VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM NGỌC HƯƠNG QUỲNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI
Ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 9.34.04.10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. NGUYỄN NGỌC THANH
2. TS. NGUYỄN ĐÌNH DƯƠNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
ii
Phạm Ngọc Hương Quỳnh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh và TS.
Nguyễn Đình Dương, hai thầy hướng dẫn khoa học, đã tận tâm chỉ bảo và định
hướng, giúp tôi dần trưởng thành trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của tập thể các thầy giáo, cô
giáo tại Học viện Khoa học xã hội đối với tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận án này.
Luận án này được thực hiện với sự hỗ trợ và giúp đỡ rất lớn của lãnh đạo,
cán bộ, công chức Ủy ban nhân dân, các hộ gia đình trên địa bàn điều tra tại thành
phố Hà Nội. Tôi xin ghi nhận và bày tỏ lòng biết ơn chân thành sự giúp đỡ và tạo
điều kiện quý báu đó giúp tôi thực hiện nghiên cứu đề tài.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu, tôi cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ
lãnh đạo và giảng viên Khoa Khoa học hành chính và Tổ chức nhân sự, Học viện
Hành chính Quốc gia, lãnh đạo và giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, và các anh chị em trong Công ty TNHH
Thương mại và Dịch vụ Cánh diều, đã tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và động
viên tinh thần giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tôi xin
trân trọng cảm ơn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân quý tới gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn kịp thời động viên, chia sẻ và hỗ trợ hết sức giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của tất cả các cá nhân và
tập thể đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này.
iii
Tác giả luận án Phạm Ngọc Hương Quỳnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ........... 10 1.1. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp .................................................................................... 10 1.2. Tổng quan các nghiên cứu ở trong nước về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp .................................................................................... 17 1.3. Đánh giá khái quát các nghiên cứu .................................................................... 25
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ........... 31 2.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp ............................................................................................................... 31 2.2. Kinh nghiệm quốc tế và trong nước về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp ............................................................................................. 64
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ............. 75 3.1. Tổng quan tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội ................... 75 3.2. Công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội .......................................................................................................... 79 3.3. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội ....................................................................................... 85 3.4. Đánh giá chung về công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội ............................................................................ 117
CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI ............................................. 126 4.1. Bối cảnh thành phố Hà Nội .............................................................................. 126 4.2. Quan điểm đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội ............................................................................ 129 4.3. Đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội.................................................. 130
iv
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: CNH Công nghiệp hóa
: ĐTH Đô thị hóa
FAO : Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hợp Quốc
(Food and Agriculture Organization of United Nations)
: GPMB Giải phóng mặt bằng
: HĐH Hiện đại hóa
: HĐND Hội đồng nhân dân
: KĐT Khu đô thị
: KCN Khu công nghiệp
: KCNC Khu công nghệ cao
: KCX Khu chế xuất
LGAF : Khung đánh giá quản trị đất đai (Land Governance Assessment
Framework)
NN : Nông nghiệp
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for
Economic Cooperation and Development)
PAPI : Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (Public
Administration Performance Index)
: TN&MT Tài nguyên và Môi trường
: UBND Ủy ban nhân dân
: UN Liên hợp quốc (United Nations)
UNDP : Chương trình phát triển Liên hợp quốc (United Nations
Development Programme)
v
WB : Ngân hàng Thế giới (World Bank)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình 59
thu hồi đất NN
Bảng 3.1: Cơ cấu sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2009 - 2017 75
Bảng 3.2: Hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2015 - 76
2017
Bảng 3.3: Tình hình thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2000 - 77
2016
86
Bảng 3.5: Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương và các hộ dân về công khai chính sách, pháp luật về thu hồi đất
NN tại địa phương
Bảng 3.6: Ý kiến của các hộ dân về công khai bảng giá đất của địa 87
phương
Bảng 3.7: Ý kiến của các hộ dân về công khai lợi ích - chi phí các dự án 88
thu hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.8: Ý kiến của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về hình 92
thức thu hồi đất NN
Bảng 3.9: Đánh giá của các hộ dân về trình tự, thủ tục thu hồi đất NN 93
Bảng 3.10: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia khiếu nại, tố cáo thu 94
hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.11: Ý kiến của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về lấy 95
ý kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thu
hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.12: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia góp ý về chính sách, 95
pháp luật thu hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.13: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia góp ý xây dựng 96
bảng giá đất tại địa phương
Bảng 3.14: Ý kiến của các hộ dân về công khai kế hoạch thu hồi đất NN 97
tại địa phương
Bảng 3.15: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia góp ý phương án bồi 100
vi
thường, hỗ trợ thu hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.16: Đánh giá của các hộ dân về mức giá bồi thường nhận được tại 102
địa phương
Bảng 3.17: Đánh giá của các hộ dân về kinh tế hộ gia đình sau khi bị thu 104
hồi đất NN
Bảng 3.18: Đánh giá của các hộ dân về tính hiệu lực khi bồi thường, hỗ 105
trợ cho người dân tại địa phương
Bảng 3.19: Đánh giá của các hộ dân về tiến độ chi trả bồi thường và hỗ 105
trợ tại địa phương
109
Bảng 3.20: Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về sự đáp ứng của nguồn lực tài chính, nhân sự thực hiện chính
sách, pháp luật thu hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.21: Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về 110
hiệu quả sử dụng đất sau khi thu hồi đất NN tại địa phương
Bảng 3.22: Tổng hợp kết quả đánh giá theo các tiêu chí công tác quản lý 117
vii
Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ VÀ SƠ ĐỒ
Đồ thị 3.1. Tổng số dự án thu hồi đất và tổng số dự án thu hồi đất NN 78
triển khai trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2015 - 2018
Đồ thị 3.2. Tổng số diện tích đất và tổng số diện tích đất NN triển 78
khai thu hồi trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2015 - 2018
Sơ đồ 3.3. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai 111
cấp tỉnh trên địa bàn Hà Nội
Sơ đồ 3.4. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai 112
cấp huyện trên địa bàn Hà Nội
Sơ đồ 3.5. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai 106
cấp xã trên địa bàn Hà Nội
Đồ thị 3.6. Tỉ lệ khiếu nại về đất đai trên địa bàn Hà Nội
Đồ thị 3.7. Chỉ số công khai, minh bạch về quy hoạch/kế hoạch sử 84 88
dụng đất và giá đất bồi thường trên địa bàn Hà Nội
Đồ thị 3.8. Ý kiến của các hộ dân về nguyên nhân chậm tiến độ 106
GPMB
Đồ thị 3.9. Chỉ số đáp ứng kiến nghị của người dân trên địa bàn Hà 108
Nội
Đồ thị 3.10. Chỉ số trách nhiệm giải trình của các cơ quan Nhà nước 115
trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2016 - 2017
Đồ thị 3.11. Chỉ số hiệu quả tương tác với các cấp chính quyền trên 116
viii
địa bàn Hà Nội giai đoạn 2011 - 2017
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đến đầu thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), và đô thị hóa (ĐTH)
diễn ra rộng khắp trên thế giới. Vấn đề sử dụng đất ở Việt Nam cũng chịu áp lực
của quá trình CNH, HĐH và ĐTH này. Theo đó, một phần ruộng đất của người dân
đã và đang được sử dụng làm đất sản xuất nông nghiệp (NN) được thu hồi để
chuyển sang các mục đích sử dụng khác như phục vụ an ninh - quốc phòng, hay xây
dựng kết cấu hạ tầng, giao thông, trụ sở cơ quan, hoặc các dự án phát triển công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), và phát
triển khu đô thị (KĐT) v.v. Từ sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008, trên
địa bàn Hà Nội, bao gồm cả khu vực trung tâm thành phố và các vùng lân cận mới
được quy hoạch lên thành phố có diện tích đất NN bị thu hồi lớn. Theo báo cáo của
Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), trong 05 năm từ 2012 đến 2016, trên địa
bàn Hà Nội, có tổng số 3.073 dự án tiến hành thu hồi đất, với tổng diện tích đất thu
hồi là hơn 8.462 ha, và là một trong những địa phương có diện tích đất thu hồi lớn
nhất cả nước [6]. Quá trình chuyển đổi đất NN sang đất đô thị và sử dụng cho các
hoạt động công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ tầng giúp thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của địa phương trở nên tiến bộ hơn, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội. Tuy nhiên quá trình này lại làm thu hẹp đáng kể diện tích đất NN và ảnh
hưởng đến một số lượng lớn người dân sống dựa chủ yếu vào sản xuất NN trên địa
bàn Hà Nội.
Để cho quá trình chuyển đổi này có thể diễn ra thuận lợi, Nhà nước đã ban
hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ cho quá trình thu hồi đất NN. Hiến pháp
năm 2013 quy định “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức cá nhân đang sử dụng trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” [44]. Đây được coi là một trong
những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để quản lý đất đai, điều tiết quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phân bổ sử dụng tài nguyên đất hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác thu hồi đất của các hộ gia đình nông dân đang
1
thể hiện nhiều bất cập trong thực tế.
Trên địa bàn Hà Nội, những bất cập đến chủ yếu từ những trường hợp thu
hồi đất NN để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng, bao gồm các dự án phát triển KĐT, khu dân cư nông thôn, chỉnh trang
đô thị; phát triển cụm công nghiệp, khu sản xuất chế biến; phát triển cơ sở hạ tầng,
giao thông; xây dựng các công trình công cộng. Những dự án này mặc dù phục vụ
cho lợi ích quốc gia, công cộng nhưng cũng đem lại cơ hội đầu tư kinh doanh bất
động sản sinh lời rất lớn do chênh lệch địa tô cho các chủ đầu tư. Vì vậy, các nhà
đầu tư luôn nhắm vào các khu đất “vàng” để lập dự án đầu tư thu lợi. Trong khi đó,
lợi ích của Nhà nước, đặc biệt lợi ích của người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo
đảm tương xứng. Người dân bị thu hồi đất NN được Nhà nước bồi thường theo giá
đất thành phố ban hành rất thấp, nhất là đối với đất NN trong khu vực đô thị, khu
dân cư nông thôn. Tiền bồi thường đất NN cho người dân thường không đủ để nhận
chuyển nhượng diện tích đất NN tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng
đất sản xuất kinh doanh phi NN để chuyển sang làm ngành nghề khác. Ngoài ra,
việc bảo đảm sinh kế, việc làm, và tạo điều kiện sống cho người dân sau khi thu hồi
đất cũng chưa được thực hiện tốt, khiến đời sống người dân gặp khó khăn. Trước
tình hình đó, vai trò của quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là vô
cùng quan trọng.
Ở Việt Nam cũng như ở Hà Nội nói riêng, lâu nay, đã chú trọng đến nâng
cao năng lực quản lý Nhà nước về đất đai, và thu hồi đất, nhưng vẫn còn thể hiện
nhiều yếu kém về cả cơ sở khoa học và thực tiễn thực hiện. Chẳng hạn, nhận thức
và quan điểm về công tác quản lý còn đơn giản, coi đây hoàn toàn là việc của cơ
quan Nhà nước; không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, chưa có sự
tham gia của những đối tượng có liên quan; nội dung và cách thức quản lý chưa phù
hợp với yêu cầu thực tiễn; việc đánh giá kết quả của công tác quản lý chưa dựa trên
hệ thống tiêu chí đánh giá khoa học v.v. Vì vậy, nhiều chính sách được ban hành
còn chưa hợp lý; việc tổ chức thực hiện còn thiếu minh bạch, chưa tạo được đồng
thuận của người dân; nguồn lực về đất đai chưa được sử dụng thật hiệu quả, còn
tình trạng lãng phí; tham nhũng, tiêu cực, sai phạm xảy ra v.v. gây bất bình và khiếu
kiện, khiếu nại nhiều trong thời gian qua.
Trong bối cảnh này, nếu công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
2
đất NN nếu không được thay đổi dễ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, bức xúc của người
dân đối với Nhà nước. Điều này sẽ gây bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây khó
khăn cho Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy đổi mới công tác quản lý
Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là vô cùng cần thiết, nhằm điều tiết hợp lý
đất đai, phân phối lại các lợi ích từ đất, và đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước,
nhà đầu tư và đời sống của người dân sau khi thu hồi đất, góp phần phát triển kinh
tế và ổn định chính trị, xã hội.
Đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là vấn đề
khó khăn, cần phải dựa trên cơ sở lý thuyết khoa học, và có những giải pháp toàn
diện, đúng đắn. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải nghiên
cứu và đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa
bàn Hà Nội, xác định hướng đổi mới trong tương lai để công tác quản lý này đạt kết
quả cao hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án được xác định là:
- Dựa trên việc hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN, luận án tiến hành đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2008 - 2018, chỉ
ra những thành công và hạn chế của công tác quản lý này. Từ đó, đề xuất giải pháp
đổi mới để khắc phục những mặt tiêu cực và phát huy những mặt tích cực của công
tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội trong thời
gian tới.
Để đạt được mục đích trên, luận án đi thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan có chọn lọc khung lý thuyết về thu hồi đất NN và quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN, bao gồm khái niệm, bản chất, nội dung,
phương pháp, các nhân tố tác động.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí để đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội từ năm 2008 đến 2018. Làm rõ những thành
3
công, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế của công tác quản lý này.
- Đề xuất giải pháp đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội trong những năm tiếp theo.
Câu hỏi nghiên cứu của luận án:
Câu hỏi nghiên cứu trọng tâm của luận án là:
- Công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà
Nội hiện nay như thế nào, đã đạt những thành công và còn những hạn chế gì?
- Giải pháp đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất
NN trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới là gì?
Ngoài ra, luận án còn đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu khác là:
- Các quan điểm, chủ thể và đối tượng tham gia, nội dung, phương pháp, các
nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là gì?
- Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất
NN là gì?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
- Phạm vi về nội dung: Luận án tìm hiểu về công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN, trong đó, công tác quản lý Nhà nước tập trung vào 03 nội
dung (xây dựng cơ sở pháp lý; tổ chức thực hiện; và kiểm tra, giám sát và giải quyết
khiếu nại), và quá trình thu hồi đất NN tập trung vào quá trình chuyển mục đích sử
dụng đất; và quá trình chuyển quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, luận án chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý Nhà nước đối với
các dự án thu hồi đất NN để chuyển sang sử dụng cho các mục đích phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (bao gồm các dự án xây dựng các công
trình công cộng; phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông; phát triển KĐT, khu dân cư
nông thôn, chỉnh trang đô thị; phát triển KCN, KCX v.v.) theo quy định tại Điều 62
- Luật Đất đai năm 2013 của Quốc hội Việt Nam. Các dự án thu hồi đất NN để
chuyển sang sử dụng cho mục đích an ninh - quốc phòng, hoặc thu hồi đất do vi
phạm pháp luật, do tự nguyện trả lại, do bất khả kháng không thuộc phạm vi
4
nghiên cứu của đề tài.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội từ sau khi mở rộng
địa giới hành chính vào năm 2008.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thứ cấp thu thập cho giai đoạn từ năm 2008
đến năm 2018; số liệu sơ cấp thu thập vào năm 2018; hướng đổi mới công tác quản
lý được đề xuất cho giai đoạn đến năm 2030.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Khung phân tích của luận án
Các phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu:
Luận án sử dụng hai nguồn số liệu:
- Số liệu thứ cấp được thu thập bao gồm các tài liệu, văn bản, ấn phẩm, công
trình nghiên cứu khoa học, báo cáo khoa học, kết quả điều tra trong nước và quốc
tế, tư liệu của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý (như Bộ TN&MT, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), Sở TN&MT, Sở NN&PTNT
5
thành phố Hà Nội, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) thành
phố Hà Nội, Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê thành phố Hà Nội), tư liệu nghiên
cứu của các tổ chức quốc tế (như Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Nông nghiệp
và lương thực của Liên hợp quốc (FAO)), của các viện nghiên cứu, các trường đại
học, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước về thu hồi đất NN và quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất đất NN. Nguồn tư liệu thứ cấp giúp ích trong việc
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, hệ thống cơ sở lý
thuyết trong Chương 1 và Chương 2 của luận án. Đồng thời, nguồn số liệu thứ cấp
này cũng cung cấp căn cứ và bằng chứng thực hiện những phân tích và đánh giá
trong Chương 3 và Chương 4.
- Số liệu sơ cấp được thu thập bằng phương pháp điều tra xã hội học. Cuộc
điều tra được thực hiện vào thời điểm tháng 7 và tháng 8 năm 2018.
Để thực hiện điều tra xã hội học, luận án xây dựng các mẫu phiếu điều tra xã
hội học và tiến hành phỏng vấn trực tiếp đối với 02 nhóm đối tượng, bao gồm: (i)
hộ gia đình nông dân bị thu hồi đất NN tại những địa bàn có dự án thu hồi đất NN
lớn của Hà Nội, (ii) cán bộ, công chức chính quyền cấp xã tại những địa bàn này.
Mẫu phiếu điều tra được đính kèm trong phần Phụ lục của luận án.
Việc lấy mẫu và thực hiện điều tra phỏng vấn theo phương pháp chọn mẫu
phân tầng theo các đơn vị hành chính đến cấp xã có các dự án thu hồi đất NN, và
lấy mẫu ngẫu nhiên người trả lời. Cụ thể, luận án tiến hành khảo sát tại 04 đơn vị
hành chính cấp huyện - những nơi tập trung số lượng lớn các dự án thu hồi đất NN
trong những năm qua, đó là thị xã Sơn Tây, huyện Thạch Thất, huyện Chương Mỹ,
và huyện Phú Xuyên. Tại mỗi huyện, tiến hành khảo sát 02 xã (như vậy, có 08 đơn
vị hành chính cấp xã được lấy phiếu khảo sát và phỏng vấn). Tại mỗi xã, tiến hành
khảo sát 02 dự án (có tất cả 16 dự án thu hồi đất NN được khảo sát bao gồm: dự án
phục vụ xây dựng trường học; cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ; di chuyển dân ra khỏi vùng
ô nhiễm môi trường; xây dựng KĐT; xây dựng KCN; xây dựng hạ tầng kỹ thuật
đấu giá quyền sử dụng đất).
Việc lấy mẫu trên cơ sở lấy mẫu ngẫu nhiên người trả lời, dựa trên tính dễ
tiếp cận của đối tượng, ở những nơi mà điều tra viên có nhiều khả năng gặp được
đối tượng điều tra - như tại nơi làm việc, tại các hộ gia đình, khu dân cư, tại các khu
vực chợ, đường phố, cửa hàng để xin thực hiện điều tra và phỏng vấn. Tổng số
6
phiếu điều tra được đối với hộ gia đình là 246 phiếu, và đối với cán bộ, công chức
chính quyền địa phương là 32 phiếu.
Sau khi được thu thập, các dữ liệu sơ cấp sẽ được xử lý và sử dụng làm căn
cứ, bằng chứng thực tiễn phục vụ cho phân tích thực trạng trong Chương 3, và đề
xuất giải pháp trong Chương 4 của luận án.
Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu luận án:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn. Đây là phương pháp nghiên cứu nguồn
thông tin thứ cấp về công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN và
các vấn đề có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được
sử dụng trong toàn bộ các chương của luận án, và tập trung nhiều nhất để chứng
minh được khoảng trống cần nghiên cứu cho đề tài luận án và xây dựng cơ sở lý
thuyết phục vụ cho quá trình phân tích và đánh giá.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng để
đánh giá sâu sắc hơn từng khía cạnh khác nhau của quá trình thu hồi đất NN, quản
lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN; và tổng hợp để khái quát hóa các kết
quả từ việc phân tích để đưa ra những nhận định và đánh giá chung về quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN. Phân tích và tổng hợp cũng được sử dụng để
đánh giá công tác quản lý Nhà nước, và tìm ra những thành công và hạn chế của
công tác quản lý này trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội.
- Phương pháp thống kê mô tả. Thông tin định lượng thu thập được từ các
tài liệu thống kê và từ kết quả điều tra của luận án được nhập và xử lý và cho ra kết
quả dưới dạng các bảng biểu, đồ thị và sơ đồ để minh chứng cho các phân tích và
nhận định về công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa
bàn Hà Nội. Phương pháp này được sử dụng nhiều nhất ở phần phân tích thực
trạng và đề xuất giải pháp.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia. Luận án sử dụng phương pháp này để
tiếp cận các tri thức và nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý về các
vấn đề liên quan đến quá trình thu hồi đất NN và quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi này. Phương pháp này được áp dụng dưới hình thức trao đổi trực tiếp về các
vấn đề, được sử dụng để hỗ trợ xây dựng bộ tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN, phân tích thực trạng, và các giải pháp đề xuất.
Mặc dù có sự trao đổi với các chuyên gia, nhưng nội dung và các kết luận của luận
7
án hoàn toàn thuộc về tác giả.
- Phương pháp phân tích cây vấn đề. Luận án sử dụng phương pháp phân
tích Cây vấn đề để phân tích các nhân tố tác động đến quá trình thu hồi đất NN.
Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng để tìm ra những thành công, hạn chế
của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất này trong thực tế trên địa
bàn Hà Nội.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án phân tích, chỉ rõ bản chất, mục đích, nội dung, và phương pháp
quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN để đảm bảo các mục tiêu phát
triển của Nhà nước, đảm bảo hài hòa về lợi ích giữa các nhóm liên quan đến quá
trình thu hồi đất NN.
- Luận án cũng làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý này.
- Luận án đề xuất bộ tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN.
- Luận án phân tích và đánh giá thực trạng của công tác quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2008 - 2018; làm rõ
những thành công, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của công tác này.
- Luận án đưa ra quan điểm và giải pháp đổi mới công tác quản lý Nhà nước
theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý Nhà nước trên địa bàn
Hà Nội đến năm 2030.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận:
Góp phần làm phong phú thêm cơ sở khoa học về quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN, bao gồm các vấn đề lý luận về quá trình thu hồi đất NN và
quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN.
- Về thực tiễn:
Bộ tiêu chí đánh giá được xây dựng sẽ là tham khảo tốt cho các cơ quan
quản lý, các nhà khoa học, và giới chuyên môn sử dụng để đánh giá công tác quản
lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN tại các địa phương.
Bộ dữ liệu khảo sát sẽ là bằng chứng và cơ sở thực tiễn quan trọng cho các cơ
8
quan quản lý, các nhà khoa học và người dân tham khảo để hiểu rõ và đánh giá thực
trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội.
Những giải pháp tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội được đề xuất sẽ là gợi ý thiết thực đối với các
cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, và phần Phụ
lục, luận án được bố cục thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp
Chương 2. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp
Chương 3. Thực trạng quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông
nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Chương 4. Quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà
9
nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài về quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Các nghiên cứu về vai trò và nội hàm của quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Khi nghiên cứu về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN, không
thể không nhắc tới lý thuyết địa tô. Lý thuyết này đã đưa ra quan điểm về nguồn
gốc giá cả ruộng đất, khẳng định vai trò và chỉ ra chức năng của Nhà nước trong
việc điều tiết các mối quan hệ và lợi ích về đất đai trong quá trình sử dụng và
chuyển đổi đất đai.
Cụ thể, năm 1776, Adam Smith, nhà kinh tế học thuộc trường phái kinh tế
học cổ điển, đã đưa ra quan điểm về địa tô, giải thích về lợi nhuận có được từ nguồn
tài nguyên đất, và tạo nền móng xây dựng lý thuyết kinh tế về đất đai. Trong tác
phẩm “Của cải của các dân tộc”, ông cho rằng đất đai là nguồn lực ổn định và lâu
dài, địa tô của đất công chính là nguồn thu chính cho chi tiêu công ở nhiều quốc gia
lớn. Do đó, đất đai được coi như là nguồn gốc đem lại sự giàu có của các dân tộc
[32]. Đến năm 1817, nhà kinh tế học David Ricardo, trong tác phẩm “Những
nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khóa”, đã đưa ra hệ thống thuế về đất
đai, đây là nguồn thu thuận tiện, ổn định, lâu dài cho các quốc gia từ đất [57].
Tiếp tục kế thừa và phát triển lý thuyết địa tô là Karl Marx. Học thuyết “giá
trị thặng dư trong sản xuất NN” đã được ông phát triển dựa trên lý luận kinh tế về
địa tô của Adam Smith và David Ricardo. Trong bộ Tư bản (xuất bản lần đầu vào
năm 1867), Karl Marx khẳng định, đất đai tự nó không tạo ra giá trị, chính luồng thu
nhập từ đất mang lại giá trị cho đất đai [33]. Giá trị đất đai, về bản chất, là giá trị địa
tô tư bản hóa. Theo ông, có 03 loại địa tô tồn tại, trong đó mỗi loại có nguồn gốc và
vai trò riêng có của nó. Mỗi mảnh đất có giá trị cao hay thấp cũng như giá cả của
mỗi mảnh đất trên thị trường luôn luôn phụ thuộc và thay đổi theo sự thay đổi của
cả 03 loại địa tô này. (i) Địa tô chênh lệch I. Loại địa tô này có được nhờ vào những
10
điều kiện thuận lợi vốn có của đất đai như độ phì nhiêu màu mỡ, sự đồng bộ của hệ
thống hạ tầng, sự tiếp cận thuận lợi, và lợi thế về điều kiện vị trí. Do địa tô chênh
lệch I của những khu vực đất đai có vị trí và điều kiện thuận lợi cao hơn nên giá trị
đất đai tại vị trí đó cao hơn. Những yếu tố làm thay đổi giá trị địa tô chênh lệch I
thường do xã hội mang lại, bao gồm: sự cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện
các điều kiện môi trường, phát triển các hoạt động kinh tế xã hội. (ii) Địa tô chênh
lệch II. Đây là lợi ích có được từ đất đai nhưng do người sử dụng biết cách đầu tư
sử dụng một cách hợp lý tạo ra. Do vậy, cùng một vị trí và điều kiện tương đồng,
những chủ đầu tư có kinh nghiệm, trình độ, và uy tín sẽ tạo ra luồng thu nhập từ đất
đai cao hơn, làm cho lại giá trị đất đai cao hơn. Chính địa tô chênh lệch II đã mang
lại giá trị cao hơn đó. (iii) Địa tô tuyệt đối. Mặc dù không tính đến sự khác nhau về
các yếu tố vị trí và điều kiện thuận lợi, không tính đến sự khác nhau về trình độ của
người sử dụng đất, bất cứ một mảnh đất nào, cũng có thể mang lại một luồng thu
nhập cao hơn so với các hoạt động không sử dụng đất. Địa tô tuyệt đối của đất đai
thể hiện qua luồng giá trị cao hơn đó. Vai trò đóng góp của đất đai làm gia tăng lợi
nhuận cho mỗi hoạt động kinh tế xã hội thể hiện địa tô tuyệt đối. Địa tô tuyệt đối
không phụ thuộc vào điều kiện vị trí đất đai cũng như trình độ của người sử dụng,
mà tùy thuộc vào vai trò của đất đai trong mỗi hoạt động kinh tế xã hội.
Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý, thực hiện chức năng quản lý của
mình trong quá trình sử dụng và chuyển đổi đất đai thông qua việc điều tiết và phân
phối các loại địa tô này. Theo Karl Marx, lợi ích mang lại từ địa tô chênh lệch I phải
được phân phối chung cho xã hội, mà Nhà nước là đại diện. Nhà nước có chức năng
điều tiết và phân phối địa tô chênh lệch I, tạo ra sự công bằng, bình đẳng về lợi ích
giữa những người sử dụng đất có điều kiện, vị trí khác nhau. Tương tự, về nguyên
tắc, địa tô chênh lệch II sẽ thuộc về người tạo ra nó - là người sử dụng đất. Nhà
nước cần thiết ban hành chính sách phân phối địa tô chênh lệch II để khuyến khích
người sử dụng sử dụng đất hợp lý và có hiệu quả hơn. Cuối cùng, địa tô tuyệt đối
trong mỗi hoạt động kinh tế - xã hội khác nhau sẽ khác nhau và thay đổi khi Nhà
nước cho phép thay đổi mục đích sử dụng đất. Do đất đai có giới hạn về diện tích bề
mặt cũng như giới hạn về quỹ đất dành cho mỗi mục đích sử dụng, nên địa tô tuyệt
đối có tác dụng hạn chế sự gia tăng quy mô sử dụng đất và thuộc về người có quyền
11
quyết định mục đích sử dụng đất.
Như vậy, Nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng, và với vai trò là chủ thể quản
lý, thực hiện chức năng điều tiết của mình thông qua việc ban hành và thực thi các
chính sách cũng như các công cụ khác nhằm phân phối địa tô trong quá trình sử
dụng và chuyển đổi đất đai.
Trong quá trình phát triển kinh tế thế giới, kinh nghiệm các nước cho thấy
rằng ĐTH và tăng trưởng kinh tế nhanh luôn đi cùng với việc chuyển đổi đất đai từ
khu vực NN sang công nghiệp, cơ sở hạ tầng và nhà để ở. Mặc dù thu hồi đất NN
để chuyển sang mục đích khác là quá trình tất yếu, và đặc biệt, đối với nhiều nước
đang phát triển, đây được coi giống như là một trong những cách tiếp cận để loại
bỏ đói nghèo nông thôn; thì vẫn có hai luồng quan điểm ủng hộ và phản đối quá
trình chuyển đổi này. Trong đó, vai trò và nội hàm của công tác quản lý Nhà nước
cũng được thể hiện khác nhau đối với hai luồng tư tưởng này.
Theo quan điểm những nhà ủng hộ nông thôn và phản đối việc thu hồi đất
NN để chuyển sang mục đích khác, việc chuyển đổi này có tác động tiêu cực tới
nông dân như việc làm và thu nhập, và và tác động tiêu cực tới an ninh lương thực
của cộng đồng. Các tác giả ủng hộ quan điểm này cho rằng, Nhà nước, lúc này cần
thực hiện chức năng định hướng để nền kinh tế phát triển theo đúng hướng, tránh
những tác động tiêu cực gây ra; và giải quyết những bất cập trong quá trình chuyển
đổi đất đai. Quan điểm này được thấy trong các tác phẩm của các tác giả của Trung
Quốc và Ấn Độ - những quốc gia có bối cảnh ĐTH nhanh. Như Ballabh P.
Acharya, năm 2010, với bài viết “Policy of Land Acquisition and Development:
Analysis of an Indian Experience”; Nelson Chan, năm 2003, với bài viết “Land
Acquisition Compensation in China – Problems & Answers”; hay Chen Jie, năm
2007, với bài viết “Rapid urbanization in China: A real challenge to soil protection
and food security” [76], [77], [86].
Ngược lại, nhóm các nhà ủng hộ sự phát triển đô thị, thì chỉ ra rằng quá
trình thu hồi đất NN để chuyển sang mục đích khác có thể mang tới những tác
động tiêu cực về việc làm NN và thiếu hụt lương thực, nhưng bằng cách cải tiến
công nghệ, thâm canh sản xuất NN và tạo ra việc làm mới trong khu vực phi NN
thì có thể được bù đắp được những tác động tiêu cực trên. Các tác giả theo quan
12
điểm này nhấn mạnh đến nội dung quản lý của Nhà nước là ban hành và thực hiện
các chính sách phân phối đất, hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình thu hồi đất NN và
chuyển dịch đất đai diễn ra thuận lợi, và phân phối lợi ích từ đất sao cho hợp lý giữa
các chủ thể trong quá trình chuyển đổi đất đai. Nhà nước thực hiện việc điều tiết
phần giá trị đất đai tăng lên do sự thay đổi mục đích sử dụng đất trong quá trình
chuyển đổi đất NN sang sử dụng cho mục đích khác sẽ tạo nên sự bình đẳng, công
bằng về lợi ích của những người sử dụng đất khác nhau khi điều kiện đất đai thay
đổi. Quan điểm này được thể hiện bởi Benedict J Tria Kerkvlite, trong bài viết
“Agricultural land in Vietnam: markets tempered by family, community and
socialist practices”, năm 2005; Xiang zheng Denga, Jikun Huang, Scott Rozelle,
Emi Uchida, năm 2006, với bài viết “Cultivated land conversion and potential
agricultural productivity in China”; hay Jonathan Rigg, “Land, farming, livelihoods,
and poverty: Rethinking the links in the rural South”, năm 2006 [78], [89], [93].
1.1.2. Các nghiên cứu về cách thức và thực tiễn quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp
Trước tiên phải nhắc tới quan điểm của Karl Marx về cách thức Nhà nước
điều tiết và quản lý đất đai khi nghiên cứu về bản chất của địa tô. Ông cho rằng Nhà
nước cần loại bỏ chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, có như vậy mới loại bỏ được địa
tô tuyệt đối, và giảm chi phí cho người sử dụng đất [33]. Chỉ cần pháp luật chấp
nhận chế độ sở hữu Nhà nước hoặc sở hữu toàn dân về đất đai là loại bỏ được chế
độ sở hữu tư nhân về đất đai. Tất cả các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây
đều xây dựng pháp luật trên nguyên tắc của chế độ sở hữu Nhà nước hoặc toàn dân
về đất đai. Theo họ, trong quá trình chuyển đổi đất đai, chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai chính là cơ sở pháp lý để Nhà nước thực hiện cơ chế thu hồi đất bắt buộc.
Trong những nghiên cứu gần đây, quan điểm và thực tiễn quản lý Nhà nước
để giải quyết lợi ích và quan hệ đất đai trong quá trình thu hồi đất NN trên thế giới,
đã được nhiều tác giả mô tả. Ngân hàng Thế giới - World Bank (WB) và Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc - Food and Agriculture
Organization of the United Nations (FAO) đã đưa ra quan điểm về quản trị Nhà
nước tốt về đất đai và thu hồi đất NN. Theo quan điểm của WB và FAO, quản trị
Nhà nước tốt về đất đai, trong đó có quá trình thu hồi đất NN, gắn với việc ra quyết
định minh bạch và có sự tham gia của nhiều bên liên quan, quy tắc của pháp luật
13
được áp dụng công bằng cho tất cả các chủ thể và đối tượng liên quan, và hầu hết
các tranh chấp được giải quyết trước khi chúng biến thành xung đột. Ngoài hệ quả
tích cực làm giảm tham nhũng và hối lộ, quản trị Nhà nước tốt về đất đai và thu hồi
đất NN còn quan trọng như là một điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế bền
vững. Quan điểm này được thể hiện trong các tác phẩm “Compulsory acquisition of
land and compensation”, của FAO, năm 2008, và “Governance - the World Bank’s
experience”, của WB, năm 1996 [82], [97].
Nhu cầu thực tiễn về quản trị Nhà nước tốt đối với thu hồi đất NN được thể
hiện ở hầu hết các nước đang phát triển - nơi mà quá trình chuyển đổi đất đai đang
diễn ra mạnh mẽ. Ở những quốc gia này, với áp lực dân số tăng và quá trình phát
triển kinh tế làm tăng nhu cầu thu hồi đất NN để phục vụ phát triển công nghiệp và
đô thị. Trong quá trình chuyển đổi này, điều quan trọng là phải xác định và bảo vệ
các quyền đối với đất đai của các nhóm đối tượng khác nhau như một điều kiện
tiên quyết cho sự chia sẻ các lợi ích của phát triển kinh tế. Tầm quan trọng của
quản trị Nhà nước tốt đối với đất đai và thu hồi đất NN ngày càng được đề cao ở
nhiều quốc gia khác nhau. Deininger Klaus đã đưa ra những cách thức mà Nhà
nước các nước đang phát triển có thể điều tiết tốt hơn các quan hệ đất đai ở nông
thôn đối với đất NN và thu hồi đất NN chuyển sang mục đích khác, trong nghiên
cứu “Land policies for growth and poverty reduction”, A World Bank policy
research report [88]. Hay Liên minh châu Phi, năm 2009, đã đưa ra hướng dẫn về
hoạch định chính sách đất đai ở Châu Phi, bao gồm các tiêu chí cụ thể để đánh giá
và đo lường công tác quản lý đất đai, trong đó có thu hồi đất, của các nước theo
quan điểm quản trị Nhà nước tốt [97]. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều quốc gia
triển khai các chương trình để cải thiện quyền sử dụng đất của nông dân, thường
với sự hỗ trợ đáng kể của Các tổ chức song phương. Chẳng hạn, FAO, hợp tác với
các tổ chức khác của Liên hợp quốc - United Nations (UN), triển khai một chương
trình trên phạm vi rộng, tư vấn, đưa ra tập hợp các hướng dẫn về quản trị Nhà nước
tốt về đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Năm 2008, FAO đã đưa ra nghiên cứu
“Good governance and natural resources tenure in South East Asia region” [81].
Đây là tài liệu hữu ích giới thiệu tổng quan về hoạt động và cách thức quản trị Nhà
nước tốt về đất đai, trong đó có thu hồi đất NN, của các nước trong khu vực Đông
14
Nam Á (như Thái Lan, Malayxia, Indonexia, Philipin, Lào, Việt Nam và các nước
khác). Đặc biệt, tài liệu so sánh hệ thống chính sách, pháp luật và biện pháp thực thi
chính sách và pháp luật đất đai, và thu hồi đất ở các nước trong khu vực này, trong
đó có Việt Nam.
Trong các nghiên cứu gần đây còn chứng kiến một số quan điểm về cách
thức quản lý Nhà nước theo hướng thị trường để điều tiết quá trình thu hồi đất NN.
Chẳng hạn quan điểm về cơ chế chia sẻ lợi ích đã được thực hiện thành công ở cả
những quốc gia đang phát triển và những quốc gia phát triển. Nội dung của mô hình
này được chia sẻ trong một số bài viết về quá trình thu hồi đất ở Trung Quốc của
Chengri Ding, năm 2007, với tác phẩm “Policy and praxis of land acquisition in
China”; Nelson Chan, năm 2003, với bài viết “Land Acquisition Compensation in
China - Problems & Answers”; Benjamin van Rooij, năm 2007, với bài viết “The
return of the landlord: Chinese land acquisition conflicts as allustrated by peri-urban
Kunming” [77], [79], [95]. Các tác phẩm này đã cung cấp bức tranh tổng thể về
thực trạng thu hồi đất ở Trung Quốc trước và sau thời kì cải cách ruộng đất, cùng
với đánh giá kết quả thực thi và tác động của chính sách này. Các bài viết khẳng
định thu hồi đất là phương tiện chủ yếu được sử dụng bởi chính phủ để đáp ứng nhu
cầu đất tăng do sự phát triển kinh tế và đô thị nhanh chóng ở Trung Quốc. Các bài
viết có đề cập đến cơ chế chia sẻ lợi ích khi thu hồi đất NN để thực hiện tốt chính
sách thu hồi đất NN và giảm thiểu những căng thẳng và xung đột diễn ra trong quá
trình này. Tương tự là các bài viết của tác giả Maitreesh Ghatak và Dilip
Mookherjee, năm 2014, “Land acquisition for industrialization and compensation of
displaced farmers”; Viện thống kê Ấn Độ, năm 2013, với tác phẩm “Land
acquisition: Political intervention, fragmentation and voice Prabal Roy
Chowdhury”; Naidoo và cộng sự, năm 2014, với bài viết “Integrating economic
costs into conservation planning”, [83], [85], [91]. Các bài viết này đã đề cập và
chia sẻ những cách thức thu hồi đất của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ,
Hàn Quốc, Australia trong đó khẳng định ngoài việc bồi thường thiệt hại về đất, tài
sản gắn liền với đất cho những người dân trực tiếp bị thiệt hại, Nhà nước cần thiết
thiết lập mô trường và điều kiện thuận lợi để các bên liên quan chia sẻ lợi ích lâu
15
dài khác.
Bên cạnh đó còn có cơ chế góp đất cũng đã được nghiên cứu và áp dụng
rộng rãi ở nhiều nước châu Á Thái Bình Dương. Một số tác giả đề cập đến mô hình
này như Davis Junior, năm 2006, với bài viết “Rural non-farm livelihoods in
transition economies: emerging issues and policies”; và Benjamin Van và Rooij,
năm 2007, với bài viết “The return of the landlord: Chinese land acquisition
conflicts as allustrated by peri-urban Kunming” [87]; [94]. Các nghiên cứu này đã
rút ra những bài học từ những kinh nghiệm của các quốc gia và các chương trình
của WB về thu hồi đất NN vì lợi ích của xã hội như Hàn Quốc, Trung Quốc. Các
công trình nghiên cứu này đã mô tả về kỹ thuật góp đất, trong đó nhấn mạnh đến
vai trò của Nhà nước trong việc tạo cơ chế để các bên liên quan thực hiện quyền lợi
và trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện cơ chế này.
Ngoài ra cơ chế phát triển quyền phát triển có thể chuyển nhượng được cũng
là một gợi ý để Nhà nước giải quyết mối quan hệ về lợi ích khi tiến hành thu hồi đất
NN. Quan điểm về quyền phát triển có thể chuyển nhượng được đã được đưa ra lần
đầu tiên tại Hoa Kỳ nhằm mục đích để Nhà nước có đất từ các chủ sở hữu đất tư
nhân chuyển sang sử dụng làm các khu vực cần phải bảo vệ vì mục đích môi
trường, tức là Nhà nước giành đất để phục vụ mục đích hoàn toàn không vì lợi
nhuận kinh doanh. Sau đó, mô hình này cũng đã được chính quyền một số thành
phố lớn ở Ấn Độ áp dụng để thu lại đất thuộc sở hữu tư nhân chuyển sang sử dụng
cho các công trình công cộng không vì mục đích lợi nhuận. Các tác giả đã đề cập
đến mô hình này là Ashwin Mahalingam và Aditi Vyas, năm 2011, với bài viết
“Comparative Evaluation of Land Acquisition and Compensation Processes across
the World”; và Ballabh Prasad Acharya, năm 2010, với bài viết “Policy of Land
Acquisition and Development: Analysis of an Indian Experience”, [76], [90]. Các
bài viết này đã thảo luận về quá trình thu hồi đất ở Ấn Độ, Hoa Kỳ và một số quốc
gia trên thế giới, và nhắc tới mô hình Nhà nước tạo cơ chế thực hiện quyền phát
triển có thể chuyển nhượng được, cho phép xây dựng một thị trường chuyển
nhượng các giấy phép xây dựng nhà trên một vị trí đất khác của mình tại phần đất
còn lại sau khi đã bị thu hồi một phần hoặc xây dựng nhà trên một vị trí đất khác
16
của mình tại nơi có nhu cầu xây dựng.
1.2. Tổng quan các nghiên cứu ở trong nước về quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất nông nghiệp
1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò và nội hàm của quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Tại Việt Nam, chính sách chuyển đổi đất đai đã được thực hiện như một phần
của chính sách đổi mới kinh tế. Các tác giả như Nguyễn Đình Bồng, năm 2014, với
ấn phẩm “Mô hình quản lý đất đai hiện đại ở các nước và kinh nghiệm cho Việt
Nam”; Nguyễn Đình Kháng, năm 2008, với ấn phẩm “Cơ sở lý luận và thực tiễn
tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay”; Trương Hữu Quýnh,
năm 2000, với ấn phẩm “Kinh tế và chính sách đất đai ở Việt Nam”; và Nguyễn
Văn Sửu, năm 2010, với ấn phẩm “Đổi mới chính sách đất đai ở Việt Nam: Từ lý
luận đến thực tiễn” đều khẳng định vấn đề ruộng đất không chỉ là vấn đề kinh tế mà
còn thuộc loại vấn đề chính trị và tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các
nước trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Trong đó, các tác giả
đề cập đến quá trình chuyển đổi và thu hồi đất NN như một quá trình tất yếu của sự
phát triển đất nước [9], [34], [48], [50]. Trong quá trình này, nội dung của quản lý
Nhà nước bao gồm việc ban hành và thực hiện các chính sách để điều tiết đất đai.
Đây là những chính sách có tầm quan trọng thiết yếu đối với tăng trưởng bền vững,
quản trị quốc gia hiệu quả, tạo phúc lợi và các cơ hội kinh tế mở ra cho cả người
dân nông thôn và thành thị, đặc biệt là người nghèo.
Tiếp tục khẳng định vai trò và chỉ ra nội hàm của Nhà nước trong quá trình
chuyển đổi đất đai là Sally P.Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, năm
2007, với ấn phẩm “Phát triển NN và chính sách đất đai ở Việt Nam”; nghiên cứu của
WB, năm 2008, “Đất đai trong thời kỳ chuyển đổi - Cải cách và nghèo đói ở nông thôn
Việt Nam” [38], [49]. Đây là những nghiên cứu của các chuyên gia về những thay đổi
kinh tế nhanh chóng đã và đang diễn ra trong đời sống nông thôn Việt Nam theo quan
điểm thị trường thuần túy. Quá trình chuyển đổi đất đai đã tác động lớn đến đến sinh kế
và đời sống của những hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là người nghèo nông thôn, vì
vậy vai trò của quản lý của Nhà nước là rất quan trọng. Nội dung chính của các cuốn
17
sách đề cập đến những thay đổi về chức năng của Nhà nước trong công tác quản lý bao
gồm các nội dung như xây dựng thể chế đất đai, tổ chức thực hiện giao đất và thu hồi
đất trong quá trình chuyển đổi ruộng đất ở Việt Nam.
Cùng với quá trình ĐTH, CNH và HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi và
thu hồi đất NN tăng ở các vùng ven đô của các thành phố lớn tại Việt Nam. Trong
đó, một diện tích lớn đất NN đã được thu hồi và chuyển sang mục đích công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng KĐT mới và cơ sở hạ tầng. Một số nghiên cứu chỉ ra
rằng quá trình thu hồi đất NN là tất yếu đối với sự phát triển và có thể tác động tích
cực và tiêu cực đối với đời sống và sinh kế của người nông dân. Nội dung của Nhà
nước được chỉ ra là cần phải đảm bảo tính hiệu quả của việc chuyển đổi đất đai và
thu hồi đất, đảm bảo đời sống của người nông dân bị thu hồi đất. Một trong số đó là
ấn phẩm “Quản lý và sử dụng đất đai ở nông thôn Miền Bắc nước ta” của tổ chức
CARE Quốc tế tại Việt Nam cùng với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam, năm 2005 [10].
Bên cạnh đó, một nội dung khác của quản lý Nhà nước cũng được đề cập đến
đó là điều tiết lợi ích của các nhóm đối tượng khác nhau trong quá trình thu hồi đất.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (Bộ NN&PTNT), “Xung đột lợi ích giữa các chủ
thể khi thực hiện đền bù giá trị quyền sử dụng đất NN sang đất phi NN ở các dự án,
thực trạng và giải pháp”, năm 2008, của Lê Hồng Cậy đã xem xét quá trình thu hồi
đất ở Việt Nam dưới góc độ liên quan khá nhiều tới các bên liên quan có thể được
coi như các nhóm lợi ích [11]. Tác giả này cho rằng có ba chủ thể chính có lợi ích
liên quan tới quá trình thu hồi đất nói chung, đất NN nói riêng ở Việt Nam. Đó là
người nông dân, nhà đầu tư và chính quyền địa phương. Qua nghiên cứu một số
tình huống thu hồi đất cho các dự án ở Hà Nội, tác giả phát hiện rằng căng thẳng gia
tăng giữa nông dân và nhà đầu tư, bắt nguồn từ nguyên nhân là hệ thống luật pháp
và quy định chưa hoàn thiện. Tuy nhiên có sự ủng hộ của Nhà nước nhiều hơn cho
nhà đầu tư, và nông dân chỉ nhận được mức giá bồi thường theo quy định thấp hơn
nhiều so với giá trị thực của đất và có sự khác biệt cực lớn của giá đất trước và sau
khi chuyển đổi mục đích sử dụng do thu hồi đất. Hệ quả là nông dân luôn là người
thua thiệt trong quá trình thu hồi đất. Trong khi đó, chủ đầu tư được hưởng lợi rất
lớn do giá trị bồi thường đất thấp và giá đất tăng cao sau khi có đầu tư cơ sở hạ tầng
sau khi đất được thu hồi.
18
Quan điểm này cũng được thể hiện trong một số nghiên cứu khác như Phạm
Thị Thủy, năm 2012, trong bài viết “Bảo đảm lợi ích kinh tế lâu dài cho nông dân bị
thu hồi đất phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”; Nguyễn Văn Thắng, năm
2014, trong luận án tiến sỹ “Chuyển đổi mục đích sử dụng đất NN và tác động của
nó đến các nhóm lợi ích ở tỉnh Bắc Ninh”. Các kết quả nghiên cứu này hàm ý rằng
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất do quá trình thu hồi đất NN đem lại lợi ích và
tổn thất khác nhau cho các nhóm đối tượng, tuy nhiên người dân bị thu hồi đất là
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất do bị mất nguồn sinh kế chính. Vì vậy vai trò
của Nhà nước rất quan trọng trong việc ban hành các chính sách bồi thường, hỗ trợ
và chuyển đổi phù hợp cho người nông dân để đảm bảo sinh kế và cuộc sống sau
khi bị thu hồi đất NN [59] [63].
