BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH --------------------
BÙI KHÁNH TOÀN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
TẠI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH --------------------
BÙI KHÁNH TOÀN
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. NGUYỄN NGỌC TUYẾN
2. TS. NGUYỄN THỊ MINH HẰNG
HÀ NỘI - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là sự nghiên cứu độc lập của bản thân tôi,
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa
từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông
tin trích dẫn trong luận án đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Học viên
Bùi Khánh Toàn
ii
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành bài luận án này, tôi đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đặc
biệt là thầy cô giáo hướng dẫn đã luôn theo dõi và tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện bài viết.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Học viện Tài
chính đã hết lòng tận tụy, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu
trong suốt quá trình học tập tại trường.
Trong suốt quá trình thực hiện mặc dù đã cố gắng hết sức để hoàn thiện
luận án cũng như trao đổi, tiếp thu những ý kiến đóng góp của Quý thầy cô song
luận án không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp,
nhận xét của Quý thầy cô và bạn đọc để luận án được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Học viên
Bùi Khánh Toàn
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH .......................................................... vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT .............................................. vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... viii
DANH MỤC HÌNH VẼ .......................................................................................... ix
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
QUẢN LÝ THUẾ .................................................................................................... 11
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI .................................................... 11
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước ............................................... 11
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước ................................................ 20
1.1.3. Nhận xét chung ....................................................................................... 27
1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM........................................................................ 29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………………… ……. 33
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN
LÝ THUẾ ................................................................................................................ 34
2.1. QUẢN LÝ THUẾ VÀ RỦI RO VỀ THUẾ...................................................... 34
2.1.1. Khái niệm quản lý thuế .......................................................................... 34
2.1.2. Rủi ro về thuế ......................................................................................... 37
2.2. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ ............................................ 50
2.2.1. Khái niệm, nguyên tắc của quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............... 50
2.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............................................ 56
2.2.3. Quy trình quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............................................ 63
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............... 68
iv
2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QLRR TRONG QLT VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM………………………………………………………………….. 73 2.3.1. Cần xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (TCP) khi thực
hiện QLRR trong QLT ..................................................................................... 73
2.3.2. Cần xây dựng khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng
TCP và hoàn thiện các quy định pháp lý về QLRR trong QLT ....................... 77
2.3.3. Cần xây dựng bộ phận chuyên trách về QLRR trong QLT được tổ chức
thống nhất từ trung ương đến địa phương. ...................................................... 78
2.3.4. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong QLT, xây dựng hệ thống thông
tin đầy đủ về NNT làm cơ sở cho việc phân loại NNT theo mức độ tuân thủ . 79
2.3.5. CQT thực hiện các biện pháp đa dạng thúc đẩy tuân thủ của NNT ...... 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 84
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014 - 2020 ........................................................... 85
3.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2014 – 2020 ................................................................................................... 85
3.1.1. Tình hình quản lý NNT .......................................................................... 85
3.1.2 Tình hình thu ngân sách .......................................................................... 86
3.1.3. Tình hình thực hiện quản lý thuế………………………………………89
3.2. THỰC TRẠNG QLRR TRONG QLT TẠI VIỆT NAM……………….. 91
3.2.1. Thực trạng xây dựng hành lang pháp lý……………………………….91
3.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy QLRR…………………………………….96
3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT .... 99
dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro...............................................99
3.2.3.1 Thực trạng xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT, hệ thống ứng
3.2.3.3 Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá RR và thực hiện QLRR trong
các chức năng LT……………………………………………………........................ 112
3.2.3.2 Thực trạng đánh giá mức độ tuân thủ của NNT..................................100
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN
LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2020 .............................................. 135
3.3.1. Kết quả đạt được................................................................................... 135
3.3.2. Hạn chế ................................................................................................. 142
3.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế .............................................................. 147
v
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 152
CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM ……………………………………………153 4.1. DỰ BÁO BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ MỤC TIÊU, YÊU CẦU
QLRR TRONG QLT TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025 ................................... 153
4.1.1. Dự báo tình hình kinh tế- xã hội ........................................................... 153
4.1.2. Mục tiêu, yêu cầu đối với QLRR trong QLT ....................................... 157
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ
THUÊ...................................................................................................................... 159
4.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT ................................... 159
4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực ...................................... 164
4.2.3. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu NNT.............................................................169
4.2.4. Xây dựng chương trình QLRR tổng thể...............................................171
4.2.5. Hoàn thiện nội dung nghiệp vụ QLRR trong quản lý thuế .................. 176
4.2.6 Ứng dụng CNTT theo chuẩn quốc tế…………………………….... 178
4.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP ..................................... 186
4.3.1. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và cơ quan thuế .. 186
4.3.2. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc ........................ 187
4.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ thuế ......................................... 187
4.3.4. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT .......................................... 187
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 189
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 190
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Tiếng Anh Tiếng Việt
Từ viết tắt EC European Commission Uỷ Ban Châu Âu
EU European Union Cộng đồng chung Châu Âu
FTA Free Trade Agreements Hiệp định Thương mại tự do
OECD Organisation for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Cooperation and kinh tế
Development
CPTPP Comprehensive and Hiệp định đối tác toàn diện và
Progressive Agreement for tiến bộ xuyên Thái Bình
Trans-Pacific Partnership Dương
UN United Nations Liên Hợp quốc
WTO World Trade Organisation Tổ chức Thương mại Thế giới
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Từ viết tắt Từ gốc
CNTT Công nghệ thông tin
CQT Cơ quan thuế
CSDL Cơ sơ dữ liệu
GTGT Giá trị gia tăng
NNT Người nộp thuế
Ngân sách nhà nước NSNN
Quản lý rủi ro QLRR
QLT Quản lý thuế
TNCN Thu nhập cá nhân
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Thống kê NNT giai đoạn 2014-2020 .............................................. 85
Bảng 3.2. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020 ..... 86
Bảng 3.3. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020 ..... 88
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát về thu nhập và khai thác thông tin, ứng dụng
CNTT phục vụ QLRR ................................................................... 108
Bảng 3.5. Thống kê kết quả thanh tra thuế giai đoạn 2014 - 2020 ............... 119
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra thuế giai đoạn 2014-2020 ................. 119
Bảng 3.7. Tổng hợp DN rủi ro cao về thuế giai đoạn 2014- 2020……….128
Bảng 3.8: Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích
mức độ rủi ro NNT……………………………………………………… 131
Bảng 3.9. Kết quả khảo sát về tác dụng QLRR đối với công tác quản lý thuế.
....................................................................................................................... 141
Bảng 3.10: Kết quả khảo sát về chất lượng công tác QLRR trong quản lý
thuế ................................................................................................................ 141
Bảng 4.1: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR trong quản lý
thuế……………………………....................... .........................................185
ix
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 2.1 Ma trận QLRR .................................................................................. 67
Hình 2.2: Mô hình tuân thủ của NNT……………………………………….73
Hình 2.3: Các bước xây dựng TCP………………………………………….74
Hình 3.1. Mô hình CSDL và các giao thức trao đổi thông tin ...................... 101
Hình 3.2. Mô hình hệ thống ứng dụng ngành thuế…………………………106
Hình 3.3. Phân tích, tính điểm rủi ro……………………………………….117
Hình 3.4.Tổng quan quy trình nghiệp vụ ...................................................... 117
Hình 4.1. Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo kiến trúc tổng thể ......... 179
Hình 4.2.Học máy ......................................................................................... 181
Hình 4.3. Học máy có giám sát…………………………………………….182
Hình 4.4.Quy trình CRISP-DM .................................................................... 183
Hình 4.5. Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM) ...... 183
Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về đảm bảo hành lang pháp lý ........................ 95
Biểu đồ 3.2: Kết quả khảo sát đánh giá về các bộ tiêu chí phân tích mức độ rủi
ro Người nộp thuế ......................................................................................... 108
Biểu đồ 3.3: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT ........ 109
Biểu đồ 3.4: Kết quả khảo sát đánh giá các bộ tiêu chí phân tích mức độ rủi ro
NNT ............................................................................................................... 131
Biểu đồ 3.5: Kết quả khảo sát về chất lượng quản lý rủi ro trong quản lý thuế
....................................................................................................................... 141
Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT
....................................................................................................................... 185
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển kinh tế, sự lớn mạnh của doanh nghiệp và hộ
kinh doanh, quy mô số thu thuế trong tổng thu NSNN tại Việt Nam ngày càng
tăng. Theo số liệu của Tổng Cục thuế, kết quả thu NSNN do cơ quan thuế
quản lý hàng năm (không bao gồm thu từ thoái vốn) trong 5 năm gần nhất giai
đoạn 2016-2020 đạt 5.658.112 tỷ đồng, tăng gấp 1,7 lần so với giai đoạn
2011-2015. Tỷ lệ huy động thu NSNN bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020
đạt 25,2% GDP (mục tiêu 23,5% GDP), trong đó huy động từ thuế, phí xấp xỉ
21% GDP.
Nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng và sự phát triển của kinh tế thị
trường đã kéo theo sự gia tăng về số lượng, cũng như quy mô hoạt động sản
xuất kinh doanh của NNT. Theo số liệu của Tổng cục Thuế, nếu như năm
2010, ngành thuế thực hiện quản lý 429.868 doanh nghiệp với số thu khoảng
423.570 tỷ đồng thì đến năm 2020, số lượng doanh nghiệp cần quản lý lên
đến 810.000 và khoảng trên 23 triệu hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, với số
thu thuế khoảng 1.295.645 tỷ đồng; số lượng NNT và nhiệm vụ thu ngân sách
của ngành Thuế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong giai đoạn
tới. Với số lượng công chức ngành thuế hiện nay khoảng 44.000 người, thì
trung bình mỗi công chức thuế phải quản lý khoảng 540 NNT. Tình trạng
NNT kê khai gian lận thuế, nợ thuế diễn ra khá phổ biến. Theo Báo cáo của
Kiểm toán nhà nước, năm 2019 qua thực hiện đối chiếu thuế 3.171 doanh
nghiệp ngoài nhà nước tại 49 địa phương đã xác định nộp NSNN tăng thêm
1.635 tỷ đồng tại 2.921 doanh nghiệp (chiếm 92,1% doanh nghiệp đối chiếu).
Với nguồn nhân lực có hạn, trong khi số lượng NNT rất lớn, hoạt động đa
dạng đòi hỏi CQT phải đổi mới công tác QLT, tập trung nguồn lực quản lý
các đối tượng NNT rủi ro cao về thuế.
Bên cạnh đó, áp lực ngày càng tăng từ Chính phủ và cộng đồng doanh
2
nghiệp trong việc cải cách thể chế, thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ
trong thực hiện nghĩa vụ thuế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi,
công bằng, minh bạch cũng đòi hỏi cơ quan thuế Việt Nam phải đổi mới tư duy
phát triển, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách, hiện đại hóa QLT, ứng dụng
công nghệ thông tin, thực hiện phương pháp quản lý thuế tiên tiến nhằm
khuyến khích thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của NNT, cơ quan
thuế chỉ tập trung nguồn lực nhằm đưa ra các biện pháp quản lý đối với các
trường hợp không tuân thủ.
Trong bối cảnh trên, thực hiện Quản lý rủi ro trong QLT được coi là
giải pháp quan trọng nhất và là xu thế tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả QLT.
Thời gian qua, cơ quan thuế Việt Nam đã thực hiện cải cách, hiện đại hoá
một cách toàn diện và đạt được những bước tiến quan trọng cả về thể chế chính
sách, phương pháp quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và ứng dụng công
nghệ thông tin. Trong đó, việc triển khai phương pháp QLRR là một bước tiến
quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại vào
QLT. Phương pháp QLRR được ngành Thuế Việt Nam bước đầu thực hiện từ
năm 2010 đối với chức năng thanh tra, kiểm tra thuế và được xác định là
hướng đi đúng đắn trong quá trình hiện đại hóa ngành Thuế. Hiện nay,
phương pháp QLRR được mở rộng sang các chức năng khác của QLT và
được chính thức luật hoá tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản
lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 và tiếp tục được hoàn thiện bổ
sung quy định cụ thể hơn tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày
13/6/2019.
Qua hơn 10 năm nghiên cứu và thực hiện QLRR trong QLT, ngành
Thuế đã đạt được những kết quả quan trọng: Đã kiến nghị xây dựng và hoàn
thiện được hành lang pháp lý khá toàn diện để thực hiện QLRR trong QLT;
Xây dựng và hình thành kho cơ sở dữ liệu thông tin về NNT; Các quy trình
nghiệp vụ quản lý thuế đã được định hướng xây dựng dựa trên nguyên tắc
QLRR và ứng dụng CNTT; Bộ tiêu chí QLRR trong một số chức năng QLT
3
đã được xây dựng và triển khai thực hiện; QLRR đã từng bước thâm nhập
sâu, rộng làm thay đổi cơ bản phương thức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
của cán bộ, công chức trong toàn ngành thuế; Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công
chức tại CQT các cấp được nâng cao nhận thức về nguyên tắc, quyền hạn và
trách nhiệm trong việc thực hiện QLRR, năng lực phân tích kinh tế và chuyên
môn nghiệp vụ thích ứng với cơ chế QLT hiện đại…
Tuy nhiên, QLRR trong QLT ở Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn
chế: Hành lang pháp lý về QLRR chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, một số
nội dung chưa được hướng dẫn cụ thể; Khung mô hình QLRR tổng thể
chung trong QLT toàn ngành chưa hoàn thiện và đồng bộ; Việc thu thập,
khai thác thông tin NNT phục vụ cho phân tích, đánh giá rủi ro còn chưa
tập trung, thống nhất; sự kết nối giữa các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ
QLT chưa thật sự rõ ràng; cơ sở dữ liệu thông tin, sự phối hợp trao đổi
thông tin với các ban ngành còn hạn chế; Hệ thống quy trình nghiệp vụ
QLT chưa thực sự liên thông, tích hợp đáp ứng yêu cầu QLRR ở tất cả các
chức năng QLT, khả năng tự động hóa trong hoạt động phân tích, đánh giá
rủi ro trên cơ sở ứng dụng CNTT còn thấp; Cơ cấu tổ chức bộ máy cũng
như việc trao quyền và trách nhiệm thực hiện QLRR chưa phù hợp; Năng
lực của một bộ phận cán bộ thuế chưa theo kịp yêu cầu của phương pháp
QLRR dẫn đến sự chồng chéo, kém hiệu quả trong công tác QLT…
QLRR trong QLT đã trở thành xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay
cũng như thời gian tới. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các
vấn đề lý luận về QLRR trong QLT từ đặc điểm, nội dung, cách thức, trình tự
thực hiện, các nhân tố ảnh hưởng… để có thể thực hiện hiệu quả nhất trong
thực tiễn quản lý. Cùng với đó, cần phân tích, đánh giá thực trạng QLRR
trong QLT tại Việt Nam trong thời gian qua, xác định những thành công cần
tiếp tục phát huy, cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân để đưa ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian
tới, nâng cao hiệu quả QLT trong điều kiện mới. Các vấn đề cần nghiên cứu
4
nêu trên cũng đã được nhiều công trình nghiên cứu và đạt được một số kết
quả nhất định, có tính ứng dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn những
khoảng trống cả về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu một cách tổng
thể, toàn diện và chuyên sâu về QLRR trong QLT tại Việt Nam đặt trong bối
cảnh kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm
2030.
Xuất phát từ những lý do trên, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu luận án
tiến sĩ: “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam” có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn, mang tính thời sự. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của Luận án là đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới, đến năm 2025 và tầm nhìn
đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể của Luận án bao gồm:
Một là, Hệ thống hóa, bổ sung, phát triển các cơ sở lý luận về QLRR
trong QLT, làm sáng tỏ những nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT, xây
dựng tiêu chí và tập hợp cơ sở dữ liệu để đánh giá mức độ rủi ro trong QLT.
Hai là, Nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm QLRR trong QLT của một số
nước để rút ra các bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
Ba là, Phân tích thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn
2014-2020, đánh giá những kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân chủ
yếu của hạn chế đó.
Bốn là, Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt
Nam giai đoạn tới đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030 phù hợp với Chiến lược
cải cách hệ thống thuế Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
5
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án tập
trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Nội dung chủ yếu và quy trình thực hiện QLRR trong QLT là gì?
Những nhân tố chủ yếu nào ảnh hưởng đến QLRR trong QLT?
- Kinh nghiệm về QLRR trong QLT của các quốc gia trên thế giới và bài
học rút ra nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới
là gì?
- Những kết quả đạt được, hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của QLRR
trong QLT tại Việt Nam thời gian qua là gì?
- Các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam
trong thời gian tới và điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp đó là gì?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là QLRR trong QLT tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về tiếp cận đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung vào nghiên cứu
QLRR trong QLT thuộc lĩnh vực CQT quản lý, không bao gồm lĩnh vực QLT
của cơ quan hải quan. Ngoài ra, luận án chỉ nghiên cứu về QLRR trong các
nghiệp vụ QLT của cơ quan thuế (bao gồm QLRR các rủi ro trong hoạt động
quản lý của cơ quan thuế và rủi ro trong hoạt động tuân thủ pháp luật thuế của
NNT). Luận án không nghiên cứu về: (i) rủi ro trong việc hoạch định, xây
dựng chính thuế và (ii) QLRR trong việc hoạch định, xây dựng chính sách
thuế.
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng QLRR trong
QLT của CQT tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm QLRR trong QLT
của các nước thuộc OECD và EU (như Úc, Bulgaria, Ba Lan, Lithuania, Anh,
Hà Lan...), của một số nước ASEAN, châu Phi là Singapor, Malaixia, Thái
Lan và Nam Phi…
- Về thời gian: Thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam được Luận án
nghiên cứu trong giai đoạn 2014-2020. Kinh nghiệm QLRR trong QLT của
6
một số quốc gia trên thế giới, luận án tập trung nghiên cứu trong giai đoạn
thực hiện cụ thể của từng quốc gia. Các giải pháp đề xuất hoàn thiện QLRR
trong QLT tại Việt Nam trong giai đoạn tới, đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử.
- Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng để nhận thức bản chất
của hiện tượng kinh tế xã hội. Đối tượng nghiên cứu QLRR trong QLT tại
Việt Nam được đặt trong bối cảnh luôn vận động và phát triển, có các mối
liên hệ chặt chẽ biện chứng, từ đó cho cái nhìn khách quan về các yếu tố bên
trong và bên ngoài tác động đến QLRR trong QLT tại Việt Nam những năm
qua. Việc đưa ra được cái nhìn thống nhất dựa trên luận cứ khoa học góp phần
hiện thực hóa các giải pháp tổ chức thực hiện QLRR trong QLT phù hợp điều
kiện cụ thể theo từng giai đoạn của Việt Nam.
- Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng khi đặt đối tượng nghiên
cứu QLRR trong QLT tại Việt Nam đặt trong bối cảnh cụ thể của giai đoạn
2014-2020 theo các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quan điểm,
định hướng đối với hoạt động QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng.
Việc kiểm chứng, phân tích, đánh giá được thực hiện bám sát theo bối cảnh,
chủ trương, chính sách, quan điểm, định hướng cụ thể đó, đồng thời vận dụng
quan điểm phát triển để đưa ra các định hướng, giải pháp cho hoạt động này
trong tương lai.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Nghiên cứu sinh đã thu thập
tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật; các
báo cáo, đề án của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế; các Đề án, công trình nghiên
cứu cấp Bộ, cấp Tổng cục Thuế ; Luận án Tiến sỹ, các bài báo khoa học, các bài
7
báo thời sự trong nước và nước ngoài... có liên quan đến vấn đề QLRR trong
QLT. Các tài liệu này đã được nghiên cứu sinh xử lý thông tin để:
+ Hệ thống hóa được những kết quả đã được nghiên cứu trước đây, phát
hiện được những vấn đề đã được đồng thuận, những điểm còn có ý kiến khác
nhau, khoảng trống cần nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu, tìm ra điểm mới của
vấn đề.
+ Tìm kiếm các căn cứ khoa học và số liệu minh chứng làm cơ sở cho
việc hình thành các luận điểm, luận cứ, luận chứng cả về mặt lý thuyết và
thực tiễn;
+ Đưa ra kết luận theo cách tiếp cận riêng.
5.2.2 Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định trong hệ
thống pháp luật của Việt Nam với các quy định của OECD và một số quốc gia
khác về mô hình tổ chức, mô hình quản lý và phương pháp/kinh nghiệm
QLRR trong QLT và các vấn đề khác liên quan, từ đó xem xét thực trạng của
Việt Nam và nêu đề xuất riêng.
5.2.3 Phương pháp phân tích, thống kê: trên cơ sở các thông tin, tình hình,
số liệu thu thập được từ các Báo cáo tổng kết công tác thuế của ngành thuế
các năm; các số liệu tổng hợp được từ thực tiễn công tác tại Ban QLRR Tổng
cục Thuế; số liệu từ thực tiễn QLT tại các Cục thuế… nghiên cứu sinh thực
hiện việc thống kê, phân tích, đánh giá để có những cách nhìn toàn diện, cụ
thể về thực trạng QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng theo các nội
dung QLT. Trên cơ sở đó, đối chiếu với những vấn đề lý luận liên quan,
nghiên cứu sinh đánh giá, chỉ ra những thành công, những hạn chế và nguyên
nhân cụ thể để làm căn cứ đề xuất các giải pháp theo mục tiêu của luận án.
5.2.4 Phương pháp điều tra, khảo sát:
Luận án sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin về thực trạng QLRR
trong quản lý thuế, các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả QLRR trong QLT tại
Việt Nam. Cụ thể như sau:
Hệ thống số liệu và phương pháp khảo sát, thu thập số liệu
8
Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên cơ sở tổng hợp từ các lý thuyết và
các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước có liên quan. Kết cấu bảng
câu hỏi được chia thành 3 nội dung: (i) Thu thập thông tin chung về đối tượng
được khảo sát; (ii) Thu thập các thông tin về thực trạng QLRR trong QLT tại
Việt Nam; (iii) Thu thập các thông tin cơ bản về quan điểm, đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam.
Khảo sát thực tế: NCS thực hiện khảo sát đối tượng thông qua bảng hỏi.
Bảng hỏi được thiết kế trên https://docs.google.com/forms và gửi đến 500
đối tượng.
Thu thập dữ liệu: Kết quả số lượng bảng hỏi thu thập được 411 bảng hỏi
được trả lời được nhập vào bảng tính Excel.
Làm sạch dữ liệu: Loại bỏ các trường hợp trả lời không phù hợp (ví dụ:
trả lời cùng một mức độ cao nhất hoặc thấp nhất ở tất cả các mục hỏi; trả lời
giữa các mục hỏi có sự đối nghịch, mâu thuẫn bất thường, ..). Kết quả đã loại
bỏ 11 bảng hỏi, còn lại 400 (=411-11) bảng hỏi được đưa vào phân tích. Như
vậy, với quy mô mẫu phân tích là 400 đủ tính tin cậy.
Mô tả mẫu nghiên cứu: Mẫu thu thập được tiến hành phân loại theo nhóm
bằng các kỹ thuật thống kê mô tả như đề cập phần dưới đây
9
Bảng 1: Cơ cấu mẫu điều tra
Tiêu thức Số lượng Tỷ lê
Dưới 5 năm 82 20,5%
Số năm công tác Từ 5 đến 10 năm 80 20%
Trên 10 năm 238 59,5%
Vị trí công tác Lãnh đạo quản lý 102 24,5%
Chuyên viên 298 74,5%
Bộ phận chức năng Tuyên truyền hỗ trợ NNT 30 7,5%
đang công tác Kê khai và Kế toán thuế 51 12,75%
Thanh tra kiểm tra 170 42,5%
Quản lý nợ thuế 29 7,25%
Bộ phận khác 120 30%
400 100% Tổng số
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra của NCS
Bảng số 1 cho thấy, trong tổng số 400 phiếu hợp lệ, tỷ lệ người được hỏi
công tác trên 10 năm trong ngành Thuế là 238 (chiếm 59,5%); từ 5 đến 10
năm là 80 người (chiếm 20%); chỉ có 82 người dưới 5 năm kinh nghiệm.
Trong tổng số người trả lời có 24,5% giữ chức vụ lãnh đạo từ cấp phòng trờ
lên, còn lại là chuyên viên thuế. Trong đó số người làm tại 4 chức năng quản
lý chính là 208 người (chiếm 70%); bộ phận khác là 120 người (chiếm 30%).
Các câu trả lời được tập hợp theo từng nhóm và được sử dụng để minh
họa thêm cho các phân tích đánh giá nhận xét của Luận án.
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn và đóng góp mới của Luận án
- Ý nghĩa khoa học: Luận án nghiên cứu bổ sung, phát triển khung lý
thuyết về QLRR trong QLT như: (i) Khái niệm, Các hình thức rủi ro trong
QLT; (ii) Nội dung QLRR trong QLT; (iii) Quy trình QLRR trong QLT; (iv)
Các nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT.
Những đóng góp về lý luận này tiếp tục củng cố thêm kết luận của các
10
nhà khoa học trước đây về bản chất hoạt động QLRR trong QLT, những nhân
tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT. Khung lý thuyết mà luận án bổ sung,
phát triển có thể làm cơ sở lý luận để các nghiên cứu khác tham khảo hoặc
giúp các nhà quản lý có góc nhìn toàn diện hơn về phương pháp QLT, từ đó
thiết kế tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ nhằm phẩn bổ nguồn lực hợp lý
và tập trung thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Một là, Luận án nghiên cứu thực trạng QLRR trong QLT ở một số quốc
gia trên thế giới, tạo cơ sở thực tiễn quan trọng qua các bài học rút ra để thực
hiện QLRR trong QLT phù hợp với điều kiện cụ thể tại Việt Nam.
Hai là, Luận án đã phân tích thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam
giai đoạn 2014-2020, đánh giá được các kết quả đạt được, các hạn chế và
nguyên nhân chủ yếu.
Ba là, Luận án đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện QLRR
trong QLT tại Việt Nam trên góc độ: (i) Hoàn thiện khung pháp lý, tổ chức bộ
máy để QLRR trong QLT; (ii) Hoàn thiện các nội dung, quy trình, cách thức
thực hiện nghiệp vụ QLRR trong QLT; (iii) Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ
thống ứng dụng CNTT phục vụ QLRR; (iv) Xây dựng chương trình QLRR
tuân thủ tổng thể… Các giải pháp đưa ra sẽ góp phần hoàn thiện và thực hiện
thành công công cuộc hiện đại hóa QLT ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận án
gồm có 4 chương, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Chương 3: Thực trạng quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam
Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt
Nam
11
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước
QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng luôn là các nội dung nhận
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý ở các quốc gia, các
tổ chức quốc tế. Các công trình nghiên cứu về các nội dung này được thể hiện
ở nhiều hình thức khác nhau như các bài báo, các đề tài, các sổ tay hướng dẫn
được đúc rút ra từ kinh nghiệm quản lý trong thực tiễn… Có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu liên quan đến QLT và QLRR trong QLT ở nước ngoài
sau đây:
a. Các công trình nghiên cứu liên quan đến QLT
(1) John Brondolo, Carlos Silvani, Eric Le Borgne and Frank Bosch,
(2008), “Tax Administration Reform and Fiscal Adjustment: The Case of
Indonesia”.
Đây là công bố của IMF Working Papers nghiên cứu cải cách thuế ở
Indonesia giai đoạn 2001-2008. Trong đó, nghiên cứu đánh giá tầm quan
trọng của quy trình QLT và cải cách quy trình QLT nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ của NNT. Cải cách quy trình QLT
chuyển hướng mạnh từ quy trình quản lý theo các sắc thuế sang quy trình
quản lý theo chức năng quản lý và đối tượng quản lý như: tiếp nhận kê khai,
nộp hồ sơ thuế, dịch vụ hỗ trợ khai thuế, thanh toán thuế, thanh tra, kiểm tra
thuế, giải quyết khiếu nại về thuế và tuyên truyền nghĩa vụ, pháp luật thuế
theo từng đối tượng NNT có quy mô lớn, vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, nghiên
cứu cũng đề xuất quy trình quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ trong quản lý thuế.
Tuy nhiên, nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các khuyến
nghị để đổi mới cơ chế QLT chuyển từ quản lý theo sắc thuế sang cơ chế
12
QLT theo chức năng, chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn đầu cải cách QLT theo cơ
chế tự khai, tự nộp thuế.
(2) John Brondolo and Zhiyong Zhang, (2016), “Tax Administration
Reform in China: Achievements, Challenges, and Reform Priorities”.
Đây là công bố của IMF Working Papers nghiên cứu về cải cách cơ cấu
tổ chức của Cơ quan thuế nhà nước Trung Quốc (SAT). Trong 20 năm qua,
SAT đã thực hiện cải cách và phát triển với các bộ phận mới được tạo ra để
thực hiện những mục tiêu ưu tiên trong QLT. Năm 2008, SAT tạo ra Cục hỗ
trợ NNT và Cục doanh nghiệp lớn nhằm cải thiện các chương trình hỗ trợ
NNT và tăng cường sự quản lý của nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
vừa và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, các cá nhân có tài sản lớn. Nghiên cứu
cũng chỉ ra chức năng, trách nhiệm quản lý ngày càng được chuyên môn hóa
giữa các bộ phận của SAT. Đặc biệt, việc xây dựng chiến lược hiện đại hóa
của SAT tạo ra cơ hội và nhu cầu cho SAT xem xét, cải cách cơ cấu tổ chức
hiện tại, nhằm đạt được sự gắn kết và vận hành hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở các khuyến nghị về tổ chức bộ
máy QLT nhằm chuyên môn hóa trong việc QLT, thực hiện việc QLT theo
chức năng; Các nghiệp vụ cụ thể liên quan đến việc QLT theo chức năng
không được nghiên cứu sâu.
(3) OECD, (2010), “Phân nhóm tuân thủ doanh nghiệp vừa và nhỏ -
Nghiên cứu liên quan đến hiểu và tác động tới hành vi tuân thủ của NNT”
Công trình này tập trung vào nhóm đối tượng nghiên cứu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, từ việc phân tích các hành vi tuân thủ về thuế. Việc xem
xét hành vi NNT dựa trên xác định tầm quan trọng của các quy tắc xã hội và
quy tắc cá nhân trên phạm vi của một đất nước. Việc đánh giá xếp hạng lòng
tin của NNT với quốc gia sinh sống (Chính phủ, CQT hay các cơ quan khác
liên quan…).
Nghiên cứu đánh giá khảo sát khi áp dụng các biện pháp trong việc thực
thi tính tuân thủ NNT ở các khu vực địa lý khác nhau như: Hà Lan, Canada,
13
Thụy Điển... trước khi đưa ra các khuyến nghị chung trong nghiên cứu hành
vi tuân thủ của NNT.
Công trình cũng tập trung xem xét, đánh giá các yếu tố kinh tế tác động
đến hành vi tuân thủ của NNT. Từ những đánh giá đó, nhóm nghiên cứu kiến
nghị các biện pháp đánh giá hành vi không tuân thủ, biện pháp xử lý qua tác
động thanh tra, kiểm tra thường xuyên hay ngẫu nhiên đối với NNT.
Ở công trình này, đối tượng nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu
hành vi tuân thủ, hành vi không tuân thủ của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ
chứ chưa bao quát toàn bộ khối doanh nghiệp. Các biện pháp xử lý kiến nghị
cũng chỉ tập trung vào nhóm đối tượng này mà chưa bao quát hết được về
QLRR, QLRR tuân thủ đối với tất cả các doanh nghiệp.
(4) Cơ quan chuyên trách về thuế và hải quan Anh (HMRC), (2011),
“Nghiên cứu tiêu điểm quốc tế về thuế”.
Trong nghiên cứu này, phạm vi nghiên cứu đánh giá được HMRC hợp
tác với rất nhiều nước khác nhau. Nó bắt nguồn từ thành công trong một
nghiên cứu triển khai ở Úc và Nam Phi năm 2009.
Nghiên cứu được xem xét trên 10 tiêu điểm cơ bản về: Chi phí chất lượng
của trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện thoại; chi phí và thời gian thực hiện
thuế TNCN; chi phí đăng ký thuế GST/VAT; chi phí và tính hiệu quả của việc
đánh giá rủi ro thuế GST/VAT; chi phí và hiệu quả của thanh tra thuế thuế thu
nhập doanh nghiệp (CIT) của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ (SME); Thời
gian giải quyết các vấn đề phức tạp; Hiệu quả và hiệu suất của quản lý nợ; Chi
phí và hiệu quả về giải quyết tranh chấp thuế TNCN (PIT).
Sau khi phân tích đánh giá các khía cạnh cụ thể nêu trên, nhóm nghiên
cứu đã giúp các CQT căn cứ nguồn lực và thực trạng của cơ quan mình xem
xét, nghiên cứu và đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp.
Tương tự các công trình nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu của
công trình này chỉ thực hiện tại CQT Anh. Cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý
doanh nghiệp tại Anh cũng còn nhiều khác biệt so với CQT Việt Nam. Đặc
14
điểm doanh nghiệp, mô hình kinh doanh và kinh tế xã hội cũng khác biệt so
với điều kiện doanh nghiệp tại Việt Nam.
b. Các công trình nghiên cứu liên quan đến QLRR trong QLT
(5) Chính phủ Úc, (2003), “Nghiên cứu chương trình tuân thủ 2003-04”.
Đây là một công trình nghiên cứu mô tả những rủi ro và cách thức các
nguồn lực của CQT Úc được dùng để xử lý những rủi ro này.
NNT được phân thành 05 nhóm: cá nhân, DN cực nhỏ, DN nhỏ đến vừa,
DN lớn, Tổ chức phi lợi nhuận và tổ chức nhà nước. CQT tạo điều kiện dễ
dàng cho mọi người hiểu và chấp hành các nghĩa vụ thuế và đảm bảo có biện
pháp nhằm tối đa hóa số NNT chọn cách tuân thủ.
Hệ thống quản lý thuế của Úc dựa trên cơ sở trợ giúp và giáo dục để hỗ
trợ NNT tự khai, tự nộp thuế. CQT thực hiện nhiều hoạt động về tuân thủ, từ
việc xác minh thông tin được cung cấp cho đến việc tiến hành các cuộc thanh
tra, kiểm tra thuế phức tạp và có những hành động thích hợp trong trường hợp
phát hiện các hành vi cố ý không tuân thủ. Ngoài ra, CQT cũng liên tục theo
dõi các kết quả thu dự kiến và những thay đổi lớn đối với hệ thống thuế để xác
định những rủi ro mới xuất hiện. Điều này có nghĩa là, CQT có thể tiến hành rà
soát, điều tra trước khi các tờ khai, các mẫu liên quan được nộp hay phát hành
thông báo thuế. CQT cũng chủ động trao đổi về các lĩnh vực rủi ro và đáng quan
tâm để người dân có thể hiểu được quan điểm và có thể dự báo được phản ứng
của CQT.
Mô hình tuân thủ hướng dẫn CQT tìm hiểu nguyên nhân người dân
không tuân thủ và cần xây dựng các biện pháp thích hợp tương xứng. Mục
tiêu nền tảng là xây dựng các phản ứng làm tối đa hóa tỷ lệ người dân trong
cộng đồng vừa có khả năng tuân thủ, vừa chọn cách tuân thủ nghĩa vụ thuế.
Nghiên cứu chỉ ra những biện pháp quản lý CQT thực hiện tương ứng
với những rủi ro họ phát hiện ra. Biện pháp áp dụng bao gồm cả những biện
pháp cưỡng chế thấp nhất đối với những người cố tình tìm cách trốn tránh
nghĩa vụ của mình. Cụ thể:
15
- Nhóm doanh nghiệp cực nhỏ: Nhóm này chiếm 10% tiền thuế liên bang
và khoản 60% số thuế nợ mà CQT thu được. Các doanh nghiệp cực nhỏ không
có chuyên gia kế toán nội bộ, tốc độ thay thế khá cao và thường xuyên được
chuyển nhượng. Phương pháp tuân thủ cho nhóm này đặt trọng tâm vào việc
giúp đỡ, giáo dục để họ nhận thức được nghĩa vụ về thuế và tự giác tuân thủ.
Ngoài ra, để đảm bảo doanh nghiệp cực nhỏ được tư vấn về nghĩa vụ lưu giữ
hồ sơ, kê khai đúng thu nhập, CQT Úc dự kiến tăng sự xuất hiện của CQT và
hỗ trợ đại lý về thuế, mục tiêu kiểm tra việc tuân thủ 10% doanh nghiệp.
- Nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nhóm này chiếm khoản 10% tiền thuế
của Liên bang. Phương pháp tuân thủ cho nhóm này là một chương trình hoạt
động liên tục để đảm bảo NNT thực hiện các nghĩa vụ thuế cơ bản (đăng ký,
nộp tờ khai, nộp thuế và đề nghị hoàn thuế); Phân tích và theo dõi thông tin
thu được từ báo cáo hoạt động, tờ khai và các nguồn thông tin trong và ngoài
khác nhằm xác định được các rủi ro về tuân thủ khác.
Trọng tâm chương trình tuân thủ đưa ra: Kiểm tra việc đăng ký, kê khai
và hoàn thuế; Đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế; Cải cách thuế đánh
vào doanh nghiệp…Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này là
hoạt động QLT tại Úc, thời gian nghiên cứu từ năm 2003 nên một số phương
pháp không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Nghiên cứu chưa chỉ ra
được hiệu quả phòng ngừa của việc tuân thủ tích cực, các biện pháp QLRR
đưa ra tại thời điểm hiện tại đôi khi không còn phù hợp hoặc đã được thay thế
bằng các mục tiêu chiến lược khác.
(6) Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), (2004), “Sổ tay hướng
dẫn QLRR tuân thủ: Quản lý và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế”.
Công trình nghiên cứu hoạt động QLT đối với là các doanh nghiệp nhỏ,
trong đó, việc giám sát tuân thủ pháp luật thuế tập trung chủ yếu vào 4 lĩnh
vực: đăng ký thuế, kê khai, báo cáo và nộp thuế. Về QLRR trong QLT,
nghiên cứu phân tích từ xác định bối cảnh, nhận diện rủi ro, đánh giá phân
loại rủi ro theo thứ tự ưu tiên, phân tích hành vi tuân thủ, xác định các chiến
16
lược thực thi tuân thủ, thực hiện áp dụng chiến lược và có đánh giá kết quả
thực hiện.
Nhận diện rủi ro cần hiểu được một cách tổng quát tất cả các khía cạnh liên
quan đến rủi ro, gồm nhận diện rủi ro chiến lược, rủi ro hoạt động, rủi ro có tính
chất giống nhau hay việc sử dụng các chỉ số liên quan để nhận diện rủi ro.
Đánh giá và phân đoạn rủi ro theo thứ tự ưu tiên đưa ra danh sách các
rủi ro đã được định lượng cụ thể và ưu tiên theo khả năng các rủi ro, quy trình
hệ quả. Việc lập tài liệu ưu tiên giúp tổ chức tuân thủ hình thành nên chương
trình tuân thủ cho năm hoạt động có hiệu quả.
Phân tích hành vi tuân thủ giúp đưa ra các chiến lược được xử lý phù hợp
từ đó có thể xử lý chung ý thức tuân thủ ở tất cả các cấp mô hình tuân thủ.
Chiến lược thực thi tuân thủ đưa ra những hành động tương ứng với mức
độ tuân thủ, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT muốn tuân thủ tốt và có các biện
pháp áp dụng phù hợp đối với NNT không tuân thủ. Xây dựng một chương
trình công bằng, hành động minh bạch tại mọi thời điểm nhằm đảm bảo công
bằng và phù hợp sẽ khuyến khích ý thức tuân thủ tự nguyện.
Lập kế hoạch đánh giá toàn diện để xem xét tiêu chí thành công và chỉ
số đo lường của kế hoạch tuân thủ đã thực hiện nhằm phát huy những điểm
tích cực và sửa đổi, bổ sung, ngăn chặn những hành vi ảnh hưởng tiêu cực của
kế hoạch tuân thủ tổng thể.
Các nội dung nghiên cứu đã đưa ra các bước công việc đầy đủ về QLRR
trong QLT. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này chỉ tập trung
vào nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ; các nội dung chủ yếu vẫn còn mang
tính chất lý thuyết, chưa đưa ra được hướng dẫn chi tiết cụ thể.
(7) Cục Thuế Nam Phi, (2004), “Nghiên cứu phân tích về cách tiếp
cận tuân thủ của CQT trên cơ sở lựa chọn hồ sơ và mức độ rủi ro của CQT
Nam Phi”.
“Khoảng trống thuế” là sự chênh lệch giữa số thuế thực mà CQT thu
được với số thuế phải thu được theo quy định của pháp luật hiện hành. CQT
17
Nam Phi đã ước tính khoảng trống thuế tại Nam Phi là 30 tỷ Rand (Gordhan:
2003). Các yếu tố làm phát sinh khoảng trống thuế được CQT Nam Phi phân
tích (Cục Thu Nam Phi: 2004) gồm: Các hoạt động bất hợp pháp, tránh thuế,
trốn thuế; nợ thuế do hoạt động thiếu hiệu quả…Mỗi quốc gia đều có một
khoảng trống thuế và rất khó để định lượng.
CQT Nam Phi đã xây dựng các chiến lược khuyến khích và khởi động số
thu để giải quyết khoảng trống thuế. Một phần của kế hoạch thu hẹp khoảng
trống là tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao và lập hồ sơ rủi ro. Việc
lập hồ sơ rủi ro được thực hiện như sau:
- CQT Nam Phi thực hiện nghiên cứu toàn diện để hiểu rõ hơn về
khoảng trống thuế, tập trung chú ý đến cách thức thể hiện khoảng trống,
những lĩnh vực rủi ro được đặt ra đối với từng sắc thuế do CQT Nam Phi
quản lý và sự phổ biến của hành vi trốn thuế trong các phân ngành kinh tế
khác nhau…
- Phương tiện truyền thông cần quan tâm hơn đến NNT và các vấn đề về
thuế, một mặt hỗ trợ CQT Nam Phi thực thi các hoạt động tuân thủ, mặt khác
phục vụ mục tiêu quan trọng hơn là nâng cao nhận thức của NNT về nghĩa vụ
thuế của mình. Điều này tạo ra ý thức tuân thủ chủ động cho NNT, đồng thời
giúp họ giải quyết sai sót về thuế nhanh chóng hơn trong trường hợp phát hiện
không tuân thủ.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là thiết kế một mô hình chuẩn để
CQT Nam Phi sử dụng và nhận diện các trường hợp có khả năng trốn thuế
và xây dựng phương pháp lựa chọn hồ sơ thanh tra, kiểm tra. Một số kết
quả chủ yếu của công trình này là:
- Nghiên cứu đã đưa ra cơ sở lý luận liên quan: cơ chế tự khai, tự
nộp; phân biệt trốn thuế và tránh thuế; các biện pháp ngăn ngừa hành vi
trốn thuế...
- Nghiên cứu ưu tiên phân tích: Phương pháp lựa chọn hồ sơ thanh tra
thuế, kiểm tra thuế, Lựa chọn hồ sơ để hoàn thuế nhằm tối đa hóa ý thức tuân
18
thủ tự nguyện; Việc sử dụng các chương trình phân tích rủi ro bằng máy tính
và các chương trình liên quan. Mục tiêu của chương trình lựa chọn hồ sơ
thanh tra thuế là tối đa hóa tác động của ý thức tuân thủ tự nguyện và nhận
diện những NNT tuân thủ, hoặc nhóm NNT có rủi ro về kê khai thuế. CQT
cần xem xét lựa chọn các hoạt động của mình để xử lý những lĩnh vực có rủi
ro lớn nhất.
- Nghiên cứu chỉ ra vai trò của thông tin về các phân ngành kinh tế
trong quá trình nhận diện rủi ro. Chứng minh dữ liệu của bên thứ ba được
khai thác như thế nào để hỗ trợ CQT nhận diện hành vi không tuân thủ khi
sử dụng báo cáo về các giao dịch đáng ngờ.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này tập trung tại Cục
Thuế Nam Phi, thời gian nghiên cứu từ năm 2004 nên nhiều phương pháp đã
không còn phù hợp với điều kiện hiện nay. Cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý
doanh nghiệp tại Cục Thuế Nam Phi cũng còn nhiều khác biệt so với CQT
Việt Nam.
(8) OECD, (2009), “Quản lý tuân thủ của chức năng quản lý doanh
nghiệp – Sổ tay hướng dẫn kinh nghiệm và thông lệ của 8 nước thành
viên OECD”.
Đối tượng của nghiên cứu này là doanh nghiệp lớn. Tiêu thức nhận diện
doanh nghiệp lớn tại các nước thường sử dụng là: doanh thu, tài sản, số thuế phải
nộp, phân ngành kinh tế và một số yếu tố khác liên quan. Một số CQT thành lập
đơn vị chuyên trách để thực hiện phân tích rủi ro và thu thập thông tin tình báo,
cung cấp tư vấn kỹ thuật, giám sát và đánh giá kết quả đạt được.
Nghiên cứu đã chỉ ra một số vấn đề sau:
- Việc tuân thủ thuế liên quan đến các giao dịch quốc tế và cấu trúc kinh
doanh quốc tế là vấn đề lớn cần ưu tiên quan tâm; Cần xây dựng mối quan hệ
hợp tác giữa NNT và CQT để thúc đẩy sự phát triển.
- Để tăng cường việc thực thi pháp luật và hỗ trợ NNT, cần xây dựng
chương trình tập huấn và duy trì nguồn lực chất lượng cao. Sự phức tạp của
19
pháp luật thuế và cấu trúc, giao dịch kinh doanh của nhóm doanh nghiệp lớn
đòi hỏi công chức thuế phải có kiến thức và kinh nghiệm chuyên sâu về một
vài lĩnh vực.
- Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về chính sách thuế nhưng CQT có vai
trò tích cực trong việc cung cấp thông tin đầu vào và những phản hồi liên
quan đến chính sách thuế để từ đó có những điều chỉnh phù hợp.
- CNTT không chỉ được sử dụng để phục vụ NNT tốt hơn mà nó còn
được sử dụng trong quản lý tuân thủ bao gồm khả năng nhận diện rủi ro sớm,
nâng cao hiệu quả hoạt động chức năng quản lý doanh nghiệp lớn. Từ các
chương trình thu thập, bổ sung thông tin kịp thời nhằm tăng cường đánh giá
rủi ro tuân thủ, đưa ra các quyết định quản lý thống nhất trong cùng phân
ngành kinh tế.
Một số kết quả chủ yếu của công trình về QLRR trong QLT là:
- Chỉ ra các nhân tố để đánh giá, chỉ số dùng để đánh giá và chiến lược
sử dụng để đối phó với những rủi ro đã đưa ra.
- Đưa ra một số phương pháp tiếp cận để giải quyết vấn đề tuân thủ. Việc
xây dựng và triển khai các biện pháp cho phép nhận diện và giải quyết các vấn
đề có rủi ro tuân thủ trọng yếu. Các biện pháp cải tiến được mô tả: Thỏa thuận
trước về tuân thủ (Úc), thỏa thuận hàng năm về tuân thủ (Úc); lập các trung
tâm phân tích, sử dụng cơ sở dữ liệu phục vụ hệ thống đánh giá yêu cầu lập báo
cáo của doanh nghiệp nước ngoài (Canada)…
- Để giải quyết vấn đề tuân thủ của NNT, CQT (ÚC) thực hiện: Công
khai các vấn đề và rủi ro trong chương trình tuân thủ; Có chức năng thu thập
thông tin tình báo đủ năng lực để nhận diện các vấn đề về thuế; Thực hiện rà
soát rủi ro về thuế thu nhập, rủi ro về NNT, rủi ro khác để nhận diện các rủi ro
trọng yếu về thuế; Thanh tra thuế thu nhập để xử lý rủi ro khi nhận diện; Thực
hiện kiểm tra một nhóm 100 tập đoàn lớn để có thể thảo luận và đưa ra kết
luận đánh giá các rủi ro về thuế.
- CQT sử dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp để nâng cao ý thức
20
tuân thủ pháp luật thuế. CQT Úc đã ban hành sổ hướng dẫn quản trị công ty
cho thành viên HĐQT và ban giám đốc để họ tự phân loại, đánh giá rủi ro về
thuế liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp.
- Cần thiết đánh giá kết quả thực hiện của các chương trình, kế hoạch
CQT đã xây dựng. Đánh giá sự tuân thủ của NNT là bước phản hồi những
mặt tích cực cũng như những hạn chế của kế hoạch đưa ra.
Như vậy, công trình đã có nhiều nội dung và kết luận liên quan trực tiếp
đến vấn đề QLRR trong QLT. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu chỉ tập trung
vào nhóm đối tượng doanh nghiệp lớn, giới hạn trong 8 nước thành viên của
OECD. Các quốc gia này có điều kiện kinh tế, xã hội khác biệt với Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào các nội
dung của QLT nói chung, trong đó có các phương thức, biện pháp QLT cụ
thể, bao gồm cả QLRR trong QLT. Có một số công trình tập trung vào việc
QLRR trong thanh tra thuế, kiểm tra thuế; có một số công trình tập trung vào
QLT nhằm nâng cao mức độ tuân thủ thuế của NNT, trong đó có QLRR tuân
thủ thuế… Các công trình tiêu biểu liên quan đến QLT và QLRR trong QLT ở
Việt Nam trong thời gian gần đây bao gồm:
a. Các công trình liên quan đến quản lý thuế:
(1) Nguyễn Thị Lệ Thúy, (2009), “Hoàn thiện quản lý thuế của Nhà
nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp (Nghiên cứu
tình huống của Hà Nội)”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân.
Luận án được tác giả nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, đánh giá và
tổng hợp những cơ sở lý thuyết, cơ sở kinh nghiệm và cơ sở thực tiễn cho
những giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm
tăng cường sự tuân thủ thuế của các doanh nghiệp (nghiên cứu tình huống của
địa bàn Hà Nội).
- Luận án khẳng định khái niệm tuân thủ thuế không chỉ được phân tích
21
theo cách tiếp cận kinh tế mà còn phải được phân tích theo cách tiếp cận tâm
lý xã hội và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh
nghiệp phải theo cả hai cách tiếp cận này. Từ đó, luận án xác định những yếu
tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp ở các nước đang phát
triển theo cách tiếp cận kinh tế và cách tiếp cận tâm lý xã hội.
- Luận án phân tích và đánh giá sự tuân thủ thuế của các doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội theo mô hình tuân thủ thuế điều chỉnh. Phân tích các yếu
tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng QLT
đối với doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
- Luận án đề xuất quan điểm và chiến lược QLT dựa trên cơ sở thực tế
về cấp độ tuân thủ nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và tự nguyện
của các doanh nghiệp trên địa bàn. Luận án đã đề xuất các giải pháp chủ yếu
và điều kiện thực thi các giải pháp theo các chức năng của QLT để thực hiện
các chiến lược quản lý theo từng cấp độ tuân thủ.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu và viết luận án của Nghiên cứu
sinh Nguyễn Thị Lệ Thúy, ở Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm và giai
đoạn đầu áp dụng cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế, kỹ thuật QLRR
cũng chưa được thực hiện đầy đủ, ngoài ra quá trình hiện đại hóa QLT cũng
mới được bắt đầu, chưa có các hoạt động tuân thủ như kê khai thuế qua mạng,
nộp thuế điện tử, thực hiện hóa đơn điện tử… nên một số giải pháp QLRR
luận án đưa ra không còn phù hợp với điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
(2) Nguyễn Thị Thùy Dương, (2011), “Quản lý thuế ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân.
Tác giả đưa ra cơ sở lý luận của QLT như: khái niệm, nội dung cơ bản,
tiêu chí xác định là QLT tốt, các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Nói về hội nhập
kinh tế quốc tế, tác giả đưa ra được những xu hướng trong hội nhập, cấu trúc
thuế trong bối cảnh hội nhập và những tác động ảnh hưởng trong bối cảnh
này. Bên cạnh đó tác giả nghiên cứu kinh nghiệm của OECD để từ đó kiến
22
nghị cho sự phát triển của QLT tại Việt Nam.
Tác giả đã đi vào tìm hiểu đánh giá thực trạng tại Việt Nam từ những
cam kết về thuế khi tham gia hội nhập, tác động của hội nhập; phân tích thực
trạng về bộ máy QLT, cơ sở pháp lý và nội dung trong QLT. Việc đánh giá
thực trạng chung của cả ngành Thuế và ngành Hải quan từ những kết quả đạt
được, hạn chế tồn tại trong công tác QLT đến những tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế, việc cam kết cắt giảm thuế khi gia nhập tổ chức WTO.
Tác giả đã kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLT như: nhóm
giải pháp về thể chế, chính sách; nhóm giải pháp cho tổ chức bộ máy quản lý;
nhóm giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa CQT và NNT; hoàn thiện các nội
dung QLT; ứng dụng CNTT; quản trị chiến lược trong QLT,…
Tuy nhiên, luận án dừng lại ở việc xem xét các vấn đề nghiên cứu cho
giai đoạn 1995-2010 khi thực tiễn Việt Nam vừa gia nhập WTO nên đến thời
điểm hiện tại, một số giải pháp đưa ra không còn hiệu quả.
(3) Lưu Ngọc Thơ, (2013), “Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở
Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về doanh nghiệp lớn và đặc thù quản lý
thuế đối với doanh nghiệp lớn, luận án đã đánh giá thực trạng công tác quản
lý thuế đối với doanh nghiệp lớn tại Việt Nam giai đoạn 2007- 2011, luận án
đã chỉ ra một số kết quả đạt được trong việc quản lý các doanh nghiệp lớn tại
Việt Nam, một số hạn chế và nguyên nhân, như: mô hình tổ chức quản lý thuế
đối với doanh nghiệp lớn chưa được hình thành rõ nét; Số lượng doanh
nghiệp lớn đưa vào diện quản lý chưa đảm bảo đại diện của nền kinh tế; Cơ
chế quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn chưa phù hợp; đội ngũ cán bộ thuế
quản lý doanh nghiệp lớn chưa đáp ứng yêu cầu.
Luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thuế đối với doanh
nghiệp lớn với các tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp lớn, các sắc thuế cần theo
dõi, cũng như hình thành bộ phận quản lý doanh nghiệp lớn tại Tổng Cục thuế
với cơ chế quản lý đặc thù. Đưa ra các giải pháp quản lý thuế riêng phù hợp
23
với doanh nghiệp lớn là quan điểm đã được thực hiện ở các nước phát triển và
hiện đang được mở rộng ở các nước đang phát triển, là một cơ sở của của mô
hình quản lý thuế hiệu quả.
Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian nghiên cứu, luận án đưa ra các giải
pháp quản lý thuế đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 nên đến thời
điểm hiện tại, một số giải pháp đưa ra không còn tính thời sự.
b. Các công trình liên quan đến QLRR trong QLT:
(4) Tổng cục Thuế (2013), Mô hình Quản lý thuế và cơ chế quản lý
rủi ro
Cơ chế QLRR là một công cụ của CQT nhằm hỗ trợ cho việc phân bổ
nguồn lực trong mối quan hệ với các rủi ro thuế tiềm tàng. Cơ chế này muốn
đạt kết quả tốt cần phải có sự chung tay từ tất cả cán bộ, nhân viên trong toàn
ngành thuế và cấp quản lý cấp cao (Bộ Tài chính). Quy trình QLRR phải
được tích hợp vào các quy trình nghiệp vụ thông thường và là một phần
không thể thiếu trong quy trình QLT.
