BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH --------------------

BÙI KHÁNH TOÀN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

TẠI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội - 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH --------------------

BÙI KHÁNH TOÀN

QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. NGUYỄN NGỌC TUYẾN

2. TS. NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2022

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án này là sự nghiên cứu độc lập của bản thân tôi,

số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa

từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông

tin trích dẫn trong luận án đều được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2022

Học viên

Bùi Khánh Toàn

ii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành bài luận án này, tôi đã nhận được sự quan

tâm giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đặc

biệt là thầy cô giáo hướng dẫn đã luôn theo dõi và tận tình giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình thực hiện bài viết.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Học viện Tài

chính đã hết lòng tận tụy, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu

trong suốt quá trình học tập tại trường.

Trong suốt quá trình thực hiện mặc dù đã cố gắng hết sức để hoàn thiện

luận án cũng như trao đổi, tiếp thu những ý kiến đóng góp của Quý thầy cô song

luận án không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp,

nhận xét của Quý thầy cô và bạn đọc để luận án được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2022

Học viên

Bùi Khánh Toàn

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................ iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH .......................................................... vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT .............................................. vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... viii

DANH MỤC HÌNH VẼ .......................................................................................... ix

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

QUẢN LÝ THUẾ .................................................................................................... 11

1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI .................................................... 11

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước ............................................... 11

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước ................................................ 20

1.1.3. Nhận xét chung ....................................................................................... 27

1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM........................................................................ 29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………………… ……. 33

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN

LÝ THUẾ ................................................................................................................ 34

2.1. QUẢN LÝ THUẾ VÀ RỦI RO VỀ THUẾ...................................................... 34

2.1.1. Khái niệm quản lý thuế .......................................................................... 34

2.1.2. Rủi ro về thuế ......................................................................................... 37

2.2. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ ............................................ 50

2.2.1. Khái niệm, nguyên tắc của quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............... 50

2.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............................................ 56

2.2.3. Quy trình quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............................................ 63

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong quản lý thuế ............... 68

iv

2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QLRR TRONG QLT VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM………………………………………………………………….. 73 2.3.1. Cần xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (TCP) khi thực

hiện QLRR trong QLT ..................................................................................... 73

2.3.2. Cần xây dựng khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng

TCP và hoàn thiện các quy định pháp lý về QLRR trong QLT ....................... 77

2.3.3. Cần xây dựng bộ phận chuyên trách về QLRR trong QLT được tổ chức

thống nhất từ trung ương đến địa phương. ...................................................... 78

2.3.4. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong QLT, xây dựng hệ thống thông

tin đầy đủ về NNT làm cơ sở cho việc phân loại NNT theo mức độ tuân thủ . 79

2.3.5. CQT thực hiện các biện pháp đa dạng thúc đẩy tuân thủ của NNT ...... 80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 84

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014 - 2020 ........................................................... 85

3.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 2014 – 2020 ................................................................................................... 85

3.1.1. Tình hình quản lý NNT .......................................................................... 85

3.1.2 Tình hình thu ngân sách .......................................................................... 86

3.1.3. Tình hình thực hiện quản lý thuế………………………………………89

3.2. THỰC TRẠNG QLRR TRONG QLT TẠI VIỆT NAM……………….. 91

3.2.1. Thực trạng xây dựng hành lang pháp lý……………………………….91

3.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy QLRR…………………………………….96

3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT .... 99

dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro...............................................99

3.2.3.1 Thực trạng xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT, hệ thống ứng

3.2.3.3 Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá RR và thực hiện QLRR trong

các chức năng LT……………………………………………………........................ 112

3.2.3.2 Thực trạng đánh giá mức độ tuân thủ của NNT..................................100

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN

LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2020 .............................................. 135

3.3.1. Kết quả đạt được................................................................................... 135

3.3.2. Hạn chế ................................................................................................. 142

3.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế .............................................................. 147

v

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 152

CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM ……………………………………………153 4.1. DỰ BÁO BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ MỤC TIÊU, YÊU CẦU

QLRR TRONG QLT TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025 ................................... 153

4.1.1. Dự báo tình hình kinh tế- xã hội ........................................................... 153

4.1.2. Mục tiêu, yêu cầu đối với QLRR trong QLT ....................................... 157

4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ

THUÊ...................................................................................................................... 159

4.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT ................................... 159

4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực ...................................... 164

4.2.3. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu NNT.............................................................169

4.2.4. Xây dựng chương trình QLRR tổng thể...............................................171

4.2.5. Hoàn thiện nội dung nghiệp vụ QLRR trong quản lý thuế .................. 176

4.2.6 Ứng dụng CNTT theo chuẩn quốc tế…………………………….... 178

4.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP ..................................... 186

4.3.1. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và cơ quan thuế .. 186

4.3.2. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc ........................ 187

4.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ thuế ......................................... 187

4.3.4. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT .......................................... 187

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 189

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 190

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

Tiếng Anh Tiếng Việt

Từ viết tắt EC European Commission Uỷ Ban Châu Âu

EU European Union Cộng đồng chung Châu Âu

FTA Free Trade Agreements Hiệp định Thương mại tự do

OECD Organisation for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation and kinh tế

Development

CPTPP Comprehensive and Hiệp định đối tác toàn diện và

Progressive Agreement for tiến bộ xuyên Thái Bình

Trans-Pacific Partnership Dương

UN United Nations Liên Hợp quốc

WTO World Trade Organisation Tổ chức Thương mại Thế giới

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT

Từ viết tắt Từ gốc

CNTT Công nghệ thông tin

CQT Cơ quan thuế

CSDL Cơ sơ dữ liệu

GTGT Giá trị gia tăng

NNT Người nộp thuế

Ngân sách nhà nước NSNN

Quản lý rủi ro QLRR

QLT Quản lý thuế

TNCN Thu nhập cá nhân

TNDN Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB Tiêu thụ đặc biệt

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Thống kê NNT giai đoạn 2014-2020 .............................................. 85

Bảng 3.2. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020 ..... 86

Bảng 3.3. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020 ..... 88

Bảng 3.4. Kết quả khảo sát về thu nhập và khai thác thông tin, ứng dụng

CNTT phục vụ QLRR ................................................................... 108

Bảng 3.5. Thống kê kết quả thanh tra thuế giai đoạn 2014 - 2020 ............... 119

Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra thuế giai đoạn 2014-2020 ................. 119

Bảng 3.7. Tổng hợp DN rủi ro cao về thuế giai đoạn 2014- 2020……….128

Bảng 3.8: Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích

mức độ rủi ro NNT……………………………………………………… 131

Bảng 3.9. Kết quả khảo sát về tác dụng QLRR đối với công tác quản lý thuế.

....................................................................................................................... 141

Bảng 3.10: Kết quả khảo sát về chất lượng công tác QLRR trong quản lý

thuế ................................................................................................................ 141

Bảng 4.1: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR trong quản lý

thuế……………………………....................... .........................................185

ix

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Hình 2.1 Ma trận QLRR .................................................................................. 67

Hình 2.2: Mô hình tuân thủ của NNT……………………………………….73

Hình 2.3: Các bước xây dựng TCP………………………………………….74

Hình 3.1. Mô hình CSDL và các giao thức trao đổi thông tin ...................... 101

Hình 3.2. Mô hình hệ thống ứng dụng ngành thuế…………………………106

Hình 3.3. Phân tích, tính điểm rủi ro……………………………………….117

Hình 3.4.Tổng quan quy trình nghiệp vụ ...................................................... 117

Hình 4.1. Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo kiến trúc tổng thể ......... 179

Hình 4.2.Học máy ......................................................................................... 181

Hình 4.3. Học máy có giám sát…………………………………………….182

Hình 4.4.Quy trình CRISP-DM .................................................................... 183

Hình 4.5. Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM) ...... 183

Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về đảm bảo hành lang pháp lý ........................ 95

Biểu đồ 3.2: Kết quả khảo sát đánh giá về các bộ tiêu chí phân tích mức độ rủi

ro Người nộp thuế ......................................................................................... 108

Biểu đồ 3.3: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT ........ 109

Biểu đồ 3.4: Kết quả khảo sát đánh giá các bộ tiêu chí phân tích mức độ rủi ro

NNT ............................................................................................................... 131

Biểu đồ 3.5: Kết quả khảo sát về chất lượng quản lý rủi ro trong quản lý thuế

....................................................................................................................... 141

Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT

....................................................................................................................... 185

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển kinh tế, sự lớn mạnh của doanh nghiệp và hộ

kinh doanh, quy mô số thu thuế trong tổng thu NSNN tại Việt Nam ngày càng

tăng. Theo số liệu của Tổng Cục thuế, kết quả thu NSNN do cơ quan thuế

quản lý hàng năm (không bao gồm thu từ thoái vốn) trong 5 năm gần nhất giai

đoạn 2016-2020 đạt 5.658.112 tỷ đồng, tăng gấp 1,7 lần so với giai đoạn

2011-2015. Tỷ lệ huy động thu NSNN bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020

đạt 25,2% GDP (mục tiêu 23,5% GDP), trong đó huy động từ thuế, phí xấp xỉ

21% GDP.

Nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng và sự phát triển của kinh tế thị

trường đã kéo theo sự gia tăng về số lượng, cũng như quy mô hoạt động sản

xuất kinh doanh của NNT. Theo số liệu của Tổng cục Thuế, nếu như năm

2010, ngành thuế thực hiện quản lý 429.868 doanh nghiệp với số thu khoảng

423.570 tỷ đồng thì đến năm 2020, số lượng doanh nghiệp cần quản lý lên

đến 810.000 và khoảng trên 23 triệu hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, với số

thu thuế khoảng 1.295.645 tỷ đồng; số lượng NNT và nhiệm vụ thu ngân sách

của ngành Thuế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong giai đoạn

tới. Với số lượng công chức ngành thuế hiện nay khoảng 44.000 người, thì

trung bình mỗi công chức thuế phải quản lý khoảng 540 NNT. Tình trạng

NNT kê khai gian lận thuế, nợ thuế diễn ra khá phổ biến. Theo Báo cáo của

Kiểm toán nhà nước, năm 2019 qua thực hiện đối chiếu thuế 3.171 doanh

nghiệp ngoài nhà nước tại 49 địa phương đã xác định nộp NSNN tăng thêm

1.635 tỷ đồng tại 2.921 doanh nghiệp (chiếm 92,1% doanh nghiệp đối chiếu).

Với nguồn nhân lực có hạn, trong khi số lượng NNT rất lớn, hoạt động đa

dạng đòi hỏi CQT phải đổi mới công tác QLT, tập trung nguồn lực quản lý

các đối tượng NNT rủi ro cao về thuế.

Bên cạnh đó, áp lực ngày càng tăng từ Chính phủ và cộng đồng doanh

2

nghiệp trong việc cải cách thể chế, thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ

trong thực hiện nghĩa vụ thuế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi,

công bằng, minh bạch cũng đòi hỏi cơ quan thuế Việt Nam phải đổi mới tư duy

phát triển, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách, hiện đại hóa QLT, ứng dụng

công nghệ thông tin, thực hiện phương pháp quản lý thuế tiên tiến nhằm

khuyến khích thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của NNT, cơ quan

thuế chỉ tập trung nguồn lực nhằm đưa ra các biện pháp quản lý đối với các

trường hợp không tuân thủ.

Trong bối cảnh trên, thực hiện Quản lý rủi ro trong QLT được coi là

giải pháp quan trọng nhất và là xu thế tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả QLT.

Thời gian qua, cơ quan thuế Việt Nam đã thực hiện cải cách, hiện đại hoá

một cách toàn diện và đạt được những bước tiến quan trọng cả về thể chế chính

sách, phương pháp quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và ứng dụng công

nghệ thông tin. Trong đó, việc triển khai phương pháp QLRR là một bước tiến

quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại vào

QLT. Phương pháp QLRR được ngành Thuế Việt Nam bước đầu thực hiện từ

năm 2010 đối với chức năng thanh tra, kiểm tra thuế và được xác định là

hướng đi đúng đắn trong quá trình hiện đại hóa ngành Thuế. Hiện nay,

phương pháp QLRR được mở rộng sang các chức năng khác của QLT và

được chính thức luật hoá tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản

lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 và tiếp tục được hoàn thiện bổ

sung quy định cụ thể hơn tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày

13/6/2019.

Qua hơn 10 năm nghiên cứu và thực hiện QLRR trong QLT, ngành

Thuế đã đạt được những kết quả quan trọng: Đã kiến nghị xây dựng và hoàn

thiện được hành lang pháp lý khá toàn diện để thực hiện QLRR trong QLT;

Xây dựng và hình thành kho cơ sở dữ liệu thông tin về NNT; Các quy trình

nghiệp vụ quản lý thuế đã được định hướng xây dựng dựa trên nguyên tắc

QLRR và ứng dụng CNTT; Bộ tiêu chí QLRR trong một số chức năng QLT

3

đã được xây dựng và triển khai thực hiện; QLRR đã từng bước thâm nhập

sâu, rộng làm thay đổi cơ bản phương thức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ

của cán bộ, công chức trong toàn ngành thuế; Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công

chức tại CQT các cấp được nâng cao nhận thức về nguyên tắc, quyền hạn và

trách nhiệm trong việc thực hiện QLRR, năng lực phân tích kinh tế và chuyên

môn nghiệp vụ thích ứng với cơ chế QLT hiện đại…

Tuy nhiên, QLRR trong QLT ở Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn

chế: Hành lang pháp lý về QLRR chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, một số

nội dung chưa được hướng dẫn cụ thể; Khung mô hình QLRR tổng thể

chung trong QLT toàn ngành chưa hoàn thiện và đồng bộ; Việc thu thập,

khai thác thông tin NNT phục vụ cho phân tích, đánh giá rủi ro còn chưa

tập trung, thống nhất; sự kết nối giữa các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ

QLT chưa thật sự rõ ràng; cơ sở dữ liệu thông tin, sự phối hợp trao đổi

thông tin với các ban ngành còn hạn chế; Hệ thống quy trình nghiệp vụ

QLT chưa thực sự liên thông, tích hợp đáp ứng yêu cầu QLRR ở tất cả các

chức năng QLT, khả năng tự động hóa trong hoạt động phân tích, đánh giá

rủi ro trên cơ sở ứng dụng CNTT còn thấp; Cơ cấu tổ chức bộ máy cũng

như việc trao quyền và trách nhiệm thực hiện QLRR chưa phù hợp; Năng

lực của một bộ phận cán bộ thuế chưa theo kịp yêu cầu của phương pháp

QLRR dẫn đến sự chồng chéo, kém hiệu quả trong công tác QLT…

QLRR trong QLT đã trở thành xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay

cũng như thời gian tới. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các

vấn đề lý luận về QLRR trong QLT từ đặc điểm, nội dung, cách thức, trình tự

thực hiện, các nhân tố ảnh hưởng… để có thể thực hiện hiệu quả nhất trong

thực tiễn quản lý. Cùng với đó, cần phân tích, đánh giá thực trạng QLRR

trong QLT tại Việt Nam trong thời gian qua, xác định những thành công cần

tiếp tục phát huy, cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân để đưa ra

các giải pháp nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian

tới, nâng cao hiệu quả QLT trong điều kiện mới. Các vấn đề cần nghiên cứu

4

nêu trên cũng đã được nhiều công trình nghiên cứu và đạt được một số kết

quả nhất định, có tính ứng dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn những

khoảng trống cả về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu một cách tổng

thể, toàn diện và chuyên sâu về QLRR trong QLT tại Việt Nam đặt trong bối

cảnh kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm

2030.

Xuất phát từ những lý do trên, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu luận án

tiến sĩ: “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam” có ý nghĩa quan

trọng cả về lý luận và thực tiễn, mang tính thời sự. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của Luận án là đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện

QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới, đến năm 2025 và tầm nhìn

đến năm 2030.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ

thể của Luận án bao gồm:

Một là, Hệ thống hóa, bổ sung, phát triển các cơ sở lý luận về QLRR

trong QLT, làm sáng tỏ những nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT, xây

dựng tiêu chí và tập hợp cơ sở dữ liệu để đánh giá mức độ rủi ro trong QLT.

Hai là, Nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm QLRR trong QLT của một số

nước để rút ra các bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Ba là, Phân tích thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn

2014-2020, đánh giá những kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân chủ

yếu của hạn chế đó.

Bốn là, Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt

Nam giai đoạn tới đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030 phù hợp với Chiến lược

cải cách hệ thống thuế Việt Nam.

3. Câu hỏi nghiên cứu

5

Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án tập

trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Nội dung chủ yếu và quy trình thực hiện QLRR trong QLT là gì?

Những nhân tố chủ yếu nào ảnh hưởng đến QLRR trong QLT?

- Kinh nghiệm về QLRR trong QLT của các quốc gia trên thế giới và bài

học rút ra nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới

là gì?

- Những kết quả đạt được, hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của QLRR

trong QLT tại Việt Nam thời gian qua là gì?

- Các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam

trong thời gian tới và điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp đó là gì?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận án là QLRR trong QLT tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về tiếp cận đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung vào nghiên cứu

QLRR trong QLT thuộc lĩnh vực CQT quản lý, không bao gồm lĩnh vực QLT

của cơ quan hải quan. Ngoài ra, luận án chỉ nghiên cứu về QLRR trong các

nghiệp vụ QLT của cơ quan thuế (bao gồm QLRR các rủi ro trong hoạt động

quản lý của cơ quan thuế và rủi ro trong hoạt động tuân thủ pháp luật thuế của

NNT). Luận án không nghiên cứu về: (i) rủi ro trong việc hoạch định, xây

dựng chính thuế và (ii) QLRR trong việc hoạch định, xây dựng chính sách

thuế.

- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng QLRR trong

QLT của CQT tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm QLRR trong QLT

của các nước thuộc OECD và EU (như Úc, Bulgaria, Ba Lan, Lithuania, Anh,

Hà Lan...), của một số nước ASEAN, châu Phi là Singapor, Malaixia, Thái

Lan và Nam Phi…

- Về thời gian: Thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam được Luận án

nghiên cứu trong giai đoạn 2014-2020. Kinh nghiệm QLRR trong QLT của

6

một số quốc gia trên thế giới, luận án tập trung nghiên cứu trong giai đoạn

thực hiện cụ thể của từng quốc gia. Các giải pháp đề xuất hoàn thiện QLRR

trong QLT tại Việt Nam trong giai đoạn tới, đến năm 2025, tầm nhìn đến năm

2030.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:

Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương

pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử.

- Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng để nhận thức bản chất

của hiện tượng kinh tế xã hội. Đối tượng nghiên cứu QLRR trong QLT tại

Việt Nam được đặt trong bối cảnh luôn vận động và phát triển, có các mối

liên hệ chặt chẽ biện chứng, từ đó cho cái nhìn khách quan về các yếu tố bên

trong và bên ngoài tác động đến QLRR trong QLT tại Việt Nam những năm

qua. Việc đưa ra được cái nhìn thống nhất dựa trên luận cứ khoa học góp phần

hiện thực hóa các giải pháp tổ chức thực hiện QLRR trong QLT phù hợp điều

kiện cụ thể theo từng giai đoạn của Việt Nam.

- Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng khi đặt đối tượng nghiên

cứu QLRR trong QLT tại Việt Nam đặt trong bối cảnh cụ thể của giai đoạn

2014-2020 theo các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quan điểm,

định hướng đối với hoạt động QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng.

Việc kiểm chứng, phân tích, đánh giá được thực hiện bám sát theo bối cảnh,

chủ trương, chính sách, quan điểm, định hướng cụ thể đó, đồng thời vận dụng

quan điểm phát triển để đưa ra các định hướng, giải pháp cho hoạt động này

trong tương lai.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Nghiên cứu sinh đã thu thập

tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật; các

báo cáo, đề án của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế; các Đề án, công trình nghiên

cứu cấp Bộ, cấp Tổng cục Thuế ; Luận án Tiến sỹ, các bài báo khoa học, các bài

7

báo thời sự trong nước và nước ngoài... có liên quan đến vấn đề QLRR trong

QLT. Các tài liệu này đã được nghiên cứu sinh xử lý thông tin để:

+ Hệ thống hóa được những kết quả đã được nghiên cứu trước đây, phát

hiện được những vấn đề đã được đồng thuận, những điểm còn có ý kiến khác

nhau, khoảng trống cần nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu, tìm ra điểm mới của

vấn đề.

+ Tìm kiếm các căn cứ khoa học và số liệu minh chứng làm cơ sở cho

việc hình thành các luận điểm, luận cứ, luận chứng cả về mặt lý thuyết và

thực tiễn;

+ Đưa ra kết luận theo cách tiếp cận riêng.

5.2.2 Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định trong hệ

thống pháp luật của Việt Nam với các quy định của OECD và một số quốc gia

khác về mô hình tổ chức, mô hình quản lý và phương pháp/kinh nghiệm

QLRR trong QLT và các vấn đề khác liên quan, từ đó xem xét thực trạng của

Việt Nam và nêu đề xuất riêng.

5.2.3 Phương pháp phân tích, thống kê: trên cơ sở các thông tin, tình hình,

số liệu thu thập được từ các Báo cáo tổng kết công tác thuế của ngành thuế

các năm; các số liệu tổng hợp được từ thực tiễn công tác tại Ban QLRR Tổng

cục Thuế; số liệu từ thực tiễn QLT tại các Cục thuế… nghiên cứu sinh thực

hiện việc thống kê, phân tích, đánh giá để có những cách nhìn toàn diện, cụ

thể về thực trạng QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng theo các nội

dung QLT. Trên cơ sở đó, đối chiếu với những vấn đề lý luận liên quan,

nghiên cứu sinh đánh giá, chỉ ra những thành công, những hạn chế và nguyên

nhân cụ thể để làm căn cứ đề xuất các giải pháp theo mục tiêu của luận án.

5.2.4 Phương pháp điều tra, khảo sát:

Luận án sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin về thực trạng QLRR

trong quản lý thuế, các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả QLRR trong QLT tại

Việt Nam. Cụ thể như sau:

Hệ thống số liệu và phương pháp khảo sát, thu thập số liệu

8

Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên cơ sở tổng hợp từ các lý thuyết và

các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước có liên quan. Kết cấu bảng

câu hỏi được chia thành 3 nội dung: (i) Thu thập thông tin chung về đối tượng

được khảo sát; (ii) Thu thập các thông tin về thực trạng QLRR trong QLT tại

Việt Nam; (iii) Thu thập các thông tin cơ bản về quan điểm, đề xuất giải pháp

nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam.

Khảo sát thực tế: NCS thực hiện khảo sát đối tượng thông qua bảng hỏi.

Bảng hỏi được thiết kế trên https://docs.google.com/forms và gửi đến 500

đối tượng.

Thu thập dữ liệu: Kết quả số lượng bảng hỏi thu thập được 411 bảng hỏi

được trả lời được nhập vào bảng tính Excel.

Làm sạch dữ liệu: Loại bỏ các trường hợp trả lời không phù hợp (ví dụ:

trả lời cùng một mức độ cao nhất hoặc thấp nhất ở tất cả các mục hỏi; trả lời

giữa các mục hỏi có sự đối nghịch, mâu thuẫn bất thường, ..). Kết quả đã loại

bỏ 11 bảng hỏi, còn lại 400 (=411-11) bảng hỏi được đưa vào phân tích. Như

vậy, với quy mô mẫu phân tích là 400 đủ tính tin cậy.

Mô tả mẫu nghiên cứu: Mẫu thu thập được tiến hành phân loại theo nhóm

bằng các kỹ thuật thống kê mô tả như đề cập phần dưới đây

9

Bảng 1: Cơ cấu mẫu điều tra

Tiêu thức Số lượng Tỷ lê

Dưới 5 năm 82 20,5%

Số năm công tác Từ 5 đến 10 năm 80 20%

Trên 10 năm 238 59,5%

Vị trí công tác Lãnh đạo quản lý 102 24,5%

Chuyên viên 298 74,5%

Bộ phận chức năng Tuyên truyền hỗ trợ NNT 30 7,5%

đang công tác Kê khai và Kế toán thuế 51 12,75%

Thanh tra kiểm tra 170 42,5%

Quản lý nợ thuế 29 7,25%

Bộ phận khác 120 30%

400 100% Tổng số

Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra của NCS

Bảng số 1 cho thấy, trong tổng số 400 phiếu hợp lệ, tỷ lệ người được hỏi

công tác trên 10 năm trong ngành Thuế là 238 (chiếm 59,5%); từ 5 đến 10

năm là 80 người (chiếm 20%); chỉ có 82 người dưới 5 năm kinh nghiệm.

Trong tổng số người trả lời có 24,5% giữ chức vụ lãnh đạo từ cấp phòng trờ

lên, còn lại là chuyên viên thuế. Trong đó số người làm tại 4 chức năng quản

lý chính là 208 người (chiếm 70%); bộ phận khác là 120 người (chiếm 30%).

Các câu trả lời được tập hợp theo từng nhóm và được sử dụng để minh

họa thêm cho các phân tích đánh giá nhận xét của Luận án.

6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn và đóng góp mới của Luận án

- Ý nghĩa khoa học: Luận án nghiên cứu bổ sung, phát triển khung lý

thuyết về QLRR trong QLT như: (i) Khái niệm, Các hình thức rủi ro trong

QLT; (ii) Nội dung QLRR trong QLT; (iii) Quy trình QLRR trong QLT; (iv)

Các nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT.

Những đóng góp về lý luận này tiếp tục củng cố thêm kết luận của các

10

nhà khoa học trước đây về bản chất hoạt động QLRR trong QLT, những nhân

tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT. Khung lý thuyết mà luận án bổ sung,

phát triển có thể làm cơ sở lý luận để các nghiên cứu khác tham khảo hoặc

giúp các nhà quản lý có góc nhìn toàn diện hơn về phương pháp QLT, từ đó

thiết kế tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ nhằm phẩn bổ nguồn lực hợp lý

và tập trung thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Một là, Luận án nghiên cứu thực trạng QLRR trong QLT ở một số quốc

gia trên thế giới, tạo cơ sở thực tiễn quan trọng qua các bài học rút ra để thực

hiện QLRR trong QLT phù hợp với điều kiện cụ thể tại Việt Nam.

Hai là, Luận án đã phân tích thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam

giai đoạn 2014-2020, đánh giá được các kết quả đạt được, các hạn chế và

nguyên nhân chủ yếu.

Ba là, Luận án đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện QLRR

trong QLT tại Việt Nam trên góc độ: (i) Hoàn thiện khung pháp lý, tổ chức bộ

máy để QLRR trong QLT; (ii) Hoàn thiện các nội dung, quy trình, cách thức

thực hiện nghiệp vụ QLRR trong QLT; (iii) Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ

thống ứng dụng CNTT phục vụ QLRR; (iv) Xây dựng chương trình QLRR

tuân thủ tổng thể… Các giải pháp đưa ra sẽ góp phần hoàn thiện và thực hiện

thành công công cuộc hiện đại hóa QLT ở Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận án

gồm có 4 chương, bao gồm:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Chương 2: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Chương 3: Thực trạng quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam

Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt

Nam

11

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước

QLT nói chung, QLRR trong QLT nói riêng luôn là các nội dung nhận

được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý ở các quốc gia, các

tổ chức quốc tế. Các công trình nghiên cứu về các nội dung này được thể hiện

ở nhiều hình thức khác nhau như các bài báo, các đề tài, các sổ tay hướng dẫn

được đúc rút ra từ kinh nghiệm quản lý trong thực tiễn… Có thể kể đến một

số công trình tiêu biểu liên quan đến QLT và QLRR trong QLT ở nước ngoài

sau đây:

a. Các công trình nghiên cứu liên quan đến QLT

(1) John Brondolo, Carlos Silvani, Eric Le Borgne and Frank Bosch,

(2008), “Tax Administration Reform and Fiscal Adjustment: The Case of

Indonesia”.

Đây là công bố của IMF Working Papers nghiên cứu cải cách thuế ở

Indonesia giai đoạn 2001-2008. Trong đó, nghiên cứu đánh giá tầm quan

trọng của quy trình QLT và cải cách quy trình QLT nhằm cải thiện môi

trường kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ của NNT. Cải cách quy trình QLT

chuyển hướng mạnh từ quy trình quản lý theo các sắc thuế sang quy trình

quản lý theo chức năng quản lý và đối tượng quản lý như: tiếp nhận kê khai,

nộp hồ sơ thuế, dịch vụ hỗ trợ khai thuế, thanh toán thuế, thanh tra, kiểm tra

thuế, giải quyết khiếu nại về thuế và tuyên truyền nghĩa vụ, pháp luật thuế

theo từng đối tượng NNT có quy mô lớn, vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, nghiên

cứu cũng đề xuất quy trình quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ trong quản lý thuế.

Tuy nhiên, nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các khuyến

nghị để đổi mới cơ chế QLT chuyển từ quản lý theo sắc thuế sang cơ chế

12

QLT theo chức năng, chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn đầu cải cách QLT theo cơ

chế tự khai, tự nộp thuế.

(2) John Brondolo and Zhiyong Zhang, (2016), “Tax Administration

Reform in China: Achievements, Challenges, and Reform Priorities”.

Đây là công bố của IMF Working Papers nghiên cứu về cải cách cơ cấu

tổ chức của Cơ quan thuế nhà nước Trung Quốc (SAT). Trong 20 năm qua,

SAT đã thực hiện cải cách và phát triển với các bộ phận mới được tạo ra để

thực hiện những mục tiêu ưu tiên trong QLT. Năm 2008, SAT tạo ra Cục hỗ

trợ NNT và Cục doanh nghiệp lớn nhằm cải thiện các chương trình hỗ trợ

NNT và tăng cường sự quản lý của nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp

vừa và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, các cá nhân có tài sản lớn. Nghiên cứu

cũng chỉ ra chức năng, trách nhiệm quản lý ngày càng được chuyên môn hóa

giữa các bộ phận của SAT. Đặc biệt, việc xây dựng chiến lược hiện đại hóa

của SAT tạo ra cơ hội và nhu cầu cho SAT xem xét, cải cách cơ cấu tổ chức

hiện tại, nhằm đạt được sự gắn kết và vận hành hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở các khuyến nghị về tổ chức bộ

máy QLT nhằm chuyên môn hóa trong việc QLT, thực hiện việc QLT theo

chức năng; Các nghiệp vụ cụ thể liên quan đến việc QLT theo chức năng

không được nghiên cứu sâu.

(3) OECD, (2010), “Phân nhóm tuân thủ doanh nghiệp vừa và nhỏ -

Nghiên cứu liên quan đến hiểu và tác động tới hành vi tuân thủ của NNT”

Công trình này tập trung vào nhóm đối tượng nghiên cứu là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, từ việc phân tích các hành vi tuân thủ về thuế. Việc xem

xét hành vi NNT dựa trên xác định tầm quan trọng của các quy tắc xã hội và

quy tắc cá nhân trên phạm vi của một đất nước. Việc đánh giá xếp hạng lòng

tin của NNT với quốc gia sinh sống (Chính phủ, CQT hay các cơ quan khác

liên quan…).

Nghiên cứu đánh giá khảo sát khi áp dụng các biện pháp trong việc thực

thi tính tuân thủ NNT ở các khu vực địa lý khác nhau như: Hà Lan, Canada,

13

Thụy Điển... trước khi đưa ra các khuyến nghị chung trong nghiên cứu hành

vi tuân thủ của NNT.

Công trình cũng tập trung xem xét, đánh giá các yếu tố kinh tế tác động

đến hành vi tuân thủ của NNT. Từ những đánh giá đó, nhóm nghiên cứu kiến

nghị các biện pháp đánh giá hành vi không tuân thủ, biện pháp xử lý qua tác

động thanh tra, kiểm tra thường xuyên hay ngẫu nhiên đối với NNT.

Ở công trình này, đối tượng nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu

hành vi tuân thủ, hành vi không tuân thủ của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ

chứ chưa bao quát toàn bộ khối doanh nghiệp. Các biện pháp xử lý kiến nghị

cũng chỉ tập trung vào nhóm đối tượng này mà chưa bao quát hết được về

QLRR, QLRR tuân thủ đối với tất cả các doanh nghiệp.

(4) Cơ quan chuyên trách về thuế và hải quan Anh (HMRC), (2011),

“Nghiên cứu tiêu điểm quốc tế về thuế”.

Trong nghiên cứu này, phạm vi nghiên cứu đánh giá được HMRC hợp

tác với rất nhiều nước khác nhau. Nó bắt nguồn từ thành công trong một

nghiên cứu triển khai ở Úc và Nam Phi năm 2009.

Nghiên cứu được xem xét trên 10 tiêu điểm cơ bản về: Chi phí chất lượng

của trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện thoại; chi phí và thời gian thực hiện

thuế TNCN; chi phí đăng ký thuế GST/VAT; chi phí và tính hiệu quả của việc

đánh giá rủi ro thuế GST/VAT; chi phí và hiệu quả của thanh tra thuế thuế thu

nhập doanh nghiệp (CIT) của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ (SME); Thời

gian giải quyết các vấn đề phức tạp; Hiệu quả và hiệu suất của quản lý nợ; Chi

phí và hiệu quả về giải quyết tranh chấp thuế TNCN (PIT).

Sau khi phân tích đánh giá các khía cạnh cụ thể nêu trên, nhóm nghiên

cứu đã giúp các CQT căn cứ nguồn lực và thực trạng của cơ quan mình xem

xét, nghiên cứu và đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp.

Tương tự các công trình nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu của

công trình này chỉ thực hiện tại CQT Anh. Cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý

doanh nghiệp tại Anh cũng còn nhiều khác biệt so với CQT Việt Nam. Đặc

14

điểm doanh nghiệp, mô hình kinh doanh và kinh tế xã hội cũng khác biệt so

với điều kiện doanh nghiệp tại Việt Nam.

b. Các công trình nghiên cứu liên quan đến QLRR trong QLT

(5) Chính phủ Úc, (2003), “Nghiên cứu chương trình tuân thủ 2003-04”.

Đây là một công trình nghiên cứu mô tả những rủi ro và cách thức các

nguồn lực của CQT Úc được dùng để xử lý những rủi ro này.

NNT được phân thành 05 nhóm: cá nhân, DN cực nhỏ, DN nhỏ đến vừa,

DN lớn, Tổ chức phi lợi nhuận và tổ chức nhà nước. CQT tạo điều kiện dễ

dàng cho mọi người hiểu và chấp hành các nghĩa vụ thuế và đảm bảo có biện

pháp nhằm tối đa hóa số NNT chọn cách tuân thủ.

Hệ thống quản lý thuế của Úc dựa trên cơ sở trợ giúp và giáo dục để hỗ

trợ NNT tự khai, tự nộp thuế. CQT thực hiện nhiều hoạt động về tuân thủ, từ

việc xác minh thông tin được cung cấp cho đến việc tiến hành các cuộc thanh

tra, kiểm tra thuế phức tạp và có những hành động thích hợp trong trường hợp

phát hiện các hành vi cố ý không tuân thủ. Ngoài ra, CQT cũng liên tục theo

dõi các kết quả thu dự kiến và những thay đổi lớn đối với hệ thống thuế để xác

định những rủi ro mới xuất hiện. Điều này có nghĩa là, CQT có thể tiến hành rà

soát, điều tra trước khi các tờ khai, các mẫu liên quan được nộp hay phát hành

thông báo thuế. CQT cũng chủ động trao đổi về các lĩnh vực rủi ro và đáng quan

tâm để người dân có thể hiểu được quan điểm và có thể dự báo được phản ứng

của CQT.

Mô hình tuân thủ hướng dẫn CQT tìm hiểu nguyên nhân người dân

không tuân thủ và cần xây dựng các biện pháp thích hợp tương xứng. Mục

tiêu nền tảng là xây dựng các phản ứng làm tối đa hóa tỷ lệ người dân trong

cộng đồng vừa có khả năng tuân thủ, vừa chọn cách tuân thủ nghĩa vụ thuế.

Nghiên cứu chỉ ra những biện pháp quản lý CQT thực hiện tương ứng

với những rủi ro họ phát hiện ra. Biện pháp áp dụng bao gồm cả những biện

pháp cưỡng chế thấp nhất đối với những người cố tình tìm cách trốn tránh

nghĩa vụ của mình. Cụ thể:

15

- Nhóm doanh nghiệp cực nhỏ: Nhóm này chiếm 10% tiền thuế liên bang

và khoản 60% số thuế nợ mà CQT thu được. Các doanh nghiệp cực nhỏ không

có chuyên gia kế toán nội bộ, tốc độ thay thế khá cao và thường xuyên được

chuyển nhượng. Phương pháp tuân thủ cho nhóm này đặt trọng tâm vào việc

giúp đỡ, giáo dục để họ nhận thức được nghĩa vụ về thuế và tự giác tuân thủ.

Ngoài ra, để đảm bảo doanh nghiệp cực nhỏ được tư vấn về nghĩa vụ lưu giữ

hồ sơ, kê khai đúng thu nhập, CQT Úc dự kiến tăng sự xuất hiện của CQT và

hỗ trợ đại lý về thuế, mục tiêu kiểm tra việc tuân thủ 10% doanh nghiệp.

- Nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nhóm này chiếm khoản 10% tiền thuế

của Liên bang. Phương pháp tuân thủ cho nhóm này là một chương trình hoạt

động liên tục để đảm bảo NNT thực hiện các nghĩa vụ thuế cơ bản (đăng ký,

nộp tờ khai, nộp thuế và đề nghị hoàn thuế); Phân tích và theo dõi thông tin

thu được từ báo cáo hoạt động, tờ khai và các nguồn thông tin trong và ngoài

khác nhằm xác định được các rủi ro về tuân thủ khác.

Trọng tâm chương trình tuân thủ đưa ra: Kiểm tra việc đăng ký, kê khai

và hoàn thuế; Đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế; Cải cách thuế đánh

vào doanh nghiệp…Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này là

hoạt động QLT tại Úc, thời gian nghiên cứu từ năm 2003 nên một số phương

pháp không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Nghiên cứu chưa chỉ ra

được hiệu quả phòng ngừa của việc tuân thủ tích cực, các biện pháp QLRR

đưa ra tại thời điểm hiện tại đôi khi không còn phù hợp hoặc đã được thay thế

bằng các mục tiêu chiến lược khác.

(6) Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), (2004), “Sổ tay hướng

dẫn QLRR tuân thủ: Quản lý và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế”.

Công trình nghiên cứu hoạt động QLT đối với là các doanh nghiệp nhỏ,

trong đó, việc giám sát tuân thủ pháp luật thuế tập trung chủ yếu vào 4 lĩnh

vực: đăng ký thuế, kê khai, báo cáo và nộp thuế. Về QLRR trong QLT,

nghiên cứu phân tích từ xác định bối cảnh, nhận diện rủi ro, đánh giá phân

loại rủi ro theo thứ tự ưu tiên, phân tích hành vi tuân thủ, xác định các chiến

16

lược thực thi tuân thủ, thực hiện áp dụng chiến lược và có đánh giá kết quả

thực hiện.

Nhận diện rủi ro cần hiểu được một cách tổng quát tất cả các khía cạnh liên

quan đến rủi ro, gồm nhận diện rủi ro chiến lược, rủi ro hoạt động, rủi ro có tính

chất giống nhau hay việc sử dụng các chỉ số liên quan để nhận diện rủi ro.

Đánh giá và phân đoạn rủi ro theo thứ tự ưu tiên đưa ra danh sách các

rủi ro đã được định lượng cụ thể và ưu tiên theo khả năng các rủi ro, quy trình

hệ quả. Việc lập tài liệu ưu tiên giúp tổ chức tuân thủ hình thành nên chương

trình tuân thủ cho năm hoạt động có hiệu quả.

Phân tích hành vi tuân thủ giúp đưa ra các chiến lược được xử lý phù hợp

từ đó có thể xử lý chung ý thức tuân thủ ở tất cả các cấp mô hình tuân thủ.

Chiến lược thực thi tuân thủ đưa ra những hành động tương ứng với mức

độ tuân thủ, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT muốn tuân thủ tốt và có các biện

pháp áp dụng phù hợp đối với NNT không tuân thủ. Xây dựng một chương

trình công bằng, hành động minh bạch tại mọi thời điểm nhằm đảm bảo công

bằng và phù hợp sẽ khuyến khích ý thức tuân thủ tự nguyện.

Lập kế hoạch đánh giá toàn diện để xem xét tiêu chí thành công và chỉ

số đo lường của kế hoạch tuân thủ đã thực hiện nhằm phát huy những điểm

tích cực và sửa đổi, bổ sung, ngăn chặn những hành vi ảnh hưởng tiêu cực của

kế hoạch tuân thủ tổng thể.

Các nội dung nghiên cứu đã đưa ra các bước công việc đầy đủ về QLRR

trong QLT. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này chỉ tập trung

vào nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ; các nội dung chủ yếu vẫn còn mang

tính chất lý thuyết, chưa đưa ra được hướng dẫn chi tiết cụ thể.

(7) Cục Thuế Nam Phi, (2004), “Nghiên cứu phân tích về cách tiếp

cận tuân thủ của CQT trên cơ sở lựa chọn hồ sơ và mức độ rủi ro của CQT

Nam Phi”.

“Khoảng trống thuế” là sự chênh lệch giữa số thuế thực mà CQT thu

được với số thuế phải thu được theo quy định của pháp luật hiện hành. CQT

17

Nam Phi đã ước tính khoảng trống thuế tại Nam Phi là 30 tỷ Rand (Gordhan:

2003). Các yếu tố làm phát sinh khoảng trống thuế được CQT Nam Phi phân

tích (Cục Thu Nam Phi: 2004) gồm: Các hoạt động bất hợp pháp, tránh thuế,

trốn thuế; nợ thuế do hoạt động thiếu hiệu quả…Mỗi quốc gia đều có một

khoảng trống thuế và rất khó để định lượng.

CQT Nam Phi đã xây dựng các chiến lược khuyến khích và khởi động số

thu để giải quyết khoảng trống thuế. Một phần của kế hoạch thu hẹp khoảng

trống là tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao và lập hồ sơ rủi ro. Việc

lập hồ sơ rủi ro được thực hiện như sau:

- CQT Nam Phi thực hiện nghiên cứu toàn diện để hiểu rõ hơn về

khoảng trống thuế, tập trung chú ý đến cách thức thể hiện khoảng trống,

những lĩnh vực rủi ro được đặt ra đối với từng sắc thuế do CQT Nam Phi

quản lý và sự phổ biến của hành vi trốn thuế trong các phân ngành kinh tế

khác nhau…

- Phương tiện truyền thông cần quan tâm hơn đến NNT và các vấn đề về

thuế, một mặt hỗ trợ CQT Nam Phi thực thi các hoạt động tuân thủ, mặt khác

phục vụ mục tiêu quan trọng hơn là nâng cao nhận thức của NNT về nghĩa vụ

thuế của mình. Điều này tạo ra ý thức tuân thủ chủ động cho NNT, đồng thời

giúp họ giải quyết sai sót về thuế nhanh chóng hơn trong trường hợp phát hiện

không tuân thủ.

Mục tiêu chính của nghiên cứu là thiết kế một mô hình chuẩn để

CQT Nam Phi sử dụng và nhận diện các trường hợp có khả năng trốn thuế

và xây dựng phương pháp lựa chọn hồ sơ thanh tra, kiểm tra. Một số kết

quả chủ yếu của công trình này là:

- Nghiên cứu đã đưa ra cơ sở lý luận liên quan: cơ chế tự khai, tự

nộp; phân biệt trốn thuế và tránh thuế; các biện pháp ngăn ngừa hành vi

trốn thuế...

- Nghiên cứu ưu tiên phân tích: Phương pháp lựa chọn hồ sơ thanh tra

thuế, kiểm tra thuế, Lựa chọn hồ sơ để hoàn thuế nhằm tối đa hóa ý thức tuân

18

thủ tự nguyện; Việc sử dụng các chương trình phân tích rủi ro bằng máy tính

và các chương trình liên quan. Mục tiêu của chương trình lựa chọn hồ sơ

thanh tra thuế là tối đa hóa tác động của ý thức tuân thủ tự nguyện và nhận

diện những NNT tuân thủ, hoặc nhóm NNT có rủi ro về kê khai thuế. CQT

cần xem xét lựa chọn các hoạt động của mình để xử lý những lĩnh vực có rủi

ro lớn nhất.

- Nghiên cứu chỉ ra vai trò của thông tin về các phân ngành kinh tế

trong quá trình nhận diện rủi ro. Chứng minh dữ liệu của bên thứ ba được

khai thác như thế nào để hỗ trợ CQT nhận diện hành vi không tuân thủ khi

sử dụng báo cáo về các giao dịch đáng ngờ.

Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của công trình này tập trung tại Cục

Thuế Nam Phi, thời gian nghiên cứu từ năm 2004 nên nhiều phương pháp đã

không còn phù hợp với điều kiện hiện nay. Cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý

doanh nghiệp tại Cục Thuế Nam Phi cũng còn nhiều khác biệt so với CQT

Việt Nam.

(8) OECD, (2009), “Quản lý tuân thủ của chức năng quản lý doanh

nghiệp – Sổ tay hướng dẫn kinh nghiệm và thông lệ của 8 nước thành

viên OECD”.

Đối tượng của nghiên cứu này là doanh nghiệp lớn. Tiêu thức nhận diện

doanh nghiệp lớn tại các nước thường sử dụng là: doanh thu, tài sản, số thuế phải

nộp, phân ngành kinh tế và một số yếu tố khác liên quan. Một số CQT thành lập

đơn vị chuyên trách để thực hiện phân tích rủi ro và thu thập thông tin tình báo,

cung cấp tư vấn kỹ thuật, giám sát và đánh giá kết quả đạt được.

Nghiên cứu đã chỉ ra một số vấn đề sau:

- Việc tuân thủ thuế liên quan đến các giao dịch quốc tế và cấu trúc kinh

doanh quốc tế là vấn đề lớn cần ưu tiên quan tâm; Cần xây dựng mối quan hệ

hợp tác giữa NNT và CQT để thúc đẩy sự phát triển.

- Để tăng cường việc thực thi pháp luật và hỗ trợ NNT, cần xây dựng

chương trình tập huấn và duy trì nguồn lực chất lượng cao. Sự phức tạp của

19

pháp luật thuế và cấu trúc, giao dịch kinh doanh của nhóm doanh nghiệp lớn

đòi hỏi công chức thuế phải có kiến thức và kinh nghiệm chuyên sâu về một

vài lĩnh vực.

- Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về chính sách thuế nhưng CQT có vai

trò tích cực trong việc cung cấp thông tin đầu vào và những phản hồi liên

quan đến chính sách thuế để từ đó có những điều chỉnh phù hợp.

- CNTT không chỉ được sử dụng để phục vụ NNT tốt hơn mà nó còn

được sử dụng trong quản lý tuân thủ bao gồm khả năng nhận diện rủi ro sớm,

nâng cao hiệu quả hoạt động chức năng quản lý doanh nghiệp lớn. Từ các

chương trình thu thập, bổ sung thông tin kịp thời nhằm tăng cường đánh giá

rủi ro tuân thủ, đưa ra các quyết định quản lý thống nhất trong cùng phân

ngành kinh tế.

Một số kết quả chủ yếu của công trình về QLRR trong QLT là:

- Chỉ ra các nhân tố để đánh giá, chỉ số dùng để đánh giá và chiến lược

sử dụng để đối phó với những rủi ro đã đưa ra.

- Đưa ra một số phương pháp tiếp cận để giải quyết vấn đề tuân thủ. Việc

xây dựng và triển khai các biện pháp cho phép nhận diện và giải quyết các vấn

đề có rủi ro tuân thủ trọng yếu. Các biện pháp cải tiến được mô tả: Thỏa thuận

trước về tuân thủ (Úc), thỏa thuận hàng năm về tuân thủ (Úc); lập các trung

tâm phân tích, sử dụng cơ sở dữ liệu phục vụ hệ thống đánh giá yêu cầu lập báo

cáo của doanh nghiệp nước ngoài (Canada)…

- Để giải quyết vấn đề tuân thủ của NNT, CQT (ÚC) thực hiện: Công

khai các vấn đề và rủi ro trong chương trình tuân thủ; Có chức năng thu thập

thông tin tình báo đủ năng lực để nhận diện các vấn đề về thuế; Thực hiện rà

soát rủi ro về thuế thu nhập, rủi ro về NNT, rủi ro khác để nhận diện các rủi ro

trọng yếu về thuế; Thanh tra thuế thu nhập để xử lý rủi ro khi nhận diện; Thực

hiện kiểm tra một nhóm 100 tập đoàn lớn để có thể thảo luận và đưa ra kết

luận đánh giá các rủi ro về thuế.

- CQT sử dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp để nâng cao ý thức

20

tuân thủ pháp luật thuế. CQT Úc đã ban hành sổ hướng dẫn quản trị công ty

cho thành viên HĐQT và ban giám đốc để họ tự phân loại, đánh giá rủi ro về

thuế liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp.

- Cần thiết đánh giá kết quả thực hiện của các chương trình, kế hoạch

CQT đã xây dựng. Đánh giá sự tuân thủ của NNT là bước phản hồi những

mặt tích cực cũng như những hạn chế của kế hoạch đưa ra.

Như vậy, công trình đã có nhiều nội dung và kết luận liên quan trực tiếp

đến vấn đề QLRR trong QLT. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu chỉ tập trung

vào nhóm đối tượng doanh nghiệp lớn, giới hạn trong 8 nước thành viên của

OECD. Các quốc gia này có điều kiện kinh tế, xã hội khác biệt với Việt Nam.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào các nội

dung của QLT nói chung, trong đó có các phương thức, biện pháp QLT cụ

thể, bao gồm cả QLRR trong QLT. Có một số công trình tập trung vào việc

QLRR trong thanh tra thuế, kiểm tra thuế; có một số công trình tập trung vào

QLT nhằm nâng cao mức độ tuân thủ thuế của NNT, trong đó có QLRR tuân

thủ thuế… Các công trình tiêu biểu liên quan đến QLT và QLRR trong QLT ở

Việt Nam trong thời gian gần đây bao gồm:

a. Các công trình liên quan đến quản lý thuế:

(1) Nguyễn Thị Lệ Thúy, (2009), “Hoàn thiện quản lý thuế của Nhà

nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp (Nghiên cứu

tình huống của Hà Nội)”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Quốc dân.

Luận án được tác giả nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, đánh giá và

tổng hợp những cơ sở lý thuyết, cơ sở kinh nghiệm và cơ sở thực tiễn cho

những giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm

tăng cường sự tuân thủ thuế của các doanh nghiệp (nghiên cứu tình huống của

địa bàn Hà Nội).

- Luận án khẳng định khái niệm tuân thủ thuế không chỉ được phân tích

21

theo cách tiếp cận kinh tế mà còn phải được phân tích theo cách tiếp cận tâm

lý xã hội và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh

nghiệp phải theo cả hai cách tiếp cận này. Từ đó, luận án xác định những yếu

tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp ở các nước đang phát

triển theo cách tiếp cận kinh tế và cách tiếp cận tâm lý xã hội.

- Luận án phân tích và đánh giá sự tuân thủ thuế của các doanh nghiệp

trên địa bàn Hà Nội theo mô hình tuân thủ thuế điều chỉnh. Phân tích các yếu

tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng QLT

đối với doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội.

- Luận án đề xuất quan điểm và chiến lược QLT dựa trên cơ sở thực tế

về cấp độ tuân thủ nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và tự nguyện

của các doanh nghiệp trên địa bàn. Luận án đã đề xuất các giải pháp chủ yếu

và điều kiện thực thi các giải pháp theo các chức năng của QLT để thực hiện

các chiến lược quản lý theo từng cấp độ tuân thủ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu và viết luận án của Nghiên cứu

sinh Nguyễn Thị Lệ Thúy, ở Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm và giai

đoạn đầu áp dụng cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế, kỹ thuật QLRR

cũng chưa được thực hiện đầy đủ, ngoài ra quá trình hiện đại hóa QLT cũng

mới được bắt đầu, chưa có các hoạt động tuân thủ như kê khai thuế qua mạng,

nộp thuế điện tử, thực hiện hóa đơn điện tử… nên một số giải pháp QLRR

luận án đưa ra không còn phù hợp với điều kiện hiện nay ở Việt Nam.

(2) Nguyễn Thị Thùy Dương, (2011), “Quản lý thuế ở Việt Nam trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại

học Kinh tế quốc dân.

Tác giả đưa ra cơ sở lý luận của QLT như: khái niệm, nội dung cơ bản,

tiêu chí xác định là QLT tốt, các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Nói về hội nhập

kinh tế quốc tế, tác giả đưa ra được những xu hướng trong hội nhập, cấu trúc

thuế trong bối cảnh hội nhập và những tác động ảnh hưởng trong bối cảnh

này. Bên cạnh đó tác giả nghiên cứu kinh nghiệm của OECD để từ đó kiến

22

nghị cho sự phát triển của QLT tại Việt Nam.

Tác giả đã đi vào tìm hiểu đánh giá thực trạng tại Việt Nam từ những

cam kết về thuế khi tham gia hội nhập, tác động của hội nhập; phân tích thực

trạng về bộ máy QLT, cơ sở pháp lý và nội dung trong QLT. Việc đánh giá

thực trạng chung của cả ngành Thuế và ngành Hải quan từ những kết quả đạt

được, hạn chế tồn tại trong công tác QLT đến những tác động của hội nhập

kinh tế quốc tế, việc cam kết cắt giảm thuế khi gia nhập tổ chức WTO.

Tác giả đã kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLT như: nhóm

giải pháp về thể chế, chính sách; nhóm giải pháp cho tổ chức bộ máy quản lý;

nhóm giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa CQT và NNT; hoàn thiện các nội

dung QLT; ứng dụng CNTT; quản trị chiến lược trong QLT,…

Tuy nhiên, luận án dừng lại ở việc xem xét các vấn đề nghiên cứu cho

giai đoạn 1995-2010 khi thực tiễn Việt Nam vừa gia nhập WTO nên đến thời

điểm hiện tại, một số giải pháp đưa ra không còn hiệu quả.