Tượng tự, bài viết “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời
sống, việc làm của nông dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”, của các tác giả
Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà, Hồ Thị Lam Trà, năm 2013, sử dụng
dữ liệu khảo sát định lượng và phương pháp thống kê mô tả, đã phát hiện ra rằng
sau 10 năm kể từ khi bị thu hồi đất ở một số vùng của Hưng Yên, các hộ gia đình
mất đất có sự thay đổi nghề rõ ràng hơn và có thu nhập cao hơn [24]. Các tác giả
khẳng định khi Nhà nước có những chính sách hỗ trợ, tạo việc làm cho người nông
dân bị thu hồi đất NN thì sẽ có tác động tích cực trong dài hạn tới đời sống và lợi
ích của họ.
1.2.2. Các nghiên cứu về thực tiễn quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
Thực tiễn quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN ở Việt Nam rất
được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nổi bật, WB đã thực hiện nhiều nghiên cứu có
liên quan đến quá trình này. Chẳng hạn, ấn phẩm “Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và
chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất và
giải quyết khiếu nại của dân” năm 2010 [40]. Ấn phẩm gồm 03 báo cáo: “Đề xuất
về hoàn thiện chính sách Nhà nước thu hồi đất và cơ chế chuyển dịch đất đai tự
nguyện ở Việt Nam”; “Nghiên cứu về cơ chế xác định giá đất phục vụ bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư tại Việt Nam”; và “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết
khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại Việt Nam”,
đã tổng kết thực trạng các quy định pháp luật của Việt Nam, đánh giá quá trình thực
19
hiện, phân tích một số kinh nghiệm quốc tế. Đây là các nghiên cứu giá trị đưa ra
những khuyến nghị nhằm khắc phục các hạn chế của hệ thống pháp luật về thu hồi
đất của Việt Nam.
Một báo cáo khác cũng của WB “Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến
tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt Nam”, năm 2011, đã tổng hợp số liệu từ
các cuộc khảo sát các công ty và hộ gia đình trên phạm vi toàn quốc cùng với các
nghiên cứu điển hình chi tiết cấp tỉnh [41]. Bản báo cáo khẳng định một số chính
sách hiện tại khiến tham nhũng liên quan đến thu hồi đất đai trở nên một nguồn lợi
lớn một cách bất thường. Trong đó, việc thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đặc biệt là
khi đất được định giá thấp hơn giá trị thị trường tạo ra những khoản lợi nhuận lớn rõ
ràng đối với một số người và điều này có thể góp phần vào tham nhũng. Từ đó, bản
báo cáo cho rằng, để giảm tham nhũng thì việc củng cố trách nhiệm giải trình của
các cơ quan Nhà nước là yêu cầu cấp bách.
Tương tự, trong báo cáo “Khảo sát tình hình Công khai Thông tin trong
Quản lý Đất đai” [39], WB đã đánh giá một cách hệ thống các quy định về tính
minh bạch trong quản lý thu hồi đất được thực thi trên thực tế như thế nào. Bản báo
cáo khảo sát trên cho rằng việc nâng cao tính minh bạch quản lý thu hồi đất sẽ khiến
tham nhũng khó che dấu hơn, và sẽ giúp cho người dân và các doanh nghiệp có
thêm niềm tin vào tính liêm chính của các quyết định của Nhà nước có ảnh hưởng
đến họ.
Ngoài ra có các tác giả nước ngoài nhưng lại nghiên cứu rất sâu về quản lý,
sử dụng, chuyển đổi và thu hồi đất NN ở Việt Nam. Chẳng hạn, Benedict J Tria
Kerkvlite với bài viết “Agricultural land in Vietnam: markets tempered by family,
community and socialist practices”, năm 2005; Martin Ravallion & Dominique
Walle với bài viết “Land Allocation in Vietnam’s Agrarian Transition”, năm 2006.
Hai tác giả này đã khái quát thực trạng quản lý chuyển đổi và thu hồi đất NN trong
thực tế, để thấy những thành công và những vấn đề nảy sinh sau khi Việt Nam tiến
hành đổi mới [89], [92].
Ngoài ra, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học tìm hiểu và đánh giá về thực
trạng quản lý Nhà nước về đất đai và thu hồi đất đã được các Bộ nghành thực hiện
rất công phu. Một nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ TN&MT là đề tài “Nghiên
cứu, đánh giá ảnh hưởng của quá trình ĐTH đến việc quản lý và sử dụng đất”, do
Đào Thị Thanh Lam thực hiện, năm 2013, cho thấy thu hồi đất để phục vụ cho quá
20
trình ĐTH ảnh hưởng đến cơ cấu sử dụng đất, chuyển dịch theo hướng sản xuất
hàng hóa, diện tích đất NN giảm nhanh, đặc biệt là diện tích đất trồng lúa. Các KĐT
mới hình thành, tỷ lệ cơ cấu ngành nghề theo hướng CÔNG NGHIỆP dịch vụ tăng,
tạo nguồn thu quan trọng đóng góp vào ngân sách Nhà nước, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn. Tác giả đưa ra 03 nhóm giải pháp về chính
sách, kỹ thuật và về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về
đất đai, hiệu quả sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong quá trình
ĐTH [36].
Một công trình khác là đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất hoàn thiện
trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
nhằm góp phần cải cách thủ tục hành chính”, do tác giả Nguyễn Xuân Trọng, năm
2014, bộ TN&MT thực hiện đã đề ra 05 yêu cầu để đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn
thiện trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất góp phần cải cách thủ tục hành chính [65]. Đặc biệt, tác giả đề xuất Nhà nước
thay đổi trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất lồng ghép với thủ tục đầu tư, xây dựng liên quan đối với trường hợp Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, phát triển kinh tế.
Tiếp nữa là đề tài cấp bộ của Bộ NN&PTNT, “Nghiên cứu thực trạng và đề
xuất các giải pháp quản lý, sử dụng đất NN trong khu dân cư vùng Đồng bằng Sông
Hồng”, do Trịnh Văn Toàn thực hiện, năm 2012. Đề tài chỉ ra những tồn tại bất cập
trong việc quy hoạch sử dụng đất và công tác bồi thường thu hồi đất tại vùng Đồng
bằng Sông Hồng [55]. Những bất cập này dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện
đông người về đất đai có xu hướng ngày gia tăng gây mất an ninh, trật tự xã hội, vì
vậy, Nhà nước cần nâng cao chất lượng quy hoạch và công tác GPMB.
Nguyễn Thế Chinh, với đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ chế hai giá đất
(giá do Nhà nước quy định, giá thị trường) đối với việc giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất và đề xuất giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định tiệm cận với giá thị
trường”, Bộ TN&MT, năm 2012, thì đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ
chế hai giá đất, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về cơ chế xây dựng và áp
dụng giá đất trong việc giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất. Tác phẩm cũng đưa ra
21
những đánh giá ảnh hưởng của cơ chế hai giá đất trong quá trình thu hồi đất và đề
xuất các giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá thị trường trong
điều kiện cụ thể ở Việt Nam [21].
Bên cạnh đó, nhiều tác giả đã nghiên cứu sâu về việc ban hành và thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất NN ở Việt
Nam. Chẳng hạn như Nguyễn Xuân Anh, năm 2011, trong ấn phẩm “Pháp luật về
bồi thường thiệt hại, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi”, đã khẳng định thu hồi
đất không đơn giản chỉ là việc làm chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân đối với một diện tích đất NN nhất định, và chỉ khi nào Nhà nước giải
quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể này thì việc thu hồi đất mới không tiềm ẩn
nguy cơ khiếu kiện, tranh chấp kéo dài gây mất ổn định chính trị, xã hội [1]. Tác giả
đã hệ thống về những cơ sở pháp lý của việc Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất
NN. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhằm đáp ứng có
hiệu quả các yêu cầu do thực tiễn cuộc sống đặt ra, trong quá trình thực thi pháp
luật về bồi thường khi thu hồi đất NN.
Hay, tác giả Đào Trung Chính, năm 2014 cũng phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong Luận án tiến sỹ
“Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư”. Tác giả chỉ ra những hạn chế của pháp luật và ảnh hưởng đến quá
trình thu hồi đất, và đưa ra đề xuất đổi mới và hoàn thiện pháp luật [22]. Ngoài ra,
Đặng Hùng Võ, Đào Trung Chính, Nguyễn Thanh Trà, năm 2013, thực hiện bài viết
“Đánh giá thực tiễn triển khai công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
theo quy định của pháp luật”, dựa trên số liệu điều tra một số tỉnh và thành phố
cùng với các đối tượng liên quan đến hoạt động thu hồi đất, đã đánh giá việc thực
hiện các quy định về chuyển đổi đất đai, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Nhóm tác giả đã chỉ ra những hạn chế của công tác thu hồi đất và đưa ra đề xuất là
cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư [74].
Ngoài ra, còn có Nguyễn Mạnh Hải đã thực hiện đề tài “Vấn đề bồi thường
trong thu hồi đất NN ở Việt Nam: thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện”,
năm 2009, đã phân tích thực trạng chính sách và áp dụng chính sách bồi thường thu
hồi đất NN và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường thu hồi đất
NN ở Việt Nam. Một tác giả khác là Nguyễn Lệ Hoa, năm 2011, đã thực hiện đề tài
22
cấp Bộ, Bộ NN&PTNT, “Đánh giá thực trạng thu hồi và đền bù đất NN: Nghiên
cứu tình huống tại Bắc Ninh, Quảng Ngãi và Bình Dương”. Tác giả đã phân tích
thực trạng, đánh giá việc thực hiện chính sách bồi dưỡng, hỗ trợ khi thu hồi đất NN
trên địa bàn ba tỉnh trên, và đưa ra các giải pháp điều chỉnh [23], [25].
1.2.3. Các nghiên cứu về thực tiễn quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Có nhiều nghiên cứu tình huống tại những vùng ngoại ô Hà Nội cho thấy bức
tranh tổng thể thu hồi đất NN, cùng những thành công và những bất cập còn tồn tại
trong công tác quản lý Nhà nước khi thực hiện chính sách thu hồi đất NN.
Sun Sheng Han và Vũ Kim Trang, năm 2008, trong bài viết “Land
acquisition in transitional Hanoi, Vietnam”, đã nghiên cứu một ngôi làng ven đô
của Hà Nội, chỉ ra trong giai đoạn 1998 - 2007 đã có hai phần ba diện tích đất NN
bị chuyển đổi thành đất ở và xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, đã tác động rất lớn đến
cuộc sống người dân. Từ đó các tác giả đề xuất Nhà nước cần có những chính sách
hỗ trợ người dân [84].
Đào Trung Chính, năm 2014, trong tác phẩm “Nghiên cứu thực trạng và đề
xuất đổi mới pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, đã sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học ở những vùng ven đô của một số thành phố lớn,
trong đó có Hà Nội - nơi hầu hết đất NN được thu hồi để phục vụ cho các KCN và
đất ở của khu dân cư, đã chỉ ra rất nhiều bất cập, chưa hợp lý trong các quy định
pháp luật về thu hồi đất, làm cản trở quá trình chuyển đổi đất đai. Từ đó, tác giả đã
đưa ra nhiều đề xuất sửa đổi những quy định pháp luật này [22].
Đỗ Thị Ngân, năm 2006, trong công trình nghiên cứu “Loss of land and
farmers’ livelihood: A case study in Tho Da village, Kim No commune, Dong Anh
district, Hanoi, Vietnam”, cũng xem xét tình hình thu hồi đất NN ở vùng ven đô thị
lớn ở Hà Nội, chỉ ra nhiều bất cập trong bồi thường cho người dân, và bất cập lớn
nhất là chưa đảm bảo được đời sống và việc làm cho người dân sau khi bị mất đất.
Nếu như thành công của công tác thu hồi đất là đã giành được đất cho quá trình phát
triển, đem lại thu nhập cao hơn so với các công việc đồng áng cho nhiều hộ dân, thì
một số người mất đất khác, đặc biệt là những người với trình độ giáo dục thấp và
lớn tuổi trở nên thất nghiệp và bị bần cùng hóa về thu nhập [80].
Tác giả Nguyễn Chí Mỳ, trong đề tài nghiên cứu khoa học “Vấn đề hậu
23
GPMB ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp”, năm 2009, đã nghiên cứu một số vấn
đề chung về GPMB và vấn đề hậu GPMB, kinh nghiệm quốc tế và trong nước về
GPMB [37]. Tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá thực trạng vấn đề hậu
GPBM trên địa bàn Hà Nội thời điểm năm 2008, và nghiên cứu đề xuất các giải pháp
khả thi nhằm hạn chế và chủ động giải quyết những vấn đề bất cập hậu GPMB này.
Tác giả Nguyễn Ngọc Tiệp, trong nghiên cứu ”Đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chính sách hỗ trợ đất dịch vụ khi thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội”, năm
2010, cũng đã vẽ nên bức tranh về thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ đất dịch
vụ khi thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
chính sách [51].
Vấn đề giải quyết việc làm cho người nông dân sau khi bị thu hồi đất trên địa
bàn Hà Nội cũng được nhiều tác giả quan tâm. Phạm Thị Thủy, năm 2014, trong
Luận án tiến sỹ, “Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất ở Hà Nội”, khẳng định vẫn
thiếu các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, tạo việc làm cho người dân sau khi mất
đất. Tác giả cho rằng lâu nay, việc bảo đảm lợi ích kinh tế cho người nông dân bị
thu hồi đất để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH thường mới chỉ được chú trọng nhiều
hơn đến bồi thường bằng tiền [64]. Cho dù, việc bồi thường này là hợp lý thì vẫn
chưa đủ, bởi vì lợi ích kinh tế của người nông dân bị thu hồi đất không chỉ thể hiện
ở số tiền họ được bồi thường, mà còn là những điều kiện vật chất cụ thể được tạo ra
sau khi thu hồi đất để họ tiếp tục sản xuất kinh doanh ổn định đời sống - đây là lợi
ích kinh tế lâu dài, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội. Nguyễn Văn Thắng, năm
2014, “Chính sách việc làm cho thanh niên nông thôn vùng thu hồi đất của Hà Nội”
đã đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân khi thu hồi đất
trên địa bàn Hà Nội [59]. Tác giả chỉ ra những kết quả đạt được và những mặt còn
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và
giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm nhằm ổn định đời sống lâu dài cho nông
dân khi thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội.
Các tác giả Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị Hằng, năm 2009, trong tác phẩm
“Giải quyết việc làm cho lao động NN trong quá trình ĐTH”, đã phân tích thực
trạng vấn đề cần giải quyết của chính sách việc làm cho thanh niên nông thôn vùng
24
thu hồi đất ở Hà Nội. Các tác giả đã đánh giá những tác động tích cực, tiêu cực,
nguyên nhân của các vấn đề chính sách, và đề xuất quan điểm, định hướng và một
số giải pháp Nhà nước thực hiện để giải quyết các vấn đề đó [60].
Một nghiên cứu sử dụng phương pháp kinh tế lượng của Trần Quang Tuyến
và cộng sự, năm 2014, “Đất đai, việc làm phi nông nghiệp và mức sống hộ gia đình:
Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô Hà Nội”, đã chỉ ra hạn chế trong
giải quyết việc làm cho người dân sau thu hồi đất, và đề xuất một vài hàm ý chính
sách cho Nhà nước nhằm nâng cao thu nhập cho hộ gia đình khi đất ven đô ngày
càng thu hẹp do quá trình ĐTH và CNH [56].
Tác giả Trần Thị Lan, năm 2013, thì tìm hiểu quá trình thu hồi đất NN dưới
góc độ quan hệ lợi ích trong Luận án tiến sỹ của mình “Quan hệ lợi ích kinh tế trong
thu hồi đất của nông dân để xây dựng KCN và KĐT mới ở Hà Nội” [35]. Tác giả
trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của
nông dân để xây dựng các KCN và KĐT mới, phân tích thực trạng, quan điểm và giải
pháp mà Nhà nước cần thực hiện để giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế trong
thu hồi đất của nông dân để xây dựng KCN và KĐT mới trên địa bàn Hà Nội.
1.3. Đánh giá khái quát các nghiên cứu
1.3.1. Sự kế thừa các nghiên cứu trước
1.3.1.1. Sự kế thừa các nghiên cứu ở nước ngoài
a. Cơ sở l thu ết về u n l nhà nước trong uá tr nh thu h i đất nông
nghiệp
Việc tổng quan các nghiên cứu ngoài nước giúp luận án có thể kế thừa được
cơ sở lý thuyết cùng với những quan điểm, cách tiếp cận phong phú về quản lý Nhà
nước đối với thu hồi đất NN.
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài đã đề cập và phân tích về cơ sở
lý luận về thu hồi đất và quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất khá phong
phú. Các công trình nghiên cứu cho thấy thu hồi đất NN là tất yếu của quá trình
phát triển, và có tác động tới các đối tượng khác nhau đã được nghiên cứu ở một
số khía cạnh khác nhau. Quá trình thu hồi đất NN liên quan tới ba nhóm chủ thể
chính là người nông dân, nhà đầu tư và Nhà nước hay cộng đồng địa phương.
Các nghiên cứu tập trung nhiều nhất tới người nông dân. Điều này có thể được lý
giải rằng nông dân là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương hơn cả trong quá trình
25
thu hồi đất NN. Người nông dân thường bị thua thiệt hơn trong quá trình này do
mức bồi thường và hỗ trợ rất thấp so với giá thị trường của đất đó sau khi được
chuyển mục đích sử dụng.
Từ đó, các nghiên cứu đã giải thích sự cần thiết và chỉ ra nội hàm của quản lý
Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN. Vai trò của Nhà nước được thể hiện thông
qua việc định hướng chiến lược cho sự thay đổi và dịch chuyển đất đai và thu hồi
đất NN cho phù hợp từng giai đoạn phát kinh tế triển đất nước. Nhà nước cần tạo
tạo cơ sở thuận lợi cho các đối tượng tham gia, định hướng, hướng dẫn hành động
của các đối tượng này; Nhà nước cũng cần ban hành các chính sách cũng như các
giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình thu hồi đất NN và chuyển dịch đất đai
diễn ra thuận lợi. Ngoài ra, Nhà nước còn tổ chức quản lý quá trình thu hồi đất, điều
tiết hoạt động của các đối tượng có liên quan, điều chỉnh các mối quan hệ trong quá
trình thu hồi đất NN. Nhiều nghiên cứu chỉ ra, trong quá trình thu hồi đất, Nhà nước
ngoài phát huy hiệu quả sử dụng đất, còn cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ
thể có liên quan, đặc biệt là người nông dân, đối tượng dễ bị tổn thương nhất.
b. Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước về u n l nhà nước trong quá
tr nh thu h i đất nông nghiệp
Các nghiên cứu ở ngoài nước đã cung cấp thực trạng quản lý thu hồi đất NN
chuyển sang mục đích phi NN gắn với sử dụng hiệu quả tài nguyên đất và phát triển
kinh tế - xã hội tại nhiều quốc gia, ví dụ như Hàn Quốc, Australia, Trung Quốc, Ấn
Độ, các nước khu vực Đông Nam Á và một số nước khác. Các tác giả đã phân tích
về cách thức và phương pháp khác nhau của các nước này về quản lý thu hồi đất
NN của Nhà nước trong việc ban hành chính sách, pháp luật, và tổ chức thực hiện
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất.
Các nghiên cứu ở nước ngoài còn đưa ra các quan điểm và các cách tiếp cận
hiện đại về cách thức quản lý Nhà nước đối với đất đai và thu hồi đất. Trong đó,
quan điểm “quản trị Nhà nước tốt” về đất đai và thu hồi đất là sự thay đổi lớn về tư
duy, nhận thức về quản lý Nhà nước. Với sự thay đổi cơ bản về vai trò và chức
năng quản lý của Nhà nước trong quá trình thu hồi đất, mô hình quản trị Nhà nước
tốt đã trở thành xu hướng đổi mới công tác quản lý Nhà nước ở rất nhiều các quốc
gia để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác thu hồi đất. Ngoài ra, các
cách tiếp cận về quản lý Nhà nước về thu hồi đất NN theo nguyên tắc thị trường
26
cũng là những xu hướng của nhiều nước. Cơ chế “chia sẻ lợi ích”, cơ chế “góp đất”,
và cơ chế phát triển “quyền phát triển có thể chuyển nhượng được” đang là những
mô hình được nhiều quốc gia tiếp nhận và thực hiện.
Luận án có thể kế thừa được kinh nghiệm thực tiễn phong phú, bao gồm cả
những bài học thành công cũng như thất bại về quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN trên thế giới. Đây là những bài học quý báu cần được nghiên cứu để
làm cơ sở đề xuất hướng đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
1.3.1.2. Sự kế thừa các nghiên cứu ở trong nước
a. Thực trạng u n l Nhà nước trong uá tr nh thu h i đất nông nghiệp của
Việt Nam và Hà Nội
Các nghiên cứu trong nước đã góp phần làm rõ bản chất và nội dung của
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN; chỉ ra được vai trò, chức
năng, và các công cụ quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất này, đã và đang
tạo ra một sự chuyển biến quan trọng trong quan hệ đất đai, góp phần to lớn vào
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở khu vực nông thôn.
Nhóm nghiên cứu trong nước cũng đã cung cấp bức tranh tổng thể về thực
trạng thu hồi đất, phân tích tác động của quá trình này đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Hà Nội và các địa phương khác trong cả nước. Các nghiên cứu này đã
phân tích và đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong việc ban hành và thực hiện
một số chính sách liên quan đến thu hồi đất NN như cơ chế xác định giá đất; chính
sách bồi thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất; chính sách an sinh xã hội,
giải quyết việc làm cho nông dân và thanh niên nông thôn. Những thành công và
hạn chế của công tác quản lý này, những bất cập, bức xúc của người dân, dẫn đến
khiếu nại, khiếu kiện kéo dài đã được chỉ ra.
Ngoài ra, rất nhiều giải pháp đã được các tác giả đưa ra trong các nghiên cứu
này, bao gồm các giải pháp thay đổi về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính;
các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện. Các nghiên
cứu cũng đề cập tới những bất cập và mâu thuẫn về lợi ích của các chủ thể có liên
quan trong quá trình thu hồi đất NN, cùng với những khuyến nghị để giải quyết hài
27
hòa mối quan hệ lợi ích này.
b. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN khá đa dạng, bao gồm cả những phương pháp định tính,
định lượng, và kết hợp cả định tính và định lượng. Hầu hết các công trình đều sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, và so sánh để thực hiện nghiên cứu. Một số
tác giả sử dụng phân tích kinh tế lượng, chạy mô hình hồi quy để đưa ra các kết
luận. Phương pháp điều tra xã hội học được các tác giả ưu tiên sử dụng để có thể
tiếp cận với người dân và thu thập những căn cứ và bằng chứng thực tiễn cần thiết.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Có thể thấy, cho đến nay, đã có rất nhiều những nghiên cứu đề cập đến quản
lý Nhà nước về đất đai và thu hồi đất NN ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói
riêng. Qua đó có thể thấy liên quan tới lĩnh vực nghiên cứu của luận án, đã có tương
đối nhiều nghiên cứu, nhưng không phải là không còn những vấn đề chưa được
nghiên cứu, đánh giá trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn.
Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng lâu nay rất chú trọng đến nâng
cao năng lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai, nhất là thu hồi đất NN - lĩnh
vực nảy sinh nhiều khiếu kiện, khiếu nại của người dân nhất, nhưng lại chưa có một
cách tiếp cận tiên tiến về quản lý Nhà nước. Các nước trên thế giới, hầu hết đều lựa
chọn và tiếp nhận những quan điểm và các cách tiếp cận quản lý Nhà nước và quản
lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
nước mình. Vì vậy, ở Việt Nam, cũng như ở Hà Nội nói riêng, đang rất cần những
nghiên cứu về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN tiếp nhận những
quan điểm và cách tiếp cận hiện đại.
Khoảng trống lý thuyết có thể thấy là:
- Vẫn còn vắng bóng những nghiên cứu về quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội đứng trên góc độ “quản trị Nhà nước tốt” và
những đặc trưng cơ bản của mô hình này để phân tích. Đây là quan điểm mới về
quản lý Nhà nước, là cơ sở để thay đổi nhận thức về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN, dẫn đến những thay đổi quan trọng về vai trò, chức năng, các
28
phương pháp quản lý và can thiệp của Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN.
- Các cách tiếp cận về cách thức quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất
NN theo hướng thị trường như “chia sẻ lợi ích”, “góp đất”, phát triển “quyền phát
triển có thể chuyển nhượng được” đã có những công trình nghiên cứu và đề cập tới.
Tuy nhiên, áp dụng những cách tiếp cận này vào công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội thì chưa được nghiên cứu nhiều. Đây
hoặc là những quan điểm và cách tiếp cận của các nền kinh tế phát triển, hoặc được
áp dụng ở những nước có điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội không giống với Việt
Nam, vì vậy cần phải đánh giá khả năng phù hợp của các cách tiếp cận này với hoàn
cảnh của Việt Nam và đặc biệt là điều kiện của Hà Nội. Đây cũng là khoảng trống
về lý thuyết cần tiếp tục nghiên cứu.
- Đã có nhiều công trình phân tích thực trạng, đánh giá, chỉ ra những thành
công và hạn chế của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên
địa bàn Hà Nội, đề cập tới những bất cập, bức xúc của người dân, nguyên nhân của
khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những công trình phân tích
và đánh giá thực tiễn công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên
địa bàn Hà Nội mà sử dụng hệ thống tiêu chí đánh giá dựa trên quan điểm “quản trị
Nhà nước tốt”. Nhất thiết phải xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá khoa học,
dựa trên quan điểm “quản trị Nhà nước tốt” để có thể phân tích và đánh giá thực
trạng, thấy được những thành công và hạn chế của công tác quản lý này trong hiện
tại, và từ đó mới có cơ sở đưa ra các giải pháp đổi mới công tác quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội trong tương lai.
- Những giải pháp và khuyến nghị để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý Nhà nước, cũng như giải quyết các bất cập, mâu thuẫn về lợi ích trong quá
trình thu hồi đất NN đã được nhiều tác giả đề xuất. Tuy nhiên, việc áp dụng và hiệu
quả thực hiện của những giải pháp này trong thực tế chưa cao. Cần phải có những
giải pháp hướng tới sự đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN để giải quyết được cốt lõi của những yếu kém của công tác quản lý này
29
trong những năm tới.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN có thể thấy đây là chủ đề thu hút được sự chú ý của nhiều học
giả cả ở trong và ngoài nước. Việc tổng quan các công trình nghiên cứu giúp cho
luận án kế thừa được cơ sở lý thuyết và thực tiễn vô cùng phong phú. Đó là
những vấn đề lý thuyết về vai trò, chức năng của quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN, các quan điểm về các cách tiếp cận quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN và cách thức quản lý của các nước khác nhau trong quá
trình thu hồi đất NN. Ngoài ra, việc tổng quan cũng giúp thấy được bức tranh
toàn cảnh và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN của Hà Nội, các địa phương và nước ngoài. Tuy nhiên, để đổi mới công
tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội vẫn còn
có khoảng trống để luận án có thể tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Đó là cần tiếp tục
nghiên cứu và đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất
NN trên địa bàn Hà Nội đứng trên quan điểm và cách tiếp cận về quản trị Nhà
nước tốt, với những tiêu chí khoa học dựa trên quan điểm này, từ đó thấy được
những điểm mạnh và điểm yếu của công tác quản lý này, và đề xuất phương
30
hướng và giải pháp đổi mới trong tương lai.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
2.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp
2.1.1. Khái quát về quá trình thu hồi đất nông nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thu h i đất nông nghiệp
Thu h i là việc lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp phát ra hoặc cái bị người khác lấy [75].
Đối với đất đai, tùy thuộc vào chế độ sở hữu đất đai ở từng quốc gia, nhưng
về cơ bản, với chế độ sở hữu nào thì đất đai cũng đều do Nhà nước là đại diện quản
lý. FAO đưa ra khái niệm thu h i đất bắt buộc, là việc sử dụng quyền lực của Nhà
nước để có được quyền tư nhân về đất đai mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu
đất đai đó vì mục đích xã hội [82]. Ở Việt Nam, có khái niệm Nhà nước thu h i đất,
là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước
trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về
đất đai [45].
Dựa trên những luận giải trên, luận án đưa ra khái niệm thu h i đất NN, có
thể hiểu, là việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để lấy lại quyền sử dụng đối
với diện tích đất NN của các chủ thể sử dụng đất (có thể là các cá nhân, tổ chức, hộ
gia đình, cộng đồng dân cư) đã được Nhà nước trao quyền sử dụng trước đó, nhằm
phục vụ cho mục đích quốc gia, công cộng của đất nước.
Thu hồi đất NN là cần thiết để phục vụ cho xã hội, phát triển kinh tế, và bảo
vệ môi trường, như xây dựng đường bộ, đường sắt, bến cảng và sân bay; phục vụ
cho bệnh viện và trường học; cho các cơ sở điện, nước và nước thải; và cho bảo vệ
chống lũ lụt và bảo vệ nguồn nước và môi trường v.v. Tuy nhiên khi quyết định thu
hồi đất NN, đòi hỏi phải tìm được sự cân bằng giữa một mặt là phục vụ cho nhu cầu
công của xã hội, và mặt khác là bảo đảm quyền sử dụng và bảo vệ quyền hợp pháp
của người sử dụng đất. Vì vậy, theo FAO, các quốc gia chỉ nên sử dụng quyền lực
này rất hạn chế, khi thật cần thiết vì lợi ích của xã hội, mục đích công cộng, hoặc vì
lợi ích công cộng [82]. Thu hồi đất NN có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau ở những quốc gia khác nhau. Nhà nước có thể dựa vào hoặc không dựa
31
vào thị trường để thu hồi đất NN, nhưng một số quốc gia yêu cầu Nhà nước cố gắng
“mua” lại đất trước khi sử dụng sức mạnh để cưỡng chế thu hồi.
Ở Việt Nam, về mặt hình thức, thu hồi đất NN, là quyết định hành chính,
được thể hiện dưới hình thức là một văn bản hành chính của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Về mặt nội dung, thu hồi đất NN là biện pháp pháp lý quan trọng nhằm
thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai - là quyền sở hữu toàn dân đối
với đất đai mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu - sử dụng quyền lực Nhà
nước làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai. Trong đó, Nhà nước sử dụng quyền
lực để thu lại quyền sử dụng đối với diện tích đất NN đã được giao cho cá nhân, tổ
chức, nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng - an ninh, hoặc phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
2.1.1.2. Nội dung của quá trình thu h i đất nông nghiệp
Quá trình thu hồi đất NN được xem xét trong luận án bao gồm hai quá trình
cụ thể là chuyển quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất.
a. Quá tr nh chu ển mục đích sử dụng đất
Trong đó, đất đai được chuyển từ mục đích NN này sang mục đích NN khác,
hoặc chuyển từ mục đích NN sang sử dụng cho mục đích phi NN. Việc thay đổi
mục đích sử dụng đất này phải theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, được phê
duyệt bởi cơ quan Nhà nước. Đất NN là cơ sở tự nhiên cần thiết để tạo ra các nông
sản duy trì sự tồn tại của con người, tuy nhiên, đất NN lại có giới hạn về mặt số
lượng. Chính mâu thuẫn giữa nhu cầu về nông sản ngày càng tăng do sự gia tăng
của dân số, với quỹ đất NN ngày càng giảm do yêu cầu sử dụng cho các ngành phi
NN, đã khiến nhiều quốc gia phải hạn chế thu hồi để chuyển mục đích sử dụng đất
NN sang phi NN.
Hầu hết các quốc gia đều quy định chặt chẽ về các trường hợp thu hồi đất
NN. Trong đó, đất NN chỉ được thu hồi trong trường hợp thật cần thiết để sử dụng
cho mục đích công cộng, cho mục đích sử dụng công cộng, và vì lợi ích công cộng.
Theo khảo sát của FAO, ở cả các nước phát triển và đang phát triển, cho thấy các
mục đích thường được chấp nhận để thu hồi đất NN là: (i) Phát triển mạng lưới giao
thông (gồm xây dựng đường bộ, kênh rạch, đường cao tốc, đường sắt, cầu, cầu cảng
và sân bay); (ii) Xây dựng các công trình công cộng (gồm trường học, thư viện,
bệnh viện, nhà máy, tôn giáo tổ chức và nhà ở công cộng); (iii) Xây dựng các tiện
32
ích công cộng về nước, nước thải, điện, ga, thông tin liên lạc, thủy lợi và thoát
nước, đập và hồ chứa; (iv) Xây dựng công viên công cộng, sân chơi, vườn, cơ sở
thể thao và nghĩa trang; (v) Mục đích quốc phòng [82].
Ở nước ta, để đáp ứng nhu cầu to lớn phát triển đất nước, đất NN là nguồn
đất chính cung cấp đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước chuyển từ
nền kinh tế NN sang nền kinh tế công nghiệp. Để phục vụ cho mục tiêu phát triển
này, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về các trường hợp thu hồi đất. Trong đó,
Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
trong các trường hợp sau đây: “(i) Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do
Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất; (ii) Thực hiện các dự án
do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất, bao
gồm Dự án xây dựng KCN, KCX, KCNC, khu kinh tế; KĐT mới, dự án đầu tư
bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Dự án xây dựng trụ sở cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; trụ sở của
tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; công trình di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng
niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc gia; Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật cấp quốc gia gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông
tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt; kho dự trữ quốc gia; công trình
thu gom, xử lý chất thải; và (iii) Thực hiện các dự án do HĐND cấp tỉnh chấp thuận
mà phải thu hồi đất bao gồm: Dự án xây dựng trụ sở cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm,
công trình sự nghiệp công cấp địa phương; Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
của địa phương gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin
liên lạc, chiếu sáng đô thị; công trình thu gom, xử lý chất thải; Dự án xây dựng
công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở
cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây dựng công trình cơ sở tôn giáo; khu
văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa,
nhà tang lễ, nhà hỏa táng; Dự án xây dựng KĐT mới, khu dân cư nông thôn mới;
chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến
33
nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng; Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, trừ
khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại
các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản” [45].
Có thể thấy, theo quy định của Luật Đất đai, các trường hợp Nhà nước thu
hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như trên là khá
rộng. Vì vậy, luận án, dựa trên khả năng tạo ra lợi nhuận kinh tế của các dự án,
phân chia các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng ở trên thành 02 nhóm dự án khác nhau. Đó là:
(i) Nhóm các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng phi kinh tế, không gắn với hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Có thể
liệt kê, đó là các công trình công cộng thiết yếu của xã hội, từ nguồn vốn ODA,
ngân sách Nhà nước hoặc nguồn vốn xã hội hóa, và được sử dụng công cộng,
như đường xá, đường sắt, bến cảng và sân bay; bệnh viện và trường học, trụ sở
cơ quan, các công trình điện, nước và nước thải; các công trình bảo vệ chống lại
lũ lụt và bảo vệ môi trường v.v.
(ii) Nhóm các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
có kèm hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Đó là các dự án do các nhà đầu tư
xây dựng và quản lý, như dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông theo hình thức
Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), xây dựng KĐT mới, KCN, KCX,
đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh, làm dịch vụ v.v.
b. Quá trình chuyển u ền sử dụng đất
Các quốc gia khác nhau, với chế độ sở hữu đất đai khác nhau, quá trình thu
hồi đất NN có thể làm thay đổi quyền sở hữu đất theo các chủ thể khác nhau. Theo
quy định của pháp luật hiện hành Việt Nam thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người
sử dụng đất chỉ được thực hiện các quyền năng sau khi đã được Nhà nước công
nhận thông qua hoạt động cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, quá
trình thu hồi đất NN, về bản chất là quá trình chuyển quyền sử dụng đất từ đối
tượng này sang đối tượng sử dụng khác. Trong đó, Nhà nước, với tư cách là đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai với các cá
nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư sử dụng đất NN; đồng thời cũng thiết lập mối quan
hệ mới giữa Nhà nước với các cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư khác. Hiệu lực
34
của các quyết định hành chính giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất
đã được cơ quan Nhà nước ban hành từ trước cho người bị thu hồi đất sẽ bị chấm
dứt và được chuyển cho đối tượng sử dụng khác. Tương tự, tất cả các quyền, nghĩa
vụ phát sinh của đối tượng sử dụng đất đã được ghi nhận sau khi được giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất cũng được chuyển giao từ các cá nhân, hộ
gia đình nông dân, tổ chức, cộng đồng dân cư sang các tổ chức, cá nhân, và cộng
đồng khác.
Đối với các dự án khác nhau thì quyền sử dụng đất sẽ được chuyển cho các
đối tượng khác nhau.
(i) Đối với nhóm các dự án thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế -
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, phi kinh tế, phi lợi nhuận, không gắn liền với
hoạt động kinh doanh, ở đó lợi ích công cộng là hiện hữu, mà khó có thể tìm ra lợi
ích của một người hay một nhóm cá thể nhỏ lẻ nào. Trong trường hợp này, quyền
sử dụng đất của các cá nhân, hộ gia đình nông dân, tổ chức, hoặc cộng đồng sẽ
được chuyển cho cộng đồng, sử dụng vì mục đích công cộng. Trong đó, Nhà nước
với tư cách là đại diện chủ sở hữu, đồng thời là người quản lý nền kinh tế và xã hội,
có trách nhiệm bảo vệ cho lợi ích công, lợi ích quốc gia. Nhà nước có quyền thu hồi
đất của cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư nếu việc đó thực sự cần thiết cho lợi ích
công hay vì nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
(ii) Đối với nhóm các dự án thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế -
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà có kèm mục tiêu kinh doanh, thu lợi nhuận,
thì việc đánh giá tính “công” của lợi ích trở nên khó khăn hơn. Nhà nước tiến hành
thu hồi đất của hộ gia đình nông dân, tổ chức, cộng đồng sử dụng đất NN, sau đó
chuyển cho các cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư, và mang lại lợi ích trực tiếp cho các
nhóm cá thể cụ thể trong xã hội. Đất đai sau khi được đầu tư, xây dựng, giá trị sẽ
tăng lên và được giao dịch trên thị trường bất động sản. Cho dù quá trình thu hồi đất
này là phục vụ cho cộng đồng, thì lợi ích trực tiếp rơi vào tay một số chủ thể là
nguy cơ có thể cảm nhận được. Trong trường hợp này, nếu tính “công” của việc thu
hồi đất bị mập mờ, thì yếu tố “lợi ích tư” sẽ hiển hiện.
2.1.2. Khái quát về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm u n l Nhà nước trong uá tr nh thu h i đất
nông nghiệp
35
a. Quan điểm từ pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, trong Luật Đất đai năm 2013 có khái niệm qu n l Nhà nước về
đất đai. Đây là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
thông qua các cơ chế quản lý, các công cụ quản lý thích hợp, tác động đến hành vi,
hoạt động của người sử dụng đất và các quan hệ đất đai trong xã hội, thực hiện và
bảo vệ các quyền hợp pháp đối với đất đai nhằm mục tiêu sử dụng đất tiết kiệm,
hiệu quả và bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương [8].
Quản lý Nhà nước về đất đai thường bao gồm các hoạt động quản lý tình
hình sử dụng đất; phân phối và phân phối lại quỹ đất; kiểm tra giám sát quá trình
quản lý và sử dụng đất; điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
Nhà nước có quyền tối cao về chiếm hữu toàn bộ quỹ đất đai, nhưng lại
không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Trong quá trình
phát triển đất nước, ở từng giai đoạn cụ thể, nhu cầu sử dụng đất đai của các ngành,
các cơ quan, các tổ chức cũng khác nhau. Nhà nước với vai trò là chủ quản lý đất
đai thực hiện phân phối đất đai cho các chủ sử dụng, Nhà nước còn thực hiện phân
phối lại quỹ đất đai cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội. Để thực
hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai, Nhà nước đã thực hiện việc chuyển
quyền sử dụng đất giữa các chủ thể khác nhau, thực hiện việc điều chỉnh mục đích
sử dụng giữa các loại đất, giữa các vùng kinh tế. Vì vậy, Nhà nước quy hoạch và kế
hoạch hoá việc sử dụng đất đai, quản lý việc lập quy hoạch, kế hoạch và thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đó. Đồng thời, Nhà nước còn quản lý việc giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; quản lý việc
chuyển quyền sử dụng đất, thu hồi đất.
Nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai được quy định tại Điều
22 Luật Đất đai năm 2013 bao gồm: “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn bản đó; Xác định địa giới hành
chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; Khảo sát, đo
đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử
dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá đất; Quản lý quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất; Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu
hồi đất; Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
36
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Thống kê,
kiểm kê đất đai; Xây dựng hệ thống thông tin đất đai; Quản lý tài chính về đất đai
và giá đất; Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất; Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định của
pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Phổ biến, giáo dục pháp
luật về đất đai; Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quản lý và sử dụng đất đai; Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai” [45].
Như vậy, theo quan điểm từ Luật Đất đai năm 2013 của Quốc hội nước Việt
Nam, có thể hiểu, quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là một nội dung
quan trọng của quản lý Nhà nước về đất đai, bao gồm các hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, thông qua các cơ chế và công cụ quản lý, tác động
đến hành vi, hoạt động của người sử dụng đất và các quan hệ đất đai trong xã hội,
nhằm phân phối và phân phối lại quỹ đất NN theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
chung thống nhất nhằm sử dụng đất hiệu quả, hợp lý, và điều tiết các mối quan hệ
lợi ích từ đất.
b. Quan điểm từ Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Nông nghiệp và
Lương thực của Liên hợp uốc (FAO)
Trên thế giới hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công
nghệ và quá trình hội nhập quốc tế đang tạo ra những thay đổi trong tư duy và
phương pháp tổ chức quản lý Nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trong thập niên 1990, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và dân chủ
hóa ngày càng mở rộng, khái niệm “ u n trị Nhà nước” và “ u n trị Nhà nước tốt”
đã được nhắc tới thay thế cho khái niệm “ u n l Nhà nước” như là một bước tiến
về tư duy trong lý thuyết về quản lý Nhà nước.
WB đưa ra khái niệm u n trị Nhà nước đối với đất đai. Đó là tổng hợp các
quy tắc, quy trình và cấu trúc mà thông qua đó các quyết định về thu hồi đất được
ban hành, cùng với cách thức thực hiện những quyết định đó, và cách thức giải
quyết các mối quan hệ lợi ích phức tạp trong quá trình thu hồi đất [94].
Theo quan điểm của WB, u n trị Nhà nước tốt đối với đất đai sẽ bao gồm
những đặc trưng cơ bản của mô hình quản trị Nhà nước tốt đã được thừa nhận rộng
rãi trên thế giới. Cụ thể mô hình quản trị Nhà nước tốt có những đặc điểm sau [94]:
- Thứ nhất, quản lý nhà Nước theo các quy định của pháp luật. Trong mô
37
hình quản trị Nhà nước tốt, Nhà nước thể hiện chức năng chủ yếu là tạo hành lang
pháp lý công bằng và khách quan, làm cơ sở cho người dân hành động theo các
quy định của pháp luật. Vì vậy, quản trị Nhà nước tốt đòi hỏi các quy định pháp
luật phải đầy đủ, công bằng, khách quan, và bảo vệ quyền con người, nhất là nhóm
dễ bị tổn thương trong xã hội.
- Thứ hai, quản lý Nhà nước hướng tới sự đồng thuận của các chủ thể
trong nền kinh tế. Quản trị Nhà nước tốt sẽ đem lại sự đồng thuận dựa trên sự tự
giác, tự nguyện mà không có bất kỳ một sự cưỡng bức hay áp đặt nào đối với
người dân. Để có được sự đồng thuận này, quản lý Nhà nước cần phải dựa trên
sự đàm phán, thỏa thuận để hài hòa lợi ích của các chủ thể khác nhau.
- Thứ ba, quản lý Nhà nước đảm bảo tính minh bạch. Để đạt được sự minh
bạch, quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách phải tuân thủ theo đúng
các quy định của pháp luật. Các chủ thể có quyền bình đẳng như nhau trong tiếp
cận thông tin trong quá trình ra quyết định của Nhà nước. Trong đó mọi người dân
phải được tiếp cận và truy cập dễ dàng, các thông tin phải được công bố đầy đủ, dễ
hiểu, rõ ràng.
- Thứ tư, quản lý Nhà nước đảm bảo tính đáp ứng. Quản trị Nhà nước tốt
phải xây dựng được nền thể chế phù hợp, các quy định của pháp luật phải được ban
hành kịp thời, quá trình tổ chức thực hiện đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn và
đáp ứng tốt các yêu cầu của người dân.
- Thứ năm, quản lý Nhà nước thu hút và đảm bảo sự tham gia của các chủ
thể trong nền kinh tế vào quá trình ra quyết định và ban hành chính sách. Trong mô
hình quản trị Nhà nước tốt, sự tham gia của người dân và các bên liên quan được
khuyến khích và huy động tối đa vào công tác quản lý Nhà nước. Trong đó các chủ
thể bằng những hình thức khác nhau được tạo cơ hội tham gia vào quá trình ra
quyết định, ban hành các chính sách, từ đó giúp lợi ích của các chủ thể gắn chặt
hơn với các quyết định và chính sách của nhà nước, đem lại hiệu quả và hiệu lực
cao hơn.
- Thứ sáu, quản lý Nhà nước đảm bảo tính tính công bằng. Quản trị Nhà
nước tốt tạo được sự công bằng đối với các đối tượng khác nhau trong quá trình
quản lý, đảm bảo lợi ích như nhau, không phân biệt giới tính, địa vị xã hội, dân tộc,
38
tôn giáo, và đặc biệt quan tâm đến nhóm các đối tượng dễ bị tổn thương.
- Thứ bảy, quản lý Nhà nước đảm bảo tính hiệu lực. Trong đó, các kết quả
của quá trình ban hành và thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước phải
đảm bảo được mục tiêu quản lý , đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.
- Thứ tám, quản lý Nhà nước đảm bảo tính hiệu quả. Tính hiệu quả trong
quản trị Nhà nước tốt thể hiện ở việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực
trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong quản lý đất đai và thu hồi đất, cần đảm bảo sử
dụng tài nguyên đất một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Thứ chín, trách nhiệm giải trình. Trong quá trình quản lý, các cơ quan Nhà
nước phải cung cấp đầy đủ thông tin và giải trình được về quá trình ra quyết định
của mình, giải trình được những tác động từ quyết định mà mình đưa ra. Trong đó,
trách nhiệm giải trình bên trong là các cơ quan cấp dưới có trách nhiệm giải trình
với cấp trên. Trách nhiệm giải trình bên ngoài là việc giải trình của các cơ quan
Nhà nước đối với các chủ thể khác trong xã hội.
Dựa trên quan điểm về quản trị Nhà nước tốt đối với đất đai, FAO khuyến
nghị cần u n trị Nhà nước tốt đối với thu h i đất bắt buộc. Cách tiếp cận này đã
được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, và đang trở thành xu hướng đổi mới công tác
quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN. Quản trị Nhà nước tốt đối với thu
hồi đất bắt buộc mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của mô hình quản trị Nhà
nước tốt đối với đất đai như đã phân tích ở trên. Trong đó quản lý Nhà nước gắn với
việc ra quyết định minh bạch, có sự tham gia của các đối tượng liên quan, quy tắc
của pháp luật được áp dụng công bằng, hiệu lực, hiệu quả đối với tất cả các đối
tượng, và hầu hết các tranh chấp được giải quyết trước khi chúng biến thành xung
đột [82]. Vai trò của Nhà nước được thể hiện qua việc thiết lập hành lang pháp lý,
các quy tắc, quy trình chặt chẽ; và phối hợp với các đối tượng liên quan, để giúp họ
có thể phát huy tiếng nói và quyền quyết định của mình. Nhà nước cũng có trách nhiệm
giải trình cao về tất cả các quyết định và quá trình ra quyết định trước người dân.
c. Quan điểm của luận án
Kế thừa quan điểm từ Luật Đất đai năm 2013, và tiếp thu cách tiếp cận của
WB và FAO, luận án đề xuất khái niệm: u n l nhà nuớc trong uá tr nh thu h i
đất NN là sự tác động có tổ chức, có định hướng, trên cơ sở pháp luật, của các cơ
39
quan Nhà nuớc có thẩm u ền đối với các chủ thể và đối tượng có liên uan, để
ban hành và thực hiện các u ết định lấ lại u ền sử dụng đất đã giao của các đối
tượng sử dụng đất nhằm phân phối lại uỹ đất, và gi i u ết hài hòa các mối uan
hệ lợi ích phức tạp đối với đất đai.