Báo cáo kiến nghị một số cách thức QLRR cho CQT Việt Nam, cụ thể:
- Cần đa dạng và phải có sự đánh giá quản trị thường xuyên, linh động
để bắt kịp những thay đổi trong hành vi của NNT do sự biến động của nền
kinh tế, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của công nghệ.
- CQT cần hiểu được cơ cấu NNT do mình quản lý. Điều này được thể
hiện qua việc phân đoạn NNT theo tiêu chí như quy mô, chức năng thuế hoặc
kết hợp cả 2 tiêu chí này. Từ cách nhìn toàn diện đối với rủi ro có thể giúp
thúc đẩy mức độ tuân thủ tự nguyện của NNT. Việc thanh tra chỉ dành cho
NNT rủi ro cao nhất và không thực hiện các chiến lược quản lý cưỡng chế
khác của CQT.
- CQT yêu cầu NNT điền vào các báo cáo có liên quan đến các giao dịch
trọng yếu, bất thường xảy ra trước khi đưa ra biện pháp xử lý thuế đối với một
giao dịch cụ thể. Việc này giúp CQT rà soát các vấn đề xảy trên thực tế, giúp
2 bên tham gia tranh luận để giải quyết vướng mắc một cách chắc chắn nhất.
24
- Để giảm thiểu chi phí quản lý hành chính thuế, CQT sử dụng nhiều
kênh truyền thông khác nhau để tích cực nhắc nhở NNT về các mốc thời hạn
nộp tờ khai, nộp thuế. Từ đó làm giảm số lượng tờ khai còn chưa nộp và tăng
số thu thuế, đây là là mục tiêu quan trọng đối với hoạt động CQT.
- Nguồn nhân lực chất lượng tốt giúp nâng cao hiệu quả QLT, vì vậy cần
bổ sung quy trình giám sát chất lượng, tổ chức đào tạo nghiệp vụ để nâng cao
chuyên môn của nhóm cán bộ phụ trách từ đó tăng thêm tính chuyên nghiệp
hơn trong giao tiếp với NNT, tạo niềm tin của NNT đối với chính sách thuế
của nhà nước từ đó nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT.
- Việc tuyên truyền hỗ trợ NNT am hiểu những quy định về pháp luật
thuế thông qua các kênh thông tin khác nhau luôn là biện pháp ưu tiên hàng
đầu giúp tăng cường tính tuân thủ tự nguyện của NNT.
Báo cáo đưa ra kiến nghị đối với Việt Nam trong việc xây dựng mô hình
QLT và cơ chế thực hiện QLRR. Tuy nhiên, các kiến nghi đưa ra mới chỉ
dừng lại ở khung lý thuyết chưa có hướng dẫn cụ thể chi tiết, các bước thực
hiện cũng như cách thức triển khai cụ thể.
(5) Phi Vân Tuấn, (2013), “Giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra,
kiểm tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng
cục Thuế.
Đề tài nghiên cứu đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, cơ
sở lý luận cho việc thực hiện kỹ thuật QLRR trong tiến trình cải cách, hiện đại
hóa công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác thanh tra thuế, kiểm tra
thuế ở Cục thuế Thành phố Hà Nội trong giai đoạn NNT đã thực hiện theo cơ
chế tự khai, tự nộp thuế. Theo đánh giá, Cục thuế là một trong những đơn vị
thực hiện thành công thí điểm việc ứng dụng chương trình phân tích rủi ro
thanh tra trong xây dựng kế hoạch thanh tra thuế hàng năm. Đề tài đã chỉ ra
sự sáng tạo, bổ sung hoàn thiện theo tình hình cụ thể tại địa phương vào việc
vận dụng thực hiện QLRR trong lập kế hoạch thanh tra thuế, kiểm tra thuế.
25
Trên cơ sở thực tiễn, đề tài nghiên cứu đã chỉ ra những thuận lợi, khó
khăn và thách thức trong quá trình thực hiện phương pháp QLRR trong thanh
tra thuế, kiểm tra thuế như: khó khăn về ý thức tuân thủ NNT, công tác trao
đổi thu thập thông tin từ bên thứ 3, nhận thức của cán bộ trong việc đổi mới
phương thức thanh tra thuế, kiểm tra theo kỹ thuật QLRR, số lượng NNT
ngày càng gia tăng,..
Đề tài nghiên cứu đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra
thuế, kiểm tra thuế theo kỹ thuật QLRR: hoàn thiện mô hình thực hiện chung
theo kinh nghiệm quốc tế; thường xuyên tổng hợp đánh giá và hoàn thiện cập
nhập bộ tiêu chí đánh giá rủi ro cho phù hợp thực tiễn; nâng cao hơn nữa công
tác tuyên truyền giúp NNT tuân thủ tốt; xây dựng tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn
thanh tra thuế, kiểm tra thuế theo chuyên ngành; triển khai áp dụng chỉ số đánh
giá hiệu quả công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế; Hoàn thiện các điều kiện cơ
bản như chính sách, cơ sở thông tin, ứng dụng công nghệ để có thể thực hiện
triển khai công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế theo kỹ thuật QLRR.
Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng lại phân tích một phần của
công tác QLRR và phạm vi phân tích thực hiện tại một cục thuế nên chưa bao
quát hết được đặc thù của các địa bàn khác và thời gian nghiên cứu dừng lại ở
giai đoạn 2009-2012.
(6) Trần Huy Trường, (2015), “Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh
tra thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện
Tài chính.
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLRR trong hoạt động thanh
tra thuế, giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn khía cạnh QLRR trong thanh tra
thuế, phân tích các tiêu chí QLRR trong phân tích lập kế hoạch và lựa chọn
NNT trong kế hoạch thanh tra thuế hàng năm. Luận án đã nghiên cứu một số
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thanh tra thuế, từ đó đưa ra một số
giải pháp giúp CQT nâng cao hiệu quả công tác thanh tra thuế. Dựa trên các
vấn đề phân tích, luận án đã chỉ ra thực hiện QLRR trong QLT là phương
26
pháp rất quan trọng, giúp CQT tiết kiệm nguồn lực, chi phí, tăng khả năng tìm
ra NNT có nhiều tiềm ẩn rủi ro, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong QLT
nhằm đảm bảo doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế và nâng cao hơn nữa
vai trò tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm về QLRR trong thanh tra thuế của các
nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học thực tiễn phục vụ công tác thanh tra thuế
tại Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng QLRR trong hoạt động thanh tra thuế đối
với doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009-2014, thông qua việc phân tích các
tiêu chí phục vụ công tác thanh tra thuế và những nhân tố ảnh hưởng đến QLRR
trong thanh tra thuế, tác giả đã đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả công
tác thanh tra thuế.
Tuy nhiên, nghiên cứu của luận án dừng ở giai đoạn năm 2009- 2014,
nên mới phân tích, phản ảnh một phần những kết quả đạt được của QLRR
trong thanh tra thuế. Luận án chỉ ra được những hạn chế cho bộ tiêu chí trong
giai đoạn nghiên cứu và đến nay Bộ tiêu chí đã được cập nhập sửa đổi bổ
sung nhiều lần.
(7) Bùi Khánh Toàn, (2018), “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế - kinh
nghiệm quốc tế và giải pháp áp dụng tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Tổng cục Thuế.
Đề tài tập trung vào những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận liên quan đến
rủi ro, QLRR như: phạm vi áp dụng và đối tượng của QLRR trong QLT, với
cách tiếp cận trong thông tư của Bộ Tài chính quy định về QLRR trong QLT.
Đề tài cũng nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới về cách đánh
giá rủi ro của một số chức năng thuế và rút ra bài học cho công tác QLRR
trong QLT tại Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu nêu ra được những nguyên tắc QLRR mà chủ yếu là
thực hiện theo mô hình tháp kim tự tháp; đưa ra cách phân loại rủi ro trong
QLT theo các chức năng như rủi ro trong đăng ký thuế, rủi ro về thời hạn, rủi
27
ro kê khai thuế và rủi ro trong nộp thuế;
Quy trình QLRR tổng quát theo kinh nghiệm các nước thường được thực
hiện qua 5 bước như: thiết lập bối cảnh, xác định, phân tích, đánh giá và xử lý
phản hồi. Việc xây dựng kế hoạch đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện là biện
pháp quan trọng trong xây dựng hệ thống QLRR của CQT.
Đề tài chỉ ra được thực trạng hiện nay tại Việt Nam về thể chế, chính
sách, tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ và hệ thống thông tin CSDL phục
vụ cho công tác QLRR trong QLT. Với thời gian thực hiện QLRR trong QLT
chưa nhiều nên tất cả còn đang ở những bước đầu, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ,
CSDL còn thiếu và chưa đồng bộ tập trung, hạ tầng CNTT đang trong quá
trình xây dựng các ứng dụng nhằm đáp ứng nhu cầu về phân tích dữ liệu để
thực hiện QLRR, nguồn nhân lực hạn hẹp… dẫn đến kết quả QLRR chưa đáp
ứng như mong đợi trong xu hướng QLT mới.
Từ đánh giá thực trạng đó, nhóm tác giả đưa ra được những vấn đề cần quan
tâm và một số giải pháp khi triển khai công tác QLRR trong QLT.
Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục Thuế được thực
hiện phân tích trong giai đoạn 2010-2017, là giai đoạn ngành thuế mới thành
lập được bộ phận chuyên trách về QLRR cấp Tổng cục Thuế. Đến nay, thực
trạng QLRR trong QLT đã có những phát triển về các mặt thể chế, hạ tầng cơ
sở dữ liệu, CNTT cũng như các quy trình nghiệp vụ QLRR cho các chức năng
thuế đang từng bước xây dựng và hoàn thiện.
1.1.3. Nhận xét chung
Có một số công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về QLT nói
chung, QLRR trong QLT nói riêng. Các nghiên cứu tuy có phạm vi, nội dung
và mục tiêu nghiên cứu không đồng nhất với nhau, nhưng đều có mối liên hệ
nhất định và tập trung giải quyết các vấn đề như: Nội dung của QLT; tiêu chí
và cách thức xác định, đánh giá rủi ro trong QLT; các giải pháp QLRR trong
QLT để đạt được hiệu quả QLT cao nhất. Giữa các công trình này cũng có sự
kết nối, kế thừa, bổ sung và phát triển kết quả nghiên cứu để làm rõ hơn được
28
các vấn đề nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã đề cập được ở mức độ
nhất định một số nội dung lý luận về QLRR trong QLT, những vấn đề thực
tiễn đang gặp phải ở đối tượng nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được bao gồm:
- QLT thực hiện trên cơ sở QLRR khi tập trung nguồn lực quản lý vào
các nhóm NNT có mức độ rủi ro cao là một xu hướng tất yếu trong điều kiện
có sự gia tăng về số lượng NNT và sự đa dạng quan hệ kinh tế phát sinh giữa
các doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu trong khi nguồn lực của CQT còn
nhiều hạn chế. Thực hiện QLRR trong QLT là phương pháp rất quan trọng,
giúp CQT tiết kiệm nguồn lực, chi phí, tăng khả năng tìm ra NNT có nhiều
tiềm ẩn rủi ro, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong QLT nhằm đảm bảo doanh
nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế và nâng cao hơn nữa vai trò tuân thủ pháp
luật thuế của NNT.
- Rủi ro về thuế trong quá trình tuân thủ thuế của NNT có thể xảy ra trên
nhiều góc độ khác nhau như rủi ro trong đăng ký thuế, rủi ro trong kê khai
thuế, rủi ro trong nộp thuế... Các rủi ro này cũng chịu sự ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khách quan và chủ quan. CQT có thể xem xét, xác định, đánh giá mức
độ rủi ro của NNT trên cơ sở các thông tin, dữ liệu QLT và các tiêu chí đánh
giá rủi ro đã được xây dựng từ trước. Trong đó, yếu tố CNTT được coi là rất
cần thiết cho việc xem xét, đánh giá mức độ rủi ro của từng NNT. Quy trình
QLRR tổng quát thường được thực hiện qua 5 bước như: thiết lập bối cảnh,
xác định, phân tích, đánh giá và xử lý rủi ro trong các biện pháp quản lý cụ
thể.
- Về biện pháp quản lý, các nghiên cứu đều cho rằng CQT cần lập hồ sơ
rủi ro và lựa chọn hồ sơ thanh tra thuế, kiểm tra thuế để tối ưu hóa nguồn lực
hạn chế. NNT và nhóm NNT có rủi ro lớn nhất sẽ là tiêu chí lựa chọn để
thanh tra thuế, từ đó truy thu thuế tối đa đối với NNT hay nhóm NNT này.
Ngoài ra, các giải pháp về quản lý tuân thủ cũng được một số công trình đề
cập đến thể hiện ở các quan điểm và chiến lược quản lý thu thuế dựa trên cơ
29
sở thực tế về cấp độ tuân thủ nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và tự
nguyện của NNT.
Qua nội dung tóm tắt các công trình đã nghiên cứu về QLT và QLRR
trong QLT nêu trên cho thấy:
Thứ nhất, Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ
và toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến QLRR trong QLT
gắn với thực tiễn QLT ở Việt Nam giai đoạn 2014-2020.
Thứ hai, Đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ cho vấn đề quan trọng
liên quan đến QLRR trong QLT trên các nội dung: (i) Xây dựng cơ sở dữ liệu
tập trung của NNT phục vụ cho việc phân tích đánh giá rủi ro; (ii) Chuẩn hóa
tiêu chí phân loại rủi ro về thuế của NNT; (iii) Ứng dụng CNTT hỗ trợ việc
phân tích và tính điểm rủi ro tự động, rà soát kết quả phân tích rủi ro so với
thực tế đánh giá theo QLRR; (iv) Mô hình tổ chức bộ máy QLRR; (v) Các
điều kiện pháp lý và hành lang trong việc thực hiện QLRR trong QLT.
Những nhận xét trên cho thấy, đề tài nghiên cứu của Luận án này đảm
bảo được tính mới, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên
quan đã công bố.
1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận án tiến sĩ
liên quan trực tiếp đến QLRR trong QLT. Các công trình nghiên cứu đã
công bố có liên quan đến QLRR như là một trong những cách thức, biện
pháp quản lý của CQT trong điều kiện mới, phục vụ cho một hay một số
chức năng của QLT. Một số công trình là đề tài nghiên cứu khoa học cấp
ngành, cấp Bộ đề cập đến QLRR trong QLT nhưng mức độ nghiên cứu còn
chưa thực sự bao quát đầy đủ cả về lý luận, thực tiễn và mới dừng ở giai
đoạn khi ngành thuế mới thành lập bộ phận chuyên trách về QLRR cấp Tổng
cục Thuế.
QLRR là phương thức quản lý có vai trò quan trọng trong QLT hiện đại,
30
cần được nghiên cứu đầy đủ để có thể đưa vào triển khai thực tế một cách
toàn diện và hiệu quả cao. Tác giả của luận án nhận thấy, việc nghiên cứu cơ
chế và phương thức thực hiện QLRR là một trong những giải pháp quyết định
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động QLT, đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính thuế trong những năm tới. Mục tiêu chính khi lựa
chọn đề tài Luận án được NCS xác định là cần làm rõ các nội dung: Cơ sở lý
luận về QLRR trong QLT; Kinh nghiệm quốc tế về QLRR trong QLT và bài học
đối với Việt Nam; Thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam và các giải pháp
hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu từ các công tŕnh đã công bố kể trên, có
thể nhận thấy các khoảng trống trong nghiên cứu về QLRR trong QLT tại
Việt Nam thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Chưa có nghiên cứu toàn diện về QLRR trong QLT trên cả
hai góc độ: rủi ro tuân thủ từ phía NNT và rủi ro quản lý từ phía CQT.
Rủi ro về thuế thường thể hiện ở góc độ NNT, trong quá trình tuân thủ
thuế của họ có thể dẫn đến các rủi ro, nguyên nhân có thể do sự am hiểu các
quy định của chính sách chưa thật sự chính xác; việc hạch toán nghĩa vụ thuế
từ các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực hiện các thủ tục về thuế,
nghĩa vụ thuế của NNT (đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế) chưa kịp thời, đầy
đủ và đúng quy định… Rủi ro trong QLT thể hiện ở hiệu quả của các hoạt
động QLT của CQT, trong đó chứa đựng cả các rủi ro về thuế của NNT và
các rủi ro trong cách thức quản lý của CQT (bỏ sót NNT; quy trình, thủ tục
quản lý chưa chặt chẽ; cơ chế quản lý chưa theo kịp sự bùng nổ của thương
mại điện tử…). Các nghiên cứu từ trước đến nay tập trung chủ yếu ở việc
QLRR đối với các rủi ro tuân thủ của NNT, còn các rủi ro phát sinh từ góc độ
CQT chưa được tập trung chú trọng hoặc được nghiên cứu chủ yếu dưới góc
độ hoàn thiện các nội dung quản lý thuế. Luận án này sẽ tập trung nghiên cứu
QLRR trong QLT trên cả 2 góc độ: rủi ro tuân thủ từ phía NNT và rủi ro quản
lý từ phía CQT.
31
Thứ hai, Chưa có nghiên cứu tổng thể, toàn diện về cơ sở lý luận của
rủi ro về thuế và QLRR trong QLT.
Để thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT thì việc tìm hiểu, nắm rõ cơ sở
lý luận của rủi ro về thuế và rủi ro trong QLT như: bản chất của rủi ro; các
nguyên nhân dẫn đến các rủi ro tuân thủ thuế, rủi ro QLT; các tiêu chí đánh
giá mức độ rủi ro trong QLT và các cơ dữ liệu cần thiết để phân loại NNT
theo các mức độ rủi ro… là các nội dung hết sức quan trọng.
Trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu trước
đây đã đề cập ít nhiều đến các nội dung này, tuy nhiên những nghiên cứu này
chưa tập trung, toàn diện. Cụ thể: chưa có nghiên cứu chuyên sâu về rủi ro
trong công tác QLT (các hình thức rủi ro trong QLT); Chưa có nghiên cứu
chuyên sâu cơ sở lý luận về QLRR trong QLT (nội dung QLRR trong QLT,
quy trình QLRR trong QLT, các nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT).
Khoảng trống này sẽ được luận án tập trung khai thác để hệ thống hóa, bổ
sung và phát triển thêm cơ sở lý luận về rủi ro thuế và QLRR trong QLT.
Thứ ba, Chưa có nghiên cứu chuyên sâu kinh nghiệm quốc tế về QLRR
trong QLT và bài học kinh nghiệm để thực hiện tại Việt Nam.
QLRR trong QLT được các quốc gia trên thế giới thực hiện trong một
khoảng thời gian khá dài và đã có quá trình điều chỉnh, hoàn thiện dần với
những kết quả khả quan. Đây là những kinh nghiệm thực tiễn rất quý giá để
Việt Nam nghiên cứu, đánh giá và vận dụng vào thực tiễn QLT tại Việt Nam.
Nội dung này cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ, toàn diện ở các công
trình nghiên cứu trước đây. Một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ các
nghiên cứu trước đây đã không đáp ứng được yêu cầu của thực tế QLT hiện
nay của Việt Nam. Điều đó đã tạo ra một khoảng trống đáng kể khi phân tích,
vận dụng các kinh nghiệm và bài học quốc tế cho Việt Nam trong giai đoạn
tới, đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
luận án của NCS sẽ góp phần thỏa lấp khoảng trống nghiên cứu này.
Thứ tư, Chưa có nghiên cứu toàn diện về thực trạng QLRR trong QLT
32
tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020.
QLRR trong QLT tại Việt Nam đã được triển khai hơn 10 năm. Quá
trình này đang được điều chỉnh, hoàn thiện dần cùng với các đánh giá, tổng
kết theo các giai đoạn cụ thể của ngành Thuế. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
nghiên cứu, phân tích toàn diện thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam
giai đoạn 2014- 2020 trên tất cả các nội dung, như: (i) Xây dựng hành lang
pháp lý; (ii) Xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về NNT; (iii) Xây dựng và
thực hiện phân tích các tiêu chí đánh giá rủi ro; (iii) Thực hiện các biện pháp
QLT cụ thể với các nhóm NNT theo các mức độ rủi ro khác nhau; (iv) Đánh
giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế để làm căn
cứ đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
Luận án này nghiên cứu thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam giai
đoạn 2014-2020. Nội dung nghiên cứu này là những vấn đề mới, khai thác
được khoảng trống kể trên và là cơ sở thực tiễn quan trọng để đưa ra các giải
pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ năm, Chưa có nghiên cứu toàn diện về các giải pháp hoàn thiện
QLRR trong QLT tại Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030.
Trong thời gian tới, Việt Nam tiến hành xây dựng và thực hiện Chiến
lược phát triển hệ thống thuế giai đoạn 2021-2030 với định hướng chính là
dựa trên nền tảng thuế điện tử để đáp ứng yêu cầu QLT trong bối cảnh kinh tế
số. Ngành thuế Việt Nam sẽ được xây dựng theo hướng hiện đại, tập trung,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; công tác QLT, phí và lệ phí thống
nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp QLRR, đồng
thời dựa trên nền tảng thuế điện tử với ba trụ cột cơ bản: (i) thể chế QLT đầy
đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập; (ii) nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm
chính, đổi mới; (iii) CNTT hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu QLT trong bối
cảnh kinh tế số. Đây là những đổi mới cơ bản về QLT so với các giai đoạn
trước đó. Các giải pháp QLT đề xuất cho giai đoạn này cũng phải được xây
dựng theo các định hướng, bối cảnh và điều kiện nói trên. Đây là điều hoàn
33
toàn mới mẻ, chưa có trong các công trình nghiên cứu trước đây và sẽ được
luận án này tập trung nghiên cứu, đề xuất.
Các khoảng trống nghiên cứu kể trên là các cơ sở và định hướng cơ bản
cho nội dung nghiên cứu của Luận án “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại
Việt Nam”.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Việc nghiên cứu tổng quan các công trình đã công bố liên quan đến
QLRR trong QLT là vấn đề hết sức quan trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, đến
nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về QLT và QLRR trong QLT ở trong
nước và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu đã giải quyết được các vấn đề
lý luận cơ bản về QLT và QLRR trong QLT; phân tích, đánh giá được việc
thực hiện nội dung này trong thực tiễn gắn với địa bàn và thời điểm nghiên
cứu; đưa ra các khuyến nghị, giải pháp cho QLRR trong bối cảnh nghiên cứu.
Tuy nhiên, các phân tích đã cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, chuyên sâu, đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn vấn đề
QLRR trong QLT. Xét trong bối cảnh hiện nay, còn có các khoảng trống
nghiên cứu cần được tiếp tục tìm hiểu, làm sáng tỏ thêm, nhất là thực tiễn
thực hiện tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 và các giải pháp trong giai đoạn
tới, đến năm 2025, tầm nhìn 2030 theo định hướng của Chiến lược cải cách hệ
thống thuế ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài luận án không bị trùng lắp với các công
trình nghiên cứu trước đó, luận án có kế thừa những vấn đề lý luận, ưu điểm
các công trình nghiên cứu trước đó, khai thác những vấn đề chưa nghiên cứu,
tìm ra những hướng đi riêng, hướng mới trong việc phân tích, diễn giải để
tăng tính biện chứng nhằm giải quyết các vấn đề nghiên cứu một cách khoa
học, có tính kế thừa, liên kết và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
34
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
2.1. QUẢN LÝ THUẾ VÀ RỦI RO VỀ THUẾ
2.1.1. Khái niệm quản lý thuế
Quản lý, theo nghĩa chung nhất, là sự tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý được hiểu nói đến
hoạt động của con người, bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một
tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên để hoàn thành các mục tiêu của
mình thông qua việc sử dụng các nguồn lực sẵn có như tài chính, nhân lực,
công nghệ và vật lực.
Quá trình quản lý chính là quá trình chủ thể quản lý thực hiện các hoạt
động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát nhằm khai thác, sử dụng các
nguồn lực đầu vào để đạt được các mục tiêu đầu ra với chi phí tối ưu. Trong
đó, một yêu cầu luôn luôn được chú trọng nhằm giúp cho hoạt động quản lý
đạt được mục tiêu đặt ra là tất cả các kế hoạch, chủ trương, quy định… của
chủ thể quản lý được đối tượng quản lý tuân thủ ở mức cao nhất.
Theo giáo trình QLT của Học viện Tài chính thì “QLT là một lĩnh vực
quản lý chuyên ngành thuộc quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành
chính là sự tác động của cơ quan hành chính nhà nước vào con người hoặc tổ
chức các mối quan hệ xã hội để đạt được các mục tiêu của Chính phủ”. Tiếp
cận dưới góc độ thực thi quyền lực Nhà nước thì quản lý hành chính là thực
thi quyền hành pháp của Nhà nước. Tiếp cận dưới góc độ công việc cụ thể thì
quản lý hành chính là điều chỉnh hành vi con người, hành vi xã hội và tổ chức
thi hành pháp luật đã ban hành.[46, tr.8].
Theo nghĩa rộng, QLT là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến việc thực hiện chính sách pháp luật thuế. Khi đó, QLT
35
bao gồm hoạt động hoạch định, xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về
thuế và các hoạt động tổ chức thực hiện chính sách pháp luật thuế thông qua
việc điều hành và tác động đến các chủ thể trong nền kinh tế. Theo nghĩa rộng
này, hoạt động QLT của Nhà nước gồm ba góc độ:
- Vận dụng bản chất, chức năng của thuế để hoạch định chính sách, bao
gồm cả chính sách điều tiết qua thuế và chính sách QLT;
- Xây dựng tổ chức bộ máy ngành thuế và đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu QLT;
- Vận dụng các phương pháp thích hợp tác động đến quá trình thực hiện
nghĩa vụ thuế của NNT phù hợp với quy luật khách quan, bao gồm các hoạt
động tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ, thanh tra thuế, kiểm tra thuế… để đảm
bảo sự tuân thủ tối đa của NNT hướng đến thực thi có hiệu quả nhất chính
sách pháp luật thuế.
Theo nghĩa hẹp, QLT là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế của Nhà
nước, tức là, QLT được hiểu là hoạt động điều hành và tác động đến hành vi
tuân thủ pháp luật thuế của các chủ thể trong xã hội để thực thi chính sách
pháp luật thuế. Khi đó, hoạt động QLT của Nhà nước tập trung chủ yếu ở hai
trong ba góc độ nêu trên, đó là xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân
lực ngành thuế và thực hiện tác động đến quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế
của NNT để đảm bảo chính sách thuế được thực thi và tuân thủ một cách
chính xác, đầy đủ và kịp thời nhất.
Trong phạm vi và nội dung nghiên cứu của mình, đề tài luận án tập trung
nghiên cứu QLT theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các hoạt động của cơ quan QLT
trong triển khai các nội dung quản lý nhằm thực thi có hiệu quả chính sách
pháp luật về thuế.
QLT theo nghĩa hẹp nêu trên có các yếu tố chủ yếu sau:
- Về chủ thể quản lý: Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản
quốc gia để phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia QLT là trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội. Tuy
nhiên, trách nhiệm QLT trước hết là thuộc về Nhà nước. Để đảm bảo thực thi
36
trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm QLT cho Bộ Tài
chính mà trực tiếp là hệ thống cơ quan QLT gồm CQT và cơ quan hải quan
chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ QLT. Như vậy, các chủ thể
tham gia quá trình QLT bao gồm: Cơ quan lập pháp với vai trò xây dựng,
thiết lập hệ thống pháp luật thuế (Quốc hội); cơ quan hành pháp với vai trò
điều hành việc thu thuế (Chính phủ); Hệ thống các cơ quan chuyên môn giúp
việc cho cơ quan hành pháp (Bộ Tài chính, CQT, cơ quan hải quan) thay mặt
Nhà nước, được nhà nước giao trực tiếp tổ chức thực hiện QLT.
- Về đối tượng quản lý: Đối tượng chủ yếu chịu sự QLT của Nhà nước là
NNT được xác định trong các Luật thuế cụ thể do Quốc hội ban hành, bao
gồm tổ chức và cá nhân có phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thể hiện ở các quan hệ
phát sinh trước, trong và sau quá trình triển khai tổ chức thu nộp thuế cho nhà
nước. Mối quan hệ này có thể diễn ra giữa CQT và NNT, giữa NNT với nhau,
giữa các đơn vị trong nội bộ CQT, CQT với các cơ quan nhà nước khác có
liên quan... Bên cạnh đó, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý nguồn thu
NSNN nói chung và QLT nói riêng, đối tượng chịu sự QLT của Nhà nước
còn được mở rộng thêm các đối tượng như tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ
chức, cá nhân làm thủ tục thuế thay NNT và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế. Điều này làm
nên sự đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải có các công cụ và phương pháp quản
lý thích hợp.
- Công cụ của QLT là các quy định pháp luật, chính sách, các kế hoạch
thực hiện và các công cụ bổ trợ khác. Pháp luật là một công cụ QLT có tính
định hướng và điều tiết quan trọng. Nó là cơ sở để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nó tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để
thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về thuế giữa các chủ thể
trong nền kinh tế. Pháp luật thể hiện ở các văn bản có tính pháp lý cao như
Luật quản lý thuế, các luật thuế do, Nghị định và các văn bản pháp luật khác
37
do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính... ban hành. Xây dựng kế hoạch cũng
là công cụ không thể thiếu trong QLT. QLT cần được xây dựng các kế hoạch
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn áp dụng cho từng thời kỳ cụ thể để có đánh giá
so sánh được chất lượng hiệu quả của QLT qua từng giai đoạn, từ đó rút ra
được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ công tác QLT. Những chính sách
kinh tế chủ yếu có tác động tới QLT phải kể đến là chính sách kinh tế đối
ngoại, chính sách về cơ cấu kinh tế, chính sách thuế. Chính sách kinh tế đối
ngoại thay đổi theo hướng mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới vừa giúp
ta học được những cách thức quản lý mới hiệu quả hơn, nhưng đồng thời
cũng phát sinh những thách thức phải đối mặt như: giá chuyển nhượng, giao
dịch liên kết… Chính sách về cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển dịch giữa
ngành này và ngành khác làm cơ cấu nguồn thu từ thuế cũng thay đổi. Chính
sách thuế cũng cần thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển ngày càng đa
dạng và phong phú của nền kinh tế.
- Mục tiêu chủ yếu của QLT bao gồm: Tăng cường sự tuân thủ pháp luật
thuế của NNT một cách đầy đủ, kịp thời và tự nguyện theo các quy định của
pháp luật thuế; Huy động chính xác, đầy đủ và kịp thời số thu từ thuế cho
NSNN; Phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong việc điều tiết kinh tế
vĩ mô, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập, điều hoà các hoạt động
SXKD; Đảo đảm sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa những NNT.
2.1.2. Rủi ro về thuế
2.1.2.1 Khái niệm, phân loại rủi ro
Khái niệm Rủi ro
“Rủi ro” (risk) là một thuật ngữ được sử dụng từ thời cổ đại, nó có nguồn
gốc từ hoạt động giao thương hàng hải của các thương nhân người Ý. Rủi ro
ban đầu được quan niệm ở giác độ hẹp là sự kết hợp của khái niệm bất trắc
hoặc không chắc chắn ở trên biển và khả năng thiệt hại trong vận tải (tầu, con
người, hàng hoá…) ở trên biển. Theo thời gian, các học giả và các nhà nghiên
38
cứu đã tập trung đi sâu phân tích tìm ra quy luật của những nguy cơ, bất trắc
và thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực vận chuyển hàng hải và vận dụng những kết
quả nghiên cứu này vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Sau này, việc nghiên
cứu về rủi ro còn được phát triển mở rộng sang các lĩnh vực khác, như ngân
hàng, kinh doanh, quản lý…
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn,
sự tổn thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không
tốt, bất ngờ xảy đến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy
ra trong quá trình hoạt động của tổ chức, quá trình kinh doanh, sản xuất của
doanh nghiệp, tác động xấu việc đạt đến mục tiêu của tổ chức hay đến sự tồn
tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Theo Từ điển tiếng Việt, rủi ro là “Điều không lành, không tốt bất ngờ xảy ra”1. Nói chung quan niệm truyền thống cũng đi theo cách hiểu này. Theo
đó, rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai, nó có thể phát sinh
từ một số hoạt động ở hiện tại và thường được chứa đựng bên trong hoặc đi
cùng với một sự kiện không mong muốn xảy ra.
Theo Từ điển tiếng Anh của NXB Oxford thì rủi ro là “Chance of injury or loss or bad consequence”2. Nghĩa là “Khả năng xảy ra sự tổn thương,
những mất mát hoặc hậu quả xấu”. Như vậy, cả khả năng rủi ro trong tiếng
Việt và tiếng Anh nói trên đều đề cập đến rủi ro như là những khả năng xảy ra
những điều không tốt, đem đến những hậu quả xấu.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro (risk) là sự bất trắc có thể đo lường
được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Chuẩn mực quốc tế
ISO/IEC Guide 73 hướng dẫn về QLRR chỉ rõ “Rủi ro là sự kết hợp của một
sự kiện có thể xảy ra mà hệ quả của nó mang lại lợi ích hoặc gây ra tổn
thất”. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát nhưng cũng có thể
mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người
1 Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1998 2 Goerge Osler: The Little Oxford Dictionary, Clarendon Press
39
ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực,
đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
Rủi ro phụ thuộc vào ngữ cảnh, nếu con người không có khái niệm hoặc
không liên quan đến thì họ không có rủi ro. Rủi ro bao gồm 3 yếu tố: xác suất
xảy ra (Probability), khả năng ảnh hưởng đến đối tượng (Impacts on
objectives) và thời lượng ảnh hưởng (Duration). Bản chất rủi ro là sự không
chắc chắn (uncertainty), nếu chắc chắn (xác suất bằng 0% hoặc 100%) thì
không gọi là rủi ro.
Từ các khái niệm trên, có thể cho thấy rủi ro là một sự kiện bình thường
không thể tránh được trong cuộc sống hàng ngày. Rủi ro là một sự kiện có thể
xảy ra làm ảnh hưởng tiêu cực (hoặc tích cực) đến mục tiêu hoạt động của tổ
chức, cá nhân. Việc hiểu biết về rủi ro và kiểm soát rủi ro là một phần quan
trọng trong đời sống nhằm tránh tổn thất, đạt được lợi ích tối ưu.
Phân loại rủi ro
Có nhiều cách phân loại rủi ro khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu. Ta có thể thấy một số cách phân loại rủi ro điển hình như:
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Rủi ro được phân loại thành:
Rủi ro nghiêm trọng là rủi ro có thì hậu quả vô cùng lớn; Rủi ro lớn là
rủi ro có thể gây ra hậu quả lớn; Rủi ro trung bình là rủi ro có thể gây ra hậu
quả vừa phải; Rủi ro nhỏ là rủi ro có hậu quả nhỏ.
- Căn cứ vào nguyên nhân rủi ro: Rủi ro được phân loại thành:
+ Rủi ro tiềm tàng (IR): là rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra trong một môi
trường nhất định. Rủi ro tiềm tàng luôn gắn với một đối tượng cụ thể như tình
hình chính trị của một quốc gia không ổn định, lĩnh vực hoạt động của đối
tượng là thương mại, sản xuất hay dịch vụ…
+ Rủi ro kiểm soát (CR): là rủi ro về khả năng kiểm soát tại chỗ không
chặt chẽ nên không ngăn ngừa được những sai sót trọng yếu có thể xảy ra. Hệ
thống kiểm soát nội bộ tốt sẽ làm giảm rủi ro kiểm soát. Giống như với rủi ro
tiềm tàng, rủi ro kiểm soát có thể được xác định về tổng thể cũng như ở cơ sở
40
dẫn liệu thông tin trên báo cáo tài chính.
+ Rủi ro phát hiện (DR): rủi ro phát hiện xuất phát từ chất lượng của
hoạt động thanh tra, tức là xuất phát từ các quy định của pháp luật, chất lượng
của quy trình và trình độ cán bộ thanh tra. Để kiểm soát rủi ro phát hiện, cán bộ
thanh tra cần đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát. Từ đó, lựa chọn phương
pháp thanh tra và lên kế hoạch kiểm tra chi tiết để loại trừ hoặc bù đắp các rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát càng nhiều càng tốt, nhờ đó, giảm rủi ro phát hiện.
+ Rủi ro thanh tra (AR): là rủi ro mà các báo cáo tài chính gian lận được
chấp nhận như những báo cáo tài chính trung thực. Rủi ro thanh tra tổng thể
chịu sự tác động của 3 cấu phần là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện. Mối quan hệ tổng quát giữa chúng thể hiện qua công thức sau:
AR = IR x CR x DR
Từ công thức trên cho thấy, vì cán bộ thanh tra không thể kiểm soát
được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nên trong trường hợp cả rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì cách duy nhất để giảm rủi ro thanh tra là
làm giảm rủi ro phát hiện. Muốn vậy, phải điều chỉnh nội dung và phạm vi
của các thủ tục thanh tra.
- Căn cứ vào hậu quả của rủi ro: rủi ro có thể phân loại thành:
+ Rủi ro thuần túy (Pure risks): được sử dụng để diễn tả các loại bất trắc,
chứa ẩn nguy cơ tổn thất về kinh tế nếu sự bất trắc đó xảy ra. Rủi ro thuần túy
chứa ẩn trong nó nguy cơ tổn thất, mất mát hoặc là không mất gì cả. Những
thiệt hại tài sản do thiên tai, hỏa hoạn gây nên là một ví dụ.
+ Rủi ro suy tính (Speculative risks): tồn tại trong đó cả cơ hội kiếm lời
và nguy cơ tổn thất. Nó hứa hẹn cho người đầu tư một cơ hội kinh doanh sinh
lời hoặc bị thua lỗ, như sự thay đổi giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
là cơ hội kiếm lời, nhưng cũng có thể gây thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư.
Rủi ro thuần túy thường khiến người ta tìm cách né tránh còn rủi ro suy
tính hấp dẫn nhà đầu tư bởi tính suy đoán khả năng xảy ra và kỳ vọng vào kết
quả của nó.
41
Việc phân loại như trên có ý nghĩa rất quan trọng vì với mỗi loại rủi ro
khác nhau sẽ có cách phòng chống, xử lý khác nhau. Rủi ro thuần túy có thể
phòng ngừa bằng các kỹ thuật bảo hiểm, trong khi rủi ro suy tính không thể
dùng phương pháp đó mà phải sử dụng kỹ thuật chuyển giao rủi ro…
Ngoài ra, rủi ro có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác tùy theo
các mục tiêu quản lý khác nhau.
2.1.2.2. Rủi ro về thuế và các hình thức rủi ro trong quản lý thuế
a. Khái niệm rủi ro về thuế
Thuế là khoản thu có tính chất bắt buộc của Nhà nước đối với các tổ
chức, cá nhân theo mức độ và thời hạn do pháp luật quy định nhằm sử dụng
cho mục đích công cộng.
Thuế là nguồn thu cơ bản của NSNN, là công cụ quan trọng để Nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Để thuế và
chính sách thuế phát huy tối đa các vai trò của mình trong một quốc gia, các
hoạt động liên quan cần phải được thực hiện bao gồm quá trình hoạch định,
xây dựng chính sách thuế và pháp luật về thuế; thực hiện các hoạt động QLT
(xác định cơ chế QLT; xây dựng tổ chức bộ máy QLT, quy trình QLT; thực
hiện các chức năng QLT); thực hiện các hoạt động tuân thủ thuế của các chủ
thể nộp thuế (đăng ký thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế, tuân thủ các quyết
định hành chính thuế, hóa đơn, chứng từ trong SXKD để xác định nghĩa vụ
thuế...). Trong quá trình đó, việc xuất hiện các sự kiện có tác động xấu đến việc
phát huy vai trň của chính sách thuế, đến hiệu quả QLT, gây ra những thiệt hại
nhất định cho CQT, cho NNT chính là những rủi ro về thuế đã phát sinh.
Xét một cách chung nhất, rủi ro về thuế được hiểu là: tất cả những điều
bất lợi xảy ra đối với quá trình ban hành và thực thi chính sách pháp luật về
thuế của một quốc gia. Rủi ro về thuế có ở tất cả các hoạt động: rủi ro trong
việc xây dựng chính sách, pháp luật thuế; rủi ro trong công tác QLT của CQT;
rủi ro trong quá trình chấp hành nghĩa vụ thuế của NNT.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu về: rủi ro
42
trong công tác QLT của CQT và rủi ro trong quá trình tuân thủ thuế của NNT.
(Luận án không nghiên cứu về rủi ro trong việc xây dựng chính sách, pháp
luật về thuế).
- Trong công tác QLT của CQT, rủi ro thuế có thể xảy ra khi CQT thực
hiện các biện pháp QLT chưa hiệu quả dẫn đến không xác định đúng trọng
tâm trọng điểm các khu vực, ngành, đơn vị có nhiều khả năng tuân thủ thấp
để tập trung quản lý, điều này gây nên sự lãng phí khi sử dụng nguồn lực
QLT, không kiểm soát được gian lận, không nâng cao được tính tuân thủ của
NNT; các quy trình QLT không chặt chẽ, làm giảm hiệu quả thực thi nhiệm
vụ; trình độ, năng lực, đạo đức công vụ của công chức thuế chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cũng gây ra những tiêu cực trong quá trình QLT.
- Trong quá trình tuân thủ thuế của NNT: rủi ro thuế trong quá trình tuân
thủ thuế của NNT được hiểu một cách chung nhất là những bất lợi có thể xảy
ra đối với NNT trong quá trình NNT tuân thủ các quy định của pháp luật thuế.
Các rủi ro này có thể là các rủi ro thụ động, khi NNT không am hiểu, không
nắm bắt đầy đủ các quy định của pháp luật thuế dẫn đến họ không tuân thủ đầy
đủ các quy định này và bị CQT phát hiện, xử lý theo quy định. Các rủi ro này
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cũng như nghĩa vụ pháp lý của NNT, đồng
thời cũng gây tác động xấu đến hiệu quả QLT. Bên cạnh đó, trong quá trình
tuân thủ pháp luật thuế, từ phía NNT có thể phát sinh các rủi ro chủ động. Lúc
này, NNT đã ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong thực hiện các
quy định của pháp luật thuế, nhưng họ cố tình không tuân thủ, không thực hiện
đầy đủ các quy định đó với mục đích làm giảm nghĩa vụ thuế của mình. Khi
đó, NNT không thực hiện việc khai thuế một cách đầy đủ, kịp thời; không tuân
thủ các quy định về sử dụng hóa đơn, chứng từ; thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
chưa đầy đủ, kịp thời… Nếu các hành vi này không bị phát hiện và xử lý, NNT
sẽ được hưởng những khoản lợi ích bất hợp pháp từ việc cố tình không tuân thủ
của mình và sẽ gây ra các tổn hại đến hiệu quả QLT của CQT, đến nguồn thu
ngân sách, tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật thuế.
Như vậy, với các chủ thể khác nhau, rủi ro về thuế được nhìn nhận dưới
43
các góc độ khác nhau. Các rủi ro trong công tác QLT của CQT và rủi ro trong
quá trình tuân thủ của NNT có thể làm giảm hiệu quả của hoạt động QLT và
tính nghiêm minh của pháp luật thuế; không thực hiện được các mục tiêu về
huy động số thu cho NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội và thực hiện
công bằng xã hội.
Trên giác độ nghiên cứu về hoạt động QLT của CQT, mục tiêu chính
yếu của hoạt động này là nâng cao hiệu quả công tác QLT, nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật thuế một cách tự nguyện của NNT. Do đó, các rủi ro trong
QLT của CQT tập trung vào những bất lợi dẫn đến giảm sút hiệu quả của
công tác QLT và các hiện tượng không tuân thủ đầy đủ chính sách pháp luật
thuế của NNT. Vấn đề đặt ra là CQT cần nắm bắt, xác định được các rủi ro có
thể xảy ra và có biện pháp quản lý phù hợp để xử lý các rủi ro này theo hướng
nâng cao hiệu quả QLT.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, rủi ro trong QLT sẽ được
xem xét trên 2 góc độ: rủi ro phát sinh trong quá trình thực thi các hoạt động
QLT của CQT và rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ pháp luật thuế của
NNT. Cách tiếp cận này có những điểm mở rộng hơn so với các nghiên cứu
trước đây cũng như các quy định về QLRR trong QLT hiện hành ở Việt Nam.
Cụ thể, trong các nghiên cứu trước đây, rủi ro trong QLT thường tập
trung ở khía cạnh rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ thuế của NNT.
Luận án Tiến sĩ của Trần Huy Trường có đưa ra khái niệm rủi ro về thuế như
sau: “Rủi ro về thuế được hiểu một cách chung nhất là những sự kiện hoặc
hành vi không tuân thủ cơ chế, chính sách và pháp luật về thuế xảy ra trong
thực tế (trong môi trường, hoàn cảnh nhất định nào đó) như không kê khai
thuế, không nộp thuế, mua bán hóa đơn chứng từ hoặc cán bộ thuế không làm
đúng quy định… làm ảnh hưởng đến hiệu quả QLT và số thu vào NSNN”.
Tương tự, Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ tài
chính quy định về QLRR trong QLT “Rủi ro về thuế là nguy cơ không tuân
thủ chính sách pháp luật thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác thuộc NSNN
44
của NNT dẫn đến thất thu NSNN trong quản lý thu thuế”. Tại Thông tư số
31/2021/TT-BTC ngày 17/5/2021 quy định về QLRR trong QLT (thay thế
Thông tư 204/2012/TT-BTC) nói trên, khái niệm rủi ro về thuế không được
nêu ra, nhưng các nội dung trong thông tư đều tập trung vào rủi ro NNT trên
cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
b. Các hình thức rủi ro trong QLT
Để thực hiện tốt việc QLRR trong QLT thì cần phải có được nhận diện,
phân loại các nhóm rủi ro khác nhau từ đó đưa ra được cách tiếp cận, phân
tích và biện pháp thực hiện phù hợp. Như đã xác định ở trên, các rủi ro trong
QLT xét ở góc độ quản lý của cơ quan thuế bao gồm các rủi ro từ phía QLT
của CQT và các rủi ro từ phía NNT trong quá trình tuân thủ pháp luật thuế.
(1) Rủi ro trong hoạt động QLT của CQT:
Hoạt động QLT của CQT bao gồm nhiều nội dung, nhiều khâu thực
hiện. Rủi ro có thể phát sinh ở tất cả các nội dung và khâu thực hiện đó, trong
đó có các rủi ro chủ yếu sau:
- Rủi ro trong xác lập cơ chế QLT: Cơ chế QLT hay cơ chế hành thu là
cách thức mà chủ thể quản lý lựa chọn để tác động đến hành vi tính thuế, nộp
thuế của NNT. Từ trước đến nay, có hai cơ chế hành thu chủ yếu là cơ chế
thông báo thuế và cơ chế tự tính thuế, trong đó cơ chế tự tính thuế là cơ chế
phổ biến hiện nay.
Tự tính thuế là cơ chế mà NNT tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp
của mình theo luật định và chủ động nộp thuế cho Nhà nước theo số thuế mà
mình đã tính toán và theo thời hạn quy định của pháp luật thuế. Cơ chế tự tính
thuế chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu nó được áp dụng trong những điều
kiện nhất định. Cụ thể: hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân
có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu các quy định của luật thuế; trình độ dân trí
cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân tốt; công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả tích cực; các cơ quan hành pháp phải
có năng lực quản lý cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản
45
lý NNT; hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế cao; chế tài pháp luật
đủ nghiêm để răn đe và trừng trị các hành vi vi phạm luật thuế và các quy
định về kê khai, nộp thuế… Nếu các yếu tố trên không đảm bảo sẽ dẫn đến
các rủi ro, ảnh hưởng đến hiệu quả QLT.
- Rủi ro trong tổ chức bộ máy QLT: Bộ máy thu thuế là tổng thể các cơ
quan hành chính có quan hệ hữu cơ với nhau trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
và quan hệ công tác được quy định để tổ chức thực thi các luật thuế. Nhìn
chung, bộ máy thu thuế cần đạt được ba yêu cầu cơ bản là: phải phù hợp với
tổ chức bộ máy nhà nước; phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử; phải đảm bảo tính hiệu quả (cơ cấu
tổ chức hợp lý, không chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ; sử dụng ít nhân
lực mà vẫn hoàn thành khối lượng công việc lớn với chất lượng quản lý cao;
khai thác tốt mọi nguồn thu, hoàn thành dự toán thu với chi phí hành thu tiết
kiệm nhất…). Nếu các yêu cầu trên không được đảm bảo, rủi ro sẽ xảy ra và
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy QLT nói riêng và của hoạt
động QLT nói chung.
- Rủi ro trong xây dựng quy trình QLT: Quy trình quản lý thu thuế là
trình tự thực hiện các bước công việc trong quản lý thu thuế và trách nhiệm
thực hiện các bước công việc đó của các bộ phận trong cơ quan thuế. Quy
trình QLT phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản là: phải được quy định rõ ràng
trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các văn bản của cơ quan QLT, và
được công khai đến mọi chủ thể có liên quan; phải có sự phân công, phân
nhiệm rõ ràng cho các bộ phận trong cơ quan thuế trong việc thực hiện các
công việc của quy trình QLT; các phần việc trong một quy trình quản lý và
giữa các quy trình QLT phải được sắp xếp khoa học, liên hoàn, thống nhất
theo thứ tự yêu cầu quản lý và thuận lợi cho NNT. Nếu các yêu cầu này
không được đảm bảo một cách đầy đủ, các rủi ro sẽ xuất hiện trong quá trình
quản lý, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động QLT.
- Rủi ro trong thực hiện các chức năng QLT:
46
+ Rủi ro trong tuyên truyền, hỗ trợ NNT: tuyên truyền, hỗ trợ NNT là
các hoạt động của CQT hướng đến NNT nhằm nâng cao nhận thức pháp luật
về thuế, làm tăng tính tuân thủ tự nguyện của NNT trong việc thực hiện pháp
luật thuế; làm giảm gánh nặng chi phí cho việc thực hiện các luật thuế của
NNT và tăng sự tin tưởng của NNT vào hệ thống thuế và do đó, làm tăng sự
tin tưởng vào chính phủ. Rủi ro về thuế phát sinh trong quá trình tuyên truyền,
hỗ trợ NNT khi nội dung tuyên truyền, hỗ trợ NNT chưa thật sự chuẩn xác;
hình thức tuyên truyền, hỗ trợ còn nghèo nàn; đối tượng tuyên truyền, hỗ trợ
chưa phù hợp… sẽ dẫn đến hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ kém hiệu quả, ảnh
hưởng đến hiệu quả QLT nói chung.
+ Rủi ro trong quản lý thông tin NNT: Rủi ro xảy ra khi CQT không xác
định được các đối tượng không đăng ký thuế theo quy định của pháp luật
thuế; hệ thống quản lý thông tin NNT của CQT không kịp thời, cập nhật.
Những rủi ro này sẽ dẫn đến các hệ quả như bỏ sót việc quản lý NNT; không
nắm bắt đầy đủ, kịp thời các thông tin, dữ liệu về NNT phục vụ cho QLT…
điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả QLT do thông tin đối tượng quản lý
không chính xác, kịp thời và đầy đủ.
+ Rủi ro trong quản lý kê khai thuế: Quản lý kê khai thuế là hoạt động
của CQT ghi nhận, phản ánh, theo dõi tình hình nộp hồ sơ khai thuế của NNT
và phân tích, đánh giá tính chính xác, trung thực, đúng pháp luật của hồ sơ
khai thuế. Để thực hiện QLT, đòi hỏi CQT phải quản lý được tình trạng kê
khai thuế của NNT. Để đảm bảo số thuế kê khai là đúng, chính xác và phù
hợp với hệ thống chính sách thuế cũng như pháp luật có liên quan thì nội
dung công tác kê khai thuế bao gồm những vấn đề chủ yếu gồm: quản lý
người khai thuế; quản lý hồ sơ khai thuế (số lượng các tờ khai, mẫu biểu và
tài liệu trong hồ sơ do NNT nộp cho CQT và quản lý cả chất lượng của việc
kê khai các nội dung trong tờ khai, tài liệu... có liên quan); quản lý thời hạn kê
khai thuế.
Các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện quản lý khai thuế khi
47
CQT xử lý hồ sơ khai thuế của NNT không chính xác, kịp thời; không có các
biện pháp cần thiết để đảm bảo NNT nộp hồ sơ khai thuế đúng theo quy
định… Những rủi ro này sẽ dẫn đến hệ quả là việc xác định nghĩa vụ thuế của
NNT không thật sự chính xác, xử lý sai phạm của NNT không kịp thời, gây
thất thu và bất công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT.
+ Rủi ro trong đôn đốc nộp thuế và xử lý nợ thuế: Một yêu cầu cơ bản
được đặt ra trong QLT là số thuế được NNT nộp đầy đủ, đúng hạn theo quy
định vào NSNN. Trong nhiều trường hợp, vì những nguyên nhân khác nhau,
NNT không nộp đầy đủ, đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN sẽ dẫn đến
tình trạng nợ đọng thuế, gây thất thu ngân sách và bất công bằng trong thực
hiện nghĩa vụ thuế của NNT.
Các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng đôn đốc
thu nộp và xử lý nợ đọng là: CQT không nắm bắt được tình trạng nộp thuế
của NNT; số thuế nộp vào NSNN không đầy đủ, kịp thời; số tiền nợ thuế và
số NNT còn nợ thuế ngày càng tăng; các biện pháp quản lý nợ thuế và cưỡng
chế nợ thuế mà CQT áp dụng không có hiệu quả. Những rủi ro này sẽ ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả QLT khi mà số thu NSNN không kịp thời, đầy đủ;
pháp luật thuế không được tuân thủ…
+ Rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế: Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm
giám sát hoạt động QLT và tuân thủ thuế; phát hiện, ngăn ngừa, xử lý kịp thời
các hành vi không tuân thủ; đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm
túc, đầy đủ; nâng cao ý thức tuân thủ của NNT. Hoạt động này có phạm vi
rộng, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
năng lực cũng như đạo đức công vụ của cán bộ thuế. Các rủi ro có thể xảy ra
trong kiểm tra, thanh tra thuế như: Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không
thật sự đúng đối tượng cần kiểm tra, thanh tra do tiêu chí lựa chọn chưa phù
hợp; quy trình thanh tra chưa hoàn thiện; bỏ sót đối tượng cần thanh tra, kiểm
tra; nguồn lực sử dụng cho thanh tra, kiểm tra lãng phí, kém hiệu quả; không
ngăn ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời, đầy đủ các hành vi không tuân thủ; ý
48
thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT không được nâng lên…
Các rủi ro về thuế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan từ phía CQT và
hoạt động QLT của CQT sẽ được loại bỏ nếu CQT khắc phục các nhược điểm
trong quá trình QLT, bằng việc nâng cao chất lượng, năng lực công tác, đạo
đức công vụ của đội ngũ công chức; hoàn thiện quy trình QLT; thực hiện tốt
các chức năng QLT…
(2) Rủi ro trong hoạt động tuân thủ pháp luật thuế của NNT:
Hoạt động tuân thủ thuế của NNT bao gồm các nội dung chính như đăng
ký thuế, khai thuế, nộp thuế, sử dụng hóa đơn, chứng từ và tuân thủ các quyết
định hành chính thuế. Các rủi ro trong QLT xuất phát từ phía NNT cũng
thường phát sinh ở các nội dung tuân thủ này. Cụ thể có các rủi ro chính sau:
- Rủi ro đăng ký thuế: Đăng ký thuế là nội dung đầu tiên mà NNT cần
thực hiện khi kê khai theo các biểu mẫu quy định và nộp tờ khai thông tin cho
CQT QLT nhằm bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo các
quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động này, CQT sẽ có những thông tin
ban đầu định danh cho NNT: tên, địa chỉ, chủ sở hữu, email, số điện thoại...
và từ đó đưa ra cách quản lý phù hợp.