(3) Lưu Ngọc Thơ, (2013), “Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở

Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về doanh nghiệp lớn và đặc thù quản lý

thuế đối với doanh nghiệp lớn, luận án đã đánh giá thực trạng công tác quản

lý thuế đối với doanh nghiệp lớn tại Việt Nam giai đoạn 2007- 2011, luận án

đã chỉ ra một số kết quả đạt được trong việc quản lý các doanh nghiệp lớn tại

Việt Nam, một số hạn chế và nguyên nhân, như: mô hình tổ chức quản lý thuế

đối với doanh nghiệp lớn chưa được hình thành rõ nét; Số lượng doanh

nghiệp lớn đưa vào diện quản lý chưa đảm bảo đại diện của nền kinh tế; Cơ

chế quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn chưa phù hợp; đội ngũ cán bộ thuế

quản lý doanh nghiệp lớn chưa đáp ứng yêu cầu.

Luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thuế đối với doanh

nghiệp lớn với các tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp lớn, các sắc thuế cần theo

dõi, cũng như hình thành bộ phận quản lý doanh nghiệp lớn tại Tổng Cục thuế

với cơ chế quản lý đặc thù. Đưa ra các giải pháp quản lý thuế riêng phù hợp

23

với doanh nghiệp lớn là quan điểm đã được thực hiện ở các nước phát triển và

hiện đang được mở rộng ở các nước đang phát triển, là một cơ sở của của mô

hình quản lý thuế hiệu quả.

Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian nghiên cứu, luận án đưa ra các giải

pháp quản lý thuế đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 nên đến thời

điểm hiện tại, một số giải pháp đưa ra không còn tính thời sự.

b. Các công trình liên quan đến QLRR trong QLT:

(4) Tổng cục Thuế (2013), Mô hình Quản lý thuế và cơ chế quản lý

rủi ro

Cơ chế QLRR là một công cụ của CQT nhằm hỗ trợ cho việc phân bổ

nguồn lực trong mối quan hệ với các rủi ro thuế tiềm tàng. Cơ chế này muốn

đạt kết quả tốt cần phải có sự chung tay từ tất cả cán bộ, nhân viên trong toàn

ngành thuế và cấp quản lý cấp cao (Bộ Tài chính). Quy trình QLRR phải

được tích hợp vào các quy trình nghiệp vụ thông thường và là một phần

không thể thiếu trong quy trình QLT.

Báo cáo kiến nghị một số cách thức QLRR cho CQT Việt Nam, cụ thể:

- Cần đa dạng và phải có sự đánh giá quản trị thường xuyên, linh động

để bắt kịp những thay đổi trong hành vi của NNT do sự biến động của nền

kinh tế, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của công nghệ.

- CQT cần hiểu được cơ cấu NNT do mình quản lý. Điều này được thể

hiện qua việc phân đoạn NNT theo tiêu chí như quy mô, chức năng thuế hoặc

kết hợp cả 2 tiêu chí này. Từ cách nhìn toàn diện đối với rủi ro có thể giúp

thúc đẩy mức độ tuân thủ tự nguyện của NNT. Việc thanh tra chỉ dành cho

NNT rủi ro cao nhất và không thực hiện các chiến lược quản lý cưỡng chế

khác của CQT.

- CQT yêu cầu NNT điền vào các báo cáo có liên quan đến các giao dịch

trọng yếu, bất thường xảy ra trước khi đưa ra biện pháp xử lý thuế đối với một

giao dịch cụ thể. Việc này giúp CQT rà soát các vấn đề xảy trên thực tế, giúp

2 bên tham gia tranh luận để giải quyết vướng mắc một cách chắc chắn nhất.

24

- Để giảm thiểu chi phí quản lý hành chính thuế, CQT sử dụng nhiều

kênh truyền thông khác nhau để tích cực nhắc nhở NNT về các mốc thời hạn

nộp tờ khai, nộp thuế. Từ đó làm giảm số lượng tờ khai còn chưa nộp và tăng

số thu thuế, đây là là mục tiêu quan trọng đối với hoạt động CQT.

- Nguồn nhân lực chất lượng tốt giúp nâng cao hiệu quả QLT, vì vậy cần

bổ sung quy trình giám sát chất lượng, tổ chức đào tạo nghiệp vụ để nâng cao

chuyên môn của nhóm cán bộ phụ trách từ đó tăng thêm tính chuyên nghiệp

hơn trong giao tiếp với NNT, tạo niềm tin của NNT đối với chính sách thuế

của nhà nước từ đó nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT.

- Việc tuyên truyền hỗ trợ NNT am hiểu những quy định về pháp luật

thuế thông qua các kênh thông tin khác nhau luôn là biện pháp ưu tiên hàng

đầu giúp tăng cường tính tuân thủ tự nguyện của NNT.

Báo cáo đưa ra kiến nghị đối với Việt Nam trong việc xây dựng mô hình

QLT và cơ chế thực hiện QLRR. Tuy nhiên, các kiến nghi đưa ra mới chỉ

dừng lại ở khung lý thuyết chưa có hướng dẫn cụ thể chi tiết, các bước thực

hiện cũng như cách thức triển khai cụ thể.

(5) Phi Vân Tuấn, (2013), “Giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra,

kiểm tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng

cục Thuế.

Đề tài nghiên cứu đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, cơ

sở lý luận cho việc thực hiện kỹ thuật QLRR trong tiến trình cải cách, hiện đại

hóa công tác thanh tra, kiểm tra thuế.

Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác thanh tra thuế, kiểm tra

thuế ở Cục thuế Thành phố Hà Nội trong giai đoạn NNT đã thực hiện theo cơ

chế tự khai, tự nộp thuế. Theo đánh giá, Cục thuế là một trong những đơn vị

thực hiện thành công thí điểm việc ứng dụng chương trình phân tích rủi ro

thanh tra trong xây dựng kế hoạch thanh tra thuế hàng năm. Đề tài đã chỉ ra

sự sáng tạo, bổ sung hoàn thiện theo tình hình cụ thể tại địa phương vào việc

vận dụng thực hiện QLRR trong lập kế hoạch thanh tra thuế, kiểm tra thuế.

25

Trên cơ sở thực tiễn, đề tài nghiên cứu đã chỉ ra những thuận lợi, khó

khăn và thách thức trong quá trình thực hiện phương pháp QLRR trong thanh

tra thuế, kiểm tra thuế như: khó khăn về ý thức tuân thủ NNT, công tác trao

đổi thu thập thông tin từ bên thứ 3, nhận thức của cán bộ trong việc đổi mới

phương thức thanh tra thuế, kiểm tra theo kỹ thuật QLRR, số lượng NNT

ngày càng gia tăng,..

Đề tài nghiên cứu đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra

thuế, kiểm tra thuế theo kỹ thuật QLRR: hoàn thiện mô hình thực hiện chung

theo kinh nghiệm quốc tế; thường xuyên tổng hợp đánh giá và hoàn thiện cập

nhập bộ tiêu chí đánh giá rủi ro cho phù hợp thực tiễn; nâng cao hơn nữa công

tác tuyên truyền giúp NNT tuân thủ tốt; xây dựng tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn

thanh tra thuế, kiểm tra thuế theo chuyên ngành; triển khai áp dụng chỉ số đánh

giá hiệu quả công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế; Hoàn thiện các điều kiện cơ

bản như chính sách, cơ sở thông tin, ứng dụng công nghệ để có thể thực hiện

triển khai công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế theo kỹ thuật QLRR.

Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng lại phân tích một phần của

công tác QLRR và phạm vi phân tích thực hiện tại một cục thuế nên chưa bao

quát hết được đặc thù của các địa bàn khác và thời gian nghiên cứu dừng lại ở

giai đoạn 2009-2012.

(6) Trần Huy Trường, (2015), “Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh

tra thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện

Tài chính.

Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLRR trong hoạt động thanh

tra thuế, giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn khía cạnh QLRR trong thanh tra

thuế, phân tích các tiêu chí QLRR trong phân tích lập kế hoạch và lựa chọn

NNT trong kế hoạch thanh tra thuế hàng năm. Luận án đã nghiên cứu một số

nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thanh tra thuế, từ đó đưa ra một số

giải pháp giúp CQT nâng cao hiệu quả công tác thanh tra thuế. Dựa trên các

vấn đề phân tích, luận án đã chỉ ra thực hiện QLRR trong QLT là phương

26

pháp rất quan trọng, giúp CQT tiết kiệm nguồn lực, chi phí, tăng khả năng tìm

ra NNT có nhiều tiềm ẩn rủi ro, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong QLT

nhằm đảm bảo doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế và nâng cao hơn nữa

vai trò tuân thủ pháp luật thuế của NNT.

Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm về QLRR trong thanh tra thuế của các

nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học thực tiễn phục vụ công tác thanh tra thuế

tại Việt Nam.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng QLRR trong hoạt động thanh tra thuế đối

với doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009-2014, thông qua việc phân tích các

tiêu chí phục vụ công tác thanh tra thuế và những nhân tố ảnh hưởng đến QLRR

trong thanh tra thuế, tác giả đã đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả công

tác thanh tra thuế.

Tuy nhiên, nghiên cứu của luận án dừng ở giai đoạn năm 2009- 2014,

nên mới phân tích, phản ảnh một phần những kết quả đạt được của QLRR

trong thanh tra thuế. Luận án chỉ ra được những hạn chế cho bộ tiêu chí trong

giai đoạn nghiên cứu và đến nay Bộ tiêu chí đã được cập nhập sửa đổi bổ

sung nhiều lần.

(7) Bùi Khánh Toàn, (2018), “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế - kinh

nghiệm quốc tế và giải pháp áp dụng tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp Tổng cục Thuế.

Đề tài tập trung vào những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận liên quan đến

rủi ro, QLRR như: phạm vi áp dụng và đối tượng của QLRR trong QLT, với

cách tiếp cận trong thông tư của Bộ Tài chính quy định về QLRR trong QLT.

Đề tài cũng nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới về cách đánh

giá rủi ro của một số chức năng thuế và rút ra bài học cho công tác QLRR

trong QLT tại Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu nêu ra được những nguyên tắc QLRR mà chủ yếu là

thực hiện theo mô hình tháp kim tự tháp; đưa ra cách phân loại rủi ro trong

QLT theo các chức năng như rủi ro trong đăng ký thuế, rủi ro về thời hạn, rủi

27

ro kê khai thuế và rủi ro trong nộp thuế;

Quy trình QLRR tổng quát theo kinh nghiệm các nước thường được thực

hiện qua 5 bước như: thiết lập bối cảnh, xác định, phân tích, đánh giá và xử lý

phản hồi. Việc xây dựng kế hoạch đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện là biện

pháp quan trọng trong xây dựng hệ thống QLRR của CQT.

Đề tài chỉ ra được thực trạng hiện nay tại Việt Nam về thể chế, chính

sách, tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ và hệ thống thông tin CSDL phục

vụ cho công tác QLRR trong QLT. Với thời gian thực hiện QLRR trong QLT

chưa nhiều nên tất cả còn đang ở những bước đầu, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ,

CSDL còn thiếu và chưa đồng bộ tập trung, hạ tầng CNTT đang trong quá

trình xây dựng các ứng dụng nhằm đáp ứng nhu cầu về phân tích dữ liệu để

thực hiện QLRR, nguồn nhân lực hạn hẹp… dẫn đến kết quả QLRR chưa đáp

ứng như mong đợi trong xu hướng QLT mới.

Từ đánh giá thực trạng đó, nhóm tác giả đưa ra được những vấn đề cần quan

tâm và một số giải pháp khi triển khai công tác QLRR trong QLT.

Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục Thuế được thực

hiện phân tích trong giai đoạn 2010-2017, là giai đoạn ngành thuế mới thành

lập được bộ phận chuyên trách về QLRR cấp Tổng cục Thuế. Đến nay, thực

trạng QLRR trong QLT đã có những phát triển về các mặt thể chế, hạ tầng cơ

sở dữ liệu, CNTT cũng như các quy trình nghiệp vụ QLRR cho các chức năng

thuế đang từng bước xây dựng và hoàn thiện.

1.1.3. Nhận xét chung

Có một số công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về QLT nói

chung, QLRR trong QLT nói riêng. Các nghiên cứu tuy có phạm vi, nội dung

và mục tiêu nghiên cứu không đồng nhất với nhau, nhưng đều có mối liên hệ

nhất định và tập trung giải quyết các vấn đề như: Nội dung của QLT; tiêu chí

và cách thức xác định, đánh giá rủi ro trong QLT; các giải pháp QLRR trong

QLT để đạt được hiệu quả QLT cao nhất. Giữa các công trình này cũng có sự

kết nối, kế thừa, bổ sung và phát triển kết quả nghiên cứu để làm rõ hơn được

28

các vấn đề nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã đề cập được ở mức độ

nhất định một số nội dung lý luận về QLRR trong QLT, những vấn đề thực

tiễn đang gặp phải ở đối tượng nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp hoàn

thiện. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được bao gồm:

- QLT thực hiện trên cơ sở QLRR khi tập trung nguồn lực quản lý vào

các nhóm NNT có mức độ rủi ro cao là một xu hướng tất yếu trong điều kiện

có sự gia tăng về số lượng NNT và sự đa dạng quan hệ kinh tế phát sinh giữa

các doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu trong khi nguồn lực của CQT còn

nhiều hạn chế. Thực hiện QLRR trong QLT là phương pháp rất quan trọng,

giúp CQT tiết kiệm nguồn lực, chi phí, tăng khả năng tìm ra NNT có nhiều

tiềm ẩn rủi ro, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong QLT nhằm đảm bảo doanh

nghiệp chấp hành tốt pháp luật thuế và nâng cao hơn nữa vai trò tuân thủ pháp

luật thuế của NNT.

- Rủi ro về thuế trong quá trình tuân thủ thuế của NNT có thể xảy ra trên

nhiều góc độ khác nhau như rủi ro trong đăng ký thuế, rủi ro trong kê khai

thuế, rủi ro trong nộp thuế... Các rủi ro này cũng chịu sự ảnh hưởng của nhiều

nhân tố khách quan và chủ quan. CQT có thể xem xét, xác định, đánh giá mức

độ rủi ro của NNT trên cơ sở các thông tin, dữ liệu QLT và các tiêu chí đánh

giá rủi ro đã được xây dựng từ trước. Trong đó, yếu tố CNTT được coi là rất

cần thiết cho việc xem xét, đánh giá mức độ rủi ro của từng NNT. Quy trình

QLRR tổng quát thường được thực hiện qua 5 bước như: thiết lập bối cảnh,

xác định, phân tích, đánh giá và xử lý rủi ro trong các biện pháp quản lý cụ

thể.

- Về biện pháp quản lý, các nghiên cứu đều cho rằng CQT cần lập hồ sơ

rủi ro và lựa chọn hồ sơ thanh tra thuế, kiểm tra thuế để tối ưu hóa nguồn lực

hạn chế. NNT và nhóm NNT có rủi ro lớn nhất sẽ là tiêu chí lựa chọn để

thanh tra thuế, từ đó truy thu thuế tối đa đối với NNT hay nhóm NNT này.

Ngoài ra, các giải pháp về quản lý tuân thủ cũng được một số công trình đề

cập đến thể hiện ở các quan điểm và chiến lược quản lý thu thuế dựa trên cơ

29

sở thực tế về cấp độ tuân thủ nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và tự

nguyện của NNT.

Qua nội dung tóm tắt các công trình đã nghiên cứu về QLT và QLRR

trong QLT nêu trên cho thấy:

Thứ nhất, Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ

và toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến QLRR trong QLT

gắn với thực tiễn QLT ở Việt Nam giai đoạn 2014-2020.

Thứ hai, Đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ cho vấn đề quan trọng

liên quan đến QLRR trong QLT trên các nội dung: (i) Xây dựng cơ sở dữ liệu

tập trung của NNT phục vụ cho việc phân tích đánh giá rủi ro; (ii) Chuẩn hóa

tiêu chí phân loại rủi ro về thuế của NNT; (iii) Ứng dụng CNTT hỗ trợ việc

phân tích và tính điểm rủi ro tự động, rà soát kết quả phân tích rủi ro so với

thực tế đánh giá theo QLRR; (iv) Mô hình tổ chức bộ máy QLRR; (v) Các

điều kiện pháp lý và hành lang trong việc thực hiện QLRR trong QLT.

Những nhận xét trên cho thấy, đề tài nghiên cứu của Luận án này đảm

bảo được tính mới, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên

quan đã công bố.

1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM

Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận án tiến sĩ

liên quan trực tiếp đến QLRR trong QLT. Các công trình nghiên cứu đã

công bố có liên quan đến QLRR như là một trong những cách thức, biện

pháp quản lý của CQT trong điều kiện mới, phục vụ cho một hay một số

chức năng của QLT. Một số công trình là đề tài nghiên cứu khoa học cấp

ngành, cấp Bộ đề cập đến QLRR trong QLT nhưng mức độ nghiên cứu còn

chưa thực sự bao quát đầy đủ cả về lý luận, thực tiễn và mới dừng ở giai

đoạn khi ngành thuế mới thành lập bộ phận chuyên trách về QLRR cấp Tổng

cục Thuế.

QLRR là phương thức quản lý có vai trò quan trọng trong QLT hiện đại,

30

cần được nghiên cứu đầy đủ để có thể đưa vào triển khai thực tế một cách

toàn diện và hiệu quả cao. Tác giả của luận án nhận thấy, việc nghiên cứu cơ

chế và phương thức thực hiện QLRR là một trong những giải pháp quyết định

nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động QLT, đáp ứng yêu

cầu cải cách hành chính thuế trong những năm tới. Mục tiêu chính khi lựa

chọn đề tài Luận án được NCS xác định là cần làm rõ các nội dung: Cơ sở lý

luận về QLRR trong QLT; Kinh nghiệm quốc tế về QLRR trong QLT và bài học

đối với Việt Nam; Thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam và các giải pháp

hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu từ các công tŕnh đã công bố kể trên, có

thể nhận thấy các khoảng trống trong nghiên cứu về QLRR trong QLT tại

Việt Nam thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, Chưa có nghiên cứu toàn diện về QLRR trong QLT trên cả

hai góc độ: rủi ro tuân thủ từ phía NNT và rủi ro quản lý từ phía CQT.

Rủi ro về thuế thường thể hiện ở góc độ NNT, trong quá trình tuân thủ

thuế của họ có thể dẫn đến các rủi ro, nguyên nhân có thể do sự am hiểu các

quy định của chính sách chưa thật sự chính xác; việc hạch toán nghĩa vụ thuế

từ các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực hiện các thủ tục về thuế,

nghĩa vụ thuế của NNT (đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế) chưa kịp thời, đầy

đủ và đúng quy định… Rủi ro trong QLT thể hiện ở hiệu quả của các hoạt

động QLT của CQT, trong đó chứa đựng cả các rủi ro về thuế của NNT và

các rủi ro trong cách thức quản lý của CQT (bỏ sót NNT; quy trình, thủ tục

quản lý chưa chặt chẽ; cơ chế quản lý chưa theo kịp sự bùng nổ của thương

mại điện tử…). Các nghiên cứu từ trước đến nay tập trung chủ yếu ở việc

QLRR đối với các rủi ro tuân thủ của NNT, còn các rủi ro phát sinh từ góc độ

CQT chưa được tập trung chú trọng hoặc được nghiên cứu chủ yếu dưới góc

độ hoàn thiện các nội dung quản lý thuế. Luận án này sẽ tập trung nghiên cứu

QLRR trong QLT trên cả 2 góc độ: rủi ro tuân thủ từ phía NNT và rủi ro quản

lý từ phía CQT.

31

Thứ hai, Chưa có nghiên cứu tổng thể, toàn diện về cơ sở lý luận của

rủi ro về thuế và QLRR trong QLT.

Để thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT thì việc tìm hiểu, nắm rõ cơ sở

lý luận của rủi ro về thuế và rủi ro trong QLT như: bản chất của rủi ro; các

nguyên nhân dẫn đến các rủi ro tuân thủ thuế, rủi ro QLT; các tiêu chí đánh

giá mức độ rủi ro trong QLT và các cơ dữ liệu cần thiết để phân loại NNT

theo các mức độ rủi ro… là các nội dung hết sức quan trọng.

Trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu trước

đây đã đề cập ít nhiều đến các nội dung này, tuy nhiên những nghiên cứu này

chưa tập trung, toàn diện. Cụ thể: chưa có nghiên cứu chuyên sâu về rủi ro

trong công tác QLT (các hình thức rủi ro trong QLT); Chưa có nghiên cứu

chuyên sâu cơ sở lý luận về QLRR trong QLT (nội dung QLRR trong QLT,

quy trình QLRR trong QLT, các nhân tố ảnh hưởng đến QLRR trong QLT).

Khoảng trống này sẽ được luận án tập trung khai thác để hệ thống hóa, bổ

sung và phát triển thêm cơ sở lý luận về rủi ro thuế và QLRR trong QLT.

Thứ ba, Chưa có nghiên cứu chuyên sâu kinh nghiệm quốc tế về QLRR

trong QLT và bài học kinh nghiệm để thực hiện tại Việt Nam.

QLRR trong QLT được các quốc gia trên thế giới thực hiện trong một

khoảng thời gian khá dài và đã có quá trình điều chỉnh, hoàn thiện dần với

những kết quả khả quan. Đây là những kinh nghiệm thực tiễn rất quý giá để

Việt Nam nghiên cứu, đánh giá và vận dụng vào thực tiễn QLT tại Việt Nam.

Nội dung này cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ, toàn diện ở các công

trình nghiên cứu trước đây. Một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ các

nghiên cứu trước đây đã không đáp ứng được yêu cầu của thực tế QLT hiện

nay của Việt Nam. Điều đó đã tạo ra một khoảng trống đáng kể khi phân tích,

vận dụng các kinh nghiệm và bài học quốc tế cho Việt Nam trong giai đoạn

tới, đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

luận án của NCS sẽ góp phần thỏa lấp khoảng trống nghiên cứu này.

Thứ tư, Chưa có nghiên cứu toàn diện về thực trạng QLRR trong QLT

32

tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020.

QLRR trong QLT tại Việt Nam đã được triển khai hơn 10 năm. Quá

trình này đang được điều chỉnh, hoàn thiện dần cùng với các đánh giá, tổng

kết theo các giai đoạn cụ thể của ngành Thuế. Tuy nhiên, hiện nay chưa có

nghiên cứu, phân tích toàn diện thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam

giai đoạn 2014- 2020 trên tất cả các nội dung, như: (i) Xây dựng hành lang

pháp lý; (ii) Xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về NNT; (iii) Xây dựng và

thực hiện phân tích các tiêu chí đánh giá rủi ro; (iii) Thực hiện các biện pháp

QLT cụ thể với các nhóm NNT theo các mức độ rủi ro khác nhau; (iv) Đánh

giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế để làm căn

cứ đưa ra các giải pháp hoàn thiện.

Luận án này nghiên cứu thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam giai

đoạn 2014-2020. Nội dung nghiên cứu này là những vấn đề mới, khai thác

được khoảng trống kể trên và là cơ sở thực tiễn quan trọng để đưa ra các giải

pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới.

Thứ năm, Chưa có nghiên cứu toàn diện về các giải pháp hoàn thiện

QLRR trong QLT tại Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030.

Trong thời gian tới, Việt Nam tiến hành xây dựng và thực hiện Chiến

lược phát triển hệ thống thuế giai đoạn 2021-2030 với định hướng chính là

dựa trên nền tảng thuế điện tử để đáp ứng yêu cầu QLT trong bối cảnh kinh tế

số. Ngành thuế Việt Nam sẽ được xây dựng theo hướng hiện đại, tập trung,

tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; công tác QLT, phí và lệ phí thống

nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp QLRR, đồng

thời dựa trên nền tảng thuế điện tử với ba trụ cột cơ bản: (i) thể chế QLT đầy

đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập; (ii) nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm

chính, đổi mới; (iii) CNTT hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu QLT trong bối

cảnh kinh tế số. Đây là những đổi mới cơ bản về QLT so với các giai đoạn

trước đó. Các giải pháp QLT đề xuất cho giai đoạn này cũng phải được xây

dựng theo các định hướng, bối cảnh và điều kiện nói trên. Đây là điều hoàn

33

toàn mới mẻ, chưa có trong các công trình nghiên cứu trước đây và sẽ được

luận án này tập trung nghiên cứu, đề xuất.

Các khoảng trống nghiên cứu kể trên là các cơ sở và định hướng cơ bản

cho nội dung nghiên cứu của Luận án “Quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại

Việt Nam”.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Việc nghiên cứu tổng quan các công trình đã công bố liên quan đến

QLRR trong QLT là vấn đề hết sức quan trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, đến

nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về QLT và QLRR trong QLT ở trong

nước và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu đã giải quyết được các vấn đề

lý luận cơ bản về QLT và QLRR trong QLT; phân tích, đánh giá được việc

thực hiện nội dung này trong thực tiễn gắn với địa bàn và thời điểm nghiên

cứu; đưa ra các khuyến nghị, giải pháp cho QLRR trong bối cảnh nghiên cứu.

Tuy nhiên, các phân tích đã cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách có hệ thống, chuyên sâu, đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn vấn đề

QLRR trong QLT. Xét trong bối cảnh hiện nay, còn có các khoảng trống

nghiên cứu cần được tiếp tục tìm hiểu, làm sáng tỏ thêm, nhất là thực tiễn

thực hiện tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 và các giải pháp trong giai đoạn

tới, đến năm 2025, tầm nhìn 2030 theo định hướng của Chiến lược cải cách hệ

thống thuế ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài luận án không bị trùng lắp với các công

trình nghiên cứu trước đó, luận án có kế thừa những vấn đề lý luận, ưu điểm

các công trình nghiên cứu trước đó, khai thác những vấn đề chưa nghiên cứu,

tìm ra những hướng đi riêng, hướng mới trong việc phân tích, diễn giải để

tăng tính biện chứng nhằm giải quyết các vấn đề nghiên cứu một cách khoa

học, có tính kế thừa, liên kết và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.

34

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

2.1. QUẢN LÝ THUẾ VÀ RỦI RO VỀ THUẾ

2.1.1. Khái niệm quản lý thuế

Quản lý, theo nghĩa chung nhất, là sự tác động của chủ thể quản lý lên

đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý được hiểu nói đến

hoạt động của con người, bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một

tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên để hoàn thành các mục tiêu của

mình thông qua việc sử dụng các nguồn lực sẵn có như tài chính, nhân lực,

công nghệ và vật lực.

Quá trình quản lý chính là quá trình chủ thể quản lý thực hiện các hoạt

động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát nhằm khai thác, sử dụng các

nguồn lực đầu vào để đạt được các mục tiêu đầu ra với chi phí tối ưu. Trong

đó, một yêu cầu luôn luôn được chú trọng nhằm giúp cho hoạt động quản lý

đạt được mục tiêu đặt ra là tất cả các kế hoạch, chủ trương, quy định… của

chủ thể quản lý được đối tượng quản lý tuân thủ ở mức cao nhất.

Theo giáo trình QLT của Học viện Tài chính thì “QLT là một lĩnh vực

quản lý chuyên ngành thuộc quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành

chính là sự tác động của cơ quan hành chính nhà nước vào con người hoặc tổ

chức các mối quan hệ xã hội để đạt được các mục tiêu của Chính phủ”. Tiếp

cận dưới góc độ thực thi quyền lực Nhà nước thì quản lý hành chính là thực

thi quyền hành pháp của Nhà nước. Tiếp cận dưới góc độ công việc cụ thể thì

quản lý hành chính là điều chỉnh hành vi con người, hành vi xã hội và tổ chức

thi hành pháp luật đã ban hành.[46, tr.8].

Theo nghĩa rộng, QLT là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền liên quan đến việc thực hiện chính sách pháp luật thuế. Khi đó, QLT

35

bao gồm hoạt động hoạch định, xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về

thuế và các hoạt động tổ chức thực hiện chính sách pháp luật thuế thông qua

việc điều hành và tác động đến các chủ thể trong nền kinh tế. Theo nghĩa rộng

này, hoạt động QLT của Nhà nước gồm ba góc độ:

- Vận dụng bản chất, chức năng của thuế để hoạch định chính sách, bao

gồm cả chính sách điều tiết qua thuế và chính sách QLT;

- Xây dựng tổ chức bộ máy ngành thuế và đào tạo nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu QLT;

- Vận dụng các phương pháp thích hợp tác động đến quá trình thực hiện

nghĩa vụ thuế của NNT phù hợp với quy luật khách quan, bao gồm các hoạt

động tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ, thanh tra thuế, kiểm tra thuế… để đảm

bảo sự tuân thủ tối đa của NNT hướng đến thực thi có hiệu quả nhất chính

sách pháp luật thuế.

Theo nghĩa hẹp, QLT là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế của Nhà

nước, tức là, QLT được hiểu là hoạt động điều hành và tác động đến hành vi

tuân thủ pháp luật thuế của các chủ thể trong xã hội để thực thi chính sách

pháp luật thuế. Khi đó, hoạt động QLT của Nhà nước tập trung chủ yếu ở hai

trong ba góc độ nêu trên, đó là xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân

lực ngành thuế và thực hiện tác động đến quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế

của NNT để đảm bảo chính sách thuế được thực thi và tuân thủ một cách

chính xác, đầy đủ và kịp thời nhất.

Trong phạm vi và nội dung nghiên cứu của mình, đề tài luận án tập trung

nghiên cứu QLT theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các hoạt động của cơ quan QLT

trong triển khai các nội dung quản lý nhằm thực thi có hiệu quả chính sách

pháp luật về thuế.

QLT theo nghĩa hẹp nêu trên có các yếu tố chủ yếu sau:

- Về chủ thể quản lý: Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản

quốc gia để phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia QLT là trách

nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội. Tuy

nhiên, trách nhiệm QLT trước hết là thuộc về Nhà nước. Để đảm bảo thực thi

36

trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm QLT cho Bộ Tài

chính mà trực tiếp là hệ thống cơ quan QLT gồm CQT và cơ quan hải quan

chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ QLT. Như vậy, các chủ thể

tham gia quá trình QLT bao gồm: Cơ quan lập pháp với vai trò xây dựng,

thiết lập hệ thống pháp luật thuế (Quốc hội); cơ quan hành pháp với vai trò

điều hành việc thu thuế (Chính phủ); Hệ thống các cơ quan chuyên môn giúp

việc cho cơ quan hành pháp (Bộ Tài chính, CQT, cơ quan hải quan) thay mặt

Nhà nước, được nhà nước giao trực tiếp tổ chức thực hiện QLT.

- Về đối tượng quản lý: Đối tượng chủ yếu chịu sự QLT của Nhà nước là

NNT được xác định trong các Luật thuế cụ thể do Quốc hội ban hành, bao

gồm tổ chức và cá nhân có phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thể hiện ở các quan hệ

phát sinh trước, trong và sau quá trình triển khai tổ chức thu nộp thuế cho nhà

nước. Mối quan hệ này có thể diễn ra giữa CQT và NNT, giữa NNT với nhau,

giữa các đơn vị trong nội bộ CQT, CQT với các cơ quan nhà nước khác có

liên quan... Bên cạnh đó, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý nguồn thu

NSNN nói chung và QLT nói riêng, đối tượng chịu sự QLT của Nhà nước

còn được mở rộng thêm các đối tượng như tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ

chức, cá nhân làm thủ tục thuế thay NNT và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá

nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế. Điều này làm

nên sự đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải có các công cụ và phương pháp quản

lý thích hợp.

- Công cụ của QLT là các quy định pháp luật, chính sách, các kế hoạch

thực hiện và các công cụ bổ trợ khác. Pháp luật là một công cụ QLT có tính

định hướng và điều tiết quan trọng. Nó là cơ sở để điều chỉnh các quan hệ

kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các

mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nó tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để

thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về thuế giữa các chủ thể

trong nền kinh tế. Pháp luật thể hiện ở các văn bản có tính pháp lý cao như

Luật quản lý thuế, các luật thuế do, Nghị định và các văn bản pháp luật khác

37

do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính... ban hành. Xây dựng kế hoạch cũng

là công cụ không thể thiếu trong QLT. QLT cần được xây dựng các kế hoạch

ngắn hạn, trung hạn và dài hạn áp dụng cho từng thời kỳ cụ thể để có đánh giá

so sánh được chất lượng hiệu quả của QLT qua từng giai đoạn, từ đó rút ra

được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ công tác QLT. Những chính sách

kinh tế chủ yếu có tác động tới QLT phải kể đến là chính sách kinh tế đối

ngoại, chính sách về cơ cấu kinh tế, chính sách thuế. Chính sách kinh tế đối

ngoại thay đổi theo hướng mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới vừa giúp

ta học được những cách thức quản lý mới hiệu quả hơn, nhưng đồng thời

cũng phát sinh những thách thức phải đối mặt như: giá chuyển nhượng, giao

dịch liên kết… Chính sách về cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển dịch giữa

ngành này và ngành khác làm cơ cấu nguồn thu từ thuế cũng thay đổi. Chính

sách thuế cũng cần thay đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển ngày càng đa

dạng và phong phú của nền kinh tế.

- Mục tiêu chủ yếu của QLT bao gồm: Tăng cường sự tuân thủ pháp luật

thuế của NNT một cách đầy đủ, kịp thời và tự nguyện theo các quy định của

pháp luật thuế; Huy động chính xác, đầy đủ và kịp thời số thu từ thuế cho

NSNN; Phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong việc điều tiết kinh tế

vĩ mô, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập, điều hoà các hoạt động

SXKD; Đảo đảm sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa những NNT.

2.1.2. Rủi ro về thuế

2.1.2.1 Khái niệm, phân loại rủi ro

Khái niệm Rủi ro

“Rủi ro” (risk) là một thuật ngữ được sử dụng từ thời cổ đại, nó có nguồn

gốc từ hoạt động giao thương hàng hải của các thương nhân người Ý. Rủi ro

ban đầu được quan niệm ở giác độ hẹp là sự kết hợp của khái niệm bất trắc

hoặc không chắc chắn ở trên biển và khả năng thiệt hại trong vận tải (tầu, con

người, hàng hoá…) ở trên biển. Theo thời gian, các học giả và các nhà nghiên

38

cứu đã tập trung đi sâu phân tích tìm ra quy luật của những nguy cơ, bất trắc

và thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực vận chuyển hàng hải và vận dụng những kết

quả nghiên cứu này vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Sau này, việc nghiên

cứu về rủi ro còn được phát triển mở rộng sang các lĩnh vực khác, như ngân

hàng, kinh doanh, quản lý…

Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn,

sự tổn thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không

tốt, bất ngờ xảy đến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy

ra trong quá trình hoạt động của tổ chức, quá trình kinh doanh, sản xuất của

doanh nghiệp, tác động xấu việc đạt đến mục tiêu của tổ chức hay đến sự tồn

tại và phát triển của một doanh nghiệp.

Theo Từ điển tiếng Việt, rủi ro là “Điều không lành, không tốt bất ngờ xảy ra”1. Nói chung quan niệm truyền thống cũng đi theo cách hiểu này. Theo

đó, rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai, nó có thể phát sinh

từ một số hoạt động ở hiện tại và thường được chứa đựng bên trong hoặc đi

cùng với một sự kiện không mong muốn xảy ra.

Theo Từ điển tiếng Anh của NXB Oxford thì rủi ro là “Chance of injury or loss or bad consequence”2. Nghĩa là “Khả năng xảy ra sự tổn thương,

những mất mát hoặc hậu quả xấu”. Như vậy, cả khả năng rủi ro trong tiếng

Việt và tiếng Anh nói trên đều đề cập đến rủi ro như là những khả năng xảy ra

những điều không tốt, đem đến những hậu quả xấu.

Theo trường phái hiện đại, rủi ro (risk) là sự bất trắc có thể đo lường

được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Chuẩn mực quốc tế

ISO/IEC Guide 73 hướng dẫn về QLRR chỉ rõ “Rủi ro là sự kết hợp của một

sự kiện có thể xảy ra mà hệ quả của nó mang lại lợi ích hoặc gây ra tổn

thất”. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát nhưng cũng có thể

mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người

1 Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1998 2 Goerge Osler: The Little Oxford Dictionary, Clarendon Press

39

ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực,

đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.

Rủi ro phụ thuộc vào ngữ cảnh, nếu con người không có khái niệm hoặc

không liên quan đến thì họ không có rủi ro. Rủi ro bao gồm 3 yếu tố: xác suất

xảy ra (Probability), khả năng ảnh hưởng đến đối tượng (Impacts on

objectives) và thời lượng ảnh hưởng (Duration). Bản chất rủi ro là sự không

chắc chắn (uncertainty), nếu chắc chắn (xác suất bằng 0% hoặc 100%) thì

không gọi là rủi ro.

Từ các khái niệm trên, có thể cho thấy rủi ro là một sự kiện bình thường

không thể tránh được trong cuộc sống hàng ngày. Rủi ro là một sự kiện có thể

xảy ra làm ảnh hưởng tiêu cực (hoặc tích cực) đến mục tiêu hoạt động của tổ

chức, cá nhân. Việc hiểu biết về rủi ro và kiểm soát rủi ro là một phần quan

trọng trong đời sống nhằm tránh tổn thất, đạt được lợi ích tối ưu.

Phân loại rủi ro

Có nhiều cách phân loại rủi ro khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên

cứu. Ta có thể thấy một số cách phân loại rủi ro điển hình như:

- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Rủi ro được phân loại thành:

Rủi ro nghiêm trọng là rủi ro có thì hậu quả vô cùng lớn; Rủi ro lớn là

rủi ro có thể gây ra hậu quả lớn; Rủi ro trung bình là rủi ro có thể gây ra hậu

quả vừa phải; Rủi ro nhỏ là rủi ro có hậu quả nhỏ.

- Căn cứ vào nguyên nhân rủi ro: Rủi ro được phân loại thành:

+ Rủi ro tiềm tàng (IR): là rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra trong một môi

trường nhất định. Rủi ro tiềm tàng luôn gắn với một đối tượng cụ thể như tình

hình chính trị của một quốc gia không ổn định, lĩnh vực hoạt động của đối

tượng là thương mại, sản xuất hay dịch vụ…

+ Rủi ro kiểm soát (CR): là rủi ro về khả năng kiểm soát tại chỗ không

chặt chẽ nên không ngăn ngừa được những sai sót trọng yếu có thể xảy ra. Hệ

thống kiểm soát nội bộ tốt sẽ làm giảm rủi ro kiểm soát. Giống như với rủi ro

tiềm tàng, rủi ro kiểm soát có thể được xác định về tổng thể cũng như ở cơ sở

40

dẫn liệu thông tin trên báo cáo tài chính.

+ Rủi ro phát hiện (DR): rủi ro phát hiện xuất phát từ chất lượng của

hoạt động thanh tra, tức là xuất phát từ các quy định của pháp luật, chất lượng

của quy trình và trình độ cán bộ thanh tra. Để kiểm soát rủi ro phát hiện, cán bộ

thanh tra cần đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát. Từ đó, lựa chọn phương

pháp thanh tra và lên kế hoạch kiểm tra chi tiết để loại trừ hoặc bù đắp các rủi ro

tiềm tàng và rủi ro kiểm soát càng nhiều càng tốt, nhờ đó, giảm rủi ro phát hiện.

+ Rủi ro thanh tra (AR): là rủi ro mà các báo cáo tài chính gian lận được

chấp nhận như những báo cáo tài chính trung thực. Rủi ro thanh tra tổng thể

chịu sự tác động của 3 cấu phần là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro

phát hiện. Mối quan hệ tổng quát giữa chúng thể hiện qua công thức sau:

AR = IR x CR x DR

Từ công thức trên cho thấy, vì cán bộ thanh tra không thể kiểm soát

được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nên trong trường hợp cả rủi ro tiềm

tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì cách duy nhất để giảm rủi ro thanh tra là

làm giảm rủi ro phát hiện. Muốn vậy, phải điều chỉnh nội dung và phạm vi

của các thủ tục thanh tra.

- Căn cứ vào hậu quả của rủi ro: rủi ro có thể phân loại thành:

+ Rủi ro thuần túy (Pure risks): được sử dụng để diễn tả các loại bất trắc,

chứa ẩn nguy cơ tổn thất về kinh tế nếu sự bất trắc đó xảy ra. Rủi ro thuần túy

chứa ẩn trong nó nguy cơ tổn thất, mất mát hoặc là không mất gì cả. Những

thiệt hại tài sản do thiên tai, hỏa hoạn gây nên là một ví dụ.

+ Rủi ro suy tính (Speculative risks): tồn tại trong đó cả cơ hội kiếm lời

và nguy cơ tổn thất. Nó hứa hẹn cho người đầu tư một cơ hội kinh doanh sinh

lời hoặc bị thua lỗ, như sự thay đổi giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán

là cơ hội kiếm lời, nhưng cũng có thể gây thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư.

Rủi ro thuần túy thường khiến người ta tìm cách né tránh còn rủi ro suy

tính hấp dẫn nhà đầu tư bởi tính suy đoán khả năng xảy ra và kỳ vọng vào kết

quả của nó.

41

Việc phân loại như trên có ý nghĩa rất quan trọng vì với mỗi loại rủi ro

khác nhau sẽ có cách phòng chống, xử lý khác nhau. Rủi ro thuần túy có thể

phòng ngừa bằng các kỹ thuật bảo hiểm, trong khi rủi ro suy tính không thể

dùng phương pháp đó mà phải sử dụng kỹ thuật chuyển giao rủi ro…

Ngoài ra, rủi ro có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác tùy theo

các mục tiêu quản lý khác nhau.

2.1.2.2. Rủi ro về thuế và các hình thức rủi ro trong quản lý thuế

a. Khái niệm rủi ro về thuế

Thuế là khoản thu có tính chất bắt buộc của Nhà nước đối với các tổ

chức, cá nhân theo mức độ và thời hạn do pháp luật quy định nhằm sử dụng

cho mục đích công cộng.

Thuế là nguồn thu cơ bản của NSNN, là công cụ quan trọng để Nhà

nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Để thuế và

chính sách thuế phát huy tối đa các vai trò của mình trong một quốc gia, các

hoạt động liên quan cần phải được thực hiện bao gồm quá trình hoạch định,

xây dựng chính sách thuế và pháp luật về thuế; thực hiện các hoạt động QLT

(xác định cơ chế QLT; xây dựng tổ chức bộ máy QLT, quy trình QLT; thực

hiện các chức năng QLT); thực hiện các hoạt động tuân thủ thuế của các chủ

thể nộp thuế (đăng ký thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế, tuân thủ các quyết

định hành chính thuế, hóa đơn, chứng từ trong SXKD để xác định nghĩa vụ

thuế...). Trong quá trình đó, việc xuất hiện các sự kiện có tác động xấu đến việc

phát huy vai trň của chính sách thuế, đến hiệu quả QLT, gây ra những thiệt hại

nhất định cho CQT, cho NNT chính là những rủi ro về thuế đã phát sinh.

Xét một cách chung nhất, rủi ro về thuế được hiểu là: tất cả những điều

bất lợi xảy ra đối với quá trình ban hành và thực thi chính sách pháp luật về

thuế của một quốc gia. Rủi ro về thuế có ở tất cả các hoạt động: rủi ro trong

việc xây dựng chính sách, pháp luật thuế; rủi ro trong công tác QLT của CQT;

rủi ro trong quá trình chấp hành nghĩa vụ thuế của NNT.

Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu về: rủi ro

42

trong công tác QLT của CQT và rủi ro trong quá trình tuân thủ thuế của NNT.

(Luận án không nghiên cứu về rủi ro trong việc xây dựng chính sách, pháp

luật về thuế).

- Trong công tác QLT của CQT, rủi ro thuế có thể xảy ra khi CQT thực

hiện các biện pháp QLT chưa hiệu quả dẫn đến không xác định đúng trọng

tâm trọng điểm các khu vực, ngành, đơn vị có nhiều khả năng tuân thủ thấp

để tập trung quản lý, điều này gây nên sự lãng phí khi sử dụng nguồn lực

QLT, không kiểm soát được gian lận, không nâng cao được tính tuân thủ của

NNT; các quy trình QLT không chặt chẽ, làm giảm hiệu quả thực thi nhiệm

vụ; trình độ, năng lực, đạo đức công vụ của công chức thuế chưa đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ cũng gây ra những tiêu cực trong quá trình QLT.

- Trong quá trình tuân thủ thuế của NNT: rủi ro thuế trong quá trình tuân

thủ thuế của NNT được hiểu một cách chung nhất là những bất lợi có thể xảy

ra đối với NNT trong quá trình NNT tuân thủ các quy định của pháp luật thuế.

Các rủi ro này có thể là các rủi ro thụ động, khi NNT không am hiểu, không

nắm bắt đầy đủ các quy định của pháp luật thuế dẫn đến họ không tuân thủ đầy

đủ các quy định này và bị CQT phát hiện, xử lý theo quy định. Các rủi ro này

ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cũng như nghĩa vụ pháp lý của NNT, đồng

thời cũng gây tác động xấu đến hiệu quả QLT. Bên cạnh đó, trong quá trình

tuân thủ pháp luật thuế, từ phía NNT có thể phát sinh các rủi ro chủ động. Lúc

này, NNT đã ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong thực hiện các

quy định của pháp luật thuế, nhưng họ cố tình không tuân thủ, không thực hiện

đầy đủ các quy định đó với mục đích làm giảm nghĩa vụ thuế của mình. Khi

đó, NNT không thực hiện việc khai thuế một cách đầy đủ, kịp thời; không tuân

thủ các quy định về sử dụng hóa đơn, chứng từ; thực hiện nghĩa vụ nộp thuế

chưa đầy đủ, kịp thời… Nếu các hành vi này không bị phát hiện và xử lý, NNT

sẽ được hưởng những khoản lợi ích bất hợp pháp từ việc cố tình không tuân thủ

của mình và sẽ gây ra các tổn hại đến hiệu quả QLT của CQT, đến nguồn thu

ngân sách, tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật thuế.

Như vậy, với các chủ thể khác nhau, rủi ro về thuế được nhìn nhận dưới

43

các góc độ khác nhau. Các rủi ro trong công tác QLT của CQT và rủi ro trong

quá trình tuân thủ của NNT có thể làm giảm hiệu quả của hoạt động QLT và

tính nghiêm minh của pháp luật thuế; không thực hiện được các mục tiêu về

huy động số thu cho NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội và thực hiện

công bằng xã hội.

Trên giác độ nghiên cứu về hoạt động QLT của CQT, mục tiêu chính

yếu của hoạt động này là nâng cao hiệu quả công tác QLT, nâng cao ý thức

tuân thủ pháp luật thuế một cách tự nguyện của NNT. Do đó, các rủi ro trong

QLT của CQT tập trung vào những bất lợi dẫn đến giảm sút hiệu quả của

công tác QLT và các hiện tượng không tuân thủ đầy đủ chính sách pháp luật

thuế của NNT. Vấn đề đặt ra là CQT cần nắm bắt, xác định được các rủi ro có

thể xảy ra và có biện pháp quản lý phù hợp để xử lý các rủi ro này theo hướng

nâng cao hiệu quả QLT.

Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, rủi ro trong QLT sẽ được

xem xét trên 2 góc độ: rủi ro phát sinh trong quá trình thực thi các hoạt động

QLT của CQT và rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ pháp luật thuế của

NNT. Cách tiếp cận này có những điểm mở rộng hơn so với các nghiên cứu

trước đây cũng như các quy định về QLRR trong QLT hiện hành ở Việt Nam.

Cụ thể, trong các nghiên cứu trước đây, rủi ro trong QLT thường tập

trung ở khía cạnh rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ thuế của NNT.

Luận án Tiến sĩ của Trần Huy Trường có đưa ra khái niệm rủi ro về thuế như

sau: “Rủi ro về thuế được hiểu một cách chung nhất là những sự kiện hoặc

hành vi không tuân thủ cơ chế, chính sách và pháp luật về thuế xảy ra trong

thực tế (trong môi trường, hoàn cảnh nhất định nào đó) như không kê khai

thuế, không nộp thuế, mua bán hóa đơn chứng từ hoặc cán bộ thuế không làm

đúng quy định… làm ảnh hưởng đến hiệu quả QLT và số thu vào NSNN”.

Tương tự, Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ tài

chính quy định về QLRR trong QLT “Rủi ro về thuế là nguy cơ không tuân

thủ chính sách pháp luật thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác thuộc NSNN

44

của NNT dẫn đến thất thu NSNN trong quản lý thu thuế”. Tại Thông tư số

31/2021/TT-BTC ngày 17/5/2021 quy định về QLRR trong QLT (thay thế

Thông tư 204/2012/TT-BTC) nói trên, khái niệm rủi ro về thuế không được

nêu ra, nhưng các nội dung trong thông tư đều tập trung vào rủi ro NNT trên

cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT.

b. Các hình thức rủi ro trong QLT

Để thực hiện tốt việc QLRR trong QLT thì cần phải có được nhận diện,

phân loại các nhóm rủi ro khác nhau từ đó đưa ra được cách tiếp cận, phân

tích và biện pháp thực hiện phù hợp. Như đã xác định ở trên, các rủi ro trong

QLT xét ở góc độ quản lý của cơ quan thuế bao gồm các rủi ro từ phía QLT

của CQT và các rủi ro từ phía NNT trong quá trình tuân thủ pháp luật thuế.

(1) Rủi ro trong hoạt động QLT của CQT:

Hoạt động QLT của CQT bao gồm nhiều nội dung, nhiều khâu thực

hiện. Rủi ro có thể phát sinh ở tất cả các nội dung và khâu thực hiện đó, trong

đó có các rủi ro chủ yếu sau:

- Rủi ro trong xác lập cơ chế QLT: Cơ chế QLT hay cơ chế hành thu là

cách thức mà chủ thể quản lý lựa chọn để tác động đến hành vi tính thuế, nộp

thuế của NNT. Từ trước đến nay, có hai cơ chế hành thu chủ yếu là cơ chế

thông báo thuế và cơ chế tự tính thuế, trong đó cơ chế tự tính thuế là cơ chế

phổ biến hiện nay.

Tự tính thuế là cơ chế mà NNT tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp

của mình theo luật định và chủ động nộp thuế cho Nhà nước theo số thuế mà

mình đã tính toán và theo thời hạn quy định của pháp luật thuế. Cơ chế tự tính

thuế chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu nó được áp dụng trong những điều

kiện nhất định. Cụ thể: hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân

có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu các quy định của luật thuế; trình độ dân trí

cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân tốt; công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả tích cực; các cơ quan hành pháp phải

có năng lực quản lý cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản

45

lý NNT; hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế cao; chế tài pháp luật

đủ nghiêm để răn đe và trừng trị các hành vi vi phạm luật thuế và các quy

định về kê khai, nộp thuế… Nếu các yếu tố trên không đảm bảo sẽ dẫn đến

các rủi ro, ảnh hưởng đến hiệu quả QLT.

- Rủi ro trong tổ chức bộ máy QLT: Bộ máy thu thuế là tổng thể các cơ

quan hành chính có quan hệ hữu cơ với nhau trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ

và quan hệ công tác được quy định để tổ chức thực thi các luật thuế. Nhìn

chung, bộ máy thu thuế cần đạt được ba yêu cầu cơ bản là: phải phù hợp với

tổ chức bộ máy nhà nước; phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử; phải đảm bảo tính hiệu quả (cơ cấu

tổ chức hợp lý, không chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ; sử dụng ít nhân

lực mà vẫn hoàn thành khối lượng công việc lớn với chất lượng quản lý cao;

khai thác tốt mọi nguồn thu, hoàn thành dự toán thu với chi phí hành thu tiết

kiệm nhất…). Nếu các yêu cầu trên không được đảm bảo, rủi ro sẽ xảy ra và

ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy QLT nói riêng và của hoạt

động QLT nói chung.

- Rủi ro trong xây dựng quy trình QLT: Quy trình quản lý thu thuế là

trình tự thực hiện các bước công việc trong quản lý thu thuế và trách nhiệm

thực hiện các bước công việc đó của các bộ phận trong cơ quan thuế. Quy

trình QLT phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản là: phải được quy định rõ ràng

trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các văn bản của cơ quan QLT, và

được công khai đến mọi chủ thể có liên quan; phải có sự phân công, phân

nhiệm rõ ràng cho các bộ phận trong cơ quan thuế trong việc thực hiện các

công việc của quy trình QLT; các phần việc trong một quy trình quản lý và

giữa các quy trình QLT phải được sắp xếp khoa học, liên hoàn, thống nhất

theo thứ tự yêu cầu quản lý và thuận lợi cho NNT. Nếu các yêu cầu này

không được đảm bảo một cách đầy đủ, các rủi ro sẽ xuất hiện trong quá trình

quản lý, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động QLT.

- Rủi ro trong thực hiện các chức năng QLT:

46

+ Rủi ro trong tuyên truyền, hỗ trợ NNT: tuyên truyền, hỗ trợ NNT là

các hoạt động của CQT hướng đến NNT nhằm nâng cao nhận thức pháp luật

về thuế, làm tăng tính tuân thủ tự nguyện của NNT trong việc thực hiện pháp

luật thuế; làm giảm gánh nặng chi phí cho việc thực hiện các luật thuế của

NNT và tăng sự tin tưởng của NNT vào hệ thống thuế và do đó, làm tăng sự

tin tưởng vào chính phủ. Rủi ro về thuế phát sinh trong quá trình tuyên truyền,

hỗ trợ NNT khi nội dung tuyên truyền, hỗ trợ NNT chưa thật sự chuẩn xác;

hình thức tuyên truyền, hỗ trợ còn nghèo nàn; đối tượng tuyên truyền, hỗ trợ

chưa phù hợp… sẽ dẫn đến hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ kém hiệu quả, ảnh

hưởng đến hiệu quả QLT nói chung.