Nội dung của quá trình thu hồi đất, như đã phân tích trong nội dung trước,
bao gồm chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển đối tượng sử dụng đất. Vì vậy,
quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN bao gồm việc thiết lập và thực
hiện tất cả các quy tắc, cách thức, quy trình, cấu trúc và các phương pháp mà các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền sử dụng, để định huớng, điều tiết, thúc đẩy, tạo điều
kiện cho các quyết định về chuyển mục đích sử dụng đất NN và chuyển đối tượng
sử dụng đất đó.
Các chủ thể và đối tượng tham gia; mục đích; nội dung; và các công cụ quản
lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN sẽ được trình bày trong các nội dung
tiếp theo.
2.1.2.2. Các chủ thể và đối tượng tham gia u n l Nhà nước trong uá trình
thu h i đất nông nghiệp
Tham gia quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN có các chủ thể và
đối tượng sau đây.
(i) Nhà nước, đây là chủ thể quản lý trước hết trong quá trình thu hồi đất NN,
bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trung ương đến địa phương
tham gia quản lý Nhà nước về đất đai, thực hiện công tác thu hồi đất. Tuy nhiên,
ngày nay, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách quản lý Nhà nước trên thế giới, đặc
biệt theo cách hiểu về quản trị Nhà nước tốt đối với thu hồi đất NN, Nhà nước trong
quá trình quản lý, không chỉ là chủ thể quản lý, mà cũng là đối tượng được quản lý
bởi người dân và các thiết chế xã hội khác.
(ii) Các đối tượng bị thu hồi đất (đó là các hộ nông dân, trang trại, các doanh
nghiệp, các tổ chức, cá nhân, và cộng đồng sử dụng đất NN khác), và các đối tượng
được chuyển quyền sử dụng đất sau khi thu hồi đất (bao gồm những tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp, cộng đồng quản lý, sử dụng đất và các công trình trên đất).
Đây là các đối tượng chịu sự quản lý trực tiếp trong quá trình thu hồi đất NN. Tuy
40
nhiên, những đối tượng này cũng sẽ là chủ thể quản lý khi tham gia vào quá trình ra
quyết định, thực hiện quyết định, khi thực hiện nhiệm vụ giám sát và yêu cầu trách
nhiệm giải trình từ các cơ quan Nhà nước.
(iii) Ngoài ba nhóm chủ thể và đối tượng chính như phân tích ở trên thì các
thiết chế xã hội, người dân và các bên liên quan khác cũng tham gia ngày càng tích
cực vào công tác quản lý trong quá trình thu hồi đất NN. Đó là các tổ chức chính trị
- xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa
học, các chuyên gia, các đơn vị truyền thông, các tổ chức và cá nhân khác. Các thiết
chế xã hội, người dân và các bên liên quan này với tư cách là đối tượng chịu sự
quản lý khi họ thực hiện những nhiệm vụ có liên quan đến thu hồi đất NN trong
trách nhiệm được giao. Họ cũng có thể là chủ thể quản lý, trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ quản lý khi được Nhà nước ủy quyền, trao quyền thực hiện chức năng của Nhà
nước theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quan điểm về quản trị Nhà nước tốt, chủ thể và đối tượng
quản lý trong quá trình thu hồi đất NN là rất mở. Mối quan tâm chính của quản trị
Nhà nước tốt là nhận biết được quyền lực, xác định quyền lực đó được trao cho ai,
như thế nào, để hoạch định và thực thi chính sách sao cho hiệu quả, và đảm bảo sự
giám sát, tham gia của người dân. Vì vậy, công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN được đổi mới theo hướng thu hẹp quyền lực độc quyền của
Nhà nước trong việc ban hành các quyết định, và tăng cường sự tham gia của các
cấp, đặc biệt là cấp cơ sở, người dân và các bên liên quan vào quá trình ra quyết
định quản lý. Trong đó, Nhà nước bằng ý chí của mình tạo nên hành lang pháp lý,
những tiêu chuẩn, những quy định cho hoạt động thu hồi đất NN và các chủ thể và
đối tượng có liên quan thực hiện theo; đồng thời hướng dẫn, tạo điều kiện vận hành
một cách thuận lợi. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm giải trình đối
với quá trình quản lý của mình trước người dân và xã hội, và điều hành để buộc các
thành viên trong xã hội tuân thủ các quy tắc và pháp luật.
Mối quan hệ về lợi ích của các chủ thể và đối tượng tham gia công tác quản
lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN, có thể là xung đột, hoặc hài hòa, và
cùng phát triển.
Đối với Nhà nước, xã hội, cộng đồng địa phương, nếu công tác quản lý này
41
được thực hiện tốt thì quá trình thu hồi đất NN sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng bền vững, góp phần
sử dụng đất đai của địa phương hợp lý và hiệu quả hơn, là cơ sở để thu hút đầu tư,
tạo nguồn thu ngân sách. Đồng thời quá trình này cũng làm thay đổi căn bản xã hội
nông thôn theo hướng công nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho dân cư địa
phương, đời sống của người dân được cải thiện, đời sống tinh thần cũng được
chuyển biến. Tuy nhiên, nếu công tác quản lý không tốt, thu hồi đất NN có thể ảnh
hưởng đến phát triển bền vững của NN do giảm diện tích đất canh tác, và có ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường. Ngoài ra, nếu quan hệ lợi ích không được giải
quyết hài hòa có thể gây bất ổn và xung đột trong quản lý và sử dụng đất đai và ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với đối tượng bị thu hồi đất (hộ gia đình nông dân, các tổ chức, cá nhân,
cộng đồng khác). Nếu được bồi thường thỏa đáng, các hộ gia đình và người nông
dân có thể có được việc làm trực tiếp và gián tiếp, có thể chuyển đổi sinh kế, đem
lại thu nhập cao hơn khi làm NN. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp trên thực tế, thu
nhập và đời sống người nông dân bị mất đất vô cùng khó khăn do mất việc làm và
thay đổi nghề sản xuất. Đối với người nông dân, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu
và mang lại nguồn thu nhập chính, và đại đa số họ không có nghề gì khác ngoài
nghề nông, hoặc chỉ làm một số nghề phụ lúc nông nhàn. Hơn nữa, khi bị thu hồi
đất NN, ngoài mất đất sản xuất, ảnh hưởng đến thu nhập và vật chất, thì đời sống
tinh thần và văn hóa của người nông dân cũng bị đảo lộn. Trong bối cảnh nông thôn
Việt Nam, đất NN mang theo bản sắc gia đình, dòng họ, lịch sử, văn hóa và tâm
linh được truyền qua nhiều thế hệ. Những giá trị văn hóa và tinh thần này không thể
dễ dàng xóa bỏ hoặc thay thế được. Nhiều người dân rất khó chấp nhận từ bỏ đất
đai cha ông để lại để với bao công sức xây dựng và gìn giữ được chuyển cho người
khác sử dụng. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp đất đai của người dân được tổ tiên
để lại bị Nhà nước cưỡng chế thu hồi được chuyển sang đầu tư bất động sản và bán
trên thị trường với giá cao hơn mức bồi thường người dân nhận được nhiều lần.
Đối với đối tượng được chuyển quyền sử dụng đất sau thu hồi đất (chủ đầu
tư, doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, và cộng đồng khác). Các doanh nghiệp, nhà
đầu tư, tổ chức, cá nhân, và cộng đồng được chuyển quyền sử dụng đất trong quá
42
trình thu hồi đất NN sẽ có được mặt bằng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và sinh sống. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp còn được Nhà nước hỗ trợ để có được
mặt bằng kinh doanh giá rẻ, tạo thuận lợi cho họ tiết giảm chi phí, ổn định sản xuất,
kinh doanh. Hơn nữa, nhà đầu tư còn có thể thu chênh lệch lớn giữa giá đất NN khi
thu hồi và giá sau thu hồi. Hiện nay tồn tại mức chênh lệch lớn giữa giá đất NN khi
thu hồi và giá sau thu hồi, và các nhà đầu tư được lợi là chủ yếu. Tuy nhiên, nhà đầu
tư cũng có thể sẽ chịu rủi ro, thậm chí có thể thua lỗ trong trường hợp nhận đất mà
giá đất không tăng, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh không hiệu quả. Ngoài ra,
do nhiều nguyên nhân chậm trễ trong quá trình thu hồi đất, sẽ làm chậm tiến độ dự
án và tăng chi phí cho nhà đầu tư.
Như vậy, lợi ích của nhà đầu tư, lợi ích cộng đồng dân cư và của người nông
dân (ba nhóm chủ thể và đối tượng quản lý chủ yếu) có thể hài hòa, nhưng cũng có
thể mâu thuẫn với nhau trong quá trình thu hồi đất NN. Nhà nước rất cần thể hiện
vai trò là đại diện chủ sở hữu và quản lý chung, thông qua các công cụ quản lý phải
can thiệp điều phối lợi ích giữa các bên, làm hài hòa lợi ích giữa người bị thu hồi
đất, nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước và cộng đồng.
2.1.2.3. Mục đích của công tác công tác u n l Nhà nước trong uá tr nh thu
h i đất nông nghiệp
Công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN nhằm đạt được
những mục đích sau:
Thứ nhất, nhằm quản lý quỹ đất, sử dụng đất đai hiệu quả và bền vững, thúc
đẩy phát triển kinh tế đất nước. Quá trình thu hồi đất NN góp phần phân bổ lại và sử
dụng hiệu quả, đem lại năng suất và giá trị cao hơn đối với nguồn tài nguyên đất, từ
đó sẽ góp phần đảm bảo tài nguyên đất của quốc gia được khai thác và sử dụng đạt
hiệu quả kinh tế cao, giúp phát triển thật sự bền vững mà không để lại hậu quả xấu
cho xã hội trong tương lai.
Thứ hai, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể và đối tượng có liên
quan trong quá trình thu hồi đất NN. Vì lợi ích chung, lợi ích của cả cộng đồng,
Nhà nước tiến hành thu hồi đất NN của người sử dụng đất để sử dụng cho các mục
đích khác nhau. Như đã phân tích ở nội dung trước, trong quá trình thu hồi đất NN,
lợi ích của các đối tượng có liên quan, bao gồm nhà đầu tư, lợi ích cộng đồng dân
cư và của người nông dân có thể hài hòa nhưng cũng có thể mâu thuẫn với nhau.
43
Nhưng quá trình này ảnh hưởng trước tiên và trực tiếp đến cuộc sống của những
người nông dân. Nếu không đảm bảo được lợi ích của người nông dân, thì cho dù là
thu hồi đất để xây dựng các công trình phúc lợi, hay để phát triển kinh tế - xã hội
mang lại lợi ích cho số đông dân chúng trong xã hội, thì ở thái cực ngược lại người
nông dân bị thu hồi đất lại rơi vào tình trạng khó khăn về sản xuất và đời sống do bị
mất sinh kế. Dù muốn hay không thì lợi ích kinh tế vẫn là yếu tố quan trọng chi
phối mọi mối quan hệ xã hội, do đó Nhà nước phải đặt mục tiêu hài hòa về quyền
lợi giữa các đối tượng này, giải quyết hài hòa lợi ích của người bị thu hồi đất với lợi
ích của người được chuyển quyền sử dụng đất và lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
để vừa đảm bảo nhu cầu sử dụng đất đai phục vụ cho thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất.
Thứ ba, nhằm duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cho dù thu hồi
đất NN để sử dụng vào bất kỳ mục đích gì thì cũng tác động trực tiếp đến quyền lợi
vật chất của người sử dụng đất. Chính vì vậy, thu hồi đất NN luôn luôn là vấn đề
nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mâu thuẫn về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu
hồi đất và người được chuyển quyền sử dụng đất. Thực tế giải quyết các tranh chấp,
khiếu kiện từ việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất NN cho thấy nếu
không giải quyết tốt việc bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất
nhằm giúp họ vượt qua khó khăn, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất thì sẽ
phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, thậm chí khiếu kiện vượt cấp và khiếu
kiện đông người. Đây là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh những “điểm nóng” gây
bất ổn về chính trị, trật tự an toàn xã hội, và dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động, lôi kéo
người dân đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó,
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất này còn nhằm duy trì ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tránh nguy cơ nảy sinh các xung đột xã hội.
2.1.2.4. Nội dung công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông
nghiệp
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN được xem xét bao gồm các nội dung cụ thể sau đây: (a) Xây dựng
cơ sở pháp lý về thu hồi đất NN làm căn cứ cho quá trình thu hồi đất NN; (b) Tổ
chức thực hiện thu hồi đất NN; (c) Kiểm tra, giám sát và giải quyết các khiếu nại,
44
tố cáo liên quan đến quá trình thu hồi đất NN. Trong đó:
a. Xây dựng cơ sở pháp lý về thu h i đất làm căn cứ cho quá trình thu h i
đất nông nghiệp
Trong điều kiện thành phố Hà Nội là đơn vị hành chính cấp tỉnh, để thực
hiện công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn thành
phố, chính quyền thành phố ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa
chính sách và pháp luật về thu hồi đất NN của Nhà nước, và phù hợp với điều kiện
của địa phương. Đây là hoạt động chính quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi
bỏ các quy định pháp luật cho phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình thu hồi đất NN trên địa
bàn thành phố.
Các cơ sở pháp lý về thu hồi đất NN làm căn cứ cho quá trình thu hồi NN có
thể được chính quyền thành phố ban hành mới hoặc điều chỉnh, bao gồm hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thu hồi đất NN
tại địa phương, quy định cụ thể những nội dung sau: thẩm quyền và trách nhiệm
thu hồi đất NN; hình thức và cơ chế thu hồi đất NN; trình tự thủ tục thu hồi đất NN;
xác định giá đất NN; xác định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất NN; điều kiện
được bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất NN; cơ chế giải quyết khiếu nại trong quá
trình thu hồi đất NN.
Việc xây dựng cơ sở pháp lý này của chính quyền thể hiện chức năng tạo lập
môi trường và điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho các đối tượng sử dụng đất thực
hiện hoạt động chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất trên địa
bàn thành phố; đồng thời, cũng bảo đảm môi trường phù hợp cho cơ chế, chính sách
của Nhà nước có thể thực hiện và phát huy tác dụng tại địa phương. Các cơ quan
Nhà nước và các đối tượng sử dụng đất chỉ có thể hoạt động tốt khi có môi trường
thuận lợi, bởi khi đó, người dân tin tưởng rằng trong quá trình thu hồi đất NN,
quyền lợi của mình được đảm bảo, còn nhà đầu tư yên tâm thực hiện dự án thuận
lợi, ổn định. Đồng thời, chính quá trình tạo lập môi trường này lại khiến cho các
yếu tố môi trường ngày càng được bồi đắp, hoàn thiện hơn, khiến cho quá trình thu
hồi đất NN tại địa phương ngày càng hoàn thiện và phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Xây dựng căn cứ pháp lý cũng giúp định hướng hành vi của các đối tượng sử
45
dụng đất đi theo đúng hướng phát triển của kinh tế và xã hội địa phương, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển của Nhà nước; hướng dẫn các đối tượng sử dụng đất
hoạt động hướng đích theo các mục tiêu phát triển của địa phương và mục tiêu
chung của đất nước. Ngoài ra, giúp người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư có được
cái nhìn khái quát, đầy đủ về thực hiện quá trình thu hồi đất NN ở địa phương, xu
hướng vận động của quá trình này để từ đó chủ động hoạch định cho hoạt động của
riêng mình và tổ chức mình.
Hơn nữa, cơ sở pháp lý đầy đủ về thu hồi đất NN cũng giúp đưa ra phương
hướng, giải pháp để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN tại địa phương. Thu hồi đất NN vẫn đang là
vấn đề gây nhiều bức xúc và bất cập trong quá trình triển khai. Với việc xây dựng các
căn cứ pháp lý đầy đủ, các cơ quan Nhà nước sẽ có cơ sở để giải quyết các vấn đề
nảy sinh, và các đối tượng sử dụng đất có căn cứ để bảo vệ lợi ích của bản thân.
b. Tổ chức thực hiện thu h i đất nông nghiệp
Việc tổ chức thực hiện thu hồi đất NN sẽ được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, dựa trên các căn cứ pháp lý đã được xây dựng, sử dụng các công cụ
quản lý tác động tới các đối tượng có liên quan, thực hiện các công việc cụ thể để
chuyển quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất nhằm hiện thực hóa các
mục tiêu về thu hồi đất NN đã được xác định của địa phương. Việc tổ chức thực
hiện thu hồi đất NN thông thường bao gồm những hoạt động sau: (i) Giải tỏa/giải
phóng mặt bằng (GPMB); (ii) Đền bù/bồi thường; và (iii) Hỗ trợ cho người bị thu
hồi đất. Cụ thể:
(i) Giải tỏa/GPMB là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di
dời cây trồng, vật nuôi, hoa màu, các công trình trên đất, và một bộ phận dân cư
trên phần đất NN nhất định đã được quy hoạch và quyết định thu hồi [82]. Tất cả
các quốc gia khi thực hiện thu hồi đất NN đều phải thực hiện giải tỏa/GPMB. Ở
Việt Nam, quá trình GPMB bắt đầu từ khi Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, GPMB
được thành lập, cho đến khi hoàn thành bồi thường, hỗ trợ cho người dân, và bàn
giao đất đã thu hồi cho đối tượng sử dụng tiếp theo.
(ii) Đền bù/bồi thường là việc trả lại giá trị đối với diện tích đất bị thu hồi
cho người sở hữu hoặc sử dụng đất [75]. Các nguyên tắc, hình thức và giá trị đền bù
46
tùy thuộc vào từng quốc gia. Rất nhiều các quốc gia thực hiện đền bù bằng tiền,
theo giá thị trường của đất và tài sản trên đất. Ở Việt Nam, đền bù được thể hiện
bằng việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Đối với đất NN, những thiệt
hại về cây trồng, vật nuôi, hoa màu trên đất cùng với những thiệt hại khác do việc
thu hồi đất gây ra sẽ được xem xét bồi thường. Nguyên tắc bồi thường về đất khi
Nhà nước thu hồi đất là: khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân sẽ được
bồi thường về đất nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; việc bồi thường
được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi,
nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể
của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi
đất; việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dân chủ, khách quan, công bằng,
công khai, kịp thời và đúng pháp luật [45].
(iii) Hỗ trợ cho người bị thu hồi đất là các khoản hỗ trợ mà người bị thu hồi
đất được nhận thêm ngoài giá trị đền bù. Ở nhiều quốc gia, việc hỗ trợ này là không
bắt buộc [54]. Ở Việt Nam, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ
giúp cho người có đất bị thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển [45].
Đây là nội dung quan trọng nhằm đảm bảo đời sống cho người dân hậu thu hồi đất.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã bồi
thường. Sự giúp đỡ này được thể hiện thông qua các khoản hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với
trường hợp thu hồi đất NN; hỗ trợ khi thu hồi đất NN trong khu dân cư; hỗ trợ khi
thu hồi đất vườn, ao không được công nhận là đất ở; những hỗ trợ khác.
Để tiến hành tổ chức thu hồi đất, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền, có chức năng, nhiệm vụ thu hồi đất NN ở địa phương trước tiên sẽ tổ chức,
sắp xếp bộ máy cho phù hợp từ cấp tỉnh đến các cấp cơ sở. Ngoài ra, những cơ quan
này cũng bao gồm nhiệm vụ sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước,
đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ về thu hồi đất NN
cho đội ngũ cán bộ, công chức để đảm bảo đảm nhận tốt công việc.
Thông qua việc tổ chức thực hiện, Nhà nước sẽ điều tiết được hoạt động của
toàn bộ quá trình thu hồi đất NN theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo đạt được
các mục tiêu đề ra, đảm bảo phân phối và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, đồng
thời đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên liên quan, góp phần phát triển ổn định kinh
47
tế - xã hội địa phương.
c. Kiểm tra, giám sát uá tr nh thu h i đất nông nghiệp; gi i u ết các khiếu
nại, tố cáo liên uan đến uá tr nh thu h i đất nông nghiệp
Đây là nội dung các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát và
xử lý vi phạm của các chủ thể tham gia quá trình thu hồi đất NN trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về thu hồi đất NN; kiểm tra, giám sát, xử
lý vi phạm trong hoạt động của chính các cơ quan và cán bộ, công chức quản lý thu
hồi đất NN của địa phương; giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các chủ
thể trong quá trình tổ chức thực hiện thu hồi đất NN tại địa phương.
Kiểm tra, giám sát quá trình thu hồi đất NN, giải quyết các khiếu nại, tố cáo
có liên quan đến quá trình thu hồi đất NN là vô cùng cần thiết nhằm phát hiện
những bất cập nảy sinh, các vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, và đưa ra biện
pháp xử lý, góp phần giải quyết ổn thỏa các bất cập và vi phạm trong quá trình tổ
chức thực hiện công tác thu hồi đất NN. Những sai phạm, vi phạm này có thể đến
từ các chủ thể tham gia, hoặc đến từ chính các cơ quan và cán bộ, công chức quản
lý thu hồi đất NN tại địa phương. Nội dung này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh
thành phố Hà Nội là một trong hai địa phương có diện tích đất NN được thu hồi để
phục vụ cho sự phát triển rất nhanh của CNH, HĐH và ĐTH lớn nhất cả nước.
Trong khi đó, công tác quản lý quá trình thu hồi đất NN còn nhiều yếu kém, còn
nhiều hiện tượng tiêu cực, sai phạm. Công tác kiểm tra, giám sát quá trình thu hồi
đất NN, giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quá trình thu hồi đất NN
thực hiện tốt sẽ góp phần bảo vệ tài nguyên đất và lợi ích của người dân và nhà đầu
tư; đảm bảo sự nghiêm minh của luật pháp; duy trì và củng cố niềm tin của người
dân và nhà đầu tư đối với chính quyền.
2.1.2.5. Các công cụ quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Các công cụ quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là tổng thể
những cách thức tác động có chủ đích của Nhà nước lên các đối tượng tham gia vào
quá trình thu hồi đất NN nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong những điều kiện cụ
thể về không gian và thời gian nhất định.
Các công cụ quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN được hình
thành từ các công cụ quản lý Nhà nước về đất đai nói chung. Vì vậy, về cơ bản, bao
gồm các công cụ quản lý Nhà nước về đất đai nhưng được cụ thể hoá trong công tác
48
thu hồi đất NN. Các công cụ này thể hiện cụ thể mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước
với các đối tượng quản lý. Mối quan hệ này rất đa dạng và phức tạp nên các công cụ
quản lý cũng thường xuyên phải thay đổi theo tuỳ tình huống cụ thể nhất định, tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng. Mỗi công cụ có ưu nhược điểm khác nhau,
bởi vậy cần sử dụng linh hoạt và có sự kết hợp giữa các công cụ này.
a. Chính sách và pháp luật
Bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến thu hồi đất NN như Hiến pháp, Luật đất đai, Luật dân sự, các pháp
lệnh, các nghị định, các quyết định, các thông tư, các chỉ thị, các nghị quyết v.v. của
Nhà nước, của Chính phủ, của các bộ, các ngành và các văn bản quản lý của các
cấp, các ngành ở chính quyền địa phương có liên quan đến thu hồi đất NN một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp. Chính sách và pháp luật là công cụ chủ yếu nhất để Nhà
nước quản lý, tạo điều kiện cho các công cụ quản lý khác của Nhà nước được thực
hiện có hiệu quả hơn. So với các công cụ khác, đây là công cụ năng động cao, góp
phần giải quyết những bức xúc, những vấn đề nảy sinh trong quá trình thu hồi đất
NN đặt ra. Bởi vậy cần một hệ thống các chính sách và pháp luật đồng bộ, phù hợp
với đòi hỏi thực tiễn về thu hồi đất NN sẽ là cơ sở vững chắc bảo đảm quá trình này
tiến hành hiệu quả.
b. Kế hoạch sử dụng đất
Thông qua kế hoạch sử dụng đất, Nhà nước thực hiện quyền định đoạt về đất
đai - định hướng và quyết định việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất NN, định
hướng và quyết định diện tích đất NN được thu hồi và chuyển đổi mục đích sử
dụng. Kế hoạch sử dụng đất được lập theo các đơn vị hành chính của địa phương và
theo các giai đoạn thời gian. Trong đó, kế hoạch sử dụng đất theo đơn vị hành chính
địa phương được lập theo các cấp hành chính, gồm: kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh,
kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, cấp xã. Theo giai đoạn thời gian, kế hoạch sử dụng
đất được lập hàng năm hoặc giai đoạn 05 năm.
Kế hoạch sử dụng đất giúp đảm bảo sự quản lý thống nhất của Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN. Bởi vì thông qua kế hoạch sử dụng đất đã được phê
duyệt, việc thu hồi đất NN được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý, giúp Nhà nước
kiểm soát được mọi diễn biến về tình hình thu hồi đất NN. Từ đó, ngăn chặn được
việc thu hồi đất NN sai mục đích, lãng phí, thất thoát. Đồng thời, kế hoạch sử dụng
đất định hướng, buộc các đối tượng sử dụng đất chỉ được phép sử dụng trong phạm
49
vi ranh giới cho phép, không được tự ý chuyển mục đích sử dụng đất.
c. Công cụ tài chính
Đây là cách thức tác động của Nhà nước một cách gián tiếp vào các chủ thể
và đối tượng quản lý trong quá trình thu hồi đất NN, thông qua các lợi ích kinh tế,
để đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hành động của mình sao cho có hiệu
quả nhất. Trong công tác quản lý, công cụ tài chính là phương pháp mềm dẻo nhất,
dễ thu hút đối tượng quản lý, do vậy nó ngày càng mang tính phổ biến và được coi
trọng. Trong quá trình thu hồi đất NN, công cụ tài chính bao gồm hệ thống tài chính
đất đai thể hiện thông qua các quy định về mức thu tiền sử dụng đất, các loại thuế,
phí và lệ phí về tiến hành thu hồi đất, giá đất, giá trị bồi thường, các khoản hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất, các mức xử phạt vi phạm thu hồi đất.
d. Công cụ hành chính
Phương pháp quản lý hành chính trong quá trình thu hồi đất NN của Nhà
nước là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước đến các chủ thể và đối tượng
quản lý trong quá trình thu hồi đất NN. Công cụ này được thực hiện thông qua hệ
thống hồ sơ địa chính, hệ thống thông tin đất đai, hệ thống bộ máy quản lý Nhà
nước về đất đai và hệ thống dịch vụ đất đai v.v., hoặc bằng các biện pháp, các quyết
định mang tính mệnh lệnh bắt buộc, đòi hỏi các đối tượng có liên quan phải chấp
hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.
e. Tu ên tru ền, vận động
Đây là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và thái độ của con
người dân nhằm nâng cao tính tự giác và tinh thần của họ trong quá trình thu hồi đất
NN. Tuyên truyền, vận động là một trong các phương pháp không thể thiếu, bởi vì
các chủ thể và đối tượng quản lý trong quá trình thu hồi đất NN có những đặc trưng
tâm lý rất đa dạng, đặc biệt là người có đất bị thu hồi. Để tạo được sự đồng thuận,
cần tăng cường tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, đồng thời nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của người dân để có giải pháp phù hợp. Trong thực tế,
tuyên truyền, vận động thường được kết hợp với các phương pháp khác, hỗ trợ cùng
với phương pháp khác để nâng cao hiệu quả quản lý.
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất nông nghiệp
2.1.3.1. Các ếu tố bên trong
50
a. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
Hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước nói chung phụ thuộc vào
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng; sự tham gia, phối hợp của các tổ chức
chính trị - xã hội; sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong quá trình thu hồi đất NN, những yếu
tố này cũng ảnh hưởng rất lớn.
Xuất phát từ đặc điểm hệ thống chính trị của Việt Nam là “Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, do đó vai trò tác động
của đảng cầm quyền đối với việc tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy
quản lý cơ bản có sự khác biệt với nhiều nước. Tương tự như vậy, mối quan hệ giữa
bộ máy quản lý Nhà nước với các bộ phận khác của hệ thống chính trị như các tổ
chức chính trị - xã hội, các cơ quan lập pháp và tư pháp v.v. cũng có nhiều nét đặc
thù và đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN.
b. Thể chế của nền kinh tế về u n l đất đai và thu h i đất nông nghiệp
Thể chế của nền kinh tế về quản lý đất đai và thu hồi đất NN, trước hết, bao
gồm hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà
nước về đất đai và thu hồi đất NN. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công
tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN. Những quy định này thể hiện
địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN. Tiếp đến, thể chế của nền kinh tế về quản lý
đất đai và thu hồi đất NN còn được thể hiện qua hệ thống văn bản do các cơ quan
hành chính Nhà nước ban hành theo thẩm quyền để thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về đất đai, trong đó có thu hồi đất NN.
Thể chế về quản lý đất đai và thu hồi đất NN sẽ quyết định cơ chế, hình thức,
các công cụ mà các cơ quan Nhà nước sử dụng để quản lý trong quá trình thu hồi
đất NN. Thể chế về quản lý đất đai của Việt Nam có những đặc trưng khác biệt với
nhiều nước vì vậy cơ chế, hình thức, các công cụ quản lý của Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN cũng có những nét khác biệt. Mỗi sự thay đổi trong thể chế của
nền kinh tế về quản lý đất đai và thu hồi đất NN đều dẫn đến sự thay đổi của công
tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN.
c. Tổ chức bộ má u n l Nhà nước về đất đai và thu h i đất nông nghiệp
51
Hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN
chịu sự chi phối, và phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu, tổ chức, chức năng của các cơ
quan quản lý Nhà nước về đất đai và thu hồi đất NN. Vấn đề chủ yếu ở đây là cần
có sự phân công trong nội bộ hệ thống tổ chức, xác định nhiệm vụ cho các cơ quan
khác nhau để tạo được sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện
được mục tiêu tổng thể của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai và
thu hồi đất NN.
Cơ cấu tổ chức hợp lý trong bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai và thu hồi
đất NN sẽ tránh được sự chồng chéo, giúp dễ dàng phối hợp, điều chỉnh công việc
trong thực hiện nhiệm vụ, và tiết kiệm thời gian. Ngược lại nếu cơ cấu bất hợp lý sẽ
làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Bộ máy quản lý Nhà nước về đất
đai và thu hồi đất là một chỉnh thể và mỗi cơ quan là một bộ phận, cả bộ máy chỉ
hoạt động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa phối hợp
tốt với các bộ phận khác để hoàn thành được mục tiêu chung của quá trình thu hồi
đất NN.
d. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thu h i đất nông nghiệp
Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước. Công tác quản lý trong quá trình thu hồi đất NN chuyên nghiệp chỉ có
thể hình thành trên cơ sở xây dựng và phát triển nguồn nhân lực tương ứng mang tính
chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực của bộ máy quản lý Nhà nước làm công tác thu hồi
đất NN ở địa phương bao gồm cán bộ thông qua bầu cử, công chức được tuyển dụng
theo chỉ tiêu biên chế và viên chức được tuyển dụng thông qua hợp đồng làm việc.
Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thu hồi đất
chủ yếu và trước hết dựa trên sự phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ từng nhóm đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức này phù hợp với yêu cầu và nội dung quản lý thu
hồi đất NN của địa phương. Tính chuyên nghiệp còn dựa trên trình độ, năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức này; kỹ năng, nghiệp vụ gắn
với chuyên môn và kinh nghiệm làm việc; và ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương và
đề cao văn hóa công vụ, nhất là văn hóa giao tiếp, ứng xử trong quá thực hiện công
việc liên quan đến thu hồi đất NN.
e. Tài chính công
Những đảm bảo về mặt tài chính và điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
52
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN tại địa phương phụ thuộc
một phần vào nhu cầu quản lý, nhưng phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của của địa phương trong từng giai đoạn. Việc đầu tư về tài chính,
trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật sẽ đảm bảo cho sự vận hành của bộ máy và hoạt
động của chế độ công vụ, công chức. Đây vừa là điều kiện, vừa là một trong những
tiêu chí chủ yếu để đánh giá hiệu quả của nền hành chính. Mặc dù mức chi tiêu cụ
thể cho bộ máy hành chính luôn là vấn đề gây tranh cãi và khó thống nhất quan
điểm, nhưng thước đo chủ yếu vẫn là hiệu quả hoạt động của nền hành chính, mức
chi tiêu phải phù hợp với trình độ phát triển, nhu cầu quản lý và coi đó là nguồn đầu
tư cho phát triển.
2.1.3.2. Các ếu tố bên ngoài
a. Sự ủng hộ và tham gia của người dân đối với bộ má u n l Nhà nước về
đất đai và thu h i đất nông nghiệp
Sự ủng hộ và tham gia của người dân đối với bộ máy quản lý Nhà nước về
đất đai và thu hồi đất NN là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả quản lý Nhà
nước. Thực tiễn cho thấy, sự ủng hộ và tham gia của người dân đối với các cơ quan
Nhà nước càng lớn thì hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước càng dễ dàng đạt
được mục tiêu. Sự tham gia của người dân vào quá trình quản lý Nhà nước sẽ
đảm bảo tính khách quan trong công tác quản lý.
Trong quá trình thu hồi đất NN, sự tham gia của người dân không chỉ thể
hiện bằng quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý Nhà
nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của mình. Điều này thể hiện vai trò đặc biệt của
người dân trong quản lý Nhà nước, và Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm
những điều kiện để người dân được tham gia vào quá trình quản lý này.
Người dân có thể trực tiếp tham gia hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai
và thu hồi đất NN thông qua việc trực tiếp làm việc tại các cơ quan Nhà nước, hoặc
thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình. Người dân cũng có
thể gián tiếp thực hiện việc quản lý Nhà nước thông qua việc tham gia vào hoạt
động của các tổ chức xã hội, các hoạt động tự quản ở cơ sở.
b. Yếu tố văn hóa, lịch sử, tập quán, truyền thống
Quản lý Nhà nước là hoạt động luôn mang tính kế thừa và chịu tác động của
các yếu tố xã hội như văn hóa, lịch sử, truyền thống, tập quán, thói quen. Sự tác
53
động của các yếu tố này bao gồm cả hai mặt tích cực và tiêu cực; vì vậy, trong quá
trình quản lý, phải biết kế thừa, vận dụng, phát huy các yếu tố tích cực, và hạn chế
yếu tố tiêu cực.
Ở các nước nền kinh tế đang trong quá trình phát triển nhanh như Việt Nam,
đất NN trước tiên là một tài sản và là nguồn sinh kế, thậm chí, đối với nhiều người
nghèo, đây là hình thức duy nhất của họ về an sinh xã hội. Ngoài ý nghĩa là tài sản
và sinh kế, đất NN còn có liên quan chặt chẽ tới bản sắc cá nhân, gia đình dòng họ
và cộng đồng, lịch sử và văn hóa truyền qua nhiều thế hệ của người dân nông thôn.
Người nông dân Việt Nam luôn coi trọng và giữ gìn đất đại tổ tiên nhiều đời để lại
và coi đó là sản nghiệp của gia đình, dòng họ. Như vậy, với đặc trưng là phương
tiện chính để tạo ra sinh kế, phương tiện chính để đầu tư, tích lũy tài sản, chuyển
giao giữa các thế hệ, và là một phần quan trọng của bản sắc văn hóa của người
nông dân, các quyết định về sử dụng và thu hồi đất NN là cực kỳ nhạy cảm và hệ
trọng, đặc biệt đối với người nông dân nghèo.
c. Xu hướng đổi mới công tác u n l Nhà nước trong uá tr nh thu h i đất
nông nghiệp trên thế giới
Cách tiếp cận về “quản trị Nhà nước tốt đối với thu hồi đất NN” đang là xu
hướng đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN. Khi quản
trị Nhà nước “yếu” đối với thu hồi đất NN có thể dẫn đến những bất cập và nguy
cơ, tác động xấu đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế, và gây
thất thu cho ngân sách Nhà nước. Một trong số đó là nguy cơ về tham nhũng trong
quá trình thu hồi đất NN [81]. Bởi vì, quyền lực có thể bị tập trung, và tham nhũng
có thể xảy ra. Các cán bộ Nhà nước có thể bị “mua chuộc” bởi các cá nhân, tổ chức,
nhóm lợi ích hoặc các doanh nghiệp, dẫn đến ban hành các chính sách phân bổ lại
đất đai phục vụ lợi ích cho những đối tượng này. Hậu quả là, đất NN có thể bị
chuyển giao trái phép hoặc có lợi cho một vài nhóm lợi ích cụ thể, trong khi những
người nông dân bị thu hồi đất NN chỉ nhận được những khoản bồi thường không
công bằng và thỏa đáng. Những thỏa thuận chuyển giao đất NN trái phép giữa chính
quyền và nhà đầu tư này thường diễn ra bí mật, và đến khi bị phát hiện thì đã quá
muộn để can thiệp. Ngược lại, khi quản trị Nhà nước “tốt” về thu hồi đất NN có thể
góp phần cải thiện xã hội, kinh tế và môi trường. Trong đó, lợi ích từ đất NN được
quản lý một cách có trách nhiệm và phân phối công bằng đối với những đối tượng
54
có liên quan.
d. Những bất cập trong gi i quyết quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư
và người nông dân trong quá trình thu h i đất nông nghiệp
Trong quá trình thu hồi đất NN, đất được chuyển đổi mục đích từ NN sang
các hoạt động khác, giá tri gia tăng từ đất thay đổi rất lớn. Xét dưới góc độ quản lý
kinh tế và về sở hữu tài sản, trong trường hợp này là đất NN, người sở hữu đất đai
cũng là người có quyền tham gia vào quá trình phân phối giá trị gia tăng từ đất và
họ cũng có thể nhận được lợi ích từ kết quả phân phối giá trị gia tăng này chuyển
đổi mục đích sử dụng đất khi tiến hành thu hồi đất NN mang lại. Ở Việt Nam, bằng
quyết định thu hồi đất của Nhà nước, mục đích sử dụng đất NN chuyển đổi thành
đất phi NN, thêm đầu tư cơ sở hạ tầng, sẽ làm cho giá đất tăng mạnh. Lợi ích thu
được từ việc tăng lên của giá đất này rơi vào túi nhà đầu tư là rất lớn. Còn người
nông dân nhận được tiền bồi thường, hỗ trợ được dựa trên khung giá đất của Nhà
nước quy định là rất thấp. Như vậy, trong quá trình thu hồi đất NN, Nhà nước đã tạo
ra giá trị gia tăng lớn, do làm thay đổi mục đích sử dụng đất, còn nhà đầu tư là
người thu được lợi ích lớn nhất từ giá trị gia tăng này. Trong khi đó, lợi ích trực tiếp
của người nông dân từ quá trình thu hồi đất NN này là ít hơn, và thậm chí họ còn có
thể bị chị thua thiệt nếu giá bồi thường đất quá thấp so với mức giá tăng lên trên thị
trường nhờ sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế - xã hội của ba bên giữa Nhà nước, nhà
đầu tư và người có đất bị thu hồi sẽ tác động đến vai trò, cơ chế, nội dung, các công
cụ quản lý của Nhà nước trong việc điều tiết các quan hệ lợi ích này nhằm sử dụng
đất đai bền vững. Trong đó lợi ích giữa các bên cần được giải quyết hài hòa, được
tôn trọng, bảo vệ, và không triệt tiêu bất cứ bên nào.
2.1.4. Tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp
2.1.4.1. Tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (WB)
Ngân hàng Thế giới đã thiết kế Khung đánh giá quản trị Nhà nước về đất đai -
Land Governance Assessment Framework (LGAF) với mục tiêu cung cấp một công
cụ đánh giá một cách hệ thống khuôn khổ pháp luật, các chính sách và quá trình
thực hiện liên quan đến đất đai và sử dụng đất đai [42]. LGAF bao trùm toàn diện
và sâu sắc về quản trị đất đai, bao gồm 7 nội dung: (i) đánh giá về khung pháp lý và
55
thể chế, (ii) đánh giá về quy hoạch, quản lý quyền sử dụng đất và thuê đất, (iii) đánh
giá về quản lý đất công, (iv) đánh giá về cung cấp công khai thông tin đất đai, (v)
đánh giá về giải quyết tranh chấp và quản lý xung đột, (vi) đánh giá về thu hồi
quyền sử dụng đất trên quy mô lớn, và (vii) đánh giá về quản lý đất NN. Tính phù
hợp của bộ công cụ này đã được thử nghiệm đối với 35 quốc gia với bối cảnh kinh
tế - xã hội khác nhau trên toàn cầu.
Thu hồi đất NN nằm trong nội dung thứ sáu của LGAF, có liên quan đến thu
hồi quyền sử dụng đất trên quy mô lớn. Nội dung này gồm nhiều khía cạnh cụ thể,
mỗi khía cạnh có một bộ chỉ số để đo lường định lượng hoặc đánh giá định tính,
dựa vào các bằng chứng thông qua các dữ liệu và thông tin thu thập được. Cụ thể,
bộ chỉ số trong LGAF đánh giá về thu hồi quyền sử dụng đất trên quy mô lớn gồm
có 12 chỉ số:
- Việc thu hồi đất gây ra ít xung đột và chúng được giải quyết nhanh chóng
và minh bạch.
- Nhìn chung có thể xác định được những hạn chế về sử dụng đất đối với các
thửa đất nông thôn.
- Các tổ chức dịch vụ công liên quan đến việc thu hồi đất đang hoạt động
một cách rõ ràng và nhất quán.
- Việc khuyến khích nhà đầu tư rõ ràng, minh bạch và nhất quán.
- Cơ chế chia sẻ lợi ích khi đầu tư vào NN thường xuyên được sử dụng một
cách minh bạch.
- Có sự thỏa thuận trực tiếp và minh bạch giữa người có quyền về đất đai và
nhà đầu tư.
- Yêu cầu nhà đầu tư cung cấp đầy đủ thông tin về đánh giá mức độ mong
muốn có dự án trên đất công/đất làng xã.
- Đối với trường hợp thu hồi đất công/đất cộng đồng, nhà đầu tư có cung cấp
các thông tin cần thiết và những thông tin này được công bố công khai.
- Pháp luật có quy định về các điều khoản hợp đồng liên quan đến việc thu
hồi đất công hoặc đất cộng đồng nhằm đề cập công khai đến cách thức chia sẻ lợi
ích và rủi ro.
- Thủ tục phê duyệt dự án nếu cần, tương đối nhanh gọn.
- Các yêu cầu về mặt xã hội đối với những dự án đầu tư quy mô lớn trong
56
NN được nêu rõ và được thực thi.
- Có kênh tiếp nhận khiếu nại nếu các nhà đầu tư trong NN không tuân thủ
các yêu cầu.
2.1.4.2. Tiêu chí của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO)
FAO xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN bao gồm 04 tiêu chí, mỗi tiêu chí được cụ thể hóa bởi
những chỉ tiêu cụ thể [81]:
a. Tiêu chí minh bạch
- Khả năng tiếp cận thông tin về thu hồi đất và bồi thường, tái định cư (bao
gồm quy trình và các quy định pháp luật) rõ ràng và chính xác đối với những người
bị ảnh hưởng, các nhóm xã hội dân sự, và các phương tiện truyền thông.
- Thông tin được công bố công khai đối với tất cả những người bị ảnh
hưởng.
- Thông tin có thể được truy cập nhanh, chính xác, rõ ràng.
- Thông tin được cung cấp qua nhiều kênh khác nhau như tại văn phòng hoặc
trụ sở cơ quan quản lý, các kênh phát thanh, truyền hình, Internet.
- Người dân bị ảnh hưởng được giải thích rõ về những lợi ích và rủi ro mà dự
án thu hồi đất đem lại.
- Các vấn đề quan trọng được cân nhắc kỹ lưỡng với sự tham gia của những
người bị ảnh hưởng được công khai rộng rãi trên phương tiện truyền thông.
b. Tiêu chí sự tham gia của người dân
- Bản chất của sự tham gia của người dân.
- Khả năng khiếu nại các vấn đề liên quan đến quá trình thu hồi đất của
những người bị ảnh hưởng.
- Có sự tham vấn của các chuyên gia, các cơ quan chuyên môn trong những
bước quan trọng của quá trình thu hồi đất như lựa chọn hình thức bồi thường, và lựa
chọn khu tái định cư.
c. Tiêu chí công bằng, hiệu lực của pháp luật
- Đối xử bình đẳng đối với những người bị ảnh hưởng, không phân biệt dân
tộc, tuổi tác, và địa vị trong xã hội.
- Người bị thu hồi đất được bảo đảm có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn sau
khi bị thu hồi đất.
57
- Bồi thường cho tất cả những người bị ảnh hưởng theo đúng pháp luật.
- Có sự tham gia của các chuyên gia và cơ quan chuyên môn để giúp đỡ
những người bị ảnh hưởng trong việc đánh giá giá trị bồi thường.
- Có sự đàm phán công khai giữa cơ quan quản lý và người dân.
- Những tranh chấp trong quá trình thu hồi đất được giải quyết tại tòa.
- Có đầy đủ cơ sở pháp luật và các quy định chi phối quá trình thu hồi đất.
- Có sự tôn trọng các tiêu chuẩn địa phương, truyền thống và phong tục khi
tiến hành thu hồi đất.
d. Tiêu chí trách nhiệm gi i trình
- Trách nhiệm được phân công rõ ràng và phù hợp đối với các cơ quan và
các cá nhân thực hiện nhiệm vụ thu hồi đất.
- Các nhóm xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông có thể kiểm tra
quá trình thực hiện của các cơ quan Nhà nước.
- Các cơ quan chuyên môn cấp trên hoặc đồng cấp với cơ quan có thẩm
quyền thực hiện thu hồi đất phải có khả năng kiểm tra quá trình thực hiện đó.
- Các quyết định của cơ quan có thẩm quyền là hợp lý đối với những người
bị ảnh hưởng.
2.1.4.3. Đề xuất các tiêu chí đánh giá công tác qu n l Nhà nước trong quá
trình thu h i đất nông nghiệp
a. Mục đích của bộ tiêu chí đánh giá
Luận án xây dựng hệ thống các tiêu chí như là một công cụ đánh giá một
cách hệ thống về khuôn khổ pháp luật, các chính sách, tổ chức thực hiện, và kiểm
tra, giám sát đối với quá trình thu hồi đất NN. Bộ tiêu chí này sẽ được sử dụng để
đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN, từ
đó chỉ ra những thành công đã đạt được và những hạn còn tồn tại, và nguyên nhân
cần khắc phục trong quá trình thu hồi đất này.
b. Đề xuất nội dung bộ tiêu chí đánh giá
- Bám sát định nghĩa, bản chất, mục đích và nội dung của quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN.
- Dựa trên quan điểm về quản trị Nhà nước tốt về thu hồi đất NN của WB và
FAO đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới.
- Tiếp thu kinh nghiệm xây dựng bộ tiêu chí đánh giá của WB và FAO về
58
thu hồi đất NN đã được nhiều quốc gia sử dụng.