Hiện nay, việc thực hiện đăng ký thuế được kết hợp ngay từ khi làm thủ
tục đăng ký kinh doanh tại sở kế hoạch đầu tư (đối với doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế) và có thể thực hiện đăng ký trực tiếp với CQT trên địa bàn. Đối tượng
đăng ký thuế sẽ được cấp một mã số thuế riêng và NNT dùng mã số thuế này để
thực hiện tất các các hoạt động liên quan đến QLT như: kê khai, nộp thuế, hoàn
thuế... NNT sử dụng mã số thuế trên các giấy tờ giao dịch liên quan đến hoạt động
SXKD như: hóa đơn, chứng từ khi mua bán hàng hóa dịch vụ, giao dịch với ngân
hàng. Những thông tin CQT có được qua việc đăng ký thuế của NNT là cơ sở
dữ liệu quan trọng giúp CQT thực hiện tất cả các nội dung QLT, từ khâu quản
lý NNT, tuyên truyền, hỗ trợ, quản lý khai thuế, đôn đốc nộp thuế, thanh tra,
kiểm tra… Vì vậy, nếu NNT không tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp
luật thuế về đăng ký thuế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác
49
QLT. Đây chính là các rủi ro xuất phát từ việc đăng ký thuế của NNT.
Các rủi ro phát sinh trong đăng ký thuế của NNT bao gồm:
+ NNT đã đăng ký thuế nhưng thuộc diện không đủ điều kiện để đăng
ký: nhóm đối tượng này là NNT gian lận thuế, NNT đã hết quyền đăng ký
nhưng do lỗi sai sót dẫn đến việc vẫn được đăng ký.
+ NNT thuộc diện phải đăng ký thuế nhưng lại không thực hiện đăng ký
thuế: là các chủ thể tham gia vào nền kinh tế không chính thức/sử dụng tiền
mặt và tìm mọi biện pháp để tránh thuế, từ đó dẫn đến không thực hiện đăng
ký thuế theo quy định.
+ Thông tin NNT đăng ký trên hệ thống không chính xác: Thông tin
đăng ký thuế ban đầu của NNT không phản ánh đúng thực tế hoạt động
SXKD của họ về các nội dung như: ngành nghề, quy mô, vốn, lao động, địa
chỉ… sẽ làm cho thông tin cập nhật trên dữ liệu của CQT không chính xác.
Điều này dẫn đến việc CQT không xác định đúng NNT cần quản lý, các nội
dung cần tập trung quản lý…từ đó gây lãng phí, kém hiệu quả trong QLT.
Ngoài ra, trong trường hợp NNT trên thực tế đã thay đổi thông tin nhưng
không khai báo, làm thông tin dữ liệu lưu trữ trên hệ thống không còn đúng là
một rủi ro tiềm tàng có thể gây thất thu thuế.
- Rủi ro trong khai thuế: Khai thuế là việc NNT thực hiện kê khai các
thông tin, chỉ tiêu theo biểu mẫu quy định để xác định nghĩa vụ thuế thực tế
phát sinh trong kỳ tính thuế trên cơ sở hoạt động SXKD của mình. NNT được
quyền thực hiện tự khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm về những nội dung đã
khai báo. Trong trường hợp CQT xác định NNT không trung thực thì sẽ thực
hiện biện pháp ấn định thuế theo quy định của pháp luật thuế. Hồ sơ khai thuế
và thông tin trên hồ sơ khai thuế là các căn cứ quan trọng nhất để xác định
nghĩa vụ thuế của NNT và cũng là một tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ
tuân thủ thuế của NNT hay mức độ rủi ro từ NNT qua việc khai thuế của họ.
Nếu NNT không tuân thủ đầy đủ việc khai thuế thì nghĩa vụ thuế của họ sẽ
không được xác định một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời; từ đó sẽ gây ra tác
50
động tiêu cực đến hiệu quả công tác QLT và tính công bằng trong thực hiện
nghĩa vụ thuế. Các rủi ro trong kê khai thuế xuất phát từ hành vi không tuân
thủ của NNT như: NNT không thực hiện kê khai thuế; không nộp hồ sơ khai
thuế theo quy định; chậm nộp hồ sơ khai thuế; chậm bổ sung hồ sơ, chứng từ
thuế theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của CQT; kê khai nhầm,
kê khai không chính xác nghĩa vụ thuế thông thường làm giảm số thuế phải
nộp và tăng số thuế được hoàn…
- Rủi ro trong nộp thuế: Trên cơ sở số thuế phải nộp đã được xác định
thông qua việc khai thuế của NNT hoặc qua quyết định về ấn định thuế, quyết
định về truy thu, xử lý về thuế qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của CQT
hoặc các cơ quan có thẩm quyền theo quy định, NNT phải thực hiện việc nộp
số tiền thuế vào NSNN theo đúng thời hạn của từng sắc thuế. Tiền thuế được
nộp vào NSNN thông qua kho bạc nhà nước, qua tổ chức trung gian được
CQT ủy nhiệm thu thuế, thông qua các NHTM, tổ chức tín dụng khác và các
tổ chức dịch vụ theo quy định.
Các rủi ro từ góc độ tuân thủ của NNT trong việc nộp thuế gây ảnh
hưởng đến hiệu quả QLT bao gồm: Không nộp thuế khi đã đến thời hạn nộp
theo quy định; Nộp thiếu, số phải nộp không chính xác so với số đã kê khai
trên hồ sơ… Điều này sẽ làm cho số thuế nộp vào NSNN không đầy đủ, kịp
thời, ảnh hưởng đến mục tiêu đảm bảo nguồn thu và gây bất công bằng giữa
các NNT về thực hiện nghĩa vụ thuế.
2.2. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
2.2.1. Khái niệm, nguyên tắc của quản lý rủi ro trong quản lý thuế
2.2.1.1 Khái niệm quản lý rủi ro và quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Năm 1996, Peter L.Bernstein - học giả người Mỹ chuyên gia đầu ngành
về QLRR đã có một câu nói nổi tiếng:“Ý tưởng cách mạng vạch ra ranh giới
giữa thời hiện đại và quá khứ đã qua là ý tưởng cho rằng rủi ro là sự kiện có
thể quản lý được”. Từ việc phòng chống, giải quyết hậu quả rủi ro gây ra, con
người đã bắt đầu nghiên cứu, thực hiện QLRR để tối thiểu hoá các tác động
51
xấu mà rủi ro có thể gây ra cho con người hoặc tác động đến các hoạt động
của đời sống kinh tế xã hội và môi trường sống; đồng thời tối đa hoá các lợi
ích mà rủi ro có thể đem lại.
QLRR là một quá trình nhận diện, đánh giá, phân tích để có phương án
giải quyết một cách có hệ thống nhằm tối đa hóa khả năng xảy ra khi có hệ
quả tích cực và tối thiểu hóa khả năng xảy ra khi có hệ quả tiêu cực. QLRR là
quá trình lựa chọn và thực hiện các giải pháp trong bối cảnh nguồn lực có hạn
để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến sự thành công của một tổ chức.
Qua các nội dung trên, có thể hiểu, QLRR là quá trình tiếp cận rủi ro
một cách toàn diện, khoa học và có hệ thống nhằm nhận diện, kiểm soát,
phòng ngừa và giảm thiếu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi
của rủi ro.
QLRR có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, QLRR là một quá trình có tính chu kỳ liên tục không ngừng
phát triển từ xác định rủi ro đến xử lý rủi ro. Theo đó, quá trình QLRR cần
được xử lý một cách có hệ thống.
Thứ hai, Đa số những rủi ro mang lại kết quả bất lợi, vì vậy QLRR chủ
yếu tập trung vào việc phòng chống và giảm nhẹ tác hại mà rủi ro có thể gây
ra. Thông qua việc nhận dạng rủi ro có thể giúp nhà quản lý phát hiện sớm
được rủi ro có thể xảy ra để có phương hướng phòng tránh rủi ro, hoặc bằng
các cách thức xử lý rủi ro khác nhau để làm giảm tác hại của rủi ro.
Thứ ba, QLRR được thống nhất từ chủ trương chính sách chung cho đến
các nội dung thực hiện cụ thể. Do đó, quá trình thực hiện cần phân định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân. Điểu này hỗ trợ cho việc nâng
cao tinh thần trách nhiệm, xác định kết quả công việc và thành tích do đó thúc
đẩy hiệu quả hoạt động ở tất cả các cấp độ.
QLRR là môn khoa học không chính xác nên ở các lĩnh vực khác nhau có
các nội dung QLRR khác nhau. QLRR được khái quát hoá theo từng bối cảnh
ngành nghề riêng như hoạt động kinh doanh, bảo hiểm, QLNN, QLT…
52
Theo quan điểm nghiên cứu của tổ chức OECD, QLRR trong QLT được
hiểu theo các nội dung sau đây:
Thứ nhất, QLRR trong QLT là một quá trình nhận diện, đánh giá, phân
tích để có phương án giải quyết một cách có hệ thống nhằm tối đa hóa khả
năng xảy ra khi có hệ quả tích cực và tối thiểu hóa khả năng xảy ra khi có hệ
quả tiêu cực.
Thứ hai, QLRR trong QLT là quá trình lựa chọn và thực hiện các giải
pháp trong bối cảnh nguồn lực có hạn để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến
sự thành công của CQT.
Thứ ba, QLRR trong QLT là một quá trình đo lường hay đánh giá về quy
mô hoặc tính chất nghiêm trọng của một sự việc, một hiện tượng, một vấn đề,
trên cơ sở đó lập chiến lược QLRR về thuế phù hợp.
Từ cách hiểu trên về rủi ro và QLRR cho thấy, bản chất của QLRR trong
QLT thuế là quá trình nhận diện, kiểm soát, phòng ngừa các rủi ro có thể xảy
ra trong hoạt động QLT nhằm giảm thiếu các tổn thất, mất mát, những ảnh
hưởng bất lợi của rủi ro đó.
Các rủi ro cần xác định, phân loại, đánh giá để tập trung nguồn lực quản
lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất được hiểu bao gồm: các rủi ro phát sinh
từ hoạt động quản lý của CQT và các rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ
pháp luật thuế của NNT.
Từ góc độ hoạt động quản lý của CQT, QLRR là quá trình nhận diện,
kiểm soát các rủi ro có thể xảy ra khi CQT thực hiện các nội dung QLT để
ngăn ngừa, kiểm soát hoặc giảm thiếu các tác động xấu của các rủi ro này.
Từ góc độ tuân thủ của NNT, QLRR trong QLT là việc phân loại, đánh
giá NNT dựa trên hệ thống những tiêu thức rủi ro về thuế nhằm xác định
những NNT có mức độ tuân thủ thấp và khả năng gian lận cao về thuế để tập
trung nguồn lực quản lý theo nguyên tắc ưu tiên nguồn lực để quản lý chặt
chẽ hơn những NNT có thể mang lại tổn thất lớn nhất và những sai phạm có
nhiều khả năng xảy ra nhất.
53
Như vậy, QLRR trong QLT là dành ưu tiên mọi nguồn lực vào quản lý
những rủi ro về thuế có thể gây ra những tổn thất lớn nhất và những rủi ro có
nhiều khả năng xảy ra nhất, tiếp đến là quản lý những rủi ro có tổn thất thấp
hơn và ít có khả năng xảy ra hơn.
Điều này cũng thể hiện tại Luật QLT số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.
Cụ thể, tại điểm 15, điều 3 Luật này có quy định: “QLRR trong QLT là việc
áp dụng có hệ thống các quy định pháp luật, các quy trình nghiệp vụ để xác
định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể tác động tiêu cực đến hiệu quả,
hiệu lực QLT, làm cơ sở để cơ quan QLT phân bổ nguồn lực hợp lý và áp
dụng các biện pháp quản lý hiệu quả”.
2.2.1.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Để đảm bảo được mục đích quan trọng của QLRR là giảm thiểu những
hậu quả xấu có thể xảy ra với một tổ chức, theo Tổ chức chuẩn mực quốc tế,
QLRR nói chung, QLRR trong QLT nói riêng cần tuân theo các nguyên tắc
chung sau:
- Tạo ra giá trị: QLRR cũng là một bộ phận trong hoạt động quản lý của
con người, mà nguyên tắc chung của quản lý là phải tạo ra tính hiệu quả. Điều
này có nghĩa là nhờ quản lý, các hoạt động của con người sẽ mang lại hiệu
quả cao hơn. Do đó, đòi hỏi việc thực hiện QLRR phải đem lại hiệu quả cao
hơn so với khi chưa thực hiện QLRR. Nếu không tạo ra giá trị thì không cần
thực hiện QLRR vì hoạt động này trở nên vô nghĩa.
- Phải là một bộ phận cấu thành của quá trình tổ chức: Xuất phát từ định
nghĩa của quản lý, cho thấy, gắn với quản lý là quá trình tổ chức con người để
thực hiện những mục tiêu đã định. Như vậy, QLRR đòi hỏi phải tuân thủ
nguyên tắc khi xác định cơ cấu tổ chức và tiến hành tổ chức hoạt động của con
người phải tính đến yếu tố rủi ro chứ không phải là thực hiện QLRR sau khi đã
giải quyết xong vấn đề tổ chức. Chẳng hạn như, QLRR về thuế đòi hỏi phải có
thông tin về NNT và phải phân tích thông tin có được để biết những NNT nào
có khả năng gian lận cao nhất. Để thỏa mãn đòi hỏi này, phải bố trí bộ phận thu
54
thập thông tin, bộ phận xử lý và phân tích thông tin cũng như phải quy định
những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận này.
- Phải là một bộ phận của quá trình ra quyết định: Bản chất của QLRR
là quá trình lựa chọn và tổ chức thực hiện các giải pháp trong bối cảnh nguồn
lực có hạn để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến sự thành công của một tổ
chức. Việc lựa chọn và hiện thực hóa các giải pháp đó chỉ có thể được thực
hiện thông qua việc ra quyết định. Nếu quá trình ra quyết định độc lập với quá
trình QLRR thì không có sự áp dụng kỹ thuật QLRR.
- Phải xác định được xác suất xảy ra của hiện tượng: Xác định xác suất là
xác định khả năng có thể xảy ra một sự vật, hiện tượng gắn với những điều kiện
nhất định. Mục đích của QLRR là ưu tiên nguồn lực xử lý những rủi ro có khả
năng xảy ra nhất. Do vậy, cần xác định được xác suất xảy ra của hiện tượng.
- Có hệ thống và có cấu trúc cụ thể: Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác
định được tổng thể các yếu tố có thể rủi ro cũng như các yếu cấu thành từng
rủi ro. Cần thực hiện nguyên tắc này vì đây là cơ sở để xem xét đầy đủ rủi ro
và có cách thức xử lý với từng loại rủi ro cụ thể.
- Phải dựa trên những thông tin sẵn có và tốt nhất: Thông tin là yếu tố
thiết yếu của quản lý nói chung và QLRR nói riêng. Muốn nhận diện và đánh
giá được rủi ro cần phải có thông tin về đối tượng quản lý và môi trường mà
nó hoạt động. Chằng hạn như, trong QLT, muốn thực hiện kỹ thuật QLRR thì
cần nắm được thông tin về NNT (ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh
doanh, đặc điểm tổ chức kinh doanh, các khách hàng chủ yếu, thậm chí cả
thân nhân của chủ doanh nghiệp…).
- Phải thích ứng với những điều kiện thực tế: Nguyên tắc này đòi hỏi
việc nhận diện và đánh giá rủi ro phải dựa trên những điều kiện thực tế. Đồng
thời, nó cũng đòi hỏi trong quá trình xử lý rủi ro phải điều chỉnh việc sử dụng
nguồn lực và tổ chức hoạt động của con người theo những điều kiện thực tế
khi những điều kiện nhận diện trước đó không còn đúng nữa. Nguyên tắc này
xuất phát từ mối quan hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng trên thế giới
55
cũng như sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa chúng. Khi điều kiện trong đó
một hiện tượng, một sự vật tồn tại thay đổi thì sự vận động của nó có thể thay
đổi, kéo theo xác suất xảy ra và những hệ quả của nó thay đổi theo. Muốn
đảm bảo hiệu quả của quản lý, thì QLRR phải điều chỉnh để thích ứng với
những điều kiện thực tế luôn biến đổi.
- Phải tính toán đến yếu tố con người: Con người được coi là nhất tố
quyết định đến mọi sự thành bại trong quản lý vì suy cho cùng mọi hoạt động
kinh tế xã hội đều vì con người và do con người thực hiện. Do đó, QLRR
không tính đến yếu tố con người thì sẽ không thể thành công.
- Minh bạch và toàn diện: Minh bạch có thể coi vừa là nguyên tắc, vừa là
yêu cầu của mọi hoạt động quản lý. Minh bạch giúp những người tham gia
vào quá trình quản lý hiểu được đầy đủ về đối tượng quản lý, và do đó, thực
hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình. Thực hiện nguyên tắc toàn diện giúp nhận
diện đầy đủ các rủi ro, nhận diện đầy đủ các yếu tố tác động đến rủi ro và hoạt
động của tổ chức, qua đó, nâng cao hiệu quả QLRR.
- Có khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển: Nguyên tắc này đòi hỏi,
QLRR phải được xây dựng theo một cơ chế mở để có thể tiếp tục hoàn thiện
và phát triển khi những nhận thức mới về đối tượng quản lý và chính con
người quản lý thay đổi và phát triển.
Bên cạnh các nguyên tắc chung nói trên, QLRR trong QLT cần quán
triệt thêm một số nguyên tắc cụ thể sau đây:
Về cơ bản CQT Việt Nam đã kế thừa cách tiếp cận và các nội dung
QLRR theo nghiên cứu của tổ chức OECD vào công tác QLRR của ngành
Thuế. Điều này được thể hiện qua các góc độ sau:
Thứ nhất, QLRR được thực hiện có tính hệ thống, có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ phận chức năng của CQT, các biện pháp để thu thập thông tin
xác định, đánh giá và kiểm soát rủi ro.
Thứ hai, QLRR được thực hiện ở hầu hết các khâu trong công tác QLT:
đăng ký thuế; khai thuế, nộp thuế; hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; phân
56
đoạn NNT để thực hiện các biện pháp quản lý trong việc tạo, in, phát hành,
quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế.
Thứ ba, QLRR có vai trò thu thập, phân tích thông tin, xác định trọng
điểm giám sát đối với NNT có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; cung cấp
thông tin, dữ liệu, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong QLT.
Thứ tư, Việc thực hiện QLRR nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT tạo
môi trường thuận lợi cho hoạt động SXKD của NNT đồng thời bảo vệ quyền
đánh thuế của quốc gia.
2.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong quản lý thuế
2.2.2.1. Xây dựng hành lang pháp lý về QLRR trong QLT
QLT là quản lý bằng pháp luật đối với các tổ chức và cá nhân được xác
định thuộc đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nên để
thực hiện QLRR trong QLT cần phải xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp
lý về QLRR trong QLT. Đây là cơ sở pháp lý để xác định nghĩa vụ của NNT
và các đối tượng có liên quan trong việc cung cấp thông tin về tuân thủ pháp
luật thuế của NNT; Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân
thủ pháp luật thuế của NNT; Xây dựng các phương thức QLT tương ứng với
từng nhóm NNT theo mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ.
2.2.2.2. Tổ chức bộ máy QLRR trong QLT
Bộ máy QLT sẽ thực hiện tất cả các chức năng về QLT và các nội dung
QLT cụ thể. Bộ máy QLT của một quốc gia không chỉ là CQT mà còn là hệ
thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bộ máy QLT là một hệ thống các
bộ phận cấu thành nội tại, có mối quan hệ lẫn nhau và mối quan hệ với các tổ
chức bên ngoài hệ thống. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, đối tượng và yêu
cầu quản lý trong từng thời kỳ mà các bộ phận cấu thành phải được điều
chỉnh cho phù hợp. Trên giác độ xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức QLT
khi thực hiện theo kỹ thuật QLRR, cần xác định xem có cần tổ chức chuyên
trách về QLRR trong QLT hay không, hay giao nhiệm vụ này cho các bộ
phận có liên quan để cùng thực hiện trong chu trình QLT. Nếu có một tổ chức
57
riêng thì chức năng, nhiệm vụ của bộ phận này như thế nào và mối quan hệ
với các bộ phận khác trong CQT. Nếu không tổ chức riêng thì từng bộ phận
cụ thể trong CQT có nhiệm vụ như thế nào trong việc thực hiện kỹ thuật
QLRR và mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận với nhau...
2.2.2.3 Tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT
QLRR trong QLT được thực hiện trong tất cả các chức năng quản lý của
CQT như: Tuyên truyền, hỗ trợ NNT; Kê khai tính thuế, nộp thuế; Miễn thuế,
giảm thuế, hoàn thuế; Thanh tra, kiểm tra thuế; Quản lý nợ và cưỡng chế
thuế…QLRR trong các chức năng QLT được tiến hành qua một số bước công
việc chủ yếu sau đây:
(1) Thu thập thông tin, xây dựng dữ liệu về tuân thủ pháp luật thuế của
NNT
Rủi ro trong QLT xuất phát chủ yếu từ các hành vi không tuân thủ pháp
luật thuế của NNT. Do đó, để quản lý được các rủi ro này, CQT phải xác định
được các rủi ro phát sinh từ NNT thông qua việc đánh giá mức độ tuân thủ
pháp luật thuế của họ. Do đó, để xác định mức độ rủi ro từ tuân thủ pháp luật
thuế của NNT, CQT cần thu thập các thông tin cần thiết về mức độ tuân thủ
pháp luật thuế của NNT.
Tuân thủ pháp luật thuế của NNT thể hiện ở việc chấp hành đầy đủ, kịp
thời và đúng đắn các quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc chấp hành các
tiêu chí thời gian, mức độ chính xác trung thực và đầy đủ của các hoạt động
đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ khác về thuế của NNT. Do
đó, các thông tin về sự tuân thủ pháp luật thuế của NNT cũng được tập hợp
trên cơ sở các nội dung này.
Thông tin về NNT nói chung, về tuân thủ pháp luật thuế của NNT nói
riêng có thể được thu thập dựa trên nhiều nguồn khác nhau như:
- CQT thu thập thông qua quá trình QLT như: Đăng ký thuế; kê khai
thuế, nộp thuế; nợ thuế; miễn, giảm thuế; kê khai hoàn thuế, hoàn thuế; kiểm
tra, thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế; thông tin
58
từ kết quả kiểm tra, thanh tra; xử lý nợ thuế; các thông tin, các văn bản phạt vi
phạm hành chính về pháp luật thuế; nợ thuế và các biện pháp khác của CQT
từng thời kỳ. Đây là nguồn thông tin cơ bản, đầy đủ và phản ánh chính xác
nhất mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
- Thông tin từ các hồ sơ khai thuế, hồ sơ hải quan; các Báo cáo tài chính,
Báo cáo niêm yết; các Báo cáo khác của NNT.
- Thông tin từ các cơ quan QLNN có thẩm quyền và các cơ quan tổ chức
có liên quan về đầu tư; xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; đăng ký và thực tế
sử dụng lao động; thông tin về giao dịch liên kết; thông tin về giao dịch qua
ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng khác; thông tin vi phạm pháp luật hải
quan; vi phạm trong lĩnh vực kế toán, thống kê, tài chính doanh nghiệp, vi
phạm pháp luật kinh tế, dân sự, hình sự.
- Thông tin thu thập từ mua tin, trao đổi thông tin trong nước, ngoài nước,
thông tin chính thức từ các cơ quan QLT, cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài
theo các điều ước quốc tế, các văn bản ký kết giữa Việt Nam và các nước liên
quan đến lĩnh vực thuế, hải quan để sử dụng trong công tác thuế.
- Các nguồn thông tin có liên quan khác.
(2) Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật
thuế của NNT
Các tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của NNT
được xây dựng trên cơ sở hệ thống thông tin về NNT đã thu thập và quản lý
được. Hệ thống tiêu chí này tập trung đánh giá mức độ rủi ro của NNT trong
đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế cũng như trong tuân thủ các quyết định hành
chính khác. Có rất nhiều tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật
thuế của NNT, trong đó, một số tiêu chí cơ bản bao gồm:
- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về mức độ rủi ro trong tuân thủ đăng ký thuế
+ Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng
phải đăng ký thuế. Tỷ lệ này được đo bằng tỷ lệ % giữa số NNT vi phạm về
thời gian đăng ký thuế (bao gồm cả số lượng NNT không đăng ký thuế, chưa
59
đăng ký thuế hay đăng ký thuế muộn so với quy định) so với tổng số đối
tượng phải đăng ký thuế. Tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ rủi ro trong tuân
thủ đăng ký thuế càng cao và ngược lại.
+ Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số NNT
đã thực hiện đăng ký thuế. Tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ mức độ rủi
ro trong tuân thủ thuế càng tốt tốt và ngược lại.
- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về rủi ro trong tuân thủ kê khai, tính thuế
+ Tỷ lệ giữa số tờ khai được nộp so với tổng số tờ khai phải nộp. Các tờ
khai được nộp bao gồm cả tờ khai nộp đúng hạn và tờ khai chậm nộp. Nếu
tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn, mức độ rủi ro thấp
hơn và ngược lại.
+ Tỷ lệ giữa số tờ khai nộp đúng hạn trên tổng số tờ khai đã được nộp.
Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ rủi ro càng thấp và ngược lại.
+ Tỷ lệ số tờ khai có sai sót trên tổng số tờ khai thuế đã nộp. Tiêu chí
này phản ánh sự tuân thủ về hình thức mẫu biểu kê khai của NNT. Tiêu chí
này càng thấp thể hiện mức độ tuân thủ cao, rủi ro thấp và ngược lại.
+ Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT
được thanh tra, kiểm tra. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế,
kiểm tra thuế không đổi thì tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân
thủ tốt, mức độ rủi ro thấp và ngược lại.
+ Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được thanh tra
thuế, kiểm tra thuế. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế không đổi thì tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân thủ tốt,
mức độ rủi ro thấp và ngược lại.
- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ nộp thuế
+ Tỷ lệ số NNT đúng hạn trên tổng số NNT. Tiêu chí này cho biết tỷ lệ
NNT tuân thủ tự giác trong việc đảm bảo thời hạn nộp thuế theo quy định của
pháp luật. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế càng tốt, mức
độ rủi ro càng thấp và ngược lại.
60
+ Tỷ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải nộp theo
nghĩa vụ thuế của NNT. Tiêu chí này cho biết tỷ lệ số thuế đã được NNT đảm
bảo thời hạn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức
độ tuân thủ thuế tốt, mức độ rủi ro thấp và ngược lại.
+ Tỷ lệ giữa số thuế nợ so với tổng số thuế phải nộp hoặc so với tổng số
thuế ghi thu trong kỳ tính thuế. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân
thủ trong nộp thuế thấp, mức độ rủi ro cao và ngược lại.
- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về mức độ rủi ro trong tuân thủ việc
chấp hành các quy định khác về thuế có thể được xác định trên cơ sở mức độ
hay tỷ lệ tuân thủ của NNT đối với các quyết định hành chính, các yêu cầu
đối với NNT trong quá trình QLT của CQT.
Hệ thống các tiêu chí nói trên có thể được xác định đối với toàn bộ NNT
hoặc từng NNT; toàn bộ các sắc thuế hay từng sắc thuế tùy theo khả năng và
yêu cầu quản lý. Trong QLRR, do yêu cầu phải phân loại tất cả NNT theo
mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ nên các tiêu chí nêu trên sẽ
được áp dụng đối với từng NNT. Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc đánh giá
chung về hiệu lực QLT hay mức độ tuân thủ chung của NNT, các tiêu chí nêu
trên có thể áp dụng theo toàn bộ NNT hoặc từng nhóm NNT theo lĩnh vực,
loại hình, ngành nghề, địa bàn...
Ngoài ra, một số thông tin có thể sử dụng thêm để đánh giá mức độ rủi
ro trong tuân thủ pháp luật thuế của NNT như: tình hình sản xuất, kinh doanh;
số thuế phải nộp; tình hình tuân thủ/vi phạm các quy định của pháp luật thuế,
kế toán, thống kê, hóa đơn, chứng từ... trong một khoảng thời gian nhất định.
(3) Đánh giá mức độ rủi ro tuân thủ của NNT
CQT thực hiện đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế
đối với NNT đang hoạt động để áp dụng các biện pháp QLT và các biện
pháp nghiệp vụ cần thiết khác trong QLT đối với NNT. Việc đánh giá mức
độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT được thực hiện trên hệ
thống thông tin về NNT và các tiêu chí đánh giá rủi ro trong tuân thủ thuế
61
đã được xây dựng.
Đối với các tiêu thức đã xác định, tùy theo mức độ đáp ứng của NNT đối
với từng tiêu thức, CQT sẽ cho điểm tương ứng. Tổng hợp điểm có được của
NNT theo tất cả các tiêu thức sẽ được sử dụng làm căn cứ phân nhóm NNT
theo mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ.
Theo mức độ phân loại rủi ro đã xác định, có thể phân loại NNNT thành
5 nhóm gồm: Nhóm 1 (NNT có mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế
rất thấp); Nhóm 2 (NNT có rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế thấp); Nhóm 3
(NNT có rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế trung bình); Nhóm 4 (NNT có
rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế cao); Nhóm 5 (NNT có rủi ro trong tuân
thủ pháp luật thuế rất cao). Các mức độ rủi ro nói trên cũng thể hiện rõ mức
độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT theo chiều hướng ngược lại; mức độ rủi
ro càng thấp thì mức độ tuân thủ càng tốt. Cách phân loại này nhìn chung là
dễ thực hiện khi căn cứ vào điểm số đánh giá theo từng tiêu chí đã xác định.
Tuy nhiên, trong quản lý cần tiếp tục phân tích mức độ rủi ro trong tuân thủ
pháp luật thuế của NNT theo hai ý chính, đó là ý thức tuân thủ và khả năng
tuân thủ. Có những NNT có ý thức tuân thủ rất tốt nhưng khả năng để tuân
thủ đầy đủ, chính xác, kịp thời các quy định của pháp luật thuế lại không cho
phép họ thực hiện được ý thức tuân thủ đó của mình, dẫn đến mức độ rủi ro
cao. Nhóm này sẽ được đối xử khác so với nhóm không tuân thủ tốt vì ý thức
tuân thủ kém. Để xử lý vấn đề này, thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT
và tình hình thực tế tuân thủ pháp luật thuế của từng NNT, CQT cần tiếp tục
phân tích, đánh giá cụ thể để có hướng đối xử tương ứng.
(4) Xây dựng các phương thức QLT tương ứng với từng nhóm NNT theo
mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ
Các nhóm NNT nêu trên rõ ràng có sự khác nhau trong nhận thức cũng
như hành vi tuân thủ thuế, dẫn đến các mức độ rủi ro khác nhau cho hoạt
động QLT của CQT. Nếu nhóm 1, nhóm 2 có ý thức và hành vi tuân thủ rõ
ràng, mức độ rủi ro thấp thì nhóm 4, nhóm 5 lại có tư tưởng, hành vi không
62
tuân thủ nhiều hơn và mức độ rủi ro cao hơn nhiều, trong khi nhóm 3 nằm ở
ngưỡng giữa có thể thay đổi mức độ rủi ro theo các chiều hướng khác nhau
tùy thuộc vào hiệu quả QLRR của CQT. Do đó, phương thức quản lý đối với
các nhóm NNT này cũng không thể thực hiện đồng nhất với nhau. Cụ thể:
- Đối với NNT thuộc nhóm 1: Đây là nhóm có mức độ tuân thủ rất cao,
những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến hiệu quả QLT rất thấp. Phương thức
quản lý của CQT là tạo điều kiện tối đa cho NNT trong quá trình hoàn thành
nghĩa vụ thuế một cách tự nguyện thông qua cải thiện môi trường tuân thủ
thuế; đảm bảo cho NNT có cơ hội tiếp cận với nhiều dịch vụ tốt nhất của
CQT; tối thiểu hoá các khoản chi phí tuân thủ thuế của họ; tạo môi trường
quản lý công bằng giữa những NNT có sự tuân thủ khác nhau.
- Đối với NNT thuộc nhóm 2: Là nhóm có mức độ rủi ro thấp, nhưng
không phải là không có các hành vi không tuân thủ. Phương thức quản lý của
CQT là khuyến khích sự tuân thủ, tiếp tục tạo điều kiện để họ tuân thủ tối đa
pháp luật thuế.
- Đối với NNT thuộc nhóm 3: Là nhóm có mức độ rủi ro trung bình, có thể
thay đổi theo các chiều hướng khác nhau. Phương thức quản lý là cần giám sát,
tác động thêm để làm thay đổi hành vi của họ chuyển sang mức độ tuân thủ cao
hơn; giảm chi phí tuân thủ, tăng tính tự chủ của NNT trong tuân thủ nghĩa vụ
thuế; hỗ trợ thêm NNT trong quá trình tuân thủ, giúp NNT tránh được những vi
phạm luật thuế, tránh được những hình thức xử lý vi phạm của CQT.
- Đối với NNT thuộc nhóm 4: Đây là các nhóm có mức độ rủi ro cao.
Phương thức quản lý của CQT là vừa phải tăng cường hoạt động tuyên
truyền, phổ biến kiến thức để thay đổi nhận thức và hành vi của họ, hỗ trợ họ
trong quá trình tuân thủ, vừa phải tăng cường giám sát, kiểm tra, hạn chế đến
mức thấp nhất những hành vi không tuân thủ của họ.
- Đối với NNT thuộc nhóm 5: đây là nhóm có có chỉ số rủi ro về thuế cao
nhất, họ sẽ không tuân thủ thuế nếu không có sự cưỡng chế và xử lý vi phạm
nghiêm khắc. Các hành vi không tuân thủ có thể là không đăng ký thuế,
63
không nộp hồ sơ khai thuế, cố tình khai sai, trì hoãn nộp thuế, không nộp thuế
lặp lại nhiều lần, thay đổi địa điểm, hoạt động SXKD để trốn thuế, bỏ trốn,
mất tích, tìm kẽ hở của luật để tránh thuế... Sự tuân thủ thuế của nhóm NNT
này rất khó thay đổi bằng các tác động khuyến khích kinh tế, tác động tâm lý
hay ảnh hưởng xã hội. Hành vi tuân thủ của họ chủ yếu bị chi phối bởi các
công cụ thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính và xử lý vi phạm của CQT.
Do vậy, phương thức quản lý của CQT đối với nhóm này là tập trung nguồn
lực thanh tra thuế, kiểm tra thuế và có nhiều biện pháp xử lý nghiêm minh để
họ không thực hiện được các hành vi vi phạm pháp luật thuế, đồng thời kết
hợp với các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, hỗ trợ để họ hiểu và thay đổi tư
tưởng đối phó trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
2.2.3. Quy trình quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Theo Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế, quy trình
QLRR bao gồm 7 bước. Về nguyên tắc, quy trình QLRR trong QLT cũng
tuân thủ theo quy trình này, cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định hoàn cảnh có thể xảy ra rủi ro
Bước này bao gồm các công việc sau: Xác định lĩnh vực xảy ra rủi ro;
lập kế hoạch về những việc còn phải làm của quy trình; xác định phạm vi xã
hội của rủi ro, đặc điểm và mục tiêu của chủ sở hữu, cơ sở và những giới hạn
qua đó đánh giá rủi ro; phân tích những rủi ro có liên quan đến quy trình quản
lý và làm giảm bớt rủi ro trên cơ sở các nguồn lực về tổ chức, con người và
công nghệ sẵn có. Trong thanh tra, kiểm tra thuế, đây là bước phải thực hiện
các việc như: xác định những thông tin liên quan đến NNT như lĩnh vực kinh
doanh, đặc điểm kinh doanh…
Bước 2: Nhận diện rủi ro
Đây là bước xác định những rủi ro tiềm ẩn- là các rủi ro mà khi xảy ra
thì có thể gây ra tổn thất. Như vậy, nhận diện rủi ro bao gồm cả nhận diện
chính bản thân rủi ro và căn nguyên của rủi ro. Trong thanh tra, kiểm tra thuế,
đây là bước xác định các yếu tố liên quan đến các mức độ có thể xảy ra của
64
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát gắn với từng NNT cụ thể.
Có một số phương pháp cơ bản để nhận diện rủi ro sau đây:
- Phương pháp nhận diện rủi ro dựa trên cơ sở mục tiêu: Mỗi tổ chức
đều có mục tiêu hoạt động của mình. Bất kỳ một sự kiện nào có thể xảy ra
làm phương hại từng phần hoặc đến toàn bộ mục tiêu đó đều được coi là rủi
ro của tổ chức.
- Phương pháp nhận diện rủi ro dựa trên chuỗi sự kiện tương lai: Theo
phương pháp này, người ta vạch ra một chuỗi sự kiện có liên quan đến hoạt
động tương lai của tổ chức. Chuỗi sự kiện đó đặt ra trong mối tương tác của
các lực lượng có liên quan đến hoạt động của tổ chức, chẳng hạn như các lực
lượng thị trường. Bất kỳ một sự kiện nào gây ra sự kiện không mong muốn đã
được xác định trong chuỗi sự kiện đã vạch ra đều coi là rủi ro của tổ chức.
- Phương pháp nhận diện rủi ro trên cơ sở phân loại: Phương pháp này
dựa trên số liệu thống kê căn nguyên của rủi ro. Dựa trên cơ sở phân loại căn
nguyên rủi ro và kinh nghiệm thực tế, người ta lập ra một bảng câu hỏi. Các
câu trả lời của câu hỏi sẽ chỉ ra rủi ro của tổ chức.
- Phương pháp kiểm tra rủi ro phổ biến: Trong mỗi lĩnh vực hoạt động
đều luôn tồn tại những rủi ro đặc thù của lĩnh vực đó. Mỗi loại rủi ro có thể có
trong lĩnh vực đó đều cần được kiểm tra xem có thể xảy ra trong bối cảnh cụ
thể cần xem xét hay không.
- Phương pháp lập bảng rủi ro: Phương pháp này kết hợp các cách tiếp
cận rủi ro nêu trên bằng cách thiết lập một danh mục các nguồn rủi ro, các nguy
cơ đối với các yếu tố điều chỉnh rủi ro mà các yếu tố này có thể làm tăng hoặc
giảm hậu quả không mong muốn khi rủi ro xảy ra.
Ma trận rủi ro cho phép xác định mức độ nghiêm trọng của một nguy cơ
rủi ro có thể xảy ra. Tổng thể rủi ro (R) là tổ hợp của nhiều sự kiện không
mong muốn (H) tạo ra nó. Rủi ro có thể là bất kỳ một sự kiện không mong
muốn (H) xảy ra với một xác suất nhất định (p) nhân với hậu quả (c) của nó.
Tức là, ma trận này phản ánh khả năng xảy ra rủi ro và mức độ nghiêm trọng
65
của rủi ro.
Từng sự kiện không mong muốn được xác định bằng: PH x CH
Do vậy, rủi ro được xác định là tổng của các sự kiện không mong muốn
như sau: Re = ∑Hi
Các hậu quả của rủi ro được xếp theo mức độ: Thảm khốc, rất lớn, trung
bình và không đáng kể. Các xác suất xảy ra rủi ro được xếp theo mức độ:
Chắc chắn, có nhiều khả năng, có khả năng, có ít khả năng và hiếm khi xảy
ra. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một xác suất xảy ra thấp cũng không hoàn toàn
đáng tin cậy. Từ đó, có bảng ma trận sau đây:
Hậu quả
Rất lớn Không đáng kể Trung bình Thảm khốc
Cao Cao Rất cao Rất cao
Vừa phải Cao Cao Rất cao
Thấp Vừa phải Cao Rất cao
Thấp Thấp Vừa phải Cao
Thấp Thấp Vừa phải Cao Xác suất xảy ra Chắc chắn Có nhiều khả năng xảy ra Có khả năng xảy ra Có ít khả năng xảy ra Hiếm khi xảy ra
Bước 3: Đánh giá rủi ro
Mỗi rủi ro cần được đánh giá xác suất xảy ra và mức độ nghiêm trọng
của hậu quả mà nó gây ra. Trường hợp đơn giản thì có thể lượng hóa được tổn
thất, trường hợp phức tạp thì không thể lượng hóa được tổn thất và cũng
không xác định được chắc chắn xác suất xảy ra. Để xác định xác suất và ước
tính tổn thất, cần sử dụng những phương pháp khoa học đã được công bố.
Có khá nhiều công thức ước tính mức độ tổn thất và xác suất xảy ra rủi
ro, song công thức được thừa nhận rộng rãi nhất là:
Chỉ số rủi ro = Xác suất xảy ra sự kiện x Tác động của sự kiện
Tác động của sự kiện rủi ro và xác suất xảy ra sự kiện rủi ro đều được
cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ từ nhỏ đến lớn của tổn thất có thể xảy ra và
66
khả năng có thể xảy ra sự kiện rủi ro. Như vậy, chỉ số rủi ro có thang điểm từ
0 đến 25 và thường được xếp làm 3 nhóm thang điểm: rủi ro thấp (điểm từ 0
đến 8); rủi ro trung bình (điểm từ 9 đến 15), rủi ro cao (điểm từ 16 đến 25).
Bước 4: Xử lý rủi ro tiềm ẩn
- Loại bỏ rủi ro tức là không tiến hành một hoạt động chứa đựng rủi ro
tiềm ẩn, hoặc xóa bỏ sự kiện rủi ro. Trong thanh tra thuế, do không thể xóa bỏ
sự tồn tại của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nên muốn xóa bỏ tổn thất do
chúng gây ra thì phải thực hiện thanh tra, kiểm tra tất cả NNT. Tuy nhiên, nếu
việc xóa bỏ sự kiện rủi ro quá tốn kém, quá tốn thời gian hoặc không có khả
năng thực hiện được thì phải chuyển sang lựa chọn thứ hai là giảm bớt rủi ro.
Thanh tra thuế cũng vậy, không thể thanh tra, kiểm tra mọi NNT vì không đủ
nguồn lực và quá tốn kém.
- Giảm thiểu rủi ro có nghĩa là làm giảm tổn thất có thể có do sự kiện
rủi ro gây ra hoặc giảm xác suất xảy ra sự kiện rủi ro. Trong thanh tra thuế
có thể hiểu biện pháp này là tập trung nguồn lực kiểm tra, thanh tra những
NNT có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao và áp dụng nhiều thủ tục,
kiểm tra kỹ cơ sở dữ liệu và báo cáo tài chính của những đối tượng này để
giảm rủi ro phát hiện.
- Chia sẻ rủi ro được hiểu là chia sẻ cả tổn thất có thể xảy ra và lợi ích
có thể có từ sự kiện rủi ro cho một đối tác khác và mục tiêu là để giảm rủi ro.
Chia sẻ rủi ro nếu xét thấy bản thân tổ chức không có khả năng đối phó khi
rủi ro xảy ra nhưng có tổ chức khác có thể chia sẻ, gánh chịu rủi ro này thông
qua các phương thức chuyển giao theo quy định. Trong QLT, có thể hiểu biện
pháp này qua cơ chế giá thỏa thuận trước (giá APA) khi kiểm soát giá của các
giao dịch liên kết.
- Chấp nhận rủi ro là chấp nhận cả tổn thất có thể mất và lợi ích có thể
có được từ sự kiện rủi ro. Thông thường chấp nhận rủi ro sẽ được lựa chọn
khi chi phí để loại bỏ hoặc giảm thiểu hoặc chia sẻ rủi ro là quá cao so với lợi
ích thu được từ việc thực hiện các biện pháp đó để xử lý rủi ro; hoặc khả năng
67
xảy ra rủi ro không cao và tổn thất có thể xảy ra rủi ro thấp. Trong thanh tra,
kiểm tra thuế, đây chính là việc chấp nhận bỏ qua không thanh tra, kiểm tra
những NNT có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thấp.
Các khả năng xử lý rủi ro tiềm ẩn nói trên thể hiện qua ma trận QLRR
sau đây:
Yêu cầu có sự Cần có sự Phải quản lý và Nghiêm quản lý gắt MỨC quản lý chặt chẽ kiểm soát rủi ro trọng gao ĐỘ
TÁC Có thể chấp Phải quản lý Cần quản lý ĐỘNG nhận nhưng Vừa phải rủi ro rủi ro CỦA phải kiểm soát
RỦI Quản lý và Chấp nhận và RO Chấp nhận rủi ro kiểm soát rủi Thấp kiểm soát rủi ro ro
Trung bình Thấp Cao (khả năng xảy KHẢ NĂNG XẢY RA (khả năng (khả năng ra RỦI RO xảy ra <=25%) xảy ra >75%) từ 25%-75%)
Khả năng xảy ra
Hình 2.1 Ma trận QLRR
Ma trận chỉ rõ cần phải tập trung quản lý và xử lý đối với các rủi ro có
khả năng xảy ra cao, rủi ro có mức độ tác động nghiêm trọng; đối với rủi ro
có khả năng xảy ra thấp, mức độ tác động thấp thì chấp nhận để tập trung
nguồn lực quản lý các rủi ro có khả năng và mức độ tác động cao hơn. Ví dụ
trong kiểm soát đăng ký thuế thì CQT tập trung quản lý đối với NNT không
đăng ký đây là rủi ro lớn vì nếu NNT không đăng ký thuế, CQT sẽ thất thu tất
cả các loại thuế mà NNT đó có trách nhiệm phải nộp, do đó quản lý đối tượng
68
nộp thuế luôn là khâu đầu tiên và quan trọng trong công tác QLT.
Bước 5: Xây dựng kế hoạch QLRR
Đây là bước chọn một giải pháp đối phó hoặc kiểm soát phù hợp để xử
lý từng rủi ro. Giải pháp xử lý rủi ro cần được thông qua bởi những cấp quản
lý nhất định. Kế hoạch QLRR cần chỉ ra được các giải pháp hữu hiệu kiểm
soát rủi ro. Trong thanh tra, kiểm tra thuế, đây là bước xác định xem cần
thanh tra, hay kiểm tra NNT nào, với mức độ như thế nào hoặc cần áp dụng
những thủ tục, cách thức nào trong thanh tra, kiểm tra mỗi NNT cho phù hợp.
Kế hoạch rủi ro cũng phải chỉ ra lịch trình thực hiện và người chịu trách
nhiệm thực hiện các công việc kiểm soát rủi ro.
Bước 6: Thực hiện kế hoạch QLRR
Thực hiện kế hoạch QLRR là thực thi các công việc theo lịch trình đã
vạch ra của kế hoạch QLRR nhằm làm giảm bớt tác động bất lợi của rủi ro.
Trong thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện kế hoạch QLRR tức là tiến hành
thanh tra, kiểm tra những NNT theo kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được xây
dựng trên cơ sở kỹ thuật QLRR.
Bước 7: Rà soát, đánh giá kế hoạch QLRR
Những kế hoạch QLRR được lập ra bước đầu không thể hoàn hảo. Thực
tiễn, kinh nghiệm và những mất mát xảy ra đòi hỏi phải điều chỉnh kế hoạch
và bổ sung thông tin để có thể ra những quyết định khác nhau để giải quyết
những tình huống rủi ro mà tổ chức phải đối phó. Điều này đòi hỏi phải rà
soát, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch theo những chu kỳ nhất định. Việc rà
soát, đánh giá kế hoạch QLRR nhằm 2 mục đích: (i) Đánh giá xem liệu rằng
các giải pháp kiểm soát rủi ro trước đó còn có thể áp dụng hoặc còn hiệu lực
không; và (ii) Đánh giá những sự thay đổi về mức độ rủi ro trong một môi
trường luôn thay đổi.
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong quản lý thuế
2.2.4.1 Các nhân tố chủ quan
Thứ nhất, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế.
Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong
69
lĩnh vực quản lý. Trong bộ máy QLT, đội ngũ cán bộ công chức thuế là một
bộ phận quan trọng góp phần vào việc xây dựng hệ thống chính sách thuế phù
hợp, khoa học, tiên tiến và cũng chính đội ngũ cán bộ thuế là những người
thực hiện hệ thống chính sách thuế để phát huy tối đa hiệu quả của hệ thống
chính sách thuế. Đối với lĩnh vực QLRR trong QLT, trình độ chuyên môn và
đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế là nhân tố quan trọng tác động đến
chất lượng và hiệu quả của hoạt động này. QLT theo kỹ thuật QLRR đòi hỏi
cán bộ thuế có trình độ chuyên môn rất cao về phân tích, đánh giá, xử lý rủi
ro; ngoài ra, cán bộ thuế còn phải có nghiệp vụ chuyên môn liên quan đến các
chức năng QLT vững vàng, có đạo đức liêm chính. Trình độ chuyên môn của
cán bộ thuế sẽ tác động tới các quyết định của CQT trong việc đánh giá rủi ro
và xử lý rủi ro trong tuân thủ của NNT, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
lợi của NNT. Do đó, nếu công chức thuế không vững vàng về nghiệp vụ
chuyên môn, về đạo đức nghề nghiệp thì rất dễ mắc sai lầm, khuyết điểm khi
thực hiện quy trình QLT.
Thứ hai, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế.
Trong thời đại cách mạng thông tin và kinh tế số hiện nay, việc ứng dụng
CNTT là yếu tố không thể thiếu của mọi hoạt động kinh tế- xã hội và mọi
hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, trong đó có CQT. Trong những
năm qua, ứng dụng CNTT đóng vai trò quan trọng trong công tác QLT và cải
cách thủ tục hành chính thuế.
Việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong QLT sẽ nâng cao hiệu quả QLRR
trong QLT. Để thực hiện QLRR trong QLT, CQT phải xử lý một lượng cơ sở
dữ liệu thông tin rất lớn từ rất nhiều đối tượng khác nhau, nếu không ứng
dụng CNTT ở mức độ cao thì không thể làm tốt được kỹ thuật quản lý này.
Mặt khác, thực hiện việc QLRR trong QLT đòi hỏi các công nghệ mới sẽ
được ứng dụng mạnh mẽ trong quy trình, nghiệp vụ QLRR. Theo đó, ứng
dụng CNTT thực hiện việc kết nối, tiếp nhận thông tin từ các nguồn dữ liệu,
điện tử hoá những biện pháp, kỹ thuật QLRR dựa trên bộ tiêu chí, chỉ số được
70
ban hành để phân tích, đánh giá. Chẳng hạn, khâu đánh giá, phân loại mức độ
tuân thủ pháp luật thuế và rủi ro NNT sẽ được thực hiện tự động và bổ sung
phương pháp đánh giá theo phương pháp học máy thay vì chỉ dựa vào đánh
giá của chuyên gia. Điều này sẽ giúp việc đánh giá, phân loại được linh hoạt
hơn và tăng độ chính xác. Ngoài ra, việc ứng dụng CNTT sẽ giúp cơ quan
quản lý phân bổ nguồn lực hợp lý, giảm bớt áp lực về khối lượng công việc,
chỉ tập trung nguồn lực vào NNT không tuân thủ hay các lĩnh vực rủi ro.
Đồng thời, tạo điều kiện để NNT tự nguyện tuân thủ tốt quy định của pháp
luật về thuế và QLT.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT trong QLT.
Tổ chức QLT theo chức năng là mô hình tổ chức lấy chức năng QLT làm
nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu gồm các bộ phận, mỗi bộ phận thực
hiện một chức năng QLT cơ bản đối với hầu hết các loại thuế và đối với tất cả
các NNT theo thẩm quyền được phân công. Các chức năng QLT cơ bản gồm:
Tuyên truyền và hỗ trợ; xử lý tờ khai; quản lý nợ và cưỡng chế thuế; thanh
tra, kiểm tra thuế… Tổ chức QLT theo chức năng góp phần nâng cao hiệu quả
QLT do chuyên môn hóa, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng,
các bộ phận có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Việc thực hiện QLRR trong QLT đòi hỏi các bộ phận chức năng của
CQT phải có sự chuyên môn hóa về nghiệp vụ, đồng thời có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau. Việc thu thập thông tin NNT, đánh giá rủi ro trong tuân thủ thuế
của NNT để phân loại NNT và đưa ra các phương thức QLT tương ứng với
từng nhóm NNT cần có sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT.
Một CQT có tổ chức hợp lý, có trình độ, khả năng quản lý tốt sẽ đảm bảo duy
trì tính thực thi của luật pháp, đảm bảo tính hiệu quả của QLT trong các điều
kiện khác nhau, trong đó, có việc thực hiện quản lý tuân thủ. Ngoài ra, tổ
chức bộ máy QLT tốt cũng góp phần nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật
thuế của NNT.
71
2.2.4.2 Các nhân tố khách quan
Thứ nhất, Môi trường đầu tư và kinh doanh.
Nhóm yếu tố này bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát,
tình hình chính trị, ngoại giao… Đây là các yếu tố vĩ mô nên ảnh hưởng đến
mức độ tuân thủ pháp luật thuế của tất cả các nhóm NNT và ảnh hưởng đến
việc thực hiện quản lý tuân thủ trong QLT.
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh
tế là tất yếu khách quan ảnh hưởng tới ý thức của NNT và kết quả của công
tác QLT. Hội nhập quốc tế về thuế ngày càng sâu rộng đòi hỏi hệ thống luật
pháp về thuế phải hoàn thiện theo thông lệ quốc tế, công tác QLT phải được
cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế, cơ sở trang
thiết bị vật chất, kỹ thuật ngày càng hiện đại hoá. Với số lượng NNT không
ngừng tăng lên nhanh chóng và sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp,
các hình thức kinh doanh, kèm theo đó là các hành vi gian lận thuế sẽ phức
tạp và tinh vi hơn đòi hỏi CQT phải không ngừng cải tiến, hiện đại hóa công
tác QLT, thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT. Bên cạnh đó, khi xã hội phát
triển, trình độ dân trí được nâng cao, sự hiểu biết về pháp luật thuế của NNT
được cải thiện bởi họ hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, sẽ góp phần nâng cao tính tuân thủ tự
nguyện của NNT.
Thứ hai, chính sách pháp luật nói chung và chính sách thuế nói riêng.