+ Rủi ro trong quản lý thông tin NNT: Rủi ro xảy ra khi CQT không xác

định được các đối tượng không đăng ký thuế theo quy định của pháp luật

thuế; hệ thống quản lý thông tin NNT của CQT không kịp thời, cập nhật.

Những rủi ro này sẽ dẫn đến các hệ quả như bỏ sót việc quản lý NNT; không

nắm bắt đầy đủ, kịp thời các thông tin, dữ liệu về NNT phục vụ cho QLT…

điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả QLT do thông tin đối tượng quản lý

không chính xác, kịp thời và đầy đủ.

+ Rủi ro trong quản lý kê khai thuế: Quản lý kê khai thuế là hoạt động

của CQT ghi nhận, phản ánh, theo dõi tình hình nộp hồ sơ khai thuế của NNT

và phân tích, đánh giá tính chính xác, trung thực, đúng pháp luật của hồ sơ

khai thuế. Để thực hiện QLT, đòi hỏi CQT phải quản lý được tình trạng kê

khai thuế của NNT. Để đảm bảo số thuế kê khai là đúng, chính xác và phù

hợp với hệ thống chính sách thuế cũng như pháp luật có liên quan thì nội

dung công tác kê khai thuế bao gồm những vấn đề chủ yếu gồm: quản lý

người khai thuế; quản lý hồ sơ khai thuế (số lượng các tờ khai, mẫu biểu và

tài liệu trong hồ sơ do NNT nộp cho CQT và quản lý cả chất lượng của việc

kê khai các nội dung trong tờ khai, tài liệu... có liên quan); quản lý thời hạn kê

khai thuế.

Các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện quản lý khai thuế khi

47

CQT xử lý hồ sơ khai thuế của NNT không chính xác, kịp thời; không có các

biện pháp cần thiết để đảm bảo NNT nộp hồ sơ khai thuế đúng theo quy

định… Những rủi ro này sẽ dẫn đến hệ quả là việc xác định nghĩa vụ thuế của

NNT không thật sự chính xác, xử lý sai phạm của NNT không kịp thời, gây

thất thu và bất công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT.

+ Rủi ro trong đôn đốc nộp thuế và xử lý nợ thuế: Một yêu cầu cơ bản

được đặt ra trong QLT là số thuế được NNT nộp đầy đủ, đúng hạn theo quy

định vào NSNN. Trong nhiều trường hợp, vì những nguyên nhân khác nhau,

NNT không nộp đầy đủ, đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN sẽ dẫn đến

tình trạng nợ đọng thuế, gây thất thu ngân sách và bất công bằng trong thực

hiện nghĩa vụ thuế của NNT.

Các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng đôn đốc

thu nộp và xử lý nợ đọng là: CQT không nắm bắt được tình trạng nộp thuế

của NNT; số thuế nộp vào NSNN không đầy đủ, kịp thời; số tiền nợ thuế và

số NNT còn nợ thuế ngày càng tăng; các biện pháp quản lý nợ thuế và cưỡng

chế nợ thuế mà CQT áp dụng không có hiệu quả. Những rủi ro này sẽ ảnh

hưởng lớn đến hiệu quả QLT khi mà số thu NSNN không kịp thời, đầy đủ;

pháp luật thuế không được tuân thủ…

+ Rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế: Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm

giám sát hoạt động QLT và tuân thủ thuế; phát hiện, ngăn ngừa, xử lý kịp thời

các hành vi không tuân thủ; đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm

túc, đầy đủ; nâng cao ý thức tuân thủ của NNT. Hoạt động này có phạm vi

rộng, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

năng lực cũng như đạo đức công vụ của cán bộ thuế. Các rủi ro có thể xảy ra

trong kiểm tra, thanh tra thuế như: Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không

thật sự đúng đối tượng cần kiểm tra, thanh tra do tiêu chí lựa chọn chưa phù

hợp; quy trình thanh tra chưa hoàn thiện; bỏ sót đối tượng cần thanh tra, kiểm

tra; nguồn lực sử dụng cho thanh tra, kiểm tra lãng phí, kém hiệu quả; không

ngăn ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời, đầy đủ các hành vi không tuân thủ; ý

48

thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT không được nâng lên…

Các rủi ro về thuế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan từ phía CQT và

hoạt động QLT của CQT sẽ được loại bỏ nếu CQT khắc phục các nhược điểm

trong quá trình QLT, bằng việc nâng cao chất lượng, năng lực công tác, đạo

đức công vụ của đội ngũ công chức; hoàn thiện quy trình QLT; thực hiện tốt

các chức năng QLT…

(2) Rủi ro trong hoạt động tuân thủ pháp luật thuế của NNT:

Hoạt động tuân thủ thuế của NNT bao gồm các nội dung chính như đăng

ký thuế, khai thuế, nộp thuế, sử dụng hóa đơn, chứng từ và tuân thủ các quyết

định hành chính thuế. Các rủi ro trong QLT xuất phát từ phía NNT cũng

thường phát sinh ở các nội dung tuân thủ này. Cụ thể có các rủi ro chính sau:

- Rủi ro đăng ký thuế: Đăng ký thuế là nội dung đầu tiên mà NNT cần

thực hiện khi kê khai theo các biểu mẫu quy định và nộp tờ khai thông tin cho

CQT QLT nhằm bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo các

quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động này, CQT sẽ có những thông tin

ban đầu định danh cho NNT: tên, địa chỉ, chủ sở hữu, email, số điện thoại...

và từ đó đưa ra cách quản lý phù hợp.

Hiện nay, việc thực hiện đăng ký thuế được kết hợp ngay từ khi làm thủ

tục đăng ký kinh doanh tại sở kế hoạch đầu tư (đối với doanh nghiệp, tổ chức

kinh tế) và có thể thực hiện đăng ký trực tiếp với CQT trên địa bàn. Đối tượng

đăng ký thuế sẽ được cấp một mã số thuế riêng và NNT dùng mã số thuế này để

thực hiện tất các các hoạt động liên quan đến QLT như: kê khai, nộp thuế, hoàn

thuế... NNT sử dụng mã số thuế trên các giấy tờ giao dịch liên quan đến hoạt động

SXKD như: hóa đơn, chứng từ khi mua bán hàng hóa dịch vụ, giao dịch với ngân

hàng. Những thông tin CQT có được qua việc đăng ký thuế của NNT là cơ sở

dữ liệu quan trọng giúp CQT thực hiện tất cả các nội dung QLT, từ khâu quản

lý NNT, tuyên truyền, hỗ trợ, quản lý khai thuế, đôn đốc nộp thuế, thanh tra,

kiểm tra… Vì vậy, nếu NNT không tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp

luật thuế về đăng ký thuế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác

49

QLT. Đây chính là các rủi ro xuất phát từ việc đăng ký thuế của NNT.

Các rủi ro phát sinh trong đăng ký thuế của NNT bao gồm:

+ NNT đã đăng ký thuế nhưng thuộc diện không đủ điều kiện để đăng

ký: nhóm đối tượng này là NNT gian lận thuế, NNT đã hết quyền đăng ký

nhưng do lỗi sai sót dẫn đến việc vẫn được đăng ký.

+ NNT thuộc diện phải đăng ký thuế nhưng lại không thực hiện đăng ký

thuế: là các chủ thể tham gia vào nền kinh tế không chính thức/sử dụng tiền

mặt và tìm mọi biện pháp để tránh thuế, từ đó dẫn đến không thực hiện đăng

ký thuế theo quy định.

+ Thông tin NNT đăng ký trên hệ thống không chính xác: Thông tin

đăng ký thuế ban đầu của NNT không phản ánh đúng thực tế hoạt động

SXKD của họ về các nội dung như: ngành nghề, quy mô, vốn, lao động, địa

chỉ… sẽ làm cho thông tin cập nhật trên dữ liệu của CQT không chính xác.

Điều này dẫn đến việc CQT không xác định đúng NNT cần quản lý, các nội

dung cần tập trung quản lý…từ đó gây lãng phí, kém hiệu quả trong QLT.

Ngoài ra, trong trường hợp NNT trên thực tế đã thay đổi thông tin nhưng

không khai báo, làm thông tin dữ liệu lưu trữ trên hệ thống không còn đúng là

một rủi ro tiềm tàng có thể gây thất thu thuế.

- Rủi ro trong khai thuế: Khai thuế là việc NNT thực hiện kê khai các

thông tin, chỉ tiêu theo biểu mẫu quy định để xác định nghĩa vụ thuế thực tế

phát sinh trong kỳ tính thuế trên cơ sở hoạt động SXKD của mình. NNT được

quyền thực hiện tự khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm về những nội dung đã

khai báo. Trong trường hợp CQT xác định NNT không trung thực thì sẽ thực

hiện biện pháp ấn định thuế theo quy định của pháp luật thuế. Hồ sơ khai thuế

và thông tin trên hồ sơ khai thuế là các căn cứ quan trọng nhất để xác định

nghĩa vụ thuế của NNT và cũng là một tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ

tuân thủ thuế của NNT hay mức độ rủi ro từ NNT qua việc khai thuế của họ.

Nếu NNT không tuân thủ đầy đủ việc khai thuế thì nghĩa vụ thuế của họ sẽ

không được xác định một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời; từ đó sẽ gây ra tác

50

động tiêu cực đến hiệu quả công tác QLT và tính công bằng trong thực hiện

nghĩa vụ thuế. Các rủi ro trong kê khai thuế xuất phát từ hành vi không tuân

thủ của NNT như: NNT không thực hiện kê khai thuế; không nộp hồ sơ khai

thuế theo quy định; chậm nộp hồ sơ khai thuế; chậm bổ sung hồ sơ, chứng từ

thuế theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của CQT; kê khai nhầm,

kê khai không chính xác nghĩa vụ thuế thông thường làm giảm số thuế phải

nộp và tăng số thuế được hoàn…

- Rủi ro trong nộp thuế: Trên cơ sở số thuế phải nộp đã được xác định

thông qua việc khai thuế của NNT hoặc qua quyết định về ấn định thuế, quyết

định về truy thu, xử lý về thuế qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của CQT

hoặc các cơ quan có thẩm quyền theo quy định, NNT phải thực hiện việc nộp

số tiền thuế vào NSNN theo đúng thời hạn của từng sắc thuế. Tiền thuế được

nộp vào NSNN thông qua kho bạc nhà nước, qua tổ chức trung gian được

CQT ủy nhiệm thu thuế, thông qua các NHTM, tổ chức tín dụng khác và các

tổ chức dịch vụ theo quy định.

Các rủi ro từ góc độ tuân thủ của NNT trong việc nộp thuế gây ảnh

hưởng đến hiệu quả QLT bao gồm: Không nộp thuế khi đã đến thời hạn nộp

theo quy định; Nộp thiếu, số phải nộp không chính xác so với số đã kê khai

trên hồ sơ… Điều này sẽ làm cho số thuế nộp vào NSNN không đầy đủ, kịp

thời, ảnh hưởng đến mục tiêu đảm bảo nguồn thu và gây bất công bằng giữa

các NNT về thực hiện nghĩa vụ thuế.

2.2. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

2.2.1. Khái niệm, nguyên tắc của quản lý rủi ro trong quản lý thuế

2.2.1.1 Khái niệm quản lý rủi ro và quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Năm 1996, Peter L.Bernstein - học giả người Mỹ chuyên gia đầu ngành

về QLRR đã có một câu nói nổi tiếng:“Ý tưởng cách mạng vạch ra ranh giới

giữa thời hiện đại và quá khứ đã qua là ý tưởng cho rằng rủi ro là sự kiện có

thể quản lý được”. Từ việc phòng chống, giải quyết hậu quả rủi ro gây ra, con

người đã bắt đầu nghiên cứu, thực hiện QLRR để tối thiểu hoá các tác động

51

xấu mà rủi ro có thể gây ra cho con người hoặc tác động đến các hoạt động

của đời sống kinh tế xã hội và môi trường sống; đồng thời tối đa hoá các lợi

ích mà rủi ro có thể đem lại.

QLRR là một quá trình nhận diện, đánh giá, phân tích để có phương án

giải quyết một cách có hệ thống nhằm tối đa hóa khả năng xảy ra khi có hệ

quả tích cực và tối thiểu hóa khả năng xảy ra khi có hệ quả tiêu cực. QLRR là

quá trình lựa chọn và thực hiện các giải pháp trong bối cảnh nguồn lực có hạn

để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến sự thành công của một tổ chức.

Qua các nội dung trên, có thể hiểu, QLRR là quá trình tiếp cận rủi ro

một cách toàn diện, khoa học và có hệ thống nhằm nhận diện, kiểm soát,

phòng ngừa và giảm thiếu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi

của rủi ro.

QLRR có các đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, QLRR là một quá trình có tính chu kỳ liên tục không ngừng

phát triển từ xác định rủi ro đến xử lý rủi ro. Theo đó, quá trình QLRR cần

được xử lý một cách có hệ thống.

Thứ hai, Đa số những rủi ro mang lại kết quả bất lợi, vì vậy QLRR chủ

yếu tập trung vào việc phòng chống và giảm nhẹ tác hại mà rủi ro có thể gây

ra. Thông qua việc nhận dạng rủi ro có thể giúp nhà quản lý phát hiện sớm

được rủi ro có thể xảy ra để có phương hướng phòng tránh rủi ro, hoặc bằng

các cách thức xử lý rủi ro khác nhau để làm giảm tác hại của rủi ro.

Thứ ba, QLRR được thống nhất từ chủ trương chính sách chung cho đến

các nội dung thực hiện cụ thể. Do đó, quá trình thực hiện cần phân định rõ

quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân. Điểu này hỗ trợ cho việc nâng

cao tinh thần trách nhiệm, xác định kết quả công việc và thành tích do đó thúc

đẩy hiệu quả hoạt động ở tất cả các cấp độ.

QLRR là môn khoa học không chính xác nên ở các lĩnh vực khác nhau có

các nội dung QLRR khác nhau. QLRR được khái quát hoá theo từng bối cảnh

ngành nghề riêng như hoạt động kinh doanh, bảo hiểm, QLNN, QLT…

52

Theo quan điểm nghiên cứu của tổ chức OECD, QLRR trong QLT được

hiểu theo các nội dung sau đây:

Thứ nhất, QLRR trong QLT là một quá trình nhận diện, đánh giá, phân

tích để có phương án giải quyết một cách có hệ thống nhằm tối đa hóa khả

năng xảy ra khi có hệ quả tích cực và tối thiểu hóa khả năng xảy ra khi có hệ

quả tiêu cực.

Thứ hai, QLRR trong QLT là quá trình lựa chọn và thực hiện các giải

pháp trong bối cảnh nguồn lực có hạn để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến

sự thành công của CQT.

Thứ ba, QLRR trong QLT là một quá trình đo lường hay đánh giá về quy

mô hoặc tính chất nghiêm trọng của một sự việc, một hiện tượng, một vấn đề,

trên cơ sở đó lập chiến lược QLRR về thuế phù hợp.

Từ cách hiểu trên về rủi ro và QLRR cho thấy, bản chất của QLRR trong

QLT thuế là quá trình nhận diện, kiểm soát, phòng ngừa các rủi ro có thể xảy

ra trong hoạt động QLT nhằm giảm thiếu các tổn thất, mất mát, những ảnh

hưởng bất lợi của rủi ro đó.

Các rủi ro cần xác định, phân loại, đánh giá để tập trung nguồn lực quản

lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất được hiểu bao gồm: các rủi ro phát sinh

từ hoạt động quản lý của CQT và các rủi ro phát sinh trong quá trình tuân thủ

pháp luật thuế của NNT.

Từ góc độ hoạt động quản lý của CQT, QLRR là quá trình nhận diện,

kiểm soát các rủi ro có thể xảy ra khi CQT thực hiện các nội dung QLT để

ngăn ngừa, kiểm soát hoặc giảm thiếu các tác động xấu của các rủi ro này.

Từ góc độ tuân thủ của NNT, QLRR trong QLT là việc phân loại, đánh

giá NNT dựa trên hệ thống những tiêu thức rủi ro về thuế nhằm xác định

những NNT có mức độ tuân thủ thấp và khả năng gian lận cao về thuế để tập

trung nguồn lực quản lý theo nguyên tắc ưu tiên nguồn lực để quản lý chặt

chẽ hơn những NNT có thể mang lại tổn thất lớn nhất và những sai phạm có

nhiều khả năng xảy ra nhất.

53

Như vậy, QLRR trong QLT là dành ưu tiên mọi nguồn lực vào quản lý

những rủi ro về thuế có thể gây ra những tổn thất lớn nhất và những rủi ro có

nhiều khả năng xảy ra nhất, tiếp đến là quản lý những rủi ro có tổn thất thấp

hơn và ít có khả năng xảy ra hơn.

Điều này cũng thể hiện tại Luật QLT số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019.

Cụ thể, tại điểm 15, điều 3 Luật này có quy định: “QLRR trong QLT là việc

áp dụng có hệ thống các quy định pháp luật, các quy trình nghiệp vụ để xác

định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể tác động tiêu cực đến hiệu quả,

hiệu lực QLT, làm cơ sở để cơ quan QLT phân bổ nguồn lực hợp lý và áp

dụng các biện pháp quản lý hiệu quả”.

2.2.1.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Để đảm bảo được mục đích quan trọng của QLRR là giảm thiểu những

hậu quả xấu có thể xảy ra với một tổ chức, theo Tổ chức chuẩn mực quốc tế,

QLRR nói chung, QLRR trong QLT nói riêng cần tuân theo các nguyên tắc

chung sau:

- Tạo ra giá trị: QLRR cũng là một bộ phận trong hoạt động quản lý của

con người, mà nguyên tắc chung của quản lý là phải tạo ra tính hiệu quả. Điều

này có nghĩa là nhờ quản lý, các hoạt động của con người sẽ mang lại hiệu

quả cao hơn. Do đó, đòi hỏi việc thực hiện QLRR phải đem lại hiệu quả cao

hơn so với khi chưa thực hiện QLRR. Nếu không tạo ra giá trị thì không cần

thực hiện QLRR vì hoạt động này trở nên vô nghĩa.

- Phải là một bộ phận cấu thành của quá trình tổ chức: Xuất phát từ định

nghĩa của quản lý, cho thấy, gắn với quản lý là quá trình tổ chức con người để

thực hiện những mục tiêu đã định. Như vậy, QLRR đòi hỏi phải tuân thủ

nguyên tắc khi xác định cơ cấu tổ chức và tiến hành tổ chức hoạt động của con

người phải tính đến yếu tố rủi ro chứ không phải là thực hiện QLRR sau khi đã

giải quyết xong vấn đề tổ chức. Chẳng hạn như, QLRR về thuế đòi hỏi phải có

thông tin về NNT và phải phân tích thông tin có được để biết những NNT nào

có khả năng gian lận cao nhất. Để thỏa mãn đòi hỏi này, phải bố trí bộ phận thu

54

thập thông tin, bộ phận xử lý và phân tích thông tin cũng như phải quy định

những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận này.

- Phải là một bộ phận của quá trình ra quyết định: Bản chất của QLRR

là quá trình lựa chọn và tổ chức thực hiện các giải pháp trong bối cảnh nguồn

lực có hạn để giảm thiểu nguy cơ xấu đe dọa đến sự thành công của một tổ

chức. Việc lựa chọn và hiện thực hóa các giải pháp đó chỉ có thể được thực

hiện thông qua việc ra quyết định. Nếu quá trình ra quyết định độc lập với quá

trình QLRR thì không có sự áp dụng kỹ thuật QLRR.

- Phải xác định được xác suất xảy ra của hiện tượng: Xác định xác suất là

xác định khả năng có thể xảy ra một sự vật, hiện tượng gắn với những điều kiện

nhất định. Mục đích của QLRR là ưu tiên nguồn lực xử lý những rủi ro có khả

năng xảy ra nhất. Do vậy, cần xác định được xác suất xảy ra của hiện tượng.

- Có hệ thống và có cấu trúc cụ thể: Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác

định được tổng thể các yếu tố có thể rủi ro cũng như các yếu cấu thành từng

rủi ro. Cần thực hiện nguyên tắc này vì đây là cơ sở để xem xét đầy đủ rủi ro

và có cách thức xử lý với từng loại rủi ro cụ thể.

- Phải dựa trên những thông tin sẵn có và tốt nhất: Thông tin là yếu tố

thiết yếu của quản lý nói chung và QLRR nói riêng. Muốn nhận diện và đánh

giá được rủi ro cần phải có thông tin về đối tượng quản lý và môi trường mà

nó hoạt động. Chằng hạn như, trong QLT, muốn thực hiện kỹ thuật QLRR thì

cần nắm được thông tin về NNT (ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh

doanh, đặc điểm tổ chức kinh doanh, các khách hàng chủ yếu, thậm chí cả

thân nhân của chủ doanh nghiệp…).

- Phải thích ứng với những điều kiện thực tế: Nguyên tắc này đòi hỏi

việc nhận diện và đánh giá rủi ro phải dựa trên những điều kiện thực tế. Đồng

thời, nó cũng đòi hỏi trong quá trình xử lý rủi ro phải điều chỉnh việc sử dụng

nguồn lực và tổ chức hoạt động của con người theo những điều kiện thực tế

khi những điều kiện nhận diện trước đó không còn đúng nữa. Nguyên tắc này

xuất phát từ mối quan hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng trên thế giới

55

cũng như sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa chúng. Khi điều kiện trong đó

một hiện tượng, một sự vật tồn tại thay đổi thì sự vận động của nó có thể thay

đổi, kéo theo xác suất xảy ra và những hệ quả của nó thay đổi theo. Muốn

đảm bảo hiệu quả của quản lý, thì QLRR phải điều chỉnh để thích ứng với

những điều kiện thực tế luôn biến đổi.

- Phải tính toán đến yếu tố con người: Con người được coi là nhất tố

quyết định đến mọi sự thành bại trong quản lý vì suy cho cùng mọi hoạt động

kinh tế xã hội đều vì con người và do con người thực hiện. Do đó, QLRR

không tính đến yếu tố con người thì sẽ không thể thành công.

- Minh bạch và toàn diện: Minh bạch có thể coi vừa là nguyên tắc, vừa là

yêu cầu của mọi hoạt động quản lý. Minh bạch giúp những người tham gia

vào quá trình quản lý hiểu được đầy đủ về đối tượng quản lý, và do đó, thực

hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình. Thực hiện nguyên tắc toàn diện giúp nhận

diện đầy đủ các rủi ro, nhận diện đầy đủ các yếu tố tác động đến rủi ro và hoạt

động của tổ chức, qua đó, nâng cao hiệu quả QLRR.

- Có khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển: Nguyên tắc này đòi hỏi,

QLRR phải được xây dựng theo một cơ chế mở để có thể tiếp tục hoàn thiện

và phát triển khi những nhận thức mới về đối tượng quản lý và chính con

người quản lý thay đổi và phát triển.

Bên cạnh các nguyên tắc chung nói trên, QLRR trong QLT cần quán

triệt thêm một số nguyên tắc cụ thể sau đây:

Về cơ bản CQT Việt Nam đã kế thừa cách tiếp cận và các nội dung

QLRR theo nghiên cứu của tổ chức OECD vào công tác QLRR của ngành

Thuế. Điều này được thể hiện qua các góc độ sau:

Thứ nhất, QLRR được thực hiện có tính hệ thống, có sự phối hợp chặt

chẽ giữa các bộ phận chức năng của CQT, các biện pháp để thu thập thông tin

xác định, đánh giá và kiểm soát rủi ro.

Thứ hai, QLRR được thực hiện ở hầu hết các khâu trong công tác QLT:

đăng ký thuế; khai thuế, nộp thuế; hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; phân

56

đoạn NNT để thực hiện các biện pháp quản lý trong việc tạo, in, phát hành,

quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế.

Thứ ba, QLRR có vai trò thu thập, phân tích thông tin, xác định trọng

điểm giám sát đối với NNT có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; cung cấp

thông tin, dữ liệu, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong QLT.

Thứ tư, Việc thực hiện QLRR nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT tạo

môi trường thuận lợi cho hoạt động SXKD của NNT đồng thời bảo vệ quyền

đánh thuế của quốc gia.

2.2.2. Nội dung quản lý rủi ro trong quản lý thuế

2.2.2.1. Xây dựng hành lang pháp lý về QLRR trong QLT

QLT là quản lý bằng pháp luật đối với các tổ chức và cá nhân được xác

định thuộc đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nên để

thực hiện QLRR trong QLT cần phải xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp

lý về QLRR trong QLT. Đây là cơ sở pháp lý để xác định nghĩa vụ của NNT

và các đối tượng có liên quan trong việc cung cấp thông tin về tuân thủ pháp

luật thuế của NNT; Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân

thủ pháp luật thuế của NNT; Xây dựng các phương thức QLT tương ứng với

từng nhóm NNT theo mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ.

2.2.2.2. Tổ chức bộ máy QLRR trong QLT

Bộ máy QLT sẽ thực hiện tất cả các chức năng về QLT và các nội dung

QLT cụ thể. Bộ máy QLT của một quốc gia không chỉ là CQT mà còn là hệ

thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bộ máy QLT là một hệ thống các

bộ phận cấu thành nội tại, có mối quan hệ lẫn nhau và mối quan hệ với các tổ

chức bên ngoài hệ thống. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, đối tượng và yêu

cầu quản lý trong từng thời kỳ mà các bộ phận cấu thành phải được điều

chỉnh cho phù hợp. Trên giác độ xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức QLT

khi thực hiện theo kỹ thuật QLRR, cần xác định xem có cần tổ chức chuyên

trách về QLRR trong QLT hay không, hay giao nhiệm vụ này cho các bộ

phận có liên quan để cùng thực hiện trong chu trình QLT. Nếu có một tổ chức

57

riêng thì chức năng, nhiệm vụ của bộ phận này như thế nào và mối quan hệ

với các bộ phận khác trong CQT. Nếu không tổ chức riêng thì từng bộ phận

cụ thể trong CQT có nhiệm vụ như thế nào trong việc thực hiện kỹ thuật

QLRR và mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận với nhau...

2.2.2.3 Tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT

QLRR trong QLT được thực hiện trong tất cả các chức năng quản lý của

CQT như: Tuyên truyền, hỗ trợ NNT; Kê khai tính thuế, nộp thuế; Miễn thuế,

giảm thuế, hoàn thuế; Thanh tra, kiểm tra thuế; Quản lý nợ và cưỡng chế

thuế…QLRR trong các chức năng QLT được tiến hành qua một số bước công

việc chủ yếu sau đây:

(1) Thu thập thông tin, xây dựng dữ liệu về tuân thủ pháp luật thuế của

NNT

Rủi ro trong QLT xuất phát chủ yếu từ các hành vi không tuân thủ pháp

luật thuế của NNT. Do đó, để quản lý được các rủi ro này, CQT phải xác định

được các rủi ro phát sinh từ NNT thông qua việc đánh giá mức độ tuân thủ

pháp luật thuế của họ. Do đó, để xác định mức độ rủi ro từ tuân thủ pháp luật

thuế của NNT, CQT cần thu thập các thông tin cần thiết về mức độ tuân thủ

pháp luật thuế của NNT.

Tuân thủ pháp luật thuế của NNT thể hiện ở việc chấp hành đầy đủ, kịp

thời và đúng đắn các quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc chấp hành các

tiêu chí thời gian, mức độ chính xác trung thực và đầy đủ của các hoạt động

đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ khác về thuế của NNT. Do

đó, các thông tin về sự tuân thủ pháp luật thuế của NNT cũng được tập hợp

trên cơ sở các nội dung này.

Thông tin về NNT nói chung, về tuân thủ pháp luật thuế của NNT nói

riêng có thể được thu thập dựa trên nhiều nguồn khác nhau như:

- CQT thu thập thông qua quá trình QLT như: Đăng ký thuế; kê khai

thuế, nộp thuế; nợ thuế; miễn, giảm thuế; kê khai hoàn thuế, hoàn thuế; kiểm

tra, thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế; thông tin

58

từ kết quả kiểm tra, thanh tra; xử lý nợ thuế; các thông tin, các văn bản phạt vi

phạm hành chính về pháp luật thuế; nợ thuế và các biện pháp khác của CQT

từng thời kỳ. Đây là nguồn thông tin cơ bản, đầy đủ và phản ánh chính xác

nhất mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT.

- Thông tin từ các hồ sơ khai thuế, hồ sơ hải quan; các Báo cáo tài chính,

Báo cáo niêm yết; các Báo cáo khác của NNT.

- Thông tin từ các cơ quan QLNN có thẩm quyền và các cơ quan tổ chức

có liên quan về đầu tư; xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; đăng ký và thực tế

sử dụng lao động; thông tin về giao dịch liên kết; thông tin về giao dịch qua

ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng khác; thông tin vi phạm pháp luật hải

quan; vi phạm trong lĩnh vực kế toán, thống kê, tài chính doanh nghiệp, vi

phạm pháp luật kinh tế, dân sự, hình sự.

- Thông tin thu thập từ mua tin, trao đổi thông tin trong nước, ngoài nước,

thông tin chính thức từ các cơ quan QLT, cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài

theo các điều ước quốc tế, các văn bản ký kết giữa Việt Nam và các nước liên

quan đến lĩnh vực thuế, hải quan để sử dụng trong công tác thuế.

- Các nguồn thông tin có liên quan khác.

(2) Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật

thuế của NNT

Các tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của NNT

được xây dựng trên cơ sở hệ thống thông tin về NNT đã thu thập và quản lý

được. Hệ thống tiêu chí này tập trung đánh giá mức độ rủi ro của NNT trong

đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế cũng như trong tuân thủ các quyết định hành

chính khác. Có rất nhiều tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật

thuế của NNT, trong đó, một số tiêu chí cơ bản bao gồm:

- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về mức độ rủi ro trong tuân thủ đăng ký thuế

+ Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng

phải đăng ký thuế. Tỷ lệ này được đo bằng tỷ lệ % giữa số NNT vi phạm về

thời gian đăng ký thuế (bao gồm cả số lượng NNT không đăng ký thuế, chưa

59

đăng ký thuế hay đăng ký thuế muộn so với quy định) so với tổng số đối

tượng phải đăng ký thuế. Tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ rủi ro trong tuân

thủ đăng ký thuế càng cao và ngược lại.

+ Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số NNT

đã thực hiện đăng ký thuế. Tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ mức độ rủi

ro trong tuân thủ thuế càng tốt tốt và ngược lại.

- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về rủi ro trong tuân thủ kê khai, tính thuế

+ Tỷ lệ giữa số tờ khai được nộp so với tổng số tờ khai phải nộp. Các tờ

khai được nộp bao gồm cả tờ khai nộp đúng hạn và tờ khai chậm nộp. Nếu

tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn, mức độ rủi ro thấp

hơn và ngược lại.

+ Tỷ lệ giữa số tờ khai nộp đúng hạn trên tổng số tờ khai đã được nộp.

Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ rủi ro càng thấp và ngược lại.

+ Tỷ lệ số tờ khai có sai sót trên tổng số tờ khai thuế đã nộp. Tiêu chí

này phản ánh sự tuân thủ về hình thức mẫu biểu kê khai của NNT. Tiêu chí

này càng thấp thể hiện mức độ tuân thủ cao, rủi ro thấp và ngược lại.

+ Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT

được thanh tra, kiểm tra. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế,

kiểm tra thuế không đổi thì tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân

thủ tốt, mức độ rủi ro thấp và ngược lại.

+ Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được thanh tra

thuế, kiểm tra thuế. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra

thuế không đổi thì tiêu chí này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân thủ tốt,

mức độ rủi ro thấp và ngược lại.

- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ nộp thuế

+ Tỷ lệ số NNT đúng hạn trên tổng số NNT. Tiêu chí này cho biết tỷ lệ

NNT tuân thủ tự giác trong việc đảm bảo thời hạn nộp thuế theo quy định của

pháp luật. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế càng tốt, mức

độ rủi ro càng thấp và ngược lại.

60

+ Tỷ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải nộp theo

nghĩa vụ thuế của NNT. Tiêu chí này cho biết tỷ lệ số thuế đã được NNT đảm

bảo thời hạn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức

độ tuân thủ thuế tốt, mức độ rủi ro thấp và ngược lại.

+ Tỷ lệ giữa số thuế nợ so với tổng số thuế phải nộp hoặc so với tổng số

thuế ghi thu trong kỳ tính thuế. Nếu tiêu chí này cao chứng tỏ mức độ tuân

thủ trong nộp thuế thấp, mức độ rủi ro cao và ngược lại.

- Các tiêu chí chủ yếu đánh giá về mức độ rủi ro trong tuân thủ việc

chấp hành các quy định khác về thuế có thể được xác định trên cơ sở mức độ

hay tỷ lệ tuân thủ của NNT đối với các quyết định hành chính, các yêu cầu

đối với NNT trong quá trình QLT của CQT.

Hệ thống các tiêu chí nói trên có thể được xác định đối với toàn bộ NNT

hoặc từng NNT; toàn bộ các sắc thuế hay từng sắc thuế tùy theo khả năng và

yêu cầu quản lý. Trong QLRR, do yêu cầu phải phân loại tất cả NNT theo

mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ nên các tiêu chí nêu trên sẽ

được áp dụng đối với từng NNT. Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc đánh giá

chung về hiệu lực QLT hay mức độ tuân thủ chung của NNT, các tiêu chí nêu

trên có thể áp dụng theo toàn bộ NNT hoặc từng nhóm NNT theo lĩnh vực,

loại hình, ngành nghề, địa bàn...

Ngoài ra, một số thông tin có thể sử dụng thêm để đánh giá mức độ rủi

ro trong tuân thủ pháp luật thuế của NNT như: tình hình sản xuất, kinh doanh;

số thuế phải nộp; tình hình tuân thủ/vi phạm các quy định của pháp luật thuế,

kế toán, thống kê, hóa đơn, chứng từ... trong một khoảng thời gian nhất định.

(3) Đánh giá mức độ rủi ro tuân thủ của NNT

CQT thực hiện đánh giá mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế

đối với NNT đang hoạt động để áp dụng các biện pháp QLT và các biện

pháp nghiệp vụ cần thiết khác trong QLT đối với NNT. Việc đánh giá mức

độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT được thực hiện trên hệ

thống thông tin về NNT và các tiêu chí đánh giá rủi ro trong tuân thủ thuế

61

đã được xây dựng.

Đối với các tiêu thức đã xác định, tùy theo mức độ đáp ứng của NNT đối

với từng tiêu thức, CQT sẽ cho điểm tương ứng. Tổng hợp điểm có được của

NNT theo tất cả các tiêu thức sẽ được sử dụng làm căn cứ phân nhóm NNT

theo mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ.

Theo mức độ phân loại rủi ro đã xác định, có thể phân loại NNNT thành

5 nhóm gồm: Nhóm 1 (NNT có mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế

rất thấp); Nhóm 2 (NNT có rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế thấp); Nhóm 3

(NNT có rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế trung bình); Nhóm 4 (NNT có

rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế cao); Nhóm 5 (NNT có rủi ro trong tuân

thủ pháp luật thuế rất cao). Các mức độ rủi ro nói trên cũng thể hiện rõ mức

độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT theo chiều hướng ngược lại; mức độ rủi

ro càng thấp thì mức độ tuân thủ càng tốt. Cách phân loại này nhìn chung là

dễ thực hiện khi căn cứ vào điểm số đánh giá theo từng tiêu chí đã xác định.

Tuy nhiên, trong quản lý cần tiếp tục phân tích mức độ rủi ro trong tuân thủ

pháp luật thuế của NNT theo hai ý chính, đó là ý thức tuân thủ và khả năng

tuân thủ. Có những NNT có ý thức tuân thủ rất tốt nhưng khả năng để tuân

thủ đầy đủ, chính xác, kịp thời các quy định của pháp luật thuế lại không cho

phép họ thực hiện được ý thức tuân thủ đó của mình, dẫn đến mức độ rủi ro

cao. Nhóm này sẽ được đối xử khác so với nhóm không tuân thủ tốt vì ý thức

tuân thủ kém. Để xử lý vấn đề này, thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT

và tình hình thực tế tuân thủ pháp luật thuế của từng NNT, CQT cần tiếp tục

phân tích, đánh giá cụ thể để có hướng đối xử tương ứng.

(4) Xây dựng các phương thức QLT tương ứng với từng nhóm NNT theo

mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của họ

Các nhóm NNT nêu trên rõ ràng có sự khác nhau trong nhận thức cũng

như hành vi tuân thủ thuế, dẫn đến các mức độ rủi ro khác nhau cho hoạt

động QLT của CQT. Nếu nhóm 1, nhóm 2 có ý thức và hành vi tuân thủ rõ

ràng, mức độ rủi ro thấp thì nhóm 4, nhóm 5 lại có tư tưởng, hành vi không

62

tuân thủ nhiều hơn và mức độ rủi ro cao hơn nhiều, trong khi nhóm 3 nằm ở

ngưỡng giữa có thể thay đổi mức độ rủi ro theo các chiều hướng khác nhau

tùy thuộc vào hiệu quả QLRR của CQT. Do đó, phương thức quản lý đối với

các nhóm NNT này cũng không thể thực hiện đồng nhất với nhau. Cụ thể:

- Đối với NNT thuộc nhóm 1: Đây là nhóm có mức độ tuân thủ rất cao,

những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến hiệu quả QLT rất thấp. Phương thức

quản lý của CQT là tạo điều kiện tối đa cho NNT trong quá trình hoàn thành

nghĩa vụ thuế một cách tự nguyện thông qua cải thiện môi trường tuân thủ

thuế; đảm bảo cho NNT có cơ hội tiếp cận với nhiều dịch vụ tốt nhất của

CQT; tối thiểu hoá các khoản chi phí tuân thủ thuế của họ; tạo môi trường

quản lý công bằng giữa những NNT có sự tuân thủ khác nhau.

- Đối với NNT thuộc nhóm 2: Là nhóm có mức độ rủi ro thấp, nhưng

không phải là không có các hành vi không tuân thủ. Phương thức quản lý của

CQT là khuyến khích sự tuân thủ, tiếp tục tạo điều kiện để họ tuân thủ tối đa

pháp luật thuế.

- Đối với NNT thuộc nhóm 3: Là nhóm có mức độ rủi ro trung bình, có thể

thay đổi theo các chiều hướng khác nhau. Phương thức quản lý là cần giám sát,

tác động thêm để làm thay đổi hành vi của họ chuyển sang mức độ tuân thủ cao

hơn; giảm chi phí tuân thủ, tăng tính tự chủ của NNT trong tuân thủ nghĩa vụ

thuế; hỗ trợ thêm NNT trong quá trình tuân thủ, giúp NNT tránh được những vi

phạm luật thuế, tránh được những hình thức xử lý vi phạm của CQT.

- Đối với NNT thuộc nhóm 4: Đây là các nhóm có mức độ rủi ro cao.

Phương thức quản lý của CQT là vừa phải tăng cường hoạt động tuyên

truyền, phổ biến kiến thức để thay đổi nhận thức và hành vi của họ, hỗ trợ họ

trong quá trình tuân thủ, vừa phải tăng cường giám sát, kiểm tra, hạn chế đến

mức thấp nhất những hành vi không tuân thủ của họ.

- Đối với NNT thuộc nhóm 5: đây là nhóm có có chỉ số rủi ro về thuế cao

nhất, họ sẽ không tuân thủ thuế nếu không có sự cưỡng chế và xử lý vi phạm

nghiêm khắc. Các hành vi không tuân thủ có thể là không đăng ký thuế,

63

không nộp hồ sơ khai thuế, cố tình khai sai, trì hoãn nộp thuế, không nộp thuế

lặp lại nhiều lần, thay đổi địa điểm, hoạt động SXKD để trốn thuế, bỏ trốn,

mất tích, tìm kẽ hở của luật để tránh thuế... Sự tuân thủ thuế của nhóm NNT

này rất khó thay đổi bằng các tác động khuyến khích kinh tế, tác động tâm lý

hay ảnh hưởng xã hội. Hành vi tuân thủ của họ chủ yếu bị chi phối bởi các

công cụ thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính và xử lý vi phạm của CQT.

Do vậy, phương thức quản lý của CQT đối với nhóm này là tập trung nguồn

lực thanh tra thuế, kiểm tra thuế và có nhiều biện pháp xử lý nghiêm minh để

họ không thực hiện được các hành vi vi phạm pháp luật thuế, đồng thời kết

hợp với các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, hỗ trợ để họ hiểu và thay đổi tư

tưởng đối phó trong thực hiện nghĩa vụ thuế.

2.2.3. Quy trình quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Theo Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế, quy trình

QLRR bao gồm 7 bước. Về nguyên tắc, quy trình QLRR trong QLT cũng

tuân thủ theo quy trình này, cụ thể như sau:

Bước 1: Xác định hoàn cảnh có thể xảy ra rủi ro

Bước này bao gồm các công việc sau: Xác định lĩnh vực xảy ra rủi ro;

lập kế hoạch về những việc còn phải làm của quy trình; xác định phạm vi xã

hội của rủi ro, đặc điểm và mục tiêu của chủ sở hữu, cơ sở và những giới hạn

qua đó đánh giá rủi ro; phân tích những rủi ro có liên quan đến quy trình quản

lý và làm giảm bớt rủi ro trên cơ sở các nguồn lực về tổ chức, con người và

công nghệ sẵn có. Trong thanh tra, kiểm tra thuế, đây là bước phải thực hiện

các việc như: xác định những thông tin liên quan đến NNT như lĩnh vực kinh

doanh, đặc điểm kinh doanh…

Bước 2: Nhận diện rủi ro

Đây là bước xác định những rủi ro tiềm ẩn- là các rủi ro mà khi xảy ra

thì có thể gây ra tổn thất. Như vậy, nhận diện rủi ro bao gồm cả nhận diện

chính bản thân rủi ro và căn nguyên của rủi ro. Trong thanh tra, kiểm tra thuế,

đây là bước xác định các yếu tố liên quan đến các mức độ có thể xảy ra của

64

rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát gắn với từng NNT cụ thể.

Có một số phương pháp cơ bản để nhận diện rủi ro sau đây:

- Phương pháp nhận diện rủi ro dựa trên cơ sở mục tiêu: Mỗi tổ chức

đều có mục tiêu hoạt động của mình. Bất kỳ một sự kiện nào có thể xảy ra

làm phương hại từng phần hoặc đến toàn bộ mục tiêu đó đều được coi là rủi

ro của tổ chức.

- Phương pháp nhận diện rủi ro dựa trên chuỗi sự kiện tương lai: Theo

phương pháp này, người ta vạch ra một chuỗi sự kiện có liên quan đến hoạt

động tương lai của tổ chức. Chuỗi sự kiện đó đặt ra trong mối tương tác của

các lực lượng có liên quan đến hoạt động của tổ chức, chẳng hạn như các lực

lượng thị trường. Bất kỳ một sự kiện nào gây ra sự kiện không mong muốn đã

được xác định trong chuỗi sự kiện đã vạch ra đều coi là rủi ro của tổ chức.

- Phương pháp nhận diện rủi ro trên cơ sở phân loại: Phương pháp này

dựa trên số liệu thống kê căn nguyên của rủi ro. Dựa trên cơ sở phân loại căn

nguyên rủi ro và kinh nghiệm thực tế, người ta lập ra một bảng câu hỏi. Các

câu trả lời của câu hỏi sẽ chỉ ra rủi ro của tổ chức.

- Phương pháp kiểm tra rủi ro phổ biến: Trong mỗi lĩnh vực hoạt động

đều luôn tồn tại những rủi ro đặc thù của lĩnh vực đó. Mỗi loại rủi ro có thể có

trong lĩnh vực đó đều cần được kiểm tra xem có thể xảy ra trong bối cảnh cụ

thể cần xem xét hay không.

- Phương pháp lập bảng rủi ro: Phương pháp này kết hợp các cách tiếp

cận rủi ro nêu trên bằng cách thiết lập một danh mục các nguồn rủi ro, các nguy

cơ đối với các yếu tố điều chỉnh rủi ro mà các yếu tố này có thể làm tăng hoặc

giảm hậu quả không mong muốn khi rủi ro xảy ra.

Ma trận rủi ro cho phép xác định mức độ nghiêm trọng của một nguy cơ

rủi ro có thể xảy ra. Tổng thể rủi ro (R) là tổ hợp của nhiều sự kiện không

mong muốn (H) tạo ra nó. Rủi ro có thể là bất kỳ một sự kiện không mong

muốn (H) xảy ra với một xác suất nhất định (p) nhân với hậu quả (c) của nó.

Tức là, ma trận này phản ánh khả năng xảy ra rủi ro và mức độ nghiêm trọng

65

của rủi ro.

Từng sự kiện không mong muốn được xác định bằng: PH x CH

Do vậy, rủi ro được xác định là tổng của các sự kiện không mong muốn

như sau: Re = ∑Hi

Các hậu quả của rủi ro được xếp theo mức độ: Thảm khốc, rất lớn, trung

bình và không đáng kể. Các xác suất xảy ra rủi ro được xếp theo mức độ:

Chắc chắn, có nhiều khả năng, có khả năng, có ít khả năng và hiếm khi xảy

ra. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một xác suất xảy ra thấp cũng không hoàn toàn

đáng tin cậy. Từ đó, có bảng ma trận sau đây:

Hậu quả

Rất lớn Không đáng kể Trung bình Thảm khốc

Cao Cao Rất cao Rất cao

Vừa phải Cao Cao Rất cao

Thấp Vừa phải Cao Rất cao

Thấp Thấp Vừa phải Cao

Thấp Thấp Vừa phải Cao Xác suất xảy ra Chắc chắn Có nhiều khả năng xảy ra Có khả năng xảy ra Có ít khả năng xảy ra Hiếm khi xảy ra

Bước 3: Đánh giá rủi ro

Mỗi rủi ro cần được đánh giá xác suất xảy ra và mức độ nghiêm trọng

của hậu quả mà nó gây ra. Trường hợp đơn giản thì có thể lượng hóa được tổn

thất, trường hợp phức tạp thì không thể lượng hóa được tổn thất và cũng

không xác định được chắc chắn xác suất xảy ra. Để xác định xác suất và ước

tính tổn thất, cần sử dụng những phương pháp khoa học đã được công bố.

Có khá nhiều công thức ước tính mức độ tổn thất và xác suất xảy ra rủi

ro, song công thức được thừa nhận rộng rãi nhất là:

Chỉ số rủi ro = Xác suất xảy ra sự kiện x Tác động của sự kiện

Tác động của sự kiện rủi ro và xác suất xảy ra sự kiện rủi ro đều được

cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ từ nhỏ đến lớn của tổn thất có thể xảy ra và

66

khả năng có thể xảy ra sự kiện rủi ro. Như vậy, chỉ số rủi ro có thang điểm từ

0 đến 25 và thường được xếp làm 3 nhóm thang điểm: rủi ro thấp (điểm từ 0

đến 8); rủi ro trung bình (điểm từ 9 đến 15), rủi ro cao (điểm từ 16 đến 25).

Bước 4: Xử lý rủi ro tiềm ẩn

- Loại bỏ rủi ro tức là không tiến hành một hoạt động chứa đựng rủi ro

tiềm ẩn, hoặc xóa bỏ sự kiện rủi ro. Trong thanh tra thuế, do không thể xóa bỏ

sự tồn tại của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nên muốn xóa bỏ tổn thất do

chúng gây ra thì phải thực hiện thanh tra, kiểm tra tất cả NNT. Tuy nhiên, nếu

việc xóa bỏ sự kiện rủi ro quá tốn kém, quá tốn thời gian hoặc không có khả

năng thực hiện được thì phải chuyển sang lựa chọn thứ hai là giảm bớt rủi ro.

Thanh tra thuế cũng vậy, không thể thanh tra, kiểm tra mọi NNT vì không đủ

nguồn lực và quá tốn kém.

- Giảm thiểu rủi ro có nghĩa là làm giảm tổn thất có thể có do sự kiện

rủi ro gây ra hoặc giảm xác suất xảy ra sự kiện rủi ro. Trong thanh tra thuế

có thể hiểu biện pháp này là tập trung nguồn lực kiểm tra, thanh tra những

NNT có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao và áp dụng nhiều thủ tục,

kiểm tra kỹ cơ sở dữ liệu và báo cáo tài chính của những đối tượng này để

giảm rủi ro phát hiện.

- Chia sẻ rủi ro được hiểu là chia sẻ cả tổn thất có thể xảy ra và lợi ích

có thể có từ sự kiện rủi ro cho một đối tác khác và mục tiêu là để giảm rủi ro.

Chia sẻ rủi ro nếu xét thấy bản thân tổ chức không có khả năng đối phó khi

rủi ro xảy ra nhưng có tổ chức khác có thể chia sẻ, gánh chịu rủi ro này thông

qua các phương thức chuyển giao theo quy định. Trong QLT, có thể hiểu biện

pháp này qua cơ chế giá thỏa thuận trước (giá APA) khi kiểm soát giá của các

giao dịch liên kết.

- Chấp nhận rủi ro là chấp nhận cả tổn thất có thể mất và lợi ích có thể

có được từ sự kiện rủi ro. Thông thường chấp nhận rủi ro sẽ được lựa chọn

khi chi phí để loại bỏ hoặc giảm thiểu hoặc chia sẻ rủi ro là quá cao so với lợi

ích thu được từ việc thực hiện các biện pháp đó để xử lý rủi ro; hoặc khả năng

67

xảy ra rủi ro không cao và tổn thất có thể xảy ra rủi ro thấp. Trong thanh tra,

kiểm tra thuế, đây chính là việc chấp nhận bỏ qua không thanh tra, kiểm tra

những NNT có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thấp.

Các khả năng xử lý rủi ro tiềm ẩn nói trên thể hiện qua ma trận QLRR

sau đây:

Yêu cầu có sự Cần có sự Phải quản lý và Nghiêm quản lý gắt MỨC quản lý chặt chẽ kiểm soát rủi ro trọng gao ĐỘ

TÁC Có thể chấp Phải quản lý Cần quản lý ĐỘNG nhận nhưng Vừa phải rủi ro rủi ro CỦA phải kiểm soát

RỦI Quản lý và Chấp nhận và RO Chấp nhận rủi ro kiểm soát rủi Thấp kiểm soát rủi ro ro

Trung bình Thấp Cao (khả năng xảy KHẢ NĂNG XẢY RA (khả năng (khả năng ra RỦI RO xảy ra <=25%) xảy ra >75%) từ 25%-75%)

Khả năng xảy ra

Hình 2.1 Ma trận QLRR

Ma trận chỉ rõ cần phải tập trung quản lý và xử lý đối với các rủi ro có

khả năng xảy ra cao, rủi ro có mức độ tác động nghiêm trọng; đối với rủi ro

có khả năng xảy ra thấp, mức độ tác động thấp thì chấp nhận để tập trung

nguồn lực quản lý các rủi ro có khả năng và mức độ tác động cao hơn. Ví dụ

trong kiểm soát đăng ký thuế thì CQT tập trung quản lý đối với NNT không

đăng ký đây là rủi ro lớn vì nếu NNT không đăng ký thuế, CQT sẽ thất thu tất

cả các loại thuế mà NNT đó có trách nhiệm phải nộp, do đó quản lý đối tượng

68

nộp thuế luôn là khâu đầu tiên và quan trọng trong công tác QLT.

Bước 5: Xây dựng kế hoạch QLRR

Đây là bước chọn một giải pháp đối phó hoặc kiểm soát phù hợp để xử

lý từng rủi ro. Giải pháp xử lý rủi ro cần được thông qua bởi những cấp quản

lý nhất định. Kế hoạch QLRR cần chỉ ra được các giải pháp hữu hiệu kiểm

soát rủi ro. Trong thanh tra, kiểm tra thuế, đây là bước xác định xem cần

thanh tra, hay kiểm tra NNT nào, với mức độ như thế nào hoặc cần áp dụng

những thủ tục, cách thức nào trong thanh tra, kiểm tra mỗi NNT cho phù hợp.

Kế hoạch rủi ro cũng phải chỉ ra lịch trình thực hiện và người chịu trách

nhiệm thực hiện các công việc kiểm soát rủi ro.

Bước 6: Thực hiện kế hoạch QLRR

Thực hiện kế hoạch QLRR là thực thi các công việc theo lịch trình đã

vạch ra của kế hoạch QLRR nhằm làm giảm bớt tác động bất lợi của rủi ro.

Trong thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện kế hoạch QLRR tức là tiến hành

thanh tra, kiểm tra những NNT theo kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được xây

dựng trên cơ sở kỹ thuật QLRR.

Bước 7: Rà soát, đánh giá kế hoạch QLRR

Những kế hoạch QLRR được lập ra bước đầu không thể hoàn hảo. Thực

tiễn, kinh nghiệm và những mất mát xảy ra đòi hỏi phải điều chỉnh kế hoạch

và bổ sung thông tin để có thể ra những quyết định khác nhau để giải quyết

những tình huống rủi ro mà tổ chức phải đối phó. Điều này đòi hỏi phải rà

soát, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch theo những chu kỳ nhất định. Việc rà

soát, đánh giá kế hoạch QLRR nhằm 2 mục đích: (i) Đánh giá xem liệu rằng

các giải pháp kiểm soát rủi ro trước đó còn có thể áp dụng hoặc còn hiệu lực

không; và (ii) Đánh giá những sự thay đổi về mức độ rủi ro trong một môi

trường luôn thay đổi.

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong quản lý thuế

2.2.4.1 Các nhân tố chủ quan

Thứ nhất, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế.

Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong

69

lĩnh vực quản lý. Trong bộ máy QLT, đội ngũ cán bộ công chức thuế là một

bộ phận quan trọng góp phần vào việc xây dựng hệ thống chính sách thuế phù

hợp, khoa học, tiên tiến và cũng chính đội ngũ cán bộ thuế là những người

thực hiện hệ thống chính sách thuế để phát huy tối đa hiệu quả của hệ thống

chính sách thuế. Đối với lĩnh vực QLRR trong QLT, trình độ chuyên môn và

đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế là nhân tố quan trọng tác động đến

chất lượng và hiệu quả của hoạt động này. QLT theo kỹ thuật QLRR đòi hỏi

cán bộ thuế có trình độ chuyên môn rất cao về phân tích, đánh giá, xử lý rủi

ro; ngoài ra, cán bộ thuế còn phải có nghiệp vụ chuyên môn liên quan đến các

chức năng QLT vững vàng, có đạo đức liêm chính. Trình độ chuyên môn của

cán bộ thuế sẽ tác động tới các quyết định của CQT trong việc đánh giá rủi ro

và xử lý rủi ro trong tuân thủ của NNT, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền

lợi của NNT. Do đó, nếu công chức thuế không vững vàng về nghiệp vụ

chuyên môn, về đạo đức nghề nghiệp thì rất dễ mắc sai lầm, khuyết điểm khi

thực hiện quy trình QLT.

Thứ hai, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế.

Trong thời đại cách mạng thông tin và kinh tế số hiện nay, việc ứng dụng

CNTT là yếu tố không thể thiếu của mọi hoạt động kinh tế- xã hội và mọi

hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, trong đó có CQT. Trong những

năm qua, ứng dụng CNTT đóng vai trò quan trọng trong công tác QLT và cải

cách thủ tục hành chính thuế.

Việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong QLT sẽ nâng cao hiệu quả QLRR

trong QLT. Để thực hiện QLRR trong QLT, CQT phải xử lý một lượng cơ sở

dữ liệu thông tin rất lớn từ rất nhiều đối tượng khác nhau, nếu không ứng

dụng CNTT ở mức độ cao thì không thể làm tốt được kỹ thuật quản lý này.

Mặt khác, thực hiện việc QLRR trong QLT đòi hỏi các công nghệ mới sẽ

được ứng dụng mạnh mẽ trong quy trình, nghiệp vụ QLRR. Theo đó, ứng

dụng CNTT thực hiện việc kết nối, tiếp nhận thông tin từ các nguồn dữ liệu,

điện tử hoá những biện pháp, kỹ thuật QLRR dựa trên bộ tiêu chí, chỉ số được

70

ban hành để phân tích, đánh giá. Chẳng hạn, khâu đánh giá, phân loại mức độ

tuân thủ pháp luật thuế và rủi ro NNT sẽ được thực hiện tự động và bổ sung

phương pháp đánh giá theo phương pháp học máy thay vì chỉ dựa vào đánh

giá của chuyên gia. Điều này sẽ giúp việc đánh giá, phân loại được linh hoạt

hơn và tăng độ chính xác. Ngoài ra, việc ứng dụng CNTT sẽ giúp cơ quan

quản lý phân bổ nguồn lực hợp lý, giảm bớt áp lực về khối lượng công việc,

chỉ tập trung nguồn lực vào NNT không tuân thủ hay các lĩnh vực rủi ro.

Đồng thời, tạo điều kiện để NNT tự nguyện tuân thủ tốt quy định của pháp

luật về thuế và QLT.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT trong QLT.

Tổ chức QLT theo chức năng là mô hình tổ chức lấy chức năng QLT làm

nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu gồm các bộ phận, mỗi bộ phận thực

hiện một chức năng QLT cơ bản đối với hầu hết các loại thuế và đối với tất cả

các NNT theo thẩm quyền được phân công. Các chức năng QLT cơ bản gồm:

Tuyên truyền và hỗ trợ; xử lý tờ khai; quản lý nợ và cưỡng chế thuế; thanh

tra, kiểm tra thuế… Tổ chức QLT theo chức năng góp phần nâng cao hiệu quả

QLT do chuyên môn hóa, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng,

các bộ phận có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau.

Việc thực hiện QLRR trong QLT đòi hỏi các bộ phận chức năng của

CQT phải có sự chuyên môn hóa về nghiệp vụ, đồng thời có sự phối hợp chặt

chẽ với nhau. Việc thu thập thông tin NNT, đánh giá rủi ro trong tuân thủ thuế

của NNT để phân loại NNT và đưa ra các phương thức QLT tương ứng với

từng nhóm NNT cần có sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT.

Một CQT có tổ chức hợp lý, có trình độ, khả năng quản lý tốt sẽ đảm bảo duy

trì tính thực thi của luật pháp, đảm bảo tính hiệu quả của QLT trong các điều

kiện khác nhau, trong đó, có việc thực hiện quản lý tuân thủ. Ngoài ra, tổ

chức bộ máy QLT tốt cũng góp phần nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật

thuế của NNT.

71

2.2.4.2 Các nhân tố khách quan

Thứ nhất, Môi trường đầu tư và kinh doanh.

Nhóm yếu tố này bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát,

tình hình chính trị, ngoại giao… Đây là các yếu tố vĩ mô nên ảnh hưởng đến

mức độ tuân thủ pháp luật thuế của tất cả các nhóm NNT và ảnh hưởng đến

việc thực hiện quản lý tuân thủ trong QLT.

Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh

tế là tất yếu khách quan ảnh hưởng tới ý thức của NNT và kết quả của công

tác QLT. Hội nhập quốc tế về thuế ngày càng sâu rộng đòi hỏi hệ thống luật

pháp về thuế phải hoàn thiện theo thông lệ quốc tế, công tác QLT phải được

cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế, cơ sở trang

thiết bị vật chất, kỹ thuật ngày càng hiện đại hoá. Với số lượng NNT không

ngừng tăng lên nhanh chóng và sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp,

các hình thức kinh doanh, kèm theo đó là các hành vi gian lận thuế sẽ phức

tạp và tinh vi hơn đòi hỏi CQT phải không ngừng cải tiến, hiện đại hóa công

tác QLT, thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT. Bên cạnh đó, khi xã hội phát

triển, trình độ dân trí được nâng cao, sự hiểu biết về pháp luật thuế của NNT

được cải thiện bởi họ hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia

vào hoạt động sản xuất kinh doanh, sẽ góp phần nâng cao tính tuân thủ tự

nguyện của NNT.

Thứ hai, chính sách pháp luật nói chung và chính sách thuế nói riêng.

Hệ thống chính sách pháp luật là nhân tố tạo lập môi trường pháp lý cho

hoạt động QLT và hoạt động kinh doanh của NNT. Hệ thống chính sách pháp

luật nói chung và các chính sách thuế nói riêng được xây dựng đồng bộ, rõ ràng,

đơn giản, minh bạch sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho NNT thực hiện nghĩa vụ thuế

của mình, nâng cao tính tuân thủ thuế tự nguyện của NNT, từ đó cũng giúp cho

QLRR trong QLT có hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống chính sách thuế rõ ràng, minh

bạch sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giảm chi phí

tuân thủ, giảm rủi ro do tham nhũng và phiền hà cho NNT, qua đó giúp cho việc

72

thực hiện tuân thủ pháp luật thuế được tốt hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp

luật thuế phức tạp, không đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ và chồng chéo sẽ làm

giảm hiệu quả của công tác QLT, tăng cơ hội cho NNT có những hành vi lợi

dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi, làm giảm tác dụng quản lý và răn đe của

luật pháp.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thuế

Để thực hiện QLRR trong QLT, cơ quan thuế cần có thông tin về NNT.

Nguồn thông tin này ngoài việc tập hợp dựa trên số liệu sẵn có từ CQT (thông

qua đăng ký thuế, kê khai thuế, kết quả thanh tra, kiểm tra thuế…) thì cần có

nguồn cung cấp thông tin về NNT từ các cơ quan chức năng có liên quan như:

Ngân hàng Nhà nước, cơ quan công an, cơ quan địa chính, kế hoạch- đầu tư…

Vì vậy, sự phối hợp giữa CQT với các cơ quan chức năng trong việc cung cấp

các thông tin liên quan đến giao dịch kinh doanh của NNT có ý nghĩa rất lớn

trong việc thực hiện QLRR trong QLT. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình và theo các quy định của pháp luật về QLT mà những cơ quan

này phối hợp với CQT trong việc cung cấp thông tin về NNT, cũng như xử lý

vi phạm…Vì vậy, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế phối hợp giữa CQT

và các cơ quan chức năng góp phần nâng cao hiệu quả của QLT.

Thứ tư, ý thức tuân thủ và trình độ hiểu biết pháp luật thuế của NNT.

Việc QLT thực hiện theo cơ chế NNT tự khai, tự nộp thuế. Như vậy, khi

ý thức tuân thủ của NNT càng cao thì tính trung thực của NNT khi kê khai,

tính và nộp thuế càng cao. Để nâng cao tính tuân thủ của NNT, ngoài trình độ

hiểu biết pháp luật của NNT thì các công tác QLT cũng tác động rất lớn tới

tính tuân thủ của NNT như: công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT; kiểm tra thuế;

thanh tra thuế; xử lý vi phạm về thuế… Việc thực hiện QLRR trong QLT sẽ

tùy theo mức độ tuân thủ của NNT để có hình thức ứng xử phù hợp cũng giúp

cho ý thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT được nâng cao.

73

2.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QLRR TRONG QLT VÀ BÀI

HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

2.3.1. Xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (TCP) khi

thực hiện QLRR trong QLT

Hình 2.2: Mô hình tuân thủ của NNT

Nguồn: OECD3

Theo tổ chức OECD, để nâng cao hiệu quả của QLRR trong QLT, cần

xây dựng kế hoạch, chương trình QLRR tuân thủ hiệu quả. Việc đánh giá rủi

ro nên được tiếp cận theo hướng tổng thể bắt đầu từ việc xây dựng Kế hoạch

đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện, sẽ giúp nâng cao tuân thủ của NNT trong

tất cả các khâu, các chức năng QLT đối với từng phân đoạn NNT.

Kế hoạch này sẽ giúp CQT đưa ra bức tranh tổng thể về mức độ tuân thủ

của NNT. Từ việc thực hiện đánh giá mức độ tuân thủ của toàn bộ NNT trong

từng khâu, từng chức năng, từng phân đoạn NNT, CQT đưa ra được các giải

pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của NNT thông qua các

3

Nguồn trích dẫn: OECD GUIDANCE NOTE: Risks Management Complicance – Managing and

Improving Tax Compliance. Prepared by Forum on Tax Administration Compliance Sub – Group.

chiến lược/biện pháp thích hợp như: tuyên truyền, giải thích pháp luật, hỗ trợ

74

thực hiện, kiểm tra, thanh tra v.v. Việc xây dựng TCP là một bước đầu tiên và

quan trọng trong xây dựng hệ thống QLRR của CQT.

Các bước xây dựng TCP:

Hình 2.3: Các bước xây dựng TCP

Dựa trên hướng dẫn của OECD, hiện nay hầu các quốc gia trên thế giới

đều triển khai thực hiện chương trình tuân thủ tổng thể về thuế, cụ thể:

- Tại Úc: Từ năm 2001, CQT Úc (ATO) đã bắt đầu thực hiện các

chương trình hỗ trợ NNT theo từng phân đoạn NNT nhằm đảm bảo sự tuân

thủ tự nguyện. Hiện nay, các bước xây dựng TCP của ATO bao gồm: chia

NNT thành nhiều phân đoạn có đặc thù đồng nhất; xác định rủi ro chính yếu

cho từng phân đoạn NNT; phân tích và xác định các nguyên nhân chính dẫn

đến việc không tuân thủ trong từng phân đoạn NNT; xây dựng chiến lược để

giải quyết các nguyên nhân chính dẫn đến hành vi không tuân thủ; phân bổ

nguồn lực; thực hiện; theo dõi, báo cáo và đánh giá; và các bước này được lặp

lại hàng năm. Theo đó, ATO sử dụng 4 trụ cột xác định tuân thủ là: (i) Đăng

ký; (ii) Thời hạn tuân thủ; (iii) Kê khai; (iv) Nộp thuế. Từ đó xây dựng chiến

lược để giải quyết các rủi ro tuân thủ cho từng phân đoạn liên quan đến từng

trụ cột. Cụ thể:

+ Đối với NNT là doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Đăng ký: (i) Rủi ro: Không đăng ký thuế TNDN và GTGT; (ii) Nguyên

nhân: Thiếu hiểu biết về yêu cầu và quy định của chính sách; (iii) Cách xử lý:

ATO quy định hướng dẫn chính sách thật đơn giản cho các doanh nghiệp nhỏ,

tạo điều kiện dễ dàng cho việc đăng ký, dữ liệu sẽ được đối chiếu khớp với

thông tin của bên thứ 3, ví dụ như đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế.

75

Thời hạn tuân thủ: (i) Rủi ro: Chậm nộp hoặc không nộp tờ khai thuế;

(ii) Nguyên nhân: Thiếu thời gian làm hồ sơ khai thuế hoặc đang cố tình tránh

việc chuyển đổi nghĩa vụ nợ; (iii) Cách xử lý: ATO tạo điều kiện bằng cách

quy định thực hiện nộp tờ khai dễ dàng cho NNT, hướng dẫn và hỗ trợ NNT,

nhắc nhở NNT, kiểm tra chéo NNT đã đăng ký với các tờ khai đã nộp.

Kê khai: (i) Rủi ro: Kê khai thuế GTGT, thuế TNDN thiếu thuế phải nộp,

hoặc xác định ưu đãi thuế không chính xác; (ii) Nguyên nhân: doanh nghiệp

hiểu sai về nghĩa vụ, đang tìm cách né tránh nghĩa vụ nộp thuế; (iii) Cách xử

lý: ATO làm rõ với doanh nghiệp việc áp dụng luật đối với từng vấn đề cụ thể,

tập trung vào các vấn đề có rủi ro cao và phổ biến và tiến hành các chiến dịch

đặc biệt để giải quyết các rủi ro này bao gồm cả hoạt động tuyên truyền hỗ trợ

NNT.

Nộp thuế: (i) Rủi ro: chậm nộp hoặc không nộp thuế; (ii) Nguyên nhân:

doanh nghiệp đang gặp vấn đề về dòng tiền hoặc tránh việc chuyển đổi nghĩa

vụ nợ thuế; (iii) Cách xử lý: ATO vào cuộc sớm cùng NNT, áp dụng sớm các

biện pháp thu nợ.

+ Đối với NNT là doanh nghiệp lớn:

Đăng ký: (i) Rủi ro: rủi ro thường là thấp, ngoại trừ các công ty nước ngoài

có thể thấy chưa hiểu đầy đủ hoặc thấy chưa rõ ràng quy trình đăng ký thuế nên

có sai sót; (ii) Nguyên nhân: Yêu cầu đăng ký không rõ ràng và quy trình khó

khăn; (iii) Cách xử lý: ATO bổ sung thêm nội dung làm rõ hơn quy trình đăng

ký thuế và đưa quy trình lên mạng internet để các doanh nghiệp có thể truy cập

rộng rãi.

Thời hạn tuân thủ: (i) Rủi ro: chậm nộp; (ii) Nguyên nhân: Thay đổi

nhân sự công ty, có một số vấn đề tài chính khác; (iii) Cách xử lý: cán bộ

ATO vào cuộc sớm. Đây cũng là dấu hiệu để thu hồi nợ tiềm năng.

Kê khai: (i) Rủi ro: doanh nghiệp lớn và mang tính chất quốc tế được

đánh giá rủi ro cao bởi hậu quả của việc họ không tuân thủ (thuế TNDN,

GTGT và TTĐB); (ii) Nguyên nhân: có thể do cách hiểu, cách diễn giải khác

trong việc áp dụng luật quy định cho một vấn đề phức tạp, nhiều doanh

76

nghiệp có thể có các thủ đoạn bất hợp pháp hoặc hợp pháp nhằm giảm thiểu

nghĩa vụ thuế của họ...; (iii) Cách xử lý: ATO tăng cường tìm hiểu sâu về tình

hình tuân thủ và khung tuân thủ thuế của công ty, mỗi doanh nghiệp lớn cũng

có những rủi ro khác nhau với các cách xử lý khác nhau (hỗ trợ, thanh tra,

kiểm tra toàn diện, các vấn đề gây tranh cãi phải đưa ra Toà án thì phải được

làm rõ qua Toà án, cần thiết hơn nữa sẽ kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật pháp).

Nộp thuế: (i) Rủi ro: ưu tiên quản lý các khoản nợ thuế lớn; (ii) Cách xử

lý: ATO liên tục vào cuộc nhằm đảm bảo nợ thuế phải nộp đúng hạn, có cơ

chế giám sát, cưỡng chế đảm bảo thu hồi nợ.

- Tại Thái Lan: Từ năm 2001, CQT Thái Lan đã bắt đầu Kế hoạch

xây dựng chiến lược QLRR tuân thủ thông qua việc triển khai xây dựng

trung tâm giám sát, thanh tra. CQT Thái Lan xây dựng nội dung về quản lý

tuân thủ theo chức năng và theo phân đoạn NNT gồm: Rủi ro đăng ký; Rủi

ro kê khai đúng hạn; Rủi ro kê khai đúng chỉ tiêu và đúng số thuế phải nộp

và Rủi ro nộp thuế.

CQT Thái Lan sử dụng mô hình Tháp tuân thủ của OECD để hướng dẫn

công việc tuân thủ và sử dụng công cụ, loại hình thanh tra phù hợp với mỗi

mức độ rủi ro. Hàng năm, CQT Thái Lan rà soát lại tổng thể hệ thống thuế và

xác định bổ sung thêm các rủi ro mà hệ thống phải đối mặt và đưa ra chương

trình tuân thủ về thuế cũng như xử lý của CQT đối với các vấn đề tuân thủ

nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả chiến lược ngăn chặn hành vi không tuân

thủ; tối đa hoá tuân thủ tự nguyện bằng chiến lược hỗ trợ NNT hiểu rõ nghĩa

vụ thuế của họ. Cụ thể:

Năm 2001: CQT Thái Lan đã triển khai xây dựng trung tâm giám sát, thanh

tra với nhiệm vụ phải thu thập được thông tin từ NNT, hỗ trợ, kết nối NNT với

CQT; Phân công nhóm cán bộ thanh tra phụ trách nhóm NNT cụ thể.

Năm 2006: Xây dựng tiêu chí rủi ro một cách toàn diện được sử dụng

chung để thực hiện kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT. Theo bộ tiêu chí xây

dựng, cán bộ thanh tra thuế tính toán và áp dụng thủ công để xác định rủi ro

NNT, từ đó có biện pháp quản lý phù hợp.

77

Năm 2008: Đã phân loại NNT theo các cấp độ rủi ro (NNT tốt; NNT

được giám sát rủi ro và NNT rủi ro), từ đó CQT thực hiện các biện pháp quản

lý khác nhau với mỗi cấp độ rủi ro như: NNT tốt được hưởng các chính sách

ưu đãi hơn với các cấp độ còn lại (hoàn thuế ưu tiên NNT tốt).

Năm 2011-2012: Đã hoàn thiện được kỹ năng quản lý theo rủi ro và

hình thành lên Trung tâm QLRR (RMC) để xây dựng các biện pháp quản

lý, thanh tra, kiểm tra theo rủi ro.

Năm 2013- 2017: Đã xây dựng được khung cơ sở và thực hiện thanh

tra dựa trên rủi ro. Điều này giúp nâng cao hiệu quả quản lý; tăng tính minh

bạch đối với các trường hợp được lựa chọn thanh tra, giảm được nhiều quy

trình nghiệp vụ để tập trung tăng chất lượng các cuộc thanh tra theo rủi ro.

Nhìn chung tại Thái Lan, việc thực hiện QLRR phục vụ cho công tác thanh

tra, kiểm tra được xem là nhiệm vụ trọng yếu, hàng đầu. Thái Lan tập trung hoàn

thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng trung tâm QLRR, hoàn thiện phương pháp đánh giá

rủi ro. Việc xây dựng hệ thống CNTT đồng bộ và ứng dụng phân tích đánh giá rủi

ro tổng thể là điều kiện quyết định để triển khai thực hiện QLRR thành công.

2.3.2. Xây dựng khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng

TCP và hoàn thiện các quy định pháp lý về QLRR trong QLT

Để thực hiện QLRR trong QLT theo chương trình TCP thì cần xây dựng

khung cơ sở pháp lý đồng bộ theo định hướng xây dựng TCP. Các quy định

về QLRR trong QLT phải được quy định tại Luật QLT và các văn bản hướng

dẫn chi tiết về QLRR tuân thủ trong tất cả các khâu, chức năng QLT, áp dụng

đối với từng phân đoạn NNT nhằm đưa QLRR về thuế dưới bức tranh tổng

thể, đảm bảo thực hiện QLRR được chính xác, phù hợp và hiệu quả.

Các nước thực hiện QLRR trong QLT như Úc, Hà Lan, Thái Lan,

Singapore… để thực hiện chương trình QLRR tuân thủ tổng thể (CTP) đều

ban hành các quy định pháp lý về: việc quản lý thuế dựa trên mức độ tuân thủ

của NNT; Quy định nghĩa vụ tự kê khai, nộp thuế của NNT trên cơ sở tuân

thủ tự nguyện; quy định về cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin giữa cơ quan

thuế và NNT, giữa cơ quan thuế và bên thứ 3 (ngân hàng thương mại, điện

78

lực, hải quan…); Quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro về NNT và các hình

thức ứng quản lý phù hợp đối với từng phân đoạn NNT.

Chẳng hạn, CQT Thái Lan xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro của

doanh nghiệp theo các sắc thuế gồm 145 tiêu chí, từng tiêu chí đều có điểm

số (từ 1 đến 5 điểm), trọng số (theo hệ số 1,2,3...). Ví dụ, tiêu chí về thuế

TNDN: 52 tiêu chí; thuế TNCN: 23 tiêu chí; thuế VAT: 19 tiêu chí; chỉ số

ISIC (lấy theo báo cáo Ease of Doing Business do World Bank phát hành

hàng năm): 24 tiêu chí; chỉ số tài chính (Ratio): 27 tiêu chí….

2.3.3. Xây dựng bộ phận chuyên trách về QLRR trong QLT được tổ

chức thống nhất từ trung ương đến địa phương

Để thực hiện QLRR trong QLT cần phải có bộ phận chuyên trách về

QLRR trong cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thuế vì QLRR là nghiệp vụ kỹ

thuật quản lý chuyên sâu, phức tạp. Hầu hết các quốc gia như Bulgaria, Ba Lan,

Lithuania, Anh, Hà Lan, Úc, Thái Lan đều có bộ phận chuyên trách về QLRR

được cơ cấu tổ chức chặt chẽ đảm bảo triển khai QLRR trong QLT một cách

thống nhất từ trung ương đến địa phương. Và các cán bộ công tác tại bộ phận

này đều có những kỹ năng cần thiết về QLT và cả về chính sách, luật pháp, thủ

tục, kỹ năng phân tích, thống kê, hạ tầng CNTT…

Hiện nay, tuỳ theo đặc điểm và bố trí cho phù hợp tại CQT mỗi nước, cơ

cấu tổ chức QLRR chia làm 3 mô hình chính như sau:

Hệ thống một cấp: Vụ QLRR cấp trung ương (Tổng cục): thực hiện tất cả

các khâu: Chiến lược và lập kế hoạch (bao gồm kế hoạch hoạt động hàng năm),

phân tích các thông tin từ cấp địa phương nhằm xác định lĩnh vực rủi ro, các

biện pháp thực hiện, phát triển và theo dõi Kế hoạch hàng năm, xác định và sơ

đồ hoá rủi ro, xử lý, thực hiện và đánh giá (bao gồm phân tích rủi ro, lựa chọn,

khảo sát, phân tích thống kê, khai thác dữ liệu, thu thập dữ liệu, quản lý dữ liệu,

các công cụ IT, hỗ trợ kỹ thuật và tập huấn...).

Hệ thống hai cấp: Bao gồm Đơn vị QLRR ở cấp trung ương (Tổng cục)

và cấp địa phương (Vùng/cục). Cấp Tổng cục xây dựng chiến lược, xác định

các ưu tiên và giao nhiệm vụ cho các CQT cấp Vùng/cục và điều phối các

79

hoạt động. CQT cấp Vùng/Cục có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đề ra, trực

tiếp xây dựng các tiêu chí và kế hoạch rủi ro, thu thập dữ liệu và dữ liệu được

chuyển từ địa phương lên Tổng cục để phục vụ cho việc lập kế hoạch và phải

báo cáo trực tiếp lên cấp Tổng cục.

Hệ thống ba cấp: Bao gồm đơn vị QLRR ở cấp Tổng cục, cấp Vùng/cục

và cấp chi cục.

Mỗi mô hình nêu trên đều tồn tại ưu và nhược điểm riêng. Đối với mô

hình hệ thống thống nhất tập trung một cấp, tính ưu việt của mô hình này là

kiểm soát được tất cả các khâu, thống nhất trong việc triển khai thực hiện

QLRR. Tuy nhiên sẽ thuận lợi cho mô hình này nếu dữ liệu được tập trung và

có sẵn ở cấp trung ương, còn nếu dữ liệu phân tán thì cách tiếp cận mô hình

này là khó, tốc độ ra quyết định mất nhiều thời gian vì phải lấy ý kiến qua

nhiều đơn vị. Đối với mô hình hệ thống hai hoặc ba cấp, dữ liệu thường tập

trung tản mác, rời rạc ở cả cấp trung ương và địa phương nên không thống

nhất, báo cáo không kịp thời khiến cho việc giám sát, kiểm soát và lập kế

hoạch ở cấp trên không đúng định kỳ.

Vì vậy, mỗi quốc gia cần căn cứ vào thực trạng thu thập cơ sở dữ liệu và

ứng dụng CNTT, tình hình kinh tế- xã hội và khả năng quản lý để lựa chọn

mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp.

2.3.4. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong QLT, xây dựng hệ thống

thông tin đầy đủ về NNT

Để thực hiện QLRR trong QLT, CQT cần xây dựng được hệ thống thông

tin đầy đủ về NNT để làm cơ sở cho việc phân loại NNT theo mức độ tuân

thủ. Việc thu thập thông tin được thực hiện qua nhiều kênh: tờ khai thuế định

kỳ của NNT, thông tin từ bên thứ 3, kết quả các cuộc thanh tra, kiểm tra… và

phải hiện đại hóa công tác QLT dựa trên đẩy mạnh ứng dụng CNTT.

Tại Nam Phi, Năm 2001, Cơ quan thuế Nam Phi đã triển khai một đơn vị

nghiên cứu và phân tích để cung cấp thông tin tình báo chiến thuật và chiến

lược để hỗ trợ cho các chiến lược thực thi tuân thủ. Đơn vị này sẽ chuyển cho

80

phòng thực thi tuân thủ hồ sơ phân tích rủi ro và phân tích theo từng phân

ngành kinh tế cụ thể và chịu trách nhiệm thực hiện các công việc sau: (i) Phát

triển phương pháp QLRR chung cho toàn ngành; (ii) Cung cấp hồ sơ phân tích

rủi ro cấp quốc gia và phân tích rủi ro theo từng phân ngành kinh tế cụ thể; (iii)

Thiết lập các mối quan hệ then chốt để đảm bảo thông tin được thu thập liên

tục; (iv) Xây dựng hồ sơ phân tích rủi ro chung về NNT để phục vụ thanh tra

và kiểm tra; (v) Phân tích môi trường kinh doanh để chủ động xử lý các lĩnh

vực có rủi ro cao; (vi) Hỗ trợ kỹ thuật cho các đoàn thanh tra.

Hiện nay, Cục Thuế Nam Phi đang thực hiện một quy trình tái cấu trúc,

theo quy trình này. Cục Thuế đang phát triển một trung tâm thu thập thông tin

tình báo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Schlenther: 2004). Đơn

vị này chịu trách nhiệm phân công hồ sơ cho các nhóm thanh tra. Phương

pháp lựa chọn hồ sơ trên máy tính hiện nay chỉ được sử dụng đối với các công

ty và tập đoàn trong nước (Gordhan: 2001). Dự kiến phương pháp lựa chọn

hồ sơ này sẽ được mở rộng để tiếp nhận dữ liệu từ tất cả các tờ khai thuế thu

nhập khác, ví dụ, tờ khai thuế thu nhập cá nhân, quỹ tín thác và bất động sản.

2.3.5. Cơ quan thuế thực hiện các biện pháp đa dạng nhằm thúc đẩy

sự tuân thủ tự nguyện của NNT

Để thực hiện hiệu quả QLRR trong QLT, một trong những yếu tố quan

trọng là CQT cần tạo thuận lợi nhất để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế, thúc đẩy

sự tuân thủ tự nguyện của NNT.

Chẳng hạn, Singapore có một hệ thống quản lý hiện đại, hiệu quả với tốc

độ triển khai CNTT hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, Cục

thu nội địa Singapore (IRAS) luôn là cơ quan đi đầu trong lĩnh vực cung cấp

dịch vụ công và được NNT đánh giá cao. Các nội dung mà Singapore đã thực

hiện hướng tới nâng cao tính tuân thủ của NNT bao gồm:

- Thứ nhất, Phân loại, xác định các nhóm tuân thủ và phương châm ứng xử

Căn cứ vào mức độ tuân thủ, NNT được chia thành 4 nhóm: (1) nhóm

tuân thủ tự nguyện; (2) nhóm chưa nhận thức; (3) nhóm bất cẩn; (4) nhóm cố

81

tình không tuân thủ. Trong đó, nhóm NNT tuân thủ tự nguyện chiếm đa số,

chỉ một số ít sai phạm do không cẩn thận hoặc chây ỳ khi thực hiện nghĩa vụ

thuế. Để nâng cao sự tuân thủ, CQT Singapore xây dựng các phương châm

ứng xử đối với từng nhóm khác nhau và tạo ra sức ép đối với các nhóm thiểu

số (chưa tuân thủ) bằng các quy tắc nhất định.

Nhóm 1 (NNT tuân thủ tự nguyện): Phương châm ứng xử với nhóm này

là “hỗ trợ và phục vụ”. CQT chủ động cung cấp các dịch vụ và sự hỗ trợ cần

thiết để khuyến khích NNT tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình. Các

hình thức hỗ trợ có thể là dịch vụ điện tử, dịch vụ, cơ chế trả lời tự động và

thông tin qua trang web về thuế.

Nhóm 2 (NNT muốn tuân thủ nhưng cần sự hỗ trợ): Phương châm ứng

xử với nhóm này là “giáo dục để ngăn chặn”. CQT thực hiện các hoạt động

tuyên truyền, giáo dục để ngăn chặn sự không tuân thủ như áp dụng dịch vụ

nhắc nhở qua điện thoại; nói chuyện với các hiệp hội thương mại; trao đổi

thông tin công cộng.

Nhóm 3 (NNT có thể mắc phải những sai sót khi thực hiện nghĩa vụ thuế

do không chú ý, thiếu cẩn thận): Phương châm ứng xử với nhóm này là “phát

hiện và sửa chữa”. CQT có các hoạt động nhằm phát hiện và ngăn chặn sự tái

phạm các lỗi mà nhóm này thường gặp phải, trong đó, có chương trình kiểm

toán và chương trình “công khai tự nguyện” để khuyến khích việc sửa các lỗi

mắc phải. Chương trình Công khai tự nguyện giúp NNT giải quyết những vấn

đề về thuế bằng cách khuyến khích họ tiến bộ, thực hiện đúng thời hạn, công

khai các lỗi sai hoặc sự bất cẩn.

Nhóm 4 (NNT gian lận một cách có chủ ý và trốn thuế): Phương châm

ứng xử với nhóm này là “phạt và ngăn chặn”. CQT sử dụng ngay các biện

pháp mạnh như: các hình thức phạt, cưỡng chế, thanh tra và có thể truy tố.

- Thứ hai, Xây dựng khung chiến lược thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện

Để hình thành môi trường tuân thủ thuận lợi và khuyến khích những

người tuân thủ tự nguyện, hoạt động của CQT dựa trên 4 trụ cột sau:

82

Xây dựng hệ thống thuế đơn giản: Một hệ thống thuế đơn giản sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho mọi người tuân thủ, tối thiểu hóa chi phí tuân thủ,

làm giảm cơ hội gian lận từ hệ thống thuế. Vì vậy, CQT cần rà soát một cách

chủ động để đơn giản hóa các quy trình, thủ tục về thuế để NNT có thể tuân

thủ một cách dễ dàng; giảm thiểu yêu cầu báo cáo và đưa ra nhiều cách

thuận tiện hơn để kê khai và nộp thuế sẽ khuyến khích sự tuân thủ tốt hơn.

NNT được thông tin đầy đủ: NNT khi biết rõ số thuế phải nộp, cách thức

thực hiện việc kê khai, nộp thuế sẽ có trách nhiệm hơn và có nhiều khả năng

thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Vì vậy, CQT cần cung cấp các thông tin một

cách chủ động và kịp thời qua nhiều kênh khác nhau, các thông tin cần dễ

hiểu để NNT thực hiện đúng nghĩa vụ thuế ngay từ đầu. Cùng với việc cung

cấp thông tin hướng dẫn thuế điện tử qua Website được cập nhật liên tục,

chính xác; đối thoại với các nhóm NNT mục tiêu; phân loại đối xử thuế; các

dịch vụ hỗ trợ nộp thuế cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp.

Việc QLT tin cậy và sự tin tưởng vào CQT: Khả năng của CQT trong

việc đảm bảo sự tuân thủ của tất cả mọi NNT là điều cốt yếu để tạo ra sự tin

tưởng và của công chúng. Vì vậy, CQT cần khuyến khích sự tuân thủ tự

nguyện của NNT thông qua giáo dục, tuyên truyền; cần có những hành động

nghiêm minh đối với sự không tuân thủ như quy định các hình thức phạt đủ

nặng đối với các hành vi vi phạm, truy tố những người có hành vi trốn thuế.

Phát triển tốt các năng lực về công nghệ và kỹ năng trong lĩnh vực kiểm toán

và thanh tra thuế sẽ góp phần xây dựng một hệ thống QLT tin cậy.

Cộng đồng cam kết: Niềm tin của người dân đối với việc nộp thuế là rất

cần thiết và hỗ trợ cho CQT rất nhiều trong việc đảm bảo tất cả mọi người

đều nộp thuế một cách công bằng. Vì vậy, việc khắc sâu một cảm giác mạnh

về sự công bằng và chính đáng của việc nộp thuế là rất cần thiết để tạo dựng

lòng tin trong cộng đồng. Ngoài ra, việc phát triển mạng lưới những người

cung cấp thông tin rộng rãi hơn, gắn kết các đối tác quan trọng (đại lý thuế,

hiệp hội thương mại, hiệp hội thuế, các cơ quan khác của Chính phủ) là điều

83

kiện cần thiết để tạo ra một cộng đồng gắn kết và tự nguyện tuân thủ.

- Thứ ba, Triển khai các hoạt động quản lý hướng đến NNT

CQT đã xây dựng chiến lược cải thiện hoạt động của CQT hướng đến

NNT, tạo điều kiện cho NNT có những hiểu biết về thuế và cung cấp các

phương tiện để đơn giản hoá việc thực hiện nghĩa vụ thuế. CQT thực hiện

việc kê khai thuế thông qua hệ thống điện thoại và kê khai điện tử. Nhờ cải

thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường tuyên truyền, quảng bá về các hình

thức kê khai mới, đến nay hầu hết NNT thực hiện kê khai thuế điện tử.

Ngoài ra, CQT đã xây dựng hệ thống phân tích thông tin tích hợp để

phục vụ công tác tư vấn, hỗ trợ NNT. Nhờ có dịch vụ trả lời điện thoại tự

động và dịch vụ tư vấn thuế một cửa, có đến 43% các vấn đề vướng mắc về

thuế được giải quyết bằng dịch vụ điện thoại trả lời tự động và NNT có thể sử

dụng dịch vụ một cửa để được giải đáp tất cả các vướng mắc về thuế.

Thông qua chương trình, kế hoạch phối hợp cung cấp thông tin với các

cơ quan khác của Chính phủ, CQT Singapore đang xây dựng chiến lược phát

triển với mục tiêu dài hạn là xoá bỏ mọi hình thức yêu cầu NNT phải kê khai

thuế, CQT cùng với các cơ quan của Chính phủ sẽ kiểm soát mọi trường hợp

đăng ký kinh doanh, kiểm soát các luồng tiền, thu nhập, từ đó tự xác định

nghĩa vụ thuế cho từng NNT. Chính nhờ những bước cải tiển triệt để này mà

CQT Singapore đã giúp cho NNT giảm đáng kể chi phí cho việc tuân thủ

nghĩa vụ nộp thuế, từ đó xây dựng và củng cố lòng tin của Chính phủ và

người dân vào hoạt động quản lý của mình, tính tuân thủ pháp luật thuế của

NNT vì vậy được nâng cao rõ rệt.

84

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong hoạt động QLT, rủi ro có thể phát sinh từ quá trình hoạch định,

xây dựng chính sách pháp luật thuế; từ quá trình tổ chức quản lý thu thuế; từ

quá trình tuân thủ pháp luật thuế của NNT.

QLRR trong QLT được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc nhất định

bao gồm các nguyên tắc chung của QLRR và các nguyên tắc gắn với hoạt

động QLT. Việc thực hiện QLRR trong QLT phải tuân thủ theo quy trình

QLRR gắn với các nội dung cụ thể, từ việc xây dựng hành lang pháp lý; tổ

chức bộ máy QLRR; thực hiện các bước công việc trong QLRR như: thu thập

thông tin về mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT, xây dựng các tiêu chí

phân loại rủi ro, phân loại mức độ rủi ro trong tuân thủ pháp luật thuế của

NNT, xác định các biện pháp QLT cụ thể với các nhóm NNT theo mức độ rủi

ro của họ…

QLRR trong QLT chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ

quan, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng sẽ giúp cho CQT tùy vào tình

hình kinh tế- xã hội và trình độ quản lý thuế của mỗi quốc gia để lựa chọn sự

tiếp cận mô hình QLT theo kỹ thuật QLRR phù hợp nhất. Ngoài ra, nhiều

quốc gia trên thế giới có những kinh nghiệm phong phú khi thực hiện QLRR

trong QLT, việc nghiên cứu những kinh nghiệm này sẽ giúp CQT Việt Nam

xây dựng được chương trình QLRR tổng thuể, nâng cao hiệu quả công tác

QLT tại Việt Nam

Tóm lại, Chương 2 của Luận án đã phân tích được các cơ sở lý luận quan

trọng về QLRR trong QLT. Đây là nền tảng lý thuyết cần thiết để đánh giá

thực tiễn, đề xuất giải pháp theo mục tiêu nghiên cứu của Luận án.

85

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM

3.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT

NAM GIAI ĐOẠN 2014 – 2020

3.1.1. Tình hình quản lý NNT Giai đoạn 2014-2020, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển với tốc độ khá, năm 2014 đạt 5,98%, năm 2020 mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid 19 nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt 2,91%, nằm trong nhóm số ít các quốc gia trên thế giới có tăng trưởng dương, bình quân cả giai đoạn trên 5%. Đến hết năm 2020, quy mô nền kinh tế nước ta đạt 343 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh được thành lập mới và tham gia thị trường ngày càng tăng. Quy mô, tính chất, phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng. Doanh nghiệp và hộ kinh doanh không chỉ tăng nhanh về số lượng mà cả về tốc độ gia nhập nền kinh tế.

Bảng 3.1. Thống kê NNT giai đoạn 2014-2020

Nội dung

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

So sánh giai đoạn 2020- 2014

557.252

611.914

681.158

765.843

832.454

757.533

810.105 +45,37%

69.619

96.669

110.270

126.739

131.807

137.541

135.783 +95,04%

487.633

515.245

570.888

639.104

700.647

619.992

674.322 +38,28%

68.169

91.708

74.922

67.626

76.581

78.066

81.722 +19,88%

- Tổng số doanh nghiệp, trong đó: + Số DN thành lập mới + Số DN thực tế đang hoạt động + Số DN chấm dứt kinh doanh

- Số hộ kinh doanh 1.573.250 1.610.000 1.632.009 1.679.120 1.815.014 1.793.132 1.930.235 +22,7%

Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế

86

Bảng 3.1 cho thấy, năm 2020, tổng số doanh nghiệp đã tăng 45,37% so

với năm 2014, trong đó tốc độ gia tăng doanh nghiệp thành lập mới năm 2020

tăng 95,04% so với năm 2014, bên cạnh đó tỷ lệ doanh nghiệp chấm dứt kinh

doanh cũng tăng nhưng không đáng kể là 19,88%. Như vậy, thực tế số doanh

nghiệp đang hoạt động tính đến cuối năm 2020 đã tăng so với năm 2014 là

38,28%. Về hộ kinh doanh giai đoạn này cũng tăng đáng kể, theo số liệu

thống kê thì năm 2020 đã tăng 15,4% so với năm 2014. Số liệu trên chứng tỏ,

việc xây dựng các chính sách mới và thực hiện phương thức quản lý hiện đại

đã khuyến khích chủ thể nền kinh tế phát triển, từ đó có thể đảm bảo nguồn

thu ngân sách luôn ổn định và phát triển.

3.1.2 Tình hình thu ngân sách

Cùng với sự phát triển kinh tế, sự gia tăng lớn mạnh của doanh nghiệp và

hộ kinh doanh, sự ổn định của chính sách thuế, quy mô số thu ngân sách nhà

nước ngày càng tăng.

Bảng 3.2. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020

(phân loại theo khu vực nền kinh tế)

Đvt: tỷ đồng

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

693.641

817.071

896.977

1.028.775

1.156.175

1.280.652

1.295.645

Chỉ tiêu Tổng số thu do ngành Thuế quản lý, trong đó:

- Thu dầu thô

100.082

67.510

40.186

49.583

66.048

56.251

34.598

- Thu nội địa, gồm:

593.559

749.561

856.790

979.192

1.090.127

1.224.401

1.261.047

+ Khu vực DNNN

145.217

159.906

152.975

147.238

153.323

165.056

148.208

123.802

140.979

162.934

172.166

190.309

210.214

206.089

112.196

129.582

157.082

181.001

209.625

238.228

247.104

+ KV DN vốn ĐTNN + KV CTN&DV NQD

Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế

87

Bảng 3.2 cho thấy, Xét về tổng thể tổng số thu do ngành Thuế quản lý năm

2020 đạt 1.295.645 tỷ đồng tăng 86,79% so với năm 2014. Đây là cả sự cố gắng

lớn của ngành thuế trong cả xây dựng cơ chế chính sách, cũng như đổi mới

phương thức quản lý cho phù hợp điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động ảnh

hưởng từ nền kinh tế thế giới. Hệ thống chính sách thuế được xây dựng, hoàn

thiện đảm bảo minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện; mở rộng cơ sở thuế để

phát triển nguồn thu, bao quát các nguồn thu mới phát sinh và cơ cấu lại theo

hướng tăng tỷ trọng nguồn thu nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ

tài nguyên khoáng sản (dầu thô) và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu.

Nếu xét chi tiết theo tỷ trọng cơ cấu nguồn thu: năm 2014 nguồn thu từ

dầu thô chiếm 14,43% và thu từ nội địa chiếm 85,57% trong tổng nguồn thu

và đến năm 2020 tỷ trọng nguồn thu có sự thay đổi đáng kể thu từ dầu thô

giảm còn 2,67% và thu nội địa chiếm 97,33%. Như vậy nguồn thu từ dầu thô

ngày càng giảm, để đảm bảo nguồn thu ngân sách nhằm phục vụ cho các nhu

cầu phát triển kinh tế xã hội thì đòi hỏi phải có sự đóng góp chung của các

thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Trong cơ cấu tỷ trọng nguồn thu nội địa

(không kể dầu thô), nổi bật về sự tăng trưởng trong giai đoạn này phải kể đến

sự gia tăng nguồn thu từ khu vực CTN&DV NQD tăng 120,24% (từ 112.196

tỷ đồng năm 2014 đã tăng lên đến 247.104 tỷ đồng năm 2020), tiếp đó là sự

gia tăng nguồn thu từ khu vực doanh nghiệp vốn ĐTNN tăng 66,47% (từ

123.802 tỷ đồng năm 2014 tăng lên 206.089 tỷ đồng năm 2020), phù hợp với

mục tiêu định hướng sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tăng

cường thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

Điều này cho thấy, ngành Thuế đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,

xây dựng các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư từ

bên ngoài cũng như thúc đẩy sản xuất trong nước. Những thay đổi cơ bản

trong phương thức QLT theo hướng hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi cho

các thành phần kinh tế phát triển, đồng thời cũng duy trì tăng trưởng bền vững

nguồn thu góp phần vào sự phát triển của đất nước. Điều này đã được minh

88

chứng qua số liệu cơ cấu nguồn thu từ hoạt động SXKD đã ngày càng chiếm

tỷ trọng lớn, tăng trưởng qua các năm và bền vững.

Bảng 3.3. Tổng hợp tình hình thực hiện thu NSNN giai đoạn 2014-2020

Đvt: tỷ đồng

(Phân loại theo sắc thuế)

Chỉ tiêu

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Tổng số thu do ngành Thuế quản lý,

693.641

817.071

896.977

1.028.775

1.156.175

1.280.652

1.295.645

trong đó:

- Thu dầu thô

100.082 67.510

40.186

49.583

66.048

56.251

34.598

- Thu nội địa,

gồm:

593.559

749.561

856.790

979.192

1,090.127

1,224.401

1,261.047

+ Thuế GTGT

163.727 181.770

192.704

208.402

228.840

247.100

241.287

+ Thuế TTĐB

55.474

66.653

85.854

85.086

96.025

106.753

100.090

+ Thuế TNDN

128.220 144.681

158.618

175.642

197.656

228.712

231.277

+ Thuế TNCN

47.844

56.723

65.235

78.775

94.364

109.406

115.213

+ Khác

198.294 299.734

354.379

431.286

473.242

532.318

573.180

Nguồn: Số liệu thống kê ngành thuế

Qua Bảng 3.3 có thể thấy tỷ trọng nguồn thu đã tập trung chủ yếu vào

các sắc thuế chính như GTGT, TNDN, TTĐB và thuế TNCN, đáng chú ý

phải kể đến nguồn thu từ thuế TNCN năm 2020 đã tăng hơn 140% so với năm

2014; thuế GTGT năm 2020 tăng 47,4% so với năm 2014; thuế TTĐB, thuế

TNDN đều tăng hơn 80%. Đây là kết quả sự thay đổi trong rà soát, điều chỉnh

chính sách cho phù hợp theo yêu cầu phát triển đất nước theo hướng giảm tỷ

lệ động viên về thuế cho NNT, góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế

quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, khuyến khích thu hút đầu tư của các thành

phần kinh tế và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bảo hộ hợp lý có chọn lọc,

có thời hạn các sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước phù hợp với các cam

kết, thông lệ quốc tế.

Tổng số thu ngân sách ngày càng tăng lên năm sau vượt dự toán thu và

89

tăng so với cùng kỳ năm trước góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển

kinh tế- xã hội, trong khi số thu từ dầu thô ngày càng giảm thì ngành thuế đã

nỗ lực phấn đấu kiểm soát và có nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy tăng tối đa

nguồn thu từ đó làm tăng thu nội địa cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu phát

triển của đất nước.

3.1.3. Tình hình thực hiện công tác quản lý thuế

Trong giai đoạn 2014 - 2020, công tác QLT đã được hiện đại hóa toàn

diện theo định hướng chuẩn mực quốc tế cả về phương pháp quản lý, thủ tục

hành chính, và ứng dụng CNTT trong tất cả các khâu của công tác QLT. Tính

đến ngày 31/12/2020 ngành Thuế đã phối hợp với cơ quan đăng ký kinh

doanh triển khai thực hiện đăng ký thuế điện tử cho 100% NNT là doanh

nghiệp và hợp tác xã tại bộ phận “một cửa liên thông” (so mục tiêu đặt ra đến

năm 2020 là 65% doanh nghiệp đăng ký thuế qua mạng internet); đã có 98%

số tờ khai thuế đã được nộp so với tổng số tờ khai thuế phải nộp theo quy

định của pháp luật (so mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là tỷ lệ tờ khai thuế đã

nộp trên tổng số tờ khai thuế phải nộp đạt tối thiểu là 95%); đã có 97% số

tờ khai đã được nộp đúng hạn so với tổng số tờ khai thuế đã nộp (so mục tiêu

đặt ra đến năm 2020 là tỷ lệ tờ khai thuế nộp đúng hạn đạt tối thiểu 95%);

đã đạt tỷ lệ 99,9% doanh nghiệp khai thuế điện tử, 98,7% doanh nghiệp đăng

lý nộp thuế điện tử và 95,5% doanh nghiệp tham gia hoàn thuế điện tử (so

mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là tối thiểu 90% doanh nghiệp sử dụng các dịch

vụ thuế điện tử).

Đồng thời, ngành thuế đã tập trung đôn đốc kịp thời, đầy đủ các khoản nợ

thuế vào NSNN, theo đó tính đến thời điểm 31/12/2020, tỷ lệ tổng nợ thuế trên

tổng dự toán thu ngành Thuế quản lý năm 2020 là 7,4%. Lũy kế tính đến tháng

12/2019 tỷ lệ thu nợ đạt 90,8% nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2018,

đạt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, sang năm 2020 do tác động của thiên tai, dịch

bệnh nên lũy kế tính đến thời điểm 31/12/2020 thu đạt 28.470 tỷ đồng, đạt

67,3% nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2019.

Như vậy, qua số liệu thống kê ngành Thuế cho thấy các chỉ tiêu về tỷ lệ

90

khai nộp thuế, tỷ lệ nợ thuế, tỷ lệ thu nợ tương đối tốt, đã đạt được mục tiêu

đề ra so với Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020, phản

ánh hiệu quả thu thuế của Việt Nam tương đối tích cực và đạt được những kết

quả cải cách quan trọng.

Tuy nhiên, số liệu thống kê ngành Thuế cũng cho thấy, tốc độ tăng thu

ngày một giảm dần và vẫn còn tình trạng thất thoát thuế. Cụ thể như sau:

+ Tình hình trốn thuế, gian lận thuế của các doanh nghiệp

Theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước một số

năm gần đây, tình trạng người nộp thuế kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi

phí, từ đó tính thiếu thuế GTGT, thuế TNDN và lợi nhuận còn lại phải nộp

NSNN, nợ thuế vẫn diễn ra phổ biến và không có dấu hiệu thuyên giảm. Kiểm

toán Nhà nước xác định số phải nộp NSNN tăng dần qua các năm, từ hơn 11

nghìn tỷ đồng năm 2014 lên khoảng 18 nghìn tỷ đồng năm 2020. Đặc biệt, năm

2019, qua thực hiện phương pháp đối chiếu thuế 3.171 doanh nghiệp ngoài quốc

doanh tại 49 địa phương, số xác định nộp NSNN tăng thêm là 1.635 tỷ đồng tại

2.921 doanh nghiệp (chiếm 92,1% doanh nghiệp đối chiếu).

Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2014 - 2020, ngành

Thuế đã thực hiện 471 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra, đã truy thu, truy hoàn

và phạt số tiền lên đến gần 90 nghìn tỷ đồng. Tình trạng chuyển giá của khu

vực doanh nghiệp FDI ngày càng gia tăng, phức tạp. Tốc độ tăng mức đóng

góp vào NSNN quá thấp so với tốc độ tăng lợi nhuận là chưa tương xứng với

nguồn tài nguyên và kết quả sản xuất - kinh doanh thực tế của khu vực doanh

nghiệp FDI. Báo cáo của Bộ Tài chính cũng cho thấy, tốc độ tăng về số nộp

NSNN (7%) của khu vực FDI năm 2014 so với năm 2020 thấp hơn tốc độ

tăng về lợi nhuận trước thuế (19,2%) và lợi nhuận sau thuế (22,6%), cho thấy

đóng góp vào NSNN của doanh nghiệp FDI tăng trưởng chậm hơn so với tăng

trưởng của năng lực hoạt động.

+ Tình trạng nợ thuế

91

Theo Tổng cục Thuế, khoản nợ thuế do ngành thuế quản lý tiếp tục tăng

qua các năm và diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc thuế.

Theo thống kê của Tổng cục Thuế về tình hình quản lý nợ và cưỡng chế

nợ thuế từ năm 2014 đến 2020 thì tỷ lệ tổng nợ thuế đến thời điểm 31/12 hàng

năm so với tổng thu NSNN trong giảm dần trong giai đoạn 2014-2020: năm

2014 là 12,2%, năm 2015 là 10,3%, năm 2016 là 9,1%, năm 2017 là 8%, năm

2018 là 7,5%, năm 2019 là 7,4%, năm 2020 là 7,4%. Song số nợ khó thu lại

có xu hướng tăng, đặc biệt vào năm 2020 do tác động của thiên tai, dịch bệnh

nên lũy kế tính đến thời điểm 31/12/2020 thu đạt 28.470 tỷ đồng, đạt 67,3%

nợ có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2019.

Bên cạnh đó, tính tuân thủ thuế của một bộ phận không nhỏ NNT chưa

cao. Theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước một

số năm gần đây, tình trạng NNT kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi phí,

từ đó tính thiếu thuế GTGT, thuế TNDN và lợi nhuận còn lại phải nộp NSNN,

nợ thuế vẫn diễn ra phổ biến và chưa có dấu hiệu giảm.

Việc các doanh nghiệp kê khai lỗ nhiều năm liên tiếp để trốn đóng thuế

TNDN cũng khá phổ biến, điển hình là các doanh nghiệp FDI. Thống kê

những năm qua cho thấy, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai

lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp.