- Luận án đề xuất bộ tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN, bao gồm hệ thống 07 nhóm tiêu chí (tính minh bạch, tính đáp
ứng, sự tham gia của người dân, tính công bằng, tính hiệu lực, tính hiệu quả, trách
nhiệm giải trình), 21 chỉ tiêu đánh giá cụ thể, với 03 mức độ (Tốt, trung bình, yếu),
cho 03 nội dung (xây dựng pháp luật và cơ sở pháp lý, tổ chức thực hiện, và kiểm
tra, giám sát) của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN như
trong bảng sau:
Bảng 2.1. Tiêu chí đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN
Phương pháp đánh giá
Nhóm tiêu chí 1. Tính minh bạch
59
1. Sự rõ ràng, công khai của chính sách, pháp luật và các quy định về thu hồi đất đối với người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Các quy định pháp luật về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất; xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất được trình bày rõ ràng và được công khai đối với người dân bị thu hồi đất - Trung bình: Các quy định về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất; xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất được trình bày rõ ràng nhưng chưa được công khai cho người dân bị thu hồi đất được biết - Yếu: Các quy định về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ tục thu hồi đất; định giá đất; xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất không được trình bày rõ ràng và không được công khai cho người dân bị thu hồi đất 2. Khả năng tiếp cận thông tin về Bảng giá đất địa phương của người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Người dân bị thu hồi đất dễ dàng tiếp cận thông tin nhanh, rõ ràng và chính xác - Trung bình: Người dân bị thu hồi đất có thể tiếp cận thông tin - Yếu: Người dân bị thu hồi đất không thể tiếp cận thông tin 3. Sự công khai về lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu
hồi đất đối với người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất NN được cung cấp đầy đủ và giải thích rõ ràng cho người dân bị thu hồi đất - Trung bình: Lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất NN được cung cấp cho người dân bị thu hồi đất được biết - Yếu: Lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất NN không được cung cấp cho người dân bị thu hồi đất
2. Tính đáp ứng
4. Việc sử dụng cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các nhóm đối tượng khi tiến hành thu hồi đất NN - Tốt: Cơ chế chia sẻ lợi ích được sử dụng thường xuyên - Trung bình: Có quy định về cơ chế chia sẻ lợi ích - Yếu: Không có quy định về cơ chế chia sẻ lợi ích 5. Sự phù hợp của chính sách, pháp luật, và các quy định về thu hồi đất NN với yêu cầu thực tiễn - Tốt: Các quy định về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất NN; trình tự thủ tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất phù hợp với yêu cầu thực tiễn; không có bất cập và không gây mâu thuẫn trong triển khai. - Trung bình: Các quy định về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất không gây mâu thuẫn lớn trong triển khai. - Yếu: Các quy định về các trường hợp áp dụng thu hồi đất; thẩm quyền thu hồi đất; hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất không phù hợp với yêu cầu thực tiễn; gây bất cập và mâu thuẫn lớn trong triển khai. 6. Khả năng khiếu nại, tố cáo của người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Có cơ chế và có kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của người dân - Trung bình: Có cơ chế nhưng chưa có kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của người dân - Yếu: Không có cơ chế và không có kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của người dân
60
3. Sự tham gia của người dân 7. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan (các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, các chuyên gia và các đơn vị truyền thông) vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN tại địa phương
- Tốt: Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến và các ý kiến được tiếp thu - Trung bình: Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến nhưng các ý kiến chưa được tiếp thu - Yếu: Người dân và các bên có liên quan không được hỏi ý kiến 8. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan (các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, các chuyên gia và các đơn vị truyền thông) vào xây dựng Bảng giá đất tại địa phương - Tốt: Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến và các ý kiến được tiếp thu - Trung bình: Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến nhưng các ý kiến chưa được tiếp thu - Yếu: Người dân và các bên có liên quan không được hỏi ý kiến 9. Sự đàm phán giữa cơ quan có thẩm quyền và người bị thu hồi đất về kế hoạch thu hồi đất NN - Tốt: Người bị thu hồi đất được hỏi ý kiến và có quyền quyết định kế hoạch thu hồi đất NN - Trung bình: Người bị thu hồi đất được hỏi ý kiến nhưng chưa có quyền quyết định kế hoạch thu hồi đất NN - Yếu: Người bị thu hồi đất không được hỏi ý kiến và không có quyền quyết định kế hoạch thu hồi đất NN 10. Sự đàm phán giữa cơ quan có thẩm quyền và người bị thu hồi đất NN về phương án bồi thường và hỗ trợ - Tốt: Người bị thu hồi đất được hỏi ý kiến và có quyền quyết định, lựa chọn hình thức và giá trị bồi thường, hỗ trợ - Trung bình: Người bị thu hồi đất được hỏi ý kiến nhưng chưa có quyền quyết định, lựa chọn hình thức và giá trị bồi thường, hỗ trợ - Yếu: Người bị thu hồi đất không được hỏi ý kiến và không có quyền quyết định, lựa chọn hình thức và giá trị bồi thường, hỗ trợ 11. Sự tham vấn các cơ quan độc lập, các chuyên gia để giúp đỡ những người bị thu hồi đất NN - Tốt: Có sự tham vấn và giúp đỡ những người bị thu hồi đất - Trung bình: Có sự tham vấn nhưng chỉ mang tính chất tham khảo - Yếu: Không có sự tham vấn
61
4. Tính công 12. Sự thỏa đáng của các khoản bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN
bằng
- Tốt: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ cao hơn giá trị đất đai của họ - Trung bình: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ tương đương với giá trị đất đai của họ - Yếu: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ thấp hơn giá trị đất đai của họ 13. Sự công bằng của các khoản bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ có thể đảm bảo mức sống tốt hơn sau thu hồi đất - Trung bình: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ có thể đảm bảo mức sống tương đương sau thu hồi đất - Yếu: Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ có mức sống kém đi sau thu hồi đất
5. Tính hiệu lực
62
14. Tính hiệu lực của việc chi trả các khoản bồi thường và hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Người dân bị thu hồi đất được nhận các khoản bồi thường và hỗ trợ đầy đủ theo đúng quy định - Trung bình: Người dân bị thu hồi đất có được nhận các khoản bồi thường và hỗ trợ - Yếu: Người dân bị thu hồi đất không được nhận các khoản bồi thường, hỗ trợ 15. Thời gian thanh toán các khoản bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Người dân bị thu hồi đất được nhận bồi thường và hỗ trợ đúng tiến độ nhanh chóng - Trung bình: Người dân bị thu hồi đất được nhận bồi thường và hỗ trợ theo tiến độ - Yếu: Người dân bị thu hồi đất nhận được bồi thường và hỗ trợ chậm trễ 16. Tính chất và thời gian giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân bị thu hồi đất NN - Tốt: Khiếu nại, tố cáo của người dân được giải quyết thỏa đáng và nhanh chóng - Trung bỉnh: Khiếu nại, tố cáo của người dân có được giải quyết - Yếu: Khiếu nại, tố cáo của người dân bị giải quyết chậm chễ, không được giải quyết, hoặc giải quyết không thỏa đáng
6. Tính hiệu quả
7. Trách nhiệm giải trình
63
17. Sử dụng ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện chính sách và pháp luật thu hồi đất NN tại địa phương - Tốt: Có đủ ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện chính sách và pháp luật thu hồi đất NN - Trung bình: Không đủ ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện chính sách và pháp luật thu hồi đất NN nhưng có thể khắc phục được - Yếu: Không đủ ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện chính sách và pháp luật thu hồi đất NN và gây bất cập lớn 18. Sử dụng tài nguyên đất sau khi thu hồi NN - Tốt: Đất sau khi thu hồi được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả - Trung bình: Đất sau khi thu hồi được sử dụng đúng mục đích - Yếu: Đất sau khi thu hồi không được sử dụng đúng mục đích 19. Sự trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN - Tốt: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN được phân công rõ ràng và không trùng lặp với nhau - Trung bình: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN bị trùng lặp với nhau - Yếu: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN không được phân công rõ ràng 20. Sự kiểm tra và yêu cầu giải trình của người dân và các bên liên quan (các nhóm chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, chuyên gia, các đơn vị truyền thông) đối với các cơ quan Nhà nước - Tốt: Người dân và các bên liên quan dễ dàng kiểm tra và yêu cầu giải trình - Trung bình: Người dân và các bên liên quan có thể kiểm tra và yêu cầu giải trình - Yếu: Người dân và các bên liên quan không thể kiểm tra và yêu cầu giải trình 21. Chế tài xử phạt khi các cơ quan Nhà nước không giải trình được - Tốt: Có chế tài xử phạt rõ ràng và được sử dụng thường xuyên - Trung bình: Có chế tài xử phạt - Yếu: Không có chế tài xử phạt
2.2. Kinh nghiệm quốc tế và trong nước về quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp
2.2.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia
2.2.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Nhà nước Trung Quốc đã xây dựng hệ thống pháp lý khá đồ sộ để phục vụ
quá trình thu hồi đất NN, bao gồm Luật Quản lý Hành chính Đất đai và Quy định
Trưng mua Đất đai 2011. Trong đó, chính sách và các thủ tục được quy định rất chi
tiết, ràng buộc, đảm bảo thực hiện quá trình thu hồi đất NN với mục tiêu tạo cơ hội
phát triển, tạo các nguồn lực sản xuất cho những người dân [53].
Ở Trung Quốc không tồn tại thị trường chuyển nhượng đối với đất NN, việc
định giá đất NN không được xác định theo cơ chế thị trường mà do chính quyền địa
phương quyết định khung giá đất. Trong khi đó, việc xác định bồi thường, hỗ trợ và
phục hồi sinh kế cho người dân bị thu hồi đất không dựa trên tính toán và phân tích
chi phí - lợi ích của dự án đem lại, đặc biệt những chi phí - lợi ích lâu dài của dự án
không được tính đến. Cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các đối tượng có liên quan gần
như không được sử dụng khi tiến hành thu hồi đất NN. Trong thực tế mức giá đất
NN được xác định quá thấp, trong khi nếu được thu hồi và chuyển sang mục đích
công nghiệp, phát triển đô thị và thương mại thì giá đất sẽ tăng lên rất nhiều lần và
chênh lệch rất lớn, thậm chí lên đến trên 10 lần [96].
Công tác thu hồi đất NN ở Trung Quốc trong thời gian dài tiến hành bằng
biện pháp chuyên chính mạnh của Nhà nước. Mặc dù Luật Quản lý Hành chính đất
đai đã nhiều lần được sửa đổi, yêu cầu việc thu hồi đất phải tiến hành theo quy trình
minh bạch, chính quyền phải công khai kế hoạch thu hồi đất, tạo cơ hội cho người
bị thu hồi đất được tham gia đàm phán theo nguyên tắc thị trường; nhưng trên thực
tế, việc tiến hành thu hồi đất ở nhiều nơi vẫn không dựa trên ý kiến của tập thể và
người nhân dân, từ đó đã dẫn đến hàng loạt các vụ khiếu kiện tập trung đông người
ở nhiều địa phương. Hơn nữa, Nhà nước Trung Quốc có tiếng nói quyết định trong
việc thu hồi đất và hầu như không có trách nhiệm giải trình với người dân trong quá
trình ra quyết định của mình. Trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất này là rất thấp.
Việc đảm bảo sinh kế và đời sống cho người dân hậu thu hồi đất còn nhiều
64
bất cập. Rất nhiều người dân gặp khó khăn sau khi bị thu hồi đất NN. Qua khảo sát
của Cục Thống kê Quốc gia của Trung Quốc đối với những người nông dân mất
đất, năm 2007, phát hiện ra rằng chỉ có 2,7% người nhận được việc làm sau khi bị
mất đất; 24,8% phải tự mình đi kiếm việc làm; 27,3% buôn bán nhỏ, và tới 20%
người dân ở nhà và thất nghiệp. Trong số những người nông dân mất đất, 60% trong
số họ nói rằng họ đang trong tình trạng kinh tế khó khăn, và 81% lo lắng về sinh kế
tương lai [79].
Trong quá trình thực hiện, hiệu lực của việc thực hiện các quyết định về kế
hoạch bồi thường, hỗ trợ và phục hồi sinh kế đã được ban hành cũng còn nhiều hạn
chế. Nhiều trường hợp thu hồi đất không tuân thủ pháp luật và quy định của Nhà
nước. Nhiều trường hợp thời gian thanh toán bồi thường không đúng tiến độ, thậm
chí không chi trả bồi thường, hoặc mức bồi thường rất thấp. Ở nhiều địa phương số
tiền bồi thường đất đai bị thu hồi mà người nông dân nhận được chỉ bằng số hoa
lợi tính ở thời điểm đất đai bị thu hồi.
Luật Trọng tài giải quyết tranh chấp kinh doanh, nhận thầu đất đai nông thôn
đã có đủ căn cứ pháp lý để người dân có thể tham gia tố tụng tại tòa khi có tranh
chấp. Tuy nhiên, tòa án không đóng một vai trò đáng kể trong việc định hình diện
mạo của hệ thống đất đai và các tranh chấp đất đai, mà chỉ đóng một vai trò bổ sung
và phụ trợ. Những trình tự, thủ tục pháp lý về khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện
của người dân về thu hồi đất được quy định rõ ràng nhưng thực hiện rất khó khăn.
2.2.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hệ thống pháp luật, các quy định làm căn cứ pháp lý cho quá trình thu hồi
đất NN ở Hàn Quốc khá công phu, bao gồm Luật Thu hồi đất năm 1962, Luật Các
trường hợp đặc biệt thu hồi đất phục vụ mục đích công và bồi thường thiệt hại năm
1975 và Luật Thu hồi đất cho các dự án công và bồi thường năm 2000 [52]. Quy
trình và các thông tin liên quan về trình tự, thủ tục thu hồi đất, kế hoạch và phương
án bồi thường được thể hiện rõ ràng và được công bố công khai cho tất cả những
người bị ảnh hưởng. Pháp luật Hàn Quốc cũng quy định các bước thông báo để
người dân nắm rõ về kế hoạch dự kiến với các chi tiết cụ thể về khu vực đất NN bị
thu hồi.
Hàn Quốc chỉ thực hiện thu hồi đất bắt buộc đối với những dự án xây
dựng công trình công cộng, và sử dụng vào mục đích công. Đối với những dự án
65
này, chính quyền luôn thực hiện thỏa thuận và đàm phán với người dân. Theo
thống kê của Cục Chính sách đất đai Hàn Quốc, ở Hàn Quốc có 85% tổng số các
trường hợp Nhà nước thu hồi đất thực hiện theo phương thức tham vấn; chỉ có
15% các trường hợp thu hồi đất phải sử dụng phương thức cưỡng chế [52]. Giá
trị bồi thường luôn được đàm phán giữa cơ quan có thẩm quyền và người bị ảnh
hưởng; người bị ảnh hưởng có quyền quyết định và có khả năng từ chối kế
hoạch và lựa chọn bồi thường.
Đối với các dự án phát triển công nghiệp và đô thị, chính phủ không tiến
hành thu hồi đất bắt buộc, mà sử dụng cơ chế điều chỉnh lại đất đai. Trong đó, chính
phủ phê duyệt quy hoạch phân bổ đất đai, quy hoạch các vùng đất để phát triển
công nghiệp và đô thị, sau đó thực hiện theo cơ chế góp đất giữa nhà đầu tư và
người dân, trên nguyên tắc chia sẻ lợi ích. Kinh phí đầu tư dự án và lợi ích từ dự án
được tính toán trên nguyên tắc chia sẻ lợi ích với các chủ sở hữu đất đai. Trong đó,
các chủ sở hữu có thể được nhận lại một phần đất thuộc khu vực đã chuyển đổi.
Pháp luật Hàn Quốc quy định, các nhà đầu tư tư nhân được phép đề nghị các dự án
đầu tư miễn là đạt được sự đồng thuận của 2/3 ý kiến của chủ sở hữu đất đai tại khu
vực đó [52]. Lúc này, người dân bị ảnh hưởng sẽ thành lập Ủy ban công dân để
tham vấn về kế hoạch tái định cư, bao gồm giá trị bồi thường, vị trí tái định cư và
các giải pháp khôi phục đời sống. Ngoài việc tham vấn thông qua Ủy ban công dân,
người dân có thể tham vấn về dự án thông qua Ủy ban về bồi thường.
Hỗ trợ người dân khôi phục kế sinh nhai không phải là bắt buộc theo pháp
luật thu hồi đất và bồi thường của Hàn Quốc, mà được quy định trong một vài luật
khác, như luật Thu hồi đất để làm đập ngăn nước và xây dựng thị trấn mới – thành
phố doanh nghiệp. Phục hồi kế sinh nhai có thể bao gồm đào tạo nghề, ưu tiên
tuyển dụng trong các dự án phát triển đô thị, và các khu vực dành cho hoạt động
thương mại.
2.2.1.3. Kinh nghiệm của Australia
Đây là quốc gia có thị trường đất đai rất phát triển nên quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN cũng theo hướng thị trường rất rõ nét.
Ở Australia có các quy định pháp luật về thu hồi cưỡng chế đất cho mục đích
công cộng của Chính phủ khối thịnh vượng Anh, của Chính phủ mỗi Bang, của các
cơ quan có thẩm quyền khác theo Luật định. Những cơ quan có thẩm quyền nói trên
66
là những tổ chức cung cấp các dịch vụ công như cấp, thoát nước, cung cấp điện,
giao thông, nhà ở, và các dịch vụ khác liên quan đến nhu cầu của cộng đồng. Trong
đó, Bang hay một địa hạt thực hiện quyền tối cao của mình đối với việc thu hồi đất
của tư nhân để phục vụ cho mục đích xây dựng công trình, dịch vụ và sử dụng công
cộng khác gắn với lợi ích công cộng và cho việc quản lý Nhà nước một cách có
hiệu quả. Thường sử dụng ngân sách để thực hiện những dự án này. Quyền cưỡng
chế thu hồi đất được Chính phủ giao cho một cơ quan có thẩm quyền thực hiện
bằng cách “mua lại” trên cơ sở thỏa thuận, hoặc trong trường hợp không đạt được
thỏa thuận thì áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Nguyên tắc chung khi tiến hành thu hồi đất là phải thực hiện đàm phán, thỏa
thuận giữa cơ quan Nhà nước và chủ đất về giá. Khi có sự không đồng thuận, chủ
yếu là hai bên không thống nhất được về số tiền bồi thường, thì người dân có thể
nhờ một Hội đồng không nhất thiết phải là Tòa án để xác định mức bồi thường. Cơ
quan phán quyết phải đảm bảo công bằng, khách quan và không nghiêng về quyền
lợi của bên nào; và quyền được đòi hỏi quyền lợi chính đáng của hai bên là ngang
nhau trước phán quyết của cơ quan có thẩm quyền.
Về cơ chế giải quyết khiếu nại thu hồi và đền bù đất, ở Australia có tòa án
riêng về đất đai. Luật cũng quy định rõ đối tượng được đòi bồi thường, những gì có
thể được bồi thường và tính toán bồi thường. Tất cả những ai có đất hoặc một quyền
nào đó về đất bị thu hồi đều có quyền khiếu nại về việc bồi thường chưa phù hợp.
Tuy nhiên, Luật quy định trong vòng 02 năm có thông báo về việc giải quyết khiếu
kiện về bồi thường mà không có đơn kiện nào thì coi như hết thời hiệu khiếu kiện.
2.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương
2.2.2.1. Kinh nghiệm của thành phố H Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong số ít những địa phương chú trọng vào
mô hình chuyển dịch đất đai theo hướng thị trường dựa trên nguyên tắc đồng thuận
giữa chủ đầu tư và người bị thu hồi đất. Ngay từ năm 2004, thành phố Hồ Chí Minh
đã yêu cầu thực hiện quy trình thỏa thuận giữa nhà đầu tư với những người đang sử
dụng đất đối với mọi dự án đầu tư có lợi ích của nhà đầu tư. UBND thành phố động
viên các nhà đầu tư tự nguyện thực hiện quá trình đối thoại với những người bị thu
hồi đất về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khi sự đồng thuận đạt được ít
67
nhất 70% số trường hợp mà không thể tiến triển thêm thì UBND thành phố mới can
thiệp bằng quyết định thu hồi đất với phần diện tích không thể thỏa thuận [40].
Đối với phần đất không đạt được sự nhất trí giữa nhà đầu tư và người dân thì
bắt buộc phải định giá đất thông qua dịch vụ định giá đất độc lập, sau đó thành lập
Hội đồng thẩm định giá để quyết định giá đất phù hợp. Nhà đầu tư có thể tự nâng
mức bồi thường, hỗ trợ cao hơn phương án được phê duyệt hoặc tự nguyện ứng
trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư v.v. để sớm nhận được bàn giao đất và sẽ
được khấu trừ tiền sử dụng đất sát với giá trị đã bỏ ra.
Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện cơ chế định giá đất độc lập để làm căn cứ
bồi thường công bằng. Đây là kinh nghiệm tốt cho các địa phương khác học tập.
Trong đó, giá đất bồi thường được xác định trên cơ sở thuê tư vấn tính giá bồi
thường, làm cơ sở cho UBND cấp huyện trình Hội đồng thẩm định và UBND thành
phố phê duyệt. Chính quyền yêu cầu bắt buộc phải định giá đất thông qua dịch vụ
định giá đất độc lập đối với các trường hợp thu hồi đất để xác định giá đất phù hợp
[40]. Thành phố Hồ Chí Minh hiện có khoảng 40 tổ chức định giá đất độc lập, có
vai trò quan trọng trong việc giúp chính quyền quyết định giá đất cụ thể cho sát giá
thị trường.
Tuy nhiên, phương án này cũng gặp không ít khó khăn trong thực hiện, bởi
vì cơ sở dữ liệu cho định giá đất chưa đầy đủ, chưa có bản đồ giá đất cho toàn thành
phố, năng lực của các tổ chức định giá độc lập không đồng đều v.v. Ngoài ra, chính
quyền chưa có các quy định nêu rõ quyền giám sát của người dân trong quá trình
điều tra, khảo sát giá đất phổ biến trên thị trường; cũng như chưa cho phép sự tham
gia của Ủy ban mặt trận tổ quốc địa phương tham gia giám sát, tổng hợp ý kiến,
kiến nghị, để bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Trong quá trình thu hồi đất, chính quyền thành phố có chú ý thực hiện chính
sách bồi thường đảm bảo quyền lợi của người dân bị thu hồi đất, tuy nhiên, trong
thực tế triển khai, vẫn nhiều trường hợp còn thiếu công bằng và không tuân thủ
đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật về đất đai. Nhiều dự án thu hồi đất
còn bất nhất trong bồi thường, áp dụng chính sách chưa phù hợp, gây bức xúc cho
68
người dân.
2.2.2.2. Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng thực hiện cơ chế thu hồi đất theo quy hoạch. Việc thu hồi đất trên
địa bàn thành phố do chính quyền đảm nhận dựa trên quy hoạch đã được phê duyệt.
trong đó, nhà đầu tư không tham gia vào quá trình này, đất giao cho nhà đầu tư là
quỹ “đất sạch” sau khi đã GPMB. Riêng đối với việc chỉnh trang đô thị và cải tạo
nâng cấp đường giao thông đô thị, ngoài thu hồi đất theo quy hoạch, Đà Nẵng còn
thực hiện cơ chế “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích
của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân [40].
Tuy nhiên, Đà Nẵng là một trong số ít những địa phương thực hiện thành
công việc thu hồi đất theo quy hoạch, khi chưa có nhà đầu tư nhận dự án. Mô hình
này chỉ phù hợp với các đô thị trung tâm cỡ nhỏ. Cách làm này khó có thể áp dụng
với nhiều địa phương khác nếu không có môi trường đầu tư hấp dẫn hoặc đối với
những khu vực miền núi và những khu vực đất không hấp dẫn các nhà đầu tư. Một
số tỉnh cũng đã thử nghiệm mô hình thu hồi đất theo quy hoạch nhưng gặp phải
nhiều khó khăn. Họ hoặc là không tìm được nguồn tài chính đủ để bồi thường khi
chưa có dự án đầu tư, hoặc là bị rơi vào lãng phí đất đã thu hồi khi quy hoạch sử
dụng đất không khả thi dưới tầm nhìn của nhà đầu tư.
Khi tiến hành thu hồi đất, chính quyền thành phố Đà Nẵng sẽ công khai
thông tin về quy hoạch, phương án đền bù, tái định cư, hỗ trợ thuê nhà; sau đó tổ
chức tiếp dân, lấy ý kiến và vận động người dân để đạt được sự đồng thuận. Trong
tất cả các trường hợp thu hồi đất, chính quyền đều tổ chức đối thoại với người dân
bị thu hồi đất tại các điểm dân cư, UBND thành phố lấy ý kiến người dân thông qua
các cuộc họp toàn thể các hộ trong diện GPMB. Khi có trên 80% người dân đồng
tình ủng hộ mới triển khai thực hiện. Trong các cuộc đối thoại này, Chủ tịch UBND
cấp tỉnh sẽ trực tiếp tổ chức đối thoại hoặc uỷ quyền cho Giám đốc Sở TN&MT
hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện tổ chức đối thoại với những người bị thu hồi đất về
quy hoạch phát triển cụ thể tại địa phương và trực tiếp trả lời câu hỏi của người dân.
Về bồi thường cho người dân, mức giá bồi thường khi tiến hành thu hồi đất
được thực hiện theo biểu giá chung của thành phố quy định, tuy nhiên, thành phố
69
Đà Nẵng không thực hiện bồi thường chủ yếu bằng tiền, mà sử dụng bồi thường
bằng tiền kết hợp với phương thức đất đổi đất với các quy định cụ thể về giá trị quy
đổi chứ không áp dụng theo giá thị trường. Thành phố ban hành tiêu chuẩn quy đổi
theo tỷ lệ đất thu hồi và tái định cư, phù hợp với quy định của pháp luật và có tham
khảo nguyện vọng của người dân. Tại nhiều dự án, các hộ dân tùy theo diện tích bị
thu hồi sẽ được chính quyền bồi thường đất tái định cư từ 01 cho tới tối đa 05 lô đất
khác. Việc bồi thường, bố trí tái định cư, người dân cũng được hỗ trợ một cách tốt
nhất để nhanh chóng ổn định cuộc sống, và có điều kiện sống tốt hơn.
Công tác giải quyết việc làm, tạo sinh kế, hỗ trợ người dân bị thu hồi đất
cũng được quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp sáng tạo. Chính quyền đẩy mạnh
các hoạt động cho vay vốn, hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm. Ngoài ra, đầu
tư thoả đáng cho đào tạo, dạy nghề, gắn dạy nghề với nhu cầu lao động của doanh
nghiệp. Thành phố phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn theo quy định
của Luật Dạy nghề theo hướng xã hội hoá. Chính quyền cũng thực hiện tốt việc
chuyển đổi ngành nghề giải quyết việc làm cho đối tượng thuộc diện thu hồi đất, di
dời giải toả. Thành phố tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cả về thủ tục hành
chính và cơ sở hạ tầng trong việc thành lập doanh nghiệp để đẩy mạnh các hoạt
động phát triển kinh tế để tạo việc làm [58].
Chính quyền thành phố cũng rất nỗ lực trong giải quyết khiếu nại về thu hồi
đất. Trong các trường hợp khiếu kiện đặc biệt, Chủ tịch UBND thành phố sẽ trực
tiếp bố trí tiếp dân, lắng nghe, chỉ đạo giải quyết các kiến nghị. Mọi vấn đề liên
quan đến bồi thường, GPMB, bố trí tái định cư đều có sự tham gia trực tiếp của
chính quyền địa phương từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc dự án.
2.2.2.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh
Từ một tỉnh NN, nổi tiếng với các làng nghề truyền thống, hiện nay, Bắc
Ninh là một địa phương có tốc độ thu hồi đất nhanh cho xây dựng các KCN, KĐT
và kết cấu hạ tầng. Công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN tại
Bắc Ninh có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong việc triển
khai các dự án, giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất, và cải thiện đời sống
cho người nông dân.
Khi thực hiện thu hồi đất NN, chính quyền tỉnh Bắc Ninh đã ban hành các
70
chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi; hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo sinh kế cho người dân [58]. Nhìn
chung, các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư được ban hành theo hướng có
lợi cho người dân khi bị thu hồi đất.
Trong quá trình thực hiện, chính quyền tỉnh cũng đã làm khá tốt công tác
tuyên truyền, vận động người dân, thông báo cho người dân bị thu hồi đất về lý do,
kế hoạch thu hồi, phương án tổng thể về bồi thường, GPMB, hỗ trợ và tái định cư
theo quy định. Ngoài ra, chính quyền đã thực hiện quy định khung giá và giá các
loại đất, thực hiện công khai quy hoạch từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Vì vậy, công
tác bồi thường, GPMB diễn ra tương đối thuận lợi, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi
mục đích sử dụng đất NN [58].
2.2.3. Bài học kinh nghiệm cho thành phố Hà Nội về quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Từ nghiên cứu kinh nghiệm quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN
của một số quốc gia và một số địa phương, có thể rút ra một số kết luận mang tính
tổng kết. Đây có thể là những bài học kinh nghiệm cho việc đánh giá thực trạng và
đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội.
Thứ nhất, bài học về nhận thức vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước
đối với thu hồi đất NN. Ở các nước Hàn Quốc và Australia đều quy định rất cụ thể
các trường hợp áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất bắt buộc. Đối với những dự án
khác nhau, vai trò quản lý của Nhà nước cũng không giống nhau. Ở hai quốc gia
này, Nhà nước chỉ trực tiếp tiến hành thu hồi đất đối với những dự án xây dựng các
công trình công cộng hoặc các công trình sử dụng công cộng. Còn đối với tất cả
những dự án khác, đặc biệt các dự án công nghiệp và đô thị, Nhà nước chỉ đóng vai
trò tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi để các đối tượng sử dụng đất tự thỏa
thuận, thực hiện việc chuyển đổi mục đích và chủ thể sử dụng đất. Trong đó, Nhà
nước xây dựng khung pháp lý, quy hoạch, cơ chế, cơ sở vật chất, kỹ thuật và thể
chế để giao dịch đất đai được diễn ra giữa các chủ thể.
Thứ hai, bài học về tạo cơ chế chia sẻ lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất NN.
Ở hầu hết các quốc gia, thu hồi đất luôn đặt ra bài toán tạo hài hòa lợi ích giữa Nhà
71
nước, nhà đầu tư và những người bị ảnh hưởng. Từ đó việc thực hiện bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư mới có thể tính toán đầy đủ được cả những lợi ích bằng tiền và
không bằng tiền, những lợi ích trước mắt, và những lợi ích lâu dài của dự án đem
lại. Điểm mấu chốt khi thực hiện thu hồi đất là phải đảm bảo hài hòa lợi ích của các
bên liên quan tới dự án thu hồi đất, đặc biệt quan tâm đến lợi ích của người dân bị
mất đất. Chỉ khi người dân được tham gia và hưởng lợi công bằng và minh bạch
vào các lợi ích của dự án thì mới có được sự đồng thuận và ủng hộ từ cộng đồng.
Hàn Quốc là quốc gia đã thực hiện rất tốt cơ chế này.
Thứ ba, bài học về cách tiếp cận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất. Để đảm bảo cuộc sống và sinh kế của người dân sau khi thu hồi đất nhất thiết
phải đảm bảo cuộc sống sau thu hồi đất tốt hơn hoặc ít nhất là bằng trước đó. Trong
đó, sau thời gian Nhà nước hỗ trợ mà người bị thu hồi đất vẫn chưa có đời sống ổn
định thì nhà đầu tư dự án được giao đất có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hỗ trợ bằng
kinh phí của mình như mức Nhà nước hỗ trợ cho tới khi người bị thu hồi dất có đời
sống ổn định như trước. Đây là bài học thấy được từ kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Thứ tư, bài học về thiết lập cơ chế đối thoại trong quá trình thu hồi đất NN.
Ở nhiều nước, đối với những dự án xây dựng công trình công cộng hoặc công trình
sử dụng công cộng, chính quyền luôn ưu tiên đàm phán và tham vấn người dân.
Cưỡng chế rất hạn chế thực hiện, và chỉ là biện pháp cuối cùng được thực hiện khi
mọi nỗ lực đàm phán giữa chính quyền với người dân không đạt được thỏa thuận.
Còn đối với những dự án khác, đặc biệt là những dự án phát triển công nghiệp và đô
thị, cơ chế Nhà nước thu hồi đất được mềm hóa thông qua đối thoại giữa nhà đầu tư
và những người dân bị thu hồi đất. Với mục đích và kết quả cuối cùng của đối thoại
là có đất để thực hiện dự án phát triển, Nhà nước trợ giúp hết lòng để người dân và
nhà đầu tư có thể đối thoại thành công và đạt được nhất trí. Thành công từ Hàn
Quốc và Australia, cũng như sự không thành công của Trung Quốc là bài học đắt
giá. Ở trong nước, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã làm tốt được điều này. Cơ quan
Nhà nước chỉ đóng vai trò trợ giúp khi cần thiết, tránh trường hợp Nhà nước dùng
quyền lực, cưỡng bức thu hồi đất khi người dân cảm thấy chưa thỏa đáng hoặc
không đồng tình. Mọi sự áp đặt đều không mang lại sự bền vững. Để tạo sự đồng
thuận, điều quan trọng nhất là chính quyền và nhà đầu tư phải thực lòng muốn đối
72
thoại với người dân, thực sự muốn nghe dân, hiểu được lòng dân, và tiếp thu ý kiến
người dân, để cộng đồng những người đang sử dụng đất hiểu và đồng thuận thực
hiện các dự án thu hồi đất. Thậm chí về lâu dài, có thể chỉ cho nhà đầu tư vận hành
dự án và thu lợi trong một số năm nhất định, sau đó phải chuyển giao cho địa
phương với vai trò làm chủ của cộng đồng.
Thứ năm, bài học về việc công khai và minh bạch các thông tin khi tiến hành
thu hồi đất. Tuyên truyền, vận động, công khai và minh bạch thông tin có vai trò hết
sức quan trọng, nhiều khi mang tính quyết định đến thành công của công tác thu hồi
đất. Kinh nghiệm thành công của Đà Nẵng đã thể hiện rõ vấn đề này.
Thứ sáu, bài học về ban hành và thực hiện các giải pháp đảm bảo sinh kế, hỗ
trợ, tạo việc làm và ổn định cuộc sống cho người dân sau khi thu hồi đất. Để giải
quyết hài hòa các lợi ích cần giải quyết thực thi đồng bộ các giải pháp từ xác định
giá đất, tổ chức thực hiện thu hồi đất, tuy nhiên các giải pháp về tạo việc làm, ổn
định thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi là rất quan trọng để đảm
bảo phát triển và ổn định tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Về vấn đề này
73
kinh nghiệm của Đà Nẵng và Bắc Ninh đã thể hiện rất rõ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong Chương này, các vấn đề lý thuyết về quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN đã được tổng hợp và phân tích. Trong đó, bản chất của quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN là thiết lập và thực hiện tất cả các quy tắc, cách
thức, quy trình, cấu trúc và các phương pháp mà các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền sử dụng, để định huớng, điều tiết, thúc đẩy, tạo điều kiện cho các quyết định
về chuyển mục đích sử dụng và chuyển đối tượng sử dụng đất. Cùng với các công
cụ như chính sách pháp luật, kế hoạch sử dụng đất, tài chính, hành chính và tuyên
truyền vận động, công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN sẽ thực
hiện ba nội dung trọng tâm, đó là : xây dựng cơ sở pháp lý về thu hồi đất NN làm
căn cứ cho quá trình thu hồi đất NN; tổ chức thực hiện thu hồi đất NN; và kiểm tra,
giám sát và giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quá trình thu hồi đất NN.
Các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất NN cũng đã được làm rõ trong Chương này.
Chương 2 đã thực hiện nội dung quan trọng là xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN, bao gồm 07 nhóm tiêu
chí, 21 chỉ tiêu, 03 mức độ, về 03 nội dung quản lý Nhà nước. Bộ tiêu chí này sẽ
được sử dụng để đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội ở Chương sau.
Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Australia đã được xem xét, cùng
với kinh nghiệm của một số địa phương trong nước là thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Bắc Ninh đã đem lại những bài học ý nghĩa đối với
74
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN tại Hà Nội.
CHƯƠNG 3
TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. Tổng quan tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.1.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Tháng 8/2008, sau khi mở rộng địa giới hành chính theo Nghị quyết số
15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội khóa XII, bao gồm toàn bộ diện tích
tự nhiên và dân số của thành phố Hà Nội (cũ), tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh
Phúc), 04 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình), Hà Nội với diện tích tự nhiên là
3.358,92km2, bao gồm 29 đơn vị hành chính trực thuộc, có 10 quận nội thành, 18
huyện ngoại thành, 01 thị xã, và 577 đơn vị hành chính cấp xã [16].
Bảng 3.1. Cơ cấu sử dụng đất NN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2009 - 2017
Năm Cơ cấu
2009 2013 2015 2017 Đất NN (ha) 189.314 187.151 197.648 196.009 Cơ cấu Đất phi NN và đất chưa sử dụng 145.146 145.301 138.253 5.296 56,6 56,3 58,8 58,3 43,4 43,7 41,2 41,7 Tổng diện tích đất (ha) 334.460 332.452 335.901 335.859
Ngu n: Tổng hợp từ số liệu của Cục Thống kê thành phố Hà Nội các năm
2009, 2013, 2015, 2017 [16], [17], [18], [20]
Có thể thấy, sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008, giai đoạn từ
2009 đến 2017, tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố Hà Nội tăng thêm 1.399
ha. Trong đó, diện tích đất NN tăng 6.695 ha trong 09 năm, còn diện tích đất phi
NN và đất chưa sử dụng lại giảm 5.296 ha trong cùng thời kì.
Qua hiện trạng sử dụng đất trong 03 năm gần đây (giai đoạn 2015 - 2017), có
thể thấy diện tích đất NN và đất chưa sử dụng có xu hướng giảm đi. Đất NN giảm
1.639 ha, còn đất chưa sử dụng giảm 266 ha từ năm 2015 đến 2017. Trong khi đó,
đất phi NN (bao gồm đất ở đô thị, đất ở nông thôn, và đất chuyên dùng) lại tăng
1.863 ha trong cùng khoảng thời gian này. Điều đó cho thấy, đất NN vẫn đang tiếp
75
tục là loại đất chủ yếu được thu hồi để phục vụ cho mục đích để ở và xây dựng.
Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất NN trên địa bàn Hà Nội
giai đoạn 2015 - 2017
Loại đất
TỔNG SỐ Đất NN - Đất sản xuất NN - Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất cỏ dùng vào chăn nuôi Đất trồng cây hàng năm khác - Đất trồng cây lâu năm - Đất lâm nghiệp có rừng Rừng sản xuất Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng - Đất nuôi trồng thuỷ sản - Đất NN khác Đất phi NN - Đất ở Đất ở đô thị Đất ở nông thôn - Đất chuyên dùng Đất trụ sở cơ quan, công trình Đất quốc phòng, an ninh Đất sản xuất, kinh doanh phi NN Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo, tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa Đất sông suối và mặt nước Đất phi NN khác Đất chưa sử dụng - Đất bằng chưa sử dụng - Đất đồi núi chưa sử dụng - Núi đá không có rừng cây Năm 2015 Diện tích (ha) 335.901 197.648 157.212 136.903 111.396 - 25.507 20.309 22.280 7.284 4.707 10.289 13.699 4.457 131.975 39.991 10.821 29.170 62.838 7.346 7.439 9.829 38.224 1.199 3.051 24.640 256 6.278 4.373 292 1.613 Năm 2016 Diện tích (ha) 335.892,0 197.795,4 157.050,3 136.853,2 111.267,5 - 25.585,7 20.197,1 22.280,2 7.284,5 4.706,5 10.289,2 13.614,3 4.850,6 131.831,7 40.078,1 10.858,8 29.219,3 62.760,2 7.373,0 7.452,7 9.824,7 38.109,8 1.204,1 3.061,1 24.477,2 251,0 6.264,9 4.360,3 292,0 1.612,6 Năm 2017 Diện tích (ha) 335.859 196.009 154.661 134.408 108.786 - 25.622 20.253 22.002 7.023 4.690 10.289 14.214 5.132 133.838 40.641 11.369 29.272 64.090 7.478 7.729 10.352 38.531 1.213 3.083 24.553 258 6.012 4.109 292 1.611
76
Ngu n: Tổng hợp từ số liệu của Cục Thống kê thành phố Hà Nội năm 2015, 2016, 2017 [18], [19], [20]
3.1.2. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Trong giai đoạn từ năm 2008 - 2018, để thực hiện nhiệm vụ chiến lược đẩy
mạnh CNH, HĐH, đáp ứng yêu cầu xây dựng Thủ đô phát triển nhanh và bền vững,
công tác thu hồi đất được chính quyền thành phố xác định là nhiệm vụ rất quan trọng.
Nếu như trong giai đoạn 2000 - 2007, bình quân mỗi năm, thành phố Hà Nội
thu hồi, GPMB 1.000 ha đất, thì từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, công
tác thu hồi đất, GPMB để phục vụ cho CNH và ĐTH tăng lên so với giai đoạn trước
đó. Số lượng các dự án phải thu hồi đất, bồi thường, GPMB ngày càng tăng cả về số
lượng cũng như quy mô dự án, năm sau nhiều hơn năm trước, liên quan đến nhiều
hộ dân. Đến tháng 8/2008, có tổng cộng 744 dự án thực hiện thu hồi đất, với tổng
diện tích thực hiện thu hồi đất là hơn 75.100 ha, trong đó có hơn một nửa - 389 dự
án là dành cho KĐT mới, khu nhà ở v.v., chiếm khoảng 39.100 ha đất, với số dân là
2,4 triệu người [35]. Tại thời điểm năm 2011, trên địa bàn thành phố Hà Nội có
1.090 dự án đầu tư có liên quan tới thu hồi đất, với quy mô thu hồi đất trên 10.574
ha; liên quan đến hơn 190.066 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; bố trí tái định cư cho
hơn 17.087 hộ [35]. Đến giai đoạn 2012 - 2016, tổng số dự án thực hiện thu hồi đất
tăng lên rất nhiều với 3.073 dự án, nhưng tổng diện tích thực hiện thu hồi đất là hơn
8.462ha - giảm đi so với giai đoạn trước. Tổng số tiền bồi thường trong giai đoạn
này là hơn 54.829 tỷ đồng; tổng số tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được hỗ trợ là
213.554; tổng số hộ gia đình được bố trí tái định cư là 9.924 [59].
Bảng 3.3. Tình hình thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội
giai đoạn 2000 - 2016
Năm Số dự án thực hiện (dự án) Tổng diện tích đất TH (ha)
2000 - 2007 1.476 7.274,661
2008 - 2011 1.249 12.012
2012 - 2016 3.073 8.462
Ngu n: Tính toán của tác gi từ Báo cáo của Bộ TN&MT về Công tác u n l Nhà
77
nước về đất đai trên địa bàn Hà Nội ua các năm từ 2000 - 2016 [4], [5]
1600
1400
1200
1000
Tổng dự án thực hiện thu hồi đất (dự án)
800
600
Tổng dự án cần đất NN thực hiện thu hồi (dự án)
400
200
0
2015
2016
2017
2018
Tính riêng về diện tích đất NN được tiến hành thu hồi những năm gần đây:
Tổng diện tích thực hiện thu hồi đất (ha)
Tổng diện tích đất NN thực hiện thu hồi (ha)
5000 4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 0
2015
2016
2017
2018
Đồ thị 3.1. Tổng số dự án thu hồi đất và tổng số dự án thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội triển khai giai đoạn 2015 - 2018
Đồ thị 3.2. Tổng số diện tích đất và tổng số diện tích đất NN triển khai thu hồi trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2015 - 2018 Ngu n: Tổng hợp từ Nghị u ết của UBND thành phố Hà Nội các năm từ 2015 - 2018 [27], [28], [30], [31]
Năm 2015 có 565 công trình, dự án thu hồi đất nằm trong danh mục được
UBND thành phố phê duyệt, với tổng diện tích đất là 1.375 ha; trong đó có 300
công trình, dự án chuyển mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ, với tổng diện tích
chuyển mục đích là 575 ha. Đến năm 2016, UBND thành phố phê duyệt số công
trình, dự án thu hồi đất tăng lên là 647, với diện tích là 1.561 ha; trong đó, số công
trình, dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng là 456, với diện tích là 1.011,5 ha. Sang năm 2017, có 869 công trình, dự
án thu hồi đất với diện tích là 2.748 ha được phê duyệt; trong đó có 390 công trình,
78
dự án chuyển mục đích đất trồng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng với diện tích là
832 ha. Năm 2018, con số này là 1.415 dự án thu hồi với trên 4.654 ha đất; 407 dự
án chuyển đổi mục đích sử dụng với trên 466 ha đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng.
Như vậy, trong giai đoạn 2015 - 2018, tổng số dự án và diện tích thu hồi đất
luôn tăng với số lượng lớn qua các năm; tuy nhiên số lượng dự án và diện tích
ĐNN được chính quyền thành phố phê duyệt thu hồi không có sự tăng lớn, thậm
chí còn giảm trong năm 2017 và 2018. Điều đó cho thấy chủ trương, chiến lược
phát triển và sự quan tâm của chính quyền thành phố trong việc giữ diện tích đất
NN không bị suy giảm mạnh trong những năm tới.
3.2. Công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
trên địa bàn Hà Nội
3.2.1. Về xây dựng cơ sở pháp lý về thu hồi đất nói chung, đất nông
nghiệp nói riêng làm căn cứ cho quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Để quá trình thu hồi đất NN diễn ra thuận lợi, đúng pháp luật, đạt được hiệu
quả cao trong việc thực hiện các dự án của Nhà nước, của địa phương cũng như
của các thành phần kinh tế, bên cạnh việc thực hiện các quy định của Luật Đất đai,
các Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn thi hành của Bộ TN&MT,
thành phố Hà Nội cũng đã đưa ra các văn bản pháp quy áp dụng cho địa phương
mình trong công tác thu hồi đất NN, bồi thường, hỗ trợ cho người dân. Từ sau khi
mở rộng địa giới hành chính năm 2008, trong điều kiện địa bàn Hà Nội mới,
UBND và HĐND thành phố đã phối hợp với các sở, ngành trong việc soạn thảo,
ban hành và bổ sung cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đất đai, trong đó có quá
trình thu hồi đất NN. Theo thông tin từ UBND thành phố Hà Nội thì công tác soạn
thảo, ban hành văn bản này rất được chính quyền quan tâm và đã có sự đầu tư thích
đáng, vì vậy chất lượng văn bản quy phạm pháp luật cũng ngày nâng cao.
Qua khảo sát của tác giả từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật của
thành phố Hà Nội, từ tháng 1/2009 đến tháng 12/2017, HĐND, UBND thành phố
đã công bố khoảng 74 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý
đất đai, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thu hồi đất NN, (bao gồm, HĐND
thành phố ban hành 9 nghị quyết; UBND Thành phố ban hành 65 quyết định).
79
Trong đó, có 17 văn bản điều chỉnh riêng quá trình thu hồi đất và thu hồi đất NN.
Trong cùng khoảng thời gian này, tổng số văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến lĩnh vực quản lý đất đai được HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành ở thành phố
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đều là 94, Hải Phòng là 46, và tỉnh Bắc Ninh là 31 văn
bản. Như vậy, nhu cầu về ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đất đai
nói chung và thu hồi đất nói riêng trên địa bàn Hà Nội là không nhỏ và rất được
quan tâm ban hành.
Trong đó có một số văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh trực tiếp quá
trình thu hồi đất NN như: Quyết định số 06/2017/QĐ-UBND ngày 3/3/2017 Về
việc Ban hành giá xây dựng mới nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc làm cơ sở xác định
giá trị bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước Thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 Ban hành quy định các nội dung
thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hà Nội về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số
11/2017/QĐ-UBND ngày 31/3/2017 Về việc ban hành quy định một số nội dung về
thu hồi, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 19/2017/QĐ-UBND ngày
30/5/2017 Về việc sửa đổi bổ sung quy định kèm theo Quyết định số 96/2014/QĐ-
UBND ngày 29/12/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành quy định
giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội áp dụng từ ngày 01/01/2015 đến
31/12/2019; Quyết định số 24/2017/QĐ-UBND ngày 13/7/2017 Về việc hỗ trợ đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn thành
phố Hà Nội v.v. [67], [68], [69], [70], [71], [72]. Các thông tin liên quan về quá
trình thu hồi đất NN được quy định trong những văn bản này, bao gồm thông tin về:
trường hợp áp dụng thu hồi đất NN; hồ sơ, trình tự thu hồi đất NN; thẩm quyền,
trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức trong quá trình thu hồi đất NN; quy định
bồi thường về đất, bồi thường, hỗ trợ về tài sản; các biện pháp hỗ trợ đào tạo nghề,
hỗ trợ việc làm, hỗ trợ tín dụng cho người dân bị thu hồi đất, các chính sách hỗ trợ
khác; phương pháp tính, bảng giá đất NN, giá các vật kiến trúc trên đất NN v.v. Đây
là những căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện công tác thu hồi đất NN trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
80
Trên thực tế, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được chính quyền
thành phố ban hành trong thời gian này đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các
tổ chức, cá nhân khi thực hiện các công việc liên quan đến quá trình thu hồi đất NN
trên địa bàn thành phố, và phù hợp với các Luật, Nghị định ban hành của Trung
ương, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Các quy định về
thu hồi đất NN, bồi thường hỗ trợ cho người dân ngày càng gần hơn với yêu cầu
thực tiễn. Các quy định này, một mặt, tạo cơ sở cho việc GPMB, giành đất cho nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, mặt khác, thể hiện sự quan tâm hơn của
Nhà nước đến quyền lợi của người dân bị thu hồi đất. Về trình tự thủ tục thu hồi đất
và giải quyết những vướng mắc trong công tác bồi thường, GPMB cũng được đơn
giản hóa và minh bạch hơn, tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
nhiệm vụ của mình đạt hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
3.2.2. Về tổ chức thực hiện thu hồi đất nông nghiệp
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đất NN được thu hồi để phát triển kinh tế,
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng với những trường hợp cụ thể được quy định
tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 [45]. Trong đó, đất NN được thu hồi để phục vụ
cho các dự án như xây dựng các công trình công cộng; phát triển cơ sở hạ tầng,
giao thông; phát triển KĐT, khu dân cư nông thôn, chỉnh trang đô thị; phát triển
KCN, KCX v.v.