Hệ thống chính sách pháp luật là nhân tố tạo lập môi trường pháp lý cho
hoạt động QLT và hoạt động kinh doanh của NNT. Hệ thống chính sách pháp
luật nói chung và các chính sách thuế nói riêng được xây dựng đồng bộ, rõ ràng,
đơn giản, minh bạch sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho NNT thực hiện nghĩa vụ thuế
của mình, nâng cao tính tuân thủ thuế tự nguyện của NNT, từ đó cũng giúp cho
QLRR trong QLT có hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống chính sách thuế rõ ràng, minh
bạch sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giảm chi phí
tuân thủ, giảm rủi ro do tham nhũng và phiền hà cho NNT, qua đó giúp cho việc
72
thực hiện tuân thủ pháp luật thuế được tốt hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp
luật thuế phức tạp, không đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ và chồng chéo sẽ làm
giảm hiệu quả của công tác QLT, tăng cơ hội cho NNT có những hành vi lợi
dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi, làm giảm tác dụng quản lý và răn đe của
luật pháp.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thuế
Để thực hiện QLRR trong QLT, cơ quan thuế cần có thông tin về NNT.
Nguồn thông tin này ngoài việc tập hợp dựa trên số liệu sẵn có từ CQT (thông
qua đăng ký thuế, kê khai thuế, kết quả thanh tra, kiểm tra thuế…) thì cần có
nguồn cung cấp thông tin về NNT từ các cơ quan chức năng có liên quan như:
Ngân hàng Nhà nước, cơ quan công an, cơ quan địa chính, kế hoạch- đầu tư…
Vì vậy, sự phối hợp giữa CQT với các cơ quan chức năng trong việc cung cấp
các thông tin liên quan đến giao dịch kinh doanh của NNT có ý nghĩa rất lớn
trong việc thực hiện QLRR trong QLT. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình và theo các quy định của pháp luật về QLT mà những cơ quan
này phối hợp với CQT trong việc cung cấp thông tin về NNT, cũng như xử lý
vi phạm…Vì vậy, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế phối hợp giữa CQT
và các cơ quan chức năng góp phần nâng cao hiệu quả của QLT.
Thứ tư, ý thức tuân thủ và trình độ hiểu biết pháp luật thuế của NNT.
Việc QLT thực hiện theo cơ chế NNT tự khai, tự nộp thuế. Như vậy, khi
ý thức tuân thủ của NNT càng cao thì tính trung thực của NNT khi kê khai,
tính và nộp thuế càng cao. Để nâng cao tính tuân thủ của NNT, ngoài trình độ
hiểu biết pháp luật của NNT thì các công tác QLT cũng tác động rất lớn tới
tính tuân thủ của NNT như: công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT; kiểm tra thuế;
thanh tra thuế; xử lý vi phạm về thuế… Việc thực hiện QLRR trong QLT sẽ
tùy theo mức độ tuân thủ của NNT để có hình thức ứng xử phù hợp cũng giúp
cho ý thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT được nâng cao.
73
2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QLRR TRONG QLT VÀ BÀI
HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.3.1. Xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (TCP) khi
thực hiện QLRR trong QLT
Hình 2.2: Mô hình tuân thủ của NNT
Nguồn: OECD3
Theo tổ chức OECD, để nâng cao hiệu quả của QLRR trong QLT, cần
xây dựng kế hoạch, chương trình QLRR tuân thủ hiệu quả. Việc đánh giá rủi
ro nên được tiếp cận theo hướng tổng thể bắt đầu từ việc xây dựng Kế hoạch
đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện, sẽ giúp nâng cao tuân thủ của NNT trong
tất cả các khâu, các chức năng QLT đối với từng phân đoạn NNT.
Kế hoạch này sẽ giúp CQT đưa ra bức tranh tổng thể về mức độ tuân thủ
của NNT. Từ việc thực hiện đánh giá mức độ tuân thủ của toàn bộ NNT trong
từng khâu, từng chức năng, từng phân đoạn NNT, CQT đưa ra được các giải
pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của NNT thông qua các
3
Nguồn trích dẫn: OECD GUIDANCE NOTE: Risks Management Complicance – Managing and
Improving Tax Compliance. Prepared by Forum on Tax Administration Compliance Sub – Group.
chiến lược/biện pháp thích hợp như: tuyên truyền, giải thích pháp luật, hỗ trợ
74
thực hiện, kiểm tra, thanh tra v.v. Việc xây dựng TCP là một bước đầu tiên và
quan trọng trong xây dựng hệ thống QLRR của CQT.
Các bước xây dựng TCP:
Hình 2.3: Các bước xây dựng TCP
Dựa trên hướng dẫn của OECD, hiện nay hầu các quốc gia trên thế giới
đều triển khai thực hiện chương trình tuân thủ tổng thể về thuế, cụ thể:
- Tại Úc: Từ năm 2001, CQT Úc (ATO) đã bắt đầu thực hiện các
chương trình hỗ trợ NNT theo từng phân đoạn NNT nhằm đảm bảo sự tuân
thủ tự nguyện. Hiện nay, các bước xây dựng TCP của ATO bao gồm: chia
NNT thành nhiều phân đoạn có đặc thù đồng nhất; xác định rủi ro chính yếu
cho từng phân đoạn NNT; phân tích và xác định các nguyên nhân chính dẫn
đến việc không tuân thủ trong từng phân đoạn NNT; xây dựng chiến lược để
giải quyết các nguyên nhân chính dẫn đến hành vi không tuân thủ; phân bổ
nguồn lực; thực hiện; theo dõi, báo cáo và đánh giá; và các bước này được lặp
lại hàng năm. Theo đó, ATO sử dụng 4 trụ cột xác định tuân thủ là: (i) Đăng
ký; (ii) Thời hạn tuân thủ; (iii) Kê khai; (iv) Nộp thuế. Từ đó xây dựng chiến
lược để giải quyết các rủi ro tuân thủ cho từng phân đoạn liên quan đến từng
trụ cột. Cụ thể:
+ Đối với NNT là doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Đăng ký: (i) Rủi ro: Không đăng ký thuế TNDN và GTGT; (ii) Nguyên
nhân: Thiếu hiểu biết về yêu cầu và quy định của chính sách; (iii) Cách xử lý:
ATO quy định hướng dẫn chính sách thật đơn giản cho các doanh nghiệp nhỏ,
tạo điều kiện dễ dàng cho việc đăng ký, dữ liệu sẽ được đối chiếu khớp với
thông tin của bên thứ 3, ví dụ như đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế.
75
Thời hạn tuân thủ: (i) Rủi ro: Chậm nộp hoặc không nộp tờ khai thuế;
(ii) Nguyên nhân: Thiếu thời gian làm hồ sơ khai thuế hoặc đang cố tình tránh
việc chuyển đổi nghĩa vụ nợ; (iii) Cách xử lý: ATO tạo điều kiện bằng cách
quy định thực hiện nộp tờ khai dễ dàng cho NNT, hướng dẫn và hỗ trợ NNT,
nhắc nhở NNT, kiểm tra chéo NNT đã đăng ký với các tờ khai đã nộp.
Kê khai: (i) Rủi ro: Kê khai thuế GTGT, thuế TNDN thiếu thuế phải nộp,
hoặc xác định ưu đãi thuế không chính xác; (ii) Nguyên nhân: doanh nghiệp
hiểu sai về nghĩa vụ, đang tìm cách né tránh nghĩa vụ nộp thuế; (iii) Cách xử
lý: ATO làm rõ với doanh nghiệp việc áp dụng luật đối với từng vấn đề cụ thể,
tập trung vào các vấn đề có rủi ro cao và phổ biến và tiến hành các chiến dịch
đặc biệt để giải quyết các rủi ro này bao gồm cả hoạt động tuyên truyền hỗ trợ
NNT.
Nộp thuế: (i) Rủi ro: chậm nộp hoặc không nộp thuế; (ii) Nguyên nhân:
doanh nghiệp đang gặp vấn đề về dòng tiền hoặc tránh việc chuyển đổi nghĩa
vụ nợ thuế; (iii) Cách xử lý: ATO vào cuộc sớm cùng NNT, áp dụng sớm các
biện pháp thu nợ.
+ Đối với NNT là doanh nghiệp lớn:
Đăng ký: (i) Rủi ro: rủi ro thường là thấp, ngoại trừ các công ty nước ngoài
có thể thấy chưa hiểu đầy đủ hoặc thấy chưa rõ ràng quy trình đăng ký thuế nên
có sai sót; (ii) Nguyên nhân: Yêu cầu đăng ký không rõ ràng và quy trình khó
khăn; (iii) Cách xử lý: ATO bổ sung thêm nội dung làm rõ hơn quy trình đăng
ký thuế và đưa quy trình lên mạng internet để các doanh nghiệp có thể truy cập
rộng rãi.
Thời hạn tuân thủ: (i) Rủi ro: chậm nộp; (ii) Nguyên nhân: Thay đổi
nhân sự công ty, có một số vấn đề tài chính khác; (iii) Cách xử lý: cán bộ
ATO vào cuộc sớm. Đây cũng là dấu hiệu để thu hồi nợ tiềm năng.
Kê khai: (i) Rủi ro: doanh nghiệp lớn và mang tính chất quốc tế được
đánh giá rủi ro cao bởi hậu quả của việc họ không tuân thủ (thuế TNDN,
GTGT và TTĐB); (ii) Nguyên nhân: có thể do cách hiểu, cách diễn giải khác
trong việc áp dụng luật quy định cho một vấn đề phức tạp, nhiều doanh
76
nghiệp có thể có các thủ đoạn bất hợp pháp hoặc hợp pháp nhằm giảm thiểu
nghĩa vụ thuế của họ...; (iii) Cách xử lý: ATO tăng cường tìm hiểu sâu về tình
hình tuân thủ và khung tuân thủ thuế của công ty, mỗi doanh nghiệp lớn cũng
có những rủi ro khác nhau với các cách xử lý khác nhau (hỗ trợ, thanh tra,
kiểm tra toàn diện, các vấn đề gây tranh cãi phải đưa ra Toà án thì phải được
làm rõ qua Toà án, cần thiết hơn nữa sẽ kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật pháp).
Nộp thuế: (i) Rủi ro: ưu tiên quản lý các khoản nợ thuế lớn; (ii) Cách xử
lý: ATO liên tục vào cuộc nhằm đảm bảo nợ thuế phải nộp đúng hạn, có cơ
chế giám sát, cưỡng chế đảm bảo thu hồi nợ.
- Tại Thái Lan: Từ năm 2001, CQT Thái Lan đã bắt đầu Kế hoạch
xây dựng chiến lược QLRR tuân thủ thông qua việc triển khai xây dựng
trung tâm giám sát, thanh tra. CQT Thái Lan xây dựng nội dung về quản lý
tuân thủ theo chức năng và theo phân đoạn NNT gồm: Rủi ro đăng ký; Rủi
ro kê khai đúng hạn; Rủi ro kê khai đúng chỉ tiêu và đúng số thuế phải nộp
và Rủi ro nộp thuế.
CQT Thái Lan sử dụng mô hình Tháp tuân thủ của OECD để hướng dẫn
công việc tuân thủ và sử dụng công cụ, loại hình thanh tra phù hợp với mỗi
mức độ rủi ro. Hàng năm, CQT Thái Lan rà soát lại tổng thể hệ thống thuế và
xác định bổ sung thêm các rủi ro mà hệ thống phải đối mặt và đưa ra chương
trình tuân thủ về thuế cũng như xử lý của CQT đối với các vấn đề tuân thủ
nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả chiến lược ngăn chặn hành vi không tuân
thủ; tối đa hoá tuân thủ tự nguyện bằng chiến lược hỗ trợ NNT hiểu rõ nghĩa
vụ thuế của họ. Cụ thể:
Năm 2001: CQT Thái Lan đã triển khai xây dựng trung tâm giám sát, thanh
tra với nhiệm vụ phải thu thập được thông tin từ NNT, hỗ trợ, kết nối NNT với
CQT; Phân công nhóm cán bộ thanh tra phụ trách nhóm NNT cụ thể.
Năm 2006: Xây dựng tiêu chí rủi ro một cách toàn diện được sử dụng
chung để thực hiện kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT. Theo bộ tiêu chí xây
dựng, cán bộ thanh tra thuế tính toán và áp dụng thủ công để xác định rủi ro
NNT, từ đó có biện pháp quản lý phù hợp.
77
Năm 2008: Đã phân loại NNT theo các cấp độ rủi ro (NNT tốt; NNT
được giám sát rủi ro và NNT rủi ro), từ đó CQT thực hiện các biện pháp quản
lý khác nhau với mỗi cấp độ rủi ro như: NNT tốt được hưởng các chính sách
ưu đãi hơn với các cấp độ còn lại (hoàn thuế ưu tiên NNT tốt).
Năm 2011-2012: Đã hoàn thiện được kỹ năng quản lý theo rủi ro và
hình thành lên Trung tâm QLRR (RMC) để xây dựng các biện pháp quản
lý, thanh tra, kiểm tra theo rủi ro.
Năm 2013- 2017: Đã xây dựng được khung cơ sở và thực hiện thanh
tra dựa trên rủi ro. Điều này giúp nâng cao hiệu quả quản lý; tăng tính minh
bạch đối với các trường hợp được lựa chọn thanh tra, giảm được nhiều quy
trình nghiệp vụ để tập trung tăng chất lượng các cuộc thanh tra theo rủi ro.
Nhìn chung tại Thái Lan, việc thực hiện QLRR phục vụ cho công tác thanh
tra, kiểm tra được xem là nhiệm vụ trọng yếu, hàng đầu. Thái Lan tập trung hoàn
thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng trung tâm QLRR, hoàn thiện phương pháp đánh giá
rủi ro. Việc xây dựng hệ thống CNTT đồng bộ và ứng dụng phân tích đánh giá rủi
ro tổng thể là điều kiện quyết định để triển khai thực hiện QLRR thành công.
2.3.2. Xây dựng khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng
TCP và hoàn thiện các quy định pháp lý về QLRR trong QLT
Để thực hiện QLRR trong QLT theo chương trình TCP thì cần xây dựng
khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng TCP. Các quy định
về QLRR trong QLT phải được quy định tại Luật QLT và các văn bản hướng
dẫn chi tiết về QLRR tuân thủ trong tất cả các khâu, chức năng QLT, áp dụng
đối với từng phân đoạn NNT nhằm đưa QLRR về thuế dưới bức tranh tổng
thể, đảm bảo thực hiện QLRR được chính xác, phù hợp và hiệu quả.
Các nước thực hiện QLRR trong QLT như Úc, Hà Lan, Thái Lan,
Singapore… để thực hiện chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (CTP) đều
ban hành các quy định pháp lý về: việc quản lý thuế dựa trên mức độ tuân thủ
của NNT; Quy định nghĩa vụ tự kê khai, nộp thuế của NNT trên cơ sở tuân
thủ tự nguyện; quy định về cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin giữa cơ quan
thuế và NNT, giữa cơ quan thuế và bên thứ 3 (ngân hàng thương mại, điện
78
lực, hải quan…); Quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro về NNT và các hình
thức ứng quản lý phù hợp đối với từng phân đoạn NNT.
Chẳng hạn, CQT Thái Lan xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro của
doanh nghiệp theo các sắc thuế gồm 145 tiêu chí, từng tiêu chí đều có điểm
số (từ 1 đến 5 điểm), trọng số (theo hệ số 1,2,3...). Ví dụ, tiêu chí về thuế
TNDN: 52 tiêu chí; thuế TNCN: 23 tiêu chí; thuế VAT: 19 tiêu chí; chỉ số
ISIC (lấy theo báo cáo Ease of Doing Business do World Bank phát hành
hàng năm): 24 tiêu chí; chỉ số tài chính (Ratio): 27 tiêu chí….
2.3.3. Xây dựng bộ phận chuyên trách về QLRR trong QLT được tổ
chức thống nhất từ trung ương đến địa phương
Để thực hiện QLRR trong QLT cần phải có bộ phận chuyên trách về
QLRR trong cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thuế vì QLRR là nghiệp vụ kỹ
thuật quản lý chuyên sâu, phức tạp. Hầu hết các quốc gia như Bulgaria, Ba Lan,
Lithuania, Anh, Hà Lan, Úc, Thái Lan đều có bộ phận chuyên trách về QLRR
được cơ cấu tổ chức chặt chẽ đảm bảo triển khai QLRR trong QLT một cách
thống nhất từ trung ương đến địa phương. Và các cán bộ công tác tại bộ phận
này đều có những kỹ năng cần thiết về QLT và cả về chính sách, luật pháp, thủ
tục, kỹ năng phân tích, thống kê, hạ tầng CNTT…
Hiện nay, tuỳ theo đặc điểm và bố trí cho phù hợp tại CQT mỗi nước, cơ
cấu tổ chức QLRR chia làm 3 mô hình chính như sau:
Hệ thống một cấp: Vụ QLRR cấp trung ương (Tổng cục): thực hiện tất cả
các khâu: Chiến lược và lập kế hoạch (bao gồm kế hoạch hoạt động hàng năm),
phân tích các thông tin từ cấp địa phương nhằm xác định lĩnh vực rủi ro, các
biện pháp thực hiện, phát triển và theo dõi Kế hoạch hàng năm, xác định và sơ
đồ hoá rủi ro, xử lý, thực hiện và đánh giá (bao gồm phân tích rủi ro, lựa chọn,
khảo sát, phân tích thống kê, khai thác dữ liệu, thu thập dữ liệu, quản lý dữ liệu,
các công cụ IT, hỗ trợ kỹ thuật và tập huấn...).
Hệ thống hai cấp: Bao gồm Đơn vị QLRR ở cấp trung ương (Tổng cục)
và cấp địa phương (Vùng/cục). Cấp Tổng cục xây dựng chiến lược, xác định
các ưu tiên và giao nhiệm vụ cho các CQT cấp Vùng/cục và điều phối các
79
hoạt động. CQT cấp Vùng/Cục có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đề ra, trực
tiếp xây dựng các tiêu chí và kế hoạch rủi ro, thu thập dữ liệu và dữ liệu được
chuyển từ địa phương lên Tổng cục để phục vụ cho việc lập kế hoạch và phải
báo cáo trực tiếp lên cấp Tổng cục.
Hệ thống ba cấp: Bao gồm đơn vị QLRR ở cấp Tổng cục, cấp Vùng/cục
và cấp chi cục.
Mỗi mô hình nêu trên đều tồn tại ưu và nhược điểm riêng. Đối với mô
hình hệ thống thống nhất tập trung một cấp, tính ưu việt của mô hình này là
kiểm soát được tất cả các khâu, thống nhất trong việc triển khai thực hiện
QLRR. Tuy nhiên sẽ thuận lợi cho mô hình này nếu dữ liệu được tập trung và
có sẵn ở cấp trung ương, còn nếu dữ liệu phân tán thì cách tiếp cận mô hình
này là khó, tốc độ ra quyết định mất nhiều thời gian vì phải lấy ý kiến qua
nhiều đơn vị. Đối với mô hình hệ thống hai hoặc ba cấp, dữ liệu thường tập
trung tản mác, rời rạc ở cả cấp trung ương và địa phương nên không thống
nhất, báo cáo không kịp thời khiến cho việc giám sát, kiểm soát và lập kế
hoạch ở cấp trên không đúng định kỳ.
Vì vậy, mỗi quốc gia cần căn cứ vào thực trạng thu thập cơ sở dữ liệu và
ứng dụng CNTT, tình hình kinh tế- xã hội và khả năng quản lý để lựa chọn
mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp.
2.3.4. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong QLT, xây dựng hệ thống
thông tin đầy đủ về NNT
Để thực hiện QLRR trong QLT, CQT cần xây dựng được hệ thống thông
tin đầy đủ về NNT để làm cơ sở cho việc phân loại NNT theo mức độ tuân
thủ. Việc thu thập thông tin được thực hiện qua nhiều kênh: tờ khai thuế định
kỳ của NNT, thông tin từ bên thứ 3, kết quả các cuộc thanh tra, kiểm tra… và
phải hiện đại hóa công tác QLT dựa trên đẩy mạnh ứng dụng CNTT.
Tại Nam Phi, Năm 2001, Cơ quan thuế Nam Phi đã triển khai một đơn vị
nghiên cứu và phân tích để cung cấp thông tin tình báo chiến thuật và chiến
lược để hỗ trợ cho các chiến lược thực thi tuân thủ. Đơn vị này sẽ chuyển cho
80
phòng thực thi tuân thủ hồ sơ phân tích rủi ro và phân tích theo từng phân
ngành kinh tế cụ thể và chịu trách nhiệm thực hiện các công việc sau: (i) Phát
triển phương pháp QLRR chung cho toàn ngành; (ii) Cung cấp hồ sơ phân tích
rủi ro cấp quốc gia và phân tích rủi ro theo từng phân ngành kinh tế cụ thể; (iii)
Thiết lập các mối quan hệ then chốt để đảm bảo thông tin được thu thập liên
tục; (iv) Xây dựng hồ sơ phân tích rủi ro chung về NNT để phục vụ thanh tra
và kiểm tra; (v) Phân tích môi trường kinh doanh để chủ động xử lý các lĩnh
vực có rủi ro cao; (vi) Hỗ trợ kỹ thuật cho các đoàn thanh tra.
Hiện nay, Cục Thuế Nam Phi đang thực hiện một quy trình tái cấu trúc,
theo quy trình này. Cục Thuế đang phát triển một trung tâm thu thập thông tin
tình báo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Schlenther: 2004). Đơn
vị này chịu trách nhiệm phân công hồ sơ cho các nhóm thanh tra. Phương
pháp lựa chọn hồ sơ trên máy tính hiện nay chỉ được sử dụng đối với các công
ty và tập đoàn trong nước (Gordhan: 2001). Dự kiến phương pháp lựa chọn
hồ sơ này sẽ được mở rộng để tiếp nhận dữ liệu từ tất cả các tờ khai thuế thu
nhập khác, ví dụ, tờ khai thuế thu nhập cá nhân, quỹ tín thác và bất động sản.
2.3.5. Cơ quan thuế thực hiện các biện pháp đa dạng nhằm thúc đẩy
sự tuân thủ tự nguyện của NNT
Để thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT, một trong những yếu tố quan
trọng là CQT cần tạo thuận lợi nhất để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế, thúc đẩy
sự tuân thủ tự nguyện của NNT.
Chẳng hạn, Singapore có một hệ thống quản lý hiện đại, hiệu quả với tốc
độ triển khai CNTT hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, Cục
thu nội địa Singapore (IRAS) luôn là cơ quan đi đầu trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ công và được NNT đánh giá cao. Các nội dung mà Singapore đã thực
hiện hướng tới nâng cao tính tuân thủ của NNT bao gồm:
- Thứ nhất, Phân loại, xác định các nhóm tuân thủ và phương châm ứng xử
Căn cứ vào mức độ tuân thủ, NNT được chia thành 4 nhóm: (1) nhóm
tuân thủ tự nguyện; (2) nhóm chưa nhận thức; (3) nhóm bất cẩn; (4) nhóm cố
81
tình không tuân thủ. Trong đó, nhóm NNT tuân thủ tự nguyện chiếm đa số,
chỉ một số ít sai phạm do không cẩn thận hoặc chây ỳ khi thực hiện nghĩa vụ
thuế. Để nâng cao sự tuân thủ, CQT Singapore xây dựng các phương châm
ứng xử đối với từng nhóm khác nhau và tạo ra sức ép đối với các nhóm thiểu
số (chưa tuân thủ) bằng các quy tắc nhất định.
Nhóm 1 (NNT tuân thủ tự nguyện): Phương châm ứng xử với nhóm này
là “hỗ trợ và phục vụ”. CQT chủ động cung cấp các dịch vụ và sự hỗ trợ cần
thiết để khuyến khích NNT tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình. Các
hình thức hỗ trợ có thể là dịch vụ điện tử, dịch vụ, cơ chế trả lời tự động và
thông tin qua trang web về thuế.
Nhóm 2 (NNT muốn tuân thủ nhưng cần sự hỗ trợ): Phương châm ứng
xử với nhóm này là “giáo dục để ngăn chặn”. CQT thực hiện các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục để ngăn chặn sự không tuân thủ như áp dụng dịch vụ
nhắc nhở qua điện thoại; nói chuyện với các hiệp hội thương mại; trao đổi
thông tin công cộng.
Nhóm 3 (NNT có thể mắc phải những sai sót khi thực hiện nghĩa vụ thuế
do không chú ý, thiếu cẩn thận): Phương châm ứng xử với nhóm này là “phát
hiện và sửa chữa”. CQT có các hoạt động nhằm phát hiện và ngăn chặn sự tái
phạm các lỗi mà nhóm này thường gặp phải, trong đó, có chương trình kiểm
toán và chương trình “công khai tự nguyện” để khuyến khích việc sửa các lỗi
mắc phải. Chương trình Công khai tự nguyện giúp NNT giải quyết những vấn
đề về thuế bằng cách khuyến khích họ tiến bộ, thực hiện đúng thời hạn, công
khai các lỗi sai hoặc sự bất cẩn.
Nhóm 4 (NNT gian lận một cách có chủ ý và trốn thuế): Phương châm
ứng xử với nhóm này là “phạt và ngăn chặn”. CQT sử dụng ngay các biện
pháp mạnh như: các hình thức phạt, cưỡng chế, thanh tra và có thể truy tố.
- Thứ hai, Xây dựng khung chiến lược thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện
Để hình thành môi trường tuân thủ thuận lợi và khuyến khích những
người tuân thủ tự nguyện, hoạt động của CQT dựa trên 4 trụ cột sau:
82
Xây dựng hệ thống thuế đơn giản: Một hệ thống thuế đơn giản sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người tuân thủ, tối thiểu hóa chi phí tuân thủ,
làm giảm cơ hội gian lận từ hệ thống thuế. Vì vậy, CQT cần rà soát một cách
chủ động để đơn giản hóa các quy trình, thủ tục về thuế để NNT có thể tuân
thủ một cách dễ dàng; giảm thiểu yêu cầu báo cáo và đưa ra nhiều cách
thuận tiện hơn để kê khai và nộp thuế sẽ khuyến khích sự tuân thủ tốt hơn.
NNT được thông tin đầy đủ: NNT khi biết rõ số thuế phải nộp, cách thức
thực hiện việc kê khai, nộp thuế sẽ có trách nhiệm hơn và có nhiều khả năng
thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Vì vậy, CQT cần cung cấp các thông tin một
cách chủ động và kịp thời qua nhiều kênh khác nhau, các thông tin cần dễ
hiểu để NNT thực hiện đúng nghĩa vụ thuế ngay từ đầu. Cùng với việc cung
cấp thông tin hướng dẫn thuế điện tử qua Website được cập nhật liên tục,
chính xác; đối thoại với các nhóm NNT mục tiêu; phân loại đối xử thuế; các
dịch vụ hỗ trợ nộp thuế cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp.
Việc QLT tin cậy và sự tin tưởng vào CQT: Khả năng của CQT trong
việc đảm bảo sự tuân thủ của tất cả mọi NNT là điều cốt yếu để tạo ra sự tin
tưởng và của công chúng. Vì vậy, CQT cần khuyến khích sự tuân thủ tự
nguyện của NNT thông qua giáo dục, tuyên truyền; cần có những hành động
nghiêm minh đối với sự không tuân thủ như quy định các hình thức phạt đủ
nặng đối với các hành vi vi phạm, truy tố những người có hành vi trốn thuế.
Phát triển tốt các năng lực về công nghệ và kỹ năng trong lĩnh vực kiểm toán
và thanh tra thuế sẽ góp phần xây dựng một hệ thống QLT tin cậy.
Cộng đồng cam kết: Niềm tin của người dân đối với việc nộp thuế là rất
cần thiết và hỗ trợ cho CQT rất nhiều trong việc đảm bảo tất cả mọi người
đều nộp thuế một cách công bằng. Vì vậy, việc khắc sâu một cảm giác mạnh
về sự công bằng và chính đáng của việc nộp thuế là rất cần thiết để tạo dựng
lòng tin trong cộng đồng. Ngoài ra, việc phát triển mạng lưới những người
cung cấp thông tin rộng rãi hơn, gắn kết các đối tác quan trọng (đại lý thuế,
hiệp hội thương mại, hiệp hội thuế, các cơ quan khác của Chính phủ) là điều
83
kiện cần thiết để tạo ra một cộng đồng gắn kết và tự nguyện tuân thủ.
- Thứ ba, Triển khai các hoạt động quản lý hướng đến NNT
CQT đã xây dựng chiến lược cải thiện hoạt động của CQT hướng đến
NNT, tạo điều kiện cho NNT có những hiểu biết về thuế và cung cấp các
phương tiện để đơn giản hoá việc thực hiện nghĩa vụ thuế. CQT thực hiện
việc kê khai thuế thông qua hệ thống điện thoại và kê khai điện tử. Nhờ cải
thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường tuyên truyền, quảng bá về các hình
thức kê khai mới, đến nay hầu hết NNT thực hiện kê khai thuế điện tử.
Ngoài ra, CQT đã xây dựng hệ thống phân tích thông tin tích hợp để
phục vụ công tác tư vấn, hỗ trợ NNT. Nhờ có dịch vụ trả lời điện thoại tự
động và dịch vụ tư vấn thuế một cửa, có đến 43% các vấn đề vướng mắc về
thuế được giải quyết bằng dịch vụ điện thoại trả lời tự động và NNT có thể sử
dụng dịch vụ một cửa để được giải đáp tất cả các vướng mắc về thuế.
Thông qua chương trình, kế hoạch phối hợp cung cấp thông tin với các
cơ quan khác của Chính phủ, CQT Singapore đang xây dựng chiến lược phát
triển với mục tiêu dài hạn là xoá bỏ mọi hình thức yêu cầu NNT phải kê khai
thuế, CQT cùng với các cơ quan của Chính phủ sẽ kiểm soát mọi trường hợp
đăng ký kinh doanh, kiểm soát các luồng tiền, thu nhập, từ đó tự xác định
nghĩa vụ thuế cho từng NNT. Chính nhờ những bước cải tiển triệt để này mà
CQT Singapore đã giúp cho NNT giảm đáng kể chi phí cho việc tuân thủ
nghĩa vụ nộp thuế, từ đó xây dựng và củng cố lòng tin của Chính phủ và
người dân vào hoạt động quản lý của mình, tính tuân thủ pháp luật thuế của
NNT vì vậy được nâng cao rõ rệt.
84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong hoạt động QLT, rủi ro có thể phát sinh từ quá trình hoạch định,
xây dựng chính sách pháp luật thuế; từ quá trình tổ chức quản lý thu thuế; từ
quá trình tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
QLRR trong QLT được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc nhất định
bao gồm các nguyên tắc chung của QLRR và các nguyên tắc gắn với hoạt
động QLT. Việc thực hiện QLRR trong QLT phải tuân thủ theo quy trình
QLRR gắn với các nội dung cụ thể, từ việc xây dựng hành lang pháp lý; tổ
chức bộ máy QLRR; thực hiện các bước công việc trong QLRR như: thu thập
thông tin về mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT, xây dựng các tiêu chí
phân loại rủi ro, phân loại mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của
NNT, xác định các biện pháp QLT cụ thể với các nhóm NNT theo mức độ rủi
ro của họ…
QLRR trong QLT chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ
quan, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng sẽ giúp cho CQT tùy vào tình
hình kinh tế- xã hội và trình độ quản lý thuế của mỗi quốc gia để lựa chọn sự
tiếp cận mô hình QLT theo kỹ thuật QLRR phù hợp nhất. Ngoài ra, nhiều
quốc gia trên thế giới có những kinh nghiệm phong phú khi thực hiện QLRR
trong QLT, việc nghiên cứu những kinh nghiệm này sẽ giúp CQT Việt Nam
xây dựng được chương trình QLRR tổng thuể, nâng cao hiệu quả công tác
QLT tại Việt Nam
Tóm lại, Chương 2 của Luận án đã phân tích được các cơ sở lý luận quan
trọng về QLRR trong QLT. Đây là nền tảng lý thuyết cần thiết để đánh giá
thực tiễn, đề xuất giải pháp theo mục tiêu nghiên cứu của Luận án.
85
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM
3.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2014 – 2020
3.1.1. Tình hình quản lý NNT Giai đoạn 2014-2020, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển với tốc độ khá, năm 2014 đạt 5,98%, năm 2020 mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid 19 nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt 2,91%, nằm trong nhóm số ít các quốc gia trên thế giới có tăng trưởng dương, bình quân cả giai đoạn trên 5%. Đến hết năm 2020, quy mô nền kinh tế nước ta đạt 343 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh được thành lập mới và tham gia thị trường ngày càng tăng. Quy mô, tính chất, phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng. Doanh nghiệp và hộ kinh doanh không chỉ tăng nhanh về số lượng mà cả về tốc độ gia nhập nền kinh tế.
Bảng 3.1. Thống kê NNT giai đoạn 2014-2020
Nội dung
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
So sánh giai đoạn 2020- 2014
557.252
611.914
681.158
765.843
832.454
757.533
810.105 +45,37%
69.619
96.669
110.270
126.739
131.807
137.541
135.783 +95,04%
487.633
515.245
570.888
639.104
700.647
619.992
674.322 +38,28%
68.169
91.708
74.922
67.626
76.581
78.066
81.722 +19,88%
- Tổng số doanh nghiệp, trong đó: + Số DN thành lập mới + Số DN thực tế đang hoạt động + Số DN chấm dứt kinh doanh
- Số hộ kinh doanh 1.573.250 1.610.000 1.632.009 1.679.120 1.815.014 1.793.132 1.930.235 +22,7%
Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế
86
Bảng 3.1 cho thấy, năm 2020, tổng số doanh nghiệp đã tăng 45,37% so
với năm 2014, trong đó tốc độ gia tăng doanh nghiệp thành lập mới năm 2020
tăng 95,04% so với năm 2014, bên cạnh đó tỷ lệ doanh nghiệp chấm dứt kinh
doanh cũng tăng nhưng không đáng kể là 19,88%. Như vậy, thực tế số doanh
nghiệp đang hoạt động tính đến cuối năm 2020 đã tăng so với năm 2014 là
38,28%. Về hộ kinh doanh giai đoạn này cũng tăng đáng kể, theo số liệu
thống kê thì năm 2020 đã tăng 15,4% so với năm 2014. Số liệu trên chứng tỏ,
việc xây dựng các chính sách mới và thực hiện phương thức quản lý hiện đại
đã khuyến khích chủ thể nền kinh tế phát triển, từ đó có thể đảm bảo nguồn
thu ngân sách luôn ổn định và phát triển.
3.1.2 Tình hình thu ngân sách
Cùng với sự phát triển kinh tế, sự gia tăng lớn mạnh của doanh nghiệp và
hộ kinh doanh, sự ổn định của chính sách thuế, quy mô số thu ngân sách nhà
nước ngày càng tăng.
Bảng 3.2. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020
(phân loại theo khu vực nền kinh tế)
Đvt: tỷ đồng
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
693.641
817.071
896.977
1.028.775
1.156.175
1.280.652
1.295.645
Chỉ tiêu Tổng số thu do ngành Thuế quản lý, trong đó:
- Thu dầu thô
100.082
67.510
40.186
49.583
66.048
56.251
34.598
- Thu nội địa, gồm:
593.559
749.561
856.790
979.192
1.090.127
1.224.401
1.261.047
+ Khu vực DNNN
145.217
159.906
152.975
147.238
153.323
165.056
148.208
123.802
140.979
162.934
172.166
190.309
210.214
206.089
112.196
129.582
157.082
181.001
209.625
238.228
247.104
+ KV DN vốn ĐTNN + KV CTN&DV NQD
Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế
87
Bảng 3.2 cho thấy, Xét về tổng thể tổng số thu do ngành Thuế quản lý năm
2020 đạt 1.295.645 tỷ đồng tăng 86,79% so với năm 2014. Đây là cả sự cố gắng
lớn của ngành thuế trong cả xây dựng cơ chế chính sách, cũng như đổi mới
phương thức quản lý cho phù hợp điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động ảnh
hưởng từ nền kinh tế thế giới. Hệ thống chính sách thuế được xây dựng, hoàn
thiện đảm bảo minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện; mở rộng cơ sở thuế để
phát triển nguồn thu, bao quát các nguồn thu mới phát sinh và cơ cấu lại theo
hướng tăng tỷ trọng nguồn thu nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ
tài nguyên khoáng sản (dầu thô) và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu.
Nếu xét chi tiết theo tỷ trọng cơ cấu nguồn thu: năm 2014 nguồn thu từ
dầu thô chiếm 14,43% và thu từ nội địa chiếm 85,57% trong tổng nguồn thu
và đến năm 2020 tỷ trọng nguồn thu có sự thay đổi đáng kể thu từ dầu thô
giảm còn 2,67% và thu nội địa chiếm 97,33%. Như vậy nguồn thu từ dầu thô
ngày càng giảm, để đảm bảo nguồn thu ngân sách nhằm phục vụ cho các nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội thì đòi hỏi phải có sự đóng góp chung của các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Trong cơ cấu tỷ trọng nguồn thu nội địa
(không kể dầu thô), nổi bật về sự tăng trưởng trong giai đoạn này phải kể đến
sự gia tăng nguồn thu từ khu vực CTN&DV NQD tăng 120,24% (từ 112.196
tỷ đồng năm 2014 đã tăng lên đến 247.104 tỷ đồng năm 2020), tiếp đó là sự
gia tăng nguồn thu từ khu vực doanh nghiệp vốn ĐTNN tăng 66,47% (từ
123.802 tỷ đồng năm 2014 tăng lên 206.089 tỷ đồng năm 2020), phù hợp với
mục tiêu định hướng sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tăng
cường thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
Điều này cho thấy, ngành Thuế đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
xây dựng các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư từ
bên ngoài cũng như thúc đẩy sản xuất trong nước. Những thay đổi cơ bản
trong phương thức QLT theo hướng hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành phần kinh tế phát triển, đồng thời cũng duy trì tăng trưởng bền vững
nguồn thu góp phần vào sự phát triển của đất nước. Điều này đã được minh
88
chứng qua số liệu cơ cấu nguồn thu từ hoạt động SXKD đã ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn, tăng trưởng qua các năm và bền vững.
Bảng 3.3. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020
Đvt: tỷ đồng
(Phân loại theo sắc thuế)
Chỉ tiêu
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Tổng số thu do ngành Thuế quản lý,
693.641
817.071
896.977
1.028.775
1.156.175
1.280.652
1.295.645
trong đó:
- Thu dầu thô
100.082 67.510
40.186
49.583
66.048
56.251
34.598
- Thu nội địa,
gồm:
593.559
749.561
856.790
979.192
1,090.127
1,224.401
1,261.047
+ Thuế GTGT
163.727 181.770
192.704
208.402
228.840
247.100
241.287
+ Thuế TTĐB
55.474
66.653
85.854
85.086
96.025
106.753
100.090
+ Thuế TNDN
128.220 144.681
158.618
175.642
197.656
228.712
231.277
+ Thuế TNCN
47.844
56.723
65.235
78.775
94.364
109.406
115.213
+ Khác
198.294 299.734
354.379
431.286
473.242
532.318
573.180
Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế
Qua Bảng 3.3 có thể thấy tỷ trọng nguồn thu đã tập trung chủ yếu vào
các sắc thuế chính như GTGT, TNDN, TTĐB và thuế TNCN, đáng chú ý
phải kể đến nguồn thu từ thuế TNCN năm 2020 đã tăng hơn 140% so với năm
2014; thuế GTGT năm 2020 tăng 47,4% so với năm 2014; thuế TTĐB, thuế
TNDN đều tăng hơn 80%. Đây là kết quả sự thay đổi trong rà soát, điều chỉnh
chính sách cho phù hợp theo yêu cầu phát triển đất nước theo hướng giảm tỷ
lệ động viên về thuế cho NNT, góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, khuyến khích thu hút đầu tư của các thành
phần kinh tế và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bảo hộ hợp lý có chọn lọc,
có thời hạn các sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước phù hợp với các cam
kết, thông lệ quốc tế.
Tổng số thu ngân sách ngày càng tăng lên năm sau vượt dự toán thu và
89
tăng so với cùng kỳ năm trước góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển
kinh tế- xã hội, trong khi số thu từ dầu thô ngày càng giảm thì ngành thuế đã
nỗ lực phấn đấu kiểm soát và có nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy tăng tối đa
nguồn thu từ đó làm tăng thu nội địa cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của đất nước.
3.1.3. Tình hình thực hiện công tác quản lý thuế
Trong giai đoạn 2014 - 2020, công tác QLT đã được hiện đại hóa toàn
diện theo định hướng chuẩn mực quốc tế cả về phương pháp quản lý, thủ tục
hành chính, và ứng dụng CNTT trong tất cả các khâu của công tác QLT. Tính
đến ngày 31/12/2020 ngành Thuế đã phối hợp với cơ quan đăng ký kinh
doanh triển khai thực hiện đăng ký thuế điện tử cho 100% NNT là doanh
nghiệp và hợp tác xã tại bộ phận “một cửa liên thông” (so mục tiêu đặt ra đến
năm 2020 là 65% doanh nghiệp đăng ký thuế qua mạng internet); đã có 98%
số tờ khai thuế đã được nộp so với tổng số tờ khai thuế phải nộp theo quy
định của pháp luật (so mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là tỷ lệ tờ khai thuế đã
nộp trên tổng số tờ khai thuế phải nộp đạt tối thiểu là 95%); đã có 97% số
tờ khai đã được nộp đúng hạn so với tổng số tờ khai thuế đã nộp (so mục tiêu
đặt ra đến năm 2020 là tỷ lệ tờ khai thuế nộp đúng hạn đạt tối thiểu 95%);
đã đạt tỷ lệ 99,9% doanh nghiệp khai thuế điện tử, 98,7% doanh nghiệp đăng
lý nộp thuế điện tử và 95,5% doanh nghiệp tham gia hoàn thuế điện tử (so
mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là tối thiểu 90% doanh nghiệp sử dụng các dịch
vụ thuế điện tử).
Đồng thời, ngành thuế đã tập trung đôn đốc kịp thời, đầy đủ các khoản nợ
thuế vào NSNN, theo đó tính đến thời điểm 31/12/2020, tỷ lệ tổng nợ thuế trên
tổng dự toán thu ngành Thuế quản lý năm 2020 là 7,4%. Lũy kế tính đến tháng
12/2019 tỷ lệ thu nợ đạt 90,8% nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2018,
đạt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, sang năm 2020 do tác động của thiên tai, dịch
bệnh nên lũy kế tính đến thời điểm 31/12/2020 thu đạt 28.470 tỷ đồng, đạt
67,3% nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2019.
Như vậy, qua số liệu thống kê ngành Thuế cho thấy các chỉ tiêu về tỷ lệ
90
khai nộp thuế, tỷ lệ nợ thuế, tỷ lệ thu nợ tương đối tốt, đã đạt được mục tiêu
đề ra so với Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020, phản
ánh hiệu quả thu thuế của Việt Nam tương đối tích cực và đạt được những kết
quả cải cách quan trọng.
Tuy nhiên, số liệu thống kê ngành Thuế cũng cho thấy, tốc độ tăng thu
ngày một giảm dần và vẫn còn tình trạng thất thoát thuế. Cụ thể như sau:
+ Tình hình trốn thuế, gian lận thuế của các doanh nghiệp
Theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước một số
năm gần đây, tình trạng người nộp thuế kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi
phí, từ đó tính thiếu thuế GTGT, thuế TNDN và lợi nhuận còn lại phải nộp
NSNN, nợ thuế vẫn diễn ra phổ biến và không có dấu hiệu thuyên giảm. Kiểm
toán Nhà nước xác định số phải nộp NSNN tăng dần qua các năm, từ hơn 11
nghìn tỷ đồng năm 2014 lên khoảng 18 nghìn tỷ đồng năm 2020. Đặc biệt, năm
2019, qua thực hiện phương pháp đối chiếu thuế 3.171 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tại 49 địa phương, số xác định nộp NSNN tăng thêm là 1.635 tỷ đồng tại
2.921 doanh nghiệp (chiếm 92,1% doanh nghiệp đối chiếu).
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2014 - 2020, ngành
Thuế đã thực hiện 471 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra, đã truy thu, truy hoàn
và phạt số tiền lên đến gần 90 nghìn tỷ đồng. Tình trạng chuyển giá của khu
vực doanh nghiệp FDI ngày càng gia tăng, phức tạp. Tốc độ tăng mức đóng
góp vào NSNN quá thấp so với tốc độ tăng lợi nhuận là chưa tương xứng với
nguồn tài nguyên và kết quả sản xuất - kinh doanh thực tế của khu vực doanh
nghiệp FDI. Báo cáo của Bộ Tài chính cũng cho thấy, tốc độ tăng về số nộp
NSNN (7%) của khu vực FDI năm 2014 so với năm 2020 thấp hơn tốc độ
tăng về lợi nhuận trước thuế (19,2%) và lợi nhuận sau thuế (22,6%), cho thấy
đóng góp vào NSNN của doanh nghiệp FDI tăng trưởng chậm hơn so với tăng
trưởng của năng lực hoạt động.
+ Tình trạng nợ thuế
91
Theo Tổng cục Thuế, khoản nợ thuế do ngành thuế quản lý tiếp tục tăng
qua các năm và diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc thuế.
Theo thống kê của Tổng cục Thuế về tình hình quản lý nợ và cưỡng chế
nợ thuế từ năm 2014 đến 2020 thì tỷ lệ tổng nợ thuế đến thời điểm 31/12 hàng
năm so với tổng thu NSNN trong giảm dần trong giai đoạn 2014-2020: năm
2014 là 12,2%, năm 2015 là 10,3%, năm 2016 là 9,1%, năm 2017 là 8%, năm
2018 là 7,5%, năm 2019 là 7,4%, năm 2020 là 7,4%. Song số nợ khó thu lại
có xu hướng tăng, đặc biệt vào năm 2020 do tác động của thiên tai, dịch bệnh
nên lũy kế tính đến thời điểm 31/12/2020 thu đạt 28.470 tỷ đồng, đạt 67,3%
nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2019.
Bên cạnh đó, tính tuân thủ thuế của một bộ phận không nhỏ NNT chưa
cao. Theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước một
số năm gần đây, tình trạng NNT kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi phí,
từ đó tính thiếu thuế GTGT, thuế TNDN và lợi nhuận còn lại phải nộp NSNN,
nợ thuế vẫn diễn ra phổ biến và chưa có dấu hiệu giảm.
Việc các doanh nghiệp kê khai lỗ nhiều năm liên tiếp để trốn đóng thuế
TNDN cũng khá phổ biến, điển hình là các doanh nghiệp FDI. Thống kê
những năm qua cho thấy, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai
lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp.
3.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014 – 2020
3.2.1 Thực trạng xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản
lý rủi ro trong quản lý thuế
QLRR trong QLT là một yêu cầu tất yếu của QLT hiện đại, tuy nhiên,
đối với Việt Nam trong giai đoạn trước 2012, đây là một nội dung còn rất
mới. Để chuẩn bị cho việc thực hiện QLRR trong QLT, Tổng cục Thuế đã
từng bước thí điểm thực hiện QLRR trong một số khâu, một số chức năng
quản lý thuế. Tuy nhiên, việc thí điểm này cũng chỉ dừng lại ở các văn bản
nội bộ ngành, chưa được quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp
92
luật. Cụ thể, năm 2009, Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 460/QĐ-TCT
ngày 05/5/2009 về việc ban hành Quy trình thanh tra thuế, trong đó quy định
bố sung các quy định về thực hiện QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra
NNT. Theo quy trình này, việc xây dựng kế hoạch thanh tra các năm được
dựa trên hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro, mức độ tuân thủ pháp
luật thuế của NNT (tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp). Năm 2012,
Tổng cục thuế đã ban hành một số tiêu chí định hướng lựa chọn NNT rủi ro
với các mức điểm cụ thể, tạo thuận lợi cho khâu chấm điểm rủi ro doanh
nghiệp để lựa chọn được những doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế để thực
hiện thanh tra thuế.
Trên cơ sở những kết quả bước đầu từ việc thí điểm thực hiện QLRR vào
hoạt động thanh tra thuế theo quy trình thanh tra thuế nêu trên, Bộ Tài chính
đã tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội bổ sung quy định về việc QLRR
trong quản lý thuế vào Luật QLT số 21/2012/QH13 ngày 20/1/2012 của Quốc
hội có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
QLT số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006. Khoản 4, Điều 4. Luật này nêu rõ:
“Áp dụng cơ chế QLRR trong QLT:
a) Việc áp dụng cơ chế QLRR trong QLT bao gồm: thu thập thông tin,
dữ liệu liên quan đến NNT; xây dựng các bộ tiêu chí QLT; đánh giá việc tuân
thủ pháp luật của NNT; đề xuất, áp dụng các biện pháp QLT;
b) Cơ quan QLT quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh
giá rủi ro về thuế, mức độ tuân thủ pháp luật của NNT, lựa chọn đối tượng kiểm
tra, thanh tra về thuế và hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong QLT.”
Khoản 10, Điều 5 Luật này có giải thích từ ngữ về QLRR trong QLT:
“QLRR trong QLT là việc áp dụng có hệ thống các quy định pháp luật, các
quy trình nghiệp vụ để xác định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể tác
động tiêu cực đến hiệu quả, hiệu lực QLT, làm cơ sở để cơ quan QLT phân bổ
nguồn lực hợp lý, áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả”.
Trên cơ sở quy định của Luật Quản lý thuế, quy định pháp lý về QLRR
93
trong QLT tiếp tục được cụ thể hóa tại Nghị định 83/2013/NĐ-CP ngày
22/7/2013 của Chính phủ và được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số
204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ Tài chính quy định về thực hiện
quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Trong đó quy định cụ thể về nguyên tắc, nội
dung, trình tự thực hiện QLRR trong QLT, tạo hành lang pháp lý cho việc
triển khai thực hiện QLRR trong QLT một cách đầy đủ, toàn diện.
Nội dung QLRR trong QLT: Điều 6 Thông tư 204/2015/TT-BTC quy
định cơ quan thuế thực hiện QLRR đối với: Quản lý đăng ký thuế; Quản lý,
kiểm tra khai thuế, nộp thuế; Quản lý hoàn thuế; Xác định, lựa chọn người
nộp thuế để thực hiện đưa vào kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế theo quy định
của pháp luật; Quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế; Phân loại người nộp thuế áp dụng các biện pháp quản lý trong việc tạo,
in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế; Thu thập, phân tích thông tin, xác
định trọng điểm giám sát đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp
luật thuế; Cung cấp thông tin, dữ liệu, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác
trong quản lý thuế. Như vậy thông tư đã quy định thực hiện QLRR trong hầu
hết các khâu các chức năng quản lý thuế.
Nguyên tắc QLRR rủi ro trong QLT:
- CQT thực hiện QLRR để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT
tuân thủ tốt các quy định của pháp luật, đồng thời phòng chống, phát hiện, xử
lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong QLT đối với NNT.
- Trong QLT, NNT phải được đánh giá rủi ro để áp dụng lựa chọn
trường hợp kiểm tra, thanh tra thuế, phân loại hồ sơ hoàn thuế, biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, phân loại trường hợp tạo, in,
phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế và các biện pháp nghiệp vụ cần thiết
khác ở mức độ phù hợp nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật thuế.
- Việc đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật của NNT căn cứ các
quy định của pháp luật, các quy trình, biện pháp nghiệp vụ QLT, dựa trên tiêu
chí QLRR, thông tin nghiệp vụ và thông tin, dữ liệu có trên “Hệ thống cơ sở
94
dữ liệu về NNT” của Tổng cục Thuế.
- CQT thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát trên cơ sở đánh
giá xếp hạng mức độ rủi ro cao, sử dụng các biện pháp phù hợp đối với những
trường hợp được đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro thấp.
- CQT thực hiện cập nhật thông tin đầy đủ vào hệ thống cơ sở dữ liệu
thông tin nghiệp vụ thuế và hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT theo nguyên tắc
điện tử hóa, số hóa các chứng từ, thông tin liên quan. Các hoạt động tác
nghiệp phải thực hiện trên hệ thống, đảm bảo cập nhật trạng thái quản lý
thường xuyên, liên tục.
Trình tự QLRR rủi ro trong QLT:
- CQT tổ chức thu thập, xử lý thông tin dữ liệu theo phương thức điện tử
liên quan đến NNT. Xây dựng, vận hành, quản lý, sử dụng “Hệ thống cơ sở
dữ liệu về NNT” của Tổng cục Thuế.
- Tổng cục Thuế xây dựng, trình Bộ Tài chính ban hành bộ tiêu chí
QLRR đáp ứng yêu cầu QLT trong từng thời kỳ (3 năm); Định kỳ hàng quý
thực hiện rà soát điều chỉnh bổ sung đảm bảo tính cập nhật phù hợp thực tế.
- CQT căn cứ các quy định của pháp luật, các quy trình, biện pháp
nghiệp vụ QLT, bộ tiêu chí QLRR, hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT và ứng
dụng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ thuế để phân tích, xác định,
đánh giá mức độ rủi ro; đánh giá tuân thủ pháp luật của NNT; quản lý hồ sơ
rủi ro đối với các đối tượng trọng điểm vi phạm pháp luật thuế.
- CQT căn cứ kết quả đánh giá mức độ rủi ro; đánh giá tuân thủ pháp
luật của NNT để áp dụng các biện pháp: Quản lý đăng ký thuế; quản lý, kiểm
tra khai thuế, nộp thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; phân loại hồ sơ hoàn thuế;
biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; phân loại đối tượng
tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế và các biện pháp nghiệp vụ
cần thiết khác đối với NNT.
- CQT theo dõi, cập nhật, đánh giá thông tin phản hồi về kết quả thực
hiện các biện pháp QLT đối với NNT; đo lường mức độ tuân thủ pháp luật
95
của NNT.
- CQT quản lý, lưu trữ, cung cấp thông tin, dữ liệu; chỉ đạo, hướng dẫn
điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện QLRR để đảm bảo hiệu quả QLT.
Như vậy, cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT từ Luật Quản lý thuế đến
các văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là nội dung quy định, hướng dẫn cụ
thể việc thực hiện QLRR trong QLT tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày
21/12/2015 của Bộ Tài chính đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc
triển khai thực hiện QLRR trong QLT, góp phần cải cách, hiện đại hóa công
tác QLT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT thời gian qua. Đến nay, Thông tư
số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 đã được thay thế bởi Thông tư số
31/2021/TT-BTC ngày 17/5/2021 có hiệu lực thi hành từ ngày 2/7/2021.
Bên cạnh đó khi thực hiện khảo sát với 400 công chức thuế về việc đảm
bảo hành lang pháp lý, kết quả khảo sát được thể hiện qua biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về đảm bảo hành lang pháp lý
Kết quả khảo sát cho thấy 356 phiếu (tương ứng 89% công chức được
khảo sát) cho rằng văn bản quy phạm pháp luật và các quy định hiện hành đã
đảm bảo đầy đủ và tương đối đầy đủ hành lang pháp lý; chỉ 44 phiếu (tương
ứng 11% công chức được khảo sát) cho rằng văn bản quy phạm pháp luật
chưa đầy đủ hành lang pháp lý.
96
3.2.2 Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại cơ quan thuế
Trước thời điểm Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của
Bộ Tài chính được ban hành, tại CQT không có bộ phận độc lập về quản lý
rủi ro. Nhiệm vụ nghiên cứu, thực hiện QLRR trong QLT tại Tổng cục được
giao cho Vụ Thanh tra, kiểm tra thuế; tại các Cục Thuế được giao cho một
phòng thanh tra, trong giai đoạn này việc QLRR chủ yếu được thực hiện đối
với công tác thanh tra, kiểm tra NNT.