3.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014 – 2020

3.2.1 Thực trạng xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản

lý rủi ro trong quản lý thuế

QLRR trong QLT là một yêu cầu tất yếu của QLT hiện đại, tuy nhiên,

đối với Việt Nam trong giai đoạn trước 2012, đây là một nội dung còn rất

mới. Để chuẩn bị cho việc thực hiện QLRR trong QLT, Tổng cục Thuế đã

từng bước thí điểm thực hiện QLRR trong một số khâu, một số chức năng

quản lý thuế. Tuy nhiên, việc thí điểm này cũng chỉ dừng lại ở các văn bản

nội bộ ngành, chưa được quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp

92

luật. Cụ thể, năm 2009, Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 460/QĐ-TCT

ngày 05/5/2009 về việc ban hành Quy trình thanh tra thuế, trong đó quy định

bố sung các quy định về thực hiện QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra

NNT. Theo quy trình này, việc xây dựng kế hoạch thanh tra các năm được

dựa trên hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro, mức độ tuân thủ pháp

luật thuế của NNT (tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp). Năm 2012,

Tổng cục thuế đã ban hành một số tiêu chí định hướng lựa chọn NNT rủi ro

với các mức điểm cụ thể, tạo thuận lợi cho khâu chấm điểm rủi ro doanh

nghiệp để lựa chọn được những doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế để thực

hiện thanh tra thuế.

Trên cơ sở những kết quả bước đầu từ việc thí điểm thực hiện QLRR vào

hoạt động thanh tra thuế theo quy trình thanh tra thuế nêu trên, Bộ Tài chính

đã tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội bổ sung quy định về việc QLRR

trong quản lý thuế vào Luật QLT số 21/2012/QH13 ngày 20/1/2012 của Quốc

hội có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

QLT số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006. Khoản 4, Điều 4. Luật này nêu rõ:

“Áp dụng cơ chế QLRR trong QLT:

a) Việc áp dụng cơ chế QLRR trong QLT bao gồm: thu thập thông tin,

dữ liệu liên quan đến NNT; xây dựng các bộ tiêu chí QLT; đánh giá việc tuân

thủ pháp luật của NNT; đề xuất, áp dụng các biện pháp QLT;

b) Cơ quan QLT quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh

giá rủi ro về thuế, mức độ tuân thủ pháp luật của NNT, lựa chọn đối tượng kiểm

tra, thanh tra về thuế và hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong QLT.”

Khoản 10, Điều 5 Luật này có giải thích từ ngữ về QLRR trong QLT:

“QLRR trong QLT là việc áp dụng có hệ thống các quy định pháp luật, các

quy trình nghiệp vụ để xác định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể tác

động tiêu cực đến hiệu quả, hiệu lực QLT, làm cơ sở để cơ quan QLT phân bổ

nguồn lực hợp lý, áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả”.

Trên cơ sở quy định của Luật Quản lý thuế, quy định pháp lý về QLRR

93

trong QLT tiếp tục được cụ thể hóa tại Nghị định 83/2013/NĐ-CP ngày

22/7/2013 của Chính phủ và được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số

204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ Tài chính quy định về thực hiện

quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Trong đó quy định cụ thể về nguyên tắc, nội

dung, trình tự thực hiện QLRR trong QLT, tạo hành lang pháp lý cho việc

triển khai thực hiện QLRR trong QLT một cách đầy đủ, toàn diện.

Nội dung QLRR trong QLT: Điều 6 Thông tư 204/2015/TT-BTC quy

định cơ quan thuế thực hiện QLRR đối với: Quản lý đăng ký thuế; Quản lý,

kiểm tra khai thuế, nộp thuế; Quản lý hoàn thuế; Xác định, lựa chọn người

nộp thuế để thực hiện đưa vào kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế theo quy định

của pháp luật; Quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế; Phân loại người nộp thuế áp dụng các biện pháp quản lý trong việc tạo,

in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế; Thu thập, phân tích thông tin, xác

định trọng điểm giám sát đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp

luật thuế; Cung cấp thông tin, dữ liệu, hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác

trong quản lý thuế. Như vậy thông tư đã quy định thực hiện QLRR trong hầu

hết các khâu các chức năng quản lý thuế.

Nguyên tắc QLRR rủi ro trong QLT:

- CQT thực hiện QLRR để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT

tuân thủ tốt các quy định của pháp luật, đồng thời phòng chống, phát hiện, xử

lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong QLT đối với NNT.

- Trong QLT, NNT phải được đánh giá rủi ro để áp dụng lựa chọn

trường hợp kiểm tra, thanh tra thuế, phân loại hồ sơ hoàn thuế, biện pháp

cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, phân loại trường hợp tạo, in,

phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế và các biện pháp nghiệp vụ cần thiết

khác ở mức độ phù hợp nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật thuế.

- Việc đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật của NNT căn cứ các

quy định của pháp luật, các quy trình, biện pháp nghiệp vụ QLT, dựa trên tiêu

chí QLRR, thông tin nghiệp vụ và thông tin, dữ liệu có trên “Hệ thống cơ sở

94

dữ liệu về NNT” của Tổng cục Thuế.

- CQT thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát trên cơ sở đánh

giá xếp hạng mức độ rủi ro cao, sử dụng các biện pháp phù hợp đối với những

trường hợp được đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro thấp.

- CQT thực hiện cập nhật thông tin đầy đủ vào hệ thống cơ sở dữ liệu

thông tin nghiệp vụ thuế và hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT theo nguyên tắc

điện tử hóa, số hóa các chứng từ, thông tin liên quan. Các hoạt động tác

nghiệp phải thực hiện trên hệ thống, đảm bảo cập nhật trạng thái quản lý

thường xuyên, liên tục.

Trình tự QLRR rủi ro trong QLT:

- CQT tổ chức thu thập, xử lý thông tin dữ liệu theo phương thức điện tử

liên quan đến NNT. Xây dựng, vận hành, quản lý, sử dụng “Hệ thống cơ sở

dữ liệu về NNT” của Tổng cục Thuế.

- Tổng cục Thuế xây dựng, trình Bộ Tài chính ban hành bộ tiêu chí

QLRR đáp ứng yêu cầu QLT trong từng thời kỳ (3 năm); Định kỳ hàng quý

thực hiện rà soát điều chỉnh bổ sung đảm bảo tính cập nhật phù hợp thực tế.

- CQT căn cứ các quy định của pháp luật, các quy trình, biện pháp

nghiệp vụ QLT, bộ tiêu chí QLRR, hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT và ứng

dụng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ thuế để phân tích, xác định,

đánh giá mức độ rủi ro; đánh giá tuân thủ pháp luật của NNT; quản lý hồ sơ

rủi ro đối với các đối tượng trọng điểm vi phạm pháp luật thuế.

- CQT căn cứ kết quả đánh giá mức độ rủi ro; đánh giá tuân thủ pháp

luật của NNT để áp dụng các biện pháp: Quản lý đăng ký thuế; quản lý, kiểm

tra khai thuế, nộp thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; phân loại hồ sơ hoàn thuế;

biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; phân loại đối tượng

tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế và các biện pháp nghiệp vụ

cần thiết khác đối với NNT.

- CQT theo dõi, cập nhật, đánh giá thông tin phản hồi về kết quả thực

hiện các biện pháp QLT đối với NNT; đo lường mức độ tuân thủ pháp luật

95

của NNT.

- CQT quản lý, lưu trữ, cung cấp thông tin, dữ liệu; chỉ đạo, hướng dẫn

điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện QLRR để đảm bảo hiệu quả QLT.

Như vậy, cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT từ Luật Quản lý thuế đến

các văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là nội dung quy định, hướng dẫn cụ

thể việc thực hiện QLRR trong QLT tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày

21/12/2015 của Bộ Tài chính đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc

triển khai thực hiện QLRR trong QLT, góp phần cải cách, hiện đại hóa công

tác QLT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT thời gian qua. Đến nay, Thông tư

số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 đã được thay thế bởi Thông tư số

31/2021/TT-BTC ngày 17/5/2021 có hiệu lực thi hành từ ngày 2/7/2021.

Bên cạnh đó khi thực hiện khảo sát với 400 công chức thuế về việc đảm

bảo hành lang pháp lý, kết quả khảo sát được thể hiện qua biểu đồ 3.1

Biểu đồ 3.1: Kết quả khảo sát về đảm bảo hành lang pháp lý

Kết quả khảo sát cho thấy 356 phiếu (tương ứng 89% công chức được

khảo sát) cho rằng văn bản quy phạm pháp luật và các quy định hiện hành đã

đảm bảo đầy đủ và tương đối đầy đủ hành lang pháp lý; chỉ 44 phiếu (tương

ứng 11% công chức được khảo sát) cho rằng văn bản quy phạm pháp luật

chưa đầy đủ hành lang pháp lý.

96

3.2.2 Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại cơ quan thuế

Trước thời điểm Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của

Bộ Tài chính được ban hành, tại CQT không có bộ phận độc lập về quản lý

rủi ro. Nhiệm vụ nghiên cứu, thực hiện QLRR trong QLT tại Tổng cục được

giao cho Vụ Thanh tra, kiểm tra thuế; tại các Cục Thuế được giao cho một

phòng thanh tra, trong giai đoạn này việc QLRR chủ yếu được thực hiện đối

với công tác thanh tra, kiểm tra NNT.

Sau khi Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ Tài

chính được ban hành và có hiệu lực, tại khoản 3 Điều 28 Thông quy định: Tổng

cục Thuế tổ chức đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ QLRR trực thuộc

Tổng cục Thuế, Cục Thuế các tỉnh thành phố, Chi cục Thuế có số doanh

nghiệp quản lý lớn (trên 3.000 doanh nghiệp) và số thu lớn (từ 1.000 tỷ đồng),

đối với các chi cục Thuế còn lại giao đội kiểm tra thuế làm đầu mối, chủ trì

giúp thủ trưởng CQT các cấp tổ chức thu thập, xử lý thông tin, xây dựng cơ sở

dữ liệu, xây dựng bộ tiêu chí QLRR, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ

thuế để phân tích, xác định, đánh giá mức độ rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật

của NNT và trực tiếp chủ trì thực hiện QLRR trong quản lý thuế.

Ngày 09/10/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 2019/QĐ-

BTC về việc thành lập Ban QLRR trực thuộc Tổng cục thuế. Ban QLRR có

các nhiệm vụ:

- Tham mưu giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế xây dựng hệ thống cơ

sở pháp lý, tiêu chí, quy trình, quy định về QLRR trong QLT;

- Xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm về QLRR trong

QLT trình Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế để báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài

chính xem xét, quyết định;

- Chủ trì tham mưu giúp Tổng cục điều phối triển khai chương trình, kế

hoạch về QLRR trong QLT toàn ngành sau khi được phê duyệt;

- Trực tiếp tổ chức thực hiện thu thập, phân tích thông tin, đánh giá rủi ro

ở các khâu trong QLT; đánh giá phân loại rủi ro trong việc chấp hành pháp luật

97

của tổ chức, cá nhân nộp thuế;

- Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức triển khai ứng dụng các biện pháp, kỹ

thuật nghiệp vụ QLRR; đề xuất trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật đáp ứng yêu

cầu QLRR;

- Tổng kết đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ QLRR trong

QLT; đánh giá việc tổ chức thực hiện áp dụng kỹ thuật QLRR với các tổ chức,

đơn vị trong phạm vi toàn ngành;

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách về QLRR trong QLT;

- Tổ chức triển khai các chương trình hợp tác và trao đổi thông tin QLRR

giữa ngành Thuế với cơ quan, tổ chức liên quan;

- Phối hợp xây dựng nội dung, chương trình và tham gia giảng dạy, đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ QLRR trong QLT;

- Thực hiện việc bảo quản và lưu giữ hồ sơ nghiệp vụ, tài liệu và các văn

bản pháp quy của Nhà nước, tài sản cơ quan theo quy định; và thực hiện các

nhiệm vụ khác do Tổng cục Trưởng Tổng cục Thuế giao.

Cùng với Quyết định thành lập Ban, Tổng cục thuế đã ban hành Quy chế

tổ chức và hoạt động của Ban theo Quyết định số 2363/QĐ-TCT. Sau khi được

thành lập, theo chức năng nhiệm vụ được giao, Ban QLRR đã triển khai đồng

bộ việc rà soát, nghiên cứu, triển khai xây dựng hệ thống CSDL, hệ thống ứng

dụng CNTT phục vụ QLRR; nghiên cứu, xây dựng các bộ tiêu chí, chỉ số

đánh giá rủi ro, quy định, quy trình nghiệp vụ QLRR, trong đó ưu tiên triển

khai đối với một số chức năng QLT trọng yếu hiện nay: thanh tra, kiểm tra, kê

khai, hoàn thuế, quản lý hóa đơn; xây dựng Kế hoạch thực hiện QLRR trong

QLT giai đoạn 2016-2020, xây dựng, sửa đổi các quy chế phối hợp với Cơ

quan Hải quan, Ủy ban chứng khoán…

Tại cấp Cục Thuế và Chi cục Thuế không tổ chức bộ phận QLRR

chuyên trách, mà nhiệm vụ này được giao cho một phòng thanh tra làm đầu

mối chịu trách nhiệm chính và các phòng chức năng có trách nhiệm phối hợp

triển khai thực hiện.

98

Về quyền hạn, nhiệm vụ trong thực hiện QLRR:

Quyền hạn và nhiệm vụ thực hiện QLRR đã được quy định tại Luật QLT

và các văn bản hướng dẫn Luật, cụ thể:

-Thứ nhất, quyền hạn và nhiệm vụ của Bộ trưởng Bộ Tài chính: “Ban

hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro theo các chức năng đáp ứng yêu cầu QLT

trong từng thời kỳ”

-Thứ hai, quyền hạn và nhiệm vụ của CQT:

Sử dụng thông tin về NNT để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác

QLRR về thuế; Quản lý, ứng dụng CNTT, hệ thống thông tin nghiệp vụ, cơ sở

dữ liệu về NNT để đánh giá rủi ro trong QLT; đánh giá mức độ tuân thủ pháp

luật của NNT để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ QLT và xác định, lựa chọn

đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế theo quy định của pháp luật.

Như vậy cho đến nay Tổng cục Thuế đã thành lập được đơn vị chuyên

trách chịu trách nhiệm nghiên cứu và tổ chức thực hiện QLRR trong toàn

ngành thuế. Kết quả hoạt động trong mấy năm qua cho thấy, QLRR đã được

thực hiện trong hầu hết các khâu, các chức năng quản lý chính và phát huy

hiệu quả rõ rệt giúp cơ quan thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy

nhiên, tại cấp Cục thuế việc tổ chức thực hiện QLRR vẫn được giao cho một

phòng thanh tra kiêm nhiệm.

Kết quả khảo sát với 400 công chức thuế về sự cần thiết phải thực hiện

QLRR trong QLT cho thấy: có 370 phiếu trả lời (tương ứng với 92,5% công

chức được hỏi) cho rằng cần thiết phải thực hiện QLRR trong QLT; chỉ 30

phiếu (tương ứng 7,5% công chức được hỏi) cho rằng tương đối cần thiết phải

thực hiện QLRR trong QLT; không ai được hỏi cho rằng không cần thiết thực

hiện QLRR trong QLT.

Kết quả khảo sát về tổ chức bộ máy QLRR tại Cục Thuế cho thấy: có

117 công chức tham gia khảo sát (tương ứng 29,25%) cho rằng cần thành lập

phòng QLRR tại Cục Thuế; 186 công chức tham gia khảo sát (tương ứng

46,5%) cho rằng cần thành lập phòng QLRR tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế

99

khác giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm; 97 công chức tham gia

khảo sát (tương ứng 24,25%) cho rằng giữ nguyên như hiện nay Giao 01

phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm.

3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các bước công việc quản lý rủi

ro trong quản lý thuế

3.2.3.1 Thực trạng xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT, hệ thống

ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro

a. Về hệ thống cơ sở dữ liệu NNT

Cơ sở dữ liệu của NNT là yếu tố không thể thiếu trong công tác QLT nói

chung và đặc biệt quan trọng khi thực hiện QLRR trong QLT. Thấy được tầm

quan trọng của vấn đề và thực hiện theo các quy định về QLRR trong QLT,

CQT đã từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về NNT nhằm sử dụng

chung cho toàn ngành, phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá để lựa chọn

đối tượng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, đối tượng thuộc diện quản lý

đặc biệt nhằm giảm tình trạng quá tải nguồn lực trong công tác quản lý. Cụ

thể các thông tin, dữ liệu về NNT phải được thu thập, cập nhật không chỉ từ

các hồ sơ khai thuế của NNT, từ các nghiệp vụ QLT của CQT mà còn từ các

cơ quan quản lý nhà nước có liên quan như: thông tin về đầu tư; thông tin về

xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thông tin về giao dịch liên kết; ... các thông

tin thu thập từ mua tin, trao đổi thông tin trong nước, ngoài nước và các

nguồn thông tin khác. Và quan trọng hơn, các thông tin, dữ liệu về NNT phải

được thu thập, cập nhật, lưu trữ tập trung dưới dạng điện tử đảm bảo đầy đủ,

chính xác và kịp thời mới có thể phục vụ việc phân tích, đánh giá, phân loại

NNT theo rủi ro đạt hiệu quả cao.

Điều 70, Luật Quản lý thuế năm 2006 quy định: Cơ quan quản lý thuế có

trách nhiệm tổ chức xây dựng, quản lý và phát triển cơ sở dữ liệu, hạ tầng kỹ

thuật của hệ thống thông tin về NNT; tổ chức, đơn vị chuyên trách thực hiện

nhiệm vụ thu thập, xử lý thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu và bảo đảm duy trì,

vận hành hệ thống thông tin về NNT. Đồng thời, cơ quan QLT áp dụng các

100

biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập, xử lý thông tin theo mục tiêu và

yêu cầu của từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cơ quan QLT phối hợp với cơ quan,

tổ chức, cá nhân có liên quan để trao đổi thông tin, kết nối mạng trực tuyến.

Như vậy, việc xây dựng và thu thập hệ thống thông tin về NNT được

thực hiện trên cơ sở cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT; áp

dụng các biện pháp nghiệp vụ trong thanh tra, kiểm tra thuế để thu thập thông

tin; phối hợp với các cơ quan có liên quan để cung cấp, thu thập, trao đổi

thông tin; tăng cường hợp tác quốc tế để thu thập thông tin…

Trước năm 2014, công tác QLRR trong QLT được thực hiện chủ yếu cho

chức năng thanh tra, kiểm tra, thông qua các bước rà soát, sự phối hợp của bộ

phận thanh tra, kiểm tra, dựa trên cơ sở dữ liệu tập trung và cốt lõi là bộ tiêu

chí rủi ro được Tổng cục Thuế ban hành thực hiện thống nhất, đồng thời ứng

dụng CNTT để gán điểm rủi ro cho từng doanh nghiệp. Việc thực hiện dựa

trên hệ thống bộ tiêu chí tĩnh kết hợp bộ tiêu chí động do từng Cục Thuế lựa

chọn theo yêu cầu quản lý.

Từ 2014- 2020, hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu NNT phục vụ công tác

QLT nói chung và QLRR nói riêng đã được hình thành tương đối đồng bộ, cơ

sở dữ liệu về hơn 830.000 doanh nghiệp; gần 2 triệu hộ kinh doanh; hơn 20

triệu cá nhân với hệ thống bao gồm các thông tin:

- Thông tin chung của người nộp thuế.

- Thông tin về hồ sơ khai thuế, căn cứ tính thuế.

- Thông tin về nộp thuế, nợ thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế

- Thông tin về tình hình tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế

- Thông tin về báo cáo tài chính doanh nghiệp

- Thông tin vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế

- Thông tin về kết quả thanh tra, kiểm tra và xử lý sau thanh tra, kiểm tra

- Thông tin về đánh giá rủi ro NNT

- Các thông tin khác liên quan đến NNT

Cùng với hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu NNT, CQT cũng đã xây dựng

101

và vận hành thông suốt cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT;

cơ chế phối hợp trao đổi cung cấp thông tin đối với các cơ quan nhà nước có

liên quan.

Hình 3.1. Mô hình CSDL và các giao thức trao đổi thông tin

(1) Cơ chế kê khai, cung cấp thông tin của NNT cho CQT: Việc cung cấp

thông tin của NNT cho CQT được thực hiện thông qua chế độ đăng ký thuế,

102

kê khai thuế định kỳ hoặc theo yêu cầu kiểm tra, thanh tra của CQT. Việc xây

dựng các quy định về chế độ đăng ký thuế, kê khai thuế và các mẫu biểu khai

thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại thuế, từng loại hình NNT có ý nghĩa

quan trọng trong việc thu thập đầy đủ thông tin, kiểm soát hoạt động kinh

doanh và nghĩa vụ thuế của NNT. Tại Việt Nam, cơ chế kê khai thuế của

NNT được qui định cụ thể tại Luật Quản lý thuế cùng với các biểu mẫu kê

khai của từng loại thuế. Để đáp ứng yêu cầu thu thập thông tin về NNT, thời

gian qua, CQT đã không ngừng cải tiến trong việc thiết kế hồ sơ khai thuế,

nộp thuế, hoàn thuế theo hướng cải cách đồng bộ, đơn giản, rõ ràng, minh

bạch dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kê khai thuế vẫn còn

nổi lên một số điểm bất cập, đó là: hệ thống mẫu biểu hồ sơ khai thuế GTGT

còn quá phức tạp gây khó khăn cho NNT và CQT trong việc kê khai và xử lý

thông tin, bên cạnh đó thiếu tính đồng bộ kết nối liên thông thông tin cần kê

khai từ ứng dụng kế toán của NNT tới ứng dụng hỗ trợ kê khai trên hồ sơ khai

thuế của NNT nhằm tạo thuận lợi và giảm thời gian, chi phí trong kê khai

nghĩa vụ thuế của NNT.

(2) Cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin giữa CQT và các cơ quan quản lý

liên quan, các đối tượng phát sinh giao dịch với NNT như ngân hàng, hải

quan, cơ quan chi trả thu nhập, các đối tượng có quan hệ giao dịch với

NNT...: Để có thông tin về NNT đầy đủ và chính xác, bên cạnh kênh thông tin

do NNT cung cấp cho CQT theo qui định, CQT cần có thêm kênh cung cấp

thông tin từ bên thứ ba - các bên có liên quan với NNT trong các giao dịch

kinh tế. Luật Quản lý thuế đã có qui định các ngành liên quan có trách nhiệm

cung cấp thông tin về NNT cho CQT. Thời gian qua, CQT đã có sự phối kết

hợp với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin về

QLT và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Theo đó, Tổng cục

Thuế và Tổng cục Cảnh sát nhân dân đã sửa đổi bổ sung để có quy chế phối

hợp mới phù hợp với quy định của Luật Quản lý thuế; Bộ Tài nguyên Môi

trường đã phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch về liên thông một cửa trong

103

việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai và cấp giấy chứng nhận

quyền sở hữu nhà ở; Bộ Tài chính, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án

nhân dân tối cao phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn việc thông

báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội, cá nhân và

tổ chức vi phạm, nhằm đảm bảo phục vụ cho công tác phòng, chống, nâng cao

hiệu lực quản lý nhà nước trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh

và quản lý thuế. Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan phối hợp với Ngân hàng

xây dựng Thông tư liên tịch về việc cung cấp trao đổi thông tin giữa CQT với

ngân hàng và tổ chức tín dụng, nhằm phát hiện nhanh các trường hợp tổ chức

có dấu hiệu mất khả năng thanh toán để ngăn ngừa các hành vi trốn thuế,

ngược lại, khi phát hiện kinh doanh có dấu hiệu phá sản, giải thể, CQT chủ

động để ngân hàng kịp thời thu hồi nợ đã cho vay… Việc chia sẻ thông tin về

NNT giữa các cơ quan quản lý giúp cho CQT từng bước hoàn thiện hệ thống

thông tin về NNT, phục vụ cho công tác quản lý thu NSNN an toàn và hiệu

quả. Ngoài ra, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các giao dịch kinh tế

của NNT ngày càng đa dạng, phức tạp, đặc biệt là các giao dịch của các công

ty đa quốc gia thông qua giá chuyển nhượng. Do đó, ngành thuế Việt Nam đã

thực hiện thu thập thông tin của NNT theo qua cơ chế hợp tác quốc tế.

Ngoài việc thu thập thông tin, việc xử lý thông tin cũng rất quan trọng. Để

có một hệ thống thông tin toàn diện về NNT phục vụ cho công tác QLT, sau

quá trình thực hiện các quy trình quản lý thu thuế, CQT tiến hành thu thập,

tổng hợp cơ sở dữ liệu thông tin về NNT hình thành được cơ sở dữ liệu đầy

đủ về thông tin NNT, việc phân tích, phân loại, đánh giá, xử lý thông tin và

quản lý hệ thống thông tin này là nội dung tiếp theo. Để thực hiện việc xử lý,

quản lý hệ thống thông tin này, hai nội dung cơ bản CQT đã thực hiện chính

là kế toán NNT và ứng dụng công nghệ thông tin trong QLT.

Tuy nhiên, công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về NNT vẫn còn những hạn

chế nhất định cần khắc phục, cụ thể:

- Hệ thống cơ sở dữ liệu NNT phục vụ cho công tác QLT của ngành nói

104

chung và công tác QLRR trong QLT nói riêng bước đầu được xây dựng theo

hướng tập trung, đầy đủ và thống nhất trên phạm vi cả nước, song chưa đảm

bảo do dữ liệu thiếu, chưa đầy đủ đồng bộ, chưa được kết nối tự động với các

bên liên quan, sai lệch thông tin; việc cập nhật cơ sở dữ liệu còn chưa kịp

thời, đầy đủ, do vậy việc xác định đối tượng thanh tra, kiểm tra, phạm vi và

trọng tâm thanh tra, kiểm tra bị giảm tính chính xác.

- Hệ thống thông tin về NNT còn chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa cập

nhập. Các thông tin đầy đủ mới chỉ là lịch sử chấp hành pháp luật thuế của

NNT. Ngoài ra thông tin liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất kinh

doanh còn ít, thông tin trao đổi giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên

quan còn hạn chế, mức độ tích hợp thông tin, dữ liệu còn thấp, mới chỉ tích

hợp được một số thông tin cơ bản về NNT, chưa có sự tích hợp thông tin liên

kết với NNT trên hệ thống ứng dụng của ngành Thuế. Trình độ máy tính của

cán bộ quản lý còn hạn chế và do chưa thấy được vai trò quan trọng của cơ sở

dữ liệu NNT nên tình trạng thông tin, dữ liệu không được cập nhập đầy đủ,

kịp thời và thường xuyên vào hệ thống khi có sự thay đổi từ phía NNT.

- Ngoài việc cung cấp thông tin thông qua tuân thủ quy định về đăng ký,

kê khai thuế nêu trên, CQT còn được phép sử dụng các biện pháp nghiệp vụ

cần thiết trong các quy trình QLT để thu thập thông tin về NNT như thanh tra,

kiểm tra thuế, miễn, giảm, hoàn thuế, quản lý nợ, cưỡng chế nợ thuế… Hiện

nay, những hạn chế về quyền điều tra của CQT đã gây khó khăn, cản trở cho

công tác thu thập thông tin phục vụ cho kiểm tra, thanh tra của CQT.

- Mức độ sai lệch thông tin liên quan đến NNT (như vốn, ngành nghề

kinh doanh, tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế) là khá lớn. Thực tế việc thực

hiện thanh tra, kiểm tra NNT từ khâu phân tích tại CQT dựa trên dữ liệu

trên hệ thống của ngành và hồ sơ thực tế của NNT tại trụ sở chính đã có sự

sai lệch và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Độ tin cậy của thông tin cung

cấp chưa cao. Thực tế việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo phương

pháp QLRR được thực hiện từ việc phân tích các thông tin sẵn có trên hệ

105

thống ngành thuế đã đăng ký và kê khai. Việc những thông tin NNT cung

cấp cho CQT có tin cậy, đảm bảo không, được lấy từ nguồn nào? Hiệu quả

và độ chính xác của việc phân tích thông tin vẫn chủ yếu dựa vào kinh

nghiệm của cán bộ được giao nhiệm vụ thực hiện phân tích.

- Việc thu thập, trao đổi thông tin giữa CQT và các ngành có liên quan về

NNT vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan

quản lý trong việc cung cấp thông tin về NNT còn chưa rõ ràng, phạm vi

thông tin trao đổi giữa các cơ quan này còn hạn hẹp, chưa có chế tài cụ thể về

trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức có liên quan. Do đó, chất lượng công

tác phối hợp QLT chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh những khó

khăn về pháp lý, hiện nay các giao dịch kinh tế không dùng tiền mặt ở Việt

Nam vẫn còn hạn chế. Đây là một cản trở rất lớn cho CQT trong việc thu thập

thông tin về NNT vì rất khó kiểm soát các giao dịch kinh tế bằng tiền mặt.

- Hiện nay, CQT đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc QLT của các

doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tin liên quan đến mối

quan hệ hoặc giao dịch liên kết quốc tế, thông tin của các công ty đa quốc gia

còn rất ít không đáp ứng được yêu cầu cung cấp dữ liệu trong phân tích rủi ro

đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây cũng là khó

khăn mấu chốt của các hồ sơ thanh tra chuyển giá đang gặp phải, có dấu hiệu

nghi ngờ nhưng khó chứng minh được việc vi phạm. Nhiều doanh nghiệp

khai thuế lỗ nhiều năm nhưng do việc thu thập thông tin từ các giao dịch

mang yếu tố nước ngoài còn hạn chế nên CQT chưa có các bằng chứng xác

đáng để kiểm soát các hành vi gian lận thuế của các doanh nghiệp này qua

hoạt động chuyển giá. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đánh giá mức

độ tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.

b. Về hệ thống ứng dụng CNTT phục vụ quản lý rủi ro

Hiện nay, hệ thống phần mềm ứng dụng ngành Thuế được chia thành 4

hệ thống phần mềm ứng dụng chính như sau: Hệ thống ứng dụng phục vụ

công tác nội bộ của ngành; Hệ thống ứng dụng hỗ trợ NNT; Hệ thống ứng

106

dụng trao đổi thông tin với bên ngoài và Hệ thống ứng dụng phục vụ công tác

QLT của ngành Thuế (đây là hệ thống ứng dụng lõi của ngành Thuế). Việc

trao đổi thông tin giữa các ứng dụng, giữa các cấp CQT cũng như với các cơ

quan bên ngoài hiện tại đang sử dụng các công nghệ: Liên kết cơ sở dữ liệu

(DB Link) sử dụng Oracle replication và Cơ chế truyền thông điệp sử dụng

công nghệ Oracle Advanced Queuing (Oracle AQ); IBM Message Queue

(IBM MQ); Trao đổi file dữ liệu: Sử dụng cơ chế truyền file của FTP;

Exchange.

Hình 3.2. Mô hình hệ thống ứng dụng ngành thuế

Có thể nói, ngành Thuế đã đầu tư nhiều vào tự động hóa (CNTT- bao

gồm cả phần cứng và phần mềm) trong thập kỷ qua, vì vậy tự động hóa không

phải là chủ đề mới đối với ngành Thuế. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT

thời gian gần đây đã giúp các cơ quan QLT có thể quản lý hệ thống thuế hiệu

quả hơn. Các hệ thống CNTT hỗ trợ các chức năng QLT cốt lõi đã được tăng

cường để cải thiện hiệu quả và hiệu suất hoạt động. Ngành Thuế hiện có trên

21 ứng dụng chạy song song và có trên một nghìn (1000) cơ sở dữ liệu gồm

107

các thông tin lịch sử được phân bổ khắp đất nước. Các hệ thống CNTT hiện

tại được xây dựng theo hướng hỗ trợ một mô hình hoạt động theo hướng phân

cấp, theo đó mỗi cục thuế và chi cục thuế có vai trò quản lý các mục tiêu về

số thu và NNT của mình. Mô hình này đã mang lại những thành công bước

đầu cho ngành Thuế. Tuy nhiên, những đặc điểm này cùng với nhiều nền tảng

đang được sử dụng làm cho việc bảo trì và nâng cấp hệ thống trở nên rất phức

tạp, ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của dữ liệu và trên hết là một kiến trúc chức

năng hữu ích cho người dùng.

Theo yêu cầu, QLRR trong QLT chỉ có thể thực hiện trên cơ sở ứng dụng

CNTT và hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tập trung về NNT. Do đó, để đáp

ứng yêu cầu tăng cường QLRR trong QLT thì hệ thống ứng dụng CNTT phải

đảm bảo việc lưu trữ, cập nhật thông tin về NNT dưới dạng điện tử, tự động.

Đồng thời, phải đáp ứng yêu cầu thường xuyên đánh giá, phân loại NNT trên

cơ sở dữ liệu được cập nhật, bổ sung và đưa ra kết quả đánh giá, phân loại

NNT tự động, hỗ trợ cho các chức năng QLT một cách hiệu quả.

Với yêu cầu trên thì mô hình hoạt động phân cấp CNTT hiện nay không

hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện QLRR của CQT trong tương lai, trong bối

cảnh áp lực về tăng trưởng số thu ngày càng cao, cũng như đòi hỏi hiệu suất

hoạt động lớn. Hầu hết các ứng dụng ngành thuế được phát triển trên nền tảng

CSDL Oracle. Các ứng dụng này được xây dựng triển khai theo mô hình vừa

tập trung, vừa phân tán nên việc trao đổi dữ liệu NNT hiện nay chưa kiểm

soát được sự chính xác nên dẫn đến số liệu chưa thống nhất giữa các cấp,

chậm tổng hợp dữ liệu về Tổng cục Thuế; Việc đối chiếu, kiểm soát dữ liệu

trao đổi còn thực hiện một cách thủ công và không đầy đủ. Các hệ thống

truyền nhận dữ liệu mới được kiểm soát về dữ liệu trao đổi; chưa có chức

năng, quy trình đối chiếu, chốt dữ liệu trao đổi ở mức nghiệp vụ giữa các ứng

dụng nội bộ cũng như trao đổi với bên ngoài.

Kết quả khảo sát về mức độ và hiệu quả việc thu thập thông tin về NNT

và ứng dụng CNTT phục vụ QLRR trong QLT được thể hiện ở bảng 3.4.

108

Bảng 3.4: Kết quả khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng

công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro

Stt

Khai thác thông tin

Tốt, hiệu quả

Tương đối tốt, tương đối hiệu quả

Chưa tốt, Chưa hiệu quả

1

Thu thập và khai thác thông tin

93

246

61

2

Ứng dụng CNTT

129

237

34

Biểu đồ 3.2: Kết quả khảo sát về thu thập, khai thác thông tin; ứng dụng

công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro

Kết quả khảo sát có 339 công chức được hỏi (tương ứng 84,75%) cho

rằng việc thu thập và khai thác thông tin phục vụ QLRR tốt và tương đối tốt,

chỉ 61 công chức được hỏi (tương ứng 15%) cho rằng công tác thu thập và

khai thác thông tin chưa tốt.

109

Về ứng dụng CNTT, có 366 công chức được hỏi (tương ứng 91,5%) cho

rằng ứng dụng CNTT phục vụ QLRR hiệu quả và tương đối hiệu quả, chỉ có

34 công chức được hỏi (tương ứng 9%) cho rằng ứng dụng CNTT phục vụ

QLRR chưa hiệu quả.

Biểu đồ 3.3: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT

Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng nâng cấp CNTT cho thấy: 238

công chức được hỏi (tương ứng 59,5%) cho rằng thời gian xây dựng, nâng

cấp ứng dụng CNTT phục vụ QLRR là bình thường, 106 công chức được hỏi

(tương ứng 26,5%) cho rằng thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng CNTT

phục vụ QLRR là nhanh. Chỉ có 14% công chức được hỏi cho rằng thời gian

xây dựng, nâng cấp ứng dụng CNTT là chưa kịp thời.

3.2.3.2 Thực trạng đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế

Đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT là nội dung quan

trọng để thực hiện QLRR trong QLT. CQT thực hiện đánh giá tuân thủ pháp

luật thuế của NNT đang hoạt động để thực hiện các biện pháp QLT và các

biện pháp nghiệp vụ cần thiết khác.

Tổng cục Thuế đã nghiên cứu xây dựng khung tiêu chí đánh giá tuân thủ

NNT, theo đó NNT được chia làm ba loại: Loại 1: NNT tuân thủ pháp luật

thuế tốt; Loại 2: NNT tuân thủ pháp luật thuế ở mức độ trung bình; Loại 3:

110

NNT tuân thủ pháp luật thuế ở mức độ thấp.

(1) NNT được đánh giá là NNT tuân thủ thuế tốt phải đáp ứng tất cả các

điều kiện sau:

- Đang hoạt động và thực hiện đầy đủ, đúng hạn việc kê khai và chấp hành

nộp các loại thuế phát sinh theo quy định; số thuế nộp phù hợp quy mô, lĩnh vực

đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Chấp hành tốt chế độ quản lý, sử dụng ấn

chỉ thuế trong thời gian hai năm trở về trước tính đến ngày đánh giá.

- Tỷ trọng nộp các loại thuế liên quan đến sản xuất kinh doanh (thuế

GTGT, thuế TNDN...) trên doanh số đạt trên mức trung bình so với mức trung

bình của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng lĩnh vực, ngành nghề.

- Trong thời gian 02 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá

không bị một trong các hình thức xử lý vi phạm sau: Không bị xử phạt vi

phạm hành chính về thuế, ấn chỉ thuế với tổng mức phạt tiền vượt thẩm quyền

xử phạt đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế của Chi cục trưởng Chi cục

Thuế theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế;

Không bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

về các hành vi trốn thuế, gian lận thuế; Không bị cơ quan thuế xử lý hành

chính về hành vi không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng

chế thi hành quyết định hành chính thuế; Không bị cơ quan nhà nước có thẩm

quyền qua thanh tra, kiểm tra, quản lý giám sát đánh giá không tuân thủ pháp

luật về kế toán, thống kê Tài chính doanh nghiệp; Không bị cơ quan nhà nước

có thẩm quyền qua thanh tra, kiểm tra, quản lý giám sát đánh giá không tuân

thủ pháp luật thuế, pháp luật hải quan; Không có vụ việc vi phạm bị khởi tố

vụ án, người đại diện hợp pháp của NNT không bị khởi tố bị can về các hành

vi vi phạm về thuế.

- Không nợ thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; các khoản phí, lệ phí thuộc

ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí; các khoản

thu thuộc NSNN theo quy định của Luật đất đai do CQT quản lý thu; các

khoản thu khác thuộc NSNN theo quy định của pháp luật; trừ số tiền thuế nợ

được gia hạn theo quy định pháp luật chưa hết thời gian gia hạn nộp tại thời

111

điểm đánh giá.

(2) NNT bị đánh giá là NNT tuân thủ thấp thuộc một trong các trường

hợp dưới đây:

- Tính đến thời điểm đánh giá thuộc một trong các trường hợp: Chưa kê

khai, nộp hồ sơ khai thuế và nộp thuế đầy đủ, đúng hạn ít nhất một phần ba số

tờ khai theo quy định trong vòng thời gian 12 tháng; Các kỳ kê khai âm về

thuế GTGT liên tục trên mức trung bình so với bình quân chung của các

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng lĩnh vực, ngành nghề; Có số lỗ lũy kế

vượt quá 50% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tính đến thời điểm đánh giá;

NNT thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, nợ

tiền chậm nộp, tiền phạt, phí, lệ phí hoặc các khoản thu khác phải nộp NSNN

theo quy định của pháp luật.

- Trong thời gian 02 năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá;

hoặc từ ngày thành lập đến ngày đánh giá đối với NNT thành lập chưa tròn 02

năm thuộc một trong các trường hợp: Hai lần trở lên bị xử phạt vi phạm hành

chính về thuế, ấn chỉ thuế với tổng mức phạt tiền vượt thẩm quyền xử phạt

đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế của Chi cục trưởng Chi cục Thuế theo

quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế; Bị các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi trốn thuế,

gian lận thuế; hoặc bị xử phạt vi phạm trong lĩnh vực kế toán; Bị CQT xử lý

hành chính về hành vi không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế,

cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Có hành vi vi phạm pháp luật

hình sự, bị khởi tố, điều tra; Bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua thanh

tra, kiểm tra, quản lý, giám sát đánh giá không tuân thủ pháp luật thuế, pháp

luật hải quan; Có hành vi sử dụng ấn chỉ thuế bất hợp pháp hoặc sử dụng bất

hợp pháp ấn chỉ thuế.

(3) NNT được đánh giá là NNT tuân thủ trung bình là NNT không thuộc

một trong hai trường hợp nêu trên.

Việc đánh giá tuân thủ NTT mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng và ban

hành khung đánh giá tuân thủ nêu trên, Tổng cục Thuế chưa xây dựng được

112

bộ tiêu chí đánh giá tuân thủ chương trình tuân thủ tổng thể đối với NNT,

chưa xây dựng được ứng dụng CNTT tự động đánh giá tuân thủ NNT.

3.2.3.3 Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và thực hiện

quản lý rủi ro trong các chức năng quản lý thuế

Tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC, Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế

nghiên cứu, xây dựng và trình Bộ ban hành Bộ tiêu chí và chỉ số phục vụ

QLRR đáp ứng yêu cầu QLT trong từng thời kỳ và phù hợp với các quy định

của pháp luật thuế. Các tiêu chí phân loại rủi ro gồm: Đánh giá tuân thủ pháp

luật thuế đối với NNT; Đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro đối với NNT; Lựa

chọn trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế; Lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra

tại trụ sở cơ quan QLT; Phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn đối

tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau

hoàn thuế...

Hiện nay, Tổng cục Thuế đã xây dựng được 03 quy trình nghiệp vụ

hướng dẫn thực hiện cho 03 bộ tiêu chí, chỉ số liên quan đến QLRR trong

thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT; QLRR trong hoàn thuế; QLRR trong

quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ. Ngoài ra, các nghiệp vụ quản lý khác

cũng được CQT thực hiện QLRR ở các góc độ nhất định. Cụ thể:

(1) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong quản

lý kê khai thuế

Hiện nay, CQT chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro trong công

tác quản lý kê khai thuế. QLRR trong quản lý kê khai thuế được thực hiện

theo hướng dẫn tại Thông tư 204/2015/TT-BTC. Theo đó, các hồ sơ khai thuế

sau khi CQT tiếp nhận sẽ được phân luồng (dựa vào hệ thống cơ sở dữ liệu

thông tin nghiệp vụ về danh sách trường hợp NNT kiểm tra hồ sơ khai thuế

tại trụ sở cơ quan QLT thuế theo quy định và cảnh báo của hệ thống về thông

tin cần kiểm tra trên hồ sơ khai thuế của NNT) để áp dụng biện pháp phù hợp

trong giải quyết, xử lý hồ sơ khai thuế: (i) Đối với NNT không thuộc danh

sách trường hợp kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT, chưa phát hiện rủi ro, chưa

113

có dấu hiệu vi phạm thì lưu hồ sơ theo dõi; (ii) Đối với trường hợp NNT

thuộc danh sách trường hợp kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT thực hiện kiểm

tra hồ sơ khai thuế, đề nghị NNT giải trình hoặc bổ sung thông tin.

CQT thực hiện QLRR trong kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở CQT đối

với NNT có đăng ký thuế nhưng thực hiện khai thuế không đầy đủ; NNT có

sản xuất kinh doanh thực hiện khai thuế không đầy đủ, đúng hạn. Công tác

quản lý khai thuế của CQT hiện nay chủ yếu tập trung vào việc rà soát, theo

dõi, kiểm tra tình trạng nộp hồ sơ khai thuế của NNT từ việc NNT đăng ký

mới, NNT ngừng nghỉ kinh doanh, NNT nộp hồ sơ khai thuế, hồ sơ hoàn

thuế… Hoạt động này luôn được CQT chú trọng quản lý, phát hiện kịp thời

những trường hợp sai sót, vi phạm hay tình huống mới trong quá trình QLT

thuế để có biện pháp xử lý thích ứng, đảm bảo tính tuân thủ pháp luật thuế

của NNT.

CQT đã quan tâm, chú trọng và đẩy mạnh việc kiểm kê, rà soát mã số

thuế, đảm bảo kiểm soát, nắm bắt kịp thời NNT để đưa vào diện theo dõi,

QLT. CQT cũng thường xuyên kiểm tra, đối chiếu giữa tình hình thực tế hoạt

động sản xuất kinh doanh và kê khai thuế của NNT với hệ thống dữ liệu của

CQT để đảm bảo kiểm soát, nắm bắt, theo dõi và QLT kịp thời; chú trọng

việc rà soát thông tin NNT trên ứng dụng, kịp thời đôn đốc NNT bổ sung

thông tin thay đổi gửi CQT để cập nhật thông tin phục vụ cho công tác QLT.

Ngoài ra, CQT đã đẩy mạnh công tác QLRR, tập trung vào những NNT

có rủi ro cao, tại các Cục thuế lớn (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…) đã xây dựng

được danh sách các doanh nghiệp trọng điểm, xác định các doanh nghiệp

thuộc các ngành nghề đặc thù có rủi ro cao về thuế như: kinh doanh bất động

sản, kinh doanh ô tô xe máy, nhà hàng khách sạn, kinh doanh hàng hiệu…

Như vậy, việc kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan CQT được thực

hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế. Trong quá trình kiểm tra hồ sơ khai

thuế, CQT sử dụng dữ liệu thông tin của NNT đã được cập nhật vào hệ thống

cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ QLT và các thông tin liên quan đến NNT

114

(nếu có) để thực hiện kiểm tra hồ sơ khai thuế. Nhờ đó công tác quản lý, giám

sát kê khai thuế ngày càng chặt chẽ và tạo được những chuyển biến tích cực,

góp phần nâng cao tính tuân thủ pháp luật thuế của NNT. Kết quả năm 2020

việc chấp hành kê khai thuế của NNT tốt hơn, tỷ lệ tờ khai đã nộp đạt 97%

trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn đạt 97% trên tổng số

tờ khai đã nộp. Tuy nhiên, kỹ thuật QLRR vẫn chưa được thực hiện đầy đủ

đối với công tác quản lý khai thuế, nhất là khai thuế định kỳ theo quy định.

(2) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong thanh

tra thuế, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT

a. QLRR trong lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT

Trước năm 2018, Việc lập kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở CQT

được thực hiện theo quy trình thanh tra, kiểm tra 74/QĐ-TCT ngày

27/1/2014; Quyết định số 2176/QĐ-TCT ngày 10/11/2015 và Quyết định số

1626/QĐ-TCT để tổ chức phân tích lựa chọn NNT, từ đó lập kế hoạch thanh

tra, kiểm tra tại trụ sở NNT hàng năm và thực hiện công tác thanh tra, kiểm

tra theo phương pháp rủi ro. CQT phân tích thông tin rủi ro dựa trên nguyên

tắc: (i) Đánh giá lịch sử tuân thủ pháp luật về thuế của NNT (Lịch sử tuân thủ

khai thuế, tính thuế; Lịch sử tuân thủ nộp thuế; Mức độ tuân thủ qua kết quả

thanh tra, kiểm tra), (ii) Đánh giá sự biến động về kê khai thuế của NNT qua

các năm; (iii) Đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của NNT. CQT địa phương

tùy theo thực tế QLT tự xác định các thang điểm chuẩn cho từng ngành, lĩnh

vực cụ thể trong quá trình lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra.

Từ năm 2018 đến nay: Công tác lập kế hoạch thanh tra tại trụ sở NNT sử

dụng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro ban hành theo Quyết định số 1006/QĐ-BTC

ngày 01/11/2016 của Bộ Tài chính (ban hành theo chế độ mật) bộ tiêu chí bao

gồm 16 tiêu chí và 20 chỉ số thành phần được chia thành 6 nhóm:

- Nhóm I: Đánh giá về tuân thủ khai thuế, tính thuế. Đánh giá thông qua

phân tích hồ sơ khai thuế của NNT. Đánh giá mức độ tuân thủ kê khai thuế so

với thời hạn quy định.

115

- Nhóm II: Đánh giá về tuân thủ nộp thuế. Các chỉ tiêu thuộc nhóm này

nhằm đánh giá sự tuân thủ nộp thuế của doanh nghiệp. Các tiêu chí được xây

dựng dựa trên số nợ thuế, tổng số tiền thuế đã nộp, số lượng các khoản nợ…..

- Nhóm III: Phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế: Phân loại rủi

ro theo loại hình doanh nghiệp.

- Nhóm IV: Đánh giá sự biến động về kê khai giữa các năm. Đánh giá

rủi ro dựa trên sự biến động về kê khai giữa các năm. Biến động kê khai về số

thuế GTGT, thuế TNDN phát sinh; số thuế GTGT, thuế TNDN phải nộp;

doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.

- Nhóm V: Đánh giá về tình hình tài chính. Đánh giá dựa trên số liệu về

chỉ tiêu tài chính và tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: vốn

vay, vốn chủ sở hữu, tài sản, doanh thu, lợi nhuận... Nhóm chỉ tiêu này cũng

bao gồm các tỷ suất lợi nhuận và hệ số thanh toán đánh giá hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp.

- Nhóm VI: Lịch sử thanh tra, kiểm tra của NNT. Nhóm chỉ tiêu này

đánh giá lịch sử thanh tra, kiểm tra. Dựa trên kỳ đã được thanh tra gần nhất.

Kỳ được thanh tra gần nhất được tính theo thời kỳ thanh tra, là kỳ cuối cùng

CQT thực hiện thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ kê khai nộp thuế của NNT

trong cuộc thanh tra gần nhất.

Bộ tiêu chí được lập trình và cài đặt trong ứng dụng chuyên dụng đánh

giá rủi ro phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra (TPR). Việc lập

kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm được thực hiện theo quy trình 04 bước.

Bước 1: Thu thập, xử lý thông tin, bao gồm các thông tin về NNT thu

thập từ CSDL ngành thuế và các thông tin từ bên ngoài, trong đó phải đảm

bảo khâu rà soát dữ liệu.

Bước 2: Sử dụng Bộ tiêu chí đánh giá rủi ro xây dựng kế hoạch thanh tra,

kiểm tra tại trụ sở NNT, trong bước công việc này, ứng dụng CNTT sử dụng

tự động bộ tiêu chí, chỉ số do Bộ Tài chính ban hành để đánh giá, xếp hạng

mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Quá trình đánh giá được thực hiện theo hai

công đoạn.

116

Tính điểm rủi ro đối với từng tiêu chí theo nguyên tắc trình bày tại mô

hình 3.3 (phân ngưỡng tính điểm rủi ro).

Theo nguyên tắc này đối với mỗi tiêu chí rủi ro, NNT được phân thành 4

loại tương ứng với mức độ rủi ro là Cao, Vừa, Thấp và rất thấp.

Tổng hợp xếp loại rủi ro đối với từng doanh nghiệp, căn cứ kết quả xếp

loại rủi ro, ứng dụng gán điểm trọng số đối với một số tiêu chí trọng yếu, sau

đó tổng hợp tổng điểm rủi ro của NNT. Căn cứ tổng điểm rủi ro, ứng dụng tự

động xếp loại doanh nghiệp theo mức độ rủi ro từ cao xuống thấp.

Bước 3: Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Căn cứ kết quả

xếp loại rủi ro doanh nghiệp đã có ở Bước 2; nguồn lực thực hiện thanh tra,

kiểm tra của CQT và kết quả đối chiếu tránh trùng lặp trong công tác thanh

tra, kiểm tra với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, CQT lựa chọn doanh

nghiệp đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Tổng Cục thuế

phê duyệt kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Cục Thuế, Cục Thuế phê duyệt kế

hoạch của Chi cục Thuế trực thuộc. Quá trình lập kế hoạch được thực hiện tự

động hóa cao trên ứng dụng TPR được mô tả theo quy trình mô hình 3.4

(Tổng quan quy trình nghiệp vụ).

Bước 4: Đánh giá việc thực hiện QLRR trong công tác lập kế hoạch

thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT, việc đánh giá được thực hiện từ cơ quan

thuế cấp dưới là Chi cục Thuế, Cục Thuế và TCT.

Kết quả khảo sát được thực hiện với 400 công chức thuế cho thấy: có

đến 94% số người được hỏi cho rằng Bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn NNT có

dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT là phù

hợp và tương đối phù hợp so với thực tế, 6% số người được hỏi cho rằng Bộ

tiêu chí không phù hợp với thực tế. Trong đó 98% công chức làm tại bộ phận

thanh tra, kiểm tra cho rằng Bộ tiêu chí hiệu quả.

117

Hình 3.3. Phân ngưỡng, tính điểm rủi ro

Hình 3. 4. Tổng quan quy trình nghiệp vụ

118

b. QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT

Trước khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp, công chức

làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thực hiện phân tích hồ sơ khai thuế, báo cáo

tài chính và các hồ sơ liên quan để xác định những nội dung có rủi ro cao về

thuế, từ đó xác định rõ phạm vi thanh tra, nội dung cụ thể cần đi sâu kiểm tra

kỹ khi thực hiện thanh tra, kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Việc phân tích rủi

ro được hỗ trợ tại các ứng dụng TTR và TPR. Trong quá trình thanh tra, kiểm

tra tại doanh nghiệp, công chức làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thực hiện đối

chiếu so sánh hồ sơ, sổ sách của NNT với những dấu hiệu rủi ro đã ghi nhận từ

khâu phân tích thông tin trên hệ thống dữ liệu để đánh giá độ chính xác của các

rủi ro và thực tế có đúng không. Đồng thời, công chức làm nhiệm vụ thanh tra,

kiểm tra cũng lựa chọn các rủi ro trọng yếu để tiến hành xác minh, thu thập hồ

sơ và chứng cứ để kết luận vấn đề thanh tra, kiểm tra. Dựa trên cơ sở phân tích

các dữ liệu về NNT trên hệ thống báo cáo tài chính và kết hợp với các nguồn

thông tin khác như tình hình chấp hành pháp luật thuế nắm được qua công tác

quản lý, tình hình, xu thế phát triển ngành kinh tế để lựa chọn chính xác hơn

những đối tượng vi phạm pháp luật thuế.