Cơ chế thu hồi đất NN hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu là cơ
chế hành chính bắt buộc, dựa vào quy tắc hành chính và áp dụng biện pháp cưỡng
chế người bị thu hồi đất phải thực hiện quyết định hành chính về thu hồi đất. Với
trình tự, thủ tục được thực hiện qua 07 bước: (i) UBND cấp có thẩm quyền ban
hành thông báo thu hồi đất; (ii) Lập, phê duyệt dự toán chi phí tổ chức thực hiện
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; (iii) Họp dân và tổ chức điều tra hiện trạng, xác
nhận nội dung điều tra; (iv) Lập, niêm yết lấy ý kiến về dự thảo, hoàn chỉnh
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; (v) Hoàn chỉnh, thẩm định và phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; (vi) Quyết định thu hồi đất, Quyết định
phê duyệt và công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; chi trả tiền và
bàn giao mặt bằng; (vii) Quản lý, sử dụng quỹ đất thu hồi [69].
Hiện có hai hình thức thu hồi đất NN là thu hồi đất theo quy hoạch sử dụng
81
đất khi chưa có dự án đầu tư được chấp thuận, và thu hồi đất khi đã có dự án đầu tư
được chấp thuận cho khu đất đó. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, hiện nay, hình
thức chủ yếu được áp dụng là thu hồi đất NN khi đã có dự án đầu tư được chấp
thuận cho khu đất.
Các hộ dân đủ điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất NN sẽ
được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND thành phố quyết định Việc
xây dựng Bảng giá đất, trong đó có đất NN làm căn cứ bồi thường khi Nhà nước
tiến hành thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội được áp dụng các phương pháp và
nguyên tắc theo quy định của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ và Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT [7], [13]. Tuy nhiên,
trong thực tế triển khai xác định giá đất NN khá thấp. Ngoài bồi thường bằng tiền,
các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất có thể được cấp đất NN khác hoặc đất dịch
vụ, và hưởng các mức hỗ trợ khác như hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề, tìm việc làm, vay vốn v.v.
Để tiến hành tổ chức thu hồi đất NN, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền trên địa bàn Hà Nội đã tổ chức, sắp xếp bộ máy từ cấp tỉnh đến các cấp cơ
sở để đảm bảo thực hiện và phối hợp thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ được
giao. Trên địa bàn Hà Nội, các cơ quan quản lý Nhà nước tham gia vào quá trình
thu hồi đất NN được cơ cấu thành 03 cấp. Cấp tỉnh bao gồm HĐND Thành phố,
UBND Thành phố, Tòa án nhân dân Thành phố, Sở TN&MT, 05 Ban dự án quản
lý đầu tư xây dựng Thành phố, cùng các sở ngành khác. Cấp huyện gồm có:
HĐND cấp huyện, UBND cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp huyện, 26 Trung tâm
phát triển quỹ đất cấp huyện, Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp
huyện, Phòng TN&MT, và các phòng ban khác. Cuối cùng là cấp xã bao gồm:
HĐND cấp xã và UBND cấp xã.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước tham gia vào quá trình thu hồi đất
NN này đã thực hiện sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước, đào tạo
và đào tạo lại, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ về thu hồi đất NN cho đội
ngũ cán bộ, công chức để đảm bảo đảm nhận tốt công việc được giao. Trong thời
qua, nguồn nhân sự làm công tác thu hồi đất NN trên địa bàn TP được chính quyền
quan tâm cả về số lượng và năng lực chuyên môn để đảm bảo chất lượng thực thi.
Tuy nhiên, ở các cấp cơ sở - cấp huyện và đặc biệt cấp xã, vẫn có địa phương gặp
82
khó khăn khi cán bộ tham gia công tác GPMB còn thiếu trong khi số lượng dự án
cần GPMB trên bàn lại nhiều. Một người thường phải đảm nhiệm nhiều dự án nên
việc tham gia hướng dẫn ở cấp cơ sở còn hạn chế. Đặc biệt ở cấp xã, do biên chế cán
bộ địa chính ít, công chức làm kiêm nhiệm công tác GPMB là chính, trong cùng thời
gian được giao nhiều công việc, nên không theo dõi kịp thời tình hình và gặp nhiều
khó khăn trong việc theo sát các dự án thu hồi đất. Bên cạnh đó, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của một số cán bộ, công chức cũng còn chưa cao, công tác tập huấn
còn chưa kịp thời, nên trong quá trình thực hiện còn bị lúng túng và nhầm lẫn.
3.2.3. Về kiểm tra, giám sát, và giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan
đến quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật thu hồi đất
NN trên địa bàn Hà Nội được Sở TN&MT, Thanh tra Thành phố, Ban Chỉ đạo
GPMB Thành phố, UBND cấp huyện phối hợp với các sở, ngành khác tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát đối với cơ quan quản lý Nhà nước của UBND các cấp
và người sử dụng đất. Đối với quá trình thu hồi đất NN, quá trình kiểm tra, giám
sát được thực hiện hàng năm với các nội dung như: kiểm tra vi phạm mục đích sử
dụng đất, chậm GPMB, không đưa đất vào sử dụng trong vòng 12 tháng, chậm tiến
độ thực hiện dự án so với dự án đầu tư được phê duyệt v.v. Ngoài ra, công tác quản
lý và sử dụng đất NN được thu hồi còn được người dân (đại diện là Ban Thanh tra
nhân dân) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố tham gia vào hệ thống theo
dõi và giám sát. Có những nội dung triển khai theo định kì, có nội dung được kiểm
tra đột xuất.
Trên địa bàn Thành phố, vẫn còn tình trạng dự án treo, chậm tiến độ gây
lãng phí nguồn tài nguyên đất, và đã trở thành nỗi day dứt của chính quyền và gây
bức xúc cho người dân. Có những dự án mà chủ đầu tư thực hiện bằng nguồn vốn
ngoài ngân sách bị kéo dài thời gian thực hiện nhiều năm, thậm chí có dự án kéo
dài đến tận 15 - 17 năm, dẫn đến tình trạng đất để hoang hóa, trong khi người dân
không có đất sản xuất, đời sống khó khăn. Dự án treo trên địa bàn được phân thành
05 loại, bao gồm: những dự án có quyết định thu hồi đất nhưng chậm triển khai
công tác GPMB; những dự án không sử dụng đất trong 12 tháng liền kể từ khi
nhận bàn giao đất trên thực địa; những dự án chậm 12 tháng so với tiến độ được
83
phê duyệt; những dự án sử dụng đất chuyển nhượng trái phép, chủ đầu tư để đất bị
lấn chiếm, tranh chấp, sử dụng sai mục đích sử dụng; và các dự án chậm hoặc chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Đến năm 2018, theo kết quả của Đoàn giám sát tình hình quản lý các dự án
sử dụng đất chậm triển khai vào tháng 6/2018, Hà Nội còn 216 dự án (chiếm
khoảng gần 10% tổng số dự án thực hiện trên toàn thành phố) chậm đưa đất vào sử
dụng trong 12 tháng liên tục kể từ khi được bàn giao trên thực địa. Trong số đó, có
172 dự án chậm tiến độ thực hiện dự án trên 24 tháng, 72 dự án chưa hoàn thành
nghĩa vụ tài chính với số tiền lên tới 4.715 tỷ đồng. Còn đối với các dự án đầu tư
sử dụng vốn ngoài ngân sách chậm triển khai, theo thống kê từ Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Bộ TN&MT, cũng đến tháng 6/2018, trên địa bàn thành phố có hơn 300
dự án đã được rà soát từ trước năm 2012 thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất
nhưng chủ đầu tư chậm triển khai và chưa hoàn thành công tác bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, hoặc chậm GPMB cần điều chỉnh quy hoạch theo quy hoạch chung,
quy hoạch phân khu. Địa bàn tập trung nhiều nhất các dự án chậm tiến độ là tại 06
quận, huyện (Hà Đông, Nam Từ Liêm, Thanh Xuân, Mê Linh, Ba Vì, Hoài Đức),
với khoảng 200 dự án ngoài ngân sách chậm tiến độ.
Về công tác giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quá trình thu hồi
đất NN, Sở TN&MT, UBND cấp huyện tổ chức việc tiếp nhận, xử lý phản ánh vi
phạm pháp luật của tổ chức, công dân theo quy định. Qua số liệu các năm từ
UBND Thành phố Hà Nội, công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, số lượng khiếu
kiện luôn chiếm tỉ lệ cao (khoảng 70% tổng số đơn thư khiếu nại). Tại một số
10%
Khiếu nại về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
20%
Khiếu nại về giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
70%
Khiếu nại về cấp, thu hồi giấy CNQSDD
huyện có tình trạng khiếu kiện đông người và vượt cấp.
Đồ thị 3.6. Tỉ lệ khiếu nại về đất đai trên địa bàn Hà Nội
84
Ngu n: UBND thành phố Hà Nội
Theo đánh giá chung của các cơ quan chức năng, nội dung chủ yếu của các
đơn khiếu nại tập trung vào một số vấn đề vướng mắc về công tác bồi thường
GPMB như nguồn gốc đất của các tổ chức, hộ dân chưa rõ ràng; ý kiến về giá đất
NN bồi thường quá thấp; sau đó là ý kiến về cách tính giá trị bồi thường theo chính
sách mới; vấn đề về đảm bảo sinh kế cho người bị thu hồi đất, phát sinh nhiều chi
phí. Ngoài ra, còn có các ý kiến về các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư còn thiếu công khai, minh bạch, cũng như cơ chế phối
hợp giữa các cấp, các ngành chưa kịp thời và chặt chẽ v.v. Cùng với đó, là những
vướng mắc về chính phía người dân bị thu hồi đất khi được bồi thường thiệt hại. Có
những người dân chây ì hoặc có những hành vi cản trở quá trình thu hồi đất, không
chịu bàn giao mặt bằng khi đã có quyết định thu hồi đất; thậm chí cản trở tiến độ thi
công công trình, không nhận tiền bồi thường, không chịu di dời đến nơi ở mới.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất
nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Nội dung này được phân tích dựa trên các tiêu chí đã xây dựng ở Chương 2
dùng để đánh giá công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa
bàn Hà Nội, bao gồm 7 nhóm tiêu chí, với 21 chỉ tiêu đánh giá cụ thể, 03 mức độ
đánh giá, cho 03 nội dung quản lý Nhà nước; số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp thu
thập tại các địa điểm điều tra đã được trình bày trong phần Mở đầu luận án.
3.3.1. Tính minh bạch của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.1.1. Sự rõ ràng, công khai của chính sách, pháp luật và các u định về
thu h i đất đối với người dân bị thu h i đất NN
Theo khảo sát của tác giả, trên Cổng giao tiếp điện tử của UBND thành phố
Hà Nội, tất cả những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quá trình thu hồi
đất NN của trung ương và địa phương đều được công khai trực tuyến ở đây. Người
85
dân có thể truy cập nhanh chóng và miễn phí.
Bảng 3.5. Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương và các hộ
dân về công khai chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN tại địa phương
Đánh giá Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
Số hộ dân (hộ)
Số cán bộ, công chức (người) 32 32 100 100 246 230 100 93
Tổng số Có cung cấp văn bản pháp lý
Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2018
Phỏng vấn cán bộ, công chức cấp xã, cùng với các hộ dân trên địa bàn 08 xã
thuộc thành phố Hà Nội có đất NN bị thu hồi về tình hình công khai chính sách,
pháp luật cho người dân bị thu hồi đất NN, cho thấy hầu hết người được hỏi (100%
cán bộ công chức cấp xã, cùng với 93% hộ dân bị thu hồi đất NN) cho biết là khi
tiến hành thu hồi đất NN, các cơ quan chức năng có cung cấp những văn bản pháp
lý để người dân có thể nắm được. Như vậy, chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN
trên địa bàn thành phố Hà Nội được công khai khá tốt cho những hộ gia đình bị thu
hồi đất NN.
Đánh giá: Tốt (Các quy định pháp luật về trường hợp áp dụng thu hồi đất
NN; thẩm quyền trong thu hồi đất NN; trình tự thủ tục thu hồi đất NN; điều kiện
bồi thường thu hồi đất; xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất NN được
trình bày rõ ràng và được công khai tới người dân bị thu hồi đất).
3.3.1.2. Kh năng tiếp cận thông tin về B ng giá đất tại địa phương của
người dân bị thu h i đất nông nghiệp
phố và cổng giao tiếp điện tử của UBND thành phố Hà Nội, có đăng tải thông tin về
Theo khảo sát của tác giả, trên Cổng thông tin điện tử của Sở TN&MT thành
Bảng giá các loại đất hiện hành trên địa bàn thành phố được thể hiện trong Nghị
quyết số 14/2014/NQ-HĐND của HĐND thành phố Về giá các loại đất áp dụng từ
ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2019 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong đó,
bảng giá đất NN bao gồm đất NN trồng lúa nước và trồng cây hàng năm; đất nuôi
trồng thủy sản; và đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất. Giá các loại
đất này được chi tiết theo địa bàn các quận nội thành, khu vực giáp ranh các quận
86
nội thành, khu vực các huyện ngoại thành, và chi tiết theo địa hình đồng bằng,
trung du và miền núi [26]. Những thông tin này, người dân có thể truy cập trực
tuyến nhanh chóng, chính xác và hoàn toàn miễn phí. Như vậy, thông tin về bảng
giá đất được công khai trực tuyến tốt.
Tuy nhiên, về công khai thông tin bảng giá các loại đất tại trụ sở cơ quan,
qua khảo sát của tác giả vào thời điểm tháng 7/2018, tại 08 xã trên địa bàn Hà Nội,
đều chưa tốt. Khi đến các trụ sở các cơ quan, hỏi thông tin về bảng giá đất này, chỉ
đơn giản được cho biết là phải tìm thông tin trên trang web, và không được cung
cấp tại chỗ cho người dân được biết.
Ngoài ra, khảo sát người dân có đất NN bị thu hồi trên địa bàn 08 xã này vào
cùng thời điểm, khoảng hơn 40% tổng số người dân có đất NN bị thu hồi được hỏi
cho biết không biết thông tin về bảng giá đất tại địa phương. Trong số những người
biết thông tin về bảng giá đất, đa số trong số họ (74%) cho biết họ được biết thông
tin về giá đất là do chính quyền địa phương cung cấp, số còn lại là biết được từ
người khác hoặc tự tìm hiểu.
Bảng 3.6. Ý kiến các hộ dân về công khai Bảng giá đất của địa phương
Số hộ dân (hộ) 246 104 Tỷ lệ (%) 100 42
142 58 Đánh giá Tổng số Không biết thông tin về bảng giá đất của địa phương Có biết thông tin về bảng giá đất của địa phương
105 37 74 26 Do chính quyền cung cấp Từ nguồn khác và tự tìm hiểu
Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2018
Còn đối với người dân nói chung (bao gồm cả những người có và không có
đất NN bị thu hồi trên địa bàn Hà Nội), kết quả điều tra từ số liệu thống kê Chỉ số
Quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) của Hà Nội, qua các năm từ 2011 đến
2017 cho thấy người dân cảm thấy khá mơ hồ và đánh giá thấp mức độ công khai,
87
minh bạch về giá đất làm căn cứ bồi thường trên địa bàn Hà Nội.
2
1.5
1
0.5
Chỉ số công khai, minh bạch về quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất và giá đất bồi thường
0
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Đồ thị 3.7. Chỉ số công khai, minh bạch về quy hoạch/kế hoạch sử dụng đất và giá đất bồi thường tại Hà Nội
Ngu n: Tổng hợp của tác gi từ số liệu PAPI Hà Nội giai đoạn 2011 - 2017 [66]
Số liệu thống kê từ năm 2011 đến 2017, chỉ số công khai, minh bạch về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất và giá đất của Hà Nội đều nằm trong nhóm địa phương
đạt mức thấp nhất hoặc trung bình thấp trong cả nước. Trong đó, Hà Nội nằm trong
nhóm đạt điểm thấp nhất cả nước, năm 2011, 2012 (1,54; 1,61); và trong nhóm đạt
điểm trung bình thấp là 1,73; 1,86; 1,68; 1,70; 1,70 qua các năm từ 2013 đến 2017.
Đánh giá: Trung bình (Người dân bị thu hồi đất có thể tiếp cận thông tin
nhưng gặp khó khăn)
3.3.1.3. Sự công khai về lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu h i
đất đối với người dân bị thu h i đất nông nghiệp
Qua khảo sát người dân bị thu hồi đất NN tại 08 xã trên địa bàn Hà Nội vào
tháng 7/2018, 100% các hộ dân có đất NN bị thu hồi được hỏi khẳng định họ không
nhận được bất cứ tài liệu nào phân tích về lợi ích cũng như rủi ro của các dự án tiến
hành thu hồi đất NN.
Bảng 3.7. Ý kiến các hộ dân về công khai lợi ích - chi phí các dự án thu hồi đất NN tại địa phương
Đánh giá Tổng số Có được cung cấp tài liệu Không được cung cấp tài liệu Số hộ dân (hộ) 246 0 246 Tỷ lệ (%) 100 0 100
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Đối với những dự án thu hồi đất NN vì các mục đích công không vì lợi
88
nhuận như xây dựng các nhu cầu thiết yếu của xã hội do ngân sách thực hiện
(đường xá, đường sắt, bến cảng và sân bay; bệnh viện và trường học; trụ sở cơ
quan, các công trình điện, nước và nước thải; các công trình bảo vệ chống lại lũ lụt
và bảo vệ môi trường v.v.), người dân thông thường không hoài nghi về lợi ích của
những dự án này. Vì những dự án này phục vụ lợi ích của cả cộng đồng là rõ ràng,
mà ở đó khó có thể tìm ra lợi ích của một người hay một nhóm cá thể nhỏ lẻ.
Còn đối với những dự án thu hồi đất NN có kèm mục tiêu kinh doanh có lợi
nhuận như các dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách (xây dựng KĐT mới, cụm công
nghiệp, khu sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh, làm dịch vụ, xây dựng cơ
sở hạ tầng theo hình thức BOT v.v.), việc đánh giá tính “công” của lợi ích trở nên
khó khăn. Người dân thường hoài nghi về những lợi ích bản thân sẽ nhận được từ
dự án này; và thường có xu hướng cảm nhận rằng, lợi ích sẽ trực tiếp rơi vào túi nhà
đầu tư là nhiều.
Đối với những dự án đầu tư này, Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng
năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 đều yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp đầy đủ các
thông tin về doanh nghiệp, quá trình hoạt động, hiệu quả hoạt động, năng lực tài
chính, sự vi phạm pháp luật trong quá khứ v.v. [45], [46], [47]. Qua khảo sát của tác
giả, trên Cổng giao tiếp điện tử thành phố, Cổng thông tin của Sở TN&MT, Sở
NN&PTNT, thông tin của những dự án này có thể tìm thấy. Tuy nhiên, các hạng
mục thông tin, các loại thông tin và mức độ chi tiết của các thông tin này lại không
được quy định cụ thể, các nhà đầu tư thường tự thống nhất với các cơ quan quản lý
về nội dung thông tin công khai. Do đó, thông tin về các dự án thường không đảm
bảo tính nhất quán giữa các dự án khác nhau, và không đầy đủ để có thể đánh giá
tính khả thi và lợi ích từ dự án. Vì vậy, khi người dân tiếp cận với thông tin tổng thể
về dự án cũng không thể nắm được chính xác về tính khả thi của dự án cũng như chi
phí và lợi ích của dự án ảnh hưởng tới cộng đồng.
Đánh giá: Yếu (Lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất NN
không được cung cấp cho người dân bị thu hồi đất).
3.3.2. Tính đáp ứng của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.2.1. Việc sử dụng cơ chế chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa các nhóm đối
89
tượng khi tiến hành thu h i đất nông nghiệp
Mặc dù có chủ trương nhưng pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định
cụ thể về áp dụng cơ chế chia sẻ lợi ích hoặc chia sẻ rủi ro đối với các đối tượng
liên quan trong quá trình thu hồi đất NN. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, khi tiến
hành thu hồi đất NN, dựa chủ yếu vào quy tắc hành chính và áp dụng biện pháp
cưỡng chế người bị thu hồi đất phải thực hiện quyết định hành chính về thu hồi đất.
Trong các văn bản của chính quyền thành phố đều thiếu vắng quy định về các điều
khoản nhất quán về chia sẻ lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa các bên có liên quan.
Đối với những dự án thu hồi đất NN vì các mục đích công không vì lợi
nhuận, hoàn toàn phục vụ lợi ích của cả cộng đồng, thì lợi ích và rủi ro chủ yếu
được chia sẻ bởi người dân và cộng đồng dân cư địa phương. Vì vậy, người dân sẽ
được bồi thường và hỗ trợ theo các quy định của pháp luật. Còn đối với những dự
án bao gồm các hoạt động kinh doanh và có thu lợi nhuận, lợi ích và rủi ro của dự
án, ngoài người dân, cộng đồng thì có thêm nhà đầu tư cùng chia sẻ. Hiện nay cơ
chế chia sẻ lợi ích và rủi ro đối với những dự án này là chưa có. Ngoài việc nhà đầu
tư được khuyến khích xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết việc làm trong các dự
án đầu tư cho các lao động ở địa phương, không có bất kì văn bản quy phạm pháp
luật nào quy định cụ thể về trách nhiệm của nhà đầu tư đối với cộng đồng. Vì vậy,
thông thường, nhà đầu tư có những cam kết với chính quyền địa phương về việc trợ
giúp xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, đường xá hoặc tiếp nhận lao động vào
làm việc cho các dự án. Tuy nhiên, nhà đầu tư không cam kết với cộng đồng dân cư
mà chỉ cam kết với chính quyền địa phương như một điều kiện để được chính quyền
đồng ý kí thỏa thuận về đất đai, chứ. Ngoài ra, yêu cầu về biện pháp đảm bảo xã hội
đối với nhà đầu tư cũng không được lập thành văn và không được quy định. Vì vậy,
trên thực tế, các chính sách an sinh xã hội đối với người bị thu hồi đất NN trên địa
bàn Hà Nội như hỗ trợ sinh kế, hỗ trợ tìm việc làm v.v. đều thuộc trách nhiệm của
Nhà nước. Các hỗ trợ này được thực hiện trong thời gian nhất định, thường là 06
tháng đến 01 năm, mà không phụ thuộc vào việc an sinh xã hội đã được giải quyết
hay chưa.
Đánh giá: Yếu (Không có quy định về cơ chế chia sẻ lợi ích)
3.3.2.2. Sự phù hợp của chính sách, pháp luật, và các u định về thu h i đất
nông nghiệp với yêu cầu thực tiễn
90
a. Về điều kiện được b i thường khi Nhà nước thu h i đất nông nghiệp
Các hộ gia đình được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND
thành phố quyết định phải có đủ các điều kiện, giấy tờ phù hợp theo Điều 75 Luật
Đất đai năm 2013, Khoản 3 Điều 18 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP và sửa đổi, bổ
sung tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính
phủ [14], [15].
Tuy nhiên, trên thực tế triển khai, phát sinh một số vấn đề phức tạp, hay xảy
ra tranh chấp, khiếu nại đối với các trường hợp không có các loại giấy tờ hợp pháp
theo các quy định ở trên. Chẳng hạn, căn cứ để xem xét bồi thường, hỗ trợ trong
các trường hợp này là người sử dụng đất vào thời điểm sử dụng đất phải có sự xác
nhận đất đã được sử dụng ổn định, không có tranh chấp của UBND cấp xã. Đối với
các trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ
như quy định, nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 01/7/2004 đến thời điểm
có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm pháp luật về đất
đai, được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phải phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm
dân cư nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt từ trước đó.
Trên địa bàn thành phố, các trường hợp sử dụng đất sau thời điểm ngày
01/7/2004 là rất nhiều, nhưng khi Nhà nước thu hồi đất và tiến hành tổ chức thực
hiện bồi thường thì việc xác định người sử dụng đất “đủ điều kiện được cấp” các
loại giấy tờ về đất lại không dễ dàng. Bởi vì, có rất nhiều trường hợp không thể xác
định được người sử dụng đất có vi phạm quy hoạch hay không vì ở vào thời điểm
đó chưa có văn bản nào quy định về hình thức công bố quy hoạch để làm căn cứ
xác định tính chất phù hợp pháp luật của người sử dụng đất. Ngoài ra, có nhiều
trường hợp không đủ giấy tờ để xác minh nguồn gốc, và quá trình sử dụng đất của
các hộ dân do quá trình quản lý và lưu trữ hồ sơ qua các thời kỳ không đầy đủ và
chính xác. Hoặc, nhiều trường hợp khác có hiện tượng bị sai lệch về diện tích thực
tế so với diện tích trên bản đồ và sổ sách của địa phương. Những trường hợp không
đủ giấy tờ theo quy định này gây nên không ít khó khăn khi điều tra, xác minh
nguồn gốc đất, chủ sử dụng hợp pháp, diện tích, và ranh giới của khu đất. Việc tìm
nguyên nhân của những sai lệch, và thực hiện điều chỉnh là rất khó khăn. Đây là
91
một trong những vấn đề tập trung nhiều đơn khiếu nại của người dân nhất.
b. Về h nh thức thu h i đất nông nghiệp
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, hiện nay, hình thức chủ yếu được áp dụng là
thu hồi đất NN khi đã có dự án đầu tư được chấp thuận cho khu đất.
Bảng 3.8: Ý kiến của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về hình thức thu hồi đất NN
Ý kiến Tổng số Thu hồi đất NN theo quy hoạch Thu hồi đất NN theo dự án Số ý kiến 32 11 21 Tỷ lệ (%) 100 34 66
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Qua khảo sát, đa số cán bộ, công chức địa phương, chiếm (66%) tổng số
người được hỏi ủng hộ hình thức thu hồi đất NN theo dự án như hiện nay hơn là
theo quy hoạch. Theo họ, hình thức thu hồi đất NN theo dự án có ưu điểm là
không bị rơi vào tình trạng đất thu hồi xong bị bỏ hoang vì đã có dự án đầu tư,
nhưng lại hay gây ra khiếu nại của người bị thu hồi đất về giá đất không phù hợp
do dự án đầu tư đã được chấp thuận nên người bị thu hồi đất nhìn thấy giá đất
trong tương lai gần sẽ cao hơn hiện tại và đòi được bồi thường theo giá đất hướng
tới tương lai. Điều này cũng thể hiện bất cập trong việc xác định giá bồi thường
cho người dân bị thu hồi đất khi chưa tính đến giá trị sinh lợi đất đai của họ sau
khi bị thu hồi đất. Nhưng cán bộ, công chức địa phương vẫn ủng hộ hình thức thu
hồi đất này vì cho rằng hình thức này sẽ đảm bảo đủ nguồn tài chính để bồi
thường, hỗ trợ khi đã có dự án đầu tư.
c. Về tr nh tự thu h i đất nông nghiệp
Trình tự, thủ tục thu hồi đất NN được thực hiện qua 7 bước, bao gồm: ban
hành thông báo thu hồi đất; lập, phê duyệt dự toán chi phí tổ chức thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; họp dân và tổ chức điều tra hiện trạng, xác nhận nội
dung điều tra; lập, niêm yết lấy ý kiến về dự thảo, hoàn chỉnh phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh, thẩm định và phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; quyết định thu hồi đất và phê duyệt, công khai phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; chi trả tiền và bàn giao mặt bằng; sử dụng quỹ đất
92
thu hồi [69].
Bảng 3.9: Đánh giá của người dân về trình tự, thủ tục thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tổng số Phù hợp Chưa phù hợp Số hộ dân (hộ) 246 73 173 Tỷ lệ (%) 100 30 70
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Thiếu minh bạch Rườm rà 133 40 77 23
Chỉ chiếm 30% các hộ dân có đất NN bị thu hồi được tiến hành khảo sát
đồng tình với trình tự, thủ tục tiến hành như hiện nay. Trong khi đó 70% người
được hỏi cho rằng quá trình này còn chưa phù hợp, với nguyên chủ yếu là thiếu
minh bạch, một số khác cho rằng rườm rà. Theo họ, để đảm bảo tính minh bạch, cần
phải tiến hành họp dân ở bước đầu tiên để lấy ý kiến của dân và đàm phán với dân
trước khi phê duyệt dự án đầu tư và thông báo thu hồi đất NN.
d. Về định giá đất NN làm căn cứ b i thường
Theo quy định tại Luật Đất đai, việc định giá của Nhà nước phải tuân thủ
các nguyên tắc là phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng
mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, phù hợp giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất
đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất;
cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng
sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.
Nhưng trên thực tế tại Hà Nội, thị trường thứ cấp đất NN không tồn tại, đất
NN hầu như không được trao đổi mua bán trên thị trường (trên địa bàn thành phố có
khoảng 1 - 2% diện tích ĐNN được mua bán) nên thông tin dữ liệu trên thị trường
về giá đất NN là rất hạn chế. Trong khi đó, đất NN là loại đất có thu nhập hàng năm
nên được áp dụng phương pháp thu nhập để xác định giá thay vì dựa trên giá thị
trường. Tuy nhiên, do thu nhập từ sản xuất NN thấp giá đất được xác định bằng
cách này là quá thấp so với giá các loại đất khác, chẳng hạn như đất ở. Dẫn đến bức
xúc của người dân trong những trường hợp thu hồi đất, bồi thường cho người dân
theo giá đất NN rất thấp, nhưng sau khi thu hồi được chuyển sang sử dụng xây dựng
KĐT, KCN thì lại được bán trên thị trường với giá cao hơn rất nhiều. Đây là bất cập
93
lớn thể hiện sự không công bằng trong tính toán giá đất NN so với các loại đất khác,
dẫn đến sự bất bình, không thỏa mãn của người dân, và là nguyên nhân của tình
trạng người dân khiếu kiện kéo dài.
Đánh giá: Yếu (Các quy định về hình thức và cơ chế thu hồi đất; trình tự thủ
tục thu hồi đất; điều kiện bồi thường thu hồi đất; định giá đất gây bất cập và mâu
thuẫn lớn trong triển khai)
3.3.2.3. Kh năng khiếu nại, tố cáo của người dân bị thu h i đất nông nghiệp
Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, không có Tòa án riêng để xét xử
những khiếu nại và tố cáo của người dân trong lĩnh vực đất đai và thu hồi đất NN,
nhưng những quy định về khiếu nại, tố cáo về đất đai đã được quy định khá cụ thể
trong hệ thống pháp luật. Luật khiếu nại, Luật đất đai, Luật tố tụng hành chính và các
Nghị định hướng dẫn đã quy định về trình tự, thủ tục, nơi nhận đơn khiếu nại, thời gian
giải quyết, hình thức và văn bản giải quyết, nội dung giải quyết v.v. Tuy nhiên, trên địa
bàn Hà Nội, rất ít trường hợp khiếu nại, tố cáo của người dân về hu hồi đất NN được
thực hiện tại Tòa án. Sở TN&MT, UBND cấp huyện là địa chỉ người dân gửi đơn
khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất NN nhiều nhất. Ngoài ra, cũng có những trường hợp
khiếu kiện đông người hoặc gửi đơn vượt cấp lên UBND cấp cao.
Bảng 3.10. Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia khiếu nại, tố cáo
thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tỷ lệ (%)
Tổng số Đã từng khiếu nại, tố cáo Chưa từng khiếu nại, tố cáo Số người dân 246 47 199 100 19 81
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Qua khảo sát người dân, chiếm gần 20% các hộ dân được hỏi cho biết đã
từng gửi đơn khiếu nại, tố cáo về liên quan đến thu hồi đất NN, và họ không gặp
khó khăn khi gửi đơn khiếu nại, tố cáo này đến các cơ quan chức năng.
Đánh giá: Tốt (Có cơ chế và kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của dân).
3.3.3. Sự tham gia của người dân và các bên vào công tác quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.3.1. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan vào
quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thu h i đất nông nghiệp
94
Đối với quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản
lý đất đai nói chung và thu hồi đất NN nói riêng, pháp luật có quy định về quy trình
thực hiện cụ thể từ khâu dự thảo, tổ chức lấy ý kiến các bên liên quan đến khâu
thẩm định của Sở Tư pháp.
Theo khảo sát cán bộ chính quyền địa phương, 100% văn bản quy phạm
pháp luật của UBND thành phố về thu hồi đất NN ban hành đều bảo đảm đúng quy
trình này. Các cán bộ, công chức địa phương được khảo sát cho rằng 80% các ý
kiến đóng góp được tiếp thu. Hầu hết các ý kiến góp ý đều có chất lượng tốt, giá trị
thực tiễn cao, ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng của văn bản và nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Bảng 3.11: Ý kiến của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về lấy ý kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tổng số Không thực hiện lấy ý kiến Có thực hiện lấy ý kiến Số ý kiến 32 0 32 Tỷ lệ (%) 100 0 100
25 7 80 20
Có tiếp thu góp ý Không tiếp thu góp ý
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thu
hồi đất NN, chỉ có đại diện người dân được hỏi ý kiến, những người dân còn lại
không trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo, xây dựng văn bản pháp luật tại địa
phương. Cộng đồng người dân chỉ có thể phản ánh, kiến nghị, góp ý hoặc đặt câu
hỏi thắc mắc cho chính quyền bằng cách gửi ý kiến đến cơ quan chức năng tại văn
phòng UBND các cấp hoặc Cổng giao tiếp điện tử của UBND các cấp.
Bảng 3.12: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia góp ý về chính sách, pháp luật thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tổng số Chưa từng góp ý, đặt câu hỏi Đã từng góp ý, đặt câu hỏi Số hộ dân (hộ) 246 221 25 Tỷ lệ (%) 100 90 10
9 16 39 61
Có được trả lời và tiếp thu Không được trả lời và tiếp thu
95
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Qua khảo sát, rất ít người dân được hỏi (chỉ 10%) đã từng tham gia đóng góp
ý kiến trong quá trình xây dựng pháp luật, chính sách về thu hồi đất NN. Hơn nữa,
số ý kiến được tiếp thu và trả lời là 39%. Người dân cho biết đa số các ý kiến của họ
có được trả lời và giải thích nhưng tỉ lệ được tiếp thu là rất ít.
Đánh giá: Trung bình (Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến
nhưng không được tiếp thu)
3.3.3.3. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan
vào quá trình xây dựng Bảng giá đất của địa phương
Công tác xây dựng bảng giá các loại đất làm cơ sở thanh toán bồi thường
cho người dân khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất NN trên địa bàn thành phố Hà
Nội được xây dựng trực tiếp bởi UBND thành phố và Sở TN&MT thành phố Hà
Nội. Theo quy định về trình tự xây dựng bảng giá đất tại Thông tư của Bộ
TN&MT thì yêu cầu tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
về dự thảo bảng giá đất và hoàn thiện dự thảo bảng giá đất. Như vậy chỉ có một số
đại diện cụ thể tham gia vào quá trình xây dựng bảng giá đất, việc hỏi ý kiến về dự
thảo định giá đất cũng chỉ tập trung vào một số đối tượng, chứ không lấy ý kiến
rộng rãi từ dân chúng.
Bảng 3.13: Kinh nghiệm của các hộ dân dân tham gia góp ý xây dựng Bảng giá đất tại địa phương
Ý kiến Số hộ dân (hộ) Tỷ lệ (%)
246 221 25 100 90 10
2 23 8 92
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Tổng số Chưa có cơ hội đóng góp ý kiến Đã từng có cơ hội đóng góp ý kiến Không được chấp Được chấp nhận nhận
Theo khảo sát những hộ gia đình bị thu hồi đất, tương tự với quá trình
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về thu hồi đất NN, đại đa số người
dân không có cơ hội tham gia xây dựng Bảng giá đất tại địa phương. Tới 90%
96
số người được hỏi chưa có cơ hội đóng góp ý kiến về xây dựng Bảng giá đất này.
Chỉ có 10% các hộ dân đã từng có cơ hội góp ý, nhưng hầu hết cũng không được
chấp nhận.
Đánh giá: Trung bình (Người dân và các bên có liên quan được hỏi ý kiến
nhưng không được tiếp thu)
3.3.3.3. Sự đàm phán giữa cơ uan có thẩm quyền và người bị thu h i đất về
kế hoạch thu h i đất nông nghiệp
Trên địa bàn Hà Nội, kế hoạch thu hồi đất NN được xây dựng và quyết định
bởi UBND cấp huyện, trong đó, người dân bị ảnh hưởng không được đàm phán
hoặc hỏi ý kiến, mà chỉ được thông báo về kế hoạch và tiến độ tiến hành thu hồi đất
và GPMB tại nơi cu trú.
Bảng 3.14: Ý kiến của các hộ dân về công khai kế hoạch thu hồi đất NN
tại địa phương
Ý kiến Tổng số Số hộ dân (hộ) 246 Tỷ lệ (%) 100
170 69
76 31
Có được thông báo về kế hoạch thu hồi đất NN Không được thông báo về kế hoạch thu hồi đất NN
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Kết quả khảo sát người dân bị thu hồi đất NN trên địa bàn 08 xã cho thấy, đa
số người dân được hỏi trả lời có được thông báo về kế hoạch thu hồi đất NN, trong
đó có kế hoạch về kiểm đếm đất đai và tài sản, kế hoạch về lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, kế hoạch GPMB. Còn một số hộ (chiếm 31% tổng số hộ
được hỏi) thì cho biết không biết những thông tin này. Qua tìm hiểu của tác giả,
thông báo kế hoạch thu hồi đất NN không được gửi trực tiếp về từng hộ gia đình,
mà được gửi tới các cụm dân cư qua kênh trưởng thôn và được thông báo trên loa
phát thanh xã. Những người không biết thông tin là do không tham gia họp tại thôn,
xóm, hoặc không tiếp nhận được thông tin từ loa phát thanh của xã.
Đánh giá: Yếu (Người dân bị thu hồi đất NN không được hỏi ý kiến)
3.3.3.4. Sự đàm phán giữa cơ uan có thẩm quyền và người bị thu h i đất về
phương án b i thường và hỗ trợ
97
Trên thực tế, việc thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội thiếu quá trình đàm
phán với người dân trên cơ sở động viên sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ
chức xã hội và sự tham gia trực tiếp của người dân bị thu hồi đất. Người dân có đất
NN bị thu hồi không có quyền quyết định, cũng như không có khả năng từ chối các
quyết định từ cơ quan Nhà nước. Nếu không đồng tình hoặc không thỏa mãn với
các quyết định của cơ quan chức năng trong quá trình thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, người dân chỉ có thể gửi đơn khiếu nại và đợi giải quyết theo pháp
luật. Ngoài ra cũng không có cơ quan chính thức nào khác với cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất làm nhiệm vụ hỗ trợ những người bị ảnh hưởng phân tích và xác
định giá trị bồi thường họ nhận được có phù hợp không.
Cụ thể, trong Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc lấy ý kiến đóng góp
của người dân trong lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Trong đó, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và phối hợp với UBND cấp xã nơi có
đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo
hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi. Đồng
thời, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư này cũng phải được niêm yết công
khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất
thu hồi. Sau đó, các ý kiến đóng góp được tổng hợp bằng văn bản, ghi rõ số lượng
ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Cùng với đó là Tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, GPMB phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối
với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; và hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định rõ tỷ lệ bao nhiêu phần trăm ý kiến
người bị thu hồi đất đồng ý với phương án bồi thường thì được coi là đồng tình (ví
dụ 75% hay 100%), và bao nhiêu phần trăm ý kiến người bị thu hồi đất không
đồng tình với phương án bồi thường thì được coi là không đồng tình. Tương tự,
cũng không quy định cụ thể là trong trường hợp đa số ý kiến người bị thu hồi đất
NN không đồng tình với phương án bồi thường thì phương án này có được điều
chỉnh, sửa đổi, hay bổ sung hay không; và trường hợp nào sẽ được điều chỉnh toàn
bộ, trường hợp nào sẽ điều chỉnh một phần phương án bồi thường. Hơn nữa, Luật
98
Đất đai cũng không quy định rõ trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền trong trường hợp không thay đổi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi đại đa số ý kiến đóng góp của người bị thu hồi đất NN không đồng tình
với phương án này. Chính sự không rõ ràng và thiếu cụ thể trong việc quy định khi
lấy ý kiến đóng góp của người dân về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất NN dễ dẫn tới việc lấy ý kiến hiện nay chỉ mang nặng tính hình thức mà
không thực chất.
Ngoài ra, khi tiến hành thu hồi đất NN, thông thường, các địa phương trên
địa bàn Hà Nội có kế hoạch thu hồi đất NN và GPMB, thì sẽ có thông báo thu hồi
đất, dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, cùng các quyết định có liên quan khác.
Theo các quy định pháp luật (Điều 29, Điều 30 Nghị định 69/2009 của Chính phủ;
Điều 21 Luật phòng chống tham nhũng), phương án bồi thường phải được niêm yết
tại trụ sở UBND cấp xã và tại khu dân cư nơi có đất bị thu hồi để xin ý kiến của
người dân bị ảnh hưởng. Thời gian niêm yết theo quy định này ít nhất là 20 ngày kể
từ ngày bắt đầu niêm yết [12], [43]. Trong đó các nội dung về phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư bắt buộc phải công khai là: Thông báo thu hồi đất; Dự
thảo phương án bồi thường; hỗ trợ và tái định cư; Quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Còn một số thông tin khác như: Biên bản xác
nhận công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Biên bản lấy ý kiến về
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Quyết định thu hồi đất, thì không bắt
buộc công khai.
Theo khảo sát 14 dự án thuộc 08 xã trên địa bàn Hà Nội, sau khi niêm yết
được 20 ngày, chính quyền địa phương có thể gỡ bỏ việc niêm yết thông tin này. Do
vậy, khi tác giả đến cơ sở để tiếp cận thông tin và đề nghị cán bộ phụ trách cung cấp
thông tin này, thì câu trả lời thường gặp là “phương án bồi thường về GPMB đã
được niêm yết rồi” hay “công tác bồi thường đã hoàn tất”. Điều này gây khó khăn
trong việc xác định xem địa phương nào đã thực sự niêm yết phương án bồi thường,
hỗ trợ và địa phương nào không thực hiện đúng quy định này.
Kết quả khảo sát đối với người dân về việc được hỏi ý kiến đối với phương
án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất NN cho thấy: chiếm tỷ lệ
lớn hơn (69%) người dân được hỏi trả lời là có được hỏi ý kiến về phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi họ bị thu hồi đất NN. Tuy nhiên, những ý kiến của họ
99
góp ý, phần lớn không được tiếp thu và chấp nhận, tỉ lệ này chiếm tới 85%. Còn
một số hộ (31%) không biết thông tin hoặc không được hỏi ý kiến về phương án bồi
thường, hỗ trợ khi bị thu hồi đất NN.
Bảng 3.15: Kinh nghiệm của các hộ dân về tham gia góp ý phương án
bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tỷ lệ (%)
Số hộ dân (hộ) 246 71 100 31
170 69
Tổng số Không được hỏi ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Có được hỏi ý kiến hỏi ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Được chấp nhận 26 144 15 85
Không được chấp nhận
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Trên thực tế triển khai trên địa bàn thành phố Hà Nội đã ghi nhận nhiều
trường hợp người dân thuộc diện bị thu hồi đất NN nhưng không được thông báo
hoặc thông báo không đầy đủ về việc GPMB và phương án bồi thường đã gây nhiều
bức xúc và khiếu nại trong dân. Chẳng hạn, có trường hợp, khi có phương án, dự
toán kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB, Ban bồi thường niêm yết công khai tại trụ
sở UBND cấp xã và Hợp tác xã NN, nhưng UBND cấp huyện không có quyết định
kèm theo phương án bồi thường chi tiết gửi cho các hộ dân bị thu hồi đất NN. Chỉ
khi có yêu cầu thì UBND cấp huyện mới giao cho hộ dân. Hoặc, có trường hợp,
Ban bồi thường niêm yết phương án, dự toán kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB
nhưng không hỏi ý kiến người dân, không có quyết định gửi về cho các hộ dân, đến
khi thực hiện kiểm đếm đất đai và tài sản trên đất, người dân không hợp tác thì lại
thông báo về cho các hộ dân là chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định.
Đánh giá: Trung bình (Người dân bị thu hồi đất NN được hỏi ý kiến nhưng
không có quyền quyết định, lựa chọn hình thức và giá trị bồi thường, hỗ trợ)
3.3.3.5. Sự tham vấn các cơ uan độc lập, các chu ên gia để giúp đỡ những
người bị thu h i đất nông nghiệp
Pháp luật đã có quy định và hướng dẫn cùng thủ tục, hồ sơ về thuê đơn vị tư
vấn xác định giá đất cụ thể, và hệ số điều chỉnh giá đất làm căn cứ bồi thường, hỗ
100
trợ khi Nhà nước thu hồi đất NN. Tuy nhiên, lại chưa có quy định bắt buộc sử dụng
hoạt động tư vấn định giá đất này để đề xuất giá bồi thường khi tiến hành thu hồi
đất NN.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đã có một số các tổ chức tư nhân tư vấn giá
đất nhưng năng lực định giá còn chưa được thẩm định. Chưa có các tổ chức chuyên
nghiệp nào của Nhà nước được giao chịu trách nhiệm chính về thẩm định kết quả
định giá đất của các tổ chức tư vấn giá độc lập như trên. Bên cạnh đó, cũng chưa
có hành lang pháp lý để thống nhất quản lý hoạt động định giá tư nhân này. Bộ
TN&MT, Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính quản lý khác nhau hoạt động này. Khung
pháp lý cho hoạt động tư vấn giá độc lập chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu hỗ trợ
trong việc xây dựng Bảng giá đất và định giá cụ thể. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật về dịch vụ định giá đất, cơ chế phân định khi có các tranh chấp về kết quả
định giá cũng vẫn còn thiếu. Vì vậy giá đất do các tổ chức tư vấn đất đưa ra trên
thực tế chỉ để sử dụng khi giao dịch dân sự là chủ yếu, chứ hầu như không được sử
dụng làm căn cứ chi trả bồi thường, hỗ trợ trong quá trình thu hồi đất NN.
Đánh giá: Yếu (Không có cơ quan tham vấn)
3.3.4. Tính công bằng của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.4.1. Sự thỏa đáng của các kho n b i thường và hỗ trợ cho người dân bị
thu h i đất nông nghiệp
Khi bị thu hồi đất NN, việc bồi thường cho người dân chủ yếu dựa trên giá
đất NN đã được chính quyền xây dựng theo Bảng giá đất chung của thành phố. Tuy
nhiên theo phân tích ở nội dung trước, giá đất NN được xác định dựa trên phương
pháp thu nhập nên có giá rất thấp so với giá các loại đất khác. Trong khi thị trường
đất NN gần như không tồn tại, thông tin dữ liệu trên thị trường về giá đất NN là rất
hạn chế. Việc xác định giá trị bồi thường trên cơ sở này là chưa thỏa đáng.
Ngoài bồi thường bằng tiền, chính quyền cũng đã đưa ra các giải pháp bồi
thường khác, hỗ trợ về nhiều mặt nhằm đảm bảo đời sống cho người dân sau khi bị
thu hồi đất NN. Chẳng hạn như các phương án bồi thường bằng đất dịch vụ, hỗ trợ
ổn định đời sống, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
101
làm cho người dân bị thu hồi đất.
Bảng 3.16: Đánh giá của các hộ dân về mức giá bồi thường nhận được
tại địa phương
Ý kiến Tổng số Thỏa đáng Muốn nâng giá bồi thường Số hộ dân (hộ) 246 78 168 Tỷ lệ (%) 100 32 68
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Tuy nhiên rất nhiều người dân cho rằng với mức bồi thường hỗ trợ họ nhận
được là chưa thỏa đáng. Theo khảo sát, phần lớn người dân (68% tổng số người
được hỏi) cho rằng việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất NN là chưa tương
xứng, và không tính hết các chi phí mà người dân đã bỏ ra cũng như chưa tính đến
giá trị sinh lợi mà đất đai của họ có thể đem lại sau khi thu hồi.
Hầu hết những hộ dân không đồng tình với mức bồi thường và hỗ trợ như
hiện nay là những gia đình có đất NN bị thu hồi để sử dụng các dự án phục vụ cho
sản xuất, kinh doanh có thu lợi nhuận. Trong khi số tiền bồi thường, hỗ trợ nhận
được là quá thấp so với lợi nhuận của nhà đầu tư thu được khi đất NN sau đó được
chuyển sang xây dựng KĐT hay đấu thầu làm đất dịch vụ và công nghiệp. Đây
cũng là bất cập lớn và thiếu công bằng đối với người dân trong chi trả bồi thường,
hỗ trợ. Và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến các khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ thu
hồi đất luôn ở mức cao trong tổng số các khiếu nại về đất đai.