Sau khi Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ Tài
chính được ban hành và có hiệu lực, tại khoản 3 Điều 28 Thông quy định: Tổng
cục Thuế tổ chức đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ QLRR trực thuộc
Tổng cục Thuế, Cục Thuế các tỉnh thành phố, Chi cục Thuế có số doanh
nghiệp quản lý lớn (trên 3.000 doanh nghiệp) và số thu lớn (từ 1.000 tỷ đồng),
đối với các chi cục Thuế còn lại giao đội kiểm tra thuế làm đầu mối, chủ trì
giúp thủ trưởng CQT các cấp tổ chức thu thập, xử lý thông tin, xây dựng cơ sở
dữ liệu, xây dựng bộ tiêu chí QLRR, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ
thuế để phân tích, xác định, đánh giá mức độ rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật
của NNT và trực tiếp chủ trì thực hiện QLRR trong quản lý thuế.
Ngày 09/10/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 2019/QĐ-
BTC về việc thành lập Ban QLRR trực thuộc Tổng cục thuế. Ban QLRR có
các nhiệm vụ:
- Tham mưu giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế xây dựng hệ thống cơ
sở pháp lý, tiêu chí, quy trình, quy định về QLRR trong QLT;
- Xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm về QLRR trong
QLT trình Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế để báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài
chính xem xét, quyết định;
- Chủ trì tham mưu giúp Tổng cục điều phối triển khai chương trình, kế
hoạch về QLRR trong QLT toàn ngành sau khi được phê duyệt;
- Trực tiếp tổ chức thực hiện thu thập, phân tích thông tin, đánh giá rủi ro
ở các khâu trong QLT; đánh giá phân loại rủi ro trong việc chấp hành pháp luật
97
của tổ chức, cá nhân nộp thuế;
- Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức triển khai ứng dụng các biện pháp, kỹ
thuật nghiệp vụ QLRR; đề xuất trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật đáp ứng yêu
cầu QLRR;
- Tổng kết đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ QLRR trong
QLT; đánh giá việc tổ chức thực hiện áp dụng kỹ thuật QLRR với các tổ chức,
đơn vị trong phạm vi toàn ngành;
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách về QLRR trong QLT;
- Tổ chức triển khai các chương trình hợp tác và trao đổi thông tin QLRR
giữa ngành Thuế với cơ quan, tổ chức liên quan;
- Phối hợp xây dựng nội dung, chương trình và tham gia giảng dạy, đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ QLRR trong QLT;
- Thực hiện việc bảo quản và lưu giữ hồ sơ nghiệp vụ, tài liệu và các văn
bản pháp quy của Nhà nước, tài sản cơ quan theo quy định; và thực hiện các
nhiệm vụ khác do Tổng cục Trưởng Tổng cục Thuế giao.
Cùng với Quyết định thành lập Ban, Tổng cục thuế đã ban hành Quy chế
tổ chức và hoạt động của Ban theo Quyết định số 2363/QĐ-TCT. Sau khi được
thành lập, theo chức năng nhiệm vụ được giao, Ban QLRR đã triển khai đồng
bộ việc rà soát, nghiên cứu, triển khai xây dựng hệ thống CSDL, hệ thống ứng
dụng CNTT phục vụ QLRR; nghiên cứu, xây dựng các bộ tiêu chí, chỉ số
đánh giá rủi ro, quy định, quy trình nghiệp vụ QLRR, trong đó ưu tiên triển
khai đối với một số chức năng QLT trọng yếu hiện nay: thanh tra, kiểm tra, kê
khai, hoàn thuế, quản lý hóa đơn; xây dựng Kế hoạch thực hiện QLRR trong
QLT giai đoạn 2016-2020, xây dựng, sửa đổi các quy chế phối hợp với Cơ
quan Hải quan, Ủy ban chứng khoán…
Tại cấp Cục Thuế và Chi cục Thuế không tổ chức bộ phận QLRR
chuyên trách, mà nhiệm vụ này được giao cho một phòng thanh tra làm đầu
mối chịu trách nhiệm chính và các phòng chức năng có trách nhiệm phối hợp
triển khai thực hiện.
98
Về quyền hạn, nhiệm vụ trong thực hiện QLRR:
Quyền hạn và nhiệm vụ thực hiện QLRR đã được quy định tại Luật QLT
và các văn bản hướng dẫn Luật, cụ thể:
-Thứ nhất, quyền hạn và nhiệm vụ của Bộ trưởng Bộ Tài chính: “Ban
hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro theo các chức năng đáp ứng yêu cầu QLT
trong từng thời kỳ”
-Thứ hai, quyền hạn và nhiệm vụ của CQT:
Sử dụng thông tin về NNT để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác
QLRR về thuế; Quản lý, ứng dụng CNTT, hệ thống thông tin nghiệp vụ, cơ sở
dữ liệu về NNT để đánh giá rủi ro trong QLT; đánh giá mức độ tuân thủ pháp
luật của NNT để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ QLT và xác định, lựa chọn
đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế theo quy định của pháp luật.
Như vậy cho đến nay Tổng cục Thuế đã thành lập được đơn vị chuyên
trách chịu trách nhiệm nghiên cứu và tổ chức thực hiện QLRR trong toàn
ngành thuế. Kết quả hoạt động trong mấy năm qua cho thấy, QLRR đã được
thực hiện trong hầu hết các khâu, các chức năng quản lý chính và phát huy
hiệu quả rõ rệt giúp cơ quan thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy
nhiên, tại cấp Cục thuế việc tổ chức thực hiện QLRR vẫn được giao cho một
phòng thanh tra kiêm nhiệm.
Kết quả khảo sát với 400 công chức thuế về sự cần thiết phải thực hiện
QLRR trong QLT cho thấy: có 370 phiếu trả lời (tương ứng với 92,5% công
chức được hỏi) cho rằng cần thiết phải thực hiện QLRR trong QLT; chỉ 30
phiếu (tương ứng 7,5% công chức được hỏi) cho rằng tương đối cần thiết phải
thực hiện QLRR trong QLT; không ai được hỏi cho rằng không cần thiết thực
hiện QLRR trong QLT.
Kết quả khảo sát về tổ chức bộ máy QLRR tại Cục Thuế cho thấy: có
117 công chức tham gia khảo sát (tương ứng 29,25%) cho rằng cần thành lập
phòng QLRR tại Cục Thuế; 186 công chức tham gia khảo sát (tương ứng
46,5%) cho rằng cần thành lập phòng QLRR tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế
99
khác giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm; 97 công chức tham gia
khảo sát (tương ứng 24,25%) cho rằng giữ nguyên như hiện nay Giao 01
phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm.
3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các bước công việc quản lý rủi
ro trong quản lý thuế
3.2.3.1 Thực trạng xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT, hệ thống
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro
a. Về hệ thống cơ sở dữ liệu NNT
Cơ sở dữ liệu của NNT là yếu tố không thể thiếu trong công tác QLT nói
chung và đặc biệt quan trọng khi thực hiện QLRR trong QLT. Thấy được tầm
quan trọng của vấn đề và thực hiện theo các quy định về QLRR trong QLT,
CQT đã từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về NNT nhằm sử dụng
chung cho toàn ngành, phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá để lựa chọn
đối tượng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, đối tượng thuộc diện quản lý
đặc biệt nhằm giảm tình trạng quá tải nguồn lực trong công tác quản lý. Cụ
thể các thông tin, dữ liệu về NNT phải được thu thập, cập nhật không chỉ từ
các hồ sơ khai thuế của NNT, từ các nghiệp vụ QLT của CQT mà còn từ các
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan như: thông tin về đầu tư; thông tin về
xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thông tin về giao dịch liên kết; ... các thông
tin thu thập từ mua tin, trao đổi thông tin trong nước, ngoài nước và các
nguồn thông tin khác. Và quan trọng hơn, các thông tin, dữ liệu về NNT phải
được thu thập, cập nhật, lưu trữ tập trung dưới dạng điện tử đảm bảo đầy đủ,
chính xác và kịp thời mới có thể phục vụ việc phân tích, đánh giá, phân loại
NNT theo rủi ro đạt hiệu quả cao.
Điều 70, Luật Quản lý thuế năm 2006 quy định: Cơ quan quản lý thuế có
trách nhiệm tổ chức xây dựng, quản lý và phát triển cơ sở dữ liệu, hạ tầng kỹ
thuật của hệ thống thông tin về NNT; tổ chức, đơn vị chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ thu thập, xử lý thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu và bảo đảm duy trì,
vận hành hệ thống thông tin về NNT. Đồng thời, cơ quan QLT áp dụng các
100
biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập, xử lý thông tin theo mục tiêu và
yêu cầu của từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cơ quan QLT phối hợp với cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan để trao đổi thông tin, kết nối mạng trực tuyến.
Như vậy, việc xây dựng và thu thập hệ thống thông tin về NNT được
thực hiện trên cơ sở cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT; áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ trong thanh tra, kiểm tra thuế để thu thập thông
tin; phối hợp với các cơ quan có liên quan để cung cấp, thu thập, trao đổi
thông tin; tăng cường hợp tác quốc tế để thu thập thông tin…
Trước năm 2014, công tác QLRR trong QLT được thực hiện chủ yếu cho
chức năng thanh tra, kiểm tra, thông qua các bước rà soát, sự phối hợp của bộ
phận thanh tra, kiểm tra, dựa trên cơ sở dữ liệu tập trung và cốt lõi là bộ tiêu
chí rủi ro được Tổng cục Thuế ban hành thực hiện thống nhất, đồng thời ứng
dụng CNTT để gán điểm rủi ro cho từng doanh nghiệp. Việc thực hiện dựa
trên hệ thống bộ tiêu chí tĩnh kết hợp bộ tiêu chí động do từng Cục Thuế lựa
chọn theo yêu cầu quản lý.
Từ 2014- 2020, hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu NNT phục vụ công tác
QLT nói chung và QLRR nói riêng đã được hình thành tương đối đồng bộ, cơ
sở dữ liệu về hơn 830.000 doanh nghiệp; gần 2 triệu hộ kinh doanh; hơn 20
triệu cá nhân với hệ thống bao gồm các thông tin:
- Thông tin chung của người nộp thuế.
- Thông tin về hồ sơ khai thuế, căn cứ tính thuế.
- Thông tin về nộp thuế, nợ thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế
- Thông tin về tình hình tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế
- Thông tin về báo cáo tài chính doanh nghiệp
- Thông tin vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế
- Thông tin về kết quả thanh tra, kiểm tra và xử lý sau thanh tra, kiểm tra
- Thông tin về đánh giá rủi ro NNT
- Các thông tin khác liên quan đến NNT
Cùng với hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu NNT, CQT cũng đã xây dựng
101
và vận hành thông suốt cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT;
cơ chế phối hợp trao đổi cung cấp thông tin đối với các cơ quan nhà nước có
liên quan.
Hình 3.1. Mô hình CSDL và các giao thức trao đổi thông tin
(1) Cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT: Việc cung cấp
thông tin của NNT cho CQT được thực hiện thông qua chế độ đăng ký thuế,
102
kê khai thuế định kỳ hoặc theo yêu cầu kiểm tra, thanh tra của CQT. Việc xây
dựng các quy định về chế độ đăng ký thuế, kê khai thuế và các mẫu biểu khai
thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại thuế, từng loại hình NNT có ý nghĩa
quan trọng trong việc thu thập đầy đủ thông tin, kiểm soát hoạt động kinh
doanh và nghĩa vụ thuế của NNT. Tại Việt Nam, cơ chế kê khai thuế của
NNT được qui định cụ thể tại Luật Quản lý thuế cùng với các biểu mẫu kê
khai của từng loại thuế. Để đáp ứng yêu cầu thu thập thông tin về NNT, thời
gian qua, CQT đã không ngừng cải tiến trong việc thiết kế hồ sơ khai thuế,
nộp thuế, hoàn thuế theo hướng cải cách đồng bộ, đơn giản, rõ ràng, minh
bạch dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kê khai thuế vẫn còn
nổi lên một số điểm bất cập, đó là: hệ thống mẫu biểu hồ sơ khai thuế GTGT
còn quá phức tạp gây khó khăn cho NNT và CQT trong việc kê khai và xử lý
thông tin, bên cạnh đó thiếu tính đồng bộ kết nối liên thông thông tin cần kê
khai từ ứng dụng kế toán của NNT tới ứng dụng hỗ trợ kê khai trên hồ sơ khai
thuế của NNT nhằm tạo thuận lợi và giảm thời gian, chi phí trong kê khai
nghĩa vụ thuế của NNT.
(2) Cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin giữa CQT và các cơ quan quản lý
liên quan, các đối tượng phát sinh giao dịch với NNT như ngân hàng, hải
quan, cơ quan chi trả thu nhập, các đối tượng có quan hệ giao dịch với
NNT...: Để có thông tin về NNT đầy đủ và chính xác, bên cạnh kênh thông tin
do NNT cung cấp cho CQT theo qui định, CQT cần có thêm kênh cung cấp
thông tin từ bên thứ ba - các bên có liên quan với NNT trong các giao dịch
kinh tế. Luật Quản lý thuế đã có qui định các ngành liên quan có trách nhiệm
cung cấp thông tin về NNT cho CQT. Thời gian qua, CQT đã có sự phối kết
hợp với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin về
QLT và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Theo đó, Tổng cục
Thuế và Tổng cục Cảnh sát nhân dân đã sửa đổi bổ sung để có quy chế phối
hợp mới phù hợp với quy định của Luật Quản lý thuế; Bộ Tài nguyên Môi
trường đã phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch về liên thông một cửa trong
103
việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai và cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở; Bộ Tài chính, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án
nhân dân tối cao phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn việc thông
báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội, cá nhân và
tổ chức vi phạm, nhằm đảm bảo phục vụ cho công tác phòng, chống, nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh
và quản lý thuế. Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan phối hợp với Ngân hàng
xây dựng Thông tư liên tịch về việc cung cấp trao đổi thông tin giữa CQT với
ngân hàng và tổ chức tín dụng, nhằm phát hiện nhanh các trường hợp tổ chức
có dấu hiệu mất khả năng thanh toán để ngăn ngừa các hành vi trốn thuế,
ngược lại, khi phát hiện kinh doanh có dấu hiệu phá sản, giải thể, CQT chủ
động để ngân hàng kịp thời thu hồi nợ đã cho vay… Việc chia sẻ thông tin về
NNT giữa các cơ quan quản lý giúp cho CQT từng bước hoàn thiện hệ thống
thông tin về NNT, phục vụ cho công tác quản lý thu NSNN an toàn và hiệu
quả. Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các giao dịch kinh tế
của NNT ngày càng đa dạng, phức tạp, đặc biệt là các giao dịch của các công
ty đa quốc gia thông qua giá chuyển nhượng. Do đó, ngành thuế Việt Nam đã
thực hiện thu thập thông tin của NNT theo qua cơ chế hợp tác quốc tế.
Ngoài việc thu thập thông tin, việc xử lý thông tin cũng rất quan trọng. Để
có một hệ thống thông tin toàn diện về NNT phục vụ cho công tác QLT, sau
quá trình thực hiện các quy trình quản lý thu thuế, CQT tiến hành thu thập,
tổng hợp cơ sở dữ liệu thông tin về NNT hình thành được cơ sở dữ liệu đầy
đủ về thông tin NNT, việc phân tích, phân loại, đánh giá, xử lý thông tin và
quản lý hệ thống thông tin này là nội dung tiếp theo. Để thực hiện việc xử lý,
quản lý hệ thống thông tin này, hai nội dung cơ bản CQT đã thực hiện chính
là kế toán NNT và ứng dụng công nghệ thông tin trong QLT.
Tuy nhiên, công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về NNT vẫn còn những hạn
chế nhất định cần khắc phục, cụ thể:
- Hệ thống cơ sở dữ liệu NNT phục vụ cho công tác QLT của ngành nói
104
chung và công tác QLRR trong QLT nói riêng bước đầu được xây dựng theo
hướng tập trung, đầy đủ và thống nhất trên phạm vi cả nước, song chưa đảm
bảo do dữ liệu thiếu, chưa đầy đủ đồng bộ, chưa được kết nối tự động với các
bên liên quan, sai lệch thông tin; việc cập nhật cơ sở dữ liệu còn chưa kịp
thời, đầy đủ, do vậy việc xác định đối tượng thanh tra, kiểm tra, phạm vi và
trọng tâm thanh tra, kiểm tra bị giảm tính chính xác.
- Hệ thống thông tin về NNT còn chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa cập
nhập. Các thông tin đầy đủ mới chỉ là lịch sử chấp hành pháp luật thuế của
NNT. Ngoài ra thông tin liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh còn ít, thông tin trao đổi giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên
quan còn hạn chế, mức độ tích hợp thông tin, dữ liệu còn thấp, mới chỉ tích
hợp được một số thông tin cơ bản về NNT, chưa có sự tích hợp thông tin liên
kết với NNT trên hệ thống ứng dụng của ngành Thuế. Trình độ máy tính của
cán bộ quản lý còn hạn chế và do chưa thấy được vai trò quan trọng của cơ sở
dữ liệu NNT nên tình trạng thông tin, dữ liệu không được cập nhập đầy đủ,
kịp thời và thường xuyên vào hệ thống khi có sự thay đổi từ phía NNT.
- Ngoài việc cung cấp thông tin thông qua tuân thủ quy định về đăng ký,
kê khai thuế nêu trên, CQT còn được phép sử dụng các biện pháp nghiệp vụ
cần thiết trong các quy trình QLT để thu thập thông tin về NNT như thanh tra,
kiểm tra thuế, miễn, giảm, hoàn thuế, quản lý nợ, cưỡng chế nợ thuế… Hiện
nay, những hạn chế về quyền điều tra của CQT đã gây khó khăn, cản trở cho
công tác thu thập thông tin phục vụ cho kiểm tra, thanh tra của CQT.
- Mức độ sai lệch thông tin liên quan đến NNT (như vốn, ngành nghề
kinh doanh, tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế) là khá lớn. Thực tế việc thực
hiện thanh tra, kiểm tra NNT từ khâu phân tích tại CQT dựa trên dữ liệu
trên hệ thống của ngành và hồ sơ thực tế của NNT tại trụ sở chính đã có sự
sai lệch và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Độ tin cậy của thông tin cung
cấp chưa cao. Thực tế việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo phương
pháp QLRR được thực hiện từ việc phân tích các thông tin sẵn có trên hệ
105
thống ngành thuế đã đăng ký và kê khai. Việc những thông tin NNT cung
cấp cho CQT có tin cậy, đảm bảo không, được lấy từ nguồn nào? Hiệu quả
và độ chính xác của việc phân tích thông tin vẫn chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm của cán bộ được giao nhiệm vụ thực hiện phân tích.
- Việc thu thập, trao đổi thông tin giữa CQT và các ngành có liên quan về
NNT vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan
quản lý trong việc cung cấp thông tin về NNT còn chưa rõ ràng, phạm vi
thông tin trao đổi giữa các cơ quan này còn hạn hẹp, chưa có chế tài cụ thể về
trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức có liên quan. Do đó, chất lượng công
tác phối hợp QLT chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh những khó
khăn về pháp lý, hiện nay các giao dịch kinh tế không dùng tiền mặt ở Việt
Nam vẫn còn hạn chế. Đây là một cản trở rất lớn cho CQT trong việc thu thập
thông tin về NNT vì rất khó kiểm soát các giao dịch kinh tế bằng tiền mặt.
- Hiện nay, CQT đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc QLT của các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tin liên quan đến mối
quan hệ hoặc giao dịch liên kết quốc tế, thông tin của các công ty đa quốc gia
còn rất ít không đáp ứng được yêu cầu cung cấp dữ liệu trong phân tích rủi ro
đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây cũng là khó
khăn mấu chốt của các hồ sơ thanh tra chuyển giá đang gặp phải, có dấu hiệu
nghi ngờ nhưng khó chứng minh được việc vi phạm. Nhiều doanh nghiệp
khai thuế lỗ nhiều năm nhưng do việc thu thập thông tin từ các giao dịch
mang yếu tố nước ngoài còn hạn chế nên CQT chưa có các bằng chứng xác
đáng để kiểm soát các hành vi gian lận thuế của các doanh nghiệp này qua
hoạt động chuyển giá. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đánh giá mức
độ tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
b. Về hệ thống ứng dụng CNTT phục vụ quản lý rủi ro
Hiện nay, hệ thống phần mềm ứng dụng ngành Thuế được chia thành 4
hệ thống phần mềm ứng dụng chính như sau: Hệ thống ứng dụng phục vụ
công tác nội bộ của ngành; Hệ thống ứng dụng hỗ trợ NNT; Hệ thống ứng
106
dụng trao đổi thông tin với bên ngoài và Hệ thống ứng dụng phục vụ công tác
QLT của ngành Thuế (đây là hệ thống ứng dụng lõi của ngành Thuế). Việc
trao đổi thông tin giữa các ứng dụng, giữa các cấp CQT cũng như với các cơ
quan bên ngoài hiện tại đang sử dụng các công nghệ: Liên kết cơ sở dữ liệu
(DB Link) sử dụng Oracle replication và Cơ chế truyền thông điệp sử dụng
công nghệ Oracle Advanced Queuing (Oracle AQ); IBM Message Queue
(IBM MQ); Trao đổi file dữ liệu: Sử dụng cơ chế truyền file của FTP;
Exchange.
Hình 3.2. Mô hình hệ thống ứng dụng ngành thuế
Có thể nói, ngành Thuế đã đầu tư nhiều vào tự động hóa (CNTT- bao
gồm cả phần cứng và phần mềm) trong thập kỷ qua, vì vậy tự động hóa không
phải là chủ đề mới đối với ngành Thuế. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT
thời gian gần đây đã giúp các cơ quan QLT có thể quản lý hệ thống thuế hiệu
quả hơn. Các hệ thống CNTT hỗ trợ các chức năng QLT cốt lõi đã được tăng
cường để cải thiện hiệu quả và hiệu suất hoạt động. Ngành Thuế hiện có trên
21 ứng dụng chạy song song và có trên một nghìn (1000) cơ sở dữ liệu gồm
107
các thông tin lịch sử được phân bổ khắp đất nước. Các hệ thống CNTT hiện
tại được xây dựng theo hướng hỗ trợ một mô hình hoạt động theo hướng phân
cấp, theo đó mỗi cục thuế và chi cục thuế có vai trò quản lý các mục tiêu về
số thu và NNT của mình. Mô hình này đã mang lại những thành công bước
đầu cho ngành Thuế. Tuy nhiên, những đặc điểm này cùng với nhiều nền tảng
đang được sử dụng làm cho việc bảo trì và nâng cấp hệ thống trở nên rất phức
tạp, ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của dữ liệu và trên hết là một kiến trúc chức
năng hữu ích cho người dùng.
Theo yêu cầu, QLRR trong QLT chỉ có thể thực hiện trên cơ sở ứng dụng
CNTT và hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tập trung về NNT. Do đó, để đáp
ứng yêu cầu tăng cường QLRR trong QLT thì hệ thống ứng dụng CNTT phải
đảm bảo việc lưu trữ, cập nhật thông tin về NNT dưới dạng điện tử, tự động.
Đồng thời, phải đáp ứng yêu cầu thường xuyên đánh giá, phân loại NNT trên
cơ sở dữ liệu được cập nhật, bổ sung và đưa ra kết quả đánh giá, phân loại
NNT tự động, hỗ trợ cho các chức năng QLT một cách hiệu quả.
Với yêu cầu trên thì mô hình hoạt động phân cấp CNTT hiện nay không
hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện QLRR của CQT trong tương lai, trong bối
cảnh áp lực về tăng trưởng số thu ngày càng cao, cũng như đòi hỏi hiệu suất
hoạt động lớn. Hầu hết các ứng dụng ngành thuế được phát triển trên nền tảng
CSDL Oracle. Các ứng dụng này được xây dựng triển khai theo mô hình vừa
tập trung, vừa phân tán nên việc trao đổi dữ liệu NNT hiện nay chưa kiểm
soát được sự chính xác nên dẫn đến số liệu chưa thống nhất giữa các cấp,
chậm tổng hợp dữ liệu về Tổng cục Thuế; Việc đối chiếu, kiểm soát dữ liệu
trao đổi còn thực hiện một cách thủ công và không đầy đủ. Các hệ thống
truyền nhận dữ liệu mới được kiểm soát về dữ liệu trao đổi; chưa có chức
năng, quy trình đối chiếu, chốt dữ liệu trao đổi ở mức nghiệp vụ giữa các ứng
dụng nội bộ cũng như trao đổi với bên ngoài.
Kết quả khảo sát về mức độ và hiệu quả việc thu thập thông tin về NNT
và ứng dụng CNTT phục vụ QLRR trong QLT được thể hiện ở bảng 3.4.
108
Bảng 3.4: Kết quả khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro
Stt
Khai thác thông tin
Tốt, hiệu quả
Tương đối tốt, tương đối hiệu quả
Chưa tốt, Chưa hiệu quả
1
Thu thập và khai thác thông tin
93
246
61
2
Ứng dụng CNTT
129
237
34
Biểu đồ 3.2: Kết quả khảo sát về thu thập, khai thác thông tin; ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro
Kết quả khảo sát có 339 công chức được hỏi (tương ứng 84,75%) cho
rằng việc thu thập và khai thác thông tin phục vụ QLRR tốt và tương đối tốt,
chỉ 61 công chức được hỏi (tương ứng 15%) cho rằng công tác thu thập và
khai thác thông tin chưa tốt.
109
Về ứng dụng CNTT, có 366 công chức được hỏi (tương ứng 91,5%) cho
rằng ứng dụng CNTT phục vụ QLRR hiệu quả và tương đối hiệu quả, chỉ có
34 công chức được hỏi (tương ứng 9%) cho rằng ứng dụng CNTT phục vụ
QLRR chưa hiệu quả.
Biểu đồ 3.3: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT
Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT cho thấy: 238
công chức được hỏi (tương ứng 59,5%) cho rằng thời gian xây dựng, nâng
cấp ứng dụng CNTT phục vụ QLRR là bình thường, 106 công chức được hỏi
(tương ứng 26,5%) cho rằng thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng CNTT
phục vụ QLRR là nhanh. Chỉ có 14% công chức được hỏi cho rằng thời gian
xây dựng, nâng cấp ứng dụng CNTT là chưa kịp thời.
3.2.3.2 Thực trạng đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế
Đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT là nội dung quan
trọng để thực hiện QLRR trong QLT. CQT thực hiện đánh giá tuân thủ pháp
luật thuế của NNT đang hoạt động để thực hiện các biện pháp QLT và các
biện pháp nghiệp vụ cần thiết khác.
Tổng cục Thuế đã nghiên cứu xây dựng khung tiêu chí đánh giá tuân thủ
NNT, theo đó NNT được chia làm ba loại: Loại 1: NNT tuân thủ pháp luật
thuế tốt; Loại 2: NNT tuân thủ pháp luật thuế ở mức độ trung bình; Loại 3:
110
NNT tuân thủ pháp luật thuế ở mức độ thấp.
(1) NNT được đánh giá là NNT tuân thủ thuế tốt phải đáp ứng tất cả các
điều kiện sau:
- Đang hoạt động và thực hiện đầy đủ, đúng hạn việc kê khai và chấp hành
nộp các loại thuế phát sinh theo quy định; số thuế nộp phù hợp quy mô, lĩnh vực
đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Chấp hành tốt chế độ quản lý, sử dụng ấn
chỉ thuế trong thời gian hai năm trở về trước tính đến ngày đánh giá.
- Tỷ trọng nộp các loại thuế liên quan đến sản xuất kinh doanh (thuế
GTGT, thuế TNDN...) trên doanh số đạt trên mức trung bình so với mức trung
bình của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng lĩnh vực, ngành nghề.
- Trong thời gian 02 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá
không bị một trong các hình thức xử lý vi phạm sau: Không bị xử phạt vi
phạm hành chính về thuế, ấn chỉ thuế với tổng mức phạt tiền vượt thẩm quyền
xử phạt đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế của Chi cục trưởng Chi cục
Thuế theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế;
Không bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
về các hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Không bị cơ quan thuế xử lý hành
chính về hành vi không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế; Không bị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền qua thanh tra, kiểm tra, quản lý giám sát đánh giá không tuân thủ pháp
luật về kế toán, thống kê Tài chính doanh nghiệp; Không bị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền qua thanh tra, kiểm tra, quản lý giám sát đánh giá không tuân
thủ pháp luật thuế, pháp luật hải quan; Không có vụ việc vi phạm bị khởi tố
vụ án, người đại diện hợp pháp của NNT không bị khởi tố bị can về các hành
vi vi phạm về thuế.
- Không nợ thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; các khoản phí, lệ phí thuộc
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí; các khoản
thu thuộc NSNN theo quy định của Luật đất đai do CQT quản lý thu; các
khoản thu khác thuộc NSNN theo quy định của pháp luật; trừ số tiền thuế nợ
được gia hạn theo quy định pháp luật chưa hết thời gian gia hạn nộp tại thời
111
điểm đánh giá.
(2) NNT bị đánh giá là NNT tuân thủ thấp thuộc một trong các trường
hợp dưới đây:
- Tính đến thời điểm đánh giá thuộc một trong các trường hợp: Chưa kê
khai, nộp hồ sơ khai thuế và nộp thuế đầy đủ, đúng hạn ít nhất một phần ba số
tờ khai theo quy định trong vòng thời gian 12 tháng; Các kỳ kê khai âm về
thuế GTGT liên tục trên mức trung bình so với bình quân chung của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng lĩnh vực, ngành nghề; Có số lỗ lũy kế
vượt quá 50% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tính đến thời điểm đánh giá;
NNT thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, nợ
tiền chậm nộp, tiền phạt, phí, lệ phí hoặc các khoản thu khác phải nộp NSNN
theo quy định của pháp luật.
- Trong thời gian 02 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá;
hoặc từ ngày thành lập đến ngày đánh giá đối với NNT thành lập chưa tròn 02
năm thuộc một trong các trường hợp: Hai lần trở lên bị xử phạt vi phạm hành
chính về thuế, ấn chỉ thuế với tổng mức phạt tiền vượt thẩm quyền xử phạt
đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế của Chi cục trưởng Chi cục Thuế theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế; Bị các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi trốn thuế,
gian lận thuế; hoặc bị xử phạt vi phạm trong lĩnh vực kế toán; Bị CQT xử lý
hành chính về hành vi không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế,
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự, bị khởi tố, điều tra; Bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua thanh
tra, kiểm tra, quản lý, giám sát đánh giá không tuân thủ pháp luật thuế, pháp
luật hải quan; Có hành vi sử dụng ấn chỉ thuế bất hợp pháp hoặc sử dụng bất
hợp pháp ấn chỉ thuế.
(3) NNT được đánh giá là NNT tuân thủ trung bình là NNT không thuộc
một trong hai trường hợp nêu trên.
Việc đánh giá tuân thủ NTT mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng và ban
hành khung đánh giá tuân thủ nêu trên, Tổng cục Thuế chưa xây dựng được
112
bộ tiêu chí đánh giá tuân thủ chương trình tuân thủ tổng thể đối với NNT,
chưa xây dựng được ứng dụng CNTT tự động đánh giá tuân thủ NNT.
3.2.3.3 Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và thực hiện
quản lý rủi ro trong các chức năng quản lý thuế
Tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC, Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế
nghiên cứu, xây dựng và trình Bộ ban hành Bộ tiêu chí và chỉ số phục vụ
QLRR đáp ứng yêu cầu QLT trong từng thời kỳ và phù hợp với các quy định
của pháp luật thuế. Các tiêu chí phân loại rủi ro gồm: Đánh giá tuân thủ pháp
luật thuế đối với NNT; Đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro đối với NNT; Lựa
chọn trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế; Lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra
tại trụ sở cơ quan QLT; Phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn đối
tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau
hoàn thuế...
Hiện nay, Tổng cục Thuế đã xây dựng được 03 quy trình nghiệp vụ
hướng dẫn thực hiện cho 03 bộ tiêu chí, chỉ số liên quan đến QLRR trong
thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT; QLRR trong hoàn thuế; QLRR trong
quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ. Ngoài ra, các nghiệp vụ quản lý khác
cũng được CQT thực hiện QLRR ở các góc độ nhất định. Cụ thể:
(1) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong quản
lý kê khai thuế
Hiện nay, CQT chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro trong công
tác quản lý kê khai thuế. QLRR trong quản lý kê khai thuế được thực hiện
theo hướng dẫn tại Thông tư 204/2015/TT-BTC. Theo đó, các hồ sơ khai thuế
sau khi CQT tiếp nhận sẽ được phân luồng (dựa vào hệ thống cơ sở dữ liệu
thông tin nghiệp vụ về danh sách trường hợp NNT kiểm tra hồ sơ khai thuế
tại trụ sở cơ quan QLT thuế theo quy định và cảnh báo của hệ thống về thông
tin cần kiểm tra trên hồ sơ khai thuế của NNT) để áp dụng biện pháp phù hợp
trong giải quyết, xử lý hồ sơ khai thuế: (i) Đối với NNT không thuộc danh
sách trường hợp kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT, chưa phát hiện rủi ro, chưa
113
có dấu hiệu vi phạm thì lưu hồ sơ theo dõi; (ii) Đối với trường hợp NNT
thuộc danh sách trường hợp kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT thực hiện kiểm
tra hồ sơ khai thuế, đề nghị NNT giải trình hoặc bổ sung thông tin.
CQT thực hiện QLRR trong kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở CQT đối
với NNT có đăng ký thuế nhưng thực hiện khai thuế không đầy đủ; NNT có
sản xuất kinh doanh thực hiện khai thuế không đầy đủ, đúng hạn. Công tác
quản lý khai thuế của CQT hiện nay chủ yếu tập trung vào việc rà soát, theo
dõi, kiểm tra tình trạng nộp hồ sơ khai thuế của NNT từ việc NNT đăng ký
mới, NNT ngừng nghỉ kinh doanh, NNT nộp hồ sơ khai thuế, hồ sơ hoàn
thuế… Hoạt động này luôn được CQT chú trọng quản lý, phát hiện kịp thời
những trường hợp sai sót, vi phạm hay tình huống mới trong quá trình QLT
thuế để có biện pháp xử lý thích ứng, đảm bảo tính tuân thủ pháp luật thuế
của NNT.
CQT đã quan tâm, chú trọng và đẩy mạnh việc kiểm kê, rà soát mã số
thuế, đảm bảo kiểm soát, nắm bắt kịp thời NNT để đưa vào diện theo dõi,
QLT. CQT cũng thường xuyên kiểm tra, đối chiếu giữa tình hình thực tế hoạt
động sản xuất kinh doanh và kê khai thuế của NNT với hệ thống dữ liệu của
CQT để đảm bảo kiểm soát, nắm bắt, theo dõi và QLT kịp thời; chú trọng
việc rà soát thông tin NNT trên ứng dụng, kịp thời đôn đốc NNT bổ sung
thông tin thay đổi gửi CQT để cập nhật thông tin phục vụ cho công tác QLT.
Ngoài ra, CQT đã đẩy mạnh công tác QLRR, tập trung vào những NNT
có rủi ro cao, tại các Cục thuế lớn (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…) đã xây dựng
được danh sách các doanh nghiệp trọng điểm, xác định các doanh nghiệp
thuộc các ngành nghề đặc thù có rủi ro cao về thuế như: kinh doanh bất động
sản, kinh doanh ô tô xe máy, nhà hàng khách sạn, kinh doanh hàng hiệu…
Như vậy, việc kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan CQT được thực
hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế. Trong quá trình kiểm tra hồ sơ khai
thuế, CQT sử dụng dữ liệu thông tin của NNT đã được cập nhật vào hệ thống
cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ QLT và các thông tin liên quan đến NNT
114
(nếu có) để thực hiện kiểm tra hồ sơ khai thuế. Nhờ đó công tác quản lý, giám
sát kê khai thuế ngày càng chặt chẽ và tạo được những chuyển biến tích cực,
góp phần nâng cao tính tuân thủ pháp luật thuế của NNT. Kết quả năm 2020
việc chấp hành kê khai thuế của NNT tốt hơn, tỷ lệ tờ khai đã nộp đạt 97%
trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn đạt 97% trên tổng số
tờ khai đã nộp. Tuy nhiên, kỹ thuật QLRR vẫn chưa được thực hiện đầy đủ
đối với công tác quản lý khai thuế, nhất là khai thuế định kỳ theo quy định.
(2) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong thanh
tra thuế, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT
a. QLRR trong lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT
Trước năm 2018, Việc lập kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở CQT
được thực hiện theo quy trình thanh tra, kiểm tra 74/QĐ-TCT ngày
27/1/2014; Quyết định số 2176/QĐ-TCT ngày 10/11/2015 và Quyết định số
1626/QĐ-TCT để tổ chức phân tích lựa chọn NNT, từ đó lập kế hoạch thanh
tra, kiểm tra tại trụ sở NNT hàng năm và thực hiện công tác thanh tra, kiểm
tra theo phương pháp rủi ro. CQT phân tích thông tin rủi ro dựa trên nguyên
tắc: (i) Đánh giá lịch sử tuân thủ pháp luật về thuế của NNT (Lịch sử tuân thủ
khai thuế, tính thuế; Lịch sử tuân thủ nộp thuế; Mức độ tuân thủ qua kết quả
thanh tra, kiểm tra), (ii) Đánh giá sự biến động về kê khai thuế của NNT qua
các năm; (iii) Đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của NNT. CQT địa phương
tùy theo thực tế QLT tự xác định các thang điểm chuẩn cho từng ngành, lĩnh
vực cụ thể trong quá trình lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra.
Từ năm 2018 đến nay: Công tác lập kế hoạch thanh tra tại trụ sở NNT sử
dụng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro ban hành theo Quyết định số 1006/QĐ-BTC
ngày 01/11/2016 của Bộ Tài chính (ban hành theo chế độ mật) bộ tiêu chí bao
gồm 16 tiêu chí và 20 chỉ số thành phần được chia thành 6 nhóm:
- Nhóm I: Đánh giá về tuân thủ khai thuế, tính thuế. Đánh giá thông qua
phân tích hồ sơ khai thuế của NNT. Đánh giá mức độ tuân thủ kê khai thuế so
với thời hạn quy định.
115
- Nhóm II: Đánh giá về tuân thủ nộp thuế. Các chỉ tiêu thuộc nhóm này
nhằm đánh giá sự tuân thủ nộp thuế của doanh nghiệp. Các tiêu chí được xây
dựng dựa trên số nợ thuế, tổng số tiền thuế đã nộp, số lượng các khoản nợ…..
- Nhóm III: Phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế: Phân loại rủi
ro theo loại hình doanh nghiệp.
- Nhóm IV: Đánh giá sự biến động về kê khai giữa các năm. Đánh giá
rủi ro dựa trên sự biến động về kê khai giữa các năm. Biến động kê khai về số
thuế GTGT, thuế TNDN phát sinh; số thuế GTGT, thuế TNDN phải nộp;
doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Nhóm V: Đánh giá về tình hình tài chính. Đánh giá dựa trên số liệu về
chỉ tiêu tài chính và tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: vốn
vay, vốn chủ sở hữu, tài sản, doanh thu, lợi nhuận... Nhóm chỉ tiêu này cũng
bao gồm các tỷ suất lợi nhuận và hệ số thanh toán đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
- Nhóm VI: Lịch sử thanh tra, kiểm tra của NNT. Nhóm chỉ tiêu này
đánh giá lịch sử thanh tra, kiểm tra. Dựa trên kỳ đã được thanh tra gần nhất.
Kỳ được thanh tra gần nhất được tính theo thời kỳ thanh tra, là kỳ cuối cùng
CQT thực hiện thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ kê khai nộp thuế của NNT
trong cuộc thanh tra gần nhất.
Bộ tiêu chí được lập trình và cài đặt trong ứng dụng chuyên dụng đánh
giá rủi ro phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra (TPR). Việc lập
kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm được thực hiện theo quy trình 04 bước.
Bước 1: Thu thập, xử lý thông tin, bao gồm các thông tin về NNT thu
thập từ CSDL ngành thuế và các thông tin từ bên ngoài, trong đó phải đảm
bảo khâu rà soát dữ liệu.
Bước 2: Sử dụng Bộ tiêu chí đánh giá rủi ro xây dựng kế hoạch thanh tra,
kiểm tra tại trụ sở NNT, trong bước công việc này, ứng dụng CNTT sử dụng
tự động bộ tiêu chí, chỉ số do Bộ Tài chính ban hành để đánh giá, xếp hạng
mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Quá trình đánh giá được thực hiện theo hai
công đoạn.
116
Tính điểm rủi ro đối với từng tiêu chí theo nguyên tắc trình bày tại mô
hình 3.3 (phân ngưỡng tính điểm rủi ro).
Theo nguyên tắc này đối với mỗi tiêu chí rủi ro, NNT được phân thành 4
loại tương ứng với mức độ rủi ro là Cao, Vừa, Thấp và rất thấp.
Tổng hợp xếp loại rủi ro đối với từng doanh nghiệp, căn cứ kết quả xếp
loại rủi ro, ứng dụng gán điểm trọng số đối với một số tiêu chí trọng yếu, sau
đó tổng hợp tổng điểm rủi ro của NNT. Căn cứ tổng điểm rủi ro, ứng dụng tự
động xếp loại doanh nghiệp theo mức độ rủi ro từ cao xuống thấp.
Bước 3: Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Căn cứ kết quả
xếp loại rủi ro doanh nghiệp đã có ở Bước 2; nguồn lực thực hiện thanh tra,
kiểm tra của CQT và kết quả đối chiếu tránh trùng lặp trong công tác thanh
tra, kiểm tra với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, CQT lựa chọn doanh
nghiệp đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Tổng Cục thuế
phê duyệt kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Cục Thuế, Cục Thuế phê duyệt kế
hoạch của Chi cục Thuế trực thuộc. Quá trình lập kế hoạch được thực hiện tự
động hóa cao trên ứng dụng TPR được mô tả theo quy trình mô hình 3.4
(Tổng quan quy trình nghiệp vụ).
Bước 4: Đánh giá việc thực hiện QLRR trong công tác lập kế hoạch
thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT, việc đánh giá được thực hiện từ cơ quan
thuế cấp dưới là Chi cục Thuế, Cục Thuế và TCT.
Kết quả khảo sát được thực hiện với 400 công chức thuế cho thấy: có
đến 94% số người được hỏi cho rằng Bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn NNT có
dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT là phù
hợp và tương đối phù hợp so với thực tế, 6% số người được hỏi cho rằng Bộ
tiêu chí không phù hợp với thực tế. Trong đó 98% công chức làm tại bộ phận
thanh tra, kiểm tra cho rằng Bộ tiêu chí hiệu quả.
117
Hình 3.3. Phân ngưỡng, tính điểm rủi ro
Hình 3. 4. Tổng quan quy trình nghiệp vụ
118
b. QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT
Trước khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp, công chức
làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thực hiện phân tích hồ sơ khai thuế, báo cáo
tài chính và các hồ sơ liên quan để xác định những nội dung có rủi ro cao về
thuế, từ đó xác định rõ phạm vi thanh tra, nội dung cụ thể cần đi sâu kiểm tra
kỹ khi thực hiện thanh tra, kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Việc phân tích rủi
ro được hỗ trợ tại các ứng dụng TTR và TPR. Trong quá trình thanh tra, kiểm
tra tại doanh nghiệp, công chức làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thực hiện đối
chiếu so sánh hồ sơ, sổ sách của NNT với những dấu hiệu rủi ro đã ghi nhận từ
khâu phân tích thông tin trên hệ thống dữ liệu để đánh giá độ chính xác của các
rủi ro và thực tế có đúng không. Đồng thời, công chức làm nhiệm vụ thanh tra,
kiểm tra cũng lựa chọn các rủi ro trọng yếu để tiến hành xác minh, thu thập hồ
sơ và chứng cứ để kết luận vấn đề thanh tra, kiểm tra. Dựa trên cơ sở phân tích
các dữ liệu về NNT trên hệ thống báo cáo tài chính và kết hợp với các nguồn
thông tin khác như tình hình chấp hành pháp luật thuế nắm được qua công tác
quản lý, tình hình, xu thế phát triển ngành kinh tế để lựa chọn chính xác hơn
những đối tượng vi phạm pháp luật thuế.
Thực hiện QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã giúp tăng
khả năng phát hiện gian lận, chống thất thu thuế, thể hiện qua bảng 3.5 và
bảng 3.6. Trong giai đoạn 2014-2020, CQT các cấp đã thực hiện 616.948
cuộc thanh tra, kiểm tra, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt trên 114.792 tỷ
đồng. Trong đó đã thực hiện thanh tra 56.254 cuộc, truy thu, truy hoàn và
phạt 59.361 tỷ đồng, số thuế truy thu, truy hoàn và phạt bình quân một cuộc
thanh tra tăng từ 667 triệu đồng năm 2014 lên 1.453 triệu đồng năm 2020
tương ứng mức tăng 117,8%. Về kiểm tra, toàn ngành thuế đã thực hiện
560.694 cuộc kiểm tra tại trụ sở NNT, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt
55.431 tỷ đồng số thuế truy thu, truy hoàn và phạt bình quân một cuộc kiểm
tra đã tăng 49,3% từ 88,4 triệu đồng năm 2014 lên 132 triệu đồng năm 2020.
119
Bảng 3.5. Thống kê kết quả thanh tra thuế giai đoạn 2014 – 2020
Số cuộc
Số truy thu, truy
Số thuế truy thu, truy hoàn và
Năm
hoàn và phạt (tỷ đồng)
phạt bình quân/cuộc thanh tra (triệu đồng)
thanh tra
6.133 9.198 2014 667
6.008 9.753 2015 616
8.949 7.895 2016 1.133
10.799 7.513 2017 1.437
8.724 7.638 2018 1.142
9.168 7.662 2019 1.196
9.580 6.595 2020 1.453
Nguồn: Báo cáo thống kê Tổng cục Thuế
Tổng cộng 56.254 59.361
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra thuế giai đoạn 2014 – 2020
Số cuộc Số truy thu, Số thuế truy thu, truy hoàn
Năm kiểm tra truy hoàn và và phạt bình quân/cuộc kiểm
phạt tra
(tỷ đồng) (triệu đồng)
58.882 5.206 2014 88,4
69.541 5.775 2015 83,06
83.524 7.867 2016 94,19
95.698 7.659 2017 80,03
88.298 9.238 2018 104,63
88.544 9.626 2019 108,72
76.207 10.059 2020 132
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Tổng cục Thuế
55.431 Tổng cộng 560.694
120
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, số ngày trung bình một cuộc
thanh tra doanh nghiệp lớn khoảng 25-35 ngày làm việc, thời gian thanh tra
cho một doanh nghiệp vừa là 10-30 ngày làm việc, một cuộc kiểm tra thông
thường khoảng 3-5 ngày làm việc, nhưng thời gian đánh giá phân tích tăng
lên, thời gian tiến hành kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT được giảm bớt, việc
thanh tra đã dần đi vào trọng tâm, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giảm
bớt thời gian cho doanh nghiệp. Có thể nói sau gần 8 năm thực hiện QLRR
trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra, số thuế truy thu qua công tác
thanh tra, kiểm tra đều tăng qua các năm. Điều đó cho thấy: việc thực hiện
QLRR trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra là một bước tiến khá
quan trọng trong cải cách công tác thanh tra, kiểm tra nói riêng và công tác
QLT nói chung của ngành thuế.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, QLRR trong quá trình thanh
tra, kiểm tra tại doanh nghiệp vẫn còn những hạn chế nhất định. Đó là:
Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp được tiến hành thanh tra, kiểm tra vẫn
còn chưa đáp ứng đòi hỏi về QLRR, thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra đã
được rút ngắn nhưng vẫn còn chậm, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn. Tiến độ
triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT còn chậm, số
lượng các doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng được kế hoạch
đề ra. Nhiều hồ sơ thanh tra, kiểm tra còn kéo dài, số lượng hồ sơ thanh tra,
kiểm tra các năm trước chuyển sang năm sau vẫn còn.
Thứ hai, chất lượng phân tích hồ sơ tại CQT trước khi tiến hành thanh
tra, kiểm tra tại trụ sở NNT chưa cao, chưa giúp đẩy nhanh tiến độ và chưa
tìm ra những trọng yếu chính xác.
Thứ ba, việc phát hiện các thủ đoạn gian lận của doanh nghiệp còn nhiều
hạn chế. Một số hành vi vi phạm có thể phát hiện ngay trên hồ sơ khai thuế
nhưng cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa phát hiện kịp thời.
Thứ tư, phương pháp làm việc của một bộ phận cán bộ thanh tra, kiểm
tra chưa khoa học, sắp xếp xử lý công việc vẫn chưa thực sự theo nguyên tắc
121
rủi ro và trọng yếu. Cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa thực sự thay đổi nhận
thức thanh tra, kiểm tra theo luật QLT sửa đổi, chưa có kỹ năng trong phân
tích rủi ro mà vẫn chủ yếu thực hiện thanh tra toàn diện, thanh tra quyết toán
thuế. Việc lựa chọn phương pháp thanh tra, kiểm tra có vai trò quan trọng,
ảnh hưởng đến kết quả thanh tra, kiểm tra.
Thứ năm, cán bộ thanh tra, kiểm tra vẫn chưa gắn kết quả phân tích rủi
ro tại CQT với thực tế thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp: tại CQT đặt nghi
ngờ, rủi ro vào một yếu tố này nhưng khi thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của
doanh nghiệp lại cho ra kết quả rủi ro yếu tố khác. Cũng có thể do hồ sơ gửi
CQT sơ sài, không đầy đủ nhưng khi xuống trụ sở doanh nghiệp thì có đủ
chứng cứ tài liệu để kiểm tra nên đưa ra kết quả rủi ro khác. Do vậy cán bộ
thanh tra phải luôn kiểm nghiệm giữa kết quả phân tích ban đầu và thực tế
phát sinh của đối tượng thanh tra, kiểm tra.
(3) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong hoàn
thuế GTGT và thanh tra sau hoàn thuế GTGT
CQT thực hiện QLRR trong quản lý hoàn thuế để:
Thứ nhất, Phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế thành hoàn thuế trước,
kiểm sau hoặc kiểm trước, hoàn thuế sau.
Thứ hai, Lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro để lập kế hoạch kiểm
tra, thanh tra sau hoàn thuế theo 2 loại: (i) Loại phải kiểm tra trong thời hạn
01 năm kể từ ngày có quyết định hoàn thuế, theo thứ tự xếp hạng mức độ rủi
ro từ cao xuống thấp; (ii) Loại phải kiểm tra trong vòng 10 năm được chia
thành: kiểm tra, thanh tra sau hoàn trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có quyết
định hoàn thuế đối với 100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao; Kiểm tra,
thanh tra 50% đối với doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày; Kiểm tra,
thanh tra 50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày.
Để đẩy mạnh QLRR trong công tác hoàn thuế, Bộ Tài chính đã ban hành
Quyết định số 1005/QĐ-BTC ngày 1/11/2016 ban hành Bộ tiêu chí và chỉ số
phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu
122
hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT. Bộ
tiêu chí bao gồm 11 tiêu chí và 16 chỉ số thành phần đánh giá NNT theo các
nhóm: (i) Thông tin định danh về doanh nghiệp; (ii) Giao dịch đáng ngờ qua
ngân hàng; (iii) Xếp hạng rủi ro của cơ quan hải quan; (iv) Kết quả hoạt động
kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp; (v) Tình hình nợ thuế, tình
hình tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp.
Trên cơ sở quyết định của Bộ Tài chính Ngày 25/5/2017, Tổng cục Thuế
ban hành Quyết định số 789/QĐ-TCT về kế hoạch triển khai thực hiện QLRR
trong công tác phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh
nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn
thuế GTGT, cụ thể hóa các nội dung công việc để triển khai Quyết định số
1005/QĐ-BTC.
Ngày 27/9/2017 Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 1625/QĐ-TCT
về Quy trình QLRR trong việc phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và
lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra,
thanh tra sau hoàn thuế GTGT. Quy trình đã nêu rõ mục đích, phạm vi và nội
dung, trình tự các bước công việc thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết
hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây
dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT, cụ thể là: (i) Thu
thập, xử lý thông tin QLRR; (ii) Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp; (iii) Phân
loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế; (iv) Xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra
sau hoàn thuế; (v) Đánh giá, kiểm tra quá trình thực hiện.
Việc thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT
và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để kiểm tra, thanh tra sau hoàn
thuế GTGT cụ thể như sau:
- Việc đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện định kỳ theo
tháng và tại thời điểm nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Việc đánh giá định kỳ
được hệ thống QLRR tự động thực hiện vào ngày 25 hàng tháng, xác định
điểm số rủi ro đối với các doanh nghiệp có quyết định hoàn thuế GTGT trong
123
vòng 24 tháng, là một trong những cơ sở để xây dựng ngưỡng rủi ro (kết hợp
với kết quả thống kê, phân tích, đánh giá số lượng, quy mô hồ sơ hoàn thuế và
yêu cầu QLT trong từng thời kỳ). Tại thời điểm nhận được hồ sơ hoàn thuế,
hệ thống đánh giá QLRR tự động xác định điểm số rủi ro đối với doanh
nghiệp và căn cứ ngưỡng rủi ro đã được Tổng cục Thuế ban hành được cài đặt
trên hệ thống để xếp hạng rủi ro của doanh nghiệp theo một trong ba hạng rủi
ro: cao, trung bình và thấp.
- CQT tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế, căn cứ phân luồng của hệ thống cơ sở
dữ liệu thông tin nghiệp vụ về phân loại NNT trong giải quyết hồ sơ hoàn
thuế và lựa chọn kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế để áp dụng biện pháp phù
hợp trong giải quyết, xử lý hồ sơ hoàn thuế. Căn cứ phân luồng của hệ thống
cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ để xác định hồ sơ hoàn thuế thuộc diện hoàn
thuế trước kiểm tra sau và hồ sơ hoàn thuế thuộc diện kiểm tra trước hoàn
thuế sau. Trong quá trình giải quyết hồ sơ hoàn thuế, phát hiện NNT có dấu
hiệu vi phạm pháp luật thuế, pháp luật hải quan hoặc trường hợp nếu NNT
không giải trình, bổ sung hồ sơ hoàn thuế hoặc có giải trình, bổ sung nhưng
không chứng minh được số thuế đã khai là đúng, CQT thay đổi việc áp dụng
hình thức phân loại hồ sơ hoàn thuế của NNT đang thuộc diện hoàn thuế
trước, kiểm tra sau sang thuộc diện hồ sơ kiểm tra trước hoàn thuế sau; việc
phê duyệt thay đổi áp dụng hình thức phân loại phải được cập nhật vào hệ
thống thông tin nghiệp vụ.
- CQT lựa chọn NNT kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ
thuộc diện hoàn thuế trước kiểm tra sau căn cứ theo xếp hạng mức độ rủi ro
của NNT. Cụ thể: Đối với NNT thuộc trường hợp kiểm tra, thanh tra sau hoàn
trong thời hạn 01 năm kể từ ngày có quyết định hoàn thuế theo sắp xếp thứ tự
thực hiện theo xếp hạng mức độ rủi ro từ cao xuống thấp. Đối với NNT thuộc
trường hợp kiểm tra, thanh tra sau hoàn trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có
quyết định hoàn thuế đối với 100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao; Kiểm
tra, thanh tra 50% đối với doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày; Kiểm
124
tra, thanh tra 50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày.