Thực hiện QLRR trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã giúp tăng

khả năng phát hiện gian lận, chống thất thu thuế, thể hiện qua bảng 3.5 và

bảng 3.6. Trong giai đoạn 2014-2020, CQT các cấp đã thực hiện 616.948

cuộc thanh tra, kiểm tra, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt trên 114.792 tỷ

đồng. Trong đó đã thực hiện thanh tra 56.254 cuộc, truy thu, truy hoàn và

phạt 59.361 tỷ đồng, số thuế truy thu, truy hoàn và phạt bình quân một cuộc

thanh tra tăng từ 667 triệu đồng năm 2014 lên 1.453 triệu đồng năm 2020

tương ứng mức tăng 117,8%. Về kiểm tra, toàn ngành thuế đã thực hiện

560.694 cuộc kiểm tra tại trụ sở NNT, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt

55.431 tỷ đồng số thuế truy thu, truy hoàn và phạt bình quân một cuộc kiểm

tra đã tăng 49,3% từ 88,4 triệu đồng năm 2014 lên 132 triệu đồng năm 2020.

119

Bảng 3.5. Thống kê kết quả thanh tra thuế giai đoạn 2014 – 2020

Số cuộc

Số truy thu, truy

Số thuế truy thu, truy hoàn và

Năm

hoàn và phạt (tỷ đồng)

phạt bình quân/cuộc thanh tra (triệu đồng)

thanh tra

6.133 9.198 2014 667

6.008 9.753 2015 616

8.949 7.895 2016 1.133

10.799 7.513 2017 1.437

8.724 7.638 2018 1.142

9.168 7.662 2019 1.196

9.580 6.595 2020 1.453

Nguồn: Báo cáo thống kê Tổng cục Thuế

Tổng cộng 56.254 59.361

Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra thuế giai đoạn 2014 – 2020

Số cuộc Số truy thu, Số thuế truy thu, truy hoàn

Năm kiểm tra truy hoàn và và phạt bình quân/cuộc kiểm

phạt tra

(tỷ đồng) (triệu đồng)

58.882 5.206 2014 88,4

69.541 5.775 2015 83,06

83.524 7.867 2016 94,19

95.698 7.659 2017 80,03

88.298 9.238 2018 104,63

88.544 9.626 2019 108,72

76.207 10.059 2020 132

Nguồn: Báo cáo Tổng kết Tổng cục Thuế

55.431 Tổng cộng 560.694

120

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, số ngày trung bình một cuộc

thanh tra doanh nghiệp lớn khoảng 25-35 ngày làm việc, thời gian thanh tra

cho một doanh nghiệp vừa là 10-30 ngày làm việc, một cuộc kiểm tra thông

thường khoảng 3-5 ngày làm việc, nhưng thời gian đánh giá phân tích tăng

lên, thời gian tiến hành kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT được giảm bớt, việc

thanh tra đã dần đi vào trọng tâm, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giảm

bớt thời gian cho doanh nghiệp. Có thể nói sau gần 8 năm thực hiện QLRR

trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra, số thuế truy thu qua công tác

thanh tra, kiểm tra đều tăng qua các năm. Điều đó cho thấy: việc thực hiện

QLRR trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra là một bước tiến khá

quan trọng trong cải cách công tác thanh tra, kiểm tra nói riêng và công tác

QLT nói chung của ngành thuế.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, QLRR trong quá trình thanh

tra, kiểm tra tại doanh nghiệp vẫn còn những hạn chế nhất định. Đó là:

Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp được tiến hành thanh tra, kiểm tra vẫn

còn chưa đáp ứng đòi hỏi về QLRR, thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra đã

được rút ngắn nhưng vẫn còn chậm, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn. Tiến độ

triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT còn chậm, số

lượng các doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng được kế hoạch

đề ra. Nhiều hồ sơ thanh tra, kiểm tra còn kéo dài, số lượng hồ sơ thanh tra,

kiểm tra các năm trước chuyển sang năm sau vẫn còn.

Thứ hai, chất lượng phân tích hồ sơ tại CQT trước khi tiến hành thanh

tra, kiểm tra tại trụ sở NNT chưa cao, chưa giúp đẩy nhanh tiến độ và chưa

tìm ra những trọng yếu chính xác.

Thứ ba, việc phát hiện các thủ đoạn gian lận của doanh nghiệp còn nhiều

hạn chế. Một số hành vi vi phạm có thể phát hiện ngay trên hồ sơ khai thuế

nhưng cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa phát hiện kịp thời.

Thứ tư, phương pháp làm việc của một bộ phận cán bộ thanh tra, kiểm

tra chưa khoa học, sắp xếp xử lý công việc vẫn chưa thực sự theo nguyên tắc

121

rủi ro và trọng yếu. Cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa thực sự thay đổi nhận

thức thanh tra, kiểm tra theo luật QLT sửa đổi, chưa có kỹ năng trong phân

tích rủi ro mà vẫn chủ yếu thực hiện thanh tra toàn diện, thanh tra quyết toán

thuế. Việc lựa chọn phương pháp thanh tra, kiểm tra có vai trò quan trọng,

ảnh hưởng đến kết quả thanh tra, kiểm tra.

Thứ năm, cán bộ thanh tra, kiểm tra vẫn chưa gắn kết quả phân tích rủi

ro tại CQT với thực tế thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp: tại CQT đặt nghi

ngờ, rủi ro vào một yếu tố này nhưng khi thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của

doanh nghiệp lại cho ra kết quả rủi ro yếu tố khác. Cũng có thể do hồ sơ gửi

CQT sơ sài, không đầy đủ nhưng khi xuống trụ sở doanh nghiệp thì có đủ

chứng cứ tài liệu để kiểm tra nên đưa ra kết quả rủi ro khác. Do vậy cán bộ

thanh tra phải luôn kiểm nghiệm giữa kết quả phân tích ban đầu và thực tế

phát sinh của đối tượng thanh tra, kiểm tra.

(3) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong hoàn

thuế GTGT và thanh tra sau hoàn thuế GTGT

CQT thực hiện QLRR trong quản lý hoàn thuế để:

Thứ nhất, Phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế thành hoàn thuế trước,

kiểm sau hoặc kiểm trước, hoàn thuế sau.

Thứ hai, Lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro để lập kế hoạch kiểm

tra, thanh tra sau hoàn thuế theo 2 loại: (i) Loại phải kiểm tra trong thời hạn

01 năm kể từ ngày có quyết định hoàn thuế, theo thứ tự xếp hạng mức độ rủi

ro từ cao xuống thấp; (ii) Loại phải kiểm tra trong vòng 10 năm được chia

thành: kiểm tra, thanh tra sau hoàn trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có quyết

định hoàn thuế đối với 100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao; Kiểm tra,

thanh tra 50% đối với doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày; Kiểm tra,

thanh tra 50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày.

Để đẩy mạnh QLRR trong công tác hoàn thuế, Bộ Tài chính đã ban hành

Quyết định số 1005/QĐ-BTC ngày 1/11/2016 ban hành Bộ tiêu chí và chỉ số

phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu

122

hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT. Bộ

tiêu chí bao gồm 11 tiêu chí và 16 chỉ số thành phần đánh giá NNT theo các

nhóm: (i) Thông tin định danh về doanh nghiệp; (ii) Giao dịch đáng ngờ qua

ngân hàng; (iii) Xếp hạng rủi ro của cơ quan hải quan; (iv) Kết quả hoạt động

kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp; (v) Tình hình nợ thuế, tình

hình tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp.

Trên cơ sở quyết định của Bộ Tài chính Ngày 25/5/2017, Tổng cục Thuế

ban hành Quyết định số 789/QĐ-TCT về kế hoạch triển khai thực hiện QLRR

trong công tác phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh

nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn

thuế GTGT, cụ thể hóa các nội dung công việc để triển khai Quyết định số

1005/QĐ-BTC.

Ngày 27/9/2017 Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 1625/QĐ-TCT

về Quy trình QLRR trong việc phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và

lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra,

thanh tra sau hoàn thuế GTGT. Quy trình đã nêu rõ mục đích, phạm vi và nội

dung, trình tự các bước công việc thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết

hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây

dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT, cụ thể là: (i) Thu

thập, xử lý thông tin QLRR; (ii) Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp; (iii) Phân

loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế; (iv) Xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra

sau hoàn thuế; (v) Đánh giá, kiểm tra quá trình thực hiện.

Việc thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT

và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để kiểm tra, thanh tra sau hoàn

thuế GTGT cụ thể như sau:

- Việc đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện định kỳ theo

tháng và tại thời điểm nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Việc đánh giá định kỳ

được hệ thống QLRR tự động thực hiện vào ngày 25 hàng tháng, xác định

điểm số rủi ro đối với các doanh nghiệp có quyết định hoàn thuế GTGT trong

123

vòng 24 tháng, là một trong những cơ sở để xây dựng ngưỡng rủi ro (kết hợp

với kết quả thống kê, phân tích, đánh giá số lượng, quy mô hồ sơ hoàn thuế và

yêu cầu QLT trong từng thời kỳ). Tại thời điểm nhận được hồ sơ hoàn thuế,

hệ thống đánh giá QLRR tự động xác định điểm số rủi ro đối với doanh

nghiệp và căn cứ ngưỡng rủi ro đã được Tổng cục Thuế ban hành được cài đặt

trên hệ thống để xếp hạng rủi ro của doanh nghiệp theo một trong ba hạng rủi

ro: cao, trung bình và thấp.

- CQT tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế, căn cứ phân luồng của hệ thống cơ sở

dữ liệu thông tin nghiệp vụ về phân loại NNT trong giải quyết hồ sơ hoàn

thuế và lựa chọn kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế để áp dụng biện pháp phù

hợp trong giải quyết, xử lý hồ sơ hoàn thuế. Căn cứ phân luồng của hệ thống

cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ để xác định hồ sơ hoàn thuế thuộc diện hoàn

thuế trước kiểm tra sau và hồ sơ hoàn thuế thuộc diện kiểm tra trước hoàn

thuế sau. Trong quá trình giải quyết hồ sơ hoàn thuế, phát hiện NNT có dấu

hiệu vi phạm pháp luật thuế, pháp luật hải quan hoặc trường hợp nếu NNT

không giải trình, bổ sung hồ sơ hoàn thuế hoặc có giải trình, bổ sung nhưng

không chứng minh được số thuế đã khai là đúng, CQT thay đổi việc áp dụng

hình thức phân loại hồ sơ hoàn thuế của NNT đang thuộc diện hoàn thuế

trước, kiểm tra sau sang thuộc diện hồ sơ kiểm tra trước hoàn thuế sau; việc

phê duyệt thay đổi áp dụng hình thức phân loại phải được cập nhật vào hệ

thống thông tin nghiệp vụ.

- CQT lựa chọn NNT kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ

thuộc diện hoàn thuế trước kiểm tra sau căn cứ theo xếp hạng mức độ rủi ro

của NNT. Cụ thể: Đối với NNT thuộc trường hợp kiểm tra, thanh tra sau hoàn

trong thời hạn 01 năm kể từ ngày có quyết định hoàn thuế theo sắp xếp thứ tự

thực hiện theo xếp hạng mức độ rủi ro từ cao xuống thấp. Đối với NNT thuộc

trường hợp kiểm tra, thanh tra sau hoàn trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có

quyết định hoàn thuế đối với 100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao; Kiểm

tra, thanh tra 50% đối với doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày; Kiểm

124

tra, thanh tra 50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày.

Ngày 14/03/2016, Bộ Tài chính đã có Công văn số 3357/BTC-TCT về

việc quản lý chi hoàn thuế GTGT, trong đó có quy định chuyển cơ chế kiểm

tra trước khi hoàn thuế sang kiểm tra sau hoàn thuế đối với các trường hợp rủi

ro thấp để tạo điều kiện giúp doanh nghiệp quay vòng vốn nhanh, nâng cao

hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhưng vẫn phải đảm bảo quản lý chặt chẽ

hoàn thuế GTGT. Đây chính là những nội dung của QLRR tuân thủ đã được

áp dụng trong lĩnh vực này.

Trên cơ sở thực hiện QLRR trong hoàn thuế, CQT đã tăng cường thanh

tra, kiểm tra sau hoàn thuế nhằm đảm bảo việc hoàn thuế được thực hiện chặt

chẽ theo đúng quy định, quy trình QLT. Năm 2020, toàn ngành Thuế đã thực

hiện được 4.813 cuộc thanh tra, kiểm tra sau hoàn, tương ứng với tổng số tiền

hoàn là 28.255 tỷ đồng trong đó: Tổng số quyết định ban hành trong năm

thanh tra, kiểm tra 2020 là: 997 quyết định, tương ứng với tổng số tiền hoàn là

7.256 tỷ đồng; Tổng số quyết định ban hành trước năm thanh tra, kiểm tra là

3.816 quyết định, tương ứng với tổng số tiền hoàn là 20.969 tỷ đồng. Tổng số

tiền truy hoàn và phạt là 203,5 tỷ đồng, trong đó: số thuế truy hoàn là 157,7 tỷ

đồng; tổng số tiền phạt là 45,7 tỷ đồng, tổng số tiền bị truy hoàn đã nộp vào

NSNN là 153,9 tỷ đồng.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện QLRR trong phân loại giải quyết hồ sơ

hoàn thuế và lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch

kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế có phát sinh một số vướng mắc như:

(i) Tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện chưa

quy định rõ nguyên tắc phân loại hồ sơ hoàn thuế theo mức độ rủi ro mà chỉ

đưa ra các trường hợp cụ thể phải thực hiện kiểm tra trước khi hoàn thuế.

(ii) Về thời gian kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế đối với trường hợp

phải kiểm tra, thanh tra theo nguyên tắc rủi ro trong thời hạn 10 năm kể từ

ngày có quyết định hoàn thuế theo quy định tại Luật Quản lý thuế, tại Thông

tư số 204/2015/TT-BTC đã quy định chi tiết và xác định cụ thể tỷ lệ kiểm tra,

125

thanh tra sau hoàn và thời gian phải thực hiện kiểm tra, thanh tra sau hoàn:

100% doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao phải kiểm tra, thanh tra sau hoàn

trong thời hạn 60 ngày; 50% doanh nghiệp rủi ro trong thời hạn 90 ngày và

50% rủi ro còn lại trong phạm vi 180 ngày. Do vậy, việc thực hiện quy định

này trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn vì phụ thuộc vào số lượng đề nghị

hoàn thuế của NNT trong mỗi giai đoạn và nguồn lực kiểm tra, thanh tra sau

hoàn thuế của CQT.

Luật Quản lý thuế mới đã thay đổi thời gian kiểm tra, thanh tra sau hoàn

thuế đối với trường hợp phải kiểm tra, thanh tra theo nguyên tắc rủi ro trong

thời hạn 5 năm (thay vì 10 năm như trước đây) kể từ ngày có quyết định hoàn

thuế và thay đổi về thời hạn kiểm tra đổi với những hồ sơ kiểm tra sau hoàn

thuế. Do vậy, Thông tư 31/2021/TT-BTC đã sửa đổi, bổ sung nội dung hướng

dẫn này theo quy định của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 về thời hạn

thanh kiểm tra sau hoàn xuống 05 năm và quy định thời hạn kiểm tra, thanh

tra đối với các mức rủi ro: rủi ro trung bình sẽ kiểm tra trong thời hạn 03 năm;

rủi ro thấp sẽ kiểm tra trong thời hạn 05 năm. Việc sửa đổi, bổ sung theo

hướng trên đáp ứng được yêu cầu theo dõi, giám sát quá trình thực hiện kiểm

tra, thanh tra sau hoàn của các Cục Thuế địa phương qua hệ thống ứng dụng

CNTT tự động, tránh việc tùy tiện, kéo dài thời gian kiểm tra, thanh tra sau

hoàn thuế hoặc không thực hiện đúng nguyên tắc QLRR trong quản lý hoàn

thuế; và tăng cường khuyến khích NNT tuân thủ, nâng cao tính cạnh tranh

trong khuôn khổ pháp luật thuế.

Kết quả khảo sát công chức thuế cho thấy 34,5% số người được hỏi cho

rằng Bộ tiêu chí Bộ tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế

GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm

tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT là phù hợp với thực tế; 62% cho rằng Bộ

tiêu chí tương đối phù hợp với thực tế và 3,5% cho rằng Bộ tiêu chí chưa phù

hợp với thực tế. Trong đó công chức làm tại bộ phận Kê khai và kế toán thuế

cho rằng Bộ tiêu chí phù hợp và tương đối phù hợp có tỷ lệ cao với trên 97%.

126

Như vậy, trong công tác quản lý hoàn thuế GTGT, CQT đã thực hiện

QLRR để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ tốt các quy

định của pháp luật, đồng thời phòng chống, phát hiện, xử lý kịp thời các hành

vi vi phạm pháp luật thuế trong QLT đối với NNT. Tuy nhiên, đối với hồ sơ

hoàn thuế, QLRR chỉ mới thực hiện chủ yếu trong giai đoạn phân loại hồ sơ

hoàn thuế và thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế; các nội dung khác vẫn chưa

được thực hiện QLRR đầy đủ.

(4) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong việc

tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn của NNT

Trong nhiều năm trở lại đây, tình hình in, phát hành và sử dụng hóa đơn

của NNT trở nên phức tạp. Lợi dụng chính sách thông thoáng của nhà nước

về điều kiện thành lập doanh nghiệp; cơ chế tự khai, tự nộp thuế; cơ chế

doanh nghiệp được tự in, phát hành, quản lý và sử dụng hóa đơn, sự thuận

tiện trong việc kê khai, nộp thuế, báo cáo phát hành, sử dụng hóa đơn... một

số tổ chức, cá nhân đã thành lập doanh nghiệp hoặc mua bán doanh nghiệp

với mục đích in, phát hành và mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để

kiếm lời bất chính, gây thất thu NSNN.

Trước thời điểm Thông tư 204/2015/TT-BTC có hiệu lực, QLRR trong

công tác tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được thực hiện theo quy định

tại Thông tư 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính và Nghị định

số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 Chính phủ. Theo đó, doanh nghiệp đang

sử dụng hóa đơn tự in, đặt in thuộc loại rủi ro cao về thuế thì phải chuyển

sang sử dụng hóa đơn mua của CQT.

Tiêu chí xác định doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế được xác

định là các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu dưới 15 tỷ đồng và có một trong

các dấu hiệu sau: (i) Không có quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp các cơ

sở vật chất sau: nhà máy; xưởng sản xuất; kho hàng; phương tiện vận tải; cửa

hàng và các cơ sở vật chất khác; (ii) Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực

khai thác đất, đá, cát, sỏi; (iii) Doanh nghiệp có giao dịch qua ngân hàng đáng

ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền; (iv) Doanh nghiệp

127

có doanh thu từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp

khác mà chủ các doanh nghiệp này có mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, anh chị

em ruột hoặc quan hệ liên kết sở hữu chéo chiếm tỷ trọng trên 50% trên tổng

doanh thu kinh doanh trên Tờ khai quyết toán thuế TNDN của năm quyết

toán; (v) Doanh nghiệp không thực hiện kê khai thuế theo quy định: Không

nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời

hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày bắt đầu hoạt động kinh doanh theo giấy

phép đăng ký kinh doanh; nghỉ kinh doanh quá thời hạn đã thông báo tạm nghỉ

kinh doanh với CQT và CQT kiểm tra xác nhận doanh nghiệp có SXKD nhưng

không kê khai thuế; không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký kinh

doanh và không khai báo với CQT hoặc CQT kiểm tra không xác định được nơi

đăng ký thường trú, tạm trú của người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp;

(vi) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị khởi tố về tội trốn thuế, tội

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN; (vii) Doanh

nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có sự thay đổi địa chỉ kinh doanh từ 02

lần trở lên trong vòng 12 tháng mà không khai báo theo quy định hoặc không kê

khai, nộp thuế ở nơi đăng ký mới theo quy định; (viii) Doanh nghiệp có dấu hiệu

bất thường khác theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế của CQT.

Tuy nhiên, việc QLRR mới dừng lại ở việc rà soát thủ công, phụ thuộc

vào kinh nghiệm, ý chí của cán bộ thuế. Thống kê số liệu doanh nghiệp rủi ro

cao sử dụng mua hóa đơn của CQT công bố trên website của ngành thuế giai

đoạn 2014- 2018 từ khi Thông tư số 39/2014/TT-BTC có hiệu lực, được thể

hiện tại bảng 3.7

128

Bảng 3.7. Tổng hợp doanh nghiệp rủi ro cao về thuế

giai đoạn 2014-2020

STT

Đvt: Số doanh nghiệp

Cục Thuế

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

1 Hà Nội 2 Đà Nẵng

719 -

393 -

317 1,613

984 844

1,366 1,094

925 733

1,488 644

3 TP. Hồ Chí Minh

26

155

280

638

633

968

829

4 Bà Rịa- Vũng Tàu

237

1,185

206

2,134

1,138

461

753

5 Bắc Ninh

318

370

359

439

165

159

250

6 Nghệ An

277

605

426

576

192

90

135

7 Quảng Ninh

386

184

285

466

448

467

686

8 An Giang

207

243

144

239

339

341

428

9

3.440

2.373

1.364

1.502

1.470

1.068

1.156

Nhóm các Cục thuế còn lại

Tổng cộng

5.610

5.508

4.995

4.752

7.841

6.369

6.149 Nguồn: Dữ liệu web ngành thuế

Theo số liệu tổng hợp từ trang thông tin ngành thuế cho thấy, cùng sự

gia tăng của các doanh nghiệp thì số lượng doanh nghiệp thuộc diện rủi ro cao

về thuế phải mua hóa đơn của CQT để sử dụng cũng tăng đáng kể, đặc biệt

nổi bật nhất là Cục Thuế Hà Nội năm 2020 tăng 60,86% so với năm 2019,

tiếp đến là Cục Thuế Quảng Ninh số lượng doanh nghiệp rủi ro năm 2020

tăng 46,9% so với năm 2019. Các doanh nghiệp rủi ro cao về thuế này sẽ phải

mua hóa đơn của CQT để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của

mình. Bên cạnh đó, cũng có Cục Thuế số lượng doanh nghiệp rủi ro cao về

thuế đang có xu hướng giảm như Cục Thuế Nghệ An, Cục Thuế Đà Nẵng,

Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh.

Từ năm 2016, triển khai thực hiện Thông tư số 204/2015/TT-BTC việc

QLRR trong công tác quản lý hóa đơn đã có sự thay đổi, ngoài các tiêu chí

phân loại NNT theo Thông tư 39/2014/TT-BTC, việc phân loại NNT còn được

thực hiện theo Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu

hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn ban hành theo

129

Quyết định số 253/QĐ-BTC ngày 20/3/2018 của Bộ Tài chính. Bộ tiêu chí bao

gồm 8 tiêu chí và 21 chỉ số thành phần, tập trung đánh giá phân loại NNT theo

các nhóm thông tin: (i) Thông tin định danh của doanh nghiệp; (ii) Tình hình

hoạt động sản xuất kinh doanh; (iii) Tình hình khai thuế, nộp thuế, nợ thuế; (iv)

Tình hình sử dụng hóa đơn; dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế của doanh nghiệp.

Kết quả khảo sát công chức thuế cho thấy 34,25% số người được hỏi cho

rằng bộ tiêu chí Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu

hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn phù hợp với thực

tế; 60% số người được hỏi cho rằng Bộ tiêu chí tương đối phù hợp với thực tế

và 5,75% cho rằng Bộ tiêu chí không phù hợp với thực tế. Trong đó, 95%

công chức giữ chức vụ lãnh đạo đồng tình với nhận định rằng bộ tiêu chí phù

hợp và tương đối phù hợp với thực tế.

Ngày 12/12/2017, Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 2141/QĐ-

TCT về việc hướng dẫn thực hiện quy trình QLRR trong công tác phân tích

thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử

dụng hóa đơn. Quy trình ban hành và được triển khai cho toàn ngành thuế.

Theo quy định này, để thực hiện QLRR trong công tác quản lý hóa đơn,

CQT phải thực hiện các bước công việc sau: (i) Thu thập, xử lý thông tin, bao

gồm các thông tin về NNT thu thập từ CSDL ngành thuế và các thông tin từ

bên ngoài, trong đó có khâu đánh giá, điều chỉnh dữ liệu và quy định trách

nhiệm thu thập, xử lý, cập nhật, khai thác sử dụng thông tin; (ii) Sử dụng Bộ

tiêu chí đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử

dụng hóa đơn, trong bước công việc này, ứng dụng CNTT sẽ sử dụng tự động

bộ tiêu chí, chỉ số do Bộ Tài chính ban hành để đánh giá, xếp hạng mức độ rủi

ro của doanh nghiệp; (iii) Đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp, sau khi xây dựng

ngưỡng rủi ro cao, trung bình, thấp được ban hành và cài đặt trong ứng dụng

CNTT, CQT sẽ tự động đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp, kết quả xếp hạng sẽ

chuyển đến bộ phận kiểm tra hóa đơn để phục vụ công tác rà soát, kiểm tra

thực tế việc in, phát hành và sử dụng hóa đơn; (iv) Bước cuối cùng là báo cáo

130

kết quả thực hiện công tác QLRR trong việc đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro

trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.

Thêm vào đó, ngày 12/9/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp

dịch vụ. Tiếp đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 68/2019/TT-BTC ngày

30/9/2019 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-

CP quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Luật

quản lý thuế mới số 38/2019/QH14 ban hành ngày 13/7/2019 trong đó có quy

định về QLRR trong quản lý hóa đơn điện tử. Như vậy, công tác quản lý hóa

đơn đang từ hóa đơn giấy (tự in, đặt in, mua của cơ quan thuế) sẽ chuyển sang

sử dụng hóa đơn điện tử. Do vậy, tại Thông tư 31/2021/TT-BTC ngày

17/5/2021 đã bổ sung quy định về QLRR trong quản lý hóa đơn nhằm đảm

bảo tính thống nhất, phù hợp với quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật

có liên quan, cũng như phù hợp tình hình thực hiện trên thực tế; đổi mới và

hoàn thiện công tác QLRR trong quản lý hóa đơn; giảm bớt nguồn lực cho

CQT trong việc rà soát thủ công; đảm bảo việc lựa chọn chính xác các trường

hợp doanh nghiệp có rủi ro cao về hóa đơn; giúp NNT nắm bắt những doanh

nghiệp có nguy cơ vi phạm pháp luật về thuế, tránh sử dụng hoá đơn bất hợp

pháp; giúp cho các doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ, nâng cao tính cạnh

tranh trong khuôn khổ pháp luật thuế.

Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức

độ rủi ro NNT của 03 bộ tiêu chí đã ban hành được thể hiện qua bảng 3.8.

Kết quả cho thấy: có trên 60% công chức cho rằng hệ thống tiêu chí, chỉ số

phân tích, mức độ rủi ro NNT được ban hành tương đối đầy đủ, cụ thể: bộ

tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT; bộ tiêu chí xây

dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; bộ tiêu chí đánh giá

NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được đánh giá

lần lượt tương ứng 64%, 62%, 60% tương đối đầy đủ. Bộ tiêu chí xây dựng kế

hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT; bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh

131

tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc

tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn được đánh giá lần lượt tương ứng 30%,

35%, 34% đầy đủ các tiêu chí, chỉ số. Chỉ từ 4%- 6% công chức cho rằng hệ

thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro NNT là chưa phù hợp.

Bảng 3.8. Kết quả khảo sát đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân

tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế

STT

Bộ tiêu chí

Phù hợp

Tương đối phù hợp

Chưa phù hợp

1

120

256

24

Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở NNT

2

138

248

14

Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT

3

137

240

23

Bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn

Biểu đồ 3.4: Kết quả khảo sát đánh giá về các bộ tiêu chí phân tích mức

độ rủi ro Người nộp thuế

132

(5) Thực trạng xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và QLRR trong quản

lý nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế

Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế là việc CQT quản lý, theo dõi các

khoản thuế nợ của NNT và áp dụng các biện pháp theo quy định của Luật

Quản lý thuế để thu đủ số thuế nợ đó. Xác định công tác quản lý nợ và cưỡng

chế nợ thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác QLT, thời

gian qua, công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đã được ngành thuế đặc

biệt quan tâm, không chỉ bởi để đáp ứng được nguồn thu cho NSNN, mà quan

trọng hơn là để chấn chỉnh và làm chuyển biến nhận thức về việc chấp hành

chính sách, pháp luật của NNT.

Hiện nay, CQT chưa xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro về quản lý nợ thuế.

Công tác quản lý nợ thuế được thực hiện theo Quy trình ban hành kèm theo

Quyết định số 1401/QĐ-TCT ngày 28/7/2015 của Tổng cục Thuế; công tác

cưỡng chế nợ được thực hiện theo Quy trình ban hành kèm theo Quyết định số

751/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục Thuế. Theo các Quy trình này,

công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được CQT các cấp chú trọng

triển khai thực hiện. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, giám sát, quản lý chặt chẽ tình hình nộp thuế để xác định và

quản lý số thuế nợ. Trong điều kiện thực hiện phương thức tự tính, tự khai, tự

nộp thuế, NNT có trách nhiệm nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn qui định và

tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật thuế. Để tạo

thuận lợi cho quá trình thu nộp, NNT có thể nộp thuế tại Kho bạc nhà nước

hoặc ngân hàng hoặc qua giao dịch thuế điện tử.

Thứ hai, Triển khai thực hiện QLRR trong quản lý nợ và cưỡng chế nợ

thuế theo quy định tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, Tổng

cục Thuế xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin quản lý nợ đối với người

nợ thuế để thực hiện các biện pháp nghiệp vụ đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thi

hành quyết định hành chính thuế, thủ trưởng CQT các cấp thực hiện xây

dựng hệ thống quản lý nợ thuế và các biện pháp đôn đốc đối với từng

133

danh sách NNT như sau:

- NNT hoàn thành nghĩa vụ với NSNN, không còn nợ thuế;

- NNT nợ thuế từ 60 - 90 ngày;

- NNT nợ thuế từ 91 - 121 ngày;

- NNT nợ thuế trên 121 ngày.

CQT căn cứ danh sách trường hợp quản lý theo dõi thu nợ thuế và

trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế theo quy định và cảnh báo của hệ thống thông tin quản lý nợ để thực hiện

các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế với từng NNT theo quy định pháp luật hiện hành; xác nhận về việc hoàn

thành nghĩa vụ thuế của NNT; chuyển các thông tin của NNT chưa được xuất

cảnh, tạm hoãn xuất cảnh bằng phương thức điện tử hoặc qua đường công văn

bằng giấy cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.

Thực hiện quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế: CQT thực hiện gửi thông báo nợ thuế và tiền chậm nộp, Quyết định

cưỡng chế đến người nợ thuế và đến các bên liên quan (nếu có) bằng phương

thức điện tử; cập nhật đầy đủ, chính xác kết quả vào hệ thống thông tin nghiệp

vụ đối với từng trường hợp cụ thể để phục vụ cho QLRR, đánh giá tuân thủ

pháp luật thuế của NNT. Hàng tháng, CQT các cấp thực hiện công khai tình

hình nợ thuế của NNT theo quy định của Luật Quản lý thuế.

Thứ ba, hoạt động quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được triển

khai đầy đủ và đồng bộ. Nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm đôn đốc thu

hồi kịp thời cho ngân sách và hạn chế thấp nhất số nợ mới phát sinh. Đó là:

- Giao chỉ tiêu thu nợ từ cấp Tổng cục cho đến từng bộ phận tham gia trực

tiếp thực hiện quy trình quản lý nợ thuế, quy trình cưỡng chế nợ thuế nhằm

nâng cao trách nhiệm của CQT các cấp cũng như các bộ phận trong CQT đối

với công tác quản lý nợ, cưỡng chế nợ thuế.

- Đẩy mạnh việc phối hợp giữa bộ phận quản lý nợ với các bộ phận thực

hiện các chức năng khác như kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế. Phối hợp với

134

NNT, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước để điều chỉnh kịp thời đối với việc hạch

toán nhầm các chỉ tiêu trên chứng từ nộp tiền, hạn chế “nợ ảo” phát sinh.

- Đối với loại nợ thuế dưới 90 ngày, CQT thực hiện phát hành kịp thời, đầy

đủ thông báo nợ thuế hoặc thông báo qua điện thoại, nhắn tin, gửi thư điện tử,

fax tới các Doanh nghiệp để đôn đốc thu nợ và ban hành các thông báo sẽ áp

dụng biện pháp cưỡng chế nhằm nhắc nhở đối với những khoản nợ trên 90 ngày.

- Thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng về kỹ năng quản lý nợ thuế cho

công chức làm công tác quản lý nợ tại CQT các cấp.

Từ năm 2014, khi Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) được đưa vào

vận hành phục vụ cho công tác QLT, hoạt động quản lý nợ và cưỡng chế nợ

thuế đã đi vào bài bản và toàn diện hơn. Cơ sở dữ liệu kê khai đã nhập trên hệ

thống quản lý thuế TMS được rà soát những trường hợp nợ thuế để tham mưu

cho lãnh đạo chỉ đạo các bộ phận có liên quan phối hợp rà soát và đôn đốc kịp

thời các khoản nợ thuế vào NSNN.

Đối với hoạt động cưỡng chế nợ thuế, căn cứ cơ sở dữ liệu QLT tập trung

TMS, định kỳ, Tổng cục Thuế thông báo danh sách các Doanh nghiệp có số

tiền thuế nợ lớn, kéo dài để các cục thuế địa phương tổ chức rà soát, đối chiếu

số liệu, kịp thời xác định chính xác số nợ của từng NNT. Trên cơ sở đó, các

cục thuế và chi cục thuế ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế

theo quy định.

Với việc triển khai các biện pháp nói trên, công tác quản lý nợ đọng thuế

và cưỡng chế nợ thuế ngày càng đi vào nề nếp và đạt được những kết quả tích

cực, đảm bảo thu hồi được số thuế nợ đọng, hạn chế thất thu ngân sách và nâng

cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. Năm 2020 toàn ngành thuế thực hiện thu

hồi nợ đọng tại thời điểm ngày 31/12/2019 đạt 28.476 tỷ đồng, đạt 84,2% chỉ

tiêu thu nợ giao, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó thu bằng biện

pháp quản lý nợ là 19.388 tỷ đồng; thu bằng biện pháp cưỡng chế nợ là 9.088

tỷ đồng. Tổng số NNT đã được xử lý khoanh nợ, xóa nợ tiền chậm nộp không

còn khả năng nộp NSNN trong năm 2020 theo Nghị quyết 94/2019/QH14 là

135

495.123 NNT, với tổng số tiền thuế, tiền chậm nộp được xử lý là 24.155 tỷ

đồng, bằng 86,4% so với nhiệm vụ giao.

Tuy vậy, công tác cưỡng chế, thu nợ vẫn còn một số bất cập, cách phân

loại nợ để quản lý và đôn đốc thu chưa tính đầy đủ đến nguyên nhân nợ và

chưa được xem xét trong bối cảnh mức độ tuân thủ thuế chung của một NNT

cụ thể, do vậy, chưa có biện pháp xử lý đôn đốc nợ thuế một cách phù hợp

nhất để mang lại hiệu quả cao trong quản lý nợ. Việc thực hiện các biện pháp

cưỡng chế nợ thuế ở một số địa phương chưa cương quyết và chưa phù hợp

nên hiệu quả cưỡng chế nợ thuế chưa cao.

Tổng số tiền nợ thuế ngành thuế quản lý tính đến cuối năm 2020 là

89.796 tỷ đồng, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2019. Tỷ lệ tổng nợ thuế trên

tổng thu năm 2020 ở mức 7,2%; tỷ lệ tổng nợ có khả năng thu trên tổng thu

năm 2020 ở mức 4,1%. Trong đó Nợ tiền thuế có khả năng thu là 34.187 tỷ

đồng, chiếm tỷ trọng 38,1% tổng số tiền thuế nợ, tăng 24,9% so với cùng kỳ

năm 2019; Tiền phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp phát sinh của nợ

có khả năng thu là 16.563 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,4% tổng số tiền thuế nợ,

tăng 11% so với cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi

là 28.127 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,3% tổng tiền thuế nợ, giảm 36,2% so với

cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ đang xử lý là 8.712 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng

9,7% tổng số tiền thuế nợ, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm 2019; Tiền thuế nợ

đang khiếu nại, khiếu kiện là 2.206 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,5% tổng số tiền

thuế nợ, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm 2019.

3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014- 2020

3.3.1. Kết quả đạt được

Việc thực hiện QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014- 2020 đã

đạt kết quả chủ yếu sau:

Thứ nhất, cơ sở pháp lý để thực hiện QLRR trong QLT

Sau khi thực hiện thí điểm một số chức năng thuế, ngành Thuế đã chủ

136

động đề xuất kiến nghị để tạo nên hành lang pháp lý khá toàn diện để thực

hiện QLRR trong QLT. Quy định QLRR đã được đưa vào các văn bản quy

phạm pháp luật có tính cao nhất về QLT là Luật Quản lý thuế, đồng thời đã

được cụ thể hóa trong các văn bản quy định tạo cơ sở cho việc tổ chức thực

hiện QLRR trong hoạt động nghiệp vụ thuế. Nội dung, nhiệm vụ QLRR đã

được quy định trong Luật Quản lý thuế, Luật số 21/2012/QH13, Nghị định số

83/2013/NĐ-CP của Chính Phủ, Thông tư số 204/2015/TT-BTC của Bộ Tài

chính, Thông tư 31/2021/TT-BTC và các văn bản pháp luật liên quan.

Trên cơ sở các văn bản pháp luật, Bộ Tài chính đã ban hành các quyết

định về QLRR (Quyết định 1005/QĐ-BTC, Quyết định 1006/QĐ-BTC và

Quyết định 253/QĐ-BTC của Bộ Tài chính), hướng dẫn cách thức thực hiện

QLRR tại CQT các cấp.

Bộ Tài chính đã xây dựng và ban hành được 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi

ro trong thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT; QLRR trong hoàn thuế;

QLRR trong quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ. Trên cơ sở các bộ tiêu chí

được ban hành, Tổng cục thuế tiếp tục xây dựng các quy trình QLRR gồm: hệ

thống quy trình nghiệp vụ QLRR trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm

tra tại trụ sở NNT, phân loại hồ sơ hoàn thuế, lựa chọn trường hợp kiểm tra

thanh tra sau hoàn thuế và công tác quản lý, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.

Nhìn chung, 03 quy trình QLRR trên đã tuân thủ theo trình tự quy trình

QLRR Theo Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế (đã trình bày

ở chương 2). Hiện nay, QLRR đã được thực hiện ở hầu hết các khâu chức

năng trong QLT và CQT đã ban hành các quy trình thực hiện QLRR cho từng

khâu chức năng và không ngừng được hoàn thiện. Các quy trình được xác

định là phù hợp với điều kiện QLT của Việt Nam hiện nay, góp phần nâng

cao hiệu quả QLT, giảm bớt các thủ tục hành chính cho NNT.

Thứ hai, Tổ chức bộ máy QLRR

Đã hình thành bộ máy QLRR từ cấp Tổng cục đến các cục thuế, với Ban

QLRR chuyên trách trực thuộc Tổng Cục thuế chịu trách nhiệm nghiên cứu

137

và tổ chức thực hiện QLRR trong toàn ngành thuế, ở cấp cục thuế bộ phận

QLRR thuộc phòng thanh tra kiêm nhiệm. Tổ chức bộ máy QLRR như trên

khá phù hợp trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu thực

hiện QLRR trong QLT. QLRR đã được thực hiện trong hầu hết các khâu, các

chức năng quản lý chính.

Thứ ba, Nhận thức về QLRR trong QLT

Nhận thức về QLRR đã được hình thành khá rõ nét cả về vai trò, vị trí và

nhiệm vụ trong công tác QLT. Hệ thống lý luận nghiệp vụ về QLRR về cơ

bản đã và đang được xây dựng, có khả năng đáp ứng được các yêu cầu nghiệp

vụ hiện nay.

- QLRR đã từng bước thâm nhập sâu, rộng làm thay đổi cơ bản phương

thức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ QLT theo hướng đảm bảo sự cân

bằng, tạo thuận lợi và kiểm soát tuân thủ pháp luật; phần lớn các quyết định

kiểm tra, thanh tra NNT được thực hiện dựa trên cơ sở kết quả phân tích rủi

ro. Đặc biệt cơ chế QLRR được luật hóa tại Luật Quản lý thuế và đang dần

trở thành nền tảng trong thực hiện hoạt động nghiệp vụ của cán bộ, công chức

trong toàn ngành thuế.

- Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công chức tại CQT các cấp đã nhận thức về

nguyên tắc, quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực hiện QLRR. Trình độ

chuyên môn của cán bộ, công chức thuế trong việc thực hiện QLT theo quy

trình QLRR được nâng cao. Với quy trình QLRR, yêu cầu công chức thuế

phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để có thể nhận diện, phân

tích và đánh giá rủi ro. Với số lượng doanh nghiệp ngày càng phát triển, quy

mô ngày càng tăng, xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới đòi hỏi cán

bộ thuế phải không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, trau dồi chuyên

môn, học tập và ứng dụng CNTT vào công tác QLT

Thứ tư, Thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu về NNT

CQT đã từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu của NNT bao

gồm thông tin định danh và các thông tin liên quan đến việc tuân thủ pháp

138

luật thuế làm căn cứ phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá và xử lý rủi ro

trong QLT. Ngành thuế đã đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong QLT, với cơ

sở dữ liệu NNT được quản lý tập trung đã giúp cho quá trình ứng dụng CNTT

trong việc nhận diện, xâu chuỗi, phân nhóm để xác định các rủi ro về thuế

được chính xác, đầy đủ hơn. Tổ chức thu thập, cập nhập, xử lý thông tin tại

CQT các cấp; Tổ chức phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị

ngoài ngành thuế (Tổng cục Hải quan, UBCK, Ngân hàng Nhà nước,...).

Thứ năm, Xây dựng bộ tiêu chí đánh rủi ro và thực hiện phân loại NNT

CQT đã xây dựng, quản lý, theo dõi, đánh giá, phân loại đối với hơn

700.000 doanh nghiệp để phục vụ QLRR và các yêu cầu QLT, trong đó:

- Xây dựng, quản lý, sử dụng bộ tiêu chí đánh giá lựa chọn NNT có dấu

hiệu rủi ro để lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; Bộ tiêu chí, chỉ

số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có

dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế; Bộ

tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong

việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn;

- Đã thực hiện phân tích, đánh giá các tiêu chí rủi ro để đưa ra danh sách

NNT thực hiện thanh tra, kiểm tra hàng năm; phân tích đánh giá để phân

luồng việc áp dụng hình thức hoàn thuế GTGT; Phân tích đánh giá để kiểm

soát việc phát hành, in, sử dụng hóa đơn của NNT.

- Đã thực hiện việc phân tích, đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT.

Kết quả phân tích, đánh giá đưa ra danh sách NNT có rủi ro cao làm cơ sở để

các bộ phận chức năng liên quan đưa ra biện pháp quản lý phù hợp;

- Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách QLT đối với danh sách

các doanh nghiệp, tổ chức được đánh giá phân loại rủi ro; cung cấp cho các cơ

quan chức năng các thông tin về chấp hành pháp luật của NNT. Phối hợp với

các đơn vị nghiệp vụ trong và ngoài ngành, sử dụng hệ thống thông tin nghiệp

vụ để cảnh báo, yêu cầu kiểm tra, thanh tra đối với những NNT có nghi ngờ

hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế.

139

Thứ sáu, Kết quả QLRR trong các chức năng QLT

- Quản lý kê khai thuế: QLRR trong quản lý khai thuế đã có những bước

chuyển biến tích cực, đã tập trung nguồn lực quản lý ngay từ khâu khai thuế,

kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở CQT nên phát hiện kịp thời những trường

hợp sai sót, gian lận, hạn chế được những hành vi không tuân thủ của NNT.

- Thanh tra, kiểm tra thuế: QLRR trong thanh tra, kiểm tra thuế đã bám

sát quy trình QLRR. Cơ sở dữ liệu thông tin về NNT được cập nhật ngày càng

đầy đủ và có hệ thống, CQT đã chủ động chấm điểm rủi ro cho tất cả các

doanh nghiệp nói chung nhằm lựa chọn những NNT có rủi ro cao về thuế để

đưa vào diện thanh tra, kiểm tra. Danh sách NNT được lựa chọn theo nguyên

tắc ưu tiên các doanh nghiệp có điểm rủi ro cao và các doanh nghiệp kinh

doanh trong các lĩnh vực ngành, nghề đặc thù. Nhờ thực hiện kỹ thuật phân

tích rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế đã rút ngắn thời gian và công sức cho

cuộc thanh tra, kiểm tra.

Việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm bằng Quyết định bộ tiêu

chí thống nhất từ trung ương đến các địa phương, trên cơ sở phân tích rủi ro

tập trung vào trọng tâm, trọng điểm đã nâng cao chất lượng của các cuộc

thanh tra, kiểm tra, truy thu kịp thời nhiều khoản thuế thiếu, phát hiện các sai

phạm của NNT, góp phần nâng cao tính tuân thủ về pháp luật thuế của NNT,

tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng.

- Phân loại hồ sơ hoàn thuế và kiểm tra sau hoàn thuế: Đã xây dựng

được bộ tiêu chí đánh giá rủi ro để lựa chọn hồ sơ kiểm tra sau hoàn thuế.

Việc phân loại hồ sơ hoàn thuế: Hoàn thuế trước, kiểm tra sau và kiểm tra

trước, hoàn thuế sau dựa trên mức độ rủi ro của doanh nghiệp đã tạo thuận lợi

cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, giảm bớt các thủ tục hành

chính. Ngoài ra, với việc lựa chọn kiểm tra sau hoàn thuế dựa trên các tiêu chí

rủi ro đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau hoàn thuế.

- Quản lý hóa đơn: Đã có bộ tiêu chí đánh giá rủi ro của NNT trong việc

tạo, in, phát hành và sử dụng hóa. Quản lý hóa đơn đã thực hiện theo QLRR,

140

cùng với sử dụng hóa đơn điện tử đã giảm bớt nguồn lực cho CQT trong việc

rà soát thủ công; đảm bảo việc lựa chọn chính xác các trường hợp doanh

nghiệp có rủi ro cao về hóa đơn; hạn chế sử dụng hoá đơn bất hợp pháp.

- Quản lý nợ: Mặc dù chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro trong

quản lý nợ thuế, nhưng việc quản lý nợ dựa trên mức độ rủi ro của các nhóm

nợ khác nhau để có biện pháp xử lý phù hợp cũng đưa lại những kết quả tích

cực, thể hiện ở tỷ lệ nợ đọng thuế giảm qua các năm.

Kết quả khảo sát về tác dụng của thực hiện QLRR trong các chức năng

QLT thời gian qua được thể hiện qua bảng 3.9.

Theo kết quả khảo sát thì 78% công chức cho rằng thực hiện QLRR

trong các chức năng QLT có tác dụng tích cực cho công tác QLT. Một số

công chức cho rằng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT cũng có tác

dụng hỗ trợ QLT. Một số khảo sát cho rằng vì tính chất của QLRR không thể

hiện được hiệu quả một cách trực tiếp mà thông qua việc cải thiện hiệu quả

công tác thanh tra, kiểm tra, tính tuân thủ tự nguyện của NNT và cần có sự kết

hợp thực hiện của các chức năng, nghiệp vụ QLT thì hiệu quả QLRR mới đạt

được hiệu quả tích cực. Ý kiến khác cho rằng thực hiện QLRR có tác dụng

tích cực nhưng chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện QLRR rủi ro trong các chức

năng QLT thời gian qua được thể hiện qua bảng 3.10.

Kết quả khảo sát cho thấy có 363 công chức (chiếm 90,75% người

được hỏi) cho rằng chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT đã

tốt và tương đối tốt. Chỉ 9,25% công chức được hỏi cho rằng chất lượng thực

hiện QLRR trong các chức năng QLT chưa tốt. Không có ý kiến nào cho

rằng chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT là kém.

141

Bảng 3.9. Kết quả khảo sát về tác dụng của thực hiện QLRR rủi ro

trong các chức năng quản lý thuế

Số lượng Tỷ lệ Stt Thực hiện QLRR trong các chức năng QLT

312 78% 1

Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế Chưa có tác dụng đáng kể Không có tác dụng 2 3

Tổng cộng 88 0 400 22% 0% 100%

Bảng 3.10: Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện quản lý rủi ro

trong các chức năng quản lý thuế

Số lượng Tỷ lệ Stt Chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT

Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Kém 1 2 3 4

105 258 37 0 400 26.25% 64.50% 9.25% 0 100% Tổng cộng

Biểu đồ 3.5: Kết quả khảo sát về chất lượng công tác quản lý rủi ro

trong quản lý thuế

142

3.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác QLRR trong QLT còn tồn tại

những hạn chế, yếu kém có liên quan đến các yếu tố cấu thành khung tiêu

chuẩn QLRR, cụ thể:

Thứ nhất, hành lang pháp lý về QLRR khá đầy đủ nhưng chưa thực

sự đồng bộ, thống nhất, còn nhiều điểm chồng lấn hoặc thiếu các quy định,

hướng dẫn cụ thể cho việc tổ chức thực hiện

- Một số quy định trong các văn bản pháp lý chưa được giải thích rõ

ràng: Luật số 106/2016/QH12 và Nghị định số 100/2016/NĐ-CP của Chính

phủ quy định trường hợp hoàn thuế trước kiểm tra sau là “NNT không thuộc

đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật QLT”. Tuy nhiên, định nghĩa thế

nào là “đối tượng rủi ro cao” thì chưa được quy định tại Luật, Nghị định và

tại cấp Thông tư cũng chưa có quy định cụ thể. Vì rủi ro mang tính đặc thù, là

hiện tượng có sự vận động không ngừng; tại các thời điểm khác nhau nhìn

nhận về rủi ro có sự khác nhau trong khi hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật

thường có sự ổn định, phù hợp để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất

định. Hiện nay, Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14 cũng quy định một trong

những trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau là “Hồ sơ hoàn thuế thuộc

loại rủi ro về thuế cao theo phân loại quản lý rủi ro trong quản lý thuế”.

Nghị định 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020, Thông tư 80/2021/TT-BTC

ngày 29/09/2021 chưa quy định cụ thể về hồ sơ “rủi ro cao trong quản lý

thuế”.

- Một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật thiếu cụ thể

dẫn đến sự không thống nhất trong thực hiện: Việc các văn bản quy phạm

pháp luật vẫn còn trường hợp quy định không cụ thể; do đặc thù vùng miền,

do nhận thức của mỗi CQT, công chức thuế có sự khác nhau từ đó CQT các

cấp sẽ có sự đối xử với doanh nghiệp khác nhau, không có sự thống nhất.

Chẳng hạn, cùng một loại hình doanh nghiệp, cùng lĩnh vực kinh doanh, quy

mô, cùng đối tượng, trường hợp hoàn thuế khi lập kế hoạch kiểm tra, thanh

143

tra sau hoàn thuế có tình trạng tại CQT này thì thuộc diện kiểm tra trong vòng

01 năm nhưng tại CQT khác thì thuộc diện kiểm tra trong vòng 10 năm.

- Quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định hết các

nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT như: kết

quả kinh doanh của doanh nghiệp, hệ số nợ vay, nợ thuế của doanh nghiệp

cũng như tình hình xử lý vi phạm các thủ tục hành chính về thuế, hải quan, kế

toán, kiểm toán...

- Cơ quan thuế chưa ban hành đầy đủ các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro ở

tất cả các khâu chức năng của QLT, dẫn đến quy trình QLRR ở một số khâu

chức năng QLT (chưa ban hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro) được xây dựng

chưa tuân thủ đúng chuẩn mực quốc tế.

Theo quy định của Luật Quản lý thuế, QLRR được thực hiện ở tất cả các

chức năng của QLT. Tuy nhiên, hiện nay CQT mới ban hành được 03 bộ tiêu

chí đánh giá rủi ro. Các khâu chức năng QLT như: kê khai thuế, quản lý nợ và

cưỡng chế thuế đã thực hiện theo định hướng QLRR nhưng hiện nay vẫn chưa

xây dựng được các tiêu chí đánh giá rủi ro. Điều đó dẫn đến, tại các khâu

QLT đã ban hành bộ tiêu chí đánh giá rủi ro thì Quy trình QLRR ban hành đi

kèm đã tuân thủ theo trình tự quy trình QLRR theo Chuẩn mực 31000 của Tổ

chức chuẩn mực quốc tế; Còn các khâu QLT còn lại như: kê khai thuế, quản

lý nợ và cưỡng chế thuế thì quy trình quản lý mặc dù đã theo định hướng

QLRR nhưng vẫn chưa thực hiện được theo trình tự quy trình QLRR theo

Chuẩn mực 31000 của Tổ chức chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, Cơ cấu tổ chức bộ máy và việc trao quyền, trách nhiệm thực

hiện QLRR chưa phù hợp, chưa tương xứng với công tác QLRR trong giai

đoạn hiện nay

QLRR sẽ là xu hướng tất yếu trong QLT hiện đại, đảm bảo liên kết, điều

phối xuyên suốt trong các hoạt động nghiệp vụ thuế; tuy vậy việc sắp xếp tổ

chức bộ máy QLRR chưa phù hợp. Ban Quản lý Rủi ro chưa có đầy đủ nguồn

lực để xác định: các rủi ro tuân thủ của NNT, các chiến lược xử lý, các rủi ro

144

nội bộ và biện pháp giải quyết. Do vẫn là Ban “mềm” nên Ban Quản lý Rủi ro

chưa đủ cơ sở pháp lý trong việc chịu trách nhiệm toàn bộ đối với việc thiết

kế và triển khai Chiến lược Cải thiện Tuân thủ tổng thể của Tổng Cục thuế,

cũng như sự gắn kết của chiến lược này với Chiến lược chung của Tổng cục

và việc chuẩn bị các kế hoạch cải thiện tuân thủ hàng năm.