Đánh giá: Yếu (Người dân được bồi thường và hỗ trợ thấp hơn giá trị đất đai
của họ)
3.3.4.2. Sự công bằng của các kho n b i thường và hỗ trợ cho người dân bị
thu h i đất nông nghiệp
Cuộc sống của người dân trên địa Hà Nội sau khi bị thu hồi đất và nhận các
khoản bồi, thường hỗ trợ đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ trước. Chẳng hạn,
Đặng Hùng Võ, năm 2013, chỉ ra rằng một số hộ gia đình phải đối mặt với sinh kế
bấp bênh, và rất nhiều hộ gia đình mất đất bị thất nghiệp, đặc biệt là người già và
những người nông dân không có trình độ cao [74]. Theo tác giả, giá đất bồi thường
và hỗ trợ chưa bảo đảm để người dân phục hồi lại sản xuất, kinh doanh và tái tạo,
ổn định lại cuộc sống như trước khi bị thu hồi đất NN; vì vậy, người dân sau khi bị
thu hồi đất NN sẽ không còn đất để sản xuất NN, mất nguồn thu nhập chính, bị đẩy
102
vào cuộc sống khó khăn. Hay trong một nghiên cứu khác ở vùng ven đô Hà Nội,
Phạm Thị Thủy, năm 2012, chỉ ra quá trình thu hồi đất NN có tác động hai mặt đối
với hộ gia đình nông thôn [63]. Trong khi một số người nông dân mất đất kiếm
được thu nhập cao hơn so với công việc đồng áng, thì một số người khác, đặc biệt
những người có trình độ giáo dục thấp và lớn tuổi lại rơi vào tình trạng thất nghiệp
và bần cùng hóa về thu nhập.
Có nhiều nghiên cứu khác về cuộc sống của nông dân hậu thu hồi đất NN
trên địa bàn Hà Nội chỉ ra rằng việc thu hồi đất NN làm mất việc làm và thu nhập từ
NN nhưng lại mở ra những cơ hội việc làm phi NN cho các hộ gia đình mất đất. Rất
nhiều hộ đã thích ứng một cách tích cực với bối cảnh mới bằng việc đa dạng hóa lao
động của họ trong công việc lao động thủ công. Đào Trung Chính, năm 2014 phát
hiện rằng những cơ hội việc làm phi NN được tạo ra nhiều hơn nhờ quá trình gia
tăng ĐTH và CNH, và điều này làm cho những người dân địa phương không còn ý
định tiếp tục làm nghề nông nữa [22]. Trần Thị Lan, năm 2013 phát hiện ra rằng sau
khi bị thu hồi đất ở một số vùng của Hà Nội, các hộ gia đình mất đất nhiều hơn có
sự thay đổi nghề rõ ràng hơn và có thu nhập cao hơn những hộ bị thu hồi đất ít hơn.
Tác giả khẳng định việc chuyển đổi và thu hồi đất NN có tác động tích cực trong
dài hạn tới lợi ích của người dân bị thu hồi đất [35]. Một nghiên cứu khác của Trần
Quang Tuyến, năm 2014 cho thấy việc thu hồi đất NN không có các tác động tiêu
cực tới lợi ích của người nông dân ven đô Hà Nội ở khía cạnh thu nhập và chi tiêu
trong ngắn hạn, hơn nữa việc chuyển đổi đất còn có tác động gián tiếp và tích cực
tới đời sống người dân qua việc khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động kinh
tế phi NN có lợi tức cao hơn NN [56].
Qua các nghiên cứu trên có thể thấy, sau khi mất đất sản xuất và được nhận
các khoản bồi thường và hỗ trợ, một số người già và người có trình độ giáo dục thấp
sẽ gặp khó khăn về việc làm và thu nhập bấp bênh. Tuy nhiên, đối với nhiều người,
đây lại là cơ hội tốt để chuyển đổi nghề tạo thu nhập cao hơn.
Theo khảo sát của tác giả trên địa bản 08 xã, chiếm 40% tổng số người dân
được hỏi cho biết kinh tế gia đình của họ tốt hơn sau khi họ bị thu hồi đất NN và
nhận các khoản bồi thường và được hỗ trợ, và chiếm 41% tổng số người dân được
hỏi cho rằng họ có mức sống tương đương sau khi bị thu hồi đất. Số còn lại, ít hơn
103
(12%) người dân được hỏi cho rằng sau khi nhận các khoản bồi thường và được hỗ
trợ, kinh tế gia đình của họ kém hơn. Như vậy, cuộc sống của đa số người dân hậu
thu hồi đất không xấu đi tương đối so với trước đó.
Bảng 3.17: Đánh giá của các hộ dân về kinh tế gia đình sau khi bị thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tỷ lệ (%)
Tổng số Tốt hơn Tương đương Kém đi Số hộ dân (hộ) 246 98 120 28 100 40 48 12
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Đánh giá: Trung bình (Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ có thể
đảm bảo mức sống tương đương sau thu hồi đất)
3.3.5. Tính hiệu lực của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.5.1. Tính hiệu lực của các kho n b i thường và hỗ trợ đối với người dân
bị thu h i đất nông nghiệp
Về cơ bản, phần lớn các hộ dân trên địa bàn thành phố Hà Nội đánh giá việc
bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo đúng trình tự và quy định của Nhà nước.
Tuy nhiên có một số nhận định về sự không minh bạch trong tính toán giá đất bồi
thường thấp hơn so với giá thị trường hoặc không đúng với bảng giá đất của thành
phố, và yêu cầu phải làm rõ cách tính toán bồi thường. Sự việc này chủ yếu xuất
phát từ cách làm của chính quyền địa phương khi công khai, giải thích thông tin,
tiến hành họp tại nơi cư trú, và vận động người dân chưa được rõ ràng và tường tận.
Hoặc có trường hợp người dân cho rằng có sự không nhất quán khi so sánh các dự
án khác nhau có mức bồi thường khác nhau do không được giải thích rõ sự thay đổi
của chính sách quy định ở mỗi giai đoạn có khác nhau. Có ý kiến khác thì chỉ ra có
hiện tượng tham ô ở cấp thôn, xóm khi ăn bớt các quỹ công từ tiền bồi thường thu
104
hồi đất NN của người dân ở địa phương.
Bảng 3.18: Đánh giá của các hộ dân về tính hiệu lực khi bồi thường,
hỗ trợ cho người dân
Ý kiến Tỷ lệ (%)
Tổng số Đúng quy định Không đúng quy định Số hộ dân (hộ) 246 150 96 100 61 29
Thiếu minh bạch Thiếu nhất quán 61 35 64 46
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Đánh giá: Trung bình (Người dân bị thu hồi đất được nhận các khoản bồi
thường và hỗ trợ nhưng không đầy đủ).
3.3.5.2. Thời gian thanh toán b i thường và hỗ trợ cho người dân bị thu h i
đất nông nghiệp
Theo khảo sát, có khoảng 68% chủ sử dụng đất NN bị TH nhận được bồi
thường trong vòng 01 năm. Số còn lại bị kéo dài thời gian thanh toán bồi thường
và hỗ trợ hơn 01 năm, có dự án tới 05 năm, thậm chí là 07 năm.
Bảng 3.19: Đánh giá của các hộ dân về tiến độ chi trả bồi thường và hỗ
trợ tại địa phương
Ý kiến Tỷ lệ (%)
Tổng số Trong vòng 1 năm Hơn 1 năm Số hộ dân (hộ) 246 167 79 100 68 32
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Theo sở TN&MT, trong thực tế triển khai vừa qua trên địa bàn thành phố, có
nhiều dự án chậm GPMB kéo dài qua nhiều năm, qua nhiều nhiệm kì chính quyền,
thậm chí vắt qua nhiều cơ chế chính sách liên tục thay đổi do vướng mắc về cơ chế
giá bồi thường. Các dự án chậm chủ yếu là dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách.
Nguyên nhân các dự án bị chậm tiến độ chủ yếu là do chủ đầu tư không đủ
năng lực tài chính để triển khai thực hiện GPMB; thay đổi người đại diện; chuyển
nhượng dự án; hoặc đầu tư không đúng tiến độ được giao; và nợ nghĩa vụ tài chính
với Nhà nước. Về phía quản lý Nhà nước, do chính sách bồi thường, hỗ trợ GPMB
105
có thay đổi, một số người dân không chấp hành quyết định thu hồi đất hoặc thỏa
thuận nhiều lần không thành. Ngoài ra, hồ sơ quản lý đối với các dự án vốn ngoài
ngân sách không đầy đủ nên khó phát hiện, xử lý các vi phạm xảy ra.
Về phía người dân, cơ bản người dân đồng tình ủng hộ triển khai các dự án.
Chỉ những trường hợp không bàn giao mặt bằng, chính quyền địa phương phải áp
Bồi thường không thỏa đáng
5%
5%
8%
Sự thay đổi, điều chỉnh của chính sách bồi thường, hỗ trợ
40%
Trình độ hạn chế của cán bộ làm công tác vận động, thuyết phục
17%
Người dân thiếu ý thức, không hợp tác
Chính quyền thiếu kiên quyết xử lý những đối tượng chây ì
25%
Thiếu phối hợp giữa chính quyền địa phương và báo đài
dụng biện pháp hành chính và cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Đồ thị 3.8: Ý kiến của các hộ dân về nguyên nhân chậm tiến độ GPMB
Ý kiến người dân có đất NN bị Nhà nước thu hồi theo khảo sát cho rằng
nguyên nhân chủ yếu khiến một số người dân không hợp tác, chây ì làm chậm tiến
độ GPMB của các dự án phần lớn là do không đồng tình với mức giá bồi thường
(chiếm 40%). Nguyên nhân lớn khác (khoảng 25% người được hỏi) cho rằng sự
chậm trễ đến từ sự thay đổi về chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người dân, và
công tác vận động, thuyết phục còn hạn chế của chính quyền địa phương. Ngoài ra
còn do người dân thiếu ý thức không hợp tác, chính quyền thiếu kiên quyết xử lý
những đối tượng chây ì, và thiếu phối hợp đồng bộ giữa chính quyền địa phương
và báo đài.
Đánh giá: Trung bình (Người dân được nhận bồi thường và hỗ trợ nhưng
chậm tiến độ)
3.3.5.3. Tính chất và thời gian gi i quyết khiếu nại, tố cáo của người dân
Như đã phân tích ở nội dung trước, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
chiếm đến 70% tổng số đơn khiếu nại, tố cáo tại Hà Nội, tập trung chủ yếu là sự
106
không đồng tình của người dân về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước tiến hành thu
hồi đất. Ngoài ra, một số nguyên nhân khác dẫn đến khiếu nại của người dân như
không đủ giấy tờ và hồ sơ lưu trữ hợp lệ nguồn gốc đất, giá trị bồi thường thay đổi
do chính sách Nhà nước thay đổi, không nhất quán và minh bạch trong quá trình thu
hồi ở các dự án v.v.
Trên thực tế, việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo này của người dân có
được chính quyền quan tâm giải quyết. Theo quy định của pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại được quy định rất rõ ràng. Thời gian giải quyết lần đầu kể từ
khi nhận được đơn chỉ có 10 ngày chuẩn bị và 30 ngày giải quyết. Theo đánh giá
của Thanh tra thành phố Hà Nội, thành phố đã tiếp nhận, xử lý các vụ việc cơ bản
đúng trình tự, thời hạn giải quyết theo quy định pháp luật. Trên địa bàn thành phố,
các quyết định giải quyết lần đầu đã được ban hành khá nhiều (khoảng từ 60 - 70%)
các vụ việc khiếu nại về thu hồi đất trong 03 năm gần đây.
Tuy nhiên, tại một số huyện phát hiện việc giải quyết không theo trình tự
pháp luật. Có trường hợp thẩm quyền giải quyết không đúng, hình thức văn bản
không đúng, kéo dài thời gian, thậm chí im lặng. Ngoài ra, việc giải thích, phân
loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo nhiều khi không chính xác, không đúng thẩm
quyền; có hiện tượng đơn chuyển đi rồi nhưng người khiếu nại, tố cáo không biết,
dẫn đến việc họ lại gửi đơn đi nhiều nơi, thậm chí trực tiếp đến các đồng chí lãnh
đạo. Hơn nữa, việc thực hiện quy trình giải quyết các vụ việc có một số khâu chưa
hợp lý, có nhiều lỗi trong quá trình thực hiện thủ tục tiến hành thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Bên cạnh đó, chất lượng giải quyết các vụ việc của một số đơn vị chưa cao
dẫn đến việc người dân tục khiếu nại, tố cáo lên cấp trên. Người có thẩm quyền, do
sức ép về trách nhiệm giải quyết, đã chỉ quan tâm trước hết là ban hành quyết định
giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn luật định mà chưa quan tâm nhiều
đến hiệu quả của việc giải quyết, chưa quan tâm đến phương án đưa ra trong giải
quyết của mình có khả thi không, có được người khiếu nại chấp nhận hay không,
chưa quan tâm đến việc tìm ra sự đồng thuận giữa các bên trong tranh chấp. Đặc
biệt là chưa cố gắng thuyết phục người khiếu nại chấp nhận phương án giải quyết
của chính mình. Nói một cách tiêu cực là giải quyết cho “xong chuyện”, cho hết
trách nhiệm. Đây chính là vấn đề cần quan tâm và có biện pháp nâng cao trách
107
nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong việc nâng cao trách
nhiệm đối với quyết định giải quyết thuộc thẩm quyền của mình. Bên cạnh đó, việc
thanh tra, thẩm tra nội dung tố cáo, khiếu nại còn kéo dài; việc thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm đối với các cấp, các ngành trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại,
tố cáo vẫn còn hạn chế.
Như vậy, có thể thấy một thực tế có thể coi là một nghịch lý là các cơ quan
có trách nhiệm đã cố gắng nhiều trong việc giải quyết, tỷ lệ các vụ việc được coi là
“đã giải quyết” luôn đạt tỷ lệ rất cao (60 - 70%) những vụ việc thuộc thẩm quyền
nhưng số vụ việc khiếu nại về đất đai không có chiều hướng giảm mà vẫn ở mức
cao và có tình trạng tiếp khiếu và khiếu nại vượt cấp. Điều này cho thấy chất lượng
và hiệu quả giải quyết khiếu nại về thu hồi đất NN không cao, chưa đạt được thỏa
mãn đối với người dân. Hàng năm, số lượng đơn khiếu nại, tranh chấp về đất đai
trên toàn thành phố luôn ở mức cao, và tính chất của các vụ khiếu nại cũng phức
2017
2016
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
tạp, khiếu nại đông người, vượt cấp vẫn xảy ra.
Đồ thị 3.9: Chỉ số đáp ứng kiến nghị của người dân trên địa bàn Hà Nội
Ngu n: Tổng hợp của tác gi từ số liệu PAPI Hà Nội năm 2016, 2017 [66]
Theo đánh giá của người dân từ thống kê PAPI, người dân trên địa bàn Hà
Nội đánh giá tính đáp ứng của giải quyết kiến nghị của chính quyền chưa cao. Chỉ
số đáp ứng kiến nghị của người dân trên địa bàn Hà Nội trong năm 2016 và 2017
đều trong nhóm các địa phương đạt điểm thấp nhất cả nước, trong đó năm 2016 là
1,05, và 2017 là 1,17.
108
Đánh giá: Yếu (Khiếu nại, tố cáo của người dân chưa được giải quyết thỏa đáng)
3.3.6. Tính hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.6.1. Sử dụng ngân sách, ngu n lực, năng lực thể chế để thực hiện chính
sách và pháp luật thu h i đất nông nghiệp
Cho đến nay, khi thực hiện chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN trên địa
bàn Hà Nội, những chi phí khi thực hiện không được tính toán dựa trên việc so sánh
giữa lợi ích dự kiến với chi phí bỏ ra. Không có báo cáo hay văn bản nào chỉ ra và
phân tích về chi phí - lợi ích cũng như hiệu quả của ngân sách bỏ ra cho công tác
quản lý thu hồi đất NN so với lợi ích của quá trình này đem lại trên địa bàn Hà Nội.
Tuy nhiên, theo đánh giá của cán bộ, công chức địa phương thì chưa ghi nhận
những bất cập lớn về thiếu ngân sách để thực hiện chính sách và pháp luật về thu
hồi đất NN tại địa phương.
Về nguồn nhân sự làm công tác thu hồi đất NN trên địa bàn thành phố được
chính quyền quan tâm cả về số lượng và năng lực chuyên môn để đảm bảo chất
lượng thực thi. Tuy nhiên, ở các cấp cơ sở - cấp huyện và đặc biệt cấp xã, do biên
chế cán bộ địa chính ít, công chức làm kiêm nhiệm công tác GPMB là chính, trong
cùng thời gian được giao nhiều công việc, nên không theo dõi kịp thời tình hình và
gặp nhiều khó khăn trong việc theo sát các dự án thu hồi đất. Bên cạnh đó, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ, công chức cũng còn chưa cao, công tác
tập huấn còn chưa kịp thời, nên trong quá trình thực hiện còn bị lúng túng và nhầm
lẫn. Tuy nhiên, theo đánh giá của cán bộ, công chức địa phương thì những người
thực thi nhiệm vụ vẫn cố gắng hoàn thành công việc được giao.
Bảng 3.20: Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về sự đáp ứng của nguồn lực tài chính, nhân sự thực hiện chính sách, pháp luật thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tổng số Đủ đáp ứng Không đủ đáp ứng Số ý kiến 32 23 9 Tỷ lệ (%) 100 72 28
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Theo khảo sát cán bộ, công chức địa phương, có đến 72% người được hỏi
109
cho rằng nguồn lực địa phương về ngân sách, nhân lực đủ để thực hiện chính sách,
pháp luật thu hồi đất NN hiện nay trên địa bàn thành phố. Còn lại 28% cho rằng
những nguồn lực hiện tại là không đủ đáp ứng, và cần bổ sung ngân sách, thêm biên
chế và tập huấn năng lực cho cán bộ cấp cơ sở để đáp ứng công việc GPMB tại địa
phương.
Đánh giá: Tốt (Có đủ ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện
chính sách và pháp luật thu hồi đất NN)
3.3.6.2. Sử dụng tài ngu ên đất sau khi thu h i
Theo báo cáo thực thi pháp luật đất đai của chính quyền thành phố Hà Nội
và báo cáo kiểm tra việc thực thi pháp luật đất đai của Bộ TN&MT qua các năm,
trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2018, đất NN được thu hồi trên địa bàn Hà Nội
luôn được sử dụng đúng mục đích. Mặc dù có nhiều dự án treo, dự án chậm tiến độ
GPMB, chậm đưa đất vào sử dụng nhưng vẫn được sử dụng đúng mục đích.
Bảng 3.21: Đánh giá của cán bộ, công chức chính quyền địa phương về hiệu quả sử dụng đất sau khi thu hồi đất NN tại địa phương
Ý kiến Tổng số Hiệu quả Chưa hiệu quả Số ý kiến 32 25 7 Tỷ lệ (%) 100 79 21
Ngu n: Kh o sát của tác gi năm 2018
Hầu hết cán bộ, công chức địa phương được hỏi (chiếm 79%) cho rằng đất
sau khi thu hồi được sử dụng hiệu quả theo mục đích đã xác định. Các ý kiến còn lại
(khoảng 21% người được hỏi) chỉ ra một vài dự án chậm triển khai, đất để hoang
hóa nhiều năm, gây bức xúc trong dân. Tuy nhiên, theo họ những dự án này đang có
chỉ đạo được điều chỉnh quy hoạch và sẽ bị tiến hành thu hồi lại đất.
Đánh giá: Trung bình (Đất sau khi thu hồi được sử dụng đúng mục đích
nhưng không hiệu quả)
3.3.7. Trách nhiệm giải trình của công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
3.3.7.1. Sự trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ của các cơ uan u n lý trong
quá trình thu h i đất nông nghiệp
Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước trong quá trình thu hồi
110
đất NN trên địa bàn Hà Nội được phân thành 03 cấp như sau:
HĐND TP: - Phê duyệt bảng giá đất Nhà nước
Tòa án nhân dân TP: - Giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu nại và tố cáo, trong đó có thu hồi đất NN
UBND TP: - Ra quyết định và quản lý hành chính về thu hồi đất NN đối với tổ chức, tổ chức tôn giáo, người nước ngoài - Ra quyết định về giá đất
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng: - Bồi thường, GPMB
Các Sở ngành khác: - Phối hợp về các liên lĩnh vực có quan
Sở TN&MT: - Thủ tục hành chính liên quan - Xây dựng bảng giá đất
Ban chỉ đạo GPMB: - Tham mưu về GPMB, - Đôn đốc, kiểm tra, xây dựng chính sách, - Giải quyết các vướng mắc, tổng hợp báo cáo
Sơ đồ 3.3. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trên địa bàn Hà Nội
Ngu n: Tổng hợp của tác gi từ Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 [69] 111
HĐND cấp huyện
Tòa án nhân dân cấp huyện: - Giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu nại và tố cáo, trong đó có thu hồi đất NN
UBND cấp huyện: - Thông báo và ra quyết định về thu hồi đất NN đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng động - Phê duyệt kế hoạch thu hồi đất NN, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các trường hợp thuộc thẩm quyền thu hồi đất của UBND TP; - Bồi thường, GPMB - Giải quyết khiếu nại, tố cáo của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức
Trung tâm Phát triển quỹ đất:
thường,
- Bồi GPMB
thường,
Các phòng ban khác: - Phối hợp về các lĩnh vực có liên quan
Phòng TN&MT: - Thủ tục hành liên quan chính đến đất đai - Cập nhật biến động giá đất
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: - Bồi GPMB
Sơ đồ 3.4. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đât đai cấp
UBND cấp xã:
xã trên địa bàn Hà Nội
HĐND cấp xã
- Phối hợp bồi thường, GPMB - Niêm yết công khai: văn bản pháp lý; phương án bồi thường, hỗ trợ; quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo
Sơ đồ 3.5. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đât đai cấp
xã trên địa bàn Hà Nội Ngu n: Tổng hợp của tác gi từ Qu ết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 [69]
Sự phân cấp về chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý các cấp
112
trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội có những điểm lưu ý:
Về thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất, có sự phân cấp trách nhiệm
rõ ràng giữa UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện, không có sự chồng chéo. Trong
đó, UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với các trường hợp: thu hồi đất đối
với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước
ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Còn
UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với các trường hợp: thu hồi đất đối với
hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. UBND cấp tỉnh ủy quyền cho UBND
cấp huyện ban hành quyết định thu hồi đất đối với các trường hợp trong khu vực thu
hồi đất có cả đối tượng thuộc hai trường hợp trên thì UBND cấp tỉnh quyết định thu
hồi đất hoặc ủy quyền cho UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Về cơ quan tổ chức thực hiện bồi thường thiệt hại cho người dân khi Nhà
nước thu hồi đất được quy định như sau: UBND cấp huyện, Trung tâm Phát triển
quỹ đất, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và các Ban quản lý dự án đầu tư
xây dựng của thành phố Hà Nội là tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Ban Chỉ đạo GPMB thành phố là cơ quan tham mưu cho
UBND thành phố về lĩnh vực GPMB, đôn đốc, kiểm tra, xây dựng chính sách, giải
quyết các vướng mắc, tổng hợp báo cáo. Các Sở, ban, ngành liên quan có trách
nhiệm phối hợp, tham gia thực hiện công tác bồi thường, GPMB đối với những nội
dung liên quan thuộc chức năng quản lý Nhà nước của cơ quan, đơn vị mình. Như
vậy, cơ quan tổ chức thực hiện bồi thường, GPMB khi thu hồi đất không thống nhất
đầu mối, còn có sự chồng chéo và chưa xác định rõ nhiệm vụ của mỗi cấp, cũng
như của tập thể và cá nhân với những nhiệm vụ được phân cấp.
Việc phân cấp quản lý giá giữa các cơ quan Nhà nước được quy định khá rõ
ràng giữa các cấp quản lý. Trong đó có sự kết hợp của Sở TN&MT cùng các sở,
ngành và UBND thành phố xây dựng giá đất cụ thể trình HĐND có ý kiến trước khi
phê duyệt. Cụ thể Sở TN&MT có trách nhiệm định kỳ tổ chức khảo sát giá đất trên
địa bàn để làm căn cứ lập phương án trình UBND thành phố ban hành bảng giá đất
định kỳ 05 năm một lần và công bố vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ. Ngoài ra, hàng
năm tổng hợp tình hình, điều chỉnh giá đất theo quy định trình UBND thành phố xin
113
ý kiến Thường trực HĐND thành phố trước khi điều chỉnh bảng giá đất. Ở cấp cơ
sở, Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã có trách nhiệm chỉ đạo các Phòng Sở
TN&MT theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên địa bàn, kịp thời báo cáo Sở
TN&MT để tổng hợp. Mặc dù rõ ràng, nhưng việc phân công nhiệm vụ quản lý Nhà
nước về giá đất như vậy còn phân tán, chưa tập trung vào một cơ quan đầu mối.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan định giá đã hình thành nhưng tính chuyên nghiệp
chưa cao và chưa thật đồng đều, phần định giá Nhà nước chủ yếu theo cơ chế hội
đồng liên ngành; chưa có hệ thống quản lý, theo dõi, cập nhật tình hình thị trường
và giá cả làm cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Hơn nữa, việc xác
định giá đất hàng năm do ngành TN&MT chủ trì, còn việc xác định giá đất cụ thể
của từng thửa đất lại giao cho ngành Tài chính chủ trì. Như vậy nhiệm vụ bị chồng
chéo và không thống nhất công việc giữa các cơ quan.
Việc giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu nại và tố cáo, trong đó có thu
hồi đất NN, thuộc trách nhiệm của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng của hệ thống
tư pháp, không bị chồng chéo với các cơ quan khác. Tuy nhiên, tòa án lại không
hoàn toàn độc lập trong việc thực hiện trách nhiệm của mình. Trên thực tế, người
dân ít giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo tại tòa án, số lượng giải quyết tại
tòa không nhiều. Đa số các đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất NN được
người dân gửi đến giải quyết tại UBND cấp huyện.
Đánh giá: Trung bình (Chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong
quá trình thu hồi đất NN có được phân cấp nhưng có sự trùng lặp với nhau)
3.3.7.2. Sự kiểm tra và yêu cầu gi i trình của người dân và các bên liên quan
đối với các cơ uan Nhà nước
Pháp luật Việt Nam nói chung và trong thực tiễn triển khai trên địa bàn Hà
Nội nói riêng, đã có những quy định liên quan đến trách nhiệm giải trình của cơ quan
Nhà nước đối với công tác quản lý của mình, trong đó có quản lý đất đai và thu hồi
đất NN. Tuy nhiên những quy định này chưa cụ thể, mới chỉ dừng lại ở hình thức là
“báo cáo”, hoặc “cung cấp thông tin”, “cung cấp tài liệu liên quan” đến hoạt động
thực thi của các cơ quan. Các quy định này chưa thể hiện rõ được các hình thức yêu
cầu giải trình cụ thể, cơ sở phát sinh quyền yêu cầu giải trình của các chủ thể giám
sát, hoặc giới hạn phạm vi giải trình đến đâu của các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì
114
vậy, hiệu quả việc giải trình của các cơ quan Nhà nước chưa cao, phản biện xã hội
của người dân và giám sát của các thiết chế có thẩm quyền chưa hiệu quả.
Chẳng hạn, theo quy định, Sở TN&MT, UBND cấp huyện có trách nhiệm trả
lời về thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho các sở, ban, ngành khi có yêu
cầu bằng văn bản. Thời hạn trả lời trong 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được
văn bản yêu cầu. Trong đó, cung cấp thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
theo quy trình thủ tục hành chính được áp dụng đối với các tổ chức, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài; hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư. Hoặc có quy định UBND cấp xã phải tiến hành niêm yết
công khai và lấy ý kiến của người dân tại nơi cư trú về phương án bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất NN. Tuy nhiên, không có quy định trách nhiệm giải
trình của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không điều chỉnh
phương án bồi thường khi đại đa số người bị thu hồi đất không đồng ý với phương
2017
2016
4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6
4.7
4.8
án bồi thường.
Đồ thị 3.10: Chỉ số trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2016 - 2017
Ngu n: Số liệu PAPI thành phố Hà Nội năm 2016, 2017 [66]
Theo thống kê từ chỉ số PAPI, đánh giá của người dân về trách nhiệm giải
trình của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn Hà Nội ở mức thấp. Trong năm 2016
và 2017, chỉ số trách nhiệm giải trình của các cơ quan Nhà nước của thành phố Hà
Nội nằm trong nhóm các địa phương đạt điểm thấp nhất cả nước (năm 2016 là 4,3,
và năm 2017 đạt 4,7).
Riêng chỉ số về hiệu quả tương tác với các cấp chính quyền trong giai đoạn
từ 2011 đến nay thì năm 2016 và 2017 có được cải thiện, nhưng vẫn đạt mức thấp
115
và Hà Nội vẫn nằm trong nhóm đạt điểm trung bình thấp của cả nước (năm 2016 là
2017
2016
2015
2014
2013
2012
2011
0
0.5
1
1.5
2
2.5
2,04, và năm 2017 đạt 2,15).
Đồ thị 3.11: Chỉ số hiệu quả tương tác với các cấp chính quyền trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2011-2017
Ngu n: Số liệu PAPI thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2017 [66]
Đánh giá: Yếu (Người dân và các bên liên quan không thể kiểm tra và yêu
cầu giải trình)
3.3.7.3. Chế tài xử phạt khi các cơ uan Nhà nước không gi i tr nh được
Cho đến nay chưa có quy định nào về chế tài xử phạt khi các cơ quan Nhà
nước không giải trình được đối với hoạt động quản lý thu hồi đất NN. Chẳng hạn,
khi tiến hành lấy ý kiến của người dân bị thu hồi đất NN tại nơi cư trú về phương án
bồi thường, hỗ trợ, Nhà nước không có quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không điều chỉnh phương án bồi thường
khi đại đa số người bị thu hồi đất không đồng ý với phương án bồi thường, và cũng
không có chế tài xử lý khi không thực hiện trách nhiệm này. Tương tự, trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân, không có chế tài xử phạt đối với việc
quy định thẩm quyền giải quyết của cơ quan Nhà nước cấp trên đối với những vụ
việc thuộc thẩm quyền của cấp dưới khi để quá thời hạn; hoặc không có quy chế về
chế tài đối với những trường hợp “không giải quyết” để trốn tránh trách nhiệm đã
dẫn tới tình trạng giải quyết khiếu nại chậm lại, quyền lợi của người dân không
được đáp ứng. Do không có chế tài xử phạt nên việc thực hiện trách nhiệm giải
trình của các cơ quan Nhà nước với người dân chưa cao.
116
Đánh giá: Yếu (Không có chế tài)
3.4. Đánh giá chung về công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Bảng 3.22: Tổng hợp kết quả đánh giá theo các tiêu chí công tác quản lý
Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Phương pháp đánh giá
Nhóm tiêu chí
1. Tính
minh bạch
2. Tính
đáp ứng
3. Sự
tham gia
của người
dân và
các bên
liên quan
4. Tính
công bằng
1. Sự rõ ràng, công khai của chính sách, pháp luật và các quy định về thu hồi đất NN đối với người dân bị thu hồi đất: Tốt 2. Khả năng tiếp cận thông tin về Bảng giá đất địa phương của người dân bị thu hồi đất NN: Trung bình 3. Sự công khai về lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất NN đối với người dân bị thu hồi đất NN: Yếu 4. Việc sử dụng cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các nhóm đối tượng khi tiến hành thu hồi đất NN: Yếu 5. Sự phù hợp của chính sách, pháp luật, và các quy định về thu hồi đất NN với yêu cầu thực tiễn: Yếu 6. Khả năng khiếu nại, tố cáo của người dân bị thu hồi đất NN: Tốt 7. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan (tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, chuyên gia và đơn vị truyền thông) vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN: Trung bình 8. Tính chất và mức độ tham gia của người dân và các bên liên quan (tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, chuyên gia và đơn vị truyền thông) vào quá trình xây dựng Bảng giá đất tại địa phương: Trung bình 9. Sự đàm phán giữa cơ quan có thẩm quyền và người bị thu hồi đất NN về kế hoạch thu hồi đất: Yếu 10. Sự đàm phán giữa cơ quan có thẩm quyền và người bị thu hồi đất NN về phương án bồi thường và hỗ trợ: Trung bình 11. Sự tham vấn các cơ quan độc lập, các chuyên gia để giúp đỡ những người bị thu hồi đất NN: Yếu 12. Sự thỏa đáng của các khoản bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN: Yếu 13. Sự công bằng của các khoản bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN: Trung bình
14. Tính hiệu lực của các khoản bồi thường và hỗ trợ đối với người
117
5. Tính hiệu lực dân bị thu hồi đất NN: Trung bình
15. Thời gian thanh toán bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu
hồi đất NN: Trung bình
16. Tính chất và thời gian giải quyết khiếu nại, kiến nghị, góp ý của
người dân bị thu hồi đất NN: Yếu
17. Sử dụng ngân sách, nguồn lực, năng lực thể chế để thực hiện chính 6. Tính
hiệu quả sách và pháp luật thu hồi đất NN: Tốt
18. Sử dụng tài nguyên đất sau khi thu hồi NN: Trung bình
7. Trách nhiệm giải trình
19. Sự trùng lặp về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN: Trung bình 20. Sự kiểm tra và yêu cầu giải trình của người dân và các bên liên quan (các nhóm chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dịch vụ công, các nhà khoa học, chuyên gia, các đơn vị truyền thông) đối với các cơ quan Nhà nước: Yếu 21. Chế tài xử phạt khi các cơ quan Nhà nước không giải trình được: Yếu
Qua phân tích đánh giá ở trên, có thể thấy công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội đã đật được những thành công và còn
tồn tại những hạn chế như sau:
3.4.1. Những thành công đạt được
3.4.1.1. Thành công về xâ dựng cơ sở pháp l về thu h i đất NN làm căn cứ
cho quá trình thu h i đất NN
Chính quyền thành phố đã xây dựng được hệ thống chính sách, pháp luật và
cơ sở pháp lý khá nhiều và bao quát làm căn cứ cho quá trình thu hồi đất NN. Các
quy định về trường hợp áp dụng thu hồi đất NN; thẩm quyền thu hồi đất NN; trình
tự thủ tục thu hồi đất NN; định giá đất NN; điều kiện bồi thường; giá đất NN; xác
định giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất NN trong quá trình thu
hồi đất NN thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội được trình bày rõ ràng thông
qua các văn bản quy phạm pháp luật được chính quyền ban hành. Các văn bản này
được công khai trực tuyến trên website của các cơ quan chức năng và được cung
cấp tới người dân khi tiến hành thu hồi đất của người dân.
Ngoài ra, chính quyền cũng đã có những quy định cụ thể về các kênh tiếp
nhận khiếu nại, tố cáo, cũng như phản ánh kiến nghị và ý kiến góp ý của người dân
118
và được thực hiện trong thực tế.
3.4.1.2. Thành công về tổ chức thực hiện thu h i đất NN
Việc chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, cũng như thời gian thanh toán
bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn thành phố cơ bản theo đúng trình tự quy định và tiến
độ. Mặc dù vẫn còn những trường hợp vi phạm và chậm tiến độ chi trả của các dự
án nhưng được chính quyền quan tâm giải quyết, giảm thiểu sự ảnh hưởng đến cuộc
sống của người dân. Về phía người dân, cơ bản người dân đồng tình ủng hộ triển
khai các dự án. Chỉ những trường hợp không bàn giao mặt bằng, chính quyền địa
phương phải áp dụng biện pháp hành chính và cưỡng chế theo quy định.
Mặc dù không có báo cáo hay văn bản nào chỉ ra và phân tích về chi phí lợi
ích cũng như hiệu quả của ngân sách bỏ ra so với lợi ích của công tác quản lý thu
hồi đất NN thực hiện trên địa bàn Hà Nội, tuy nhiên, theo đánh giá của cán bộ, công
chức địa phương thì ngân sách, các nguồn lực và năng lực thể chế của địa phương
cơ bản đủ để thực hiện chính sách và pháp luật thu hồi đất NN. Mặc dù còn gặp
khó khăn về nguồn nhân lực ở cấp cơ sở, đặc biệt ở cấp xã nhưng các cán bộ, công
chức làm nhiệm vụ và chính quyền đã có nhiều cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nhiều người dân có mức sống không xấu đi, thậm chí tốt hơn sau khi bị thu
hồi đất NN. Mặc dù bị mất việc làm và thu nhập từ NN nhưng lại mở ra những cơ
hội việc làm phi NN cho các hộ gia đình mất đất. Nhiều người dân địa phương đã
tham gia vào các hoạt động kinh tế phi NN có lợi tức cao hơn NN và không còn ý
định tiếp tục làm nghề nông nữa.
Tài nguyên đất về cơ bản được sử dụng đúng mục đích trong quá trình thu
hồi đất NN. Mặc dù có dự án chậm tiến độ GPMB, chậm đưa đất vào sử dụng
nhưng vẫn được sử dụng đúng mục đích. Chính quyền cũng rất nỗ lực đưa ra
phương hướng kiên quyết khắc phục và xử lý tình trạng lãng phí nguồn tài nguyên
đất do dự án treo, chậm tiến độ, gây bức xúc cho người dân.
3.4.1.3. Thành công về kiểm tra, giám sát uá tr nh thu h i đất NN; gi i
u ết các khiếu nại, tố cáo liên uan đến uá tr nh thu h i đất NN
Chính quyền đã rất nỗ lực trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, cùng như
kiến nghị, góp ý của của người dân. Về cơ bản, thành phố đã tiếp nhận, xử lý các vụ
119
việc đúng trình tự, thời hạn giải quyết theo quy định pháp luật.
3.4.2. Những hạn chế còn tồn tại
3.4.2.1. Hạn chế về xâ dựng cơ sở pháp l về thu h i đất NN làm căn cứ
cho uá tr nh thu h i đất NN
Chính sách, pháp luật, và các quy định về thu hồi đất NN mặc dù khá nhiều
nhưng vẫn còn có những điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Cụ
thể là một số quy định về điều kiện bồi thường thu hồi đất NN, định giá đất NN,
trình tự thủ tục tiến hành thu hồi đất NN vẫn còn những điểm bất cập, gây bất cập
trong thực tiễn triển khai.
Sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng cơ sở pháp lý về thu hồi
đất NN còn hạn chế. Hầu hết người dân không được tham gia vào quá trình xây
dựng chính sách, chỉ có đại diện người dân được hỏi ý kiến, và hầu hết ý kiến đóng
góp của người dân khi gửi về được tiếp thu rất ít.
Cơ chế thu hồi đất NN được sử dụng chủ yếu trên địa bàn Hà Nội là thu hồi
bắt buộc dựa vào quy tắc hành chính và áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với
người dân, cơ chế chia sẻ lợi ích và chia sẻ rủi ro (cụ thể là giữa nhà đầu tư và
người dân) chưa có quy định cụ thể và chưa được thực hiện trong thực tế. Với cơ
chế thu hồi đất như hiện nay, quyết định phân chia lợi ích của các bên liên quan là
nhà đầu tư và người dân chưa thỏa đáng, dẫn đến sự thiếu công bằng cho người dân
khi xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất NN. Đặc biệt trong triển khai ở
Hà Nội, chưa có sự tham gia chính thức của hệ thống định giá đất NN độc lập, nên
giá đất bồi thường chưa đạt được thỏa mãn đối với người dân, gây bức xúc, và số
lượng khiếu kiện của người dân ở mức cao.
3.4.2.2. Hạn chế về tổ chức thực hiện thu h i đất NN
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý trong quá trình thu hồi đất NN
vẫn còn hiện tượng trùng lặp, chồng chéo. Đặc biệt đối với những cơ quan tổ chức
thực hiện bồi thường thiệt hại, GPMB, và quản lý giá đất, có nhiều đầu mối nhưng
chưa xác định rõ nhiệm vụ ở mỗi cấp.
Chưa minh bạch và công khai trong việc lựa chọn các dự án tiến hành thu hồi
đất NN - thể hiện ở việc những lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi
đất NN không được cung cấp và giải thích rõ tới những hộ dân bị thu hồi đất. Đối
120
với những dự án thu hồi đất NN vì mục đích quốc phòng, an ninh và các mục đích
công không vì lợi nhuận, người dân thông thường không hoài nghi về lợi ích của
những dự án này. Tuy nhiên, đối với những dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế -
xã hội vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia mà có kèm mục tiêu sản xuất, kinh
doanh thu lợi nhuận, người dân thường hoài nghi về những lợi ích bản thân sẽ nhận
được từ dự án này; và có xu hướng cảm nhận rằng, lợi ích sẽ trực tiếp rơi vào túi
nhà đầu tư rất lớn.
Thiếu sự đàm phán và vận động người dân vào thực tiễn triển khai công tác
thu hồi đất NN. Người dân không có quyền quyết định đối với kế hoạch thu hồi đất
cũng như các phương án bồi thường, hỗ trợ. Đặc biệt thiếu sự tham gia của các cơ
quan độc lập, các chuyên gia để giúp đỡ những người dân. Hoạt động định giá đất
chưa có khung pháp lý đầy đủ và hầu như không được sử dụng làm căn cứ chi trả
bồi thường, hỗ trợ trong quá trình thu hồi đất NN. Dẫn đến nhiều người dân không
đồng tình hoặc không thỏa mãn với các quyết định của chính quyền trong quá trình
thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dẫn đến số lượng đơn khiếu nại về thu hồi
đất NN luôn ở mức cao, chiếm tới 70% tổng số đơn khiếu nại lĩnh vực đất đai.
Giá trị bồi thường về đất NN như hiện nay dựa chủ yếu theo giá đất NN được
xác định trong Bảng giá đất của địa phương quá thấp là chưa thỏa đáng, thể hiện sự
thiếu công bằng đối với người dân, đặc biệt đối với những gia đình có đất NN bị thu
hồi để sử dụng các dự án phục vụ cho sản xuất, kinh doanh có thu lợi nhuận. Nhiều
người dân sau khi bị thu hồi đất NN mất đi tài sản, sinh kế và thừa kế từ tổ tiên để
lại, trong khi số tiền bồi thường, hỗ trợ nhận được là quá thấp so với lợi nhuận của
nhà đầu tư thu được khi đất NN sau đó được chuyển sang xây dựng KĐT hay đấu
thầu làm đất dịch vụ và công nghiệp. Đây cũng là bất cập lớn dẫn đến những bức
xúc và khiếu kiện kéo dài.
Về thanh toán bồi thường và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất vẫn có
những trường hợp được chỉ ra có hiện tượng tham ô ở cấp thôn, xóm khi ăn bớt các
quỹ công từ tiền bồi thường thu hồi đất NN của người dân ở địa phương. Ngoài ra,
sự chậm trễ trong tiến độ thực hiện nhiều dự án cũng dẫn đến chậm tiến độ thanh
toán bồi thường cũng đã gây bức xúc cho người dân. Ngoài ra, do công tác vận
động, thuyết phục còn hạn chế của chính quyền địa phương và nhiều người dân
121
còn thiếu ý thức không hợp tác, thậm chí chây ì cũng dẫn đến sự chậm trễ.
Vẫn còn tình trạng lãng phí nguồn tài nguyên đất do dự án treo, chậm tiến
độ. Có những dự án kéo dài nhiều năm, đất để hoang hóa, trong khi người dân
không có đất sản xuất, gây bức xúc cho người dân.
3.4.2.3. Hạn chế về kiểm tra, giám sát uá tr nh thu h i đất; gi i u ết các
khiếu nại, tố cáo liên uan đến uá tr nh thu h i đất NN
Vẫn còn hiện tượng giải quyết không theo trình tự pháp luật, thiếu trách
nhiệm, kéo dài thời gian, thậm chí im lặng. Chất lượng giải quyết khiếu nại của
người dân chưa cao dẫn đến việc người dân tục khiếu nại, tố cáo lên cấp trên. Các
vụ khiếu kiện phức tạp, khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp vẫn xảy ra.
Trong khi đó, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm chưa
nghiêm.
Trách nhiệm giải trình đối với người dân của các cơ quan Nhà nước còn hạn
chế, mới chỉ dừng lại ở việc báo cáo và cung cấp thông tin, chưa có những quy định
cụ thể về hình thức, giới hạn, phạm vi giải trình của các cơ quan Nhà nước. Trong
khi đó, chế tài xử phạt khi không giải trình được đối với người dân lại chưa có nên
trách nhiệm giải trình của các cơ quan Nhà nước chưa cao.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
3.4.3.1. Những ngu ên nhân chủ uan
Nguyên nhân đầu tiên có thể kể đến là do cơ chế, chính sách, pháp luật hiện
hành, những quy định về thu hồi đất NN còn chưa hoàn thiện và có sự thay đổi qua
các thời kì khác nhau. Trong khi đó, việc thể chế hoá, cụ thể hóa ở cấp địa phương
còn chưa thật đồng bộ, một số nội dung còn chưa đủ rõ, chưa phù hợp. Đặc biệt là
những quy định về điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất NN, quy
định về cơ chế và hình thức thu hồi đất NN, quy định về trình tự thu hồi đất NN,
quy định về xác định giá đất NN v.v. Đây là nguyên nhân cơ bản, cốt lõi bởi vì chỉ
khi cơ chế, chính sách và pháp luật đáp ứng và phản ánh được được yêu cầu thực
tiễn, thì mới có thể dẫn dắt và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể và đối tượng
trong quá trình thu hồi đất NN. Ngược lại, sự chưa hoàn thiện và chậm đổi mới của
cơ chế, chính sách và pháp luật so với sự phát triển đa dạng của các quan hệ kinh tế
trong quá trình thu hồi đất NN đã làm cản trở quá trình thực thi, gây nhiều bất cập
122
và bức xúc trong thực tế triển khai.
Ngoài ra, quan điểm, nhận thức về quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN chưa theo kịp để điều chỉnh các quan hệ đất đai trong thực tiễn. Trong đó,
chính quyền và các cơ quan Nhà nước vẫn dựa trên mô hình quản lý từ trên xuống,
tập trung vào chức năng cai trị là chủ yếu, trong khi vai trò tạo lập, khuyến khích,
hỗ trợ của Nhà nước chưa được coi trọng. Việc tiếp nhận những quan điểm quan
điểm quản lý mới, chẳng hạn quan điểm về quản trị Nhà nước tốt đối với quá trình
thu hồi đất NN đang được thừa nhận rộng rãi trên thế giới là rất chậm và hạn chế.
Dẫn đến cách thức quản lý không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Điều này được
thể hiện qua cơ chế thu hồi đất NN được thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội
dựa chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, ít có sự tham gia của người dân và các bên
liên quan, lợi ích của người dân chưa được đảm bảo, và trách nhiệm giải trình của
các cơ quan Nhà nước thấp.
Thêm vào đó, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước các cấp ở địa phương còn
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, chưa tinh gọn. Từ đó, chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan ở các cấp quản lý vẫn còn sự chồng chéo, có những mảng công
việc chưa được phân định rõ ràng, dẫn đến có trường hợp buông lỏng hoặc thiếu
phối hợp chặt chẽ trong nhiều khâu quản lý.
Hơn nữa, đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp cơ sở - cấp huyện và đặc biệt
cấp xã, ở địa phương còn gặp khó khăn khi cán bộ tham gia công tác GPMB còn
thiếu trong khi số lượng dự án cần GPMB trên bàn nhiều. Một người thường phải
đảm nhiệm nhiều dự án nên việc tham gia hướng dẫn ở cấp cơ sở còn hạn chế,
không theo dõi kịp thời tình hình và gặp nhiều khó khăn trong việc theo sát các dự
án thu hồi đất. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ,
công chức cũng còn chưa cao, trong khi công tác tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng còn
chưa kịp thời, dẫn đến trong quá trình thực hiện còn bị lúng túng và nhầm lẫn.
Còn phải kể đến là ý thức chấp hành pháp luật về thu hồi đất của một bộ
phận cán bộ địa phương còn chưa tốt. Vẫn còn những tư tưởng của cơ chế quan liêu
bao cấp, nếp suy nghĩ và làm việc của một số cán bộ, công chức, viên chức như cửa
quyền, sách nhiễu, thậm chí trục lợi, tham nhũng v.v. Điều này đã gây trở ngại cho
123
việc thực thi chính sách, pháp luật về thu hồi đất NN tại địa phương.
3.2.3.2. Những ngu ên nhân khách uan
Đầu tiên là do hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về thu hồi đất NN của
một số người dân dân còn hạn chế. Trong khi công tác tuyên truyền, giáo dục và
quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và chính quyền địa phương về thu hồi đất NN còn chưa thật hiệu quả. Đôi khi việc
tuyên truyền chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin, mà chưa quan tâm đến tâm tư,
nguyện vọng của người dân, thiếu sự giải thích thấu đáo để người dân nắm rõ, hiểu,
ủng hộ và tin tưởng vào Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó sự kết nối giữa chính
quyền và người dân chưa thật chặt chẽ để có thể thu hút sự quan tâm của người dân
để tìm hiểu chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chính quyền địa
phương đối với quá trình thu hồi đất NN.