Ngày 14/03/2016, Bộ Tài chính đã có Công văn số 3357/BTC-TCT về
việc quản lý chi hoàn thuế GTGT, trong đó có quy định chuyển cơ chế kiểm
tra trước khi hoàn thuế sang kiểm tra sau hoàn thuế đối với các trường hợp rủi
ro thấp để tạo điều kiện giúp doanh nghiệp quay vòng vốn nhanh, nâng cao
hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhưng vẫn phải đảm bảo quản lý chặt chẽ
hoàn thuế GTGT. Đây chính là những nội dung của QLRR tuân thủ đã được
áp dụng trong lĩnh vực này.
Trên cơ sở thực hiện QLRR trong hoàn thuế, CQT đã tăng cường thanh
tra, kiểm tra sau hoàn thuế nhằm đảm bảo việc hoàn thuế được thực hiện chặt
chẽ theo đúng quy định, quy trình QLT. Năm 2020, toàn ngành Thuế đã thực
hiện được 4.813 cuộc thanh tra, kiểm tra sau hoàn, tương ứng với tổng số tiền
hoàn là 28.255 tỷ đồng trong đó: Tổng số quyết định ban hành trong năm
thanh tra, kiểm tra 2020 là: 997 quyết định, tương ứng với tổng số tiền hoàn là
7.256 tỷ đồng; Tổng số quyết định ban hành trước năm thanh tra, kiểm tra là
3.816 quyết định, tương ứng với tổng số tiền hoàn là 20.969 tỷ đồng. Tổng số
tiền truy hoàn và phạt là 203,5 tỷ đồng, trong đó: số thuế truy hoàn là 157,7 tỷ
đồng; tổng số tiền phạt là 45,7 tỷ đồng, tổng số tiền bị truy hoàn đã nộp vào
NSNN là 153,9 tỷ đồng.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết hồ sơ
hoàn thuế và lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch
kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế có phát sinh một số vướng mắc như:
(i) Tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện chưa
quy định rõ nguyên tắc phân loại hồ sơ hoàn thuế theo mức độ rủi ro mà chỉ
đưa ra các trường hợp cụ thể phải thực hiện kiểm tra trước khi hoàn thuế.
(ii) Về thời gian kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế đối với trường hợp
phải kiểm tra, thanh tra theo nguyên tắc rủi ro trong thời hạn 10 năm kể từ
ngày có quyết định hoàn thuế theo quy định tại Luật Quản lý thuế, tại Thông
tư số 204/2015/TT-BTC đã quy định chi tiết và xác định cụ thể tỷ lệ kiểm tra,
125
thanh tra sau hoàn và thời gian phải thực hiện kiểm tra, thanh tra sau hoàn:
100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao phải kiểm tra, thanh tra sau hoàn
trong thời hạn 60 ngày; 50% doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày và
50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày. Do vậy, việc thực hiện quy định
này trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn vì phụ thuộc vào số lượng đề nghị
hoàn thuế của NNT trong mỗi giai đoạn và nguồn lực kiểm tra, thanh tra sau
hoàn thuế của CQT.
Luật Quản lý thuế mới đã thay đổi thời gian kiểm tra, thanh tra sau hoàn
thuế đối với trường hợp phải kiểm tra, thanh tra theo nguyên tắc rủi ro trong
thời hạn 5 năm (thay vì 10 năm như trước đây) kể từ ngày có quyết định hoàn
thuế và thay đổi về thời hạn kiểm tra đổi với những hồ sơ kiểm tra sau hoàn
thuế. Do vậy, Thông tư 31/2021/TT-BTC đã sửa đổi, bổ sung nội dung hướng
dẫn này theo quy định của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 về thời hạn
thanh kiểm tra sau hoàn xuống 05 năm và quy định thời hạn kiểm tra, thanh
tra đối với các mức rủi ro: rủi ro trung bình sẽ kiểm tra trong thời hạn 03 năm;
rủi ro thấp sẽ kiểm tra trong thời hạn 05 năm. Việc sửa đổi, bổ sung theo
hướng trên đáp ứng được yêu cầu theo dõi, giám sát quá trình thực hiện kiểm
tra, thanh tra sau hoàn của các Cục Thuế địa phương qua hệ thống ứng dụng
CNTT tự động, tránh việc tùy tiện, kéo dài thời gian kiểm tra, thanh tra sau
hoàn thuế hoặc không thực hiện đúng nguyên tắc QLRR trong quản lý hoàn
thuế; và tăng cường khuyến khích NNT tuân thủ, nâng cao tính cạnh tranh
trong khuôn khổ pháp luật thuế.
Kết quả khảo sát công chức thuế cho thấy 34,5% số người được hỏi cho
rằng Bộ tiêu chí Bộ tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế
GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm
tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT là phù hợp với thực tế; 62% cho rằng Bộ
tiêu chí tương đối phù hợp với thực tế và 3,5% cho rằng Bộ tiêu chí chưa phù
hợp với thực tế. Trong đó công chức làm tại bộ phận Kê khai và kế toán thuế
cho rằng Bộ tiêu chí phù hợp và tương đối phù hợp có tỷ lệ cao với trên 97%.
126
Như vậy, trong công tác quản lý hoàn thuế GTGT, CQT đã thực hiện
QLRR để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ tốt các quy
định của pháp luật, đồng thời phòng chống, phát hiện, xử lý kịp thời các hành
vi vi phạm pháp luật thuế trong QLT đối với NNT. Tuy nhiên, đối với hồ sơ
hoàn thuế, QLRR chỉ mới thực hiện chủ yếu trong giai đoạn phân loại hồ sơ
hoàn thuế và thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế; các nội dung khác vẫn chưa
được thực hiện QLRR đầy đủ.
(4) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong việc
tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn của NNT
Trong nhiều năm trở lại đây, tình hình in, phát hành và sử dụng hóa đơn
của NNT trở nên phức tạp. Lợi dụng chính sách thông thoáng của nhà nước
về điều kiện thành lập doanh nghiệp; cơ chế tự khai, tự nộp thuế; cơ chế
doanh nghiệp được tự in, phát hành, quản lý và sử dụng hóa đơn, sự thuận
tiện trong việc kê khai, nộp thuế, báo cáo phát hành, sử dụng hóa đơn... một
số tổ chức, cá nhân đã thành lập doanh nghiệp hoặc mua bán doanh nghiệp
với mục đích in, phát hành và mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để
kiếm lời bất chính, gây thất thu NSNN.
Trước thời điểm Thông tư 204/2015/TT-BTC có hiệu lực, QLRR trong
công tác tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được thực hiện theo quy định
tại Thông tư 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính và Nghị định
số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 Chính phủ. Theo đó, doanh nghiệp đang
sử dụng hóa đơn tự in, đặt in thuộc loại rủi ro cao về thuế thì phải chuyển
sang sử dụng hóa đơn mua của CQT.
Tiêu chí xác định doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế được xác
định là các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu dưới 15 tỷ đồng và có một trong
các dấu hiệu sau: (i) Không có quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp các cơ
sở vật chất sau: nhà máy; xưởng sản xuất; kho hàng; phương tiện vận tải; cửa
hàng và các cơ sở vật chất khác; (ii) Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
khai thác đất, đá, cát, sỏi; (iii) Doanh nghiệp có giao dịch qua ngân hàng đáng
ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền; (iv) Doanh nghiệp
127
có doanh thu từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp
khác mà chủ các doanh nghiệp này có mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, anh chị
em ruột hoặc quan hệ liên kết sở hữu chéo chiếm tỷ trọng trên 50% trên tổng
doanh thu kinh doanh trên Tờ khai quyết toán thuế TNDN của năm quyết
toán; (v) Doanh nghiệp không thực hiện kê khai thuế theo quy định: Không
nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời
hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày bắt đầu hoạt động kinh doanh theo giấy
phép đăng ký kinh doanh; nghỉ kinh doanh quá thời hạn đã thông báo tạm nghỉ
kinh doanh với CQT và CQT kiểm tra xác nhận doanh nghiệp có SXKD nhưng
không kê khai thuế; không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký kinh
doanh và không khai báo với CQT hoặc CQT kiểm tra không xác định được nơi
đăng ký thường trú, tạm trú của người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp;
(vi) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị khởi tố về tội trốn thuế, tội
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN; (vii) Doanh
nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có sự thay đổi địa chỉ kinh doanh từ 02
lần trở lên trong vòng 12 tháng mà không khai báo theo quy định hoặc không kê
khai, nộp thuế ở nơi đăng ký mới theo quy định; (viii) Doanh nghiệp có dấu hiệu
bất thường khác theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế của CQT.
Tuy nhiên, việc QLRR mới dừng lại ở việc rà soát thủ công, phụ thuộc
vào kinh nghiệm, ý chí của cán bộ thuế. Thống kê số liệu doanh nghiệp rủi ro
cao sử dụng mua hóa đơn của CQT công bố trên website của ngành thuế giai
đoạn 2014- 2018 từ khi Thông tư số 39/2014/TT-BTC có hiệu lực, được thể
hiện tại bảng 3.7
128
Bảng 3.7. Tổng hợp doanh nghiệp rủi ro cao về thuế
giai đoạn 2014-2020
STT
Đvt: Số doanh nghiệp
Cục Thuế
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
1 Hà Nội 2 Đà Nẵng
719 -
393 -
317 1,613
984 844
1,366 1,094
925 733
1,488 644
3 TP. Hồ Chí Minh
26
155
280
638
633
968
829
4 Bà Rịa- Vũng Tàu
237
1,185
206
2,134
1,138
461
753
5 Bắc Ninh
318
370
359
439
165
159
250
6 Nghệ An
277
605
426
576
192
90
135
7 Quảng Ninh
386
184
285
466
448
467
686
8 An Giang
207
243
144
239
339
341
428
9
3.440
2.373
1.364
1.502
1.470
1.068
1.156
Nhóm các Cục thuế còn lại
Tổng cộng
5.610
5.508
4.995
4.752
7.841
6.369
6.149 Nguồn: Dữ liệu web ngành thuế
Theo số liệu tổng hợp từ trang thông tin ngành thuế cho thấy, cùng sự
gia tăng của các doanh nghiệp thì số lượng doanh nghiệp thuộc diện rủi ro cao
về thuế phải mua hóa đơn của CQT để sử dụng cũng tăng đáng kể, đặc biệt
nổi bật nhất là Cục Thuế Hà Nội năm 2020 tăng 60,86% so với năm 2019,
tiếp đến là Cục Thuế Quảng Ninh số lượng doanh nghiệp rủi ro năm 2020
tăng 46,9% so với năm 2019. Các doanh nghiệp rủi ro cao về thuế này sẽ phải
mua hóa đơn của CQT để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Bên cạnh đó, cũng có Cục Thuế số lượng doanh nghiệp rủi ro cao về
thuế đang có xu hướng giảm như Cục Thuế Nghệ An, Cục Thuế Đà Nẵng,
Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh.
Từ năm 2016, triển khai thực hiện Thông tư số 204/2015/TT-BTC việc
QLRR trong công tác quản lý hóa đơn đã có sự thay đổi, ngoài các tiêu chí
phân loại NNT theo Thông tư 39/2014/TT-BTC, việc phân loại NNT còn được
thực hiện theo Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu
hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn ban hành theo
129
Quyết định số 253/QĐ-BTC ngày 20/3/2018 của Bộ Tài chính. Bộ tiêu chí bao
gồm 8 tiêu chí và 21 chỉ số thành phần, tập trung đánh giá phân loại NNT theo
các nhóm thông tin: (i) Thông tin định danh của doanh nghiệp; (ii) Tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh; (iii) Tình hình khai thuế, nộp thuế, nợ thuế; (iv)
Tình hình sử dụng hóa đơn; dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế của doanh nghiệp.
Kết quả khảo sát công chức thuế cho thấy 34,25% số người được hỏi cho
rằng bộ tiêu chí Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu
hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn phù hợp với thực
tế; 60% số người được hỏi cho rằng Bộ tiêu chí tương đối phù hợp với thực tế
và 5,75% cho rằng Bộ tiêu chí không phù hợp với thực tế. Trong đó, 95%
công chức giữ chức vụ lãnh đạo đồng tình với nhận định rằng bộ tiêu chí phù
hợp và tương đối phù hợp với thực tế.
Ngày 12/12/2017, Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 2141/QĐ-
TCT về việc hướng dẫn thực hiện quy trình QLRR trong công tác phân tích
thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử
dụng hóa đơn. Quy trình ban hành và được triển khai cho toàn ngành thuế.
Theo quy định này, để thực hiện QLRR trong công tác quản lý hóa đơn,
CQT phải thực hiện các bước công việc sau: (i) Thu thập, xử lý thông tin, bao
gồm các thông tin về NNT thu thập từ CSDL ngành thuế và các thông tin từ
bên ngoài, trong đó có khâu đánh giá, điều chỉnh dữ liệu và quy định trách
nhiệm thu thập, xử lý, cập nhật, khai thác sử dụng thông tin; (ii) Sử dụng Bộ
tiêu chí đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử
dụng hóa đơn, trong bước công việc này, ứng dụng CNTT sẽ sử dụng tự động
bộ tiêu chí, chỉ số do Bộ Tài chính ban hành để đánh giá, xếp hạng mức độ rủi
ro của doanh nghiệp; (iii) Đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp, sau khi xây dựng
ngưỡng rủi ro cao, trung bình, thấp được ban hành và cài đặt trong ứng dụng
CNTT, CQT sẽ tự động đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp, kết quả xếp hạng sẽ
chuyển đến bộ phận kiểm tra hóa đơn để phục vụ công tác rà soát, kiểm tra
thực tế việc in, phát hành và sử dụng hóa đơn; (iv) Bước cuối cùng là báo cáo
130
kết quả thực hiện công tác QLRR trong việc đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro
trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.
Thêm vào đó, ngày 12/9/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp
dịch vụ. Tiếp đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 68/2019/TT-BTC ngày
30/9/2019 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-
CP quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Luật
quản lý thuế mới số 38/2019/QH14 ban hành ngày 13/7/2019 trong đó có quy
định về QLRR trong quản lý hóa đơn điện tử. Như vậy, công tác quản lý hóa
đơn đang từ hóa đơn giấy (tự in, đặt in, mua của cơ quan thuế) sẽ chuyển sang
sử dụng hóa đơn điện tử. Do vậy, tại Thông tư 31/2021/TT-BTC ngày
17/5/2021 đã bổ sung quy định về QLRR trong quản lý hóa đơn nhằm đảm
bảo tính thống nhất, phù hợp với quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan, cũng như phù hợp tình hình thực hiện trên thực tế; đổi mới và
hoàn thiện công tác QLRR trong quản lý hóa đơn; giảm bớt nguồn lực cho
CQT trong việc rà soát thủ công; đảm bảo việc lựa chọn chính xác các trường
hợp doanh nghiệp có rủi ro cao về hóa đơn; giúp NNT nắm bắt những doanh
nghiệp có nguy cơ vi phạm pháp luật về thuế, tránh sử dụng hoá đơn bất hợp
pháp; giúp cho các doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ, nâng cao tính cạnh
tranh trong khuôn khổ pháp luật thuế.
Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức
độ rủi ro NNT của 03 bộ tiêu chí đã ban hành được thể hiện qua bảng 3.8.
Kết quả cho thấy: có trên 60% công chức cho rằng hệ thống tiêu chí, chỉ số
phân tích, mức độ rủi ro NNT được ban hành tương đối đầy đủ, cụ thể: bộ
tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT; bộ tiêu chí xây
dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; bộ tiêu chí đánh giá
NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được đánh giá
lần lượt tương ứng 64%, 62%, 60% tương đối đầy đủ. Bộ tiêu chí xây dựng kế
hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT; bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh
131
tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc
tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được đánh giá lần lượt tương ứng 30%,
35%, 34% đầy đủ các tiêu chí, chỉ số. Chỉ từ 4%- 6% công chức cho rằng hệ
thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro NNT là chưa phù hợp.
Bảng 3.8. Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân
tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế
STT
Bộ tiêu chí
Phù hợp
Tương đối phù hợp
Chưa phù hợp
1
120
256
24
Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở NNT
2
138
248
14
Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT
3
137
240
23
Bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn
Biểu đồ 3.4: Kết quả khảo sát đánh giá về các bộ tiêu chí phân tích mức
độ rủi ro Người nộp thuế
132
(5) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong quản
lý nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế
Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế là việc CQT quản lý, theo dõi các
khoản thuế nợ của NNT và áp dụng các biện pháp theo quy định của Luật
Quản lý thuế để thu đủ số thuế nợ đó. Xác định công tác quản lý nợ và cưỡng
chế nợ thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác QLT, thời
gian qua, công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đã được ngành thuế đặc
biệt quan tâm, không chỉ bởi để đáp ứng được nguồn thu cho NSNN, mà quan
trọng hơn là để chấn chỉnh và làm chuyển biến nhận thức về việc chấp hành
chính sách, pháp luật của NNT.
Hiện nay, CQT chưa xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro về quản lý nợ thuế.
Công tác quản lý nợ thuế được thực hiện theo Quy trình ban hành kèm theo
Quyết định số 1401/QĐ-TCT ngày 28/7/2015 của Tổng cục Thuế; công tác
cưỡng chế nợ được thực hiện theo Quy trình ban hành kèm theo Quyết định số
751/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục Thuế. Theo các Quy trình này,
công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được CQT các cấp chú trọng
triển khai thực hiện. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, giám sát, quản lý chặt chẽ tình hình nộp thuế để xác định và
quản lý số thuế nợ. Trong điều kiện thực hiện phương thức tự tính, tự khai, tự
nộp thuế, NNT có trách nhiệm nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn qui định và
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật thuế. Để tạo
thuận lợi cho quá trình thu nộp, NNT có thể nộp thuế tại Kho bạc nhà nước
hoặc ngân hàng hoặc qua giao dịch thuế điện tử.
Thứ hai, Triển khai thực hiện QLRR trong quản lý nợ và cưỡng chế nợ
thuế theo quy định tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, Tổng
cục Thuế xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin quản lý nợ đối với người
nợ thuế để thực hiện các biện pháp nghiệp vụ đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế, thủ trưởng CQT các cấp thực hiện xây
dựng hệ thống quản lý nợ thuế và các biện pháp đôn đốc đối với từng
133
danh sách NNT như sau:
- NNT hoàn thành nghĩa vụ với NSNN, không còn nợ thuế;
- NNT nợ thuế từ 60 - 90 ngày;
- NNT nợ thuế từ 91 - 121 ngày;
- NNT nợ thuế trên 121 ngày.
CQT căn cứ danh sách trường hợp quản lý theo dõi thu nợ thuế và
trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế theo quy định và cảnh báo của hệ thống thông tin quản lý nợ để thực hiện
các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế với từng NNT theo quy định pháp luật hiện hành; xác nhận về việc hoàn
thành nghĩa vụ thuế của NNT; chuyển các thông tin của NNT chưa được xuất
cảnh, tạm hoãn xuất cảnh bằng phương thức điện tử hoặc qua đường công văn
bằng giấy cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.
Thực hiện quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế: CQT thực hiện gửi thông báo nợ thuế và tiền chậm nộp, Quyết định
cưỡng chế đến người nợ thuế và đến các bên liên quan (nếu có) bằng phương
thức điện tử; cập nhật đầy đủ, chính xác kết quả vào hệ thống thông tin nghiệp
vụ đối với từng trường hợp cụ thể để phục vụ cho QLRR, đánh giá tuân thủ
pháp luật thuế của NNT. Hàng tháng, CQT các cấp thực hiện công khai tình
hình nợ thuế của NNT theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Thứ ba, hoạt động quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được triển
khai đầy đủ và đồng bộ. Nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm đôn đốc thu
hồi kịp thời cho ngân sách và hạn chế thấp nhất số nợ mới phát sinh. Đó là:
- Giao chỉ tiêu thu nợ từ cấp Tổng cục cho đến từng bộ phận tham gia trực
tiếp thực hiện quy trình quản lý nợ thuế, quy trình cưỡng chế nợ thuế nhằm
nâng cao trách nhiệm của CQT các cấp cũng như các bộ phận trong CQT đối
với công tác quản lý nợ, cưỡng chế nợ thuế.
- Đẩy mạnh việc phối hợp giữa bộ phận quản lý nợ với các bộ phận thực
hiện các chức năng khác như kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế. Phối hợp với
134
NNT, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước để điều chỉnh kịp thời đối với việc hạch
toán nhầm các chỉ tiêu trên chứng từ nộp tiền, hạn chế “nợ ảo” phát sinh.
- Đối với loại nợ thuế dưới 90 ngày, CQT thực hiện phát hành kịp thời, đầy
đủ thông báo nợ thuế hoặc thông báo qua điện thoại, nhắn tin, gửi thư điện tử,
fax tới các Doanh nghiệp để đôn đốc thu nợ và ban hành các thông báo sẽ áp
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm nhắc nhở đối với những khoản nợ trên 90 ngày.
- Thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng về kỹ năng quản lý nợ thuế cho
công chức làm công tác quản lý nợ tại CQT các cấp.
Từ năm 2014, khi Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) được đưa vào
vận hành phục vụ cho công tác QLT, hoạt động quản lý nợ và cưỡng chế nợ
thuế đã đi vào bài bản và toàn diện hơn. Cơ sở dữ liệu kê khai đã nhập trên hệ
thống quản lý thuế TMS được rà soát những trường hợp nợ thuế để tham mưu
cho lãnh đạo chỉ đạo các bộ phận có liên quan phối hợp rà soát và đôn đốc kịp
thời các khoản nợ thuế vào NSNN.
Đối với hoạt động cưỡng chế nợ thuế, căn cứ cơ sở dữ liệu QLT tập trung
TMS, định kỳ, Tổng cục Thuế thông báo danh sách các Doanh nghiệp có số
tiền thuế nợ lớn, kéo dài để các cục thuế địa phương tổ chức rà soát, đối chiếu
số liệu, kịp thời xác định chính xác số nợ của từng NNT. Trên cơ sở đó, các
cục thuế và chi cục thuế ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế
theo quy định.
Với việc triển khai các biện pháp nói trên, công tác quản lý nợ đọng thuế
và cưỡng chế nợ thuế ngày càng đi vào nề nếp và đạt được những kết quả tích
cực, đảm bảo thu hồi được số thuế nợ đọng, hạn chế thất thu ngân sách và nâng
cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. Năm 2020 toàn ngành thuế thực hiện thu
hồi nợ đọng tại thời điểm ngày 31/12/2019 đạt 28.476 tỷ đồng, đạt 84,2% chỉ
tiêu thu nợ giao, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó thu bằng biện
pháp quản lý nợ là 19.388 tỷ đồng; thu bằng biện pháp cưỡng chế nợ là 9.088
tỷ đồng. Tổng số NNT đã được xử lý khoanh nợ, xóa nợ tiền chậm nộp không
còn khả năng nộp NSNN trong năm 2020 theo Nghị quyết 94/2019/QH14 là
135
495.123 NNT, với tổng số tiền thuế, tiền chậm nộp được xử lý là 24.155 tỷ
đồng, bằng 86,4% so với nhiệm vụ giao.
Tuy vậy, công tác cưỡng chế, thu nợ vẫn còn một số bất cập, cách phân
loại nợ để quản lý và đôn đốc thu chưa tính đầy đủ đến nguyên nhân nợ và
chưa được xem xét trong bối cảnh mức độ tuân thủ thuế chung của một NNT
cụ thể, do vậy, chưa có biện pháp xử lý đôn đốc nợ thuế một cách phù hợp
nhất để mang lại hiệu quả cao trong quản lý nợ. Việc thực hiện các biện pháp
cưỡng chế nợ thuế ở một số địa phương chưa cương quyết và chưa phù hợp
nên hiệu quả cưỡng chế nợ thuế chưa cao.
Tổng số tiền nợ thuế ngành thuế quản lý tính đến cuối năm 2020 là
89.796 tỷ đồng, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2019. Tỷ lệ tổng nợ thuế trên
tổng thu năm 2020 ở mức 7,2%; tỷ lệ tổng nợ có khả năng thu trên tổng thu
năm 2020 ở mức 4,1%. Trong đó Nợ tiền thuế có khả năng thu là 34.187 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 38,1% tổng số tiền thuế nợ, tăng 24,9% so với cùng kỳ
năm 2019; Tiền phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp phát sinh của nợ
có khả năng thu là 16.563 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,4% tổng số tiền thuế nợ,
tăng 11% so với cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi
là 28.127 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,3% tổng tiền thuế nợ, giảm 36,2% so với
cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ đang xử lý là 8.712 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
9,7% tổng số tiền thuế nợ, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ
đang khiếu nại, khiếu kiện là 2.206 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,5% tổng số tiền
thuế nợ, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm 2019.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014- 2020
3.3.1. Kết quả đạt được
Việc thực hiện QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014- 2020 đã
đạt kết quả chủ yếu sau:
Thứ nhất, cơ sở pháp lý để thực hiện QLRR trong QLT
Sau khi thực hiện thí điểm một số chức năng thuế, ngành Thuế đã chủ
136
động đề xuất kiến nghị để tạo nên hành lang pháp lý khá toàn diện để thực
hiện QLRR trong QLT. Quy định QLRR đã được đưa vào các văn bản quy
phạm pháp luật có tính cao nhất về QLT là Luật Quản lý thuế, đồng thời đã
được cụ thể hóa trong các văn bản quy định tạo cơ sở cho việc tổ chức thực
hiện QLRR trong hoạt động nghiệp vụ thuế. Nội dung, nhiệm vụ QLRR đã
được quy định trong Luật Quản lý thuế, Luật số 21/2012/QH13, Nghị định số
83/2013/NĐ-CP của Chính Phủ, Thông tư số 204/2015/TT-BTC của Bộ Tài
chính, Thông tư 31/2021/TT-BTC và các văn bản pháp luật liên quan.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật, Bộ Tài chính đã ban hành các quyết
định về QLRR (Quyết định 1005/QĐ-BTC, Quyết định 1006/QĐ-BTC và
Quyết định 253/QĐ-BTC của Bộ Tài chính), hướng dẫn cách thức thực hiện
QLRR tại CQT các cấp.
Bộ Tài chính đã xây dựng và ban hành được 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi
ro trong thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT; QLRR trong hoàn thuế;
QLRR trong quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ. Trên cơ sở các bộ tiêu chí
được ban hành, Tổng cục thuế tiếp tục xây dựng các quy trình QLRR gồm: hệ
thống quy trình nghiệp vụ QLRR trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm
tra tại trụ sở NNT, phân loại hồ sơ hoàn thuế, lựa chọn trường hợp kiểm tra
thanh tra sau hoàn thuế và công tác quản lý, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.
Nhìn chung, 03 quy trình QLRR trên đã tuân thủ theo trình tự quy trình
QLRR Theo Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế (đã trình bày
ở chương 2). Hiện nay, QLRR đã được thực hiện ở hầu hết các khâu chức
năng trong QLT và CQT đã ban hành các quy trình thực hiện QLRR cho từng
khâu chức năng và không ngừng được hoàn thiện. Các quy trình được xác
định là phù hợp với điều kiện QLT của Việt Nam hiện nay, góp phần nâng
cao hiệu quả QLT, giảm bớt các thủ tục hành chính cho NNT.
Thứ hai, Tổ chức bộ máy QLRR
Đã hình thành bộ máy QLRR từ cấp Tổng cục đến các cục thuế, với Ban
QLRR chuyên trách trực thuộc Tổng Cục thuế chịu trách nhiệm nghiên cứu
137
và tổ chức thực hiện QLRR trong toàn ngành thuế, ở cấp cục thuế bộ phận
QLRR thuộc phòng thanh tra kiêm nhiệm. Tổ chức bộ máy QLRR như trên
khá phù hợp trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu thực
hiện QLRR trong QLT. QLRR đã được thực hiện trong hầu hết các khâu, các
chức năng quản lý chính.
Thứ ba, Nhận thức về QLRR trong QLT
Nhận thức về QLRR đã được hình thành khá rõ nét cả về vai trò, vị trí và
nhiệm vụ trong công tác QLT. Hệ thống lý luận nghiệp vụ về QLRR về cơ
bản đã và đang được xây dựng, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu nghiệp
vụ hiện nay.
- QLRR đã từng bước thâm nhập sâu, rộng làm thay đổi cơ bản phương
thức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ QLT theo hướng đảm bảo sự cân
bằng, tạo thuận lợi và kiểm soát tuân thủ pháp luật; phần lớn các quyết định
kiểm tra, thanh tra NNT được thực hiện dựa trên cơ sở kết quả phân tích rủi
ro. Đặc biệt cơ chế QLRR được luật hóa tại Luật Quản lý thuế và đang dần
trở thành nền tảng trong thực hiện hoạt động nghiệp vụ của cán bộ, công chức
trong toàn ngành thuế.
- Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công chức tại CQT các cấp đã nhận thức về
nguyên tắc, quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực hiện QLRR. Trình độ
chuyên môn của cán bộ, công chức thuế trong việc thực hiện QLT theo quy
trình QLRR được nâng cao. Với quy trình QLRR, yêu cầu công chức thuế
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để có thể nhận diện, phân
tích và đánh giá rủi ro. Với số lượng doanh nghiệp ngày càng phát triển, quy
mô ngày càng tăng, xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới đòi hỏi cán
bộ thuế phải không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, trau dồi chuyên
môn, học tập và ứng dụng CNTT vào công tác QLT
Thứ tư, Thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu về NNT
CQT đã từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu của NNT bao
gồm thông tin định danh và các thông tin liên quan đến việc tuân thủ pháp
138
luật thuế làm căn cứ phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá và xử lý rủi ro
trong QLT. Ngành thuế đã đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong QLT, với cơ
sở dữ liệu NNT được quản lý tập trung đã giúp cho quá trình ứng dụng CNTT
trong việc nhận diện, xâu chuỗi, phân nhóm để xác định các rủi ro về thuế
được chính xác, đầy đủ hơn. Tổ chức thu thập, cập nhập, xử lý thông tin tại
CQT các cấp; Tổ chức phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị
ngoài ngành thuế (Tổng cục Hải quan, UBCK, Ngân hàng Nhà nước,...).
Thứ năm, Xây dựng bộ tiêu chí đánh rủi ro và thực hiện phân loại NNT
CQT đã xây dựng, quản lý, theo dõi, đánh giá, phân loại đối với hơn
700.000 doanh nghiệp để phục vụ QLRR và các yêu cầu QLT, trong đó:
- Xây dựng, quản lý, sử dụng bộ tiêu chí đánh giá lựa chọn NNT có dấu
hiệu rủi ro để lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; Bộ tiêu chí, chỉ
số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có
dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế; Bộ
tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong
việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn;
- Đã thực hiện phân tích, đánh giá các tiêu chí rủi ro để đưa ra danh sách
NNT thực hiện thanh tra, kiểm tra hàng năm; phân tích đánh giá để phân
luồng việc áp dụng hình thức hoàn thuế GTGT; Phân tích đánh giá để kiểm
soát việc phát hành, in, sử dụng hóa đơn của NNT.
- Đã thực hiện việc phân tích, đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT.
Kết quả phân tích, đánh giá đưa ra danh sách NNT có rủi ro cao làm cơ sở để
các bộ phận chức năng liên quan đưa ra biện pháp quản lý phù hợp;
- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách QLT đối với danh sách
các doanh nghiệp, tổ chức được đánh giá phân loại rủi ro; cung cấp cho các cơ
quan chức năng các thông tin về chấp hành pháp luật của NNT. Phối hợp với
các đơn vị nghiệp vụ trong và ngoài ngành, sử dụng hệ thống thông tin nghiệp
vụ để cảnh báo, yêu cầu kiểm tra, thanh tra đối với những NNT có nghi ngờ
hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế.
139
Thứ sáu, Kết quả QLRR trong các chức năng QLT
- Quản lý kê khai thuế: QLRR trong quản lý khai thuế đã có những bước
chuyển biến tích cực, đã tập trung nguồn lực quản lý ngay từ khâu khai thuế,
kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở CQT nên phát hiện kịp thời những trường
hợp sai sót, gian lận, hạn chế được những hành vi không tuân thủ của NNT.
- Thanh tra, kiểm tra thuế: QLRR trong thanh tra, kiểm tra thuế đã bám
sát quy trình QLRR. Cơ sở dữ liệu thông tin về NNT được cập nhật ngày càng
đầy đủ và có hệ thống, CQT đã chủ động chấm điểm rủi ro cho tất cả các
doanh nghiệp nói chung nhằm lựa chọn những NNT có rủi ro cao về thuế để
đưa vào diện thanh tra, kiểm tra. Danh sách NNT được lựa chọn theo nguyên
tắc ưu tiên các doanh nghiệp có điểm rủi ro cao và các doanh nghiệp kinh
doanh trong các lĩnh vực ngành, nghề đặc thù. Nhờ thực hiện kỹ thuật phân
tích rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế đã rút ngắn thời gian và công sức cho
cuộc thanh tra, kiểm tra.
Việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm bằng Quyết định bộ tiêu
chí thống nhất từ trung ương đến các địa phương, trên cơ sở phân tích rủi ro
tập trung vào trọng tâm, trọng điểm đã nâng cao chất lượng của các cuộc
thanh tra, kiểm tra, truy thu kịp thời nhiều khoản thuế thiếu, phát hiện các sai
phạm của NNT, góp phần nâng cao tính tuân thủ về pháp luật thuế của NNT,
tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng.
- Phân loại hồ sơ hoàn thuế và kiểm tra sau hoàn thuế: Đã xây dựng
được bộ tiêu chí đánh giá rủi ro để lựa chọn hồ sơ kiểm tra sau hoàn thuế.
Việc phân loại hồ sơ hoàn thuế: Hoàn thuế trước, kiểm tra sau và kiểm tra
trước, hoàn thuế sau dựa trên mức độ rủi ro của doanh nghiệp đã tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, giảm bớt các thủ tục hành
chính. Ngoài ra, với việc lựa chọn kiểm tra sau hoàn thuế dựa trên các tiêu chí
rủi ro đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau hoàn thuế.
- Quản lý hóa đơn: Đã có bộ tiêu chí đánh giá rủi ro của NNT trong việc
tạo, in, phát hành và sử dụng hóa. Quản lý hóa đơn đã thực hiện theo QLRR,
140
cùng với sử dụng hóa đơn điện tử đã giảm bớt nguồn lực cho CQT trong việc
rà soát thủ công; đảm bảo việc lựa chọn chính xác các trường hợp doanh
nghiệp có rủi ro cao về hóa đơn; hạn chế sử dụng hoá đơn bất hợp pháp.
- Quản lý nợ: Mặc dù chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro trong
quản lý nợ thuế, nhưng việc quản lý nợ dựa trên mức độ rủi ro của các nhóm
nợ khác nhau để có biện pháp xử lý phù hợp cũng đưa lại những kết quả tích
cực, thể hiện ở tỷ lệ nợ đọng thuế giảm qua các năm.
Kết quả khảo sát về tác dụng của thực hiện QLRR trong các chức năng
QLT thời gian qua được thể hiện qua bảng 3.9.
Theo kết quả khảo sát thì 78% công chức cho rằng thực hiện QLRR
trong các chức năng QLT có tác dụng tích cực cho công tác QLT. Một số
công chức cho rằng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT cũng có tác
dụng hỗ trợ QLT. Một số khảo sát cho rằng vì tính chất của QLRR không thể
hiện được hiệu quả một cách trực tiếp mà thông qua việc cải thiện hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra, tính tuân thủ tự nguyện của NNT và cần có sự kết
hợp thực hiện của các chức năng, nghiệp vụ QLT thì hiệu quả QLRR mới đạt
được hiệu quả tích cực. Ý kiến khác cho rằng thực hiện QLRR có tác dụng
tích cực nhưng chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện QLRR rủi ro trong các chức
năng QLT thời gian qua được thể hiện qua bảng 3.10.
Kết quả khảo sát cho thấy có 363 công chức (chiếm 90,75% người
được hỏi) cho rằng chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT đã
tốt và tương đối tốt. Chỉ 9,25% công chức được hỏi cho rằng chất lượng thực
hiện QLRR trong các chức năng QLT chưa tốt. Không có ý kiến nào cho
rằng chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT là kém.
141
Bảng 3.9. Kết quả khảo sát về tác dụng của thực hiện QLRR rủi ro
trong các chức năng quản lý thuế
Số lượng Tỷ lệ Stt Thực hiện QLRR trong các chức năng QLT
312 78% 1
Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế Chưa có tác dụng đáng kể Không có tác dụng 2 3
Tổng cộng 88 0 400 22% 0% 100%
Bảng 3.10: Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện quản lý rủi ro
trong các chức năng quản lý thuế
Số lượng Tỷ lệ Stt Chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT
Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Kém 1 2 3 4
105 258 37 0 400 26.25% 64.50% 9.25% 0 100% Tổng cộng
Biểu đồ 3.5: Kết quả khảo sát về chất lượng công tác quản lý rủi ro
trong quản lý thuế
142
3.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác QLRR trong QLT còn tồn tại
những hạn chế, yếu kém có liên quan đến các yếu tố cấu thành khung tiêu
chuẩn QLRR, cụ thể:
Thứ nhất, hành lang pháp lý về QLRR khá đầy đủ nhưng chưa thực
sự đồng bộ, thống nhất, còn nhiều điểm chồng lấn hoặc thiếu các quy định,
hướng dẫn cụ thể cho việc tổ chức thực hiện
- Một số quy định trong các văn bản pháp lý chưa được giải thích rõ
ràng: Luật số 106/2016/QH12 và Nghị định số 100/2016/NĐ-CP của Chính
phủ quy định trường hợp hoàn thuế trước kiểm tra sau là “NNT không thuộc
đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật QLT”. Tuy nhiên, định nghĩa thế
nào là “đối tượng rủi ro cao” thì chưa được quy định tại Luật, Nghị định và
tại cấp Thông tư cũng chưa có quy định cụ thể. Vì rủi ro mang tính đặc thù, là
hiện tượng có sự vận động không ngừng; tại các thời điểm khác nhau nhìn
nhận về rủi ro có sự khác nhau trong khi hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật
thường có sự ổn định, phù hợp để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất
định. Hiện nay, Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14 cũng quy định một trong
những trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau là “Hồ sơ hoàn thuế thuộc
loại rủi ro về thuế cao theo phân loại quản lý rủi ro trong quản lý thuế”.
Nghị định 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020, Thông tư 80/2021/TT-BTC
ngày 29/09/2021 chưa quy định cụ thể về hồ sơ “rủi ro cao trong quản lý
thuế”.
- Một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật thiếu cụ thể
dẫn đến sự không thống nhất trong thực hiện: Việc các văn bản quy phạm
pháp luật vẫn còn trường hợp quy định không cụ thể; do đặc thù vùng miền,
do nhận thức của mỗi CQT, công chức thuế có sự khác nhau từ đó CQT các
cấp sẽ có sự đối xử với doanh nghiệp khác nhau, không có sự thống nhất.
Chẳng hạn, cùng một loại hình doanh nghiệp, cùng lĩnh vực kinh doanh, quy
mô, cùng đối tượng, trường hợp hoàn thuế khi lập kế hoạch kiểm tra, thanh
143
tra sau hoàn thuế có tình trạng tại CQT này thì thuộc diện kiểm tra trong vòng
01 năm nhưng tại CQT khác thì thuộc diện kiểm tra trong vòng 10 năm.
- Quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định hết các
nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT như: kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp, hệ số nợ vay, nợ thuế của doanh nghiệp
cũng như tình hình xử lý vi phạm các thủ tục hành chính về thuế, hải quan, kế
toán, kiểm toán...
- Cơ quan thuế chưa ban hành đầy đủ các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro ở
tất cả các khâu chức năng của QLT, dẫn đến quy trình QLRR ở một số khâu
chức năng QLT (chưa ban hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro) được xây dựng
chưa tuân thủ đúng chuẩn mực quốc tế.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế, QLRR được thực hiện ở tất cả các
chức năng của QLT. Tuy nhiên, hiện nay CQT mới ban hành được 03 bộ tiêu
chí đánh giá rủi ro. Các khâu chức năng QLT như: kê khai thuế, quản lý nợ và
cưỡng chế thuế đã thực hiện theo định hướng QLRR nhưng hiện nay vẫn chưa
xây dựng được các tiêu chí đánh giá rủi ro. Điều đó dẫn đến, tại các khâu
QLT đã ban hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro thì Quy trình QLRR ban hành đi
kèm đã tuân thủ theo trình tự quy trình QLRR theo Chuẩn mực 31000 của Tổ
chức chuẩn mực quốc tế; Còn các khâu QLT còn lại như: kê khai thuế, quản
lý nợ và cưỡng chế thuế thì quy trình quản lý mặc dù đã theo định hướng
QLRR nhưng vẫn chưa thực hiện được theo trình tự quy trình QLRR theo
Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, Cơ cấu tổ chức bộ máy và việc trao quyền, trách nhiệm thực
hiện QLRR chưa phù hợp, chưa tương xứng với công tác QLRR trong giai
đoạn hiện nay
QLRR sẽ là xu hướng tất yếu trong QLT hiện đại, đảm bảo liên kết, điều
phối xuyên suốt trong các hoạt động nghiệp vụ thuế; tuy vậy việc sắp xếp tổ
chức bộ máy QLRR chưa phù hợp. Ban Quản lý Rủi ro chưa có đầy đủ nguồn
lực để xác định: các rủi ro tuân thủ của NNT, các chiến lược xử lý, các rủi ro
144
nội bộ và biện pháp giải quyết. Do vẫn là Ban “mềm” nên Ban Quản lý Rủi ro
chưa đủ cơ sở pháp lý trong việc chịu trách nhiệm toàn bộ đối với việc thiết
kế và triển khai Chiến lược Cải thiện Tuân thủ tổng thể của Tổng Cục thuế,
cũng như sự gắn kết của chiến lược này với Chiến lược chung của Tổng cục
và việc chuẩn bị các kế hoạch cải thiện tuân thủ hàng năm.
Thứ ba, công tác thu thập, xử lý thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu về
NNT còn hạn chế, chưa đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, kịp thời
- Công tác thu thập, xử lý thông tin về NNT còn hạn chế về phạm vi,
mức độ chuyên sâu, chưa được tập trung hóa về đầu mối để đảm bảo việc xây
dựng, quản lý và điều phối tập trung thống nhất.
- Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ QLRR còn hạn chế, kém về chất
lượng, thông tin rời rạc và thiếu các thông tin quan trọng cho việc đánh giá rủi
ro. Hiện nay, cơ sở dữ liệu về NNT chủ yếu dựa trên hồ sơ khai thuế của NNT
và các kết quả QLT của CQT (thanh tra, kiểm tra, thu hồi nợ…). Các thông
tin về NNT từ bên thứ ba còn hạn chế mặc dù giữa CQT và các cơ quan chức
năng đã có cơ chế trao đổi và cung cấp thông tin. Đặc biệt, trong điều kiện
phát triển của thương mại điện tử, sự phát triển giao dịch xuyên biên giới,
giao dịch của các công ty đa quốc gia phát triển mạnh mẽ… thì những thông
tin hạn chế về NNT, đặc biệt là các thông tin gắn với đặc thù sản xuất kinh
doanh của NNT đã làm hạn chế rất lớn đến quá trình xử lý dữ liệu điện tử,
đánh giá rủi ro và hỗ trợ đưa ra quyết định,...
Thứ tư, Việc đánh giá rủi ro mới dừng lại ở một số chức năng QLT,
chưa có chương trình đánh giá rủi ro tổng thể về thuế ở tất cả các khâu
- Hiện nay, CQT Việt Nam chưa xây dựng được chương trình rủi ro tuân
thủ tổng thể về thuế để đánh giá rủi ro trong tất cả các khâu, chức năng QLT
trong từng phân đoạn NNT. Việc đánh giá rủi ro mới dừng lại ở việc nhận
diện những trường hợp có rủi ro cao cần can thiệp bằng những nghiệp vụ như
thanh tra, kiểm tra thuế, cưỡng chế nợ thuế… riêng lẻ ở một số chức năng
QLT. Việc thực hiện QLRR trong các hoạt động nghiệp vụ riêng rẽ có thể dẫn
145
đến sự phân đoạn rủi ro. Cách làm này làm gia tăng nguồn lực trong việc xác
định rủi ro, gây nên sự trùng lắp về thông tin và không phản ánh được sự liên
kết giữa các khâu nghiệp vụ. Xét về bản chất, rủi ro luôn tiềm ẩn và nguy cơ
xuất hiện có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào. Do vậy, việc đánh giá rủi ro phải
liên tục và cần phải xác định nội dung rủi ro, biện pháp can thiệp, thời điểm
can thiệp để không bỏ sót rủi ro.
- Về nguyên tắc, rủi ro trong QLT bao gồm: rủi ro trong việc thực hiện
các nghiệp vụ về QLT và rủi ro trong tuân thủ thuế của NNT. Hiện nay, các
tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế để thực hiện QLRR ở Việt Nam mới dựa trên
trên các tiêu chí đánh giá rủi ro từ tuân thủ thuế của NNT, chưa có các tiêu chí
đánh giá rủi ro của CQT trong việc thực hiện các chức năng QLT. Vì vậy,
việc thực hiện QLRR trong QLT tại Việt Nam mới đang hướng đến làm tăng
tính tuân thủ thuế của NNT. Việc QLRR để nâng cao hiệu quả quản lý của
chính CQT hiện nay chủ yếu dựa trên đánh giá kết quả của công tác QLT,
chưa có các tiêu chí cụ thể để đánh giá hiệu quả QLT từ phía CQT.
- Công tác QLRR hiện nay thường chú trọng tới việc xử lý các rủi ro cao
và quan tâm chưa đầy đủ đến việc theo dõi, giám sát các nhóm rủi ro còn lại,
trong khi NNT thuộc các nhóm rủi ro còn lại này cũng có thể thường xuyên
thay đổi do thay đổi phương thức, thủ đoạn vi phạm. Việc QLRR chỉ tập
trung vào một số rủi ro cao ở một số thời điểm có thể gây ra các tác động tiêu
cực như:
+ Việc thiết lập tiêu chí và các biện pháp xử lý rủi ro thường để kiểm
soát các nguy cơ đã biết, trong khi rủi ro luôn biến động và đa dạng về nguồn
gốc phát sinh. Nếu xuất hiện rủi ro nghiêm trọng nhưng CQT chưa nhận diện
được hoặc đánh giá sai mức độ rủi ro dẫn đến bỏ lọt vi phạm; ngược lại các
rủi ro không nghiêm trọng nhưng CQT đánh giá sai mức độ rủi ro thì có thể
dẫn đến lãng phí nguồn lực để kiểm tra những giao dịch rủi ro thấp.
+ Việc thiết lập tiêu chí đánh giá rủi ro có thể rơi vào tình trạng không phản
ánh được bản chất rủi ro của giao dịch: xét về khía cạnh tạo thuận lợi, kiểm tra
146
trước sẽ dịch chuyển thành hậu kiểm đối với giao dịch ít rủi ro. Tuy nhiên nếu
pháp luật quy định hoặc cấp trên yêu cầu, CQT phải giám sát, theo dõi và có
biện pháp nghiệp vụ phù hợp đối với một số vấn đề cụ thể theo từng thời kỳ (yêu
cầu kiểm tra theo chuyên đề,...) và yêu cầu này trở thành một tiêu chí đánh giá
rủi ro thì tiêu chí này sẽ không phản ánh được bản chất rủi ro của giao dịch.
Thứ năm, khả năng tự động hóa trong hoạt động phân tích, đánh giá
rủi ro trên cơ sở ứng dụng CNTT còn thấp
Việc thiết lập, tiêu chí rủi ro, tiêu chí lựa chọn là những công việc có sự
can thiệp của con người. Nếu không sử dụng những biện pháp kỹ thuật hiện
đại, các quy trình, công cụ kiểm soát chéo hoặc quy trình, nghiệp vụ kiểm tra
của CQT yếu kém; hệ thống đánh giá rủi ro sẽ không hiệu quả, mang tính chủ
quan và các đơn vị/công chức thuế sẽ can thiệp vào tiêu chí rủi ro để trục lợi.
Hiện nay, việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu phục vụ phân tích,
đánh giá rủi ro còn rất khó khăn; thiếu các phần mềm ứng dụng hỗ trợ phân
tích, đánh giá cảnh báo rủi ro trong các hoạt động nghiệp vụ thuế. Điều này
dẫn đến phần lớn hoạt động phân tích, đánh giá rủi ro được thực hiện thủ công
và chủ yếu dựa trên những kiến thức, kinh nghiệm của công chức phân tích.
Ứng dụng TPR còn hạn chế việc đồng bộ dữ liệu trong ngành và ngoài
ngành, dữ liệu chưa đồng bộ kịp thời với ứng dụng TMS. Dữ liệu cập nhật
ngành nghề kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp trên ứng dụng TPR chưa
phản ánh hết thực tế ngành nghề hoạt động chính của doanh nghiệp. Ứng
dụng TPR cũng chưa cho phép phân tích rủi ro theo từng ngành nghề do đó,
khi không thể sử dụng ứng dụng này để lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra
chuyên đề một ngành nghề nào đó theo kỹ thật QLRR.
Thứ sáu, Việc thực hiện QLRR trong các chức năng QLT còn một số
hạn chế
Việc tổ chức thực hiện các biện pháp, kỹ thuật nghiệp vụ QLRR còn chưa
bài bản, thiếu tính chuyên sâu; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả QLRR trong các
nghiệp vụ chức năng còn thấp, chưa ngang tầm với yêu cầu của cải cách, hiện
147
đại hóa ngành thuế. Cụ thể:
+ Công tác quản lý kê khai thuế và quản lý nợ và cưỡng chế thuế mặc dù
đã thực hiện theo định hướng QLRR nhưng do chưa xây dựng các tiêu chí đánh
giá rủi ro ở các khâu quản lý này, dẫn đến việc thực hiện QLRR ở các cơ quan
thuế địa phương không thống nhất, mang tính chủ quan của người quản lý. Từ
đó, việc sắp xếp bố trí nguồn nhân lực cho các nội dung công việc quản lý cụ
thể chưa có tiêu chí đánh giá hiệu quả.
+ Công tác quản lý hóa đơn còn tồn tại, vẫn có những trường hợp mua bán
hóa đơn khống. Việc áp dụng hóa đơn điện tử rộng rãi trong thời gian tới sẽ
hạn chế một phần các rủi ro gian lận thuế trong việc sử dụng hóa đơn. Tuy
nhiên, thời gian đầu áp dụng có thể gặp khó khăn như: Giải thích cho khách
hàng hiểu thế nào là hóa đơn điện tử và tính pháp lý của hóa đơn này, không
phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu về mặt hạ tầng kỹ
thuật CNTT để thực hiện hóa đơn điện tử...
+ Việc vận dụng tiêu chí đánh giá rủi ro trong việc xây dựng kế hoạch
thanh tra, kiểm tra thuế; kiểm tra sau hoàn thuế nhiều khi chưa được hiệu quả.
Do thiếu thông tin đặc thù về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên hiện
nay CQT đang gặp khó khăn trong các thanh tra về chuyển giá, giá giao dịch
liên kết. Cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa thực sự thay đổi nhận thức về QLRR,
chưa có kỹ năng phân tích để xác định rủi ro trọng yếu mà vẫn chủ yếu thực
hiện thanh tra toàn diện, thanh tra quyết toán thuế.
3.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Những hạn chế nêu trên là do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân
khách quan trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện QLRR trong
QLT. Cụ thể:
* Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, QLRR trong QLT là lĩnh vực quản lý chuyên sâu và phức tạp
QLRR trong QLT không phải là vấn đề mới, tuy nhiên đây là một lĩnh
vực kỹ thuật quản lý phức tạp, đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn đúc rút
148
qua công tác quản lý thực tế, đồng thời phải kết hợp các phương pháp phân
tích hiện đại. Vấn đề này ngành thuế Việt Nam đang bước đầu nghiên cứu và
triển khai nên việc tiếp cận còn hạn chế; một số cấu phần chức năng mới được
nghiên cứu và bước đầu đưa vào thử nghiệm nên còn thiếu tính bài bản; kiến
thức, kinh nghiệm của cán bộ công chức thuế thực hiện những hoạt động này
còn chưa nhiều so với yêu cầu của công tác QLRR.
- Thứ hai, Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương còn thiếu sự
phối hợp với CQT trong việc cung cấp thông tin về NNT
Việc xác định NNT “chấp hành tốt pháp luật về thuế” phải xét trên tất
cả các phương diện, các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT. Vì vậy,
việc cung cấp thông tin từ bên thứ ba có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây
dựng cơ sở dữ liệu về NNT. Hiện nay, mặc dù giữa CQT và các cơ quan chức
năng như: kho bạc nhà nước, ngân hàng thương mại, quản lý thị trường, công
an, kế hoạch và đầu tư … đã có cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin. Tuy
nhiên, việc trao đổi thông tin về NNT giữa các các cơ quan chức năng và
CQT còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, thống nhất đến việc cập nhật thông tin
đa chiều về NNT chưa kịp thời, chính xác. Việc nắm bắt thông tin về NNT
thiếu chính xác, chưa sát với tình hình thực tế tạo cơ hội cho NNT né tránh
nghĩa vụ nộp thuế và CQT thiếu dữ liệu thông tin để thực hiện QLRR.
- Thứ ba, kinh tế phát triển làm phát sinh các giao dịch kinh tế mới mà
pháp luật chưa kịp điều chỉnh.
Kinh tế Việt Nam phát triển hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và sự
phát triển mạnh mẽ kinh tế số đã phát sinh các giao dịch xuyên biên giới, giao
dịch của các công ty có mối quan hệ liên kết hoặc một số loại hình giao dịch
kinh tế mới mà pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng chưa kịp điều
chỉnh hoặc chưa có quy định cách thức quản lý rõ ràng (thương mại điện tử,
kinh tế chia sẻ…). Điều này sẽ gây khó khăn cho công tác QLT nói chung và
QLRR về thuế nói riêng.
149
- Thứ tư, vẫn còn một bộ phận không nhỏ NNT chưa có ý thức làm theo
luật, tuân thủ luật một cách tự nguyện do trình độ hiểu biết luật còn hạn chế
hoặc cố tình vi phạm pháp luật nói chung và luật thuế nói riêng.
* Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất, Nhận thức về QLRR trong đội ngũ cán bộ, công chức thuế
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ công tác QLRR hiện nay
Các nguyên tắc, chính sách về QLRR chưa thâm nhập sâu trong cán bộ,
công chức thuế; nhất là số lãnh đạo, chuyên gia trong các bộ phận nghiệp
vụ chức năng. Điều này dẫn đến khi xây dựng chiến lược, kế hoạch, văn
bản hoặc tổ chức thực hiện hoạt động nghiệp vụ chưa có sự liên kết chặt
chẽ với công tác QLRR. Nhiều nội dung quy định còn tách rời, thậm chí đi
ngược với nguyên tắc QLRR gây ra những rào cản trong tổ chức, thực hiện.