Thứ ba, công tác thu thập, xử lý thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu về

NNT còn hạn chế, chưa đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, kịp thời

- Công tác thu thập, xử lý thông tin về NNT còn hạn chế về phạm vi,

mức độ chuyên sâu, chưa được tập trung hóa về đầu mối để đảm bảo việc xây

dựng, quản lý và điều phối tập trung thống nhất.

- Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ QLRR còn hạn chế, kém về chất

lượng, thông tin rời rạc và thiếu các thông tin quan trọng cho việc đánh giá rủi

ro. Hiện nay, cơ sở dữ liệu về NNT chủ yếu dựa trên hồ sơ khai thuế của NNT

và các kết quả QLT của CQT (thanh tra, kiểm tra, thu hồi nợ…). Các thông

tin về NNT từ bên thứ ba còn hạn chế mặc dù giữa CQT và các cơ quan chức

năng đã có cơ chế trao đổi và cung cấp thông tin. Đặc biệt, trong điều kiện

phát triển của thương mại điện tử, sự phát triển giao dịch xuyên biên giới,

giao dịch của các công ty đa quốc gia phát triển mạnh mẽ… thì những thông

tin hạn chế về NNT, đặc biệt là các thông tin gắn với đặc thù sản xuất kinh

doanh của NNT đã làm hạn chế rất lớn đến quá trình xử lý dữ liệu điện tử,

đánh giá rủi ro và hỗ trợ đưa ra quyết định,...

Thứ tư, Việc đánh giá rủi ro mới dừng lại ở một số chức năng QLT,

chưa có chương trình đánh giá rủi ro tổng thể về thuế ở tất cả các khâu

- Hiện nay, CQT Việt Nam chưa xây dựng được chương trình rủi ro tuân

thủ tổng thể về thuế để đánh giá rủi ro trong tất cả các khâu, chức năng QLT

trong từng phân đoạn NNT. Việc đánh giá rủi ro mới dừng lại ở việc nhận

diện những trường hợp có rủi ro cao cần can thiệp bằng những nghiệp vụ như

thanh tra, kiểm tra thuế, cưỡng chế nợ thuế… riêng lẻ ở một số chức năng

QLT. Việc thực hiện QLRR trong các hoạt động nghiệp vụ riêng rẽ có thể dẫn

145

đến sự phân đoạn rủi ro. Cách làm này làm gia tăng nguồn lực trong việc xác

định rủi ro, gây nên sự trùng lắp về thông tin và không phản ánh được sự liên

kết giữa các khâu nghiệp vụ. Xét về bản chất, rủi ro luôn tiềm ẩn và nguy cơ

xuất hiện có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào. Do vậy, việc đánh giá rủi ro phải

liên tục và cần phải xác định nội dung rủi ro, biện pháp can thiệp, thời điểm

can thiệp để không bỏ sót rủi ro.

- Về nguyên tắc, rủi ro trong QLT bao gồm: rủi ro trong việc thực hiện

các nghiệp vụ về QLT và rủi ro trong tuân thủ thuế của NNT. Hiện nay, các

tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế để thực hiện QLRR ở Việt Nam mới dựa trên

trên các tiêu chí đánh giá rủi ro từ tuân thủ thuế của NNT, chưa có các tiêu chí

đánh giá rủi ro của CQT trong việc thực hiện các chức năng QLT. Vì vậy,

việc thực hiện QLRR trong QLT tại Việt Nam mới đang hướng đến làm tăng

tính tuân thủ thuế của NNT. Việc QLRR để nâng cao hiệu quả quản lý của

chính CQT hiện nay chủ yếu dựa trên đánh giá kết quả của công tác QLT,

chưa có các tiêu chí cụ thể để đánh giá hiệu quả QLT từ phía CQT.

- Công tác QLRR hiện nay thường chú trọng tới việc xử lý các rủi ro cao

và quan tâm chưa đầy đủ đến việc theo dõi, giám sát các nhóm rủi ro còn lại,

trong khi NNT thuộc các nhóm rủi ro còn lại này cũng có thể thường xuyên

thay đổi do thay đổi phương thức, thủ đoạn vi phạm. Việc QLRR chỉ tập

trung vào một số rủi ro cao ở một số thời điểm có thể gây ra các tác động tiêu

cực như:

+ Việc thiết lập tiêu chí và các biện pháp xử lý rủi ro thường để kiểm

soát các nguy cơ đã biết, trong khi rủi ro luôn biến động và đa dạng về nguồn

gốc phát sinh. Nếu xuất hiện rủi ro nghiêm trọng nhưng CQT chưa nhận diện

được hoặc đánh giá sai mức độ rủi ro dẫn đến bỏ lọt vi phạm; ngược lại các

rủi ro không nghiêm trọng nhưng CQT đánh giá sai mức độ rủi ro thì có thể

dẫn đến lãng phí nguồn lực để kiểm tra những giao dịch rủi ro thấp.

+ Việc thiết lập tiêu chí đánh giá rủi ro có thể rơi vào tình trạng không phản

ánh được bản chất rủi ro của giao dịch: xét về khía cạnh tạo thuận lợi, kiểm tra

146

trước sẽ dịch chuyển thành hậu kiểm đối với giao dịch ít rủi ro. Tuy nhiên nếu

pháp luật quy định hoặc cấp trên yêu cầu, CQT phải giám sát, theo dõi và có

biện pháp nghiệp vụ phù hợp đối với một số vấn đề cụ thể theo từng thời kỳ (yêu

cầu kiểm tra theo chuyên đề,...) và yêu cầu này trở thành một tiêu chí đánh giá

rủi ro thì tiêu chí này sẽ không phản ánh được bản chất rủi ro của giao dịch.

Thứ năm, khả năng tự động hóa trong hoạt động phân tích, đánh giá

rủi ro trên cơ sở ứng dụng CNTT còn thấp

Việc thiết lập, tiêu chí rủi ro, tiêu chí lựa chọn là những công việc có sự

can thiệp của con người. Nếu không sử dụng những biện pháp kỹ thuật hiện

đại, các quy trình, công cụ kiểm soát chéo hoặc quy trình, nghiệp vụ kiểm tra

của CQT yếu kém; hệ thống đánh giá rủi ro sẽ không hiệu quả, mang tính chủ

quan và các đơn vị/công chức thuế sẽ can thiệp vào tiêu chí rủi ro để trục lợi.

Hiện nay, việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu phục vụ phân tích,

đánh giá rủi ro còn rất khó khăn; thiếu các phần mềm ứng dụng hỗ trợ phân

tích, đánh giá cảnh báo rủi ro trong các hoạt động nghiệp vụ thuế. Điều này

dẫn đến phần lớn hoạt động phân tích, đánh giá rủi ro được thực hiện thủ công

và chủ yếu dựa trên những kiến thức, kinh nghiệm của công chức phân tích.

Ứng dụng TPR còn hạn chế việc đồng bộ dữ liệu trong ngành và ngoài

ngành, dữ liệu chưa đồng bộ kịp thời với ứng dụng TMS. Dữ liệu cập nhật

ngành nghề kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp trên ứng dụng TPR chưa

phản ánh hết thực tế ngành nghề hoạt động chính của doanh nghiệp. Ứng

dụng TPR cũng chưa cho phép phân tích rủi ro theo từng ngành nghề do đó,

khi không thể sử dụng ứng dụng này để lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra

chuyên đề một ngành nghề nào đó theo kỹ thật QLRR.

Thứ sáu, Việc thực hiện QLRR trong các chức năng QLT còn một số

hạn chế

Việc tổ chức thực hiện các biện pháp, kỹ thuật nghiệp vụ QLRR còn chưa

bài bản, thiếu tính chuyên sâu; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả QLRR trong các

nghiệp vụ chức năng còn thấp, chưa ngang tầm với yêu cầu của cải cách, hiện

147

đại hóa ngành thuế. Cụ thể:

+ Công tác quản lý kê khai thuế và quản lý nợ và cưỡng chế thuế mặc dù

đã thực hiện theo định hướng QLRR nhưng do chưa xây dựng các tiêu chí đánh

giá rủi ro ở các khâu quản lý này, dẫn đến việc thực hiện QLRR ở các cơ quan

thuế địa phương không thống nhất, mang tính chủ quan của người quản lý. Từ

đó, việc sắp xếp bố trí nguồn nhân lực cho các nội dung công việc quản lý cụ

thể chưa có tiêu chí đánh giá hiệu quả.

+ Công tác quản lý hóa đơn còn tồn tại, vẫn có những trường hợp mua bán

hóa đơn khống. Việc áp dụng hóa đơn điện tử rộng rãi trong thời gian tới sẽ

hạn chế một phần các rủi ro gian lận thuế trong việc sử dụng hóa đơn. Tuy

nhiên, thời gian đầu áp dụng có thể gặp khó khăn như: Giải thích cho khách

hàng hiểu thế nào là hóa đơn điện tử và tính pháp lý của hóa đơn này, không

phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu về mặt hạ tầng kỹ

thuật CNTT để thực hiện hóa đơn điện tử...

+ Việc vận dụng tiêu chí đánh giá rủi ro trong việc xây dựng kế hoạch

thanh tra, kiểm tra thuế; kiểm tra sau hoàn thuế nhiều khi chưa được hiệu quả.

Do thiếu thông tin đặc thù về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên hiện

nay CQT đang gặp khó khăn trong các thanh tra về chuyển giá, giá giao dịch

liên kết. Cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa thực sự thay đổi nhận thức về QLRR,

chưa có kỹ năng phân tích để xác định rủi ro trọng yếu mà vẫn chủ yếu thực

hiện thanh tra toàn diện, thanh tra quyết toán thuế.

3.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế

Những hạn chế nêu trên là do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân

khách quan trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện QLRR trong

QLT. Cụ thể:

* Nguyên nhân khách quan

- Thứ nhất, QLRR trong QLT là lĩnh vực quản lý chuyên sâu và phức tạp

QLRR trong QLT không phải là vấn đề mới, tuy nhiên đây là một lĩnh

vực kỹ thuật quản lý phức tạp, đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn đúc rút

148

qua công tác quản lý thực tế, đồng thời phải kết hợp các phương pháp phân

tích hiện đại. Vấn đề này ngành thuế Việt Nam đang bước đầu nghiên cứu và

triển khai nên việc tiếp cận còn hạn chế; một số cấu phần chức năng mới được

nghiên cứu và bước đầu đưa vào thử nghiệm nên còn thiếu tính bài bản; kiến

thức, kinh nghiệm của cán bộ công chức thuế thực hiện những hoạt động này

còn chưa nhiều so với yêu cầu của công tác QLRR.

- Thứ hai, Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương còn thiếu sự

phối hợp với CQT trong việc cung cấp thông tin về NNT

Việc xác định NNT “chấp hành tốt pháp luật về thuế” phải xét trên tất

cả các phương diện, các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT. Vì vậy,

việc cung cấp thông tin từ bên thứ ba có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây

dựng cơ sở dữ liệu về NNT. Hiện nay, mặc dù giữa CQT và các cơ quan chức

năng như: kho bạc nhà nước, ngân hàng thương mại, quản lý thị trường, công

an, kế hoạch và đầu tư … đã có cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin. Tuy

nhiên, việc trao đổi thông tin về NNT giữa các các cơ quan chức năng và

CQT còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, thống nhất đến việc cập nhật thông tin

đa chiều về NNT chưa kịp thời, chính xác. Việc nắm bắt thông tin về NNT

thiếu chính xác, chưa sát với tình hình thực tế tạo cơ hội cho NNT né tránh

nghĩa vụ nộp thuế và CQT thiếu dữ liệu thông tin để thực hiện QLRR.

- Thứ ba, kinh tế phát triển làm phát sinh các giao dịch kinh tế mới mà

pháp luật chưa kịp điều chỉnh.

Kinh tế Việt Nam phát triển hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và sự

phát triển mạnh mẽ kinh tế số đã phát sinh các giao dịch xuyên biên giới, giao

dịch của các công ty có mối quan hệ liên kết hoặc một số loại hình giao dịch

kinh tế mới mà pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng chưa kịp điều

chỉnh hoặc chưa có quy định cách thức quản lý rõ ràng (thương mại điện tử,

kinh tế chia sẻ…). Điều này sẽ gây khó khăn cho công tác QLT nói chung và

QLRR về thuế nói riêng.

149

- Thứ tư, vẫn còn một bộ phận không nhỏ NNT chưa có ý thức làm theo

luật, tuân thủ luật một cách tự nguyện do trình độ hiểu biết luật còn hạn chế

hoặc cố tình vi phạm pháp luật nói chung và luật thuế nói riêng.

* Nguyên nhân chủ quan

- Thứ nhất, Nhận thức về QLRR trong đội ngũ cán bộ, công chức thuế

chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ công tác QLRR hiện nay

Các nguyên tắc, chính sách về QLRR chưa thâm nhập sâu trong cán bộ,

công chức thuế; nhất là số lãnh đạo, chuyên gia trong các bộ phận nghiệp

vụ chức năng. Điều này dẫn đến khi xây dựng chiến lược, kế hoạch, văn

bản hoặc tổ chức thực hiện hoạt động nghiệp vụ chưa có sự liên kết chặt

chẽ với công tác QLRR. Nhiều nội dung quy định còn tách rời, thậm chí đi

ngược với nguyên tắc QLRR gây ra những rào cản trong tổ chức, thực hiện.

Công tác chỉ đạo điều hành về QLRR còn thiếu tính thống nhất tại các

cục thuế địa phương, thiếu sự đôn đốc, chấn chỉnh xử lý nghiêm đối với các

đơn vị, cá nhân sai phạm hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ và kịp thời

các quy trình, quy định, hướng dẫn của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế.

Công tác QLRR còn chưa được quan tâm đúng mức tại các cấp, đơn vị.

Nhận thức về công tác này còn đơn giản, chưa thấy hết được tầm quan trọng

cũng như vai trò, vị trí của QLRR trong xu thế QLT hiện đại. Do đó việc bố

trí cán bộ, công chức nghiên cứu, xây dựng, triển khai thực hiện QLRR chưa

được quan tâm.

- Thứ hai, Cơ sở vật chất, công nghệ của ngành thuế chưa đáp ứng được

yêu cầu của QLRR

Để thực hiện QLRR thì hệ thống máy móc thiết bị, đặc biệt là hệ thống

máy tính và đường truyền internet là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống

CNTT ngành Thuế (bao gồm hạ tầng truyền thông, máy chủ, hệ thống sao

lưu, lưu trữ, hệ thống an toàn bảo mật, phần mềm bản quyền, phần mềm ứng

dụng) dù được đầu tư và phát triển song chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu

duy trì hoạt động của hạ tầng truyền thông ngành Thuế; một số hệ thống máy

150

chủ, thiết bị đã hết hao mòn không còn sử dụng được hoặc không đảm bảo

yêu cầu về an toàn bảo mật; duy trì bản quyền phần mềm hệ thống và các dịch

vụ quản trị vận hành và hỗ trợ hệ thống ứng dụng nhằm đảm bảo hệ thống

CNTT ngành Thuế hoạt động ổn định.

Sự đồng bộ, chuẩn hóa về hệ thống thông tin trong phạm vi ngành thuế;

giữa ngành thuế và các ngành có liên quan đòi hỏi cần thời gian cho việc xây

dựng và hoàn thiện; sự khác nhau trong mức độ đầu tư ứng dụng CNTT và kế

hoạch triển khai giữa các đơn vị cũng là rào cản không nhỏ trong việc nâng

cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các ngành.

- Thứ ba, Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ thuế

chưa đáp ứng được yêu cầu QLRR, chưa xây dựng được quy trình sắp xếp vị

trí công tác cán bộ thuế hệu quả

QLRR trong QLT đòi hỏi cán bộ thuế phải có năng lực chuyên môn

vững vàng, có kiến thức tổng hợp, có khả năng phân tích và đánh giá. Hiện

nay, một bộ phận cán bộ thuế có trình độ chuyên môn còn hạn chế và phương

pháp làm việc chưa khoa học, hiện đại, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa theo

kịp với việc chuyển đổi thực hiện QLRR trong QLT.

Vẫn tồn tại một bộ phận cán bộ quản lý giải quyết công việc theo kinh

nghiệm, mang tính chất công quyền, chưa thực sự tận tụy, công tâm, khách

quan giữa quyền lợi nhà nước với quyền lợi của NNT; chưa trở thành người

bạn đồng hành đáng tin cậy của NNT. Một số ít cán bộ không chịu rèn luyện,

vi phạm đạo đức công chức thuế, ảnh hưởng đến hình ảnh ngành thuế.

Khi thực hiện QLRR trong các chức năng QLT thì bản thân CQT cũng

có những rủi ro trong công tác QLT, trong đó có rủi ro về công tác cán bộ

thuế như rủi ro về đạo đức, rủi ro trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ không phù

hợp… Hiện nay, CQT vẫn chưa có các tiêu chí định lượng để đánh giá sự phù

hợp của việc sắp xếp, tổ chức cán bộ với yêu cầu của QLRR. Vì vậy, việc tiếp

cận về QLRR trong một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thuế còn có sự

sai lệch, chưa hiểu đầy đủ vai trò, vị trí của công tác QLRR dẫn đến sự chồng

151

chéo, kém hiệu quả trong công tác QLT.

- Thứ tư, sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý theo chức năng của CQT

trong việc thu thập, cung cấp, chia sẻ thông tin về NNT còn chưa hiệu quả

Do nhận thức của một số lãnh đạo các cấp về vai trò, ý nghĩa của thông

tin trong công tác QLRR chưa đầy đủ; do đó mới chỉ tập trung lấp đầy thông

tin về NNT mà chưa chú trọng đến việc tiếp nhận, kiểm soát, xử lý thông tin

có tính tập trung tại các đầu mối; việc chuẩn hóa thông tin cho việc xử lý tự

động và xác định trách nhiệm của từng công chức nghiệp vụ trong việc thu

thập, cập nhập thông tin trên hệ thống, nhằm đảm bảo tính tập trung, thông

suốt và lan tỏa chia sẻ thông tin phục vụ trong toàn ngành.

Việc cập nhật thông tin về NNT phải thường xuyên và cần có sự phối

hợp giữa các bộ phận chức năng của CQT (kê khai, kế toán thuế; thanh tra,

kiểm tra thuế; quản lý nợ…), tuy nhiên, do sự phối hợp giữa các bộ phận chưa

đồng bộ theo quy trình quản lý có thể dẫn đến việc cập nhật thông tin về NNT

không liền mạch, kịp thời.

Thứ năm, hoạt động hợp tác quốc tế về thuế chưa phát huy hiệu quả

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển tạo cơ hội cho sự

phát triển của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động kinh doanh

xuyên biên giới, hoạt động của kinh tế số… Thời gian qua, CQT Việt Nam

gặp rất nhiều khó khăn trong công tác QLT đối với hoạt động chuyển giá của

các công ty có mối quan hệ liên kết, hoạt động xuyên biên giới trên nền tảng

số. Hợp tác quốc tế về thuế giúp CQT Việt Nam có các thông tin về NNT đối

với các giao dịch xuyên biên giới, việc đàm phán giá APA…tuy nhiên hoạt

động hợp tác quốc tế về thuế thời gian qua còn chưa phát huy được hiệu quả

tích cực. Do đó, khả năng rủi ro thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài liên quan đến chuyển giá quốc tế, các rủi ro giao dịch xuyên biên

giới là rất lớn.

152

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3 của luận án đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng

QLRR trong QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 qua các nội dung: (i) Xây

dựng hành lang pháp lý QLRR; (i) cơ cấu tổ chức bộ máy QLRR trong QLT;

(iii) Tổ chức thực hiện các bước công việc QLRR trong QLT thông qua các

nội dung: hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về NNT, hệ thống ứng dụng CNTT

phục vụ QLRR; xây dựng tiêu chí đánh giá rủi ro và thực hiện QLRR trong các

chức năng QLT.

Từ thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam, luận án đánh giá chung

các kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân. Qua đó cho thấy, thực hiện

QLRR trong QLT tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định: Hành

lang pháp lý để thực hiện QLRR cơ bản được xây dựng, tổ chức bộ máy

QLRR; ban hành 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi ro và 03 quy trình QLRR theo

đúng trình tự, chuẩn mực quốc tế đủ căn cứ để thực hiện QLRR trong hoàn

thuế GTGT, quản lý hóa đơn, và thanh tra, kiểm tra thuế. Kết quả đạt được đã

phản ánh nỗ lực của ngành Thuế nhằm nâng cao chất lượng công tác QLRR

trong QLT, góp phần nâng cao hiệu quả QLT nói chung, hiệu quả các chức

năng thuế được thực hiện QLRR, góp phần tăng thu NSNN và tác động đến

hành vi tuân thủ của NNT.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, QLRR trong QLT tại Việt

Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong hành lang pháp lý về QLRR, việc

thu thập, khai thác xử lý thông tin NNT, hệ thống quy trình nghiệp vụ, cơ cấu

tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực… đòi hỏi phải đưa ra những định hướng

và giải pháp hoàn thiện QLRR trong QLT tại Việt Nam thời gian tới để đáp

ứng yêu cầu QLT, nâng cao tính tuân thủ của NNT.

153

CHƯƠNG 4

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO

TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM

4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ MỤC TIÊU,

YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ TẠI

VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

4.1.1 Dự báo tình hình kinh tế- xã hội của Việt Nam đến năm 2025,

tầm nhìn đến năm 2030

4.1.1.1. Bối cảnh bên ngoài

Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp

tác, liên kết để phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng xung đột địa chính trị, kinh

tế thương mại, an ninh quốc phòng và khoa học công nghệ gia tăng; cạnh

tranh chiến lược và điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn khiến

cho việc duy trì sự ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới gặp

nhiều thách thức. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm phát triển

năng động hàng đầu trên thế giới. Tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng

phức tạp, khó lường, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định của khu vực

và môi trường đầu tư phát triển của các nước trong khu vực.

Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có nhiều bất

trắc, khó lường, khả năng hồi phục chưa rõ ràng; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro

trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Chính sách kinh tế của các

nước thay đổi nhanh, khó dự báo, đan xen mục đích kinh tế và chính trị. Quy

tắc thương mại, đầu tư quốc tế bị chi phối, dẫn dắt bởi các nước lớn. Đặc biệt,

tác động của đại dịch Covid-19 tới tăng trưởng kinh tế thế giới là nghiêm

trọng và có thể kéo dài, tạo ra những rủi ro bất ổn về chính trị - xã hội, cân đối

tài chính-tiền tệ, tiềm ẩn nguy cơ kéo theo khủng hoảng tài chính ở một số

nước, làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn

cầu và cách thức hoạt động kinh tế. Các tập đoàn đa quốc gia tái phân bổ cơ

154

sở sản xuất kinh doanh, hình thành những liên minh kinh tế mới; các nước có

thể tận dụng thời cơ để đẩy nhanh chương trình cải cách. Kinh tế số, kinh tế

tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình nhiều quốc gia lựa chọn. Các

hiệp định thương mại đi liền với việc gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại

phi thuế quan.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh, sâu rộng, mở ra

nhiều cơ hội nhưng cũng kèm theo nhiều thách thức cho tất cả các nền kinh

tế. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết

định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh

tế số, xã hội số.

4.1.1.2 Bối cảnh bên trong

Thế và lực của Việt Nam sau gần 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn

nhiều cả về quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã

hội; kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội

tăng lên; tính tự chủ được cải thiện; tích luỹ và nâng cao năng lực quản trị nhà

nước, điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng tăng trưởng kinh tế

từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều

sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng

kể. Môi trường đầu tư được cải thiện, khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp

dẫn của nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn lao động dồi dào, có trình độ và khả

năng thích nghi tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ. Kinh tế hội

nhập ngày càng sâu rộng, một số FTA thế hệ mới quan trọng như Hiệp định

đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định

thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... đòi hỏi phải cải cách thể chế

kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển

công nghiệp và thực hiện công nghiệp hoá. Khu vực tư nhân đóng góp ngày

càng lớn vào phát triển kinh tế đất nước; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh;

đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện.

Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó

155

khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro như: độ mở của nền kinh tế lớn làm các

tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh

hơn; khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến

động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn;

năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế,

hạ tầng, nguồn nhân lực... Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất

lớn trong khi nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng

giảm. Đại dịch Covid-19 đã và đang tác động nghiêm trọng đến đời sống kinh

tế - xã hội, khiến dư địa nguồn lực của cả khu vực nhà nước, doanh nghiệp và

người dân bị suy giảm. Đối với ngành Thuế, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế

toàn cầu đòi hỏi cơ quan thuế Việt Nam phải đổi mới tư duy phát triển, đẩy

mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng

tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, có giải pháp chính sách khắc phục tác

động của dịch bệnh Covid-19 góp phần nhanh chóng phục hồi nền kinh tế,

nâng cao hơn nữa năng lực QLT trong nước và kiểm soát các vấn đề về xói

mòn cơ sở tính thuế và dịch chuyển lợi nhuận xuyên biên giới. Bên cạnh đó,

xu hướng cải cách chính sách thuế của các nước trong những năm gần đây,

chủ yếu là theo hướng cân bằng giữa tăng thu ngân sách và khuyến khích tăng

trưởng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, cạnh tranh về vốn, lao động

trên thế giới gia tăng, các nước lần lượt đưa ra những chính sách ưu đãi thuế

để cạnh tranh thu hút đầu tư, tháo gỡ và giải quyết các vấn đề khó khăn trong

quá trình phục hồi nền kinh tế.

Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế

thế giới và khu vực trong mười năm tiếp theo thì đây cũng là thời điểm để

ngành Thuế có cơ hội tiếp cận ngày càng nhiều hơn với thông lệ quốc tế tốt

nhất nhằm sửa đổi hệ thống chính sách thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý và

áp dụng công cụ QLT tiên tiến hiện đại, tạo ra khả năng “cạnh tranh về thuế”

đối với các quốc gia trên thế giới.

Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày

156

01/7/2020 tạo cơ sở pháp lý cho ngành Thuế cải cách toàn diện và thay đổi

phương thức quản lý trong thời gian tới, đồng thời các sắc thuế chính đã được

sửa đổi nhất quán với các định hướng đề ra trong Chiến lược cải cách hệ

thống thuế giai đoạn 2021-2030 tạo điều kiện mở rộng cơ sở thuế tương ứng

với sự phát triển của các ngành kinh tế, với các mức thuế hợp lý và thể chế

quản lý đảm bảo tính minh bạch hơn.

Kết quả cải cách tổ chức bộ máy cơ quan thuế các cấp theo cơ cấu tổ

chức mới theo Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày 25/9/2018 của Thủ

tướng Chính phủ đã tạo sự thay đổi căn bản về cơ cấu tổ chức trong hệ thống

cơ quan QLT từ Trung ương đến địa phương với kết quả tinh giản các đầu

mối cấp phòng tại Tổng cục Thuế và các Cục Thuế, giảm gần 50% số lượng

các Chi cục Thuế trên cơ sở thành lập các Chi cục Thuế khu vực. Đây là tiền

đề cho giai đoạn 10 năm tiếp theo, ngành Thuế Việt Nam thực hiện tổ chức

các Cục Thuế vùng phù hợp với thông lệ QLT quốc tế nhằm tăng hiệu lực và

hiệu quả quản lý của CQT.

Việc nâng cấp hoàn thiện hệ thống QLT tập trung, xây dựng và triển

khai các ứng dụng hỗ trợ hiệu quả NNT trong quá trình thực hiện nghĩa vụ

thuế đã tạo thuận lợi cho CQT hiện đại hoá toàn diện công tác QLT, cung cấp

các dịch vụ thuế điện tử cho NNT. Một số mục tiêu cải cách trong lĩnh vực

cung cấp dịch vụ thuế điện tử đều đã hoàn thành kế hoạch đề ra trong giai

đoạn 2011-2020, là tiền đề quan trọng để ngành Thuế tiếp tục xây dựng phát

triển một nền hành chính hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT.

Tuy nhiên, áp lực phải đảm bảo nguồn thu để tăng chi vẫn còn lớn, cơ

cấu thu còn chưa có sự cân đối giữa các khoản thu từ thuế thu nhập, thuế tiêu

dùng và từ tài sản. Thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh khi Việt Nam thực hiện

đầy đủ các cam kết cắt giảm thuế quan trong các Hiệp định mậu dịch tự do

song phương và đa phương (FTA). Chính sách thuế vẫn cần phải lồng ghép

hợp lý các chính sách xã hội để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Công tác

QLT cần phải tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hóa để theo kịp với sự vận động và

157

phát triển của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ, toàn

diện trong toàn ngành, phù hợp với yêu cầu Chính phủ số trong tương lai.

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí đội ngũ công chức, viên chức, xây

dựng cơ chế để quản lý và quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm, làm cơ

sở đánh giá năng lực và khả năng làm việc cũng như thái độ của cán bộ, công

chức đối với công việc được giao cũng như cơ chế tiền lương phù hợp nhằm

xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức viên chức đủ về cả chất lượng, số

lượng đáp ứng được yêu cầu cải cách là một thách thức lớn đối với cơ quan

thuế hiện nay.

Hệ thống CNTT được chú trọng nâng cấp và hoàn thiện nhưng vẫn chưa

đáp ứng kịp tốc độ đổi mới nhanh chóng của yêu cầu cải cách và hiện đại hoá

QLT. Với các nội dung thay đổi của hệ thống chính sách pháp luật thuế, mức

độ tích hợp và tự động hoá chưa cao, cũng làm hạn chế những tác động tích

cực, sự hỗ trợ hiệu quả của hệ thống CNTT đối với công tác QLT.

4.1.2. Mục tiêu, yêu cầu đối với quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt

Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

Định hướng hoàn thiện quản lý thuế giai đoạn 2021-2030 chỉ rõ: “Sửa

đổi hệ thống luật và chính sách thuế, phí, lệ phí theo nguyên tắc thị trường,

phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu

tư. Mở rộng cơ sở thu, bảo đảm tính công bằng, trung lập của chính sách

thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành

chính, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và

doanh nghiệp”.

Như vậy, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021-2030 có hai

mục tiêu tổng quát sau:

Thứ nhất, Đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững

của quy mô nguồn lực; Có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho NSNN

góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội

158

nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, Xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn,

hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất,

minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp QLRR, đồng thời

dựa trên nền tảng thuế điện tử và 3 trụ cột cơ bản: Thể chế QLT đầy đủ, đồng

bộ, hiện đại, hội nhập; Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới;

CNTT hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu QLT trong bối cảnh kinh tế số.

Với các mục tiêu tổng quát như trên, công tác QLRR trong QLT tại Việt

Nam cần thực hiện các mục tiêu và yêu cầu sau:

4.1.2.1. Mục tiêu của quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam

Thứ nhất, Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến quản lý rủi ro

trong quản lý thuế

Thứ hai, Hoàn thiện cơ cấu nhân sự, bộ máy tổ chức

Thứ ba, Tiếp tục xây dựng các quy trình nghiệp vụ phục vụ quản lý rủi

ro trong quản lý thuế

Thứ tư, Hoàn thiện hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về người nộp thuế

Thứ năm, Ứng dụng CNTT – xây dựng và phát triển hệ thống CNTT

đồng bộ theo chuẩn quốc tế.

Thứ sáu, Xây dựng chương trình quản lý rủi ro tuân thủ tổng thế (TCP)

4.1.2.2. Yêu cầu đối với quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam

Thứ nhất, QLRR trong QLT phải được thực hiện trong mối quan hệ với

tiến trình hiện đại hoá toàn diện công tác QLT. QLRR phải được tích hợp

trong phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán

bộ, áp dụng CNTT để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLT.

Thứ hai, QLRR trong QLT phải được thực hiện trên cơ sở nắm đầy đủ

các thông tin về NNT nói chung, thông tin về ý thức và khả năng tuân thủ

pháp luật thuế của NNT nói riêng, kiểm soát được tất cả cơ sở thuế, giám sát

được tất cả các hành vi liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT, hạn chế đến

mức thấp nhất các trường hợp và hành vi không tuân thủ pháp luật thuế.

159

Thứ ba, QLRR trong QLT phải hướng tới xây dựng và hoàn thiện các

chiến lược QLT tương ứng với các nhóm NNT theo mức độ tuân thủ pháp

luật thuế của họ. Trên cơ sở đó, khuyến khích, tạo điều kiện tối đa cho NNT

có ý thức tuân thủ tốt và kiểm soát, phát hiện, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các

trường hợp không tuân thủ, đảm bảo nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế

của NNT cũng như tiết kiệm nguồn lực của CQT, nâng cao hiệu quả QLT.

Thứ tư, Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác QLT nhằm nâng

cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy QLT; Ứng dụng đầy đủ

các nội dung và phương pháp của ứng dụng quản lý tuân thủ vào các nội dung

QLT; Hoàn thiện cơ chế QLT tự khai, tự nộp thuế; Hoàn thiện các quy trình

QLT theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận lợi và hiệu quả nhất.

Thứ năm, Thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế bằng nhiều hình thức

phong phú để nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của NNT; khuyến

khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế.

Thứ sáu, Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác QLT; thực

hiện kết nối mạng đầy đủ giữa các CQT, Hải quan, Kho bạc, doanh nghiệp và

các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phục vụ cho công tác QLT; xây dựng

và thực hiện hệ thống QLT tập trung, hoàn thành đồng bộ việc khai, nộp và

giải quyết các thủ tục về thuế qua mạng internet.

Thứ bảy, Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực

điều hành, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ

thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG

QUẢN LÝ THUẾ TẠI VIỆT NAM

4.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT

Hiện nay, cơ sở pháp lý về QLRR trong QLT tại Việt Nam đã được quy

định khá đồng bộ tại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang

pháp lý cho việc triển khai thực hiện QLRR trong QLT, góp phần cải cách,

hiện đại hóa công tác QLT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLT. Tuy nhiên,

160

hành lang pháp lý về QLRR trong QLT tại Việt Nam hiện nay vẫn còn một số

nhược điểm. Để đảm bảo thực hiện QLRR trong QLT theo thông lệ quốc tế,

CQT cần tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp lý như sau:

(1) Đối với công tác đăng ký thuế: Hiện nay, việc QLRR ở khâu đăng ký

thuế chưa có các quy định pháp lý cụ thể. Vì vậy cần bổ sung quy định pháp

lý về QLRR ngay tại khâu đăng ký thuế, nhằm tạo điều kiện cho phép CQT

được theo dõi, đánh giá, phân loại và quản lý NNT ngay từ khi thành lập, từ

đó thực hiện các biện pháp quản lý phù hợp theo mức độ rủi ro của NNT.

Điều này giúp cho quá trình QLT được liền mạch, thống nhất, sử dụng hiệu

quả nguồn lực của CQT thúc đẩy tính tự nguyện tuân thủ của NNT.

(2) Đối với công tác thanh tra, kiểm tra thuế: Thực tế quản lý cho thấy

còn có sự lệch pha giữa việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra tại trụ sở

NNT theo các tiêu chí đánh giá rủi ro đã được ban hành và rủi ro thực tế về

thuế CQT phát hiện khi thanh tra, kiểm tra thuế. Vì vậy, cần bổ sung thêm

quy định pháp lý về các trường hợp thanh tra lại theo nguyên tắc QLRR, theo

đó CQT thực hiện thanh tra lại khi nội dung kết luận thanh tra không phù hợp

với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra hoặc có

dấu hiệu rủi ro cao theo tiêu chí đánh giá, rủi ro qua phân tích đánh giá rủi ro.

(3) Về nội hàm thực hiện QLRR trong QLT: Hiện nay, QLRR trong QLT

tại Việt Nam theo đúng quy trình QLRR chuẩn mực quốc tế mới thực hiện ở

một số khâu chức năng QLT (thanh tra, kiểm tra thuế; hoàn thuế và kiểm tra

sau hoàn thuế GTGT, quản lý hóa đơn) với 03 bộ tiêu chí đánh giá rủi ro và

03 quy trình QLRR đã được ban hành. Vì vậy, để tăng cường QLRR trong

QLT tại Việt Nam cần bổ sung các quy định để thực hiện QLRR theo chuẩn

mực quốc tế trong tất các hoạt động nghiệp vụ QLT, bao gồm: Thu thập, xử

lý thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT; Xây dựng tiêu chí QLT; Đánh giá

việc tuân thủ pháp luật của NNT; Phân loại mức độ rủi ro và tổ chức thực

hiện các biện pháp QLT phù hợp. Cơ quan QLT ứng dụng hệ thống CNTT để

tự động tích hợp, xử lý dữ liệu phục vụ việc QLRR trong hoạt động QLT.

161

(4) Về đánh giá mức độ tuân thủ NNT: Việc đánh giá mức độ tuân thủ

của NTT ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở xây dựng và ban hành

khung đánh giá tuân thủ, Tổng cục Thuế chưa xây dựng được bộ tiêu chí đánh

giá tuân thủ tổng thể đối với NNT, chưa xây dựng được ứng dụng CNTT tự

động đánh giá tuân thủ NNT. Vì vậy, cần cụ thể hóa các quy định về đánh giá

mức độ tuân thủ pháp luật của NNT để CQT thực hiện các biện pháp QLT

phù hợp theo từng mức độ tuân thủ. Việc đánh giá mức độ tuân thủ của NNT

được dựa trên hệ thống các tiêu chí về: tần suất vi phạm pháp luật của NNT;

tính chất, mức độ vi phạm pháp luật thuế; Lịch sử, quá trình hoạt động của

NNT; việc hợp tác với cơ quan QLT trong thực hiện đăng ký thuế, khai thuế,

nộp thuế, hoàn thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, quản lý sử dụng hóa đơn,

chứng từ và chấp hành các quyết định khác của CQT.

(5) Bổ sung và hoàn thiện các quy định về xây dựng, sử dụng hệ thống

thông tin về NNT phục vụ đánh giá rủi ro: Đánh giá tuân thủ pháp luật của

NNT cần bổ sung quy định cụ thể về các thông tin, tài liệu trong hệ thống

thông tin về NNT, cũng như quy định về việc cơ quan QLT sử dụng hệ thống

thông tin về NNT làm cơ sở thực hiện QLRR trong QLT. Hoàn thiện quy định

nhằm đảm bảo việc xây dựng hệ thống CSDL về NNT đầy đủ, chính xác: (i)

Quy định về việc tạo lập và sử dụng thông tin về NNT phục vụ QLT trong nội

bộ CQT; (ii) Quy định về phối hợp, chia sẻ, đối chiếu chéo dữ liệu trong nội bộ

ngành Tài chính và giữa Bộ Tài chính với các bộ, ngành có liên quan.

(6) Về xây dựng các bộ tiêu chí, bộ chỉ số đánh giá rủi ro:

Hiện nay CQT Việt Nam mới thực hiện đánh giá rủi ro trong từng khâu

cụ thể như: hoàn thuế, lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra, quản lý hóa đơn và

việc đánh giá rủi ro cũng chỉ thực hiện đối với NNT là doanh nghiệp, chưa

thực hiện đánh giá rủi ro tổng thể, chưa đánh giá được một cách toàn diện tất

cả NNT. Nhằm mục đích QLRR theo kế hoạch tuân thủ toàn diện thông qua

TCP, CQT cần phải xây dựng thêm các bộ tiêu chí, chỉ số đầy đủ trên tất cả

các khâu, nghiệp vụ QLT đối với từng phân đoạn NNT, đó là: Tiêu chí, chỉ số

162

đánh giá tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT; Tiêu chí, chỉ số đánh giá xếp

hạng mức độ rủi ro đối với NNT; Tiêu chí, chỉ số lựa chọn trường hợp kiểm

tra về đăng ký thuế; Tiêu chí, chỉ số lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ

sở cơ quan QLT; Tiêu chí, chỉ số quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế để làm căn cứ xây dựng

các quy trình nghiệp vụ tương ứng.

(7) Thực hiện tái thiết kế các quy trình QLRR tuân thủ theo đúng

chuẩn mực quốc tế ở tất cả nghiệp vụ QLT

Hiện tại quy trình nghiệp vụ QLT về cơ bản bị cắt khúc thành nhiều giai

đoạn theo từng ứng dụng, việc thiếu khớp nối quy trình xử lý giữa các ứng

dụng hoặc liên kết lỏng lẻo dẫn đến sự chồng chéo hoặc sai lệch giữa các hệ

thống ứng dụng. Việc tái thiết kế quy trình nghiệp vụ QLT theo thông lệ QLT

quốc tế, phù hợp tình hình thực tế của CQT địa phương và phù hợp với hệ

thống CNTT nhằm tối đa tự động hóa các quy trình quản lý, hướng tới thực

hiện QLRR trong tất cả chức năng QLT.

Quy trình nghiệp vụ cần được tái thiết kế theo hướng tổng thể từ khâu

đăng ký thuế; kê khai thuế, nộp thuế; nợ thuế; miễn, giảm thuế; kê khai hoàn

thuế, hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng

ấn chỉ thuế;…cho đến các khâu xử lý của CQT: kết quả kiểm tra, thanh tra; xử

lý nợ thuế; xử lý phạt vi phạm hành chính về pháp luật thuế… Quy trình

nghiệp vụ theo hướng tổng thể nhằm đảm bảo có một kho dữ liệu tổng hợp

chung toàn ngành Thuế đầy đủ, chính xác và đồng bộ, từ đó tạo ra sự thống

nhất về quy trình xử lý, quy trình hạch toán đảm bảo thống nhất dữ liệu trên

nhiều hệ thống liên quan của ngành Thuế.

Mỗi quy trình nghiệp vụ để thực hiện QLRR trong từng chức năng

QLT đối với từng phân đoạn NNT phải đảm bảo các bước cơ bản sau:

- Bước 1, Thu thập và xử lý thông tin QLRR. Cần xác định các thông tin

cần thiết và nguồn thu thập bao gồm: Thông tin từ các hệ thống ứng dụng của

ngành thuế và Thông tin thu thập từ bên ngoài. Mỗi nguồn thông tin phải quy

định rõ trách nhiệm thu thập, rà soát, xử lý… cho từng bộ phận, cán bộ cụ thể

163

để đảm bảo thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác.

- Bước 2, Nêu rõ những căn cứ pháp lý của hệ thống quy trình nghiệp vụ.

Để thực hiện QLRR trong QLT, bên cạnh các Luật, Thông tư là hệ thống

Quyết định ban hành các bộ tiêu chí, chỉ số xác định rủi ro trong từng lĩnh vực

cụ thể, từ đăng ký thuế, kê khai thuế… đến thanh tra, kiểm tra, quản lý nợ

thuế… Đây là cơ sở để xây dựng các quy trình QLRR và ứng dụng CNTT.

- Bước 3, Xác định rõ mục đích của việc QLRR trong từng khâu, nghiệp

vụ QLT. Đây là bước quan trọng nhất trong các quy trình nghiệp vụ vì nó là

kết quả của việc phân tích, đánh giá rủi ro trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ:

Trong quy trình QLRR trong công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra

tại trụ sở NNT, kết quả của quá trình phân tích và đánh giá rủi ro là phải đưa

ra xếp hạng rủi ro các doanh nghiệp từ cao xuống thấp theo quy mô và lĩnh

vực kinh doanh, từ đó cho phép cán bộ thuế lựa chọn được danh sách các

doanh nghiệp để đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra.

Bước 4, Đánh giá, kiểm tra quá trình thực hiện. Bước này nhằm mục

đích theo dõi, đánh giá, kiểm tra và có các giải pháp kịp thời đảm bảo việc thu

thập, xử lý, cập nhật thông tin phục vụ đánh giá rủi ro; việc tuân thủ sử dụng

kết quả đánh giá, phân tích rủi ro, đồng thời tổng hợp thông tin theo dõi, đánh

giá để xem xét, điều chỉnh kịp thời các Bộ tiêu chí, chỉ số, ngưỡng rủi ro...

Quy trình nghiệp vụ cần phải xây dựng được một hệ thống đầy đủ các báo cáo

thực hiện, báo cáo đánh giá...nhằm theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thu thập,

xử lý thông tin QLRR, đánh giá, kiểm tra kết quả thực hiện QLRR; đánh giá

hiệu quả của bộ tiêu chí, mức độ ảnh hưởng...Từ đó tham mưu, đề xuất biện

pháp thu thập thông tin, các thông tin cần thu thập; các sơ hở, thiếu sót trong việc

thu thập, xử lý thông tin liên quan; đề xuất việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện

các bộ tiêu chí, chỉ số đảm bảo hiệu quả của QLRR trong QLT trong từng chức

năng QLT và phù hợp với từng phân đoạn NNT.

Trong mỗi quy trình nghiệp vụ, có một vấn đề hết sức quan trọng cần

phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cán bộ trong từng bước công

164

việc, phải có phân công rõ ràng và cơ chế giám sát đầy đủ. Bên cạnh đó các

quy định, quy trình quản lý vận hành, giám sát chất lượng dữ liệu, quy chế

trách nhiệm xử lý dữ liệu… cũng cần phải được quan tâm, xây dựng song

song để đáp ứng được việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời từ

đó nâng cao vai trò, tầm quan trọng của hệ thống quy trình nghiệp vụ.

(8) Về tổ chức thực hiện QLRR: Bổ sung thẩm quyền cho phép Bộ

trưởng Bộ Tài chính quyết định tiêu chí đánh giá việc tuân thủ pháp luật của

NNT, phân loại mức độ rủi ro và thực hiện QLRR trong hoạt động QLT; quy

định cụ thể về quyền, trách nhiệm của CQT khi thực hiện QLRR trong QLT,

công khai, minh bạch các thủ tục đối với NNT cũng như giảm trừ trách nhiệm

của CQT khi thực hiện một số công tác trên thực tế hiện nay.

4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực

Để đảm bảo QLRR tuân thủ có hiệu lực, hiệu quả theo thông lệ quốc tế

thì phải thực hiện QLRR toàn diện trong tất cả các chức năng QLT và áp

dụng đối với từng phân đoạn NNT nhằm nâng cao tính tuân thủ. Đây là những

nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về tổ chức bộ

máy và nguồn nhân lực. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, kết hợp

với kinh nghiệm của Tổng cục Hải quan, tinh thần của Nghị quyết 18-NQ/TW

ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Khóa XII về

một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính

trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Tác giả kiến nghị xây dựng tổ chức

bộ máy, nhân sự và phân công nhiệm vụ đối với các đơn vị chuyên trách

QLRR tại CQT các cấp cụ thể như sau:

4.2.2.1 Tổ chức bộ máy QLRR

 Về mặt chỉ đạo:

Tổng cục trưởng chịu trách nhiệm: Đảm bảo có các chính sách và quy

trình QLRR được triển khai hiệu quả; Đảm bảo bố trí đủ năng lực cho chức

năng QLRR; và đặt ra các mục tiêu quốc gia trong việc xây dựng chương

trình nâng cao tuân thủ, theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện đối chiếu với

165

các mục tiêu này.

 Về mặt thực thi:

Thứ nhất, Cần thành lập một Uỷ ban QLRR cấp cao để hỗ trợ cho Tổng

cục trưởng, đảm bảo tất cả các đơn vị trong Tổng cục Thuế đều góp phần đạt

được các mục tiêu nâng cao tuân thủ. Đứng đầu Uỷ ban có thể là đích thân

Tổng cục trưởng hoặc một Phó Tổng cục trưởng. Thành viên của Uỷ ban bao

gồm lãnh đạo các đơn vị có đóng góp trực tiếp vào các mục tiêu tuân thủ của

Tổng cục thuế và các cán bộ quản lý có liên quan khác, như lãnh đạo của đơn

vị QLT doanh nghiệp lớn và lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ khác phụ trách các

phân đoạn NNT chính; lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Hội sở chính phụ

trách thanh tra kiểm tra, tuyên truyền hỗ trợ NNT, chính sách QLT của Tổng

cục thuế, và tổ chức cán bộ. Uỷ ban phải họp ít nhất theo định kỳ hàng quý để

thống nhất về các hợp phần của chương trình nâng cao tuân thủ và các kế

hoạch nâng cao tuân thủ kèm theo, rà soát tiến độ và đảm bảo kế hoạch đi

đúng hướng (hoặc đưa ra biện pháp xử lý kịp thời), rà soát mọi rủi ro mới

phát sinh đối với số thu.

Vai trò của Uỷ ban Quản lý Rủi ro:

- Giám sát, đánh giá và đề ra các quy trình nâng cao tuân thủ trong mọi

khía cạnh của QLRR; đảm bảo các quy trình và thủ tục nội bộ về QLRR phù

hợp, tiếp tục đáp ứng tiêu chuẩn thực hành tốt của thế giới, được thực hiện

nhất quán và hiệu quả;

- Tổ chức xây dựng và duy trì chương trình nâng cao tuân thủ cho toàn

bộ hệ thống thuế, các kế hoạch nâng cao tuân thủ hàng năm trong chu trình

xây dựng kế hoạch nghiệp vụ của Tổng cục Thuế;

- Thống nhất về các hoạt động nâng cao tuân thủ có cấu trúc trong các văn

bản kế hoạch quan trọng này, với các mục tiêu hoạt động dựa trên kết quả cụ thể,

khả thi, có thể đo lường được trình tổng cục trưởng phê duyệt cuối cùng;

- Tiên phong triển khai các phương pháp QLRR trong Tổng cục Thuế và

tích cực khuyến khích, hỗ trợ triển khai thực hiện các phương pháp này.

Thứ hai, Cần kiện toàn Ban quản lý rủi ro, nâng cấp thành Cục Quản lý rủi

166

ro, đảm bảo đóng vai trò chủ đạo trong công tác đánh giá rủi ro và hỗ trợ lên kế

hoạch cho các hoạt động QLRR triển khai trong tất cả các lĩnh vực nghiệp vụ

của Tổng cục Thuế. Đơn vị này phải thực hiện đánh giá rủi ro ở tất cả các cấp độ

trong toàn bộ hệ thống – chiến lược, tác nghiệp và chiến thuật – bao quát tất cả

các sắc thuế, phân đoạn NNT và từng trụ cột trong cả bốn trụ cột tuân thủ.

Vai trò của Cục Quản lý Rủi ro:

- Hỗ trợ Uỷ ban QLRR thực hiện vai trò của mình;

- Xây dựng và triển khai kế hoạch thu thập và quản lý dữ liệu, bao gồm:

mở rộng phạm vi dữ liệu (như dữ liệu từ bên thứ ba), thu thập với khối lượng

lớn để phục vụ mục đích phân tích;

- Tổ chức hoặc thực hiện nghiên cứu về các chuyên đề rủi ro;

- Sử dụng dữ liệu sẵn có để nhận diện những rủi ro hiện hữu và mới phát

sinh, hình thái và xu hướng rủi ro liên quan đến tuân thủ quy định thu ngân

sách và liên tục giám sát tình hình các rủi ro đã nhận diện;

- Thực hiện phân tích dữ liệu bằng các mô hình, công cụ phân tích và

công nghệ khác nhau, bằng cách khai thác thông tin từ các bộ dữ liệu có cấu

trúc và phi cấu trúc để cung cấp thông tin cho đánh giá rủi ro;

- Tăng cường phân tích dữ liệu của các thị trường, ngành nghề kinh

doanh, loại nguồn thu hoặc địa bàn khác nhau để tăng cường hiểu biết về rủi

ro trong từng nhóm NNT khác nhau và hiệu quả của các chiến lược xử lý rủi

ro có trọng điểm;

- Phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc hội sở chính, lãnh đạo các

đơn vị nghiệp vụ để giải thích dữ liệu và cung cấp báo cáo phân tích để thông

tin cho quá trình thiết kế, triển khai của chương trình nâng cao tuân thủ và các

kế hoạch nâng cao tuân thủ;

- Xây dựng các chương trình nâng cao tuân thủ và các kế hoạch nâng cao

tuân thủ để Uỷ ban QLRR phê duyệt, và hoạt động với tư cách là Ban thư ký

của Uỷ ban;

- Khi các ưu tiên nâng cao tuân thủ chiến lược đã được thống nhất, thì

167

cung cấp danh sách các trường hợp có rủi ro cao để thực hiện các hoạt

động nghiệp vụ;

- Tiếp nhận và phân tích thông tin phản hồi từ công tác nâng cao tuân thủ

của CQT địa phương để nắm rõ về hiệu quả của các biện pháp giảm thiểu rủi

ro và không ngừng cải thiện các kỹ thuật đánh giá rủi ro;

- Duy trì và thường xuyên cập nhật bảng tổng hợp rủi ro.

Thứ ba, Cơ quan thuế Việt Nam nên tổ chức bộ máy QLRR theo mô hình

hỗn hợp. Theo đó, con người và nguồn lực được quản lý bởi một đơn vị

QLRR tập trung có vai trò lãnh đạo và phối hợp, nhưng có bố trí một số nhân

sự đặt tại các đơn vị nghiệp vụ. Một số chuyên gia phân tích được bố trí tại

các đơn vị nghiệp vụ và địa phương, nhưng vẫn làm việc trong cùng một

khuôn khổ và có cách tiếp cận nhất quán về các phương pháp được sử dụng,

về việc tuyển chọn nhân sự và phát triển chuyên môn cho đội ngũ cán bộ ở

các đơn vị... Theo mô hình này, CQT có khả năng tuyển dụng và phát triển

đội ngũ chuyên môn có năng lực phân tích cao hơn; có thể xây dựng năng lực

dữ liệu sát hơn với bối cảnh của đơn vị nghiệp vụ; đưa ra các biện pháp can

thiệp gắn chặt với nhu cầu của đơn vị nghiệp vụ, đồng thời vẫn đảm bảo tính

nhất quán trong toàn bộ tổ chức.