Nguyên nhân quan trọng khác là nhiều người dân vẫn còn chịu ảnh hưởng
lớn của yếu tố văn hóa, lịch sử, tập quán, truyền thống từ lâu đời. Chẳng hạn tâm lý
làng xã, dòng họ trên thực tế cũng có sự chi phối, ảnh hưởng nhất định đối với
người dân. Quan điểm của nhiều người dân coi ruộng đất là cơ nghiệp của tổ tiên
để lại nên không đồng tình, thậm chí không hợp tác với các quyết định thu hồi đất
NN. Quan điểm này là hệ quả của nền sản xuất NN lâu đời ở Việt Nam, người
nông dân gắn bó với ruộng đất qua nhiều thế hệ và coi đó là tài sản chủ yếu của gia
đình, dòng họ, được truyền từ đời này qua đời khác. Với đặc trưng là phương tiện
chính để tạo ra sinh kế, phương tiện chính để đầu tư, tích lũy tài sản, chuyển giao
giữa các thế hệ, và là một phần quan trọng của bản sắc văn hóa của người nông
dân, đặc biệt đối với người nông dân nghèo. Vì vậy các quyết định về thu hồi đất
NN, nếu không được tuyên truyền, vận động, thuyết phục tốt sẽ khó có được sự
đồng thuận từ phía người dân.
Ngoài ra, nhận thức của người dân về khiếu nại, tố cáo về đất đai nhìn chung
cũng còn nhiều hạn chế. Đây là nguyên nhân khá phổ biến đối với các hộ nông dân
bị thu hồi đất. Nhiều người dân cho rằng khiếu nại đơn lẻ sẽ khó đạt được kết quả
nên thường tụ tập, lôi kéo khiếu nại đông người để tạo thêm sức ép đối với cơ quan
Nhà nước. Hoặc nhiều trường hợp khi đơn khiếu nại đã được giải quyết nhưng vẫn
124
tiếp tục khiếu nại. Hoặc có trường hợp bị một số phần tử có động cơ vụ lợi, quá
khích kích động, lôi kéo. Khi tinh thần của người dân dễ bị kích động mà sự gắn kết
của chính quyền quyền các cấp địa phương với người dân lỏng lẻo, không gần gũi,
không hiểu và chia sẻ với họ thì sẽ dễ bị kẻ xấu lợi dụng, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quá trình thu hồi đất.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 đã phân tích thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2018 về 03 nội
dung trọng tâm là: Xây dựng pháp luật và cơ sở pháp lý về thu hồi đất nói chung,
đất NN nói riêng làm căn cứ cho quá trình thu hồi đất NN; Tổ chức thực hiện thu
hồi đất NN; Kiểm tra, giám sát, và giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến
quá trình thu hồi đất NN. Thực trạng công tác quản lý này được đánh giá dựa trên
hệ thống 07 nhóm tiêu chí (tính minh bạch, tính đáp ứng, sự tham gia của người
dân, tính công bằng, tính hiệu lực, tính hiệu quả, trách nhiệm giải trình), 21 chỉ tiêu
cụ thể đã được xây dựng ở Chương trước. Các chỉ tiêu cụ thể được đánh giá ở 03
mức độ: Tốt, Trung bình, và Yếu.
Kết quả đánh giá đã cho thấy một số thành công đã đạt được của công tác
quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong những năm qua. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém cũng còn tồn tại rất
nhiều. Những hạn chế này đến từ nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau,
tuy nhiên nếu không được giải quyết sẽ tạo thành những mâu thuẫn làm cản trở quá
trình thu hồi đất, gây căng thẳng, bức xúc cho người dân và tạo ra bất ổn xã hội. Vì
vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
125
hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới cần phải được đổi mới.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI
4.1. Bối cảnh thành phố Hà Nội
4.1.1. Dự báo tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội đến
năm 2030
Trong giai đoạn từ 2020 - 2030, dự báo xu hướng thu hẹp diện tích đất NN
để chuyển sang mục đích phi NN vẫn sẽ tiếp diễn.
Trong đó, đất NN sẽ được thu hồi trước tiên để sử dụng vào mục đích phát
triển đô thị và xây dựng. Nếu như đến năm 2020, tổng diện tích đất xây dựng đô thị
và nông thôn khoảng 128.900 ha; trong đó đất xây dựng đô thị khoảng 73.000 ha
(chiếm khoảng 21,8% diện tích tự nhiên), bình quân khoảng 160 m2/người, bao
gồm đất dân dụng khoảng 34.200 ha, chỉ tiêu khoảng 70 - 75 m2/người, và đất
ngoài dân dụng khoảng 38.800 ha; thì theo quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà
Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, đến năm 2030, tổng diện tích đất xây
dựng đô thị và nông thôn sẽ tăng lên, đạt khoảng 159.600 ha, trong đó đất xây dựng
đô thị tăng khoảng 20.000 ha so với năm 2020, đạt khoảng 94.700 ha (chiếm
khoảng 28,3% diện tích tự nhiên), bình quân khoảng 150 m2/người, bao gồm đất
dân dụng khoảng 48.100 ha, chỉ tiêu khoảng 80 m2/người, và đất ngoài dân dụng
khoảng 46.600 ha. Còn đất xây dựng điểm dân cư nông thôn, đến năm 2030, đạt
khoảng 160,100 - 153,800 ha, bình quân 130 - 160 m2/người. [61].
Ngoài ra, đất NN cũng sẽ được thu hồi và chuyển đổi sử dụng để xây dựng
các vành đai NN sinh thái công nghệ cao và phát triển du lịch. Cũng theo Quy
hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội sẽ tổ
chức không gian đô thị theo mô hình chùm đô thị, bao gồm đô thị trung tâm hạt
nhân và các đô thị trực thuộc (với 05 đô thị vệ tinh và 13 thị trấn), phạm vi quy
hoạch khoảng 3.344,6 km2. Trong đó, đô thị trung tâm hạt nhân đa hệ, đa tầng, đa
chức năng; 05 đô thị vệ tinh gồm có Hòa Lạc và Xuân Mai (02 đô thị vệ tinh
126
chuyên năng công nghệ cao, khoa học - công nghệ, và giáo dục - đào tạo); Sơn Tây
(chuyên về du lịch - văn hóa - nghỉ dưỡng - vui chơi giải trí); Sóc Sơn (chuyên về
công nghiệp sạch, công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ chất lượng cao); Phú
Xuyên - Phú Minh (chuyên về công nghiệp) [61].
Đất NN cũng sẽ được thu hồi góp phần hình thành các KCNC, khu cụm
công nghệ, với diện tích khoảng 8.000 ha. Trong đó, phía Bắc sẽ bao gồm Sóc
Sơn, Mê Linh, Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm, Từ Liêm, khoảng 3.200 ha. Khu
vực này tập trung phát triển công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin, cơ khí, sản
xuất ôtô, công nghiệp vật liệu mới, hóa dược - mỹ phẩm, dệt may… Phía Nam là
Thường Tín, Phú Xuyên, khoảng 1.500 ha. Khu vực này ưu tiên phát triển ngành
công nghiệp sinh học phục vụ NN (NN công nghệ cao), chế biến nông sản công
nghệ hiện đại với nguyên liệu đầu vào từ vùng phát triển NN thuộc các tỉnh phía
Nam Hà Nội; phát triển công nghiệp hỗ trợ (như dệt may, da giày, cơ khí chế tạo,
điện tử tin học, sản xuất và lắp ráp ôtô) v.v. Phía Tây thuộc về Hòa Lạc, Xuân
Mai, Miếu Môn, khoảng 1.800 ha, sẽ được ưu tiên để phát triển các ngành công
nghiệp chủ đạo là công nghệ sinh học phục vụ NN, hóa dược - mỹ phẩm, công
nghệ điện tử, cơ khí chính xác, công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano, công
nghệ năng lượng mới, vật liệu xây dựng, nội thất cao cấp v.v. Và các thị trấn sẽ
khoảng 1.400 - 1.500 ha, ưu tiên phát triển công nghiệp sinh thái, chế biến nông
sản, thực phẩm chất lượng cao [61].
4.1.2. Các yếu tố thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
4.1.2.1. Các ếu tố thuận lợi
Trong giai đoạn từ năm 2020 - 2030, trong bối cảnh thành phố Hà Nội, có
nhiều yếu tố thuận lợi tác động tích cực đến công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN.
Thứ nhất, công cuộc cải cách hành chính Nhà nước được đẩy mạnh với mục
tiêu “nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị” dự báo sẽ đem lại hiệu ứng
tốt. Chẳng hạn như, những cải cách về thể chế và thủ tục hành chính sẽ góp phần
đổi mới hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và phù hợp với yêu cầu thực
tiễn hơn; hay những cải cách về tổ chức bộ máy sẽ giúp sắp xếp, tổ chức lại và phân
127
cấp rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý đất đai; hoặc cải cách về đội
ngũ cán bộ có thể nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ.
Thứ hai, lợi thế rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao tập trung ở thủ đô.
Một mặt, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước làm công
tác quản lý và thực thi chính sách về thu hồi đất NN rất được chính quyền thành phố
quan tâm nâng cao trình độ và trách nhiệm thực thi công vụ. Mặt khác, thành phố
Hà Nội có lợi thế lớn về nguồn nhân lực ở khu vực ngoài nhà nước tham gia vào
quá trình thu hồi đất NN với chất lượng ngày càng được nâng cao. Họ là đội ngũ
chuyên gia, các nhà khoa học có khả năng và trình độ cao về phân tích, dự báo,
đánh giá về thị trường đất đai, giá đất, cũng như nhu cầu của xã hội. Họ vừa có thể
tư vấn giúp cơ quan Nhà nước đưa ra những quyết định đúng đắn, vừa hỗ trợ rất lớn
cho người nông dân bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ ba, thay đổi trong tư duy và tập quán của người dân trong sản xuất NN.
Người nông dân đang chuyển từ chủ yếu sản xuất NN nhỏ lẻ, manh mún sang hình
thức sản xuất hàng hóa lớn, áp dụng khoa học công nghệ cao, nhằm nâng cao năng
suất và chất lượng nông sản. Từ đó, những hộ sản xuất cá thể theo mô hình tự cấp
tự túc, năng suất thấp trước đây không còn mặn mà với sản xuất NN mà tự chuyển
đổi sang ngành nghề khác, và ủng hộ những dự án chuyển đổi đất NN để phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
4.1.2.2. Khó khăn, hạn chế
Thứ nhất, áp lực từ gia tăng dân số, CNH và ĐTH và nhu cầu lớn thu hồi
đất NN tạo áp lực đến công tác quản lý Nhà nước. Đến năm 2030, quy mô dân số
Hà Nội dự báo đạt khoảng 9,4 - 9,5 triệu người với tỷ lệ ĐTH đạt 65 - 70%, Hà
Nội là một trong hai thành phố có mức độ và tốc độ ĐTH đạt cao nhất cả nước, và
đạt tương đương với tỷ lệ ĐTH ở các thành phố của các nước phát triển trong khu
vực Châu Á. Ngoài ra, là đô thị lớn thứ hai cả nước, trực thuộc Trung ương nên
Hà Nội còn được Nhà nước và Chính phủ ưu tiên đầu tư thực hiện các dự án kinh
tế - xã hội lớn có sức hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đây là những áp
lực rất lớn đặt ra đối với công tác quản lý Nhà nước để vừa sử dụng hiệu quả
nguồn tài nguyên đất hữu hạn, lại vừa giải quyết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể
128
và đối tượng liên quan.
Thứ hai, thị trường đất NN còn nhiều rào cản để phát triển cũng là thách thức
lớn đối với công tác quản lý thu hồi đất NN. Cho đến nay quá trình tích tụ và tập
trung ruộng đất vẫn khá chậm và sự phát triển của thị trường đất NN còn rất khó
khăn. Những rào cản đến từ cơ chế chính sách (như quy định về hạn điền, về thời
hạn sử dụng đất NN, về đối tượng được giao dịch đất NN, về các hình thức giao
dịch đất NN), hay do lịch sử và thói quen canh tác đất NN bị manh mún, phân tán,
và những yếu tố khác. Khi thị trường đất NN chưa phát triển thì việc xác định giá
đất theo nguyên tắc thị trường khó thực hiện, từ đó xác định mức bồi thường và hỗ
trợ thỏa đáng và công bằng cho người nông dân là vô cùng khó khăn.
Thứ ba, sự bất cập và hạn chế của công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất gây khó khăn cho công tác quản lý thu hồi đất NN. Hạn chế lớn nhất là
quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng, quy hoạch chuyên ngành không gắn liền với
quy hoạch và phản ánh được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, chất
lượng công tác lập quy hoạch còn thấp, chưa bảo đảm tính dự báo và khả thi dẫn
đến quy hoạch sau khi được phê duyệt phải điều chỉnh tổng thể và điều chỉnh cục
bộ nhiều lần, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thu hồi đất NN.
4.2. Quan điểm đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Điểm cốt lõi để đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN trên địa bàn Hà Nội theo quan điểm của tác giả, trước hết và quan trọng
nhất, là cần phải thay đổi nhận thức và tư duy về quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN.
Đến nay, lý thuyết quản trị Nhà nước tốt cùng với cơ chế chia sẻ lợi ích trong
quá trình thu hồi đất NN đã được nghiên cứu và áp dụng ở hầu hết các nước đang
phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Mô hình quản trị Nhà nước tốt và
cơ chế chia sẻ lợi ích trong quá trình thu hồi đất NN nhấn mạnh việc ra quyết định
của Nhà nước phải đảm bảo tính minh bạch và có sự tham gia của nhiều bên liên
quan, mọi chủ thể đều được pháp luật trao cho quyền tham gia vào các quyết định
của Nhà nước về thu hồi đất NN và tham gia vào quá trình quản lý thu hồi đất NN.
Nhà nước không chỉ là chủ thể quản lý mà cũng là đối tượng chịu sự quản lý của
129
các bên liên quan đó.
Quan điểm này cần được tiếp nhận bằng việc thừa nhận vai trò chủ yếu của
Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN là tạo lập, khuyến khích, và hỗ trợ các chủ
thể trong quá trình thu hồi đất hành động để đạt được mục tiêu về hiệu quả sử dụng
tài nguyên đất và đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên có liên quan. Nhà nước chỉ
trực tiếp điều hành đối với các dự án thu hồi đất vì các mục đích công phi kinh tế
không gắn liền với hoạt động kinh doanh (số lượng các dự án này là ít so với những
dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia
mà có kèm mục tiêu lợi nhuận). Đối với thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia mà có kèm mục tiêu lợi nhuận, Nhà nước chỉ
đóng vai trò trong việc tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi cho các đối tượng sử
dụng đất tự thỏa thuận, thực hiện việc chuyển đổi mục đích và chủ thể sử dụng đất.
Vai trò này được thể hiện qua việc thiết lập hành lang pháp lý, các quy tắc, quy
trình chặt chẽ và minh bạch, phối hợp với các bên liên quan khác để họ có thể phát
huy tiếng nói và quyền quyết định của mình, đảm bảo quy tắc của pháp luật được áp
dụng công bằng cho tất cả các đối tượng. Nhà nước cũng có trách nhiệm giải trình
cao về các quyết định và quá trình ra quyết định trước người dân.
Quan điểm về quản trị Nhà nước tốt và cơ chế chia sẻ lợi ích trong quá trình
thu hồi đất NN cần được thể chế hóa trong quá trình xây dựng cơ sở pháp lý về thu
hồi đất NN, và sẽ tạo cơ sở, điều kiện để đổi mới toàn diện công tác quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN.
4.3. Đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà nước trong
quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Thành phố Hà Nội, trong giai đoạn 2020 - 2030, để có đủ đất đáp ứng được
nhu cầu xây dựng, phát triển đô thị, công nghiệp, NN sinh thái và du lịch, mà vẫn
đảm bảo được lợi ích và đời sống tốt cho người dân bị thu hồi đất NN, công tác
quản lý Nhà nước đối với quá trình thu hồi đất NN này cần phải được đổi mới, và
phát huy được những thành công và khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay. Để
làm được điều đó, luận án đề xuất những nhóm giải pháp đổi mới như sau:
4.3.1. Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thu
hồi đất nông nghiệp làm căn cứ cho quá trình thu hồi đất nông nghiệp
130
Cần thực hiện ngay việc tổ chức rà soát các văn bản quy định của UBND
Thành phố về thu hồi đất NN và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất NN trên địa
bàn thành phố để kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung các quy định đã ban
hành nhưng không còn phù hợp hoặc đã hết hiệu lực, nhằm vừa đảm bảo sự thống
nhất với các quy định của trung ương, vừa phù hợp với yêu cầu thực tế của địa
phương. Các quy định của pháp luật cần được trình bày cụ thể, rõ ràng, hạn chế tình
trạng nhiều văn bản cấp dưới ban hành lại phát sinh những điểm không tương đồng
về nội dung với văn bản của cấp trên hoặc với các văn bản khác nhau. Đây là yếu tố
tiên quyết hàng đầu để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ về nội dung giữa các quy
định, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau từ một
quy định.
Đồng thời, chính quyền thành phố còn cần rà soát và hệ thống hóa lại các
quy định của pháp luật, phát hiện và tham mưu với Nhà nước về những sai sót, bất
cập và chồng chéo giữa các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 với
các văn bản luật chuyên ngành khác như Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính v.v. Ngoài ra, theo yêu cầu của thực tiễn, ngoài
hỗ trợ tối đa cho người dân để ổn định cuộc sống sau khi bị thu hồi đất, đối với
những trường hợp bất hợp tác, thành phố cũng cần có những quy định cụ thể trách
nhiệm pháp lý đối với các trường hợp người bị thu hồi đất không thi hành quyết
định thu hồi đất.
Luận án đề xuất nên xem xét điều chỉnh một số các quy định có liên quan
đến thu hồi đất NN trên địa bàn thành phố (bao gồm quy định về các trường hợp thu
hồi đất NN, quy định về cơ chế thu hồi đất NN, quy định về xác định giá đất NN,
quy định về các hình thức bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất NN) theo
hướng như sau:
4.3.1.1. Qu định cụ thể về các trường hợp thu h i đất nông nghiệp
Các trường hợp thu hồi đất đã được quy định tại Điều 62 Luật đất đai năm
2013. Trong đó, Nhà thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Tuy nhiên, theo phân tích ở Chương trước, đối với các trường hợp Nhà
nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như
quy định trong Luật đất đai là quá rộng, chưa thấy được bản chất khả năng tạo ra lợi
131
nhuận kinh tế của các dự án. Vì vậy, luận án đề xuất phân chia các trường hợp Nhà
nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trên địa
bàn Hà Nội thành 02 nhóm dự án khác nhau. Đó là:
- Nhóm các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì mục đích công cộng phi kinh
tế, không gắn liền với hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Có thể liệt kê, đó là
các công trình công cộng thiết yếu của xã hội, từ nguồn vốn ODA hoặc ngân sách
Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp xây dựng và quản lý, như đường xá, đường sắt,
bến cảng và sân bay; bệnh viện và trường học, trụ sở cơ quan, các công trình điện,
nước và nước thải; các công trình bảo vệ chống lại lũ lụt và bảo vệ môi trường v.v.
- Nhóm các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc
gia có kèm hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Đó là các dự án do các nhà đầu
tư xây dựng và quản lý, như dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông theo hình
thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), xây dựng KĐT mới, KCN,
KCX, đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh, làm dịch vụ v.v.
Việc phân chia này sẽ quyết định sự khác nhau về cơ chế thu hồi đất, cách
thức xác định giá đất, và xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất đối với các dự án khác nhau.
4.3.1.2. Qu định về cơ chế chia sẻ lợi ích đối với các trường hợp thu h i đất
khác nhau
Đối với cơ chế thu hồi đất NN như hiện tại áp dụng trên địa bàn thành phố
Hà Nội, đang có hai luồng quan điểm khác nhau giữa hai nhóm đối tượng có liên
quan là người dân bị thu hồi đất và cán bộ, công chức chính quyền địa phương.
Khảo sát người dân của 08 xã tại 04 huyện thuộc Hà Nội, đối với các dự án
nâng cấp cải tạo đường; xây dựng KĐT, KCN; xây dựng hạ tầng kĩ thuật đấu giá
quyền sử dụng đất (đây là các dự án thu hồi đất NN để phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia mà có kèm mục tiêu lợi nhuận) kết quả như sau.
Tới 72% tổng số người dân bày tỏ nguyện vọng cần có cơ chế thỏa thuận giữa nhà
đầu tư và người dân thông qua cơ chế tự thỏa thuận khi tiến hành thu hồi đất NN
cho những dự án này. Họ cho rằng, với cơ chế tự thỏa thuận, giá trị bồi thường, hỗ
trợ sẽ được giải quyết thỏa đáng theo nguyện vọng của người dân, tránh được tình
trạng thiếu khách quan từ phía các cơ quan hành chính do tâm lý muốn ưu tiên phát
132
triển kinh tế, hay thiên vị về phía quyền lợi của nhà đầu tư, giải quyết không thỏa
đáng quyền lợi của người bị thu hồi đất. Ngoài ra, cơ chế thu hồi đất NN như hiện
nay rất gần với cơ chế “xin - cho” của nền kinh tế bao cấp, dễ phát sinh tham
nhũng, cán bộ quản lý dễ gắn quyền lợi riêng của mình vào quyết định phân chia lợi
ích của các đối tượng có liên quan.
Ngược lại, một số hộ khác (chiếm 28%) có ý kiến cho rằng do đặc thù và vai
trò quan trò quan trọng của đất NN đối với nền KT và đời sống người dân, nên thay
vì tự thỏa thuận, Nhà nước cần đứng ra thu hồi đất nhằm tạo sự thống nhất trong
giải quyết bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, những hộ này cũng đồng tình rằng nên có
những quy định rõ ràng về chia sẻ lợi ích và rủi ro của dự án giữa nhà đầu tư và
người dân khi tiến hành thu hồi đất NN.
Cán bộ, công chức địa phương thì lại có quan điểm khác. Số cán bộ, công
chức cho rằng nên áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất vẫn chiếm một tỷ trọng cao
hơn là 59% so với cơ chế tự thỏa thuận. Điều này cho thấy chính quyền địa phương
cho rằng Nhà nước đứng ra thu hồi đất là phù hợp hơn với vai trò là đại diện chủ sở
hữu, đảm bảo quyền định đoạt của Nhà nước. Hơn nữa, khi Nhà nước đứng ra thu
hồi đất sẽ tạo sự ổn định hơn trong cộng đồng và giữa các dự án với nhau. Theo họ,
để đạt được sự nhất trí thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người dân là rất khó khăn. Đó
là vì trong triển khai ở Hà Nội, chưa có hệ thống định giá bất động sản theo giá thị
trường (đặc biệt đối với đất NN) chính thức được áp dụng, từ đây dễ dẫn tới tình
trạng khó giải quyết các bất đồng ý kiến về giá đất và tài sản trên đất, làm kéo dài
thời gian GPMB.
Như vậy, phần lớn người dân cho rằng cơ chế thu hồi đất hiện nay nên được
thay thế bằng cơ chế cơ chế thị trường mở cửa và minh bạch. Trong đó, nhà đầu tư
và người dân được chủ động trong việc thương lượng các giao dịch đất đai và quyết
định giá đất để bồi thường dựa trên thị trường công khai. Trong giao dịch đất đai
này giữa nhà đầu tư và người dân, Nhà nước đóng vai trò như một trọng tài để đảm
bảo tính khả thi và sự công bằng của các cuộc đàm phán và bảo vệ lợi ích của
những người bị thu hồi đất cũng như tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư để hoàn thành
dự án. Tuy nhiên, đối với khảo sát cán bộ, công chức chính quyền làm nhiệm thực
thi nhiệm vụ GPMB, thu hồi đất ở địa phương, thì hầu hết lại đồng ý rằng nếu để
133
cho chủ dự án đầu tư GPMB sẽ gây ra nhiều phức tạp. Phần vì để được việc, các
chủ đầu tư sẽ thoả thuận với dân, cùng một địa bàn, song có dự án trả giá đền bù
cao, có dự án trả giá đến bù thấp. Điều này gây nên sự thắc mắc, khiếu kiện trong
dân, vừa làm mất ổn định về xã hội vừa kéo dài thời gian giải phóng mặt bằng. Mặt
khác không ít chủ đầu tư hứa với dân nhưng không thực hiện, khiến người dân bức
xúc và khiếu kiện.
Theo quan điểm của luận án, điều mấu chốt để thực hiện tốt công tác thu hồi
đất NN là dù Nhà nước trực tiếp đứng ra thu hồi đất, hay Nhà nước tạo môi trường
pháp lý để người dân và chủ đầu tư tự thỏa thuận và chuyển giao đất đai, thì đều
phải dựa trên một nguyên tắc chung, đó là “chia sẻ lợi ích”. Thực tiễn trên thế giới,
ở cả những quốc gia đang phát triển và những quốc gia phát triển, thu hồi đất theo
cơ chế chia sẻ lợi ích đang được biết đến và áp dụng khá phổ biến cho các dự án
mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội nhưng lại làm tổn hại nhiều hơn tới cộng
đồng nơi có đất và người dân bị mất đất.
Trong điều kiện Hà Nội, luận án đề xuất nên xem xét tạo lập cơ chế chia sẻ
lợi ích đối với tất cả các dự án thu hồi đất NN. Những dự án khác nhau, cách thức
chia sẻ lợi ích cần được xác định khác nhau như sau:
a. Đối với các dự án thu h i đất vì các mục đích công phi kinh tế không gắn
liền với hoạt động kinh doanh
Có thể liệt kê, đó là các nhu cầu thiết yếu của xã hội như đường xá, đường
sắt, bến cảng và sân bay; bệnh viện và trường học, trụ sở cơ quan, các công trình
điện, nước và nước thải; các công trình bảo vệ chống lại lũ lụt và bảo vệ môi trường
v.v. Đây là các dự án có mục tiêu phi kinh tế, phi lợi nhuận, mà lợi ích không chỉ
thuộc về một cá nhân hay một nhóm cá thể nào. Đối với những dự án này, Nhà
nước nên đứng ra trực tiếp thu hồi đất - áp dụng cơ chế bắt buộc thu hồi đất, và áp
dụng nguyên tắc chia sẻ lợi ích khi tính toán giá trị bồi thường, hỗ trợ cho người
dân. Cách tính toán giá trị bồi thường, hỗ trợ cho người dân trong trường hợp này
được trình bày trong nội dung sau.
b. Đối với thu h i đất để phát triển kinh tế - xã hội v lợi ích công cộng, lợi
ích uốc gia có kèm hoạt động kinh doanh
Trong nhóm này bao gồm các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo hình thức
134
BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), xây dựng KĐT mới, KCN, khu sản
xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh, làm dịch vụ v.v. thì nên thu hồi đất theo
cơ chế nhà đầu tư thỏa thuận với người đang sử dụng đất. Trong đó, cơ quan có
thẩm quyền sẽ chấp thuận phương án nhận chuyển quyền sử dụng đất của nhà đầu
tư nếu phương án đạt được sự đồng ý của đa số người đang sử dụng đất (75%) và
phần lớn diện tích đất cần thiết cho dự án (75%). Giá trị bồi thường và hỗ trợ cho
người dân bị mất đất sẽ được thỏa thuận và tính theo nguyên tắc thị trường, với sự
hỗ trợ định giá từ các các tổ chức và các chuyên gia định giá đất.
Cơ chế tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người dân có thể giúp cho nhà đầu
tư vẫn thực hiện được dự án, tránh bị chậm, muộn hoặc không triển khai được dự án
nếu nhà đầu tư không thỏa thuận được với người sử dụng đất, tạo sự an tâm và môi
trường thuận lợi cho doanh nghiệp chủ đầu tư. Còn người dân, mặc dù bị mất đất
nhưng luôn tham gia vào dự án phát triển, không bị đứng ngoài cuộc như hiện nay,
và cùng người dân địa phương trở thành động lực chính cho sự phát triển đô thị, tạo
nguồn vốn phát triển cho địa phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn giữa nhà đầu tư và
cộng đồng dân cư địa phương.
Tuy nhiên, cơ chế thỏa thuận sẽ gặp khó khăn đối với các trường hợp nhà
đầu tư không thỏa thuận nhận chuyển nhượng được hết diện tích đất để thực hiện dự
án. Điều này dẫn đến việc sử dụng đất không hiệu quả. Đối với những trường hợp
không thỏa thuận được này (chiếm khoảng 25% người sử dụng đất, và 25% diện
tích đất cần thiết cho dự án), Nhà nước sẽ thực hiện quyền tối cao là thu hồi đất bắt
buộc. Việc chi trả bồi thường, hỗ trợ cho những người dân bị cưỡng chế thu hồi này
vẫn theo những nguyên tắc và cách xác định giá trị giống với những người dân đã
đồng ý trước đó để tránh những khiếu nại không đáng có do có sự so sánh giá trị bội
thường giữa những người dân khác nhau trong cùng dự án.
Riêng đối với các dự án chỉnh trang KĐT, xây dựng KĐT mới, khu dân cư
nông thôn, cơ chế thỏa thuận có thể thực hiện dưới hình thức cụ thể là “góp đất”.
Đây là phương án được nhiều nước sử dụng khi thu hồi đất NN sẽ được chuyển
sang sử dụng để phát triển KĐT mới hoặc chỉnh trang KĐT cũ, với đầy đủ hạ tầng
giao thông, khu dân cư, khu công cộng, các cơ sở sản xuất kinh doanh v.v., được
quy hoạch chi tiết. Thu hồi đất NN theo cơ chế góp đất đảm bảo rằng những người
135
sử dụng đất cũ vẫn duy trì được quyền của mình đối với đất đai, vì vậy không cần
phải ra quyết định hành chính để thu hồi đất.
Nguyên tắc thực hiện ở đây là những người dân đang sử dụng đất sẽ góp một
phần đất của họ để phát triển cơ sở hạ tầng và để bán nhằm thu hồi lại chi phí cho
dự án. Đổi lại, phần đất còn lại của họ sẽ có giá trị cao hơn nhiều sau khi dự án
được hoàn tất do hạ tầng đã được đầu tư nâng cấp và đất đai đã được quy hoạch.
Trong đó, người mất đất được coi như đã góp đất cũ khi chưa có hạ tầng và được
nhận một suất đất mới khi đã có hạ tầng theo quy hoạch chi tiết được cộng đồng
đồng thuận. Phần đất còn lại theo quy hoạch chưa xây dựng nhà ở hoặc đã xây dựng
nhà ở được đem đấu giá để lấy tiền phát triển phát triển không gian đô thị. Tức là,
người đang sử dụng đất sẽ có thỏa thuận với nhà đầu tư về việc đóng góp đất và
nhận được thửa đất khác trong cùng khu vực; còn Nhà nước sẽ thực hiện việc thu
hồi đất đối với những trường hợp người đang sử dụng đất không đồng ý tham gia
dự án. Sự thỏa thuận của nhà đầu tư với người đang sử dụng thì phải phù hợp với
quy hoạch đô thị đã được chính quyền thành phố phê duyệt. Trên cơ sở sự đồng
thuận của đa số ý kiến cộng đồng những người đang sử dụng đất thuộc dự án, chính
quyền địa phương phê duyệt phương án quy hoạch chi tiết dự án bao gồm cơ sở hạ
tầng, không gian và các tiện ích công cộng. Diện tích đất còn dư sau khi đã quy
hoạch cho hạ tầng đô thị, được chuyển nhượng để tạo nguồn tài chính đầu tư nâng
cấp hạ tầng, tiện ích công cộng và các mục đích xã hội khác.
4.3.1.3. Qu định về xác định giá đất nông nghiệp đối với các trường hợp thu
h i đất khác nhau
Trước tiên, luận án đề xuất nên xác định giá đất cụ thể phụ thuộc vào từng
dự án khác nhau để bồi thường hơn là áp dụng cứng nhắc một bảng giá chung đã
được xây dựng sẵn như hiện nay. Qua khảo sát, hầu hết các hộ dân cho rằng đối với
đất NN, Khoảng 75% người dân được hỏi có quan điểm đồng ý với phương án này.
Theo người dân, xác định giá đất cụ thể để bồi thường đối với từng dự án sẽ tránh
được tình trạng cào bằng.
Tuy nhiên, việc xác định giá đất đối với các dự án khác nhau là khác nhau.
Luận án đề xuất những điểm cần lưu ý sau khi xác định giá đất đối với các nhóm dự
án khác nhau:
136
a. Đối với các dự án thu h i đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội v
lợi ích công cộng, lợi ích uốc gia không kèm hoạt động kinh doanh
Trong những trường hợp này, sau khi đất NN được thu hồi và sử dụng vào
mục đích khác, giá đất sẽ không bị tăng quá cao và chênh lệch quá lớn so với trước,
và lợi ích của việc tăng giá đất cũng không thuộc về riêng cá nhân hay nhóm cá
nhân nào. Giá đất để làm căn cứ bồi thường phải tính đúng và tính đủ giá trị quyền
sử dụng đất, những tổn thất và lợi ích mang đến cho người dân cả trong ngắn hạn và
dài hạn. Trong đó, giá đất phải dựa trên cơ sở mặt bằng giá cả tính toán đầy đủ lợi
ích thoả đáng trong cả ngắn hạn và lâu dài cho người dân. Trên phương diện chung,
thu hồi đất là vì mục tiêu phát triển chung mà lợi ích cuối cùng là người dân được
hưởng, tuy nhiên, lại bao gồm những đối tượng khác nhau. Đặc biệt, khi bị thu hồi
đất NN, đối với những đối tượng trực tiếp có đất NN bị thu hồi phải chịu sự xáo
trộn về việc làm, thu nhập và đời sống. Vì thế, để người dân thực hiện lợi ích
chung, cần phải đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu của họ.
b. Đối với các dự án thu h i đất để phát triển kinh tế - xã hội v lợi ích công
cộng, lợi ích uốc gia có kèm hoạt động kinh doanh
Có thể thấy rõ, đối với các dự án xây dựng KĐT mới, KCN, khu sản xuất,
đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh, làm dịch vụ v.v., giá đất sau khi được chuyển
mục đích sử dụng có thể tăng lên gấp nhiều lần và đem lại lợi ích lớn cho nhà đầu
tư. Với những dự án này cần xác định giá đất tương lai dựa trên phân tích chi phí -
lợi ích về dự án để làm căn cứ bồi thường. Việc xác định giá đất bồi thường trong
những trường hợp này nên thực hiện theo nguyên tắc thị trường. Tức là, để thị
trường quyết định, bảo đảm nguyên tắc giá đất bồi thường tương đương với giá thị
trường; hạn chế việc bắt tay giữa cơ quan hành chính Nhà nước địa phương, mà hãy
để người dân và doanh nghiệp chủ động trong quá trình này; và thực hiện định giá
công khai, minh bạch trước công luận để các tổ chức định giá có chuyên môn nói
giá đúng giá trị của đất đai.
Quy trình định giá dự án đất theo nguyên tắc thị trường để đảm bảo công
khai, minh bạch, có thể thực hiện qua các bước như sau. (i) Đất cần thu hồi sẽ trải
qua quy trình định giá mở trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương.
(ii) Phía cơ quan Nhà nước, hay chủ đầu tư và phía người có đất bị thu hồi đều có
137
quyền thuê tổ chức định giá mà mình chọn, mỗi bên thuê tối đa hai tổ chức định giá
khác nhau. (iii) Các tổ chức định giá lần lượt đến và định giá đất và tài sản, hoa màu
trên đất một cách độc lập. Các chứng thư định giá do các tổ chức định giá thiết lập
độc lập sẽ lần lượt được niêm phong trong thùng định giá trước máy quay phim của
đài truyền hình, công luận và cơ quan thanh tra. (iv) Sau khi đã có đầy đủ các chứng
thư định giá niêm phong trong thùng định giá, người có thẩm quyền hoặc đại diện
các tổ chức dân sự sẽ thay mặt các bên lần lượt mở và đọc to các chứng thư định
giá, máy quay phim có thể quay trực tiếp các chứng thư để phát hình cho mọi người
cùng xem. (v) Giá bồi thường sẽ là giá trung bình cộng của các chứng thư định giá
đất. Đây là giá cuối cùng, ngoại trừ trường hợp một trong trong các bên phát hiện có
yếu tố tiêu cực như thông đồng, gian lận v.v. (vi) Cơ quan quản lý Nhà nước sẽ
nhận được phiếu thanh toán chi phí định giá từ người dân và sẽ trích kinh phí dự án
để thanh toán chi phí này, bởi vì người dân có quyền được tư vấn và cơ quan Nhà
nước có trách nhiệm phải tư vấn hoặc trả chi phí để họ được tư vấn độc lập.
Ngoài ra, cần áp dụng nguyên tắc địa tô chênh lệch II với đất đai được thu
hồi và phần chênh lệch này phải tập trung vào ngân sách Nhà nước. Chẳng hạn khi
chuyển từ đất NN sang đất xây dựng các KCN, KĐT, rõ ràng giá đất có sự thay đổi.
Do có san lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, văn hoá, giao
thông, điện, nước nên giá trị đất đai tăng lên. Chính vì thế, Nhà nước cần có sự tính
toán đầy đủ giá trị gia tăng này để bù đắp chi phí. Phần còn lại phải tập trung vào
ngân sách Nhà nước. Có sự điều tiết như thế mới đảm bảo được sự công bằng giữa
người dân có đất bị thu hồi với các đơn vị được thu nhận đất, khắc phục được tình
trạng bất hợp lý hiện nay giữa giá đất NN thu hồi với giá đất và giá nhà ở do các
đơn vị xây dựng bán cho người dân có đất bị thu hồi. Hơn nữa, khi các cơ quan Nhà
nước đứng ra thu hồi đất, thực hiện việc san lấp mặt bằng, và tính toán giao đất cho
chủ đầu tư theo giá cả hợp lý để khắc phục tình trạng chênh lệch giá quá mức không
để các chủ dự án thu hồi đất.
4.3.1.4. Qu định về các h nh thức b i thường, hỗ trợ cho người dân bị thu
h i đất nông nghiệp
Để có thể có được sự hỗ trợ tốt nhất cho người dân, đảm bảo những lợi ích
138
chính đáng, và đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân sau khi bị thu hồi đất,
theo quan điểm của luận án, cần thay đổi cách tiếp cận về hỗ trợ, bồi thường về đất
NN không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất.
Nguyên tắc khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu
không có đất cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương. Tuy nhiên,
theo phân tích ở Chương trước, trên địa bàn Hà Nội, đất NN được xác định giá bằng
phương pháp thu nhập, nên giá đất được xác định là rất thấp so với giá các loại đất
khác. Luận án đề xuất cách tiếp cận này cần phải được thay đổi, đất NN bị thu hồi
phải được bồi thường, trước tiên, với tư cách là một tài sản, được xác định giá theo
nguyên tắc thị trường. Ngoài ra, với đặc trưng đặc biệt của đất NN, ngoài ý nghĩa là
tài sản, đất NN còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất đối với người dân. Vì
đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên ngoài việc bồi thường giá trị như
một tài sản, còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người dân mất đất. Nếu
chỉ là khoản hỗ trợ trong một thời gian nhất định thì coi như đã phó mặc việc tìm
sinh kế mới cho người dân, trong khi họ hầu hết là người nghèo và sống phụ thuộc
vào NN.
Do đó, luận án đề xuất, đảm bảo sinh kế và thu nhập là nhiệm vụ quan trọng
phải được thực hiện khi tiến hành thu hồi đất NN. Thay vì phó mặc gánh nặng hỗ
trợ đào tạo nghề đối với người dân bị thu hồi đất cho Nhà nước, nhà đầu tư cũng
cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với họ về cơ hội tìm sinh kế mới cho họ. Đồng
thời, nhà đầu tư phải chi trả cho người dân một khoản tiền tương ứng với mức thu
từ sử dụng đất trước đây cho tới khi họ có nguồn thu nhập mới. Hơn nữa, phải bồi
thường theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà
đầu tư không thể trì hoãn. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ
lưỡng đất đai trong bài toán đầu tư để chi phí ít nhất, trong khi chính quyền địa
phương cũng không thế đánh đổi mọi giá cho sự phát triển. Như vậy chắc chắn sẽ
giảm được tham nhũng, sai phạm về đất đai và bảo vệ được nguồn lực đất đai.
Ngoài ra, luận án đề xuất thay đổi và ban hành những quy định cụ thể về các
hình thức hỗ trợ cho người dân để đảm bảo sinh kế, thu nhập, và ổn định đời sống
hậu thu hồi đất. Quan trọng nhất là cần hỗ trợ tạo việc làm mới hoặc hỗ trợ đào tạo
tay nghề giúp người dân có việc làm mới và thu nhập ổn định. Ngoài ra, phương án
139
về cấp lại đất NN khác để quay trở lại sản xuất NN nếu quỹ đất cho phép cũng sẽ là
phương án tốt để ổn định đời sống của người dân. Còn đối với phương án hiện nay
đang được thực hiện nhiều nhất là tăng mức hỗ trợ, ổn định đời sống thì nên định
hướng, giải thích để người dân có thể sử dụng tốt nguồn hỗ trợ này để có thể đầu tư
và sinh lợi, tránh sử dụng lãng phí vào những hoạt động không sinh lợi hoặc cải
thiện cuộc sống trong tương lai.
4.3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới công tác tổ chức thực hiện thu hồi đất
nông nghiệp
4.3.2.1. Nâng cao năng lực của cán bộ, công chức địa phương làm nhiệm vụ
thu h i đất, gi i phóng mặt bằng
Đây là vấn đề cốt lõi để đổi mới công tác quản lý Nhà nước. Việc nâng cao
năng lực của cán bộ, công chức địa phương bao gồm trang bị kiến thức về quản lý
Nhà nước, quản lý Nhà nước về đất đai, quản lý Nhà nước về thu hồi đất NN,
những nhiệm vụ và cách thức thực hiện công tác quản lý Nhà nước trong quá trình
thu hồi đất NN tại địa phương. Bằng cách tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác địa
chính tại địa phương về những công việc cụ thể trong công tác thu hồi đất như kiểm
kê, kiểm đếm đất đai, hoa mầu và tài sản trên đất; định giá đất, lập phương án bồi
thường, tính thuế; kỹ năng tuyên truyền, vận động người dân; kỹ năng hòa giải, giải
quyết xung đột các quan hệ đất đai trong quá trình thu hồi đất. Đồng thời, tổ chức
các buổi hội thảo, tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm giữa các địa bàn, các địa phương
khác, và nước ngoài về quản lý thu hồi đất NN. Từ đó, có thể đạt được những tiến
bộ lớn chỉ trong một khoảng thời gian ngắn nếu cán bộ địa chính được bồi dưỡng
những kỹ năng kỹ thuật, kiến thức về xã hội, tài chính, pháp luật và kinh tế liên
quan đến thu hồi đất NN.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán
bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác thu hồi đất, GPMB tại địa phương. Có
như vậy, một mặt, họ có thể làm tốt nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, mặt khác,
họ sẽ hỗ trợ tốt cho người dân, doanh nghiệp, chủ đầu tư và các tổ chức có liên quan
140
thực hiện theo đúng pháp luật.
4.3.2.2. Tăng cường sự tham gia và đ ng thuận của người dân vào uá tr nh
thu h i đất nông nghiệp
Với một thành phố đang có rất nhiều dự án cần đất để đầu tư xây dựng như
Hà Nội, cần có chính sách và tổ chức thực hiện thu hồi đất và bồi thường thu hồi đất
có lợi nhất cho người dân bị thu hồi đất trên cơ sở công bằng, lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân; công khai trao đổi với nhân dân; không thực hiện áp đặt các cơ chế
bồi thường. Có như thế mới tạo được niềm tin đối với người dân để công tác thu hồi
đất và bồi thường đạt hiệu quả cao trong thực tế, GPMB được thực hiện nhanh
chóng, tránh vướng mắc, khiếu kiện kéo dài.
Sự tham gia của người dân vào quá trình thu hồi đất NN được thể hiện bằng
việc lấy ý kiến của người dân về các quyết định của Nhà nước đối với đất đai. Để
tăng cường sự tham gia của người dân nhằm nâng cao đồng thuận xã hội, luận án đề
xuất cần thực hiện lấy ý kiến của người dân trong tất cả các bước khi tiến hành thu
hồi đất NN. Cụ thể như sau:
(i) Đối với quá trình ra quyết định thu hồi đất, người dân và chủ đầu tư phải
có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận và phản hồi thông tin về các dự án thu hồi
đất, kế hoạch và trình tự thủ tục thu hồi đất. Chính quyền cần đảm bảo mọi công
dân đều bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin, bằng cách tạo cơ sở pháp lý hai
chiều đối với thông tin. Trong đó người dân và chủ đầu tư cần phải có quyền truy
cập và tiếp cận thông tin, và cũng có quyền bày tỏ ý kiến và phản hồi về những
thông tin đó.
Để làm được điều đó, cần làm tốt công tác công bố quy hoạch, kế hoạch sử
dụng và thu hồi đất, tuyên truyền, công khai thông tin về dự án. Đối với tất cả các
dự án tiến hành thu hồi đất NN, phải có quy định bắt buộc chủ đầu tư phải cung cấp
đầy đủ thông tin về dự án tiến hành thu hồi đất, phân tích tính khả thi, phân tích chi
phí và lợi ích của dự án. Điều này sẽ giảm được sự bất đối xứng thông tin giữa
người dân và chủ đầu tư.
Riêng đối với những dự án thu hồi đất nhằm phát triển kinh tế - xã hội có yếu
tố đầu tư kinh doanh và thu lợi nhuận, ngoài có quyền được cung cấp thông tin,
người dân cũng còn cần có quyền bày tỏ và tiếp thu ý kiến của mình đối với các cơ
141
quan quản lý để xem xét và đưa ra quyết định thu hồi đất đối với những dự án đầu
tư tiến hành thu hồi đất. Cần thiết phải lấy ý kiến trưng cầu ý dân và về quyết định
thu hồi đất để thực hiện dự án này bằng cách tổ chức điều trần công khai với sự
tham gia của toàn bộ người dân bị thu hồi đất thực hiện dự án đó tại địa phương,
chủ đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước. Quy định rõ tỉ lệ phần trăm số người đồng
ý thì dự án thu hồi đất sẽ được thông qua hoặc tỉ lệ phần trăm bao nhiêu người phản
đối thì Nhà nước sẽ dừng việc thu hồi đất. Chỉ khi có trên 75% tổng số người dân
địa phương đồng ý thì mới tiến hành thu hồi đất để thực hiện dự án. Ngoài ra, việc
tổ chức tiếp dân, lắng nghe dân trình bày kiến nghị, nguyện vọng là nhiệm vụ
thường xuyên của hội đồng GPMB cùng các cơ quan chuyên trách về GPMB và của
chính quyền các cấp đối với dự án. Qua đó, giải đáp kiến nghị, vướng mắc trong
thực hiện dự án. Cách làm này giúp mang lại sự đồng thuận cao trong nhân dân để
thực hiện tốt chủ trương của chính quyền.
(ii) Đối với quá trình xác định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Để phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận
được sự đồng thuận của người dân; bảo đảm việc hỗ trợ được khách quan, công
bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định, cần bổ sung nguyên tắc bồi thường, hỗ
trợ là phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt khi đạt được ít nhất 75% ý kiến
đồng ý của những người tham gia ý kiến từ cộng đồng dân cư địa phương.
4.3.2.3. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức định giá đất chu ên nghiệp
vào uá tr nh thu h i đất
Luận án đề xuất đổi mới cơ chế xác định giá trị bồi thường theo hướng thị
trường. Tức là thay vì như hiện nay UBND thành phố sẽ toàn quyền quyết định ban
hành quy định việc lập dự toán, quản lý nội dung chi, mức chi và quyết toán kinh phí tổ
chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố, thì
nên có sự đàm phán giữa người dân với tư cách là đối tượng chuyển quyền sử dụng đất
và chủ đầu tư với tư cách là đối tượng nhận quyền sử dụng đất trong quá trình thu hồi
đất. Trong đó, người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan định giá đất xác định giá
đất và giá do cơ quan định giá đất đưa ra là giá để tính bồi thường.
Khi hỏi ý kiến người dân bị thu hồi đất NN về vai trò của cơ quan hỗ trợ
định giá đất nhận được kết quả, đó là, chiếm tỉ lệ lớn hơn (68%) người dân được
142
hỏi cho rằng các cơ quan chuyên môn, các cơ chuyên gia có vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ người dân xác định giá đất để làm cơ sở bồi thường. Đặc biệt đối với
những dự án mang lại lợi nhuận kinh tế lớn do được chuyển mục đích sử dụng đất
sau khi thu hồi đất thì phải được tính toán kĩ về chi phí và lợi ích để bồi thường cho
người dân. Họ cho rằng với cách tính toán bồi thường như hiện nay, lợi ích này
hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư - đó là điều không công bằng với người dân. Vì vậy,
cần phải có cơ quan đủ chuyên môn và nghiệp vụ hỗ trợ người dân trong việc tính
toán bồi thường. Ngoài ra, theo quan điểm của số lượng lớn hơn người dân (57%
tổng số người được hỏi), những cơ quan này nên là cơ quan thuộc Nhà nước, được
Nhà nước trao quyền. Điều đó thể hiện sự tin tưởng và kì vọng của người dân đối
với Nhà nước trong việc tính toán bồi thường công bằng.