Công tác chỉ đạo điều hành về QLRR còn thiếu tính thống nhất tại các
cục thuế địa phương, thiếu sự đôn đốc, chấn chỉnh xử lý nghiêm đối với các
đơn vị, cá nhân sai phạm hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ và kịp thời
các quy trình, quy định, hướng dẫn của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế.
Công tác QLRR còn chưa được quan tâm đúng mức tại các cấp, đơn vị.
Nhận thức về công tác này còn đơn giản, chưa thấy hết được tầm quan trọng
cũng như vai trò, vị trí của QLRR trong xu thế QLT hiện đại. Do đó việc bố
trí cán bộ, công chức nghiên cứu, xây dựng, triển khai thực hiện QLRR chưa
được quan tâm.
- Thứ hai, Cơ sở vật chất, công nghệ của ngành thuế chưa đáp ứng được
yêu cầu của QLRR
Để thực hiện QLRR thì hệ thống máy móc thiết bị, đặc biệt là hệ thống
máy tính và đường truyền internet là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống
CNTT ngành Thuế (bao gồm hạ tầng truyền thông, máy chủ, hệ thống sao
lưu, lưu trữ, hệ thống an toàn bảo mật, phần mềm bản quyền, phần mềm ứng
dụng) dù được đầu tư và phát triển song chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu
duy trì hoạt động của hạ tầng truyền thông ngành Thuế; một số hệ thống máy
150
chủ, thiết bị đã hết hao mòn không còn sử dụng được hoặc không đảm bảo
yêu cầu về an toàn bảo mật; duy trì bản quyền phần mềm hệ thống và các dịch
vụ quản trị vận hành và hỗ trợ hệ thống ứng dụng nhằm đảm bảo hệ thống
CNTT ngành Thuế hoạt động ổn định.
Sự đồng bộ, chuẩn hóa về hệ thống thông tin trong phạm vi ngành thuế;
giữa ngành thuế và các ngành có liên quan đòi hỏi cần thời gian cho việc xây
dựng và hoàn thiện; sự khác nhau trong mức độ đầu tư ứng dụng CNTT và kế
hoạch triển khai giữa các đơn vị cũng là rào cản không nhỏ trong việc nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các ngành.
- Thứ ba, Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ thuế
chưa đáp ứng được yêu cầu QLRR, chưa xây dựng được quy trình sắp xếp vị
trí công tác cán bộ thuế hệu quả
QLRR trong QLT đòi hỏi cán bộ thuế phải có năng lực chuyên môn
vững vàng, có kiến thức tổng hợp, có khả năng phân tích và đánh giá. Hiện
nay, một bộ phận cán bộ thuế có trình độ chuyên môn còn hạn chế và phương
pháp làm việc chưa khoa học, hiện đại, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa theo
kịp với việc chuyển đổi thực hiện QLRR trong QLT.
Vẫn tồn tại một bộ phận cán bộ quản lý giải quyết công việc theo kinh
nghiệm, mang tính chất công quyền, chưa thực sự tận tụy, công tâm, khách
quan giữa quyền lợi nhà nước với quyền lợi của NNT; chưa trở thành người
bạn đồng hành đáng tin cậy của NNT. Một số ít cán bộ không chịu rèn luyện,
vi phạm đạo đức công chức thuế, ảnh hưởng đến hình ảnh ngành thuế.
Khi thực hiện QLRR trong các chức năng QLT thì bản thân CQT cũng
có những rủi ro trong công tác QLT, trong đó có rủi ro về công tác cán bộ
thuế như rủi ro về đạo đức, rủi ro trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ không phù
hợp… Hiện nay, CQT vẫn chưa có các tiêu chí định lượng để đánh giá sự phù
hợp của việc sắp xếp, tổ chức cán bộ với yêu cầu của QLRR. Vì vậy, việc tiếp
cận về QLRR trong một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thuế còn có sự
sai lệch, chưa hiểu đầy đủ vai trò, vị trí của công tác QLRR dẫn đến sự chồng
151
chéo, kém hiệu quả trong công tác QLT.
- Thứ tư, sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý theo chức năng của CQT
trong việc thu thập, cung cấp, chia sẻ thông tin về NNT còn chưa hiệu quả
Do nhận thức của một số lãnh đạo các cấp về vai trò, ý nghĩa của thông
tin trong công tác QLRR chưa đầy đủ; do đó mới chỉ tập trung lấp đầy thông
tin về NNT mà chưa chú trọng đến việc tiếp nhận, kiểm soát, xử lý thông tin
có tính tập trung tại các đầu mối; việc chuẩn hóa thông tin cho việc xử lý tự
động và xác định trách nhiệm của từng công chức nghiệp vụ trong việc thu
thập, cập nhập thông tin trên hệ thống, nhằm đảm bảo tính tập trung, thông
suốt và lan tỏa chia sẻ thông tin phục vụ trong toàn ngành.
Việc cập nhật thông tin về NNT phải thường xuyên và cần có sự phối
hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT (kê khai, kế toán thuế; thanh tra,
kiểm tra thuế; quản lý nợ…), tuy nhiên, do sự phối hợp giữa các bộ phận chưa
đồng bộ theo quy trình quản lý có thể dẫn đến việc cập nhật thông tin về NNT
không liền mạch, kịp thời.
Thứ năm, hoạt động hợp tác quốc tế về thuế chưa phát huy hiệu quả
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển tạo cơ hội cho sự
phát triển của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động kinh doanh
xuyên biên giới, hoạt động của kinh tế số… Thời gian qua, CQT Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn trong công tác QLT đối với hoạt động chuyển giá của
các công ty có mối quan hệ liên kết, hoạt động xuyên biên giới trên nền tảng
số. Hợp tác quốc tế về thuế giúp CQT Việt Nam có các thông tin về NNT đối
với các giao dịch xuyên biên giới, việc đàm phán giá APA…tuy nhiên hoạt
động hợp tác quốc tế về thuế thời gian qua còn chưa phát huy được hiệu quả
tích cực. Do đó, khả năng rủi ro thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài liên quan đến chuyển giá quốc tế, các rủi ro giao dịch xuyên biên
giới là rất lớn.
152
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương 3 của luận án đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 qua các nội dung: (i) Xây
dựng hành lang pháp lý QLRR; (i) cơ cấu tổ chức bộ máy QLRR trong QLT;
(iii) Tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT thông qua các
nội dung: hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về NNT, hệ thống ứng dụng CNTT
phục vụ QLRR; xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và thực hiện QLRR trong các
chức năng QLT.
Từ thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam, luận án đánh giá chung
các kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân. Qua đó cho thấy, thực hiện
QLRR trong QLT tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định: Hành
lang pháp lý để thực hiện QLRR cơ bản được xây dựng, tổ chức bộ máy
QLRR; ban hành 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi ro và 03 quy trình QLRR theo
đúng trình tự, chuẩn mực quốc tế đủ căn cứ để thực hiện QLRR trong hoàn
thuế GTGT, quản lý hóa đơn, và thanh tra, kiểm tra thuế. Kết quả đạt được đã
phản ánh nỗ lực của ngành Thuế nhằm nâng cao chất lượng công tác QLRR
trong QLT, góp phần nâng cao hiệu quả QLT nói chung, hiệu quả các chức
năng thuế được thực hiện QLRR, góp phần tăng thu NSNN và tác động đến
hành vi tuân thủ của NNT.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, QLRR trong QLT tại Việt
Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong hành lang pháp lý về QLRR, việc
thu thập, khai thác xử lý thông tin NNT, hệ thống quy trình nghiệp vụ, cơ cấu
tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực… đòi hỏi phải đưa ra những định hướng
và giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam thời gian tới để đáp
ứng yêu cầu QLT, nâng cao tính tuân thủ của NNT.
153
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM
4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ MỤC TIÊU,
YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI
VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1 Dự báo tình hình kinh tế- xã hội của Việt Nam đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2030
4.1.1.1. Bối cảnh bên ngoài
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp
tác, liên kết để phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng xung đột địa chính trị, kinh
tế thương mại, an ninh quốc phòng và khoa học công nghệ gia tăng; cạnh
tranh chiến lược và điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn khiến
cho việc duy trì sự ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới gặp
nhiều thách thức. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm phát triển
năng động hàng đầu trên thế giới. Tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng
phức tạp, khó lường, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định của khu vực
và môi trường đầu tư phát triển của các nước trong khu vực.
Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có nhiều bất
trắc, khó lường, khả năng hồi phục chưa rõ ràng; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro
trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Chính sách kinh tế của các
nước thay đổi nhanh, khó dự báo, đan xen mục đích kinh tế và chính trị. Quy
tắc thương mại, đầu tư quốc tế bị chi phối, dẫn dắt bởi các nước lớn. Đặc biệt,
tác động của đại dịch Covid-19 tới tăng trưởng kinh tế thế giới là nghiêm
trọng và có thể kéo dài, tạo ra những rủi ro bất ổn về chính trị - xã hội, cân đối
tài chính-tiền tệ, tiềm ẩn nguy cơ kéo theo khủng hoảng tài chính ở một số
nước, làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn
cầu và cách thức hoạt động kinh tế. Các tập đoàn đa quốc gia tái phân bổ cơ
154
sở sản xuất kinh doanh, hình thành những liên minh kinh tế mới; các nước có
thể tận dụng thời cơ để đẩy nhanh chương trình cải cách. Kinh tế số, kinh tế
tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình nhiều quốc gia lựa chọn. Các
hiệp định thương mại đi liền với việc gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại
phi thuế quan.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh, sâu rộng, mở ra
nhiều cơ hội nhưng cũng kèm theo nhiều thách thức cho tất cả các nền kinh
tế. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết
định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh
tế số, xã hội số.
4.1.1.2 Bối cảnh bên trong
Thế và lực của Việt Nam sau gần 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn
nhiều cả về quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã
hội; kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội
tăng lên; tính tự chủ được cải thiện; tích luỹ và nâng cao năng lực quản trị nhà
nước, điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều
sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng
kể. Môi trường đầu tư được cải thiện, khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp
dẫn của nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn lao động dồi dào, có trình độ và khả
năng thích nghi tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ. Kinh tế hội
nhập ngày càng sâu rộng, một số FTA thế hệ mới quan trọng như Hiệp định
đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... đòi hỏi phải cải cách thể chế
kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển
công nghiệp và thực hiện công nghiệp hoá. Khu vực tư nhân đóng góp ngày
càng lớn vào phát triển kinh tế đất nước; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh;
đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó
155
khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro như: độ mở của nền kinh tế lớn làm các
tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh
hơn; khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến
động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn;
năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế,
hạ tầng, nguồn nhân lực... Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất
lớn trong khi nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng
giảm. Đại dịch Covid-19 đã và đang tác động nghiêm trọng đến đời sống kinh
tế - xã hội, khiến dư địa nguồn lực của cả khu vực nhà nước, doanh nghiệp và
người dân bị suy giảm. Đối với ngành Thuế, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
toàn cầu đòi hỏi cơ quan thuế Việt Nam phải đổi mới tư duy phát triển, đẩy
mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, có giải pháp chính sách khắc phục tác
động của dịch bệnh Covid-19 góp phần nhanh chóng phục hồi nền kinh tế,
nâng cao hơn nữa năng lực QLT trong nước và kiểm soát các vấn đề về xói
mòn cơ sở tính thuế và dịch chuyển lợi nhuận xuyên biên giới. Bên cạnh đó,
xu hướng cải cách chính sách thuế của các nước trong những năm gần đây,
chủ yếu là theo hướng cân bằng giữa tăng thu ngân sách và khuyến khích tăng
trưởng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, cạnh tranh về vốn, lao động
trên thế giới gia tăng, các nước lần lượt đưa ra những chính sách ưu đãi thuế
để cạnh tranh thu hút đầu tư, tháo gỡ và giải quyết các vấn đề khó khăn trong
quá trình phục hồi nền kinh tế.
Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới và khu vực trong mười năm tiếp theo thì đây cũng là thời điểm để
ngành Thuế có cơ hội tiếp cận ngày càng nhiều hơn với thông lệ quốc tế tốt
nhất nhằm sửa đổi hệ thống chính sách thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý và
áp dụng công cụ QLT tiên tiến hiện đại, tạo ra khả năng “cạnh tranh về thuế”
đối với các quốc gia trên thế giới.
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày
156
01/7/2020 tạo cơ sở pháp lý cho ngành Thuế cải cách toàn diện và thay đổi
phương thức quản lý trong thời gian tới, đồng thời các sắc thuế chính đã được
sửa đổi nhất quán với các định hướng đề ra trong Chiến lược cải cách hệ
thống thuế giai đoạn 2021-2030 tạo điều kiện mở rộng cơ sở thuế tương ứng
với sự phát triển của các ngành kinh tế, với các mức thuế hợp lý và thể chế
quản lý đảm bảo tính minh bạch hơn.
Kết quả cải cách tổ chức bộ máy cơ quan thuế các cấp theo cơ cấu tổ
chức mới theo Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày 25/9/2018 của Thủ
tướng Chính phủ đã tạo sự thay đổi căn bản về cơ cấu tổ chức trong hệ thống
cơ quan QLT từ Trung ương đến địa phương với kết quả tinh giản các đầu
mối cấp phòng tại Tổng cục Thuế và các Cục Thuế, giảm gần 50% số lượng
các Chi cục Thuế trên cơ sở thành lập các Chi cục Thuế khu vực. Đây là tiền
đề cho giai đoạn 10 năm tiếp theo, ngành Thuế Việt Nam thực hiện tổ chức
các Cục Thuế vùng phù hợp với thông lệ QLT quốc tế nhằm tăng hiệu lực và
hiệu quả quản lý của CQT.
Việc nâng cấp hoàn thiện hệ thống QLT tập trung, xây dựng và triển
khai các ứng dụng hỗ trợ hiệu quả NNT trong quá trình thực hiện nghĩa vụ
thuế đã tạo thuận lợi cho CQT hiện đại hoá toàn diện công tác QLT, cung cấp
các dịch vụ thuế điện tử cho NNT. Một số mục tiêu cải cách trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ thuế điện tử đều đã hoàn thành kế hoạch đề ra trong giai
đoạn 2011-2020, là tiền đề quan trọng để ngành Thuế tiếp tục xây dựng phát
triển một nền hành chính hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT.
Tuy nhiên, áp lực phải đảm bảo nguồn thu để tăng chi vẫn còn lớn, cơ
cấu thu còn chưa có sự cân đối giữa các khoản thu từ thuế thu nhập, thuế tiêu
dùng và từ tài sản. Thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh khi Việt Nam thực hiện
đầy đủ các cam kết cắt giảm thuế quan trong các Hiệp định mậu dịch tự do
song phương và đa phương (FTA). Chính sách thuế vẫn cần phải lồng ghép
hợp lý các chính sách xã hội để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Công tác
QLT cần phải tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hóa để theo kịp với sự vận động và
157
phát triển của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ, toàn
diện trong toàn ngành, phù hợp với yêu cầu Chính phủ số trong tương lai.
Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí đội ngũ công chức, viên chức, xây
dựng cơ chế để quản lý và quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm, làm cơ
sở đánh giá năng lực và khả năng làm việc cũng như thái độ của cán bộ, công
chức đối với công việc được giao cũng như cơ chế tiền lương phù hợp nhằm
xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức viên chức đủ về cả chất lượng, số
lượng đáp ứng được yêu cầu cải cách là một thách thức lớn đối với cơ quan
thuế hiện nay.
Hệ thống CNTT được chú trọng nâng cấp và hoàn thiện nhưng vẫn chưa
đáp ứng kịp tốc độ đổi mới nhanh chóng của yêu cầu cải cách và hiện đại hoá
QLT. Với các nội dung thay đổi của hệ thống chính sách pháp luật thuế, mức
độ tích hợp và tự động hoá chưa cao, cũng làm hạn chế những tác động tích
cực, sự hỗ trợ hiệu quả của hệ thống CNTT đối với công tác QLT.
4.1.2. Mục tiêu, yêu cầu đối với quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt
Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030
Định hướng hoàn thiện quản lý thuế giai đoạn 2021-2030 chỉ rõ: “Sửa
đổi hệ thống luật và chính sách thuế, phí, lệ phí theo nguyên tắc thị trường,
phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu
tư. Mở rộng cơ sở thu, bảo đảm tính công bằng, trung lập của chính sách
thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và
doanh nghiệp”.
Như vậy, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021-2030 có hai
mục tiêu tổng quát sau:
Thứ nhất, Đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững
của quy mô nguồn lực; Có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho NSNN
góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội
158
nhập, phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, Xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất,
minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp QLRR, đồng thời
dựa trên nền tảng thuế điện tử và 3 trụ cột cơ bản: Thể chế QLT đầy đủ, đồng
bộ, hiện đại, hội nhập; Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới;
CNTT hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu QLT trong bối cảnh kinh tế số.
Với các mục tiêu tổng quát như trên, công tác QLRR trong QLT tại Việt
Nam cần thực hiện các mục tiêu và yêu cầu sau:
4.1.2.1. Mục tiêu của quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam
Thứ nhất, Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến quản lý rủi ro
trong quản lý thuế
Thứ hai, Hoàn thiện cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức
Thứ ba, Tiếp tục xây dựng các quy trình nghiệp vụ phục vụ quản lý rủi
ro trong quản lý thuế
Thứ tư, Hoàn thiện hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về người nộp thuế
Thứ năm, Ứng dụng CNTT – xây dựng và phát triển hệ thống CNTT
đồng bộ theo chuẩn quốc tế.
Thứ sáu, Xây dựng chương trình quản lý rủi ro tuân thủ tổng thế (TCP)
4.1.2.2. Yêu cầu đối với quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam
Thứ nhất, QLRR trong QLT phải được thực hiện trong mối quan hệ với
tiến trình hiện đại hoá toàn diện công tác QLT. QLRR phải được tích hợp
trong phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán
bộ, áp dụng CNTT để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLT.
Thứ hai, QLRR trong QLT phải được thực hiện trên cơ sở nắm đầy đủ
các thông tin về NNT nói chung, thông tin về ý thức và khả năng tuân thủ
pháp luật thuế của NNT nói riêng, kiểm soát được tất cả cơ sở thuế, giám sát
được tất cả các hành vi liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT, hạn chế đến
mức thấp nhất các trường hợp và hành vi không tuân thủ pháp luật thuế.
159
Thứ ba, QLRR trong QLT phải hướng tới xây dựng và hoàn thiện các
chiến lược QLT tương ứng với các nhóm NNT theo mức độ tuân thủ pháp
luật thuế của họ. Trên cơ sở đó, khuyến khích, tạo điều kiện tối đa cho NNT
có ý thức tuân thủ tốt và kiểm soát, phát hiện, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các
trường hợp không tuân thủ, đảm bảo nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế
của NNT cũng như tiết kiệm nguồn lực của CQT, nâng cao hiệu quả QLT.
Thứ tư, Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác QLT nhằm nâng
cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy QLT; Ứng dụng đầy đủ
các nội dung và phương pháp của ứng dụng quản lý tuân thủ vào các nội dung
QLT; Hoàn thiện cơ chế QLT tự khai, tự nộp thuế; Hoàn thiện các quy trình
QLT theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận lợi và hiệu quả nhất.
Thứ năm, Thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế bằng nhiều hình thức
phong phú để nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của NNT; khuyến
khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế.
Thứ sáu, Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác QLT; thực
hiện kết nối mạng đầy đủ giữa các CQT, Hải quan, Kho bạc, doanh nghiệp và
các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phục vụ cho công tác QLT; xây dựng
và thực hiện hệ thống QLT tập trung, hoàn thành đồng bộ việc khai, nộp và
giải quyết các thủ tục về thuế qua mạng internet.
Thứ bảy, Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
điều hành, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ
thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM
4.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT
Hiện nay, cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT tại Việt Nam đã được quy
định khá đồng bộ tại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho việc triển khai thực hiện QLRR trong QLT, góp phần cải cách,
hiện đại hóa công tác QLT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT. Tuy nhiên,
160
hành lang pháp lý về QLRR trong QLT tại Việt Nam hiện nay vẫn còn một số
nhược điểm. Để đảm bảo thực hiện QLRR trong QLT theo thông lệ quốc tế,
CQT cần tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp lý như sau:
(1) Đối với công tác đăng ký thuế: Hiện nay, việc QLRR ở khâu đăng ký
thuế chưa có các quy định pháp lý cụ thể. Vì vậy cần bổ sung quy định pháp
lý về QLRR ngay tại khâu đăng ký thuế, nhằm tạo điều kiện cho phép CQT
được theo dõi, đánh giá, phân loại và quản lý NNT ngay từ khi thành lập, từ
đó thực hiện các biện pháp quản lý phù hợp theo mức độ rủi ro của NNT.
Điều này giúp cho quá trình QLT được liền mạch, thống nhất, sử dụng hiệu
quả nguồn lực của CQT thúc đẩy tính tự nguyện tuân thủ của NNT.
(2) Đối với công tác thanh tra, kiểm tra thuế: Thực tế quản lý cho thấy
còn có sự lệch pha giữa việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra tại trụ sở
NNT theo các tiêu chí đánh giá rủi ro đã được ban hành và rủi ro thực tế về
thuế CQT phát hiện khi thanh tra, kiểm tra thuế. Vì vậy, cần bổ sung thêm
quy định pháp lý về các trường hợp thanh tra lại theo nguyên tắc QLRR, theo
đó CQT thực hiện thanh tra lại khi nội dung kết luận thanh tra không phù hợp
với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra hoặc có
dấu hiệu rủi ro cao theo tiêu chí đánh giá, rủi ro qua phân tích đánh giá rủi ro.
(3) Về nội hàm thực hiện QLRR trong QLT: Hiện nay, QLRR trong QLT
tại Việt Nam theo đúng quy trình QLRR chuẩn mực quốc tế mới thực hiện ở
một số khâu chức năng QLT (thanh tra, kiểm tra thuế; hoàn thuế và kiểm tra
sau hoàn thuế GTGT, quản lý hóa đơn) với 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi ro và
03 quy trình QLRR đã được ban hành. Vì vậy, để tăng cường QLRR trong
QLT tại Việt Nam cần bổ sung các quy định để thực hiện QLRR theo chuẩn
mực quốc tế trong tất các hoạt động nghiệp vụ QLT, bao gồm: Thu thập, xử
lý thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT; Xây dựng tiêu chí QLT; Đánh giá
việc tuân thủ pháp luật của NNT; Phân loại mức độ rủi ro và tổ chức thực
hiện các biện pháp QLT phù hợp. Cơ quan QLT ứng dụng hệ thống CNTT để
tự động tích hợp, xử lý dữ liệu phục vụ việc QLRR trong hoạt động QLT.
161
(4) Về đánh giá mức độ tuân thủ NNT: Việc đánh giá mức độ tuân thủ
của NTT ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở xây dựng và ban hành
khung đánh giá tuân thủ, Tổng cục Thuế chưa xây dựng được bộ tiêu chí đánh
giá tuân thủ tổng thể đối với NNT, chưa xây dựng được ứng dụng CNTT tự
động đánh giá tuân thủ NNT. Vì vậy, cần cụ thể hóa các quy định về đánh giá
mức độ tuân thủ pháp luật của NNT để CQT thực hiện các biện pháp QLT
phù hợp theo từng mức độ tuân thủ. Việc đánh giá mức độ tuân thủ của NNT
được dựa trên hệ thống các tiêu chí về: tần suất vi phạm pháp luật của NNT;
tính chất, mức độ vi phạm pháp luật thuế; Lịch sử, quá trình hoạt động của
NNT; việc hợp tác với cơ quan QLT trong thực hiện đăng ký thuế, khai thuế,
nộp thuế, hoàn thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, quản lý sử dụng hóa đơn,
chứng từ và chấp hành các quyết định khác của CQT.
(5) Bổ sung và hoàn thiện các quy định về xây dựng, sử dụng hệ thống
thông tin về NNT phục vụ đánh giá rủi ro: Đánh giá tuân thủ pháp luật của
NNT cần bổ sung quy định cụ thể về các thông tin, tài liệu trong hệ thống
thông tin về NNT, cũng như quy định về việc cơ quan QLT sử dụng hệ thống
thông tin về NNT làm cơ sở thực hiện QLRR trong QLT. Hoàn thiện quy định
nhằm đảm bảo việc xây dựng hệ thống CSDL về NNT đầy đủ, chính xác: (i)
Quy định về việc tạo lập và sử dụng thông tin về NNT phục vụ QLT trong nội
bộ CQT; (ii) Quy định về phối hợp, chia sẻ, đối chiếu chéo dữ liệu trong nội bộ
ngành Tài chính và giữa Bộ Tài chính với các bộ, ngành có liên quan.
(6) Về xây dựng các bộ tiêu chí, bộ chỉ số đánh giá rủi ro:
Hiện nay CQT Việt Nam mới thực hiện đánh giá rủi ro trong từng khâu
cụ thể như: hoàn thuế, lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra, quản lý hóa đơn và
việc đánh giá rủi ro cũng chỉ thực hiện đối với NNT là doanh nghiệp, chưa
thực hiện đánh giá rủi ro tổng thể, chưa đánh giá được một cách toàn diện tất
cả NNT. Nhằm mục đích QLRR theo kế hoạch tuân thủ toàn diện thông qua
TCP, CQT cần phải xây dựng thêm các bộ tiêu chí, chỉ số đầy đủ trên tất cả
các khâu, nghiệp vụ QLT đối với từng phân đoạn NNT, đó là: Tiêu chí, chỉ số
162
đánh giá tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT; Tiêu chí, chỉ số đánh giá xếp
hạng mức độ rủi ro đối với NNT; Tiêu chí, chỉ số lựa chọn trường hợp kiểm
tra về đăng ký thuế; Tiêu chí, chỉ số lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ
sở cơ quan QLT; Tiêu chí, chỉ số quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế để làm căn cứ xây dựng
các quy trình nghiệp vụ tương ứng.
(7) Thực hiện tái thiết kế các quy trình QLRR tuân thủ theo đúng
chuẩn mực quốc tế ở tất cả nghiệp vụ QLT
Hiện tại quy trình nghiệp vụ QLT về cơ bản bị cắt khúc thành nhiều giai
đoạn theo từng ứng dụng, việc thiếu khớp nối quy trình xử lý giữa các ứng
dụng hoặc liên kết lỏng lẻo dẫn đến sự chồng chéo hoặc sai lệch giữa các hệ
thống ứng dụng. Việc tái thiết kế quy trình nghiệp vụ QLT theo thông lệ QLT
quốc tế, phù hợp tình hình thực tế của CQT địa phương và phù hợp với hệ
thống CNTT nhằm tối đa tự động hóa các quy trình quản lý, hướng tới thực
hiện QLRR trong tất cả chức năng QLT.
Quy trình nghiệp vụ cần được tái thiết kế theo hướng tổng thể từ khâu
đăng ký thuế; kê khai thuế, nộp thuế; nợ thuế; miễn, giảm thuế; kê khai hoàn
thuế, hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng
ấn chỉ thuế;…cho đến các khâu xử lý của CQT: kết quả kiểm tra, thanh tra; xử
lý nợ thuế; xử lý phạt vi phạm hành chính về pháp luật thuế… Quy trình
nghiệp vụ theo hướng tổng thể nhằm đảm bảo có một kho dữ liệu tổng hợp
chung toàn ngành Thuế đầy đủ, chính xác và đồng bộ, từ đó tạo ra sự thống
nhất về quy trình xử lý, quy trình hạch toán đảm bảo thống nhất dữ liệu trên
nhiều hệ thống liên quan của ngành Thuế.
Mỗi quy trình nghiệp vụ để thực hiện QLRR trong từng chức năng
QLT đối với từng phân đoạn NNT phải đảm bảo các bước cơ bản sau:
- Bước 1, Thu thập và xử lý thông tin QLRR. Cần xác định các thông tin
cần thiết và nguồn thu thập bao gồm: Thông tin từ các hệ thống ứng dụng của
ngành thuế và Thông tin thu thập từ bên ngoài. Mỗi nguồn thông tin phải quy
định rõ trách nhiệm thu thập, rà soát, xử lý… cho từng bộ phận, cán bộ cụ thể
163
để đảm bảo thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác.
- Bước 2, Nêu rõ những căn cứ pháp lý của hệ thống quy trình nghiệp vụ.
Để thực hiện QLRR trong QLT, bên cạnh các Luật, Thông tư là hệ thống
Quyết định ban hành các bộ tiêu chí, chỉ số xác định rủi ro trong từng lĩnh vực
cụ thể, từ đăng ký thuế, kê khai thuế… đến thanh tra, kiểm tra, quản lý nợ
thuế… Đây là cơ sở để xây dựng các quy trình QLRR và ứng dụng CNTT.
- Bước 3, Xác định rõ mục đích của việc QLRR trong từng khâu, nghiệp
vụ QLT. Đây là bước quan trọng nhất trong các quy trình nghiệp vụ vì nó là
kết quả của việc phân tích, đánh giá rủi ro trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ:
Trong quy trình QLRR trong công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra
tại trụ sở NNT, kết quả của quá trình phân tích và đánh giá rủi ro là phải đưa
ra xếp hạng rủi ro các doanh nghiệp từ cao xuống thấp theo quy mô và lĩnh
vực kinh doanh, từ đó cho phép cán bộ thuế lựa chọn được danh sách các
doanh nghiệp để đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra.
Bước 4, Đánh giá, kiểm tra quá trình thực hiện. Bước này nhằm mục
đích theo dõi, đánh giá, kiểm tra và có các giải pháp kịp thời đảm bảo việc thu
thập, xử lý, cập nhật thông tin phục vụ đánh giá rủi ro; việc tuân thủ sử dụng
kết quả đánh giá, phân tích rủi ro, đồng thời tổng hợp thông tin theo dõi, đánh
giá để xem xét, điều chỉnh kịp thời các Bộ tiêu chí, chỉ số, ngưỡng rủi ro...
Quy trình nghiệp vụ cần phải xây dựng được một hệ thống đầy đủ các báo cáo
thực hiện, báo cáo đánh giá...nhằm theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thu thập,
xử lý thông tin QLRR, đánh giá, kiểm tra kết quả thực hiện QLRR; đánh giá
hiệu quả của bộ tiêu chí, mức độ ảnh hưởng...Từ đó tham mưu, đề xuất biện
pháp thu thập thông tin, các thông tin cần thu thập; các sơ hở, thiếu sót trong việc
thu thập, xử lý thông tin liên quan; đề xuất việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện
các bộ tiêu chí, chỉ số đảm bảo hiệu quả của QLRR trong QLT trong từng chức
năng QLT và phù hợp với từng phân đoạn NNT.
Trong mỗi quy trình nghiệp vụ, có một vấn đề hết sức quan trọng cần
phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cán bộ trong từng bước công
164
việc, phải có phân công rõ ràng và cơ chế giám sát đầy đủ. Bên cạnh đó các
quy định, quy trình quản lý vận hành, giám sát chất lượng dữ liệu, quy chế
trách nhiệm xử lý dữ liệu… cũng cần phải được quan tâm, xây dựng song
song để đáp ứng được việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời từ
đó nâng cao vai trò, tầm quan trọng của hệ thống quy trình nghiệp vụ.
(8) Về tổ chức thực hiện QLRR: Bổ sung thẩm quyền cho phép Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định tiêu chí đánh giá việc tuân thủ pháp luật của
NNT, phân loại mức độ rủi ro và thực hiện QLRR trong hoạt động QLT; quy
định cụ thể về quyền, trách nhiệm của CQT khi thực hiện QLRR trong QLT,
công khai, minh bạch các thủ tục đối với NNT cũng như giảm trừ trách nhiệm
của CQT khi thực hiện một số công tác trên thực tế hiện nay.
4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
Để đảm bảo QLRR tuân thủ có hiệu lực, hiệu quả theo thông lệ quốc tế
thì phải thực hiện QLRR toàn diện trong tất cả các chức năng QLT và áp
dụng đối với từng phân đoạn NNT nhằm nâng cao tính tuân thủ. Đây là những
nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về tổ chức bộ
máy và nguồn nhân lực. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, kết hợp
với kinh nghiệm của Tổng cục Hải quan, tinh thần của Nghị quyết 18-NQ/TW
ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Khóa XII về
một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Tác giả kiến nghị xây dựng tổ chức
bộ máy, nhân sự và phân công nhiệm vụ đối với các đơn vị chuyên trách
QLRR tại CQT các cấp cụ thể như sau:
4.2.2.1 Tổ chức bộ máy QLRR
Về mặt chỉ đạo:
Tổng cục trưởng chịu trách nhiệm: Đảm bảo có các chính sách và quy
trình QLRR được triển khai hiệu quả; Đảm bảo bố trí đủ năng lực cho chức
năng QLRR; và đặt ra các mục tiêu quốc gia trong việc xây dựng chương
trình nâng cao tuân thủ, theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện đối chiếu với
165
các mục tiêu này.
Về mặt thực thi:
Thứ nhất, Cần thành lập một Uỷ ban QLRR cấp cao để hỗ trợ cho Tổng
cục trưởng, đảm bảo tất cả các đơn vị trong Tổng cục Thuế đều góp phần đạt
được các mục tiêu nâng cao tuân thủ. Đứng đầu Uỷ ban có thể là đích thân
Tổng cục trưởng hoặc một Phó Tổng cục trưởng. Thành viên của Uỷ ban bao
gồm lãnh đạo các đơn vị có đóng góp trực tiếp vào các mục tiêu tuân thủ của
Tổng cục thuế và các cán bộ quản lý có liên quan khác, như lãnh đạo của đơn
vị QLT doanh nghiệp lớn và lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ khác phụ trách các
phân đoạn NNT chính; lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Hội sở chính phụ
trách thanh tra kiểm tra, tuyên truyền hỗ trợ NNT, chính sách QLT của Tổng
cục thuế, và tổ chức cán bộ. Uỷ ban phải họp ít nhất theo định kỳ hàng quý để
thống nhất về các hợp phần của chương trình nâng cao tuân thủ và các kế
hoạch nâng cao tuân thủ kèm theo, rà soát tiến độ và đảm bảo kế hoạch đi
đúng hướng (hoặc đưa ra biện pháp xử lý kịp thời), rà soát mọi rủi ro mới
phát sinh đối với số thu.
Vai trò của Uỷ ban Quản lý Rủi ro:
- Giám sát, đánh giá và đề ra các quy trình nâng cao tuân thủ trong mọi
khía cạnh của QLRR; đảm bảo các quy trình và thủ tục nội bộ về QLRR phù
hợp, tiếp tục đáp ứng tiêu chuẩn thực hành tốt của thế giới, được thực hiện
nhất quán và hiệu quả;
- Tổ chức xây dựng và duy trì chương trình nâng cao tuân thủ cho toàn
bộ hệ thống thuế, các kế hoạch nâng cao tuân thủ hàng năm trong chu trình
xây dựng kế hoạch nghiệp vụ của Tổng cục Thuế;
- Thống nhất về các hoạt động nâng cao tuân thủ có cấu trúc trong các văn
bản kế hoạch quan trọng này, với các mục tiêu hoạt động dựa trên kết quả cụ thể,
khả thi, có thể đo lường được trình tổng cục trưởng phê duyệt cuối cùng;
- Tiên phong triển khai các phương pháp QLRR trong Tổng cục Thuế và
tích cực khuyến khích, hỗ trợ triển khai thực hiện các phương pháp này.
Thứ hai, Cần kiện toàn Ban quản lý rủi ro, nâng cấp thành Cục Quản lý rủi
166
ro, đảm bảo đóng vai trò chủ đạo trong công tác đánh giá rủi ro và hỗ trợ lên kế
hoạch cho các hoạt động QLRR triển khai trong tất cả các lĩnh vực nghiệp vụ
của Tổng cục Thuế. Đơn vị này phải thực hiện đánh giá rủi ro ở tất cả các cấp độ
trong toàn bộ hệ thống – chiến lược, tác nghiệp và chiến thuật – bao quát tất cả
các sắc thuế, phân đoạn NNT và từng trụ cột trong cả bốn trụ cột tuân thủ.
Vai trò của Cục Quản lý Rủi ro:
- Hỗ trợ Uỷ ban QLRR thực hiện vai trò của mình;
- Xây dựng và triển khai kế hoạch thu thập và quản lý dữ liệu, bao gồm:
mở rộng phạm vi dữ liệu (như dữ liệu từ bên thứ ba), thu thập với khối lượng
lớn để phục vụ mục đích phân tích;
- Tổ chức hoặc thực hiện nghiên cứu về các chuyên đề rủi ro;
- Sử dụng dữ liệu sẵn có để nhận diện những rủi ro hiện hữu và mới phát
sinh, hình thái và xu hướng rủi ro liên quan đến tuân thủ quy định thu ngân
sách và liên tục giám sát tình hình các rủi ro đã nhận diện;
- Thực hiện phân tích dữ liệu bằng các mô hình, công cụ phân tích và
công nghệ khác nhau, bằng cách khai thác thông tin từ các bộ dữ liệu có cấu
trúc và phi cấu trúc để cung cấp thông tin cho đánh giá rủi ro;
- Tăng cường phân tích dữ liệu của các thị trường, ngành nghề kinh
doanh, loại nguồn thu hoặc địa bàn khác nhau để tăng cường hiểu biết về rủi
ro trong từng nhóm NNT khác nhau và hiệu quả của các chiến lược xử lý rủi
ro có trọng điểm;
- Phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc hội sở chính, lãnh đạo các
đơn vị nghiệp vụ để giải thích dữ liệu và cung cấp báo cáo phân tích để thông
tin cho quá trình thiết kế, triển khai của chương trình nâng cao tuân thủ và các
kế hoạch nâng cao tuân thủ;
- Xây dựng các chương trình nâng cao tuân thủ và các kế hoạch nâng cao
tuân thủ để Uỷ ban QLRR phê duyệt, và hoạt động với tư cách là Ban thư ký
của Uỷ ban;
- Khi các ưu tiên nâng cao tuân thủ chiến lược đã được thống nhất, thì
167
cung cấp danh sách các trường hợp có rủi ro cao để thực hiện các hoạt
động nghiệp vụ;
- Tiếp nhận và phân tích thông tin phản hồi từ công tác nâng cao tuân thủ
của CQT địa phương để nắm rõ về hiệu quả của các biện pháp giảm thiểu rủi
ro và không ngừng cải thiện các kỹ thuật đánh giá rủi ro;
- Duy trì và thường xuyên cập nhật bảng tổng hợp rủi ro.
Thứ ba, Cơ quan thuế Việt Nam nên tổ chức bộ máy QLRR theo mô hình
hỗn hợp. Theo đó, con người và nguồn lực được quản lý bởi một đơn vị
QLRR tập trung có vai trò lãnh đạo và phối hợp, nhưng có bố trí một số nhân
sự đặt tại các đơn vị nghiệp vụ. Một số chuyên gia phân tích được bố trí tại
các đơn vị nghiệp vụ và địa phương, nhưng vẫn làm việc trong cùng một
khuôn khổ và có cách tiếp cận nhất quán về các phương pháp được sử dụng,
về việc tuyển chọn nhân sự và phát triển chuyên môn cho đội ngũ cán bộ ở
các đơn vị... Theo mô hình này, CQT có khả năng tuyển dụng và phát triển
đội ngũ chuyên môn có năng lực phân tích cao hơn; có thể xây dựng năng lực
dữ liệu sát hơn với bối cảnh của đơn vị nghiệp vụ; đưa ra các biện pháp can
thiệp gắn chặt với nhu cầu của đơn vị nghiệp vụ, đồng thời vẫn đảm bảo tính
nhất quán trong toàn bộ tổ chức.
Cục QLRR quản lý tập trung tại trụ sở cơ quan Tổng cục Thuế sẽ được
phân định trách nhiệm giải trình rõ ràng, và mang lại hiệu quả tốt nhất khi đầu
tư vào kỹ năng chuyên môn phân tích. Đơn vị này cũng có khả năng có tầm
nhìn chiến lược hơn so với cách tổ chức theo vùng – thường sẽ tập trung
nhiều hơn vào các rủi ro nghiệp vụ của địa phương hoặc mang tính chiến
thuật. Điều này sẽ giúp đảm bảo tính nhất quán trên toàn quốc trong việc thực
hiện các kỹ thuật quản lý rủi ro và lựa chọn những NNT có rủi ro cao để cán
bộ cơ quan thuế địa phương thực hiện các biện pháp can thiệp.
Cục QLRR phải thiết lập được những mối quan hệ làm việc hiệu quả với
các đơn vị chức năng tại cơ quan Tổng cục Thuế và các Cục thuế địa phương.
Việc xây dựng chương trình nâng cao tuân thủ và các kế hoạch nâng cao tuân
168
thủ đi kèm sẽ đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận đa ngành trong xây dựng
chiến lược và triển khai các biện pháp xử lý rủi ro. Việc này cần có sự phối
hợp giữa Cục QLRR và các cán bộ chịu trách nhiệm về các quy trình nghiệp
vụ và các chức năng như tuyên truyền hỗ trợ NNT, quản lý nợ, thanh tra kiểm
tra; với các chuyên gia pháp lý và chuyên gia truyền thông bên ngoài. Tất cả
những thành tố này đều có vai trò trong việc thiết kế và triển khai các biện
pháp xử lý rủi ro tuỳ chỉnh theo điều kiện cụ thể.
Các Cục Thuế địa phương là nơi cung cấp năng lực tác nghiệp trực tiếp,
và phải được tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược. Sự tham gia này có
thể bao gồm điều động cán bộ phối hợp với Cục QLRR để thí điểm các dự án
nâng cao tuân thủ trước khi nhân rộng. Thiết lập các diễn đàn ảo giữa cán bộ
công chức của các cục thuế với Cục QLRR có thể tạo điều kiện phản hồi về
công tác triển khai các hành động giảm thiểu rủi ro mà Cục QLRR đưa ra, và
giúp nhận diện những rủi ro mới phát sinh, qua đó hỗ trợ cho cách tiếp cận
phối hợp giữa Cục QLRR và các Cục thuế địa phương. Việc cho phép cán bộ
quản lý cấp vùng hoặc cấp tỉnh được đề xuất một tỉ lệ nhỏ (ví dụ 10%) NNT
để đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra sẽ giúp họ được xử lý tình hình của
địa phương và cung cấp ý kiến phản hồi quý báu cho Cục QLR không ngừng
cải thiện công cụ phân tích.
4.2.2.2 Nguồn nhân lực QLRR
Phải bố trí các cán bộ công chức có kinh nghiệm và hiểu biết về nghiệp
vụ thuế phối hợp với các chuyên viên phân tích có kinh nghiệm về phân tích
kinh doanh hoặc tài chính. Một đơn vị QLRR hiệu quả cần đến nhiều kỹ năng
và kinh nghiệm khác nhau. Các chuyên gia về thuế cung cấp hiểu biết về ưu
tiên và hạn chế về nghiệp vụ, và kiến thức về NNT. Các chuyên viên phân
tích có thể xác định: liệu các kỹ thuật thống kê có thể phát huy tác dụng hay
không và ở đâu? và tư duy vượt ra ngoài khuôn khổ các thủ tục hành chính
hàng ngày. Họ cũng phải là người sẵn sàng bảo vệ kết quả phân tích trước
quan điểm không nhất trí của các cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm.
169
4.2.3. Hoàn thiện CSDL đầy đủ, chính xác, tập trung phục vụ QLRR
Cơ sở dữ liệu chính xác, mang tính đại diện, phản ánh thực tế chính xác
về đặc điểm và thông tin về hành vi của NNT là nền móng của QLRR hiệu
quả. Việc nghiên cứu mô hình thiết kế đối với kho CSDL thuế đáp ứng 03 yêu
cầu chính: (i) Phục vụ các nhu cầu khai thác theo các chức năng QLT và các
yêu cầu công tác về báo cáo thống kê, dự toán, dự báo theo hướng phải phù
hợp với chính sách, quy trình QLT và xác định rõ vai trò/trách nhiệm của cán
bộ thuế trong việc thu thập và cập nhật đầy đủ các thông tin của NNT lên hệ
thống; (ii) Phục vụ nhu cầu cung cấp, trao đổi, đối chiếu chéo thông tin với các
tổ chức, cơ quan theo quy định của pháp luật cần đảm bảo thông tin được thu
thập một cách tự động từ các bên thứ ba, phục vụ tốt cho việc kiểm tra, kiểm
chứng tính chính xác của việc kê khai nghĩa vụ thuế của NNT; (iii) Hỗ trợ sự
tuân thủ của NNT phải đảm bảo tính toàn vẹn và tính bảo mật về dữ liệu của
NNT khi truy cập trực tuyến.
Để cung cấp thông tin đầy đủ cho việc chỉ đạo điều hành, kết nối trao đổi
thông tin phục vụ công tác quản lý thuế và quản lý tuân thủ, ngành Thuế cần
xây dựng kho CSDL quốc gia về thuế trên nền tảng tích hợp và nền tảng dữ
liệu lớn (Big Data và Data lake). Theo đó:
Thứ nhất, Đối với dữ liệu nội bộ cơ quan thuế: Việc đánh giá hành vi
không tuân thủ cùng với các kỹ thuật phân tích nâng cao mới xuất hiện, như
nhận diện xu hướng, phát hiện dữ liệu ngoại lai, phân tích cụm, thiết kế thử
nghiệm, phân tích mạng lưới và khai thác văn bản đòi hỏi phải có sự phối hợp
giữa các chuyên gia nghiệp vụ thuế và chuyên gia phân tích tại Cục QLRR và
chức năng CNTT của CQT. Họ có thể hỗ trợ đưa ra những lựa chọn công cụ
và hệ thống phù hợp, đảm bảo rằng các nguồn dữ liệu mới có thể tích hợp và
áp dụng, nhận diện và xử lý mọi yếu tố cản trở.
Thứ hai, Đối với dữ liệu từ bên thứ ba: Để QLRR hiệu quả, bên cạnh dữ
liệu nội bộ chất lượng cao, còn được tạo thuận lợi bởi nguồn dữ liệu phong
phú từ các bên thứ ba được cung cấp với khối lượng lớn và theo một định
170
dạng cho phép so khớp chính xác với hồ sơ của NNT. Điều này sẽ tăng cường
thêm cho những dữ liệu do NNT tự khai và cho phép xác minh những dữ liệu
này. Dữ liệu khối lượng lớn cho phép nhận diện và đo lường hành vi không
tuân thủ, đánh giá và sắp xếp rủi ro theo thứ tự ưu tiên với tất cả NNT trong
một phân đoạn NNT hoặc một sắc thuế cụ thể.
Dữ liệu từ bên thứ 3 cần phải thu thập từ các cơ quan liên quan như:
Bộ Kế hoạch đầu tư, Hải quan, Kho bạc, Ngân hàng, Tài nguyên, Môi
trường…), trong đó cần chú trọng hoàn thiện một số nguồn cơ sở dữ liệu
liên kết như sau:
- Dữ liệu về đăng ký thuế - liên kết với dữ liệu về đăng ký kinh doanh
của cơ quan quản lý về đăng ký kinh doanh thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư:
Nếu khớp được chính xác giữa dữ liệu nhận được và hồ sơ khai thuế đúng của
NNT sẽ tránh được trường hợp cảnh báo giả trong quá trình khớp dữ liệu, và
giúp giảm thiểu chi phí tuân thủ của NNT. Điều quan trọng là cơ sở dữ liệu
đăng ký NNT của CQT là phải có thông tin chính xác và cập nhật để giúp xác
định NNT, đặc biệt là NNT đang kinh doanh. Nếu cần, một chương trình làm
sạch CSDL đối với những NNT đã ngừng hoạt động và xác minh thông tin
chi tiết trong CSDL sẽ giúp việc so khớp dữ liệu chính xác hơn.
- Dữ liệu về các giao dịch thương mại - liên kết với các ngân hàng
thương mại và nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các công ty cung cấp nền tảng
số là trung gian trong các giao dịch trên nền tảng số: Khi CQT thu thập dữ
liệu khối lượng lớn từ các bên thứ ba, cần yêu cầu báo cáo phải bao gồm: tên,
địa chỉ liên hệ, mã số thuế của NNT và chi tiết về các giao dịch liên quan.
Các yêu cầu tương tự đối với các bộ ngành chính phủ cũng hỗ trợ việc xác
minh liệu NNT đã khai các khoản tài trợ chịu thuế hay các khoản thanh toán
cho hàng hoá và dịch vụ theo hợp đồng hay chưa.
Dữ liệu với khối lượng lớn của các ngân hàng thương mại và nhà cung
cấp dịch vụ tài chính là những thông tin then chốt để xác minh hồ sơ khai thuế
và nhận diện rủi ro tuân thủ. Những dữ liệu cần thiết bao gồm chi tiết về giao
171
dịch đi qua các tài khoản, số dư trong tài khoản ngân hàng và tiền lãi được trả
vào tài khoản. Ngân hàng có thể e ngại rằng việc cung cấp các dữ liệu này sẽ
bị khách hàng phản đối, và ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ. Vì
vậy, CQT phải thu thập dữ liệu khối lượng lớn từ tất cả các ngân hàng và các
tổ chức tương tự để tránh tình trạng bất kỳ ai bị rơi vào tình trạng bất lợi hơn
so với các đối thủ cạnh tranh khác và việc thảo luận trước với Ngân hàng Nhà
nước có thể giúp giải quyết vấn đề này.
Các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ cho doanh nghiệp,
các công ty cung cấp nền tảng số để thực hiện các giao dịch trên nền tảng số
cũng là những nguồn dữ liệu quan trọng để nhận diện những giao dịch bị bỏ
qua. Điều này có thể bao gồm các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế ngầm
và xác minh hồ sơ khai thuế của các doanh nghiệp đã đăng ký. Dữ liệu này sẽ
càng hữu ích hơn khi người tiêu dùng chuyển sang thanh toán điện tử và dùng
thương mại điện tử nhiều hơn nơi không thanh toán bằng tiền mặt. Các tổ chức
này có thông tin chi tiết về những chủ thể kinh doanh chấp nhận thanh toán qua
thẻ - bao gồm cả những người bán hàng qua mạng.
- Dữ liệu thông qua hợp tác quốc tế về thuế: Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, để QLT đối với các giao dịch liên kết của các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài, CQT cần có các thông tin về giá từ các giao dịch có yếu tố
nước ngoài. Việc đẩy mạnh các hợp tác quốc tế về thuế giúp CQT Việt Nam có
các thông tin về giá nhờ sự chia sẻ thông tin từ CQT nước ngoài. Ngoài ra, việc
hợp tác quốc tế về thuế tạo điều kiện thúc đẩy việc đàm phán giá APA, một
công cụ quan trọng để quản lý hoạt động chuyển giá thông qua các giao dịch
liên kết.
4.2.4. Xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể
Qua kinh nghiệm thực tiễn đã bước đầu triển khai và kinh nghiệm quốc
tế về mô hình triển khai thành công QLRR trong QLT, có thể rút ra những
giải pháp thực hiện tại Việt Nam trong tình hình hiện nay, trong bối cảnh
chưa tiếp cận ở mức độ tổng thể thông qua phân đoạn NNT và các chiến lược
172
xử lý phù hợp. Việt Nam mới chỉ thực hiện QLRR trong một số khâu, chức
năng QLT và trước hết chỉ tập trung vào nhóm NNT là doanh nghiệp. Căn cứ
vào điều kiện thực tế hiện nay tại Việt Nam, các chuyên gia tổ chức OECD đã
khuyến nghị CQT Việt Nam cần xây dựng một Chương trình QLRR tuân thủ
tổng thể.
Một chương trình Quản lý Rủi ro Tuân thủ để nhận diện và xác định ưu
tiên rủi ro tuân thủ, lên chiến lược và triển khai chiến lược. Cấu trúc của
chương trình xoay quanh các phân đoạn NNT chính (doanh nghiệp lớn; doanh
nghiệp vừa; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; cá nhân; tổ chức phi lợi nhuận;
khu vực chính phủ) và giải quyết các rủi ro tuân thủ liên quan đến các phân
đoạn đó từ góc độ tuân thủ của NNT với bốn nghĩa vụ cơ bản của họ: (i) Đăng
ký thuế; (ii) Nộp hồ sơ khai thuế và chứng từ kê khai đúng thời hạn; (iii) Nộp
đúng và đủ thuế đúng thời hạn; (iv) Kê khai thông tin đầy đủ, chính xác. Điều
này đảm bảo cho sự tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất và khai thác
tốt nhất những nguồn lực sẵn có giữa các đơn vị nghiệp vụ cạnh tranh nhau
(về nguồn lực). Chương trình cũng cung cấp một hồ sơ minh bạch và chứng
minh được về cách thức xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động tuân thủ
của Tổng cục thuế và lý do vì sao nguồn lực lại được ưu tiên dành cho một số
rủi ro nhất định mà không phải là những rủi ro khác.
Theo đó, để xây dựng Chương trình QLRR tuân thủ, Cơ quan thuế cần:
Thứ nhất, Thực hiện phân đoạn NNT. Việc phân đoạn NNT đóng vai trò
cốt lõi và là bước quan trọng đầu tiên trong việc phân tích môi trường rủi ro
tổng thể và đưa ra phương pháp QLRR. Nó cho phép CQT xây dựng các
chiến lược tuân thủ hiệu quả và đặt trọng tâm, ưu tiên hơn qua kết quả xếp
hạng rủi ro trên cơ sở đó đề ra cách xử lý phù hợp nhất. Kinh nghiệm quốc tế
cho thấy, một số ít các doanh nghiệp lớn (khoảng dưới 1%) đóng góp từ 60-
70% số thu trong tổng nguồn thu từ thuế nội địa, trong khi có rất nhiều doanh
nghiệp nhỏ chỉ đóng góp dưới 5 -10%. Các doanh nghiệp nhóm quy mô vừa
thường đóng góp 20- 30% số thu trong tổng nguồn thu từ thuế nội địa.
173
Hơn nữa, phân đoạn NNT giúp CQT có cách hiểu đầy đủ chi tiết theo
các dấu hiệu rủi ro của từng nhóm. Thực tế cách hiểu và cách hành động của
NNT rất đa dạng và không đồng nhất, bản thân nhiều CQT các nước đã lựa
chọn cách thức phân đoạn NNT ra thành các nhóm đối tượng có các đặc tính
tương tự nhau (Ví dụ Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,
các doanh nghiệp siêu nhỏ, các tổ chức phi lợi nhuận…) và xác định các rủi
ro tuân thủ của mỗi nhóm đối tượng NNT. Một số CQT cũng phân loại NNT
lớn theo ngành kinh tế, qua đó có thể nhận dạng các rủi ro của NNT cũng như
đưa ra các giải pháp quản lý tuân thủ hiệu quả phù hợp với từng nhóm NNT.
Thứ hai, Đánh giá rủi ro tuân thủ. Việc đánh giá rủi ro tuân thủ không
chỉ dừng lại ở việc nhận diện những trường hợp có rủi ro cao cần can thiệp
bằng những nghiệp vụ như thanh tra, kiểm tra hay cưỡng chế. QLRR tuân thủ
hiệu quả bao gồm việc đánh giá rủi ro ở ba cấp độ: chiến lược, vận hành và
chiến thuật (theo từng trường hợp cụ thể).