Cục QLRR quản lý tập trung tại trụ sở cơ quan Tổng cục Thuế sẽ được

phân định trách nhiệm giải trình rõ ràng, và mang lại hiệu quả tốt nhất khi đầu

tư vào kỹ năng chuyên môn phân tích. Đơn vị này cũng có khả năng có tầm

nhìn chiến lược hơn so với cách tổ chức theo vùng – thường sẽ tập trung

nhiều hơn vào các rủi ro nghiệp vụ của địa phương hoặc mang tính chiến

thuật. Điều này sẽ giúp đảm bảo tính nhất quán trên toàn quốc trong việc thực

hiện các kỹ thuật quản lý rủi ro và lựa chọn những NNT có rủi ro cao để cán

bộ cơ quan thuế địa phương thực hiện các biện pháp can thiệp.

Cục QLRR phải thiết lập được những mối quan hệ làm việc hiệu quả với

các đơn vị chức năng tại cơ quan Tổng cục Thuế và các Cục thuế địa phương.

Việc xây dựng chương trình nâng cao tuân thủ và các kế hoạch nâng cao tuân

168

thủ đi kèm sẽ đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận đa ngành trong xây dựng

chiến lược và triển khai các biện pháp xử lý rủi ro. Việc này cần có sự phối

hợp giữa Cục QLRR và các cán bộ chịu trách nhiệm về các quy trình nghiệp

vụ và các chức năng như tuyên truyền hỗ trợ NNT, quản lý nợ, thanh tra kiểm

tra; với các chuyên gia pháp lý và chuyên gia truyền thông bên ngoài. Tất cả

những thành tố này đều có vai trò trong việc thiết kế và triển khai các biện

pháp xử lý rủi ro tuỳ chỉnh theo điều kiện cụ thể.

Các Cục Thuế địa phương là nơi cung cấp năng lực tác nghiệp trực tiếp,

và phải được tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược. Sự tham gia này có

thể bao gồm điều động cán bộ phối hợp với Cục QLRR để thí điểm các dự án

nâng cao tuân thủ trước khi nhân rộng. Thiết lập các diễn đàn ảo giữa cán bộ

công chức của các cục thuế với Cục QLRR có thể tạo điều kiện phản hồi về

công tác triển khai các hành động giảm thiểu rủi ro mà Cục QLRR đưa ra, và

giúp nhận diện những rủi ro mới phát sinh, qua đó hỗ trợ cho cách tiếp cận

phối hợp giữa Cục QLRR và các Cục thuế địa phương. Việc cho phép cán bộ

quản lý cấp vùng hoặc cấp tỉnh được đề xuất một tỉ lệ nhỏ (ví dụ 10%) NNT

để đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra sẽ giúp họ được xử lý tình hình của

địa phương và cung cấp ý kiến phản hồi quý báu cho Cục QLR không ngừng

cải thiện công cụ phân tích.

4.2.2.2 Nguồn nhân lực QLRR

Phải bố trí các cán bộ công chức có kinh nghiệm và hiểu biết về nghiệp

vụ thuế phối hợp với các chuyên viên phân tích có kinh nghiệm về phân tích

kinh doanh hoặc tài chính. Một đơn vị QLRR hiệu quả cần đến nhiều kỹ năng

và kinh nghiệm khác nhau. Các chuyên gia về thuế cung cấp hiểu biết về ưu

tiên và hạn chế về nghiệp vụ, và kiến thức về NNT. Các chuyên viên phân

tích có thể xác định: liệu các kỹ thuật thống kê có thể phát huy tác dụng hay

không và ở đâu? và tư duy vượt ra ngoài khuôn khổ các thủ tục hành chính

hàng ngày. Họ cũng phải là người sẵn sàng bảo vệ kết quả phân tích trước

quan điểm không nhất trí của các cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm.

169

4.2.3. Hoàn thiện CSDL đầy đủ, chính xác, tập trung phục vụ QLRR

Cơ sở dữ liệu chính xác, mang tính đại diện, phản ánh thực tế chính xác

về đặc điểm và thông tin về hành vi của NNT là nền móng của QLRR hiệu

quả. Việc nghiên cứu mô hình thiết kế đối với kho CSDL thuế đáp ứng 03 yêu

cầu chính: (i) Phục vụ các nhu cầu khai thác theo các chức năng QLT và các

yêu cầu công tác về báo cáo thống kê, dự toán, dự báo theo hướng phải phù

hợp với chính sách, quy trình QLT và xác định rõ vai trò/trách nhiệm của cán

bộ thuế trong việc thu thập và cập nhật đầy đủ các thông tin của NNT lên hệ

thống; (ii) Phục vụ nhu cầu cung cấp, trao đổi, đối chiếu chéo thông tin với các

tổ chức, cơ quan theo quy định của pháp luật cần đảm bảo thông tin được thu

thập một cách tự động từ các bên thứ ba, phục vụ tốt cho việc kiểm tra, kiểm

chứng tính chính xác của việc kê khai nghĩa vụ thuế của NNT; (iii) Hỗ trợ sự

tuân thủ của NNT phải đảm bảo tính toàn vẹn và tính bảo mật về dữ liệu của

NNT khi truy cập trực tuyến.

Để cung cấp thông tin đầy đủ cho việc chỉ đạo điều hành, kết nối trao đổi

thông tin phục vụ công tác quản lý thuế và quản lý tuân thủ, ngành Thuế cần

xây dựng kho CSDL quốc gia về thuế trên nền tảng tích hợp và nền tảng dữ

liệu lớn (Big Data và Data lake). Theo đó:

Thứ nhất, Đối với dữ liệu nội bộ cơ quan thuế: Việc đánh giá hành vi

không tuân thủ cùng với các kỹ thuật phân tích nâng cao mới xuất hiện, như

nhận diện xu hướng, phát hiện dữ liệu ngoại lai, phân tích cụm, thiết kế thử

nghiệm, phân tích mạng lưới và khai thác văn bản đòi hỏi phải có sự phối hợp

giữa các chuyên gia nghiệp vụ thuế và chuyên gia phân tích tại Cục QLRR và

chức năng CNTT của CQT. Họ có thể hỗ trợ đưa ra những lựa chọn công cụ

và hệ thống phù hợp, đảm bảo rằng các nguồn dữ liệu mới có thể tích hợp và

áp dụng, nhận diện và xử lý mọi yếu tố cản trở.

Thứ hai, Đối với dữ liệu từ bên thứ ba: Để QLRR hiệu quả, bên cạnh dữ

liệu nội bộ chất lượng cao, còn được tạo thuận lợi bởi nguồn dữ liệu phong

phú từ các bên thứ ba được cung cấp với khối lượng lớn và theo một định

170

dạng cho phép so khớp chính xác với hồ sơ của NNT. Điều này sẽ tăng cường

thêm cho những dữ liệu do NNT tự khai và cho phép xác minh những dữ liệu

này. Dữ liệu khối lượng lớn cho phép nhận diện và đo lường hành vi không

tuân thủ, đánh giá và sắp xếp rủi ro theo thứ tự ưu tiên với tất cả NNT trong

một phân đoạn NNT hoặc một sắc thuế cụ thể.

Dữ liệu từ bên thứ 3 cần phải thu thập từ các cơ quan liên quan như:

Bộ Kế hoạch đầu tư, Hải quan, Kho bạc, Ngân hàng, Tài nguyên, Môi

trường…), trong đó cần chú trọng hoàn thiện một số nguồn cơ sở dữ liệu

liên kết như sau:

- Dữ liệu về đăng ký thuế - liên kết với dữ liệu về đăng ký kinh doanh

của cơ quan quản lý về đăng ký kinh doanh thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư:

Nếu khớp được chính xác giữa dữ liệu nhận được và hồ sơ khai thuế đúng của

NNT sẽ tránh được trường hợp cảnh báo giả trong quá trình khớp dữ liệu, và

giúp giảm thiểu chi phí tuân thủ của NNT. Điều quan trọng là cơ sở dữ liệu

đăng ký NNT của CQT là phải có thông tin chính xác và cập nhật để giúp xác

định NNT, đặc biệt là NNT đang kinh doanh. Nếu cần, một chương trình làm

sạch CSDL đối với những NNT đã ngừng hoạt động và xác minh thông tin

chi tiết trong CSDL sẽ giúp việc so khớp dữ liệu chính xác hơn.

- Dữ liệu về các giao dịch thương mại - liên kết với các ngân hàng

thương mại và nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các công ty cung cấp nền tảng

số là trung gian trong các giao dịch trên nền tảng số: Khi CQT thu thập dữ

liệu khối lượng lớn từ các bên thứ ba, cần yêu cầu báo cáo phải bao gồm: tên,

địa chỉ liên hệ, mã số thuế của NNT và chi tiết về các giao dịch liên quan.

Các yêu cầu tương tự đối với các bộ ngành chính phủ cũng hỗ trợ việc xác

minh liệu NNT đã khai các khoản tài trợ chịu thuế hay các khoản thanh toán

cho hàng hoá và dịch vụ theo hợp đồng hay chưa.

Dữ liệu với khối lượng lớn của các ngân hàng thương mại và nhà cung

cấp dịch vụ tài chính là những thông tin then chốt để xác minh hồ sơ khai thuế

và nhận diện rủi ro tuân thủ. Những dữ liệu cần thiết bao gồm chi tiết về giao

171

dịch đi qua các tài khoản, số dư trong tài khoản ngân hàng và tiền lãi được trả

vào tài khoản. Ngân hàng có thể e ngại rằng việc cung cấp các dữ liệu này sẽ

bị khách hàng phản đối, và ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ. Vì

vậy, CQT phải thu thập dữ liệu khối lượng lớn từ tất cả các ngân hàng và các

tổ chức tương tự để tránh tình trạng bất kỳ ai bị rơi vào tình trạng bất lợi hơn

so với các đối thủ cạnh tranh khác và việc thảo luận trước với Ngân hàng Nhà

nước có thể giúp giải quyết vấn đề này.

Các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ cho doanh nghiệp,

các công ty cung cấp nền tảng số để thực hiện các giao dịch trên nền tảng số

cũng là những nguồn dữ liệu quan trọng để nhận diện những giao dịch bị bỏ

qua. Điều này có thể bao gồm các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế ngầm

và xác minh hồ sơ khai thuế của các doanh nghiệp đã đăng ký. Dữ liệu này sẽ

càng hữu ích hơn khi người tiêu dùng chuyển sang thanh toán điện tử và dùng

thương mại điện tử nhiều hơn nơi không thanh toán bằng tiền mặt. Các tổ chức

này có thông tin chi tiết về những chủ thể kinh doanh chấp nhận thanh toán qua

thẻ - bao gồm cả những người bán hàng qua mạng.

- Dữ liệu thông qua hợp tác quốc tế về thuế: Trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế, để QLT đối với các giao dịch liên kết của các doanh nghiệp

đầu tư nước ngoài, CQT cần có các thông tin về giá từ các giao dịch có yếu tố

nước ngoài. Việc đẩy mạnh các hợp tác quốc tế về thuế giúp CQT Việt Nam có

các thông tin về giá nhờ sự chia sẻ thông tin từ CQT nước ngoài. Ngoài ra, việc

hợp tác quốc tế về thuế tạo điều kiện thúc đẩy việc đàm phán giá APA, một

công cụ quan trọng để quản lý hoạt động chuyển giá thông qua các giao dịch

liên kết.

4.2.4. Xây dựng chương trình QLRR tuân thủ tổng thể

Qua kinh nghiệm thực tiễn đã bước đầu triển khai và kinh nghiệm quốc

tế về mô hình triển khai thành công QLRR trong QLT, có thể rút ra những

giải pháp thực hiện tại Việt Nam trong tình hình hiện nay, trong bối cảnh

chưa tiếp cận ở mức độ tổng thể thông qua phân đoạn NNT và các chiến lược

172

xử lý phù hợp. Việt Nam mới chỉ thực hiện QLRR trong một số khâu, chức

năng QLT và trước hết chỉ tập trung vào nhóm NNT là doanh nghiệp. Căn cứ

vào điều kiện thực tế hiện nay tại Việt Nam, các chuyên gia tổ chức OECD đã

khuyến nghị CQT Việt Nam cần xây dựng một Chương trình QLRR tuân thủ

tổng thể.

Một chương trình Quản lý Rủi ro Tuân thủ để nhận diện và xác định ưu

tiên rủi ro tuân thủ, lên chiến lược và triển khai chiến lược. Cấu trúc của

chương trình xoay quanh các phân đoạn NNT chính (doanh nghiệp lớn; doanh

nghiệp vừa; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; cá nhân; tổ chức phi lợi nhuận;

khu vực chính phủ) và giải quyết các rủi ro tuân thủ liên quan đến các phân

đoạn đó từ góc độ tuân thủ của NNT với bốn nghĩa vụ cơ bản của họ: (i) Đăng

ký thuế; (ii) Nộp hồ sơ khai thuế và chứng từ kê khai đúng thời hạn; (iii) Nộp

đúng và đủ thuế đúng thời hạn; (iv) Kê khai thông tin đầy đủ, chính xác. Điều

này đảm bảo cho sự tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất và khai thác

tốt nhất những nguồn lực sẵn có giữa các đơn vị nghiệp vụ cạnh tranh nhau

(về nguồn lực). Chương trình cũng cung cấp một hồ sơ minh bạch và chứng

minh được về cách thức xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động tuân thủ

của Tổng cục thuế và lý do vì sao nguồn lực lại được ưu tiên dành cho một số

rủi ro nhất định mà không phải là những rủi ro khác.

Theo đó, để xây dựng Chương trình QLRR tuân thủ, Cơ quan thuế cần:

Thứ nhất, Thực hiện phân đoạn NNT. Việc phân đoạn NNT đóng vai trò

cốt lõi và là bước quan trọng đầu tiên trong việc phân tích môi trường rủi ro

tổng thể và đưa ra phương pháp QLRR. Nó cho phép CQT xây dựng các

chiến lược tuân thủ hiệu quả và đặt trọng tâm, ưu tiên hơn qua kết quả xếp

hạng rủi ro trên cơ sở đó đề ra cách xử lý phù hợp nhất. Kinh nghiệm quốc tế

cho thấy, một số ít các doanh nghiệp lớn (khoảng dưới 1%) đóng góp từ 60-

70% số thu trong tổng nguồn thu từ thuế nội địa, trong khi có rất nhiều doanh

nghiệp nhỏ chỉ đóng góp dưới 5 -10%. Các doanh nghiệp nhóm quy mô vừa

thường đóng góp 20- 30% số thu trong tổng nguồn thu từ thuế nội địa.

173

Hơn nữa, phân đoạn NNT giúp CQT có cách hiểu đầy đủ chi tiết theo

các dấu hiệu rủi ro của từng nhóm. Thực tế cách hiểu và cách hành động của

NNT rất đa dạng và không đồng nhất, bản thân nhiều CQT các nước đã lựa

chọn cách thức phân đoạn NNT ra thành các nhóm đối tượng có các đặc tính

tương tự nhau (Ví dụ Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,

các doanh nghiệp siêu nhỏ, các tổ chức phi lợi nhuận…) và xác định các rủi

ro tuân thủ của mỗi nhóm đối tượng NNT. Một số CQT cũng phân loại NNT

lớn theo ngành kinh tế, qua đó có thể nhận dạng các rủi ro của NNT cũng như

đưa ra các giải pháp quản lý tuân thủ hiệu quả phù hợp với từng nhóm NNT.

Thứ hai, Đánh giá rủi ro tuân thủ. Việc đánh giá rủi ro tuân thủ không

chỉ dừng lại ở việc nhận diện những trường hợp có rủi ro cao cần can thiệp

bằng những nghiệp vụ như thanh tra, kiểm tra hay cưỡng chế. QLRR tuân thủ

hiệu quả bao gồm việc đánh giá rủi ro ở ba cấp độ: chiến lược, vận hành và

chiến thuật (theo từng trường hợp cụ thể).

- Đánh giá cấp độ chiến lược tập trung vào những rủi ro quan trọng nhất

trong hệ thống thuế, hoặc những rủi ro mà nếu không được xử lý có thể làm

phương hại đến tính toàn vẹn của hệ thống hoặc uy tín của TCT như một cơ

quan quản lý thu hiệu quả. Đánh giá chiến lược cung cấp thông tin cho việc

phân bổ nguồn lực của cơ quan thuế trên cấp độ quốc gia, giữa các lĩnh vực

nghiệp vụ và giữa các phân đoạn NNT.

- Đánh giá ở cấp độ vận hành thường tập trung vào những rủi ro rải

khắp các phân đoạn NNT hoặc chức năng QLT (ví dụ lập kế hoạch thuế chủ

động để né thuế, nộp chậm và quản lý nợ) khi số thu chịu rủi ro là một con số

lớn. Việc đánh giá ở cấp độ này tạo thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực giữa

các phân đoạn NNT và/hoặc chức năng quản lý thuế.

- Đánh giá ở cấp độ chiến thuật là đánh giá rủi ro để nhận diện những

trường hợp có rủi ro cao, cần phải can thiệp bằng biện pháp nghiệp vụ hoặc

có hành động xử lý.

Thứ ba, nhận diện rủi ro. Dựa trên nhiều nguồn dữ liệu để hiểu rõ QLT

174

đang có những rủi ro nào, chúng thường xuất hiện ở đâu trong hệ thống thuế,

và nguyên nhân gây ra chúng là gì?

Dữ liệu thường bao gồm: (i) Kết quả đánh giá môi trường và các nghiên

cứu về thái độ của NNT đối với việc nộp thuế; (ii) Nghiên cứu về các chuyên

đề tuân thủ nổi cộm trên bình diện quốc tế, như tiềm năng thất thu thuế do

hành vi chuyển giá và các hình thức dịch chuyển lợi nhuận khác của NNT có

các hoạt động xuyên biên giới, và hành vi lập kế hoạch thuế chủ động để né

thuế; (iii) Nghiên cứu về các hoạt động kinh tế ngầm; (iv) Một góc nhìn từ

trên xuống rút ra từ nghiên cứu khoảng cách thuế GTGT và các phân tích kinh

tế khác; (v) Thông tin bên thứ ba, ví dụ như dữ liệu từ các cơ quan chính phủ

và đơn vị cung cấp dịch vụ tư nhân như ngân hàng; và (vi) Phân tích từ dưới

lên về dữ liệu hoạt động của CQT, ví dụ như phân tích kết quả thanh tra, kiểm

tra thuế và các câu hỏi thường gặp của NNT.

Thứ tư, Xây dựng các quy Quy trình nhận diện rủi ro, Quy trình đánh giá

rủi ro.

- Quy trình nhận diện rủi ro sẽ dẫn đến một tập hợp các rủi ro được xác

định cho từng phân đoạn NNT và theo từng sắc thuế. Những rủi ro được nhận

diện sẽ được ghi nhận vào một “bảng tổng hợp rủi ro” mô tả từng rủi ro và

đánh giá rủi ro đó về tính chất và mức độ nguy cơ đối với hệ thống thu ngân

sách, và khả năng nguy cơ đó trở thành hiện thực. Kết hợp hai yếu tố - tác động

tiềm tàng của rủi ro và khả năng xảy ra nguy cơ đó – cấu thành toàn bộ hoạt

động đánh giá. Bảng tổng hợp rủi ro thường xuyên được rà soát và cập nhật.

- Quy trình đánh giá rủi ro và sắp xếp thứ tự ưu tiên sẽ giúp giảm thiểu

rủi ro này được thực hiện một cách có hệ thống nhằm đảm bảo áp dụng nguồn

lực một cách hiệu quả nhất nhằm cải thiện tính tuân thủ tự nguyện. Những

quyết định về mức độ đầu tư cần thiết để giảm thiểu từng rủi ro một phải được

đưa ra trong bối cảnh số lượng các rủi ro nghiêm trọng được nhận diện, tác

động tương đối ước tính của chúng đối với hệ thống thu, và ngân sách hoạt

động của CQT. Mục đích đặt ra là đạt được sự cân bằng hợp lý về QLRR

175

trong tất cả các phân đoạn NNT và tất cả các sắc thuế. Ít nhất, tất cả những rủi

ro được xác định là “cao” đều phải được quản lý chủ động; những rủi ro ít

nghiêm trọng hơn có thể thực hiện giám sát định kỳ hoặc thường xuyên để

đảm bảo nhanh chóng nhận diện được mức độ tuân thủ bị xói mòn.

Thứ năm, Xây dựng Chiến lược nâng cao tuân thủ và Kế hoạch hành

động nâng cao tuân thủ hàng năm

- Chiến lược nâng cao tuân thủ là một bản kế hoạch ở cấp độ tổng quan,

mô tả những rủi ro tuân thủ quan trọng nhất và nêu lên những chi tiết khái

quát về cách thức xử lý những rủi ro này của CQT. Chiến lược được cấu trúc

theo các phân đoạn NNT và các sắc thuế chính, tập trung vào rủi ro của

những phân đoạn chính hoặc sắc thuế chính, mô tả những sáng kiến và hoạt

động khác nhau mà CQT sẽ triển khai để giải quyết những rủi ro này. Chiến

lược sẽ bao gồm những sáng kiến nâng cao năng lực như cải thiện việc khớp

dữ liệu tự động, các chương trình bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, công

chức và tăng cường hệ thống CNTT quản lý rủi ro. Chiến lược nâng cao tuân

thủ thường được xây dựng gối đầu cho chu kỳ 02 đến 03 năm và được cập

nhật hàng năm để phản ánh tiến độ thực hiện cũng như phản hồi về các bài

học kinh nghiệm đã rút ra.

- Kế hoạch hành động nâng cao tuân thủ hàng năm mô tả các hoạt động

cụ thể sẽ được thực hiện để triển khai Chiến lược nâng cao tuân thủ. Các Kế

hoạch hành động nâng cao tuân thủ mô tả cách thức triển khai các biện pháp

nghiệp vụ của CQT trong năm tới đối với từng lĩnh vực có rủi ro cao, phạm vi

và tính chất của các biện pháp can thiệp sẽ được áp dụng, và nguồn lực sẽ

được phân bổ.

Thứ sáu, Tiêu chí thành công và các chỉ tiêu đo lường phải được thiết

lập khi lựa chọn các biện pháp xử lý cụ thể. Chúng không chỉ dừng lại ở các

kết quả đầu ra ngắn hạn (ví dụ kết quả thanh tra, kiểm tra) mà phải phản ánh

được cả tác động đạt được về việc thay đổi hành vi của NNT. Ví dụ, các công

cụ dựa trên kết quả như vậy có thể là những thay đổi đo lường được bằng tỉ lệ

phần trăm và giá trị số thuế được nộp đúng hạn, hoặc giảm số nợ phải thu hồi.

176

Nếu thực hiện các chiến lược nhằm cải thiện mức độ chính xác trong kê khai

thuế thì thước đo thành công thường dùng có thể là mức độ giảm - có thể

lượng hoá - các lỗi sai nhất định hoặc các kiểu khai thiếu nhất định.

4.2.5. Hoàn thiện nội dung nghiệp vụ quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Hiện nay, QLRR trong QLT tại Việt Nam đang thực hiện riêng rẽ ở từng

khâu chức năng QLT, trong đó có 03 khâu quản lý (thanh tra, kiểm tra thuế;

phân loại hồ sơ hoàn thuế GTGT và kiểm tra sau hoàn thuế GTGT; tạo, in ấn,

phát hành hóa đơn) là đã thực hiện QLRR theo đúng chuẩn mực quốc tế vì đã

ban hành được tiêu chí đánh giá rủi ro và quy trình QLRR. Các khâu chức

năng quản lý còn lại (kê khai thuế, quản lý nợ thuế) mới thực hiện theo định

hướng QLRR, chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rủi ro và quy trình

QLRR theo chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, trước mắt để tăng cường công tác

QLRR trong QLT cần hoàn thiện các nội dung nghiệp vụ QLRR trong tất cả

các khâu chức năng QLT. Cụ thể:

Thứ nhất, Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí, chỉ

số đánh giá rủi ro.

Trong năm 2016, 2017 Tổng cục Thuế đã nghiên cứu xây dựng trình Bộ

Tài chính ban hành các bộ tiêu chí, quy trình đánh giả rủi no NNT trong công

tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra; phân loại hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn

trường hợp thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế; quản lý in phát hành và sử dụng

hóa đơn. Căn cứ theo quy định của Thông tư 204/2015/TT-BTC ngày

21/12/2005 về thực hiện QLRR trong QLT, trong thời gian tới, Tổng cục

Thuế tiếp tục nghiên cứu và trình Bộ Tài chính ban hành các bộ tiêu chí, chỉ

số đánh giá rủi ro trong các chức năng QLT còn lại, bao gồm: Tiêu chí đánh

giá tuân thủ pháp luật thuế đối với NNT; Tiêu chí đánh giá xếp hạng mức độ

rủi ro đối với NNT; Tiêu chí lựa chọn trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế;

Tiêu chí lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở cơ quan QLT; Tiêu chí

quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết

định hành chính thuế;

177

Đồng thời tiến hành xây dựng quy trình nghiệp vụ, nâng cấp ứng dụng CNTT

phục vụ công tác QLRR tương ứng với các bộ tiêu chí, chỉ số mới ban hành.

Thứ hai, Cần tập trung nghiên cứu ban hành và thực hiện các nghiệp vụ

QLRR mới trong công tác QLT.

- Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp: Về lâu dài CQT hướng tới QLT theo

chương trình QLRR tổng thể. Vì vậy, CQT phải quản lý hệ thống thông tin

QLRR, áp dụng tiêu chí đánh giá rủi ro doanh nghiệp để tự động đánh giá xếp

hạng rủi ro doanh nghiệp theo 06 hạng (từ hạng 1 đến hạng 6). Việc đánh giá

xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện định kỳ hàng năm. Kết quả xếp hạng

rủi ro được sử dụng để thiết lập tiêu chí lựa chọn thanh tra, kiểm tra NNT và

thực hiện các biện pháp QLT phù hợp.

- Quản lý doanh nghiệp trọng điểm: Doanh nghiệp trọng điểm là doanh

nghiệp được đánh giá rủi ro cao, gắn với từng lĩnh vực rủi ro hoặc theo từng

chuyên đề kiểm soát rủi ro cụ thể. Ví dụ như doanh nghiệp lớn, hoạt động

phức tạp, doanh nghiệp có giao dịch liên kết, doanh nghiệp hoạt động trong

lĩnh vực thương mại điện tử,... Doanh nghiệp sau khi được đánh giá rủi ro,

xếp vào doanh nghiệp trọng điểm, CQT sẽ xác lập hồ sơ, đồng thời cập nhật

hồ sơ vào hệ thống để theo dõi và quản lý chặt chẽ. Thông thường doanh

nghiệp trọng điểm sẽ được quản lý chặt chẽ theo lĩnh vực rủi ro được đánh giá

đối với doanh nghiệp đó.

- Quản lý kế hoạch kiểm soát rủi ro (KSRR): Kế hoạch KSRR được xây

dựng và ban hành theo định kỳ hàng năm (thường là tháng 12 của năm trước

liền kề) nhằm đánh giá tổng thể các rủi ro của năm trước liền kề và xu hướng

rủi ro có thể xảy ra trong năm quản lý. Kế hoạch này cũng chỉ ra các phương

thức, thủ đoạn và các dấu hiệu nhận biết rủi ro trong các chức năng QLT;

đồng thời phân bổ nguồn lực, phân công nhiệm vụ cho CQT các cấp thực hiện

KSRR theo các địa chỉ xác định trong kế hoạch. Kế hoạch KSRR tạo ra

phương án kiểm soát có tính tổng thể, đa tầng, đảm bảo sự tham gia của tất cả

các chủ thể QLRR (đơn vị, công chức có liên quan) một cách có hệ thống và

178

cấu trúc chặt chẽ. Qua đó giúp cho việc kiểm soát toàn diện, chặt chẽ và

không chồng chéo hoặc bỏ lọt các rủi ro trong công tác QLT.

4.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ theo chuẩn quốc tế

CNTT đóng vai trò quan trọng đối với việc QLRR trong QLT. Để nâng

cao hiệu quả QLRR, CQT cần đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng CNTT đồng

bộ theo chuẩn quốc tế phục vụ công tác QLT. Cụ thể:

Thứ nhất, Nâng cấp ứng dụng TPR hiện tại

Nhằm hướng tới QLRR tuân thủ toàn diện, đáp ứng được việc triển khai

tổng thể đối với các chức năng QLT trong tất cả các phân đoạn NNT, giải pháp

vô cùng cần thiết là cần tiếp tục nâng cấp ứng dụng TPR hiện tại để khắc phục

các tồn tại, vướng mắc. Một số hướng giải pháp cụ thể như sau:

- Nghiên cứu tích hợp các ứng dụng riêng lẻ của ngành thuế thành một

ứng dụng tập trung để tăng hiệu quả trong việc đồng bộ dữ liệu, chính xác và

giảm các thao tác trung gian giữa các ứng dụng;

- Tăng cường công tác kiểm soát dữ liệu từ các nguồn dữ liệu, phát triển

các chức năng hỗ trợ người dùng trong công tác nhập liệu, tra cứu, tìm kiếm

dữ liệu, tạo các báo cáo trong các ứng dụng;

- Mở rộng việc kết nối trao đổi thông tin với cơ quan ngoài ngành (Hải

quan, KHĐT, Ngân hàng…) để thu thập đầy đủ thông tin về doanh nghiệp

phục vụ việc đánh giá rủi ro chính xác, hiệu quả trong công tác thanh tra,

kiểm tra;

- Sửa đổi các mẫu biểu, báo cáo trong các ứng dụng để phù hợp với các

quy trình nghiệp vụ hiện hành và các nhu cầu thực tế phát sinh;

- Triển khai rộng rãi các ứng dụng đến tất cả các bộ phận trong ngành;

- Phân quyền sử dụng ứng dụng hợp lý cho các bộ phận liên quan để

nâng cao hiệu quả sử dụng ứng dụng;

- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, tập huấn sử dụng ứng dụng tại

các đơn vị;

- Với các trường hợp đặc thù cần nghiên cứu và có giải pháp hợp lý để

179

nâng cao hiệu quả ứng dụng, hỗ trợ hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra.

Thứ hai, Xây dựng mới ứng dụng phân tích rủi ro trong QLT theo mô

hình kiến trúc tổng thể

Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu QLRR trong QLT một cách tổng

thể, toàn diện tất cả các khâu, chức năng QLT đối với từng phân đoạn NNT

sử dụng 4 trụ cột xác định tuân thủ là: Đăng ký, Thời hạn tuân thủ, Kê khai,

Nộp thuế thì cần thiết phải xây dựng hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo

kiến trúc mới mang tính chất tổng thể.

Hình 4.1. Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro theo kiến trúc tổng thể

Theo hình 4.1 việc đề xuất xây dựng hệ thống theo kiến trúc tổng thể hay

nói cách khác là hệ thống ứng dụng này sẽ tích hợp với các quy trình QLT,

bao gồm: (i) Xây dựng CSDL tuân thủ về NNT ; (ii) Xây dựng Phân hệ phân

luồng xử lý nghiệp vụ thuế; (iii) Quy trình giám sát; (iv) Xử lý các nghiệp vụ

phân luồng khác.

- Xây dựng Phân hệ Phân tích rủi ro đáp ứng yêu cầu: (i) Phân loại, đánh

giá tuân thủ pháp luật thuế của NNT; (ii) Phân tích rủi ro đánh giá xếp hạng

mức độ rủi ro của NNT; (iii) Phân tích rủi ro lựa chọn trường hợp kiểm tra về

180

đăng ký thuế; (iv) Phân tích rủi ro lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở

cơ quan QLT; (v) Phân tích rủi ro phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa

chọn đối tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh

tra sau hoàn thuế; (vi) Phân tích rủi ro lựa chọn trường hợp có dấu hiệu rủi ro

để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; (vii) Phân tích rủi ro

để thực hiện chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định pháp

luật và xác định trường hợp NNT có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm

tra, thanh tra về tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng hóa đơn, ấn chỉ; (viii) Xử

lý các nghiệp vụ phân tích rủi ro khác.

- Xây dựng ứng dụng Quản lý trường hợp đáp ứng yêu cầu: (i) Quản lý

trường hợp kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; (ii) Quản lý trường hợp hồ sơ

hoàn thuế thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế sau; (iii) Quản lý trường hợp

giám sát hoàn thuế; (iv) Quản lý trường hợp rủi ro về tạo, in, phát hành, quản

lý, sử dụng hóa đơn, ấn chỉ; (v) Quản lý trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế;

(vi) Quản lý trường hợp kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan QLT; (vii)

Quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành; (viii)

Thông tin hoạt động NNT theo các nghiệp vụ phát sinh, thông tin từ các cơ

quan bên ngoài; (ix) Lập và theo dõi hồ sơ tuân thủ của NNT; (x) Xây dựng

Phân hệ Phân luồng xử lý nghiệp vụ thuế đáp ứng yêu cầu phát sinh (hiện tại

chưa xác định).

- Trên cơ sở Quyết định số 1148/QĐ-TCT ngày 06/7/2018 của Tổng cục

Thuế thực hiện Nghị quyết của Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về việc triển khai

ứng dụng công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong lĩnh vực Tài

chính- Ngân sách, Hệ thống ứng dụng phân tích rủi ro sẽ được xây dựng theo

hướng ứng dụng công nghệ 4.0 sử dụng kỹ thuật công nghệ học máy (machine

learning) hỗ trợ quá trình phân tích dữ liệu (có giám sát và không giám sát), sử

dụng quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM)

Kỹ thuật công nghệ học máy (machine learning) hỗ trợ quá trình phân

tích dữ liệu. Học máy là một lĩnh vực của trí tuệ nhân tạo liên quan đến việc

181

nghiên cứu và xây dựng các kĩ thuật cho phép các hệ thống "học" tự động từ

dữ liệu để giải quyết những vấn đề cụ thể.

Hình 4.2. Học máy

Hiện nay, Machine Learning có 4 công nghệ cơ bản:

(1) Học có giám sát: Đây là trường hợp các máy tự học trên cơ sở các ví

dụ, dữ liệu đầu vào được sử dụng để tìm các mối liên quan nhằm giải quyết một

vấn đề cụ thể. Nếu xác lập thành công một mô hình, thì mô hình đó được sử

dụng trong các trường hợp tương tự. Với công nghệ dạng này, ta có thể kể đến

một số ví dụ như: phát hiện quá tải, nhận dạng giọng nói, văn bản, hình ảnh,…

(2) Học nửa giám sát: Với công nghệ này máy móc sẽ nhận được cả dữ

liệu đầu vào được gán nhãn và dữ liệu đầu vào không được gán nhãn. Kiểu

học máy này được dùng khi một tổ chức có quá nhiều dữ liệu hoặc có quá

nhiều sự khác biệt của các thông tin đến mức không thể sắp xếp câu trả lời

cho mỗi thông tin đòi hỏi hệ thống tự đề xuất câu trả lời và tạo ra những mô

hình chung. Ta có thể kể đến một vài ví dụ ứng dụng dạng này đó chính là

việc phân loại các web hay nhận dạng giọng nói, hình ảnh.

(3) Học không giám sát: Học không giám sát liên quan đến những dữ

liệu có nguồn gốc không rõ ràng, xác thực so với loại đầu tiên. Trong trường

hợp này, máy móc không có “chìa khóa" trả lời và buộc phải tự phân tích dữ

182

liệu, tìm kiếm mô hình và tìm mối tương quan có liên quan để đưa ra đáp

án. Cách học máy này tương đối giống với cách hoạt động của bộ não con

người. Bộ não rút ra kết luận trên cơ sở quan sát tự phát và trực giác cùng với sự

gia tăng các tệp dữ liệu, kết luận đầu ra sẽ trở nên ngày càng chính xác hơn.

(4) Học tăng cường: Với phương pháp này, máy móc nhận được bộ thao

tác và những quy định được phép từ trước. Hoạt động trong khuôn khổ đó,

máy móc tiến hành phân tích và quan sát kết quả các thao tác để tự cập nhật

và đưa ra những kết quả ngày càng tốt hơn.

Hình 4.3. Học máy có giám sát

Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP DM): là quy trình

lặp có khả năng quay lùi (backtracking) gồm có 6 giai đoạn:

Tìm hiểu nghiệp vụ (Business Understanding): Xác định mục tiêu của dự án.

Tìm hiểu dữ liệu (Data Understanding): Thu thập và đánh giá dữ liệu.

Chuẩn bị dữ liệu (Data Preparation): Thực hiện biến đổi, chuẩn hóa dữ liệu.

Mô hình hóa (Modeling): Áp dụng các mô hình khác nhau để lựa chọn

mô hình tối ưu.

183

Đánh giá (Evaluation): Thực hiện đánh giá độ tin cậy của mô hình.

Triển khai (Deployment): Triển khai cài đặt, tích hợp mô hình với các

ứng dụng phần mềm.

Hình 4.4. Quy trình CRISP-DM

Hình 4.5. Quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM)

184

Hệ thống phân tích rủi ro dựa trên phân tích dữ liệu áp dụng kỹ thuật

công nghệ học máy (machine learning) có giám sát và không giám sát; và sử

dụng quy trình chuẩn công nghiệp khai phá dữ liệu (CRISP-DM).

Với hình 4.5, các tiêu chí được đưa vào xây dựng hoàn toàn dựa trên dữ

liệu nên bắt kịp được các xu thế của dữ liệu. Quy trình này có thể phát hiện ra

những thuộc tính mới có tác động đáng kể đến dự báo. Quá trình khai phá dữ

liệu được lặp đi, lặp lại nhiều lần để tìm ra mô hình hợp lý nhất; Dễ xây dựng

và có thể cập nhật dữ liệu mới nhằm bắt kịp xu thế của dữ liệu.

Kết quả khảo sát về các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện QLRR

trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới được tổng hợp tại bảng 4.1.

Có 25% công chức được hỏi đề xuất hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh

giá rủi ro; 25% công chức được hỏi đề xuất thực hiện QLRR một cách toàn

diện trong tất cả các chức năng QLT; 23,5% công chức được hỏi đề xuất hoàn

thiện hệ thống pháp lý; 15,5% công chức được hỏi đề xuất nâng cao hiệu quả

của công tác thu thập thông tin, dữ liệu NNT; 10,5% công chức đề xuất ứng

dụng công nghệ mới (AI, BI…) trong QLRR.

185

Bảng 4.1: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro

trong quản lý thuế

Stt Giải pháp đề xuất Số lượng Tỷ lệ

1 94 23.50%

2 100 25.00% Hoàn thiện hệ thống pháp lý Hoàn thiện tiêu chí, quy trình đánh giá rủi ro

3 Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…) 42 10.50%

4 62 15.50% Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế

5 100 25.00% Thực hiện QLRR một cách toàn diện trong tất cả các chức năng quản lý thuế

6 Giải pháp khác 2 0.50%

Tổng cộng 400 100%

Biểu đồ 4.1. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện QLRR

trong QLT

186

4.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP

4.3.1. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và cơ quan thuế

Hoàn thành số thu NSNN luôn là mục tiêu hàng đầu của ngành thuế.

Nhưng để đạt được mục tiêu đề ra, ngành thuế cũng cần phải có sự phối hợp

giữa các cơ quan chức năng với nhau. Để thực hiện QLRR trong QLT, cần

tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhằm cung cấp đầy đủ

thông tin, dữ liệu NNT để phục vụ công tác đánh giá rủi ro về thuế. Cụ thể:

- Cần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ của CQT và các cơ quan ban

ngành khác tại địa phương trong công tác QLT. Nghiên cứu phối hợp giữa

CQT với các cơ quan ban ngành khác: Hải quan, Cơ quan quản lý đăng ký

kinh doanh, Tài nguyên môi trường, quản lý thị trường, các tổ chức tín dụng,

công an và các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp tài liệu, thông tin

liên quan đến doanh nghiệp nhằm phục vụ cho công tác quản lý thu thuế và

thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về thuế, kịp thời ngăn chặn các

hành vi trốn thuế, gian lận thuế.

Cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh: thông tin, cung cấp kịp thời những

thay đổi, phát sinh của NNT trong quá trình hoạt động nhằm đảm bảo nguồn

dữ liệu NNT luôn đầy đủ phục vụ cho việc phân tích, đáng giá rủi ro được

chính xác.

Cơ quan công an: CQT phối hợp với cơ quan công an phát hiện kịp

thời, xử lý nghiêm minh các hồ sơ vụ án trốn, lậu thuế. Các trường hợp vi

phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực thuế ngoài thẩm quyền của CQT cần

phải điều tra làm rõ thì CQT cần chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để

tiến hành điều tra, phối hợp xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Cơ quan quản lý thị trường: phối hợp trong việc ngăn chặn, xử lý các

trường hợp mua bán vận chuyển hàng lậu, hàng cấm,...

Cơ quan tài nguyên môi trường: Trong quá trình quản lý các nguồn thu

từ đất đai, cơ quan tài nguyên và môi trường phát hiện doanh nghiệp sử dụng

đất đai chưa đúng, không đủ năng lực (vốn, tài sản,..) để thực hiện dự án đã

187

đăng ký thì có văn bản đề nghị CQT phối hợp thanh tra, kiểm tra việc sử dụng

đất và việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của NNT.

4.3.2. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc

CQT cần cung cấp, trang bị cho cán bộ thực hiện công tác QLRR điều

kiện làm việc tốt khi thực hiện việc phân tích, đánh giá rủi ro NNT, ví dụ máy

tính cấu hình cao, cài đặt các ứng dụng phân tích thống kê, các ứng dụng có

kết nối liên thông với các ngành liên quan, được phân quyền xem những dữ

liệu lịch sử và hiện tại của NNT trong kho dữ liệu chung của ngành nhằm

khai thác, phân tích phục vụ tốt cho việc phân tích rủi ro NNT được chính xác

và kịp thời.

4.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thuế và xây dựng

cơ chế để quản lý, quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm làm cơ sở

đánh giá năng lực và khả năng làm việc của cán bộ thuế

Một trong những nguyên nhân làm tăng rủi ro trong công tác QLT xuất

phát từ phía CQT là trình độ chuyên môn của cán bộ thuế chưa đáp ứng được

yêu cầu để thực hiện QLRR trong QLT, các rủi ro về đạo đức. Vì vậy, để

giảm bớt các rủi ro này, cần phải: (1) Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng

cao trình độ chuyên môn cho cán bộ thuế; (2) Xây dựng cơ chế để quản lý và

quy định tiêu chí cụ thể về vị trí việc làm, làm cơ sở đánh giá năng lực và khả

năng của cán bộ thuế. Đây là cơ sở xây dựng chế độ lương, thưởng phù hợp

với năng lực làm việc của cán bộ thuế và bố trí sử dụng cán bộ thuế phù hợp

với từng vị trí công việc; (3) Thực hiện tinh giảm biên chế người lao động

không còn đáp ứng nhu cầu công việc làm cơ sở để thực hiện đề án vị trí việc

làm tốt hơn; (4) Thực hiện việc luân chuyển cán bộ đối với những vị trí công

việc có thể phát sinh các rủi ro về đạo đức nghề nghiệp.

4.3.4. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế

Để thực hiện QLRR trong QLT có hiệu quả rất cần sự tuân thủ tự

nguyện của NNT. Cần thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ

tự nguyện của NNT, cụ thể:

188

* Về phía cơ quan thuế:

- CQT cần tăng cường tuyên truyền, hỗ trợ NNT tuân thủ pháp luật thuế.

Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ giáo dục phổ biến

pháp luật thuế phù hợp với từng nhóm NNT, trọng điểm là nhóm doanh

nghiệp quy mô vừa, nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Tiếp tục mở rộng thực

hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế qua mạng cho doanh nghiệp

và tổ chức, tiến tới nghiên cứu thực hiện triển khai các dịch vụ thuế điện tử

cho các cá nhân. Nghiên cứu triển khai dịch vụ một cửa điện tử và hỗ trợ trực

tuyến tập trung…

- Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm hỗ

trợ NNT thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó, khuyến

khích NNT thực hiện các thủ tục thuế như kê khai thuế qua mạng, nộp thuế

qua mạng,.. vừa giảm thời gian cho NNT vừa tạo thuận tiện cho việc lưu trữ

và sử dụng dữ liệu kê khai để phân tích rủi ro thuế vào định kỳ quy định.

* Về phía NNT:

- NNT cần thực hiện các nghĩa vụ pháp luật kinh doanh, pháp luật thuế

một cách trung thực, khách quan, kịp thời và đầy đủ. Từ đó tạo nên một hệ

thống cơ sở dữ liệu chuẩn về NNT nhằm phục vụ việc phân tích đánh giá

rủi ro được chính xác. Từ kết quả phân tích rủi ro này, CQT đưa ra các biện

pháp quản lý công bằng và phù hợp cho NNT nhằm khuyến khích NNT

thực hiện tốt, đồng thời có biện pháp xử lý các sai phạm NNT vô tình hoặc

cố tình gây ra.

- NNT cần có thái độ hợp tác phối hợp trong trường hợp CQT yêu cầu:

cung cấp bổ sung hồ sơ, tài liệu, chứng cứ liên quan để giải trình những thông

báo của CQT hoặc các đoàn kiểm tra, thanh tra thực hiện kế hoạch kiểm tra,

thanh tra hàng năm theo kết quả phân tích rủi ro.

- NNT cần chủ động tích cực cập nhập tìm hiểu, nắm bắt chính sách hiện

hành và những thay đổi qua từng thời kỳ để thực hiện quyền và nghĩa vụ nộp

thuế một cách đầy đủ, đúng hạn liên quan nhằm góp phần xây dựng xã hội,

đất nước thông qua đóng góp nghĩa vụ thuế trong NSNN.

189

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Chương 4 luận án đã đặt ra yêu cầu QLRR trong QLT tại Việt Nam thời

gian tới, đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030 như: phải lựa chọn NNT có rủi

ro cao về thuế, có nhiều sai phạm trong thực hiện tuân thủ thuế; phát hiện

nhiều hành vi gian lận, trốn thuế; giảm chi phí, thời gian, nhân lực cán bộ

thực hiện QLRR… để đảm bảo thực hiện QLRR trong QLT đạt hiệu quả và

đảm bảo đạt mục tiêu hoàn thành các chỉ tiêu được giao trong thanh tra, kiểm

tra và các chức năng thuế khác.

Từ các yêu cầu đặt ra đối với đổi mới phương thức QLT, tác giả đã đề

xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện QLRR trong QLT thời gian

tới như: hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao nhận thức về sự cần thiết thực

hiện QLRR trong QLT, hoàn thiện hơn nữa các bộ tiêu chí đã có và xây dựng

các bộ tiêu chí cho các chức năng thuế còn thiếu; bổ sung đánh giá chất lượng

QLRR, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, tăng cường ứng dụng

CNTT vào hoạt động phân tích rủi ro, đổi mới đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường

giám sát hoạt động rủi ro, tăng sự phối hợp giữa các bộ phận trong CQT và

các cơ quan liên quan.

Để đảm bảo các giải pháp trên có tính khả thi, cần thực hiện các giải

pháp điều kiện sau: tăng cường sự phối hợp CQT và cơ quan nhà nước có liên

quan, tăng trang bị cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng yêu cầu phân tích, nâng

cao hơn nữa chất lượng đời sống vật chất tinh thần của công chức thực hiện

nhiệm vụ QLRR và tăng cường sự hợp tác giữa NNT với CQT.

190

KẾT LUẬN

QLRR trong QLT đối với NNT và cán bộ thuế là một vấn đề mới tại

Việt Nam. Việc làm tốt công tác QLRR trong QLT đối với ngành thuế nói

chung và NNT nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao

năng lực, hiệu quả trong QLT hiện đại. Bởi vậy, đề tài luận án “Quản lý rủi

ro trong quản lý thuế tại Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong

điều kiện hiện nay. Luận án đã đạt được các kết quả nghiên cứu chủ yếu

sau:

Thứ nhất, Luận án đã nghiên cứu làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu

các công trình đã công bố liên quan đến QLRR trong QLT là vấn đề rất quan

trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, luận án đã kế thừa những lý luận, ưu điểm đã

đạt được của các công trình nghiên cứu trước, khai thác vấn đề chưa được

nghiên cứu, đồng thời tìm ra hướng đi riêng, hướng mới trong phân tích, biện

giải chặt chẽ mang tính biện chứng cao để giải quyết vấn đề nghiên cứu theo

hướng khoa học, logic và đạt được mục tiêu đề ra của luận án.

Thứ hai, Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLRR trong QLT. Từ

những lý luận đã phân tích, có thể nhận thấy QLRR trong QLT có những đặc

điểm riêng. QLRR trong QLT là phương pháp rất quan trọng giúp CQT tiết

kiệm nguồn lực, chi phí, tìm ra đúng NNT có nhiều rủi ro; từ đó có thể tăng

cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác QLT, chống thất thu ngân sách nhằm

đảm bảo NNT luôn chấp hành tốt pháp luật thuế và vai trò quan trọng nhất là

đẩy mạnh hơn nữa tính tuân thủ thuế. Để công tác QLRR trong QLT đạt hiệu

quả tích cực thì cần phải có những nguyên tắc nhất định. Qua phân tích

nguyên tắc QLRR, mô hình QLRR, và quy trình QLRR tổng quát, cũng như

kế hoạch đánh giá rủi ro tuân thủ toàn diện cho thấy: CQT cần phải đẩy mạnh

nâng cao yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực để việc thực hiện các

chức năng QLT ngày càng hiệu quả, đúng tầm và nâng cao vị thế ảnh hưởng

trong hệ thống pháp luật thuế. Đồng thời Luận án cũng trình bày được một số

191

kinh nghiệm về QLRR trong các chức năng thuế ở các nước tiên tiến đi trước

và đã có những thành công, từ đó rút ra bài học thiết thực để thực hiện tại Việt

Nam. Đây là nội dung có ý nghĩa trong việc đẩy mạnh triển khai QLRR trong

QLT tại Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, Luận án đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng QLRR trong

QLT tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020 bằng phương pháp khảo sát thực tế

qua các nội dung: tổ chức bộ máy, hành lang pháp lý, các biện pháp kỹ thuật

trong nghiệp vụ QLRR,…Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá thực trạng QLRR

trong QLT thể hiện ở kết quả thực hiện trong các chức năng QLT, cụ thể là

chức năng thanh tra,kiểm tra, hoàn thuế và quản lý hóa đơn... đã nêu trên. Qua

đó cho thấy QLRR trong QLT tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất

định, cụ thể: số thuế truy thu bình quân 1 doanh nghiệp qua thanh tra hàng

năm đã tăng đáng kể, qua thanh tra đã làm giảm số lỗ sai quy định, về hoàn

thuế và quản lý hóa đơn đã có bộ tiêu chí đánh giá và các quy trình hướng

dẫn thực hiện và tiếp theo hoàn thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng ứng dụng

CNTT phục vụ cho việc triển khai thực hiện. Kết quả đạt được của công tác

QLRR trong QLT đã phản ánh nỗ lực của ngành thuế trong việc đẩy mạnh

nâng cao chất lượng ngành, đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính không

cần thiết, đảm bảo thu ngân sách, nâng cao ý thức và hành vi tuân thủ của

NNT nhằm đưa ngành thuế đạt được mục tiêu đã đề ra. Bên cạnh những ưu

điểm của công tác QLRR trong QLT, luận án cũng chỉ ra những tồn tại, hạn

chế nhất định: việc thực hiện QLRR theo chuẩn mực quốc tế mới chỉ dừng

lại ở một số chức năng của QLT, các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro, quy trình

QLRR chưa hoàn thiện, hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung chưa đầy đủ, ...

Đồng thời luận án cũng chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại đó để đưa ra

những giải pháp khắc phục.

Thứ tư, Trên cơ sở nghiên cứu tình hình kinh tế- xã hội và mục đích, yêu

cầu QLRR trong QLT tại Việt Nam trong thời gian tới, đến năm 2025 và tầm

nhìn đến năm 2030, tác giả đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện QLRR

192

trong QLT tại Việt Nam, cụ thể: Hoàn thiện hành lang pháp lý về QLRR

trong QLT, nâng cao nhận thức cho công chức về sự cần thiết thực hiện

QLRR trong QLT; hoàn thiện cơ sở dữ liệu tập trung về NNT, hoàn thiện và

xây dựng tiếp bộ tiêu chí đánh giá cho các chức năng QLT… Đồng thời để

các giải pháp trên có tính khả thi, tác giả khuyến nghị cần thực hiện các điều

kiện để tạo môi trường thực hiện QLRR trong QLT, trong đó nhấn mạnh một

số giải pháp như: Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong

hoạt động QLT,tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho CQT…

Thứ năm, Luận án đã sử dụng phương pháp khảo sát thực tế để đánh giá

về thực trạng QLRR trong QLT tại Việt Nam và hiệu quả các giải pháp luận

án đưa ra.

Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận án, song không thể

tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả luận án mong muốn

nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các nhà khoa học,

các chuyên gia, đồng nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, thuế để

luận án hoàn thiện hơn./.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

CỦA TÁC GIẢ

1. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Nghiên cứu đề xuất mô

hình tổ chức quản lý nghiên cứu khoa học tại Tổng cục Thuế” được công

nhận năm 2015.

2. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Giải pháp nâng cao hiệu

quả quản lý thuế đối với ngân hàng thương mại tại Việt Nam” năm 2016

3. Bài báