàn diện. Theo đó, công tác thanh tra tại chỗ đã chuyển từ thanh tra đơn lẻ sang thanh tra toàn diện pháp nhân tổ chức tín dụng (TCTD). Các cuộc thanh tra tại chỗ đã được mở rộng cả về quy mô và phạm vi, từ đó kết quả thanh tra có thể

đánh giá tổng thể hơn về pháp nhân TCTD. Hình thức thanh tra tại chỗ cũng được

thay đổi phù hợp với đổi mới phương pháp thanh tra. Nội dung thanh tra tại chỗ được

mở rộng, tập trung một số vấn đề trọng tâm, trọng điểm; nội dung thanh tra được đưa vào kế hoạch thanh tra hàng năm trong toàn hệ thống.

Tuy nhiên, hệ thống luật và cơ chế, chính sách bổ trợ cho việc thực hiện quy

trình thanh tra được an toàn và hiệu quả còn chưa hoàn thiện và thiếu tính đồng bộ.

Việc thực hiện theo các bước, các nội dung yêu cầu của quy trình thanh tra tại chỗ đôi khi chưa được bài bản và đầy đủ dẫn đến một số kết luận thanh tra còn hạn chế.

Trong khi đó, việc bố trí nguồn nhân lực tham gia các đoàn thanh tra đôi khi còn gặp

khó khăn, do thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu cán bộ có đủ khả năng đảm

nhận vai trò làm trưởng đoàn thanh tra; hệ thống giám sát, đánh giá và cảnh báo sớm

rủi ro tài chính chưa phát huy đầy đủ tính tích cực phục vụ cho công tác thanh tra tại chỗ, chưa phát triển xứng tầm với sự phát triển mạnh mẽ của TTLNH và hoạt động ngân hàng.

Hoạt động giám sát

Hoạt động giám sát chủ yếu trên TTLNH là giám sát các TCTD tham gia thị

trường thông qua việc giám sát an toàn vĩ mô và vi mô. Đối với việc giám sát vi mô

thường tuân theo tiêu chí CAMELS: Khả năng đáp ứng đủ vốn; Chất lượng tài sản

có; Năng lực quản lý; Khả năng sinh lời; Khả năng thanh khoản và sự nhạy cảm của

rủi ro thị trường.

Công tác giám sát trên TTLNH được tổ chức ngày càng tốt hơn. Trước đây,

công tác giám sát từ xa thiếu tính chặt chẽ; chưa thực sự nêu lên hay chỉ ra được

những TCTD có nguy cơ rủi ro cao, cần cảnh báo đưa vào diện nghi vấn để tiến hành

thanh tra tại chỗ. Đến nay, công tác giám sát đã từng bước được quan tâm với vai trò

là công cụ hữu hiệu định hướng, dẫn dắt, chỉ điểm, hỗ trợ triển khai các hoạt động

thanh tra tại chỗ. Việc theo dõi, giám sát và xử lý kiến nghị sau thanh tra nhằm tăng

cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngày càng tốt hơn, góp phần

nâng cao trật tự, kỷ cương trên thị trường TTLNH. Tuy nhiên, năng lực giám sát của NHNN chưa theo kịp tốc tộ phát triển nhanh chóng của TTLNH. Các chỉ tiêu giám sát từ xa theo CAMELS mới được một số ngân hàng áp dụng theo tiêu chuẩn kế toán

Việt Nam.

Trên thực tế, mặc dù TTLNH có sự tăng trưởng mạnh trong những năm qua nhưng vấn đề quản trị nội bộ của các TCTD chưa thực sự được coi trọng, trong khi giám sát của cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, dẫn tới một số ngân hàng

thương mại rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản, nợ xấu tăng cao, tiềm ẩn rủi ro hệ thống lớn.

Cơ chế, chính sách về thanh tra, giám sát thị trường liên ngân hàng

Trong những năm qua, việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong

hoạt động thanh tra, giám sát TTLNH đã đạt được những kết quả bước đầu. Giai đoạn 2011-2015, thực hiện chủ trương cơ cấu lại hệ thống các TCTD, NHNN đã ban hành

Chỉ thị số 01/CT-NHNN và Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 27/01/2015, trong đó tập

trung triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp về thanh tra, giám sát, tái cơ cấu

và xử lý nợ xấu. Nhờ đó, hoạt động thanh tra, giám sát TTLNH đã đạt được những

kết quả quan trọng, góp phần đảm bảo an toàn, ổn định của các TCTD, nâng cao trật tự, kỷ cương và hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ.

Năm 2015, công tác cấp phép tiếp tục được quản lý theo các tiêu chuẩn, điều

kiện thận trọng hơn nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các

TCTD, gắn với mục tiêu tái cơ cấu hệ thống TCTD.

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, thực hiện cơ cấu lại và xử lý nợ xấu, NHNN

đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN và Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 23/02/2016,

trong đó tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp về hoàn thiện thể chế, tăng cường

công tác thanh tra, giám sát; đẩy mạnh tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, tập trung xử lý dứt

điểm các TCTD yếu kém. NHNN đã ban hành kế hoạch thanh tra kèm theo Quyết

định số 2334a/QĐ-NHNN ngày 25/11/2016 để thống nhất thực hiện trong toàn

Ngành đối với công tác thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính.

Trong đó, công tác thanh tra chuyên ngành tập trung vào thanh tra pháp nhân,

nhằm đánh giá chính xác hơn về thực trạng pháp nhân TCTD và thanh tra chuyên đề

một số nội dung trọng yếu trong hoạt động của TCTD (cơ cấu lại, xử lý nợ xấu và

chất lượng tín dụng…). Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 98/2017/TT-

NHNN ngày 1/8/2017 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng và Sổ tay giám sát ngân hàng, giúp chuẩn hóa và thống nhất nội dung, trình tự, thủ tục giám sát TCTD trong toàn hệ thống.

Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục được đổi mới và tăng cường trên cơ sở hoàn thiện, triển khai các công cụ, phương pháp giám sát mới gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống tiêu chí giám sát, từng bước chuyển dần từ giám sát tuân thủ sang kết hợp giữa giám sát tuân

thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro. Để triển khai phương pháp giám sát mới, NHNN đã

ban hành Thông tư số 04/2018/TT-NHNN ngày 12/3/2018 sửa đổi, bổ sung quy định về áp dụng can thiệp sớm trong giám sát ngân hàng, góp phần kịp thời xử lý vi phạm,

hạn chế rủi ro cho đối tượng giám sát ngân hàng. Tiếp đó, ngày 12/6/2019, Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2019/QĐ-TTg về “quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam”. Theo Quyết định này, đã có những thay đổi đáng kể trong cơ cấu,

chức năng hoạt động của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng. Mô hình hoạt động

của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được phân chia theo nhóm ngân hàng và

loại hình hoạt động, tránh chồng chéo, đảm bảo quản lý giám sát hiệu quả hơn.

Mặt khác, mô hình trước đây là thanh tra chung, theo mô hình mới, thực hiện thanh tra theo từng khu vực ngân hàng, điều này giúp hoạt động thanh tra, giám sát được tập trung, không bị phân tán, phù hợp với quản lý ngân hàng hiện đại, sử dụng

công nghệ thông tin là chủ yếu. Hiện nay, nhờ công nghệ thông tin hiện đại, những

giao dịch bất thường có thể được phát hiện ngay và được khoanh vùng thanh tra tại

chỗ để giải quyết.