Đối với trường hợp không thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có
quyền yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác định, giá đất xác định theo giá của cơ
quan thẩm định giá đưa ra. Trường hợp một bên không đồng ý với giá của cơ quan
thẩm định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm định lại, giá của cơ quan
tổ chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để bảo đảm giá của cơ quan thẩm định giá đưa
ra là khách quan, độc lập, Nhà nước cần nghiên cứu thành lập cơ quan định giá
chuyên nghiệp, độc lập với địa vị pháp lý rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hoạt động định giá.
Đề làm được điều này, cần có những quy định cụ thể về khung pháp luật của
hoạt động dịch vụ định giá đất và các trường hợp khi nào thì dịch vụ định giá đất là
bắt buộc. Ngoài ra, cũng cần quy định các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định về giá đất phải độc lập với các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai để bảo
đảm tính khách quan trong việc xác định giá đất, tránh tình trạng vừa đá bóng, vừa
thổi còi, UBND cấp tỉnh vừa có thẩm quyền thu hồi đất, vừa có thẩm quyền xác
định bảng giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất. Vì vậy, nên quy định
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất được thành lập theo hệ
thống ngành dọc trực thuộc trung ương.
4.3.2.4. Củng cố hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai và thu h i đất
Hiện nay hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai của thành phố Hà Nội,
thuộc cơ sở dữ liệu quốc gia đất đai đã được xây dựng bao gồm: (i) Cơ sở dữ liệu về
143
văn bản quy phạm pháp luật về đất đai; (ii) Cơ sở dữ liệu địa chính; (iii) Cơ sở dữ
liệu điều tra cơ bản về đất đai; (iv) Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
(v) Cơ sở dữ liệu giá đất; (vi) Cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai; (vii) Cơ sở
dữ liệu về thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai;
(viii) Cơ sở dữ liệu khác liên quan đến đất đai. Cho đến nay thành phố Hà Nội đã
xây dựng và hoàn thiện các công cụ để vận hành hệ thống giao dịch điện tử trên cơ
sở điện tử hóa nghiệp vụ hành chính đất đai. Tất cả cơ sở dữ liệu này đã được số
hóa và đưa vào sử dụng. Theo khảo sát của tác giả ở chương trước, người dân hoàn
toàn có thể truy cập với mạng Internet những thông tin này.
Trong thời gian sắp tới, một mặt, chính quyền thành phố cần tiếp tục cập
nhật và nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu thông tin về đất đai đã có; mặt khác, cũng
quan trọng không kém đó là tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn để người dân biết
thông tin về cơ sở dữ liệu đất đai, biết cách, có thể truy cập và sử dụng cơ sở dữ liệu
này. Vì cơ sở dữ liệu này ra đời không chỉ nhằm phục vụ cho việc quản lý của các
cơ quan Nhà nước mà vô cùng quan trọng là nhằm công khai, minh bạch thông tin
đến người dân. Để làm được điều này, chính quyền cấp cơ sở có thể tổ chức các
buổi hội thảo, họp tổ dân phố, hoặc gửi văn bản hướng dẫn sử dụng về cho người
dân được biết.
4.3.3. Giải pháp tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát quá trình thu
hồi đất nông nghiệp; giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quá trình thu
hồi đất nông nghiệp
4.3.3.1. Nâng cao chất lượng gi i u ết khiếu nại, tố cáo về thu h i đất nông
nghiệp
Một mặt, các cơ quan có thẩm quyền cần đề cao trách nhiệm, tập trung giải
quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất và bồi
thường thiệt hại khi thu hồi đất NN theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo, công bố công khai kết quả giải quyết. Mặt khác, tăng cường công tác tuyên
truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện theo quy định
của pháp luật để giảm thiểu những trường hợp người dân mặc dù khiếu nại đã được
giải quyết rồi nhưng do thiếu hiểu biết pháp luật nên lại tiếp tục nộp đơn.
Ngoài ra, còn cần kết hợp với việc củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất
144
đai, đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm việc giải
quyết khiếu nại của các ngành các cấp tại địa phương, từ cấp cơ sở trong quá trình
thu hồi đất, tránh vượt cấp lên trung ương. Đồng thời, quan tâm đào tạo, nâng cao
trình độ cho đội ngũ thanh tra viên, cán bộ giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về thu hồi đất và bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất.
4.3.3.2. Tăng cường đối thoại trong gi i u ết khiếu nại, tố cáo về thu h i
đất nông nghiệp
Đối thoại là vô cùng quan trọng trong giải quyết khiếu nại đặc biệt là khiếu
nại về thu hồi đất NN. Khi đã xảy ra khiếu nại tức là đã hiện hữu một mâu thuẫn
cần giải quyết. Trong việc giải quyết tất cả các mâu thuẫn thì đối thoại luôn là điều
quan trọng.
Đối thoại trước hết mang lại cho những người liên quan có được đầy đủ
thông tin từ nhiều phía về vụ việc có tranh chấp. Trong những vụ khiếu nại về thu
hồi đất NN thì điều này càng trở nên quan trọng bởi tính chất phức tạp của nó, do
những yếu tố lịch sử của mảnh đất và tâm lý của người sử dụng đất. Đối thoại còn
là cơ hội để các bên trong tranh chấp thuyết phục lẫn nhau bằng lý lẽ của mình, và
cuối cùng giúp tìm ra một giải pháp có tính đồng thuận, một kết cục ít tốn kém nhất
và bảo đảm hiệu lực thi hành của các quyết định giải quyết.
Tuy nhiên, nhận thức, quy định của pháp luật, và quá trình thực hiện đối thoại
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất NN trên thực tiễn địa bàn Hà Nội hiện
nay chưa thực sự đầy đủ. Đối thoại vẫn chỉ được coi là một trong những thủ tục cần
thiết, đôi khi rất hình thức mà chưa thấy đó là một phương pháp, thậm chí là một
nguyên tắc quan trọng cần được tôn trọng và thực hiện trong giải quyết khiếu nại. Bản
chất của việc giải quyết khiếu nại là việc tự sửa chữa của cơ quan đã ra quyết định hoặc
tự xem xét lại của người khiếu nại, cho nên đối thoại phải được đề cao như một nguyên
tắc và được thực hiện trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này cần được
ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Việc đối thoại cần được coi là giải pháp tích cực
để giải quyết khiếu nại, và có thể được thực hiện nhiều lần với nhiều chủ thể tham gia
ngoài người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Một lưu ý rất quan trọng khi thực hiện đối thoại trong giải quyết khiếu nại về
thu hồi đất NN là cần xây dựng vị trí bình đẳng trong quy trình giải quyết khiếu nại.
145
Rất khó để bảo đảm tính công bằng khi bên thu hồi đất cũng là bên chủ tọa giải
quyết khiếu nại. Vì vậy, luận án đề xuất khi giải quyết khiếu nại cần tổ chức đối
thoại có hai bên tương đồng nhau theo hình thức hội nghị bàn tròn; và bảo đảm sự
tham gia của các cơ quan, tổ chức tư vấn pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp tại địa phương và các chủ thể này phải được quyền
tiếp cận các hồ sơ giải quyết. Trong nhiều trường hợp, chính sự tham gia và những
lời giải thích của bên thứ ba khiến người dân sớm nhận ra được là những yêu cầu,
đòi hỏi của cá nhân mình là không phù hợp hoặc bất khả thi.
4.3.3.3. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức trung gian trong gi i u ết
khiếu nại, tố cáo về thu h i đất nông nghiệp
Luận án đề xuất ban hành quy định bắt buộc về sự tham gia của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp tại địa phương trong thực hiện thu hồi
đất NN, bởi lẽ, đây là lực lượng đại diện cho quyền lợi của các hội viên - những
người bị thu hồi đất. Một mặt, các tổ chức này vừa có thể tham vấn cho cơ quan
Nhà nước trong quá trình giải quyết tranh chấp, mặt khác cũng có thể đóng vai trò
là trung gian hòa giải để hạn chế sự xung đột giữa người bị thu hồi đất khi gửi đơn
khiếu nại tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, giảm bớt tính chất gay gắt của
những vụ việc.
Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức trung gian này có nhiều ý
nghĩa. Trước hết, những thiết chế trung gian này có thể giúp mang lại những thông
tin thiết thực, cụ thể cho cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền trong việc xác
định những vấn đề mang tính lịch sử hình thành của diện tích đất bị thu hồi, xác
định đối tượng thuộc diện giải tỏa, GPMB. Sự vào cuộc của các thiết chế trung gian
tại địa phương còn tạo ra sự thống nhất giữa Nhà nước và người bị thu hồi đất nhờ
việc hỗ trợ người dân hiểu được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích nhiều mặt của
các công trình, dự án sẽ được triển khai sau khi thu hồi đất. Như vậy, sự tham gia
của các thiết chế trung gian là rất đáng kể trong việc tư vấn cho người dân mỗi khi
có thắc mắc khiếu nại xung quanh việc thu hồi đất.
4.3.3.4. Nâng cao trách nhiệm gi i tr nh đối với người dân của các cơ uan
u n l thu h i đất nông nghiệp
Luận án đề xuất ban hành quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý
146
phải cung cấp, giải thích, và làm rõ các thông tin liên quan đến việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong quá trình thu hồi đất NN để
người dân có thế phát huy quyền kiểm tra và giám sát. Cũng cần thiết phải có những
chế tài xử phạt khi không giải trình được những thông tin trên để tăng trách nhiệm
giải trình của các cơ quan Nhà nước.
Để tăng cường sự tương tác và đối thoại giữa người dân và cơ quan Nhà
nước, một mặt, ban hành các quy chế và quy định về việc tiếp xúc, đối thoại với
người dân khi được yêu cầu; mặt khác, các cơ quan Nhà nước cần chủ động bố trí
cán bộ, lãnh đạo cấp huyện, đặc biệt là cấp xã đến tham gia họp tại một số tổ dân,
thôn, cụm dân cư trong các buổi họp thông báo và lấy ý kiến về các quyết định về
thu hồi đất NN để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân. Thông qua đó,
chính quyền kịp thời giải đáp những vấn đề người dân còn vướng mắc hay chưa hài
lòng về chính quyền cấp cơ sở trong quá trình thu hồi đất; đồng thời chủ động tuyên
truyền những chính sách mới, kế hoạch, chương trình hoạt động của chính quyền
các cấp liên quan đến thu hồi đất nhằm tạo điều kiện để người dân được biết và
tham gia vào các hoạt động này.
Nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý đất đai đối với
người dân sẽ tăng tính công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện công tác quản
lý thu hồi đất, qua đó, phát huy vai trò giám sát của cơ quan, tổ chức, đoàn thể và
người dân đối với hoạt động của bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Chương này đã đưa ra các đề xuất về một số giải pháp nhằm thay đổi công
tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN có thể được thực hiện trong
điều kiện Hà Nội để phát huy được những thành công, và giảm thiểu hạn chế của
công tác quản lý này, nhằm đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên đất, và đảm bảo hài hòa
lợi ích của các đối tượng có liên quan, đặc biệt đảm bảo lợi ích lâu dài của người
dân bị thu hồi đất.
Các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác xây dựng cơ sở pháp lý về thu hồi
đất NN đó là cần thay đổi nhận thức, tư duy về quản lý Nhà nước; rà soát và điều
147
chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về thu hồi đất NN. Bao gồm các quy định về
các trường hợp thu hồi đất NN, cơ chế thu hồi đất NN, xác định giá đất NN, xác
định giá trị và hình thức bồi thường, hỗ trợ cho người dân.
Để đổi mới công tác tổ chức thực hiện thu hồi đất NN cần thực hiện những
giải pháp như nâng cao năng lực cán bộ địa phương; tăng cường sự tham gia và
đồng thuận của người dân vào quá trình thu hồi đất NN; tăng cường sự tham gia của
các tổ chức định giá đất vào quá trình thu hồi đất NN; và củng cố hệ thống thông tin
cơ sở dữ liệu về đất đai công khai, minh bạch.
Các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát quá trình thu hồi
đất NN; giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quá trình thu hồi đất NN bao
gồm nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại về thu hồi đất NN; tăng cường đối
thoại trong giải quyết khiếu nại về thu hồi đất NN; tăng cường sự tham gia của các
148
tổ chức trung gian trong giải quyết khiếu nại.
KẾT LUẬN
Kể từ những năm 1990, đẩy mạnh CNH, HĐH đã là mục tiêu của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Để tạo thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp và dịch
vụ, thúc đẩy sản xuất NN đồng thời thúc đẩy bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Nhà
nước luôn thể hiện vao trò quản lý của mình thông qua các công cụ khác nhau.
Trong đó đặc biệt quan trọng là chính sách đất đai đã thay đổi rất nhiều. Sự phát
triển của quá trình CNH, HĐH và cả ĐTH đòi hỏi việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất đai và nghề nghiệp ngày càng tăng, từ NN chuyển sang phục vụ cho công
nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, so với sự phát triển nhanh của CNH và ĐTH, sự quản
lý Nhà nước về đất đai, đặc biệt là chính sách đất đai để điều chỉnh các mối quan hệ
giữa Nhà nước - chủ thể quản lý, với người dân và doanh nghiệp - các đối tượng
chịu sự quản lý lại thay đổi chậm. Trong quá trình thu hồi đất - chuyển mục đích sử
dụng đất và đối tượng sử dụng đất, lợi ích đang rơi nhiều vào các doanh nghiệp tư
nhân, còn người dân thì chịu nhiều thiệt thòi. Nông dân là những người nghèo trong
xã hội, và quá trình ĐTH và CNH cũng đẩy họ vào một loạt các bẫy đói nghèo. Do
đó, bảo vệ lợi ích của các hộ nông dân trong quá trình thu hồi đất cũng là một ưu
tiên của Nhà nước trong quá trình chuyển đổi đất đai phục vụ ĐTH và CNH.
Tìm hiểu về công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên
địa bàn Hà Nội, luận án đã đạt được một số kết quả sau:
i) Luận án đã góp phần làm phong phú thêm cơ sở khoa học về quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN, bao gồm các quan điểm lý luận về quá trình
thu hồi đất NN và quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN. Đặc biệt, luận
án đã xây dựng được bộ tiêu chí để đánh giá 03 nội dung của công quản lý Nhà
nước trong quá trình thu hồi đất NN, bao gồm 07 nhóm tiêu chí, 21 chỉ tiêu đánh
giá, 03 mức độ đánh giá. Luận án cũng đã tìm hiểu những kinh nghiệm của một số
quốc gia cũng như một số địa phương, và rút ra được bài học ý nghĩa để đổi mới
công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội.
ii) Luận án đã phân tích thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2018 dựa trên bộ
tiêu chí đã xây dựng. Qua phân tích và đánh giá, luận án đã chỉ ra những thành công
149
và hạn chế còn tồn tại của công tác quản lý này. Những mâu thuẫn, bất cập diễn ra
sẽ làm cản trở quá trình thu hồi đất, gây căng thẳng giữa các đối tượng có liên quan,
và tạo ra sự bất ổn xã hội.
iii) Từ đó, luận án đã đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi công tác quản
lý Nhà nước về thu hồi đất NN trên địa bàn Hà Nội để phát huy những thành công
và khắc phục những hạn chế trong quá trình thu hồi đất. Trong ngắn hạn, cần rà
soát, hoàn thiện khung pháp lý, hoàn thiện các quy định về giá đất, và củng cố hệ
thống dữ liệu thông tin đất đai. Ngoài ra, cần tăng cường sự tham gia và đồng thuận
của người dân vào quá trình thu hồi đất, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, và
nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại. Về lâu dài, nên hỗ trợ, bồi thường về đất
với tư cách là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trong quá trình thu hồi đất, Nhà nước
nên tạo ra một cơ chế thị trường cởi mở và minh bạch hơn thông qua đó các hộ gia
đình và nhà đầu tư có thể đàm phán giá đất dựa trên giá thị trường công khai. Sự
can thiệp của chính quyền được thể hiện bằng vệc đảm bảo các biện pháp cân bằng
giữa người mua và người bán có thể làm tăng tính công bằng và tính khả thi của các
cuộc đàm phán này. Đồng thời, tăng cường sự tham gia của các tổ chức trung gian,
và tăng cường đối thoại trong giải quyết khiếu nại về thu hồi đất NN.
iv) Luận án cũng mở ra những vấn đề quan trọng khác cho các nghiên cứu
sâu hơn về quản lý kinh tế và chính sách công ở Việt Nam, cũng như cho các nước
đang phát triển khác trên toàn thế giới. CNH, HĐH và ĐTH đang diễn ra ở nhiều
nước, ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu hộ gia đình. Đất NN là thiết yếu cho
sinh kế và an ninh lương thực. Khi quản lý thu hồi đất NN thể hiện nhiều bất cập,
yếu kém, thì có thể dẫn đến xung đột về đất đai, nghèo đói ở nông thôn và tệ nạn xã
hội ở khu vực thành thị. Do đó, công tác quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi
đất NN để đảm bảo quyền sử dụng đất của người dân được bảo vệ nhằm phát triển
150
kinh tế và ổn định xã hội là một thách thức lớn đối với nhiều nước đang phát triển.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. “Kinh nghiệm quản lý, thu hồi đất nông nghiệp ở một số quốc gia và bài học cho
Việt Nam”, Tạp chí Công thương (Số 13 Tháng 10/2018), tr 161-166.
2. “Cần đổi mới công tác quản lý thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Tạp
chí Kinh tế và dự báo (Số 14 Tháng 5/2018), tr 69-72.
3. “Các mô hình thu hồi đất trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí
151
Kinh tế và dự báo (Số 30 Tháng 12/2016), tr 44-47.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Anh (2011), Pháp luật về b i thường thiệt hại, hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu h i đất, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
2. Ban Quản lý các Khu Công nghiệp và Chế xuất Hà Nội, Các báo cáo tình hình
thành lập và phát triển KCN, KCX từ năm 2009 đến năm 2017
3. Ban Quản lý các Khu Công nghiệp và Chế xuất Hà Nội, Các báo cáo tình hình
thực hiện kế hoạch phát triển KCN, KCX từ năm 2009 đến năm 2017
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công tác u n l Nhà nước về đất đai từ năm
2000 đến năm 2010
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Công tác u n l Nhà nước về đất đai từ năm
2011 đến năm 2016
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Các báo cáo hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
trên c nước từ năm 2011 đến năm 2016
7. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 Qu định chi tiết phương pháp định giá đất; xâ dựng, điều
chỉnh b ng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất 8. Nguyễn Đình Bồng, Lê Thanh Khuyến, Vũ Văn Phúc, Trần Thị Minh Châu (2012), Qu n l đất đai ở Việt Nam, 1945-2010, NXB Chính trị Quốc gia. 9. Nguyễn Đình Bồng và các tác giả (2014), Mô h nh u n l đất đai hiện đại ở các nước và kinh nghiệm cho Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. 10. CARE Quốc tế tại Việt Nam - Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2005), Qu n l và sử dụng đất đai ở nông thôn Miền Bắc nước ta,
NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
11. Lê Hồng Cậy (2008), Xung đột lợi ích giữa các chủ thể khi thực hiện đền bù giá trị u ền sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp ở các dự án, thực trạng và gi i pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (Bộ NN&PTNT).
12. Chính phủ (2014), Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngà 13 tháng 08 năm 2009 Qu định bổ sung về u hoạch sử dụng đất, giá đất, thu h i đất, b i thường, hỗ trợ và tái định cư
13. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngà 15 tháng 05 năm 2014
152
Qu định về giá đất
14. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngà 15 tháng 5 năm 2014 Qu định về b i thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu h i đất 15. Chính phủ (2017), Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngà 06 tháng 01 năm 2017 Sửa đổi, bổ sung một số nghị định u định chi tiết thi hành luật đất đai 16. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2009), Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội
2009
17. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2013), Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội
2013
18. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2015), Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội
2015
19. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2016), Số liệu kinh tế - xã hội Thủ đô ua 60
năm xâ dựng và phát triển
20. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2017), Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội
2017
21. Nguyễn Thế Chinh (2012), Nghiên cứu nh hưởng của cơ chế hai giá đất (giá do Nhà nước u định, giá thị trường) đối với việc giao đất, cho thuê đất,
thu h i đất và đề xuất gi i pháp để giá đất do Nhà nước u định tiệm cận
với giá thị trường, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (Bộ TN&MT).
22. Đào Trung Chính (2014), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về thu h i đất, b i thường, hỗ trợ, tái định cư, Luận án tiến sỹ, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam.
23. Nguyễn Mạnh Hải (2009), Vấn đề b i thường trong thu h i đất NN ở Việt Nam: thực trạng chính sách và gi i pháp hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ
24. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà, Hồ Thị Lam Trà, “Ảnh hưởng của việc thu h i đất nông nghiệp đến đời sống, việc làm của nông dân hu ện
văn lâm, tỉnh Hưng Yên”, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số 1: tr. 59 - 67
25. Nguyễn Lệ Hoa (2011), Đánh giá thực trạng thu h i và đền bù đất NN: Nghiên cứu t nh huống tại Bắc Ninh, Qu ng Ngãi và B nh Dương, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ NN&PTNT
26. HĐND Thành phố Hà Nội (2014), Nghị u ết số 14/2014/NQ-HĐND ngà 01 tháng 01 năm 2014, Giá các loại đất áp dụng từ ngà 01/01/2015 đến
ngà 31/12/2019 trên địa bàn Thành phố Hà Nội
153
27. HĐND Thành phố Hà Nội (2014), Nghị u ết số 06/NQ-HĐND ngà 05 tháng 12 năm 2014, Danh mục các công tr nh, dự án thu h i đất năm 2015; dự
án chu ển mục đích đất tr ng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trên địa
bàn Thành phố Hà Nội năm 2015 thuộc thẩm u ền của HĐND Thành phố Hà Nội
28. HĐND Thành phố Hà Nội (2015), Nghị u ết số 13/NQ-HĐND ngà 02 tháng 12 năm 2015, Danh mục các công tr nh, dự án thu h i đất năm 2016; dự
án chu ển mục đích đất tr ng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2016 thuộc thẩm u ền của HĐND Thành phố Hà Nội
29. HĐND Thành phố Hà Nội (2015), Nghị u ết số 65/NQ-CP của Chính phủ Về điều chỉnh u hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất
kỳ cuối (2016 - 2020) Thành phố Hà Nội
30. HĐND Thành phố Hà Nội (2016), Nghị u ết số 19/NQ-HĐND ngà 06 tháng 12 năm 2016, Danh mục các công tr nh, dự án thu h i đất năm 2017; dự
án chu ển mục đích đất tr ng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trên địa
bàn Thành phố Hà Nội năm 2017 thuộc thẩm u ền của HĐND Thành
phố Hà Nội
31. HĐND Thành phố Hà Nội (2017), Nghị u ết số 19/NQ-HĐND ngà 05 tháng 12 năm 2017, Danh mục các công tr nh, dự án thu h i đất năm 2018; dự
án chu ển mục đích đất tr ng lúa, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trên địa
bàn THÀNH PHỐ Hà Nội năm 2018 thuộc thẩm u ền của HĐND
THÀNH PHỐ Hà Nội
32. Đỗ Trọng Hợp (1997), Của c i của các dân tộc (b n dịch), Adam Smith, NXB
Giáo dục, Hà Nội
33. Nguyễn Đình Kháng, Vũ Văn Phúc (2000). Một số vấn đề về l luận của Các
Mác và Lênin về địa tô, ruộng đất, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Đình Kháng (2008), Cơ sở l luận và thực tiễn tiếp tục hoàn thiện chính
sách đất đai ở Việt Nam hiện na , NXB Lao động.
35. Trần Thị Lan (2013), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu h i đất của nông dân để xâ dựng khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia HCM.
36. Đào Thị Thanh Lam (2013), Nghiên cứu, đánh giá nh hưởng của uá tr nh đô thị hóa đến việc u n l và sử dụng đất, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ (Bộ TN&MT).
37. Nguyễn Chí Mỳ (2009), Vấn đề hậu gi i phóng mặt bằng ở HN - Thực trạng và gi i pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh
154
tế - Xã hội Hà Nội.
38. Ngân hàng Thế Giới (2008), Đất Đai Trong Thời Kỳ Chu ển Đổi - C i Cách Và
Nghèo Đói Ở Nông Thôn Việt Nam.
39. Ngân hàng Thế Giới, Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Phát triển Việt Nam (DEPOCEN) (2010), Kh o sát t nh h nh Công khai Thông tin trong Qu n
l Đất đai.
40. Ngân hàng Thế Giới (2011), Cơ chế Nhà nước thu h i đất và chu ển dịch đất đai tự ngu ện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất và gi i u ết khiếu nại của dân.
41. Ngân hàng Thế giới (2011), Nhận diện và gi m thiểu các rủi ro dẫn đến tham
nhũng trong u n l đất đai ở Việt Nam
42. Ngân hàng Thế giới (2013), Khung đánh giá Qu n trị đất đai 43. Quốc Hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 44. Quốc Hội (2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 45. Quốc Hội (2013), Luật Đất đai số 45/2013/QH13 46. Quốc Hội (2014), Luật Xâ dựng số 50/2014/QH13 47. Quốc Hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 48. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2000), Kinh tế và chính sách đất đai ở Việt
Nam, NXB Nông nghiệp.
49. Sally P.Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng (2007), Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam, Đại học nông nghiệp I và
đại học Sydney.
50. Nguyễn Văn Sửu (2010), Đổi mới chính sách đất đai ở Việt Nam: Từ l luận
đến thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia.
51. Nguyễn Ngọc Tiệp (2010), Đề xuất các gi i pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ
đất dịch vụ khi thu h i đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Đề tài nghiên
cứu khoa học, Viện nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội.
52. Tổng cục Quản lý đất đai (2010), Báo cáo nghiên cứu, kh o sát tại Hàn Quốc. 53. Tổng cục Quản lý đất đai (2011), Báo cáo nghiên cứu, kh o sát tại Trung Quốc. 54. Tổng cục Quản lý đất đai (2012), Báo cáo nghiên cứu, kh o sát tại Australia. 55. Trịnh Văn Toàn (2012), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các gi i pháp u n l , sử dụng đất NN trong khu dân cư vùng Đ ng bằng Sông H ng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ NN&PTNT
56. Trần Quang Tuyến (2014), “Đất đai, việc làm phi nông nghiệp và mức sống hộ gia đ nh: Bằng chứng mới từ dữ liệu kh o sát vùng ven đô Hà Nội”, Tạp
155
chí Kinh tế & Phát triển, số 202 tháng 4/2014, tr. 36-43.
57. Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Hoàng Long (2002), Những ngu ên l của kinh tế chính trị học và thuế khóa, David Ricardo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
58. Nguyễn Công Thắng (2015), Chu ển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và tác động của nó đến các nhóm lợi ích ở tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sỹ,
Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Thắng (2014), Chính sách việc làm cho thanh niên nông thôn vùng thu h i đất của Hà Nội, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế Quốc dân. 60. Nguyễn Thị Thơm, ThS. Phí Thị Hằng (2009), Gi i u ết việc làm cho lao động nông nghiệp trong uá tr nh đô thị hóa, NXB Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 61. Thủ tướng chính phủ (2011), Qu ết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26 tháng 07 năm 2011 Phê du ệt u hoạch chung xâ dựng Thủ đô Hà Nội đến năm
2030 và tầm nh n đến năm 2050
62. Thủ tướng chính phủ (2012), Qu ết định số 222/QĐ-TTg ngà 22 tháng 02 năm 2012 Phê du ệt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội
đến năm 2030, tầm nh n đến năm 2050
63. Phạm Thị Thủy (2012), “B o đ m lợi ích kinh tế lâu dài cho nông dân bị thu h i đất phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí
Công nghiệp, kỳ 1, tháng 12/2012, tr. 20-21.
64. Phạm Thị Thủy (2014), Việc làm cho nông dân khi thu h i đất ở Hà Nội, Luận
án tiến sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia HCM.
65. Nguyễn Xuân Trọng (2014), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất hoàn thiện tr nh tự, thủ tục thu h i đất, giao đất, cho thuê đất, chu ển mục đích sử dụng
đất nhằm góp phần c i cách thủ tục hành chính, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ (Bộ TN&MT).
66. Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học mặt trận tổ quốc Việt Nam; Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES) và UNDP, Chỉ số hiệu u u n trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) từ năm 2011 đến năm 2017
67. UBND Thành phố Hà Nội (2014), Qu ết định số 96/2014/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2014 Ban hành b ng giá các loại đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội
68. UBND Thành phố Hà Nội (2017), Qu ết định số 06/2017/NQ--UBND ngày 3/3/2017 Về việc Ban hành giá xâ dựng mới nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc
làm cơ sở xác định giá trị b i thường, hỗ trợ khi Nhà nước Thu h i đất ất
156
trên địa bàn THÀNH PHỐ Hà Nội
69. UBND Thành phố Hà Nội (2017), Qu ết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 Ban hành u định các nội dung thuộc thẩm u ền của UBND Thành phố Hà Nội về b i thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
h i đất trên địa bàn THÀNH PHỐ Hà Nội
70. UBND Thành phố Hà Nội (2017), Qu ết định số 11/2017/QĐ-UBND ngày 31/3/2017 Về việc ban hành u định một số nội dung về thu h i, giao đất, cho thuê đất, chu ển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố Hà Nội
71. UBND Thành phố Hà Nội (2017), Qu ết định số 19/2017/QĐ-UBND ngày 30/5/2017 Về việc sửa đổi bổ sung u định kèm theo Qu ết định số
96/2014/QĐ-UBND ngà 29/12/2014 của UBND Thành phố Hà Nội về
việc ban hành u định giá các loại đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội áp
dụng từ ngà 01/01/2015 đến 31/12/2019
72. UBND Thành phố Hà Nội (2017), Qu ết định số 24/2017/QĐ-UBND ngày 13/7/2017 Về việc hỗ trợ đào tạo nghề và gi i u ết việc làm cho người
lao động bị thu h i đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội
73. Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban thường vụ Quốc hội (2011), Kỷ ếu Hội th o tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước, NXB lao động Hà Nội.
74. Đặng Hùng Võ, Đào Trung Chính, Nguyễn Thanh Trà (2013), “Đánh giá thực tiễn triển khai công tác thu h i đất, b i thường, hỗ trợ, tái định cư theo
u định của pháp luật”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 11, số 3,
tr.328-336.
75. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Thông tin, Hà Nội
Tiếng Anh
76. Acharya Ballabh P. (2010), “Policy of Land Acquisition and Development: Analysis of an Indian Experience”, Third World Planning Review, ISSN 0142-7849, 9(2), pp. 99 – 115.
77. Chan Nelson (2003), “Land Acquisition Compensation in China - Problems & Answers”, International Real Estate Review, no. 1, pp. 136 - 152.
78. Denga Xiang zheng, Jikun Huang, Scott Rozelle, Emi Uchida
(2006),“Cultivated land conversion and potential agricultural productivity
157
in China”, Land Use Policy, 23(4), pp. 372 - 384.
79. Ding Chengri (2007), “Policy and praxis of land acquisition in China”, Land
use policy, no.24, pp. 1-13;
80. Do Ngan Thi (2006), Loss of land and farmers’ livelihood: A case stud in Tho Da village, Kim No commune, Dong Anh district, Hanoi, Vietnam,
(MA Thesis), Swedish University of Agricultural Sciences, Uppsala,
Sweden.
81. Food and Agriculture Organization of the United Nations Industrial (FAO) (2008), Good governance and natural resources tenure in South East Asia
region, FAO.
82. Food and Agriculture Organization of the United Nations Industrial (FAO)
(2008), Compulsory acquisition of land and compensation, FAO, Rome.
83. Ghatak Maitreesh & Dilip Mookherjee (2014), “Land acquisition for industrialization and compensation of displaced farmers”, Journal of
Development Economics, no.110, pp. 303 - 312;
84. Han Sun Sheng & Vu Kim Trang (2008), “Land acquisition in transitional Hanoi, Vietnam”, Urban Studies, 45(5-6), pp. 1097 - 1117.
85. Indian Statistical Institute (2013), “Land acquisition: Political intervention,
fragmentation and voice Prabal Roy Chowdhury”, Journal of Economic
Behavior & Organization, no. 85, pp. 63 – 78.
86. Jie Chen (2007). “Rapid urbanization in China: A real challenge to soil
protection and food securit ”, Catena, 69(1), pp. 1 - 15.
87. Junior Davis (2006), “Rural non-farm livelihoods in transition economies:
emerging issues and policies”, Electronic Journal of Agricultural and
Development Economics, 3(2), pp.80-224
88. Klaus Deininger (2003), “Land policies for growth and poverty reduction”, A
World Bank policy research report. Washington, DC, World Bank Group.
89. J Benedict Tria Kerkvlite (2005), “Agricultural land in Vietnam: markets
tempered by family, community and socialist practices”, Agriculture and
Challenge, no. 6, pp. 23 - 31.
90. Mahalingam Ashwin & Aditi Vyas (2011), “Comparative Evaluation of Land
Acquisition and Compensation Processes across the World”, Economic &
Political Weekly, vol xlvi no 32, pp. 95 - 102.
91. Naidoo Robin, Andrew Balmford, Paul J. Ferraro, Stephen Polasky, Taylor H.
158
Ricketts& Mathieu Rouget (2014), “Integrating economic costs into
conservation planning”, Trend in Ecology and Evolution, no. 12, pp. 681-
687.
92. Ravallion Martin & Dominique Walle (2006), Land Allocation in Vietnam’s
Agrarian Transition, Policy Research Working Paper, No. 2951, World
Bank
93. Rigg Jonathan (2006), “Land, farming, livelihoods, and poverty: Rethinking
the links in the rural South”, World Development, 34(1), pp. 180 - 202.
94. United Nation (1997) “Governance for sustainable development”, Discussion
Paper, UNDP.
95. Van Benjamin & Rooij (2007), “The return of the landlord: Chinese land
acquisition conflicts as allustrated by peri-urban Kunming”, Journal of
Legal Pluralism, no.55, pp. 211 - 44.
96. Wei Xiong, Conway Declan, Lin Erda, Xu Yinlong, Ju Hui, Jiang Jinhe,
Holman Ian& Li Yan (2009), “Future cereal production in China: The
interaction of climate change, water availability and socio-economic
scenarios”, Global Environmental Change, 19(1), pp. 34 - 44.
97. World Bank (1996), Governance - the World Bank’s experience, The World
159
Bank.
PHỤ LỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU KHẢO SÁT
(Sử dụng để phỏng vấn hộ gia đình)
ĐỊA ĐIỂM THỰC HIỆN PHỎNG VẤN: Tỉnh/Thành phố: ..................................................................................................................................
Huyện/Quận/Thị xã:
..................................................................................................................................
Xã/Phường/Thị trấn:
..................................................................................................................................
Thôn/Ấp/Bản/Tổ dân phố:
..................................................................................................................................
Tên tôi là:.............. Tôi đang thực hiện đề tài luận án tiến sỹ tại Học viện Khoa
học xã hội. Để nghiên cứu tìm hiểu về chất lượng quản lý Nhà nước trong quá
trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn THÀNH PHỐ Hà Nội, góp phần cải
thiện hiệu quả công tác điều hành và quản lý của các cấp chính quyền, chúng tôi
xin phép được trao đổi với ông/bà. Chúng tôi sẽ không chia sẻ những thông tin
của ông/bà với bất kỳ ai. Xin ông/bà mạnh dạn hỏi lại nếu không hiểu câu hỏi.
Ông/bà cũng có thể nói “Không biết” nếu ông/bà không biết câu trả lời, hoặc
“Không muốn trả lời” nếu thấy không thoải mái với câu hỏi.
Rất cám ơn sự cộng tác của ông/bà.
I. THÔNG TIN VỀ QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI HỘ GIA ĐÌNH: (Đánh dấu chéo vào các ô thích hợp)
1. Ông/bà bị thu hồi đất nông nghiệp năm nào? .....................
Diện tích bao nhiêu? ..........................................
Phục vụ cho dự án nào? ..........................................
1
2. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có có biết về các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện chính sách thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước không?
Có, chính quyền địa phương cung cấp
Có, biết qua nguồn khác
Không được biết 3. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có biết thông tin về bảng giá đất được chính
thức ban hành ở địa phương không?
Có, chính quyền địa phương cung cấp
Có, biết qua nguồn khác
Không được biết 4. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có biết thông tin về lợi ích và chi phí gây ra
của các dự án cần thu hồi đất không?
Có, chính quyền địa phương cung cấp Có, biết qua nguồn khác
Không được biết
5. Đánh giá của ông/bà về trình tự, thủ tục thu hồi đất
Phù hợp
Chưa phù hợp, rườm rà
Chưa phù hợp, thiếu minh bạch
Chưa phù hợp vì lý do khác (nêu rõ) ..........................................
6. Đánh giá của ông/bà về sự công bằng đối với những người bị ảnh hưởng
(không phân biệt dân tộc, tuổi tác, và địa vị) khi tiến hành thu hồi đất
Công bằng
Không công bằng
7. Đánh giá của ông/bà về mức bồi thường và hỗ trợ nhận được
Thỏa đáng
Chưa thỏa đáng
8. Đánh giá của ông/bà về tính hiệu lực khi chi trả bồi thường, hỗ trợ Đúng quy định Không đúng quy định, do thiếu minh bạch Không đúng quy định, do thiếu nhất quán Ý kiến khác (nêu rõ) .......................................... 9. Đánh giá của ông/bà về tiến độ chi trả bồi thường, hỗ trợ
Nhận được bồi thường, hỗ trợ trong vòng 1 năm
Nhận được bồi thường, hỗ trợ trong vòng hơn năm
2
Nếu CHẬM TIẾN ĐỘ, cho biết lý do
Do bồi thường không thỏa đáng
Do sự thay đổi, điều chỉnh của chính sách
Do trình độ hạn chế của cán bộ làm công tác vận động, thuyết phục
Do người dân thiếu ý thức, không hợp tác
Do chính quyền thiếu kiên quyết xử lý những đối tượng chây ì
Do thiếu phối hợp giữa chính quyền địa phương và báo đài
10. Ông/bà đã từng gửi đơn khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất nông nghiệp chưa?
Chưa từng
Đã từng
Nếu CÓ, có được giải quyết hay không?
Có Không
11. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có được thông báo về mục đích sử dụng
đất không?
Có Không
12. Hiện tại đất có được sử dụng đúng với mục đích ban đầu không?
Có Không
13. Ông/bà có dịp góp ý kiến về chính sách thu hồi đất nông nghiệp tại địa
phương hay không?
Có Không
Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp của ông/bà cho kế
hoạch này như thế nào?
Tiếp thu nhiều Có tiếp thu
Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu
14. Ông/bà có dịp góp ý kiến xây dựng bảng giá đất nông nghiệp tại địa phương
hay không?
Có Không
Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp của ông/bà cho kế
hoạch này như thế nào?
3
Tiếp thu nhiều Có tiếp thu Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu 15. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có được thông báo về kế hoạch thu hồi đất không? Có Không
16. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có được hỏi ý kiến về kế hoạch thu hồi đất
không?
Có Không 17. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có được thông báo về phương án bồi
thường, hỗ trợ không?
Có Không
18. Lúc bị thu hồi đất, gia đình ông/bà có được hỏi ý kiến về phương án bồi
thường, hỗ trợ không? Có Không
II. THÔNG TIN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI HỘ GIA ĐÌNH: (Đánh dấu chéo vào các ô thích hợp)
1. Nghề nghiệp chính của ông/bà trước khi bị thu hồi đất là gì? .............................
2. Ông/bà hiện nay (sau khi bị thu hồi đất) làm việc trong lĩnh vực nào?
Nông nghiệp Công nghiệp
Dịch vụ/Kinh doanh Cơ quan Nhà nước
Quốc phòng/Công an Khác (xin nêu rõ):.....................
3. Trong gia đình, ông/bà có phải là chủ hộ không?
Không Có
4. Nếu không, nghề nghiệp chính của người chủ hộ là gì? .....................................
5. Ông/bà đánh giá thế nào về tình hình kinh tế của gia đình mình hiện nay?
Rất tốt Tốt Bình thường
Kém Rất kém
6. So với 5 năm trước, tình hình kinh tế của gia đình ông/bà bây giờ như thế nào?
Tốt hơn nhiều Tốt hơn một ít Như nhau Kém hơn một chút Kém hơn nhiều 7. Ông/bà nghĩ rằng tình hình kinh tế của gia đình mình trong 5 năm tới sẽ thế nào? Tốt hơn bây giờ nhiều Tốt hơn bây giờ một ít
Như bây giờ Kém hơn một chút
4
Kém hơn bây giờ nhiều
5
III. KIẾN NGHỊ CỦA HỘ GIA ĐÌNH 1. Kiến nghị của ông/bà về phương án xác định giá đất bồi thường Xác định giá đất cụ thể để bồi thường Áp dụng bảng giá để tính bồi thường Ý kiến khác (nêu rõ) .......................................... 2. Kiến nghị của ông/bà về cơ chế thu hồi đất nông nghiệp Nhà nước thu hồi Tự thỏa thuận Ý kiến khác (nêu rõ) .......................................... 3. Kiến nghị của ông/bà về phương án bồi thường, hỗ trợ, ổn định đời sống Cần nâng giá bồi thường và hỗ trợ Cấp bổ sung đất nông nghiệp khác Tăng mức hỗ trợ ổn định đời sống Tạo công ăn việc làm 4. Kiến nghị của ông/bà về cơ quan hỗ trợ định giá đất Không cần thiết Cần thiết, là cơ quan độc lập Cần thiết, là cơ quan Nhà nước Ý kiến khác (nêu rõ) .......................................... 5. Kiến nghị khác .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. Xin trân trọng cảm ơn sự cộng tác của ông/bà!
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU KHẢO SÁT (Sử dụng để phỏng vấn chính quyền địa phương)
ĐỊA ĐIỂM THỰC HIỆN PHỎNG VẤN: Tỉnh/Thành phố:
...............................................................................................................
Huyện/Quận/Thị xã:
...............................................................................................................
Xã/Phường/Thị trấn:
...............................................................................................................
Tên tôi là:.............. Tôi đang thực hiện đề tài luận án tiến sỹ tại Học viện Khoa
học xã hội. Để nghiên cứu tìm hiểu về chất lượng quản lý Nhà nước trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn THÀNH PHỐ Hà Nội, góp phần cải
thiện hiệu quả công tác điều hành và quản lý của các cấp chính quyền, chúng tôi
xin phép được trao đổi với ông/bà. Chúng tôi sẽ không chia sẻ những thông tin
của ông/bà với bất kỳ ai. Xin ông/bà mạnh dạn hỏi lại nếu không hiểu câu hỏi.
Ông/bà cũng có thể nói “Không biết” nếu ông/bà không biết câu trả lời, hoặc
“Không muốn trả lời” nếu thấy không thoải mái với câu hỏi.
Rất cám ơn sự cộng tác của ông/bà.
I. THÔNG TIN VỀ CÁ NHÂN: (Đánh dấu chéo vào các ô thích hợp)
6
1. Ông/bà làm việc ở xã/phường này được mấy năm? .......... năm 2. Ông/bà làm việc tại bộ phận nào? Đảm nhận mảng công việc nào? ............................................................................................................... 3. Ông/bà có tham gia vào nhiệm vụ thu hồi đất nông nghiệp, giải phóng mặt bằng tại địa phương hay không? Có Không
II. THÔNG TIN VỀ QUÁ TRÌNH THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI ĐỊA PHƯƠNG: (Đánh dấu chéo vào các ô thích hợp)
1. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có cung cấp cho người dân các văn bản pháp luật thể hiện chính sách thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước
không?
Có
Không
2. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có cung cấp cho người dân thông tin về bảng giá đất được chính thức ban hành ở địa phương không?
Có
Không 3. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có giải thích cho người
dân thông tin về lợi ích và chi phí gây ra của các dự án cần thu hồi đất không?
Có
Không
4. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có thông báo người dân về
mục đích sử dụng đất không?
Có Không
5. Hiện tại đất có được sử dụng đúng với mục đích ban đầu không?
Có Không
6. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có thông báo cho người
dân về kế hoạch thu hồi đất không?
Có Không
7. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có hỏi ý kiến người dân về
kế hoạch thu hồi đất không?
Có Không Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp cho kế hoạch này như thế nào? Tiếp thu nhiều Có tiếp thu Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu 8. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có thông báo cho người
dân về phương án bồi thường, hỗ trợ không?
Có Không
7
9. Lúc tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, chính quyền có hỏi ý kiến người dân về
phương án bồi thường, hỗ trợ không?
Có Không
Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp cho phương án này như thế nào?
Tiếp thu nhiều Có tiếp thu
Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu
10. Đánh giá của ông/bà về tính hiệu quả về các nguồn lực (tài chính, nhân sự)
của địa phương mình có đủ để thực hiện chính sách, pháp luật thu hồi đất nông nghiệp hay không?
Có Không
Nếu KHÔNG, chính quyền địa phương cần bổ sung thêm nguồn lực nào? Tài chính
Nhân sự
Nguồn lực khác (xin nêu rõ) ..........................................
11. Đánh giá của ông/bà về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp
Phù hợp
Chưa phù hợp, do rườm rà
Chưa phù hợp, do thiếu minh bạch
Chưa phù hợp vì lý do khác (xin nêu rõ) ..........................................
12. Đánh giá của ông/bà về sự công bằng đối với những người bị ảnh hưởng
(không phân biệt dân tộc, tuổi tác, và địa vị) khi tiến hành thu hồi đất nông
nghiệp
Công bằng
Không công bằng
13. Đánh giá của ông/bà về mức bồi thường và hỗ trợ chi trả cho người dân
Thỏa đáng Chưa thỏa đáng 14. Đánh giá của ông/bà về tính hiệu lực khi chi trả bồi thường, hỗ trợ Đúng quy định Không đúng quy định, do thiếu minh bạch Không đúng quy định, do thiếu nhất quán
Không đúng quy định vì lý do khác (xin nêu rõ) ..........................................
15. Đánh giá của ông/bà về tiến độ chi trả bồi thường, hỗ trợ
8
Người dân nhận được bồi thường, hỗ trợ trong vòng 1 năm
Người dân nhận được bồi thường, hỗ trợ trong vòng hơn năm
Nếu CHẬM TIẾN ĐỘ, cho biết lý do
Do bồi thường không thỏa đáng Do sự thay đổi, điều chỉnh của chính sách
Do trình độ hạn chế của cán bộ làm công tác vận động, thuyết phục
Do người dân thiếu ý thức, không hợp tác
Do chính quyền thiếu kiên quyết xử lý những đối tượng chây ì
Do thiếu phối hợp giữa chính quyền địa phương và báo đài Lý do khác (xin nêu rõ) ..........................................
16. Khi xây dựng chính sách thu hồi đất nông nghiệp tại địa phương chính quyền
có lấy ý kiến người dân hay không? Có Không
Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp này như thế nào?
Tiếp thu nhiều Có tiếp thu
Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu
17. Khi xây dựng bảng giá đất nông nghiệp tại địa phương chính quyền có hỏi ý
kiến người dân hay không?
Có Không
Nếu CÓ, chính quyền địa phương đã tiếp thu ý kiến đóng góp này như thế nào?
Tiếp thu nhiều Có tiếp thu
Không tiếp thu mấy Hoàn toàn không tiếp thu
III. KIẾN NGHỊ (Đánh dấu chéo vào các ô thích hợp)
1. Kiến nghị của ông/bà về cơ chế thu hồi đất nông nghiệp
Nhà nước thu hồi
Tự thỏa thuận Ý kiến khác (nêu rõ) .......................................... 2. Kiến nghị của ông/bà về hình thức thu hồi đất nông nghiệp Thu hồi theo quy hoạch Thu hồi theo dự án Ý kiến khác (nêu rõ) ..........................................
3. Kiến nghị của ông/bà về phương án xác định giá đất bồi thường
Xác định giá đất cụ thể để bồi thường
9
Áp dụng bảng giá để tính bồi thường
Ý kiến khác (nêu rõ) ..........................................
4. Kiến nghị của ông/bà về cơ quan hỗ trợ định giá đất Không cần thiết
Cần thiết, là cơ quan độc lập
Cần thiết, là cơ quan Nhà nước
Ý kiến khác (nêu rõ) ..........................................
5. Kiến nghị khác ..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................. ..................................................................................................................................
10
Xin trân trọng cảm ơn sự cộng tác của ông/bà!