- Đánh giá cấp độ chiến lược tập trung vào những rủi ro quan trọng nhất
trong hệ thống thuế, hoặc những rủi ro mà nếu không được xử lý có thể làm
phương hại đến tính toàn vẹn của hệ thống hoặc uy tín của TCT như một cơ
quan quản lý thu hiệu quả. Đánh giá chiến lược cung cấp thông tin cho việc
phân bổ nguồn lực của cơ quan thuế trên cấp độ quốc gia, giữa các lĩnh vực
nghiệp vụ và giữa các phân đoạn NNT.
- Đánh giá ở cấp độ vận hành thường tập trung vào những rủi ro rải
khắp các phân đoạn NNT hoặc chức năng QLT (ví dụ lập kế hoạch thuế chủ
động để né thuế, nộp chậm và quản lý nợ) khi số thu chịu rủi ro là một con số
lớn. Việc đánh giá ở cấp độ này tạo thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực giữa
các phân đoạn NNT và/hoặc chức năng quản lý thuế.
- Đánh giá ở cấp độ chiến thuật là đánh giá rủi ro để nhận diện những
trường hợp có rủi ro cao, cần phải can thiệp bằng biện pháp nghiệp vụ hoặc
có hành động xử lý.
Thứ ba, nhận diện rủi ro. Dựa trên nhiều nguồn dữ liệu để hiểu rõ QLT
174
đang có những rủi ro nào, chúng thường xuất hiện ở đâu trong hệ thống thuế,
và nguyên nhân gây ra chúng là gì?
Dữ liệu thường bao gồm: (i) Kết quả đánh giá môi trường và các nghiên
cứu về thái độ của NNT đối với việc nộp thuế; (ii) Nghiên cứu về các chuyên
đề tuân thủ nổi cộm trên bình diện quốc tế, như tiềm năng thất thu thuế do
hành vi chuyển giá và các hình thức dịch chuyển lợi nhuận khác của NNT có
các hoạt động xuyên biên giới, và hành vi lập kế hoạch thuế chủ động để né
thuế; (iii) Nghiên cứu về các hoạt động kinh tế ngầm; (iv) Một góc nhìn từ
trên xuống rút ra từ nghiên cứu khoảng cách thuế GTGT và các phân tích kinh
tế khác; (v) Thông tin bên thứ ba, ví dụ như dữ liệu từ các cơ quan chính phủ
và đơn vị cung cấp dịch vụ tư nhân như ngân hàng; và (vi) Phân tích từ dưới
lên về dữ liệu hoạt động của CQT, ví dụ như phân tích kết quả thanh tra, kiểm
tra thuế và các câu hỏi thường gặp của NNT.
Thứ tư, Xây dựng các quy Quy trình nhận diện rủi ro, Quy trình đánh giá
rủi ro.
- Quy trình nhận diện rủi ro sẽ dẫn đến một tập hợp các rủi ro được xác
định cho từng phân đoạn NNT và theo từng sắc thuế. Những rủi ro được nhận
diện sẽ được ghi nhận vào một “bảng tổng hợp rủi ro” mô tả từng rủi ro và
đánh giá rủi ro đó về tính chất và mức độ nguy cơ đối với hệ thống thu ngân
sách, và khả năng nguy cơ đó trở thành hiện thực. Kết hợp hai yếu tố - tác động
tiềm tàng của rủi ro và khả năng xảy ra nguy cơ đó – cấu thành toàn bộ hoạt
động đánh giá. Bảng tổng hợp rủi ro thường xuyên được rà soát và cập nhật.
- Quy trình đánh giá rủi ro và sắp xếp thứ tự ưu tiên sẽ giúp giảm thiểu
rủi ro này được thực hiện một cách có hệ thống nhằm đảm bảo áp dụng nguồn
lực một cách hiệu quả nhất nhằm cải thiện tính tuân thủ tự nguyện. Những
quyết định về mức độ đầu tư cần thiết để giảm thiểu từng rủi ro một phải được
đưa ra trong bối cảnh số lượng các rủi ro nghiêm trọng được nhận diện, tác
động tương đối ước tính của chúng đối với hệ thống thu, và ngân sách hoạt
động của CQT. Mục đích đặt ra là đạt được sự cân bằng hợp lý về QLRR
175
trong tất cả các phân đoạn NNT và tất cả các sắc thuế. Ít nhất, tất cả những rủi
ro được xác định là “cao” đều phải được quản lý chủ động; những rủi ro ít
nghiêm trọng hơn có thể thực hiện giám sát định kỳ hoặc thường xuyên để
đảm bảo nhanh chóng nhận diện được mức độ tuân thủ bị xói mòn.
Thứ năm, Xây dựng Chiến lược nâng cao tuân thủ và Kế hoạch hành
động nâng cao tuân thủ hàng năm
- Chiến lược nâng cao tuân thủ là một bản kế hoạch ở cấp độ tổng quan,
mô tả những rủi ro tuân thủ quan trọng nhất và nêu lên những chi tiết khái
quát về cách thức xử lý những rủi ro này của CQT. Chiến lược được cấu trúc
theo các phân đoạn NNT và các sắc thuế chính, tập trung vào rủi ro của
những phân đoạn chính hoặc sắc thuế chính, mô tả những sáng kiến và hoạt
động khác nhau mà CQT sẽ triển khai để giải quyết những rủi ro này. Chiến
lược sẽ bao gồm những sáng kiến nâng cao năng lực như cải thiện việc khớp
dữ liệu tự động, các chương trình bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, công
chức và tăng cường hệ thống CNTT quản lý rủi ro. Chiến lược nâng cao tuân
thủ thường được xây dựng gối đầu cho chu kỳ 02 đến 03 năm và được cập
nhật hàng năm để phản ánh tiến độ thực hiện cũng như phản hồi về các bài
học kinh nghiệm đã rút ra.
- Kế hoạch hành động nâng cao tuân thủ hàng năm mô tả các hoạt động
cụ thể sẽ được thực hiện để triển khai Chiến lược nâng cao tuân thủ. Các Kế
hoạch hành động nâng cao tuân thủ mô tả cách thức triển khai các biện pháp
nghiệp vụ của CQT trong năm tới đối với từng lĩnh vực có rủi ro cao, phạm vi
và tính chất của các biện pháp can thiệp sẽ được áp dụng, và nguồn lực sẽ
được phân bổ.
Thứ sáu, Tiêu chí thành công và các chỉ tiêu đo lường phải được thiết
lập khi lựa chọn các biện pháp xử lý cụ thể. Chúng không chỉ dừng lại ở các
kết quả đầu ra ngắn hạn (ví dụ kết quả thanh tra, kiểm tra) mà phải phản ánh
được cả tác động đạt được về việc thay đổi hành vi của NNT. Ví dụ, các công
cụ dựa trên kết quả như vậy có thể là những thay đổi đo lường được bằng tỉ lệ
phần trăm và giá trị số thuế được nộp đúng hạn, hoặc giảm số nợ phải thu hồi.
176
Nếu thực hiện các chiến lược nhằm cải thiện mức độ chính xác trong kê khai
thuế thì thước đo thành công thường dùng có thể là mức độ giảm - có thể
lượng hoá - các lỗi sai nhất định hoặc các kiểu khai thiếu nhất định.
4.2.5. Hoàn thiện nội dung nghiệp vụ quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Hiện nay, QLRR trong QLT tại Việt Nam đang thực hiện riêng rẽ ở từng
khâu chức năng QLT, trong đó có 03 khâu quản lý (thanh tra, kiểm tra thuế;
phân loại hồ sơ hoàn thuế GTGT và kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; tạo, in ấn,
phát hành hóa đơn) là đã thực hiện QLRR theo đúng chuẩn mực quốc tế vì đã
ban hành được tiêu chí đánh giá rủi ro và quy trình QLRR. Các khâu chức
năng quản lý còn lại (kê khai thuế, quản lý nợ thuế) mới thực hiện theo định
hướng QLRR, chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro và quy trình
QLRR theo chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, trước mắt để tăng cường công tác
QLRR trong QLT cần hoàn thiện các nội dung nghiệp vụ QLRR trong tất cả
các khâu chức năng QLT. Cụ thể:
Thứ nhất, Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí, chỉ
số đánh giá rủi ro.
Trong năm 2016, 2017 Tổng cục Thuế đã nghiên cứu xây dựng trình Bộ
Tài chính ban hành các bộ tiêu chí, quy trình đánh giả rủi no NNT trong công
tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra; phân loại hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn
trường hợp thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế; quản lý in phát hành và sử dụng
hóa đơn. Căn cứ theo quy định của Thông tư 204/2015/TT-BTC ngày
21/12/2005 về thực hiện QLRR trong QLT, trong thời gian tới, Tổng cục
Thuế tiếp tục nghiên cứu và trình Bộ Tài chính ban hành các bộ tiêu chí, chỉ
số đánh giá rủi ro trong các chức năng QLT còn lại, bao gồm: Tiêu chí đánh
giá tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT; Tiêu chí đánh giá xếp hạng mức độ
rủi ro đối với NNT; Tiêu chí lựa chọn trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế;
Tiêu chí lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT; Tiêu chí
quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính thuế;
177
Đồng thời tiến hành xây dựng quy trình nghiệp vụ, nâng cấp ứng dụng CNTT
phục vụ công tác QLRR tương ứng với các bộ tiêu chí, chỉ số mới ban hành.
Thứ hai, Cần tập trung nghiên cứu ban hành và thực hiện các nghiệp vụ
QLRR mới trong công tác QLT.
- Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp: Về lâu dài CQT hướng tới QLT theo
chương trình QLRR tổng thể. Vì vậy, CQT phải quản lý hệ thống thông tin
QLRR, áp dụng tiêu chí đánh giá rủi ro doanh nghiệp để tự động đánh giá xếp
hạng rủi ro doanh nghiệp theo 06 hạng (từ hạng 1 đến hạng 6). Việc đánh giá
xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện định kỳ hàng năm. Kết quả xếp hạng
rủi ro được sử dụng để thiết lập tiêu chí lựa chọn thanh tra, kiểm tra NNT và
thực hiện các biện pháp QLT phù hợp.
- Quản lý doanh nghiệp trọng điểm: Doanh nghiệp trọng điểm là doanh
nghiệp được đánh giá rủi ro cao, gắn với từng lĩnh vực rủi ro hoặc theo từng
chuyên đề kiểm soát rủi ro cụ thể. Ví dụ như doanh nghiệp lớn, hoạt động
phức tạp, doanh nghiệp có giao dịch liên kết, doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thương mại điện tử,... Doanh nghiệp sau khi được đánh giá rủi ro,
xếp vào doanh nghiệp trọng điểm, CQT sẽ xác lập hồ sơ, đồng thời cập nhật
hồ sơ vào hệ thống để theo dõi và quản lý chặt chẽ. Thông thường doanh
nghiệp trọng điểm sẽ được quản lý chặt chẽ theo lĩnh vực rủi ro được đánh giá
đối với doanh nghiệp đó.
- Quản lý kế hoạch kiểm soát rủi ro (KSRR): Kế hoạch KSRR được xây
dựng và ban hành theo định kỳ hàng năm (thường là tháng 12 của năm trước
liền kề) nhằm đánh giá tổng thể các rủi ro của năm trước liền kề và xu hướng
rủi ro có thể xảy ra trong năm quản lý. Kế hoạch này cũng chỉ ra các phương
thức, thủ đoạn và các dấu hiệu nhận biết rủi ro trong các chức năng QLT;
đồng thời phân bổ nguồn lực, phân công nhiệm vụ cho CQT các cấp thực hiện
KSRR theo các địa chỉ xác định trong kế hoạch. Kế hoạch KSRR tạo ra
phương án kiểm soát có tính tổng thể, đa tầng, đảm bảo sự tham gia của tất cả
các chủ thể QLRR (đơn vị, công chức có liên quan) một cách có hệ thống và
178
cấu trúc chặt chẽ. Qua đó giúp cho việc kiểm soát toàn diện, chặt chẽ và
không chồng chéo hoặc bỏ lọt các rủi ro trong công tác QLT.
4.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ theo chuẩn quốc tế
CNTT đóng vai trò quan trọng đối với việc QLRR trong QLT. Để nâng
cao hiệu quả QLRR, CQT cần đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng CNTT đồng
bộ theo chuẩn quốc tế phục vụ công tác QLT. Cụ thể:
Thứ nhất, Nâng cấp ứng dụng TPR hiện tại
Nhằm hướng tới QLRR tuân thủ toàn diện, đáp ứng được việc triển khai
tổng thể đối với các chức năng QLT trong tất cả các phân đoạn NNT, giải pháp
vô cùng cần thiết là cần tiếp tục nâng cấp ứng dụng TPR hiện tại để khắc phục
các tồn tại, vướng mắc. Một số hướng giải pháp cụ thể như sau:
- Nghiên cứu tích hợp các ứng dụng riêng lẻ của ngành thuế thành một
ứng dụng tập trung để tăng hiệu quả trong việc đồng bộ dữ liệu, chính xác và
giảm các thao tác trung gian giữa các ứng dụng;
- Tăng cường công tác kiểm soát dữ liệu từ các nguồn dữ liệu, phát triển
các chức năng hỗ trợ người dùng trong công tác nhập liệu, tra cứu, tìm kiếm
dữ liệu, tạo các báo cáo trong các ứng dụng;
- Mở rộng việc kết nối trao đổi thông tin với cơ quan ngoài ngành (Hải
quan, KHĐT, Ngân hàng…) để thu thập đầy đủ thông tin về doanh nghiệp
phục vụ việc đánh giá rủi ro chính xác, hiệu quả trong công tác thanh tra,
kiểm tra;
- Sửa đổi các mẫu biểu, báo cáo trong các ứng dụng để phù hợp với các
quy trình nghiệp vụ hiện hành và các nhu cầu thực tế phát sinh;
- Triển khai rộng rãi các ứng dụng đến tất cả các bộ phận trong ngành;
- Phân quyền sử dụng ứng dụng hợp lý cho các bộ phận liên quan để
nâng cao hiệu quả sử dụng ứng dụng;
- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, tập huấn sử dụng ứng dụng tại
các đơn vị;
- Với các trường hợp đặc thù cần nghiên cứu và có giải pháp hợp lý để
179
nâng cao hiệu quả ứng dụng, hỗ trợ hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra.
Thứ hai, Xây dựng mới ứng dụng phân tích rủi ro trong QLT theo mô
hình kiến trúc tổng thể
Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu QLRR trong QLT một cách tổng
thể, toàn diện tất cả các khâu, chức năng QLT đối với từng phân đoạn NNT
sử dụng 4 trụ cột xác định tuân thủ là: Đăng ký, Thời hạn tuân thủ, Kê khai,
Nộp thuế thì cần thiết phải xây dựng hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo
kiến trúc mới mang tính chất tổng thể.
Hình 4.1. Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo kiến trúc tổng thể
Theo hình 4.1 việc đề xuất xây dựng hệ thống theo kiến trúc tổng thể hay
nói cách khác là hệ thống ứng dụng này sẽ tích hợp với các quy trình QLT,
bao gồm: (i) Xây dựng CSDL tuân thủ về NNT ; (ii) Xây dựng Phân hệ phân
luồng xử lý nghiệp vụ thuế; (iii) Quy trình giám sát; (iv) Xử lý các nghiệp vụ
phân luồng khác.
- Xây dựng Phân hệ Phân tích rủi ro đáp ứng yêu cầu: (i) Phân loại, đánh
giá tuân thủ pháp luật thuế của NNT; (ii) Phân tích rủi ro đánh giá xếp hạng
mức độ rủi ro của NNT; (iii) Phân tích rủi ro lựa chọn trường hợp kiểm tra về
180
đăng ký thuế; (iv) Phân tích rủi ro lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở
cơ quan QLT; (v) Phân tích rủi ro phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa
chọn đối tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh
tra sau hoàn thuế; (vi) Phân tích rủi ro lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro
để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; (vii) Phân tích rủi ro
để thực hiện chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định pháp
luật và xác định trường hợp NNT có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm
tra, thanh tra về tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng hóa đơn, ấn chỉ; (viii) Xử
lý các nghiệp vụ phân tích rủi ro khác.
- Xây dựng ứng dụng Quản lý trường hợp đáp ứng yêu cầu: (i) Quản lý
trường hợp kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; (ii) Quản lý trường hợp hồ sơ
hoàn thuế thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế sau; (iii) Quản lý trường hợp
giám sát hoàn thuế; (iv) Quản lý trường hợp rủi ro về tạo, in, phát hành, quản
lý, sử dụng hóa đơn, ấn chỉ; (v) Quản lý trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế;
(vi) Quản lý trường hợp kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan QLT; (vii)
Quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành; (viii)
Thông tin hoạt động NNT theo các nghiệp vụ phát sinh, thông tin từ các cơ
quan bên ngoài; (ix) Lập và theo dõi hồ sơ tuân thủ của NNT; (x) Xây dựng
Phân hệ Phân luồng xử lý nghiệp vụ thuế đáp ứng yêu cầu phát sinh (hiện tại
chưa xác định).
- Trên cơ sở Quyết định số 1148/QĐ-TCT ngày 06/7/2018 của Tổng cục
Thuế thực hiện Nghị quyết của Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về việc triển khai
ứng dụng công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong lĩnh vực Tài
chính- Ngân sách, Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro sẽ được xây dựng theo
hướng ứng dụng công nghệ 4.0 sử dụng kỹ thuật công nghệ học máy (machine
learning) hỗ trợ quá trình phân tích dữ liệu (có giám sát và không giám sát), sử
dụng quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM)
Kỹ thuật công nghệ học máy (machine learning) hỗ trợ quá trình phân
tích dữ liệu. Học máy là một lĩnh vực của trí tuệ nhân tạo liên quan đến việc
181
nghiên cứu và xây dựng các kĩ thuật cho phép các hệ thống "học" tự động từ
dữ liệu để giải quyết những vấn đề cụ thể.
Hình 4.2. Học máy
Hiện nay, Machine Learning có 4 công nghệ cơ bản:
(1) Học có giám sát: Đây là trường hợp các máy tự học trên cơ sở các ví
dụ, dữ liệu đầu vào được sử dụng để tìm các mối liên quan nhằm giải quyết một
vấn đề cụ thể. Nếu xác lập thành công một mô hình, thì mô hình đó được sử
dụng trong các trường hợp tương tự. Với công nghệ dạng này, ta có thể kể đến
một số ví dụ như: phát hiện quá tải, nhận dạng giọng nói, văn bản, hình ảnh,…
(2) Học nửa giám sát: Với công nghệ này máy móc sẽ nhận được cả dữ
liệu đầu vào được gán nhãn và dữ liệu đầu vào không được gán nhãn. Kiểu
học máy này được dùng khi một tổ chức có quá nhiều dữ liệu hoặc có quá
nhiều sự khác biệt của các thông tin đến mức không thể sắp xếp câu trả lời
cho mỗi thông tin đòi hỏi hệ thống tự đề xuất câu trả lời và tạo ra những mô
hình chung. Ta có thể kể đến một vài ví dụ ứng dụng dạng này đó chính là
việc phân loại các web hay nhận dạng giọng nói, hình ảnh.
(3) Học không giám sát: Học không giám sát liên quan đến những dữ
liệu có nguồn gốc không rõ ràng, xác thực so với loại đầu tiên. Trong trường
hợp này, máy móc không có “chìa khóa" trả lời và buộc phải tự phân tích dữ
182
liệu, tìm kiếm mô hình và tìm mối tương quan có liên quan để đưa ra đáp
án. Cách học máy này tương đối giống với cách hoạt động của bộ não con
người. Bộ não rút ra kết luận trên cơ sở quan sát tự phát và trực giác cùng với sự
gia tăng các tệp dữ liệu, kết luận đầu ra sẽ trở nên ngày càng chính xác hơn.
(4) Học tăng cường: Với phương pháp này, máy móc nhận được bộ thao
tác và những quy định được phép từ trước. Hoạt động trong khuôn khổ đó,
máy móc tiến hành phân tích và quan sát kết quả các thao tác để tự cập nhật
và đưa ra những kết quả ngày càng tốt hơn.
Hình 4.3. Học máy có giám sát
Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP DM): là quy trình
lặp có khả năng quay lùi (backtracking) gồm có 6 giai đoạn:
Tìm hiểu nghiệp vụ (Business Understanding): Xác định mục tiêu của dự án.
Tìm hiểu dữ liệu (Data Understanding): Thu thập và đánh giá dữ liệu.
Chuẩn bị dữ liệu (Data Preparation): Thực hiện biến đổi, chuẩn hóa dữ liệu.
Mô hình hóa (Modeling): Áp dụng các mô hình khác nhau để lựa chọn
mô hình tối ưu.
183
Đánh giá (Evaluation): Thực hiện đánh giá độ tin cậy của mô hình.
Triển khai (Deployment): Triển khai cài đặt, tích hợp mô hình với các
ứng dụng phần mềm.
Hình 4.4. Quy trình CRISP-DM
Hình 4.5. Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM)
184
Hệ thống phân tích rủi ro dựa trên phân tích dữ liệu áp dụng kỹ thuật
công nghệ học máy (machine learning) có giám sát và không giám sát; và sử
dụng quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM).
Với hình 4.5, các tiêu chí được đưa vào xây dựng hoàn toàn dựa trên dữ
liệu nên bắt kịp được các xu thế của dữ liệu. Quy trình này có thể phát hiện ra
những thuộc tính mới có tác động đáng kể đến dự báo. Quá trình khai phá dữ
liệu được lặp đi, lặp lại nhiều lần để tìm ra mô hình hợp lý nhất; Dễ xây dựng
và có thể cập nhật dữ liệu mới nhằm bắt kịp xu thế của dữ liệu.
Kết quả khảo sát về các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện QLRR
trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới được tổng hợp tại bảng 4.1.
Có 25% công chức được hỏi đề xuất hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh
giá rủi ro; 25% công chức được hỏi đề xuất thực hiện QLRR một cách toàn
diện trong tất cả các chức năng QLT; 23,5% công chức được hỏi đề xuất hoàn
thiện hệ thống pháp lý; 15,5% công chức được hỏi đề xuất nâng cao hiệu quả
của công tác thu thập thông tin, dữ liệu NNT; 10,5% công chức đề xuất ứng
dụng công nghệ mới (AI, BI…) trong QLRR.
185
Bảng 4.1: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro
trong quản lý thuế
Stt Giải pháp đề xuất Số lượng Tỷ lệ
1 94 23.50%
2 100 25.00% Hoàn thiện hệ thống pháp lý Hoàn thiện tiêu chí, quy trình đánh giá rủi ro
3 Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…) 42 10.50%
4 62 15.50% Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế
5 100 25.00% Thực hiện QLRR một cách toàn diện trong tất cả các chức năng quản lý thuế
6 Giải pháp khác 2 0.50%
Tổng cộng 400 100%
Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR
trong QLT
186
4.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
4.3.1. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và cơ quan thuế
Hoàn thành số thu NSNN luôn là mục tiêu hàng đầu của ngành thuế.
Nhưng để đạt được mục tiêu đề ra, ngành thuế cũng cần phải có sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng với nhau. Để thực hiện QLRR trong QLT, cần
tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhằm cung cấp đầy đủ
thông tin, dữ liệu NNT để phục vụ công tác đánh giá rủi ro về thuế. Cụ thể:
- Cần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ của CQT và các cơ quan ban
ngành khác tại địa phương trong công tác QLT. Nghiên cứu phối hợp giữa
CQT với các cơ quan ban ngành khác: Hải quan, Cơ quan quản lý đăng ký
kinh doanh, Tài nguyên môi trường, quản lý thị trường, các tổ chức tín dụng,
công an và các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp tài liệu, thông tin
liên quan đến doanh nghiệp nhằm phục vụ cho công tác quản lý thu thuế và
thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về thuế, kịp thời ngăn chặn các
hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh: thông tin, cung cấp kịp thời những
thay đổi, phát sinh của NNT trong quá trình hoạt động nhằm đảm bảo nguồn
dữ liệu NNT luôn đầy đủ phục vụ cho việc phân tích, đáng giá rủi ro được
chính xác.
Cơ quan công an: CQT phối hợp với cơ quan công an phát hiện kịp
thời, xử lý nghiêm minh các hồ sơ vụ án trốn, lậu thuế. Các trường hợp vi
phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực thuế ngoài thẩm quyền của CQT cần
phải điều tra làm rõ thì CQT cần chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để
tiến hành điều tra, phối hợp xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Cơ quan quản lý thị trường: phối hợp trong việc ngăn chặn, xử lý các
trường hợp mua bán vận chuyển hàng lậu, hàng cấm,...
Cơ quan tài nguyên môi trường: Trong quá trình quản lý các nguồn thu
từ đất đai, cơ quan tài nguyên và môi trường phát hiện doanh nghiệp sử dụng
đất đai chưa đúng, không đủ năng lực (vốn, tài sản,..) để thực hiện dự án đã
187
đăng ký thì có văn bản đề nghị CQT phối hợp thanh tra, kiểm tra việc sử dụng
đất và việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của NNT.
4.3.2. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc
CQT cần cung cấp, trang bị cho cán bộ thực hiện công tác QLRR điều
kiện làm việc tốt khi thực hiện việc phân tích, đánh giá rủi ro NNT, ví dụ máy
tính cấu hình cao, cài đặt các ứng dụng phân tích thống kê, các ứng dụng có
kết nối liên thông với các ngành liên quan, được phân quyền xem những dữ
liệu lịch sử và hiện tại của NNT trong kho dữ liệu chung của ngành nhằm
khai thác, phân tích phục vụ tốt cho việc phân tích rủi ro NNT được chính xác
và kịp thời.
4.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thuế và xây dựng
cơ chế để quản lý, quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm làm cơ sở
đánh giá năng lực và khả năng làm việc của cán bộ thuế
Một trong những nguyên nhân làm tăng rủi ro trong công tác QLT xuất
phát từ phía CQT là trình độ chuyên môn của cán bộ thuế chưa đáp ứng được
yêu cầu để thực hiện QLRR trong QLT, các rủi ro về đạo đức. Vì vậy, để
giảm bớt các rủi ro này, cần phải: (1) Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thuế; (2) Xây dựng cơ chế để quản lý và
quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm, làm cơ sở đánh giá năng lực và khả
năng của cán bộ thuế. Đây là cơ sở xây dựng chế độ lương, thưởng phù hợp
với năng lực làm việc của cán bộ thuế và bố trí sử dụng cán bộ thuế phù hợp
với từng vị trí công việc; (3) Thực hiện tinh giảm biên chế người lao động
không còn đáp ứng nhu cầu công việc làm cơ sở để thực hiện đề án vị trí việc
làm tốt hơn; (4) Thực hiện việc luân chuyển cán bộ đối với những vị trí công
việc có thể phát sinh các rủi ro về đạo đức nghề nghiệp.
4.3.4. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế
Để thực hiện QLRR trong QLT có hiệu quả rất cần sự tuân thủ tự
nguyện của NNT. Cần thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ
tự nguyện của NNT, cụ thể:
188
* Về phía cơ quan thuế:
- CQT cần tăng cường tuyên truyền, hỗ trợ NNT tuân thủ pháp luật thuế.
Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ giáo dục phổ biến
pháp luật thuế phù hợp với từng nhóm NNT, trọng điểm là nhóm doanh
nghiệp quy mô vừa, nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Tiếp tục mở rộng thực
hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế qua mạng cho doanh nghiệp
và tổ chức, tiến tới nghiên cứu thực hiện triển khai các dịch vụ thuế điện tử
cho các cá nhân. Nghiên cứu triển khai dịch vụ một cửa điện tử và hỗ trợ trực
tuyến tập trung…
- Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm hỗ
trợ NNT thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó, khuyến
khích NNT thực hiện các thủ tục thuế như kê khai thuế qua mạng, nộp thuế
qua mạng,.. vừa giảm thời gian cho NNT vừa tạo thuận tiện cho việc lưu trữ
và sử dụng dữ liệu kê khai để phân tích rủi ro thuế vào định kỳ quy định.
* Về phía NNT:
- NNT cần thực hiện các nghĩa vụ pháp luật kinh doanh, pháp luật thuế
một cách trung thực, khách quan, kịp thời và đầy đủ. Từ đó tạo nên một hệ
thống cơ sở dữ liệu chuẩn về NNT nhằm phục vụ việc phân tích đánh giá
rủi ro được chính xác. Từ kết quả phân tích rủi ro này, CQT đưa ra các biện
pháp quản lý công bằng và phù hợp cho NNT nhằm khuyến khích NNT
thực hiện tốt, đồng thời có biện pháp xử lý các sai phạm NNT vô tình hoặc
cố tình gây ra.
- NNT cần có thái độ hợp tác phối hợp trong trường hợp CQT yêu cầu:
cung cấp bổ sung hồ sơ, tài liệu, chứng cứ liên quan để giải trình những thông
báo của CQT hoặc các đoàn kiểm tra, thanh tra thực hiện kế hoạch kiểm tra,
thanh tra hàng năm theo kết quả phân tích rủi ro.
- NNT cần chủ động tích cực cập nhập tìm hiểu, nắm bắt chính sách hiện
hành và những thay đổi qua từng thời kỳ để thực hiện quyền và nghĩa vụ nộp
thuế một cách đầy đủ, đúng hạn liên quan nhằm góp phần xây dựng xã hội,
đất nước thông qua đóng góp nghĩa vụ thuế trong NSNN.
189
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương 4 luận án đã đặt ra yêu cầu QLRR trong QLT tại Việt Nam thời
gian tới, đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030 như: phải lựa chọn NNT có rủi
ro cao về thuế, có nhiều sai phạm trong thực hiện tuân thủ thuế; phát hiện
nhiều hành vi gian lận, trốn thuế; giảm chi phí, thời gian, nhân lực cán bộ
thực hiện QLRR… để đảm bảo thực hiện QLRR trong QLT đạt hiệu quả và
đảm bảo đạt mục tiêu hoàn thành các chỉ tiêu được giao trong thanh tra, kiểm
tra và các chức năng thuế khác.
Từ các yêu cầu đặt ra đối với đổi mới phương thức QLT, tác giả đã đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT thời gian
tới như: hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao nhận thức về sự cần thiết thực
hiện QLRR trong QLT, hoàn thiện hơn nữa các bộ tiêu chí đã có và xây dựng
các bộ tiêu chí cho các chức năng thuế còn thiếu; bổ sung đánh giá chất lượng
QLRR, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, tăng cường ứng dụng
CNTT vào hoạt động phân tích rủi ro, đổi mới đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường
giám sát hoạt động rủi ro, tăng sự phối hợp giữa các bộ phận trong CQT và
các cơ quan liên quan.
Để đảm bảo các giải pháp trên có tính khả thi, cần thực hiện các giải
pháp điều kiện sau: tăng cường sự phối hợp CQT và cơ quan nhà nước có liên
quan, tăng trang bị cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng yêu cầu phân tích, nâng
cao hơn nữa chất lượng đời sống vật chất tinh thần của công chức thực hiện
nhiệm vụ QLRR và tăng cường sự hợp tác giữa NNT với CQT.
190
KẾT LUẬN
QLRR trong QLT đối với NNT và cán bộ thuế là một vấn đề mới tại
Việt Nam. Việc làm tốt công tác QLRR trong QLT đối với ngành thuế nói
chung và NNT nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao
năng lực, hiệu quả trong QLT hiện đại. Bởi vậy, đề tài luận án “Quản lý rủi
ro trong quản lý thuế tại Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong
điều kiện hiện nay. Luận án đã đạt được các kết quả nghiên cứu chủ yếu
sau:
Thứ nhất, Luận án đã nghiên cứu làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu
các công trình đã công bố liên quan đến QLRR trong QLT là vấn đề rất quan
trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, luận án đã kế thừa những lý luận, ưu điểm đã
đạt được của các công trình nghiên cứu trước, khai thác vấn đề chưa được
nghiên cứu, đồng thời tìm ra hướng đi riêng, hướng mới trong phân tích, biện
giải chặt chẽ mang tính biện chứng cao để giải quyết vấn đề nghiên cứu theo
hướng khoa học, logic và đạt được mục tiêu đề ra của luận án.
Thứ hai, Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLRR trong QLT. Từ
những lý luận đã phân tích, có thể nhận thấy QLRR trong QLT có những đặc
điểm riêng. QLRR trong QLT là phương pháp rất quan trọng giúp CQT tiết
kiệm nguồn lực, chi phí, tìm ra đúng NNT có nhiều rủi ro; từ đó có thể tăng
cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác QLT, chống thất thu ngân sách nhằm
đảm bảo NNT luôn chấp hành tốt pháp luật thuế và vai trò quan trọng nhất là
đẩy mạnh hơn nữa tính tuân thủ thuế. Để công tác QLRR trong QLT đạt hiệu
quả tích cực thì cần phải có những nguyên tắc nhất định. Qua phân tích
nguyên tắc QLRR, mô hình QLRR, và quy trình QLRR tổng quát, cũng như
kế hoạch đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện cho thấy: CQT cần phải đẩy mạnh
nâng cao yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực để việc thực hiện các
chức năng QLT ngày càng hiệu quả, đúng tầm và nâng cao vị thế ảnh hưởng
trong hệ thống pháp luật thuế. Đồng thời Luận án cũng trình bày được một số
191
kinh nghiệm về QLRR trong các chức năng thuế ở các nước tiên tiến đi trước
và đã có những thành công, từ đó rút ra bài học thiết thực để thực hiện tại Việt
Nam. Đây là nội dung có ý nghĩa trong việc đẩy mạnh triển khai QLRR trong
QLT tại Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, Luận án đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng QLRR trong
QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 bằng phương pháp khảo sát thực tế
qua các nội dung: tổ chức bộ máy, hành lang pháp lý, các biện pháp kỹ thuật
trong nghiệp vụ QLRR,…Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá thực trạng QLRR
trong QLT thể hiện ở kết quả thực hiện trong các chức năng QLT, cụ thể là
chức năng thanh tra,kiểm tra, hoàn thuế và quản lý hóa đơn... đã nêu trên. Qua
đó cho thấy QLRR trong QLT tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất
định, cụ thể: số thuế truy thu bình quân 1 doanh nghiệp qua thanh tra hàng
năm đã tăng đáng kể, qua thanh tra đã làm giảm số lỗ sai quy định, về hoàn
thuế và quản lý hóa đơn đã có bộ tiêu chí đánh giá và các quy trình hướng
dẫn thực hiện và tiếp theo hoàn thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng ứng dụng
CNTT phục vụ cho việc triển khai thực hiện. Kết quả đạt được của công tác
QLRR trong QLT đã phản ánh nỗ lực của ngành thuế trong việc đẩy mạnh
nâng cao chất lượng ngành, đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính không
cần thiết, đảm bảo thu ngân sách, nâng cao ý thức và hành vi tuân thủ của
NNT nhằm đưa ngành thuế đạt được mục tiêu đã đề ra. Bên cạnh những ưu
điểm của công tác QLRR trong QLT, luận án cũng chỉ ra những tồn tại, hạn
chế nhất định: việc thực hiện QLRR theo chuẩn mực quốc tế mới chỉ dừng
lại ở một số chức năng của QLT, các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro, quy trình
QLRR chưa hoàn thiện, hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung chưa đầy đủ, ...
Đồng thời luận án cũng chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại đó để đưa ra
những giải pháp khắc phục.
Thứ tư, Trên cơ sở nghiên cứu tình hình kinh tế- xã hội và mục đích, yêu
cầu QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới, đến năm 2025 và tầm
nhìn đến năm 2030, tác giả đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện QLRR
192
trong QLT tại Việt Nam, cụ thể: Hoàn thiện hành lang pháp lý về QLRR
trong QLT, nâng cao nhận thức cho công chức về sự cần thiết thực hiện
QLRR trong QLT; hoàn thiện cơ sở dữ liệu tập trung về NNT, hoàn thiện và
xây dựng tiếp bộ tiêu chí đánh giá cho các chức năng QLT… Đồng thời để
các giải pháp trên có tính khả thi, tác giả khuyến nghị cần thực hiện các điều
kiện để tạo môi trường thực hiện QLRR trong QLT, trong đó nhấn mạnh một
số giải pháp như: Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong
hoạt động QLT,tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho CQT…
Thứ năm, Luận án đã sử dụng phương pháp khảo sát thực tế để đánh giá
về thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam và hiệu quả các giải pháp luận
án đưa ra.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận án, song không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả luận án mong muốn
nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các nhà khoa học,
các chuyên gia, đồng nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, thuế để
luận án hoàn thiện hơn./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ
1. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Nghiên cứu đề xuất mô
hình tổ chức quản lý nghiên cứu khoa học tại Tổng cục Thuế” được công
nhận năm 2015.
2. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý thuế đối với ngân hàng thương mại tại Việt Nam” năm 2016
3. Bài báo “Kinh tế vĩ mỗ ổn định qua 5 cặp cân đối lớn” đăng trên Tạp chí
Thuế số 3 (570) 2016.
4. Bài báo “Từ 4/2/2016: áp dụng quy định mới về quản lý rủi ro trong lĩnh
vực thuế” đăng trên Tạp chí Ngân quỹ Quốc gia tháng 2/2016.
5. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Quản lý rủi ro trong quản lý
thuế - Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp áp dụng tại Việt Nam” năm 2019.
6. Bài báo “Kinh nghiệm quốc tế về quản lý rủi ro trong quản lý thuế và
bài học cho Việt Nam” đăng trên Tạp chí tài chính kỳ 1 tháng 4 năm
2020 (726).
7. Bài báo “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rui ro trong quản lý thuế
tại Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2021.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1 Trần Tuấn Anh (2013), Ứng dụng kỹ thuật QLRR vào hoạt động thanh tra,
kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp tại Cục Thuế Hà Nội, Luận án
Thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
2 Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015
quy định về áp dụng rủi ro trong QLT.
3 Bộ Tài chính (2016), Quyết định số 20710/QĐ-BTC ngày 20/12/2016
về việc cải cách QLT giai đoạn 2016-2020.
4 Bộ Tài chính (2016), Quyết định số 1005/QĐ-BTC ngày 1/11/2016 về
Bộ tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa
chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra,
thanh tra sau hoàn thuế GTGT
5 Bộ Tài chính (2018), Quyết định số 253/QĐ-BTC ngày 20/3/2018 về việc
áp dụng Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu
hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.
6 Bộ Tài chính (2020), Tổng hợp tình hình thực hiện số thu NSNN giai
đoạn 2014-2018
7 Bộ Tài chính (2020), Tổng hợp thống kê nhân sự ngành thuế giai đoạn 2014-
2018.
8 Bộ Tài chính Hoa Kỳ (2009), Cập nhật về giảm thiểu khoảng cách thuế
Liên bang và tăng cường tự nguyện tuân thủ.
9 Business school Tax & Business Law (2018), Hướng dẫn cho phân đoạn
NNT/Chiến lược Tuân thủ cho Việt Nam.
10 Chính Phủ (2014), Nghị quyết 19/2014/NQ-CP ngày 18/03/2014 và Nghị
quyết 19/2015/NQ-CP ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh.
11 Chính phủ (2016), Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy
12định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật QLT
12 Chính Phủ, Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về
việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin
điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của Cơ quan nhà nước
13 Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính
phủ điện tử
14 CQT Úc (2003), Báo cáo về chương trình tuân thủ
15 CQT và hải quan Anh (2011), Tiêu điểm quốc tế về thuế
16 CQT Nam Phi (2004), Phân tích về cách tiếp cận tuân thủ của CQT trên
cơ sở lựa chọn hồ sơ và mức độ rủi ro
17 Nguyễn Thị Thùy Dương (2011), QLT ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội
18 ECOPA (2010), Thông lệ quốc tế về lựa chọn trường hợp thanh tra dựa
trên rủi ro.
19 Nguyễn Thị Minh Hòa (2011), Nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT
hướng tới quản lý tuân thủ, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện tài chính,
Hà Nội.
20 Quách Đăng Hòa (2018), Xây dựng khung tiêu chuẩn QLRR của hải
quan Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Tài chính, Hà Nội
21 Nguyễn Thi Thanh Hoài (2011), Một số vấn đề về tuân thủ thuế, Đề tài
nghiên cứu cấp học viện, Học viện tài chính, Hà Nội.
22 Ngân hàng thế giới (2011), Cải cách thuế ở Việt nam – hướng tới một hệ
thống hiệu quả và công bằng hơn.
23 Ngân hàng thế giới (2017), Chương trình tuân thủ thuế- Kinh nghiệm
quốc tế
24 Ngân hàng thế giới (2017), Chương trình tuân thủ tổng thể - Tổng quan
về phương pháp luận.
25 Quốc hội (2012), Luật sửa đổi bổ sung một số Điều Luật QLT số
21/2012/QH13 ngày 20/11/2012.
26 Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các Luật về thuế
số 71/2014/QH13 ngŕy 26/11/2014.
27 Quỹ tiền tệ quốc tế (2005), Thanh tra đối tượng nộp thuế lớn tại Châu Á
– Thái Bình Dương, Tài liệu hội thảo khoa học, Hà Nội
28 Bùi Thái Quang (2013), Phương pháp QLRR, đảm bảo nguồn thu ngân
sách bền vững, Tạp chí Tài chính, số 11 (589).
29 Thủ tướng Chính Phủ (2009), Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày
28/09/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính và các văn bản quy định cụ
thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các đơn vị thuộc Tổng cục Thuế,
Cục Thuế và Cục Thuế.
30 Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày
25/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
31 Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011
về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-
2020.
32 Tổng cục Thuế (2015), Quyết định 745/QĐ-TCT ngày 20 /4/2015 về việc
ban hành quy trình tuyên truyền, hỗ trợ NNT.
33 Tổng cục Thuế (2017), Quyết định số 2141/QĐ-TCT ngày 12/12/2017,
về việc hướng dẫn thực hiện quy trình áp dụng QLRR trong công tác
phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in,
phát hành và sử dụng hóa đơn
34 Tổng cục Thuế (2017), Quyết định số 1625/QĐ-TCT ngày 27/9/2017 về
Quy trình áp dụng QLRR trong việc phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế
GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế
hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT
35 Tổng cục Thuế (2014), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2013, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2014
36 Tổng cục Thuế (2015), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2014, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2015
37 Tổng cục Thuế (2016), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2015, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2016
38 Tổng cục Thuế (2017), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2016, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2017
39 Tổng cục Thuế (2018), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2017, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2018.
40 Tổng cục Thuế (2019), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2018, nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2019.
41 Tổng cục Thuế (2013), Mô hình QLT và cơ chế QLRR.
42 Nguyễn Đức Tú (2012), QLRR tín dụng tại NHTMCP Công Thương Việt
Nam.
43 Phi Vân Tuấn (2013), Giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra
theo kỹ thuật QLRR, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục Thuế.
44 Lưu Ngọc Thơ (2013), Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội
45 Bùi Khánh Toàn, (2019), QLRR trong QLT - Kinh nghiệm quốc tế và
giải pháp áp dụng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành
thuế.
46 Lê Xuân Trường (2011), Giáo trình QLT, Học viện Tài chính, NXB tài
chính Hà Nội.
47 Trần Huy Trường (2015), Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế
đối với doanh nghiệp lớn Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện
Tài chính, Hà Nội
48 Trung tâm chính sách và QLT (2004), Sổ tay hướng dẫn của OECD về
quản lý và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế.
49 Trung tâm chính sách và QLT (2009), Quản lý tuân thủ của chức năng
quản lý doanh nghiệp – Kinh nghiệm và thông lệ của 8 nước thành viên
OECD
50 Trung tâm chính sách và QLT (2010), Hiểu và tác động tới hành vi tuân
thủ của NNT.
51 Đặng Thị Bạch Vân (2014), Xoay quanh vấn đề NNT và tuân thủ thuế,
Tạp chí Phát triển và Hội nhập – Số 16(26) – Tháng 05-06/2014.
Tài liệu Tiếng Anh
52 Andreoni J.,Erard B. (1998), Tax compliance, Journal of Economic
Literature.
53 B. Ravikumar & Yuzhe Zhang (2009), Optimal Auditing and Taxation
in a Dynamic Model of tax compliance.
54 Braithwaite, V. (2001), A new approach to Tax compliance, the
Australian National University, Canberra
EC (2006), Risk management guide for tax administration 55
EC (2010), Compliance risk management guide for tax adimistration 56
IFCb(2016), Risk management teams, risk assessment- - 57
countries’experience.
58 John Brondolo, Carlos Silvani, Eric Le Borgne and Frank Bosch,
(2008), Tax Administration Reform and Fiscal Adjustment: The Case
of Indonesia.
59 John Brondolo and Zhiyong Zhang, (2016), Tax Administration
Reform in China: Achievements, Challenges, and Reform Priorities
60 Lars P.Feld and Bruno S.Frey (2007), Tax compliance as the Result of
a Psychological Tax Contract, The Role of Incentive and Responsive
Regulation, Law & Policy.
61 Margaret Cotton (2006), Sellecting cases for auditing.
62 Matthew Rablen – HM Revenue & Customs (2007), Enforcing Tax
Compliance: Audit Probability versus Audit Effectivensee.
63 Muwer Sultan Khwaja, Rajul Awasthi and Jan Loeprick (2011), Risk-
based audit: Approaches and countries experiences.
64 OECD (2004), Risks Management Complicance – Managing and
Improving Tax Compliance. Prepared by Forum on Tax
Administration Compliance Sub – Group
65 USAID (2018), Legal foundation and conditions for developing and
implementing tax compliance program.
66 World Bank (2007), VietNam tax administration Modernization
Project.
67 OECD (2009), Tax Administration in OECD and Selected Non
68 World Bank (2016), Organizational structure of the Risk Management
69 World Bank (2016), Large taxpayer compliance management.
1
PHỤ LỤC Phụ lục: 01 PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN CÁN BỘ THUẾ
VỀ VIỆC QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
□ Dưới 05 năm □ Từ 05 năm đến 10 năm □ Từ 10 năm trở lên
□ Công chức □ Lãnh đạo
□ Thanh tra - kiểm tra □ Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế □ Kê khai - kế toán thuế □ Tuyên truyền - hỗ trợ NNT □ Bộ phận khác
Tác giả nghiên cứu luận án kính mong anh (chị) cùng đánh giá việc thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam thời gian qua bằng cách trả lời các câu hỏi trong phiếu khảo sát dưới đây. Sự hợp tác của các anh (chị) sẽ giúp tác giả đưa ra các giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện công tác quản lý rủi ro trong quản lý thuế nói riêng và nâng cao hiệu quả quản lý thuế nói chung. Tác giả cam kết bảo mật thông tin và chỉ sử dụng Phiếu khảo sát này cho mục đích nghiên cứu. PHẦN I. THÔNG TIN NGƯỜI THAM GIA KHẢO SÁT Anh (chị) vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân dưới đây: 1. Số năm anh (chị) công tác: 2. Vị trí công việc anh (chị) đang công tác: 3. Bộ phận chức năng anh (chị) đang công tác:
2
□ Cần thiết □ Tương đối cần thiết □ Không cần thiết
□ Đầy đủ □ Tương đối đầy đủ □ Chưa đầy đủ
□ Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế □ Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế khác
□ Giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm
□ Tương đối phù hợp
PHẦN II. THỰC HIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ Anh (chị) vui lòng cho biết ý kiến của mình về các câu hỏi khảo sát dưới dây, mỗi câu hỏi xin chọn một đáp án. 1. Sự cần thiết quản lý rủi ro trong quản lý thuế đối với điều kiện nước ta hiện nay. 2. Các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định hiện hành đã đảm bảo hành lang pháp lý cho việc thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế? 3. Tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần điều chỉnh như thế nào cho phù hợp? giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm 4. Đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế đã được ban hành và thực hiện trong thời gian vừa qua? 4.1. Bộ chỉ số tiêu chí lựa chọn Người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở Người nộp thuế □ Phù hợp □ Tương đối phù hợp □ Chưa phù hợp với thực tế 4.2. Bộ tiêu chí, chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT. □ Phù hợp □ Chưa phù hợp với thực tế
3
□ Phù hợp
□ Tương đối phù hợp
□ Chưa phù hợp với thực tế
□ Tốt □ Tương đối tốt □ Chưa tốt □ Kém
□ Hiệu quả □ Tương đối hiệu quả □ Chưa hiệu quả
□ Nhanh □ Bình thường □ Chưa kịp thời
4.3. Bộ tiêu chí, chỉ số Phân tích thông tin đánh giá Người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn. 5. Việc thu thập và khai thác thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 6. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 7. Thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 8. Hiệu quả thực hiện quản lý rủi ro trong các nghiệp vụ quản lý thuế thời gian qua. 8.1. Việc thực hiện quản lý rủi ro trong triển khai các nghiệp vụ quản lý thuế.
□ Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế □ Chưa có tác dụng đáng kể □ Không có tác dụng
8.2. Chất lượng thực hiện quản lý rủi ro trong triển khai các nghiệp vụ quản lý thuế thời gian qua. □ Tốt □ Tương đối tốt □ Chưa tốt □ Kém
4
□ Hoàn thiện hệ thống pháp lý □ Hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh giá rủi ro □ Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…) □ Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế □ Thực hiện quản lý rủi ro một cách toàn diện trong tất cả các chức năng
□ Đề xuất khác
9. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế thời gian tới. quản lý thuế
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của các anh (chị)!
1
Phụ lục: 02 TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁN BỘ THUẾ VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ
I. Cơ cấu mẫu điều tra khảo sát cán bộ thuế
1. Số năm công tác của cán bộ tham gia khảo sát
Bảng 1: Số năm công tác của cán bộ tham gia khảo sát
STT Năm công tác của CBT Tỷ lệ Số lượng
1 Dưới 5 năm 2 Từ 5 đến 10 năm 3 Trên 10 năm
Tổng cộng 82 80 238 400 20.5% 20.0% 59.5% 100%
2. Vị trí công tác của cán bộ tham gia khảo sát
Bảng 2: Vị trí công tác của cán bộ tham gia khảo sát
STT Vị trí công tác Tỷ lệ Số lượng
1 2 102 298 25.5% 74.5%
Lãnh đạo quản lý Chuyên viên Tổng cộng 400 100%
2
3. Bộ phận chức năng của cán bộ tham gia khảo sát
Bảng 3: Bộ phận chức năng của cán bộ tham gia khảo sát
STT Vị trí công tác Tỷ lệ Số lượng
Tuyên truyền hỗ trợ NNT Kê khai và Kế toán thuế Thanh tra kiểm tra Quản lý nợ thuế Bộ phận khác 1 2 3 4 5
30 51 170 29 120 400 7,5% 12,75% 42,5% 7,25% 30% 100% Tổng cộng
3
Qua bảng 1,2, 3 và biểu đồ 1, 2, 3 cho thấy, trong tổng số 400 phiếu hợp lệ,
tỷ lệ người được hỏi công tác trên 10 năm trong ngành Thuế là 238 (chiếm
59,5%), từ 5 đến 10 năm là 80 người (chiếm 20%) , chỉ có 82 người dưới 5 năm
kinh nghiệm. Trong tổng số người trả lời có 24,5% giữ chức vụ lãnh đạo từ cấp
phòng trờ lên, còn lại là chuyên viên thuế. Trong đó, số người làm tại 4 chức
năng quản lý chính là 208 người (chiếm 70%), bộ phận khác là 120 người
(chiếm 30%).
II. Tổng hợp kết quả khảo sát về thực hiện QLRR trong quản lý thuế
1. Tổng hợp kết quả khảo sát về sự cần thiết thực hiện quản lý rủi ro
trong quản lý thuế
Bảng 4: Sự cần thiết thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế
Tỷ lệ
Stt 1 2 3
Sự cần thiết thực hiện QLRR trong QLT Số lượng 370 Cần thiết 30 Tương đối cần thiết 0 Không cần thiết 400 Tổng cộng 92.5% 7.5% 0.0% 100%
2. Tổng hợp kết quả khảo sát các văn bản quy phạm pháp luật và các
quy định hiện hành đã đảm bảo hành lang pháp lý để thực hiện quản lý
rủi ro trong quản lý thuế
Bảng 5: Văn bản quy phạm pháp luật đã đảm bảo hành lang pháp lý
Hành lang pháp lý
Đầy đủ Tương đối đầy đủ Chưa đầy đủ Stt 1 2 3
Tổng cộng Số lượng 73 283 44 400 Tỷ lệ 18.25% 70.75% 11.00% 100%
4
3. Kết quả khảo sát tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần
điều chỉnh cho phù hợp.
Bảng 6 : Tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần điều chỉnh cho
phù hợp.
Số lượng Tỷ lệ
Stt Tổ chức bộ máy tại Cục Thuế 1 Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế 117 29.25%
2 186 46.50%
Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế khác giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm
Giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm 3
24.25% 100% Tổng cộng 97 400
4. Kết quả khảo sát về việc đánh giá hệ thống tiêu chí, chỉ số phân
tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế đã được ban hành và áp dụng.
5
Bảng 7: Đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro
Người nộp thuế
STT Bộ tiêu chí Phù hợp Chưa phù hợp Tương đối phù hợp
1 120 256 24 Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở NNT
2 138 248 14 Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT
3 137 240 23
Bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn
6
5. Kết quả khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.
Bảng 8: Khảo sát khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro
Stt Khai thác thông tin Tốt, hiệu quả Chưa tốt, Chưa hiệu quả Tương đối tốt, tương đối hiệu quả
1 93 246 61 Thu thập và khai thác thông tin
2 Ứng dụng CNTT 129 237 34
7
6. Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.
Bảng 9: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.
Số lượng Tỷ lệ Stt Thời gian xây dựng, nâng cấp CNTT
Nhanh Bình thường Chưa kịp thời 106 238 56 1 2 3 26.5% 59.5% 14.0%
Tổng cộng 400 100%
8
7. Kết quả khảo sát về hiệu quả thực hiện quản lý rủi ro trong các
chức năng quản lý thuế thời gian qua
7.1 Kết quả khảo sát về tác dụng thực hiện quản lý rủi ro trong các
chức năng quản lý thuế thời gian qua
Bảng 10: Kết quả khảo sát về tác dụng thực hiện quản lý rủi ro
trong các chức năng quản lý thuế
Stt Số lượng Tỷ lệ Tác dụng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT
1 312 78%
2 3 Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế Chưa có tác dụng đáng kể Không có tác dụng
Tổng cộng 88 0 400 22% 0% 100%
7.2 Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện quản lý rủi ro trong các
chức năng quản lý thuế thời gian qua
Bảng 11: Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện QLRR
trong các chức năng quản lý thuế
Số lượng Tỷ lệ Stt Chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT
Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Kém 1 2 3 4
Tổng cộng 105 258 37 0 400 26.25% 64.50% 9.25% 0 100%
9
8. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong
quản lý thuế thời gian tới.
Bảng 12: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro
trong quản lý thuế
Stt Các giải pháp, kiến nghị Số lượng Tỷ lệ
1 94 23.50%
2 100 25.00% Hoàn thiện hệ thống pháp lý Hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh giá rủi ro
3 42 10.50% Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…)
4 62 15.50%
Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế
5 100 25.00%
Áp dụng quản lý rủi ro một cách toàn diện trong tất cả các chức năng quản lý thuế
6 Đề xuất khác 2 0.50%
Tổng cộng 400 100%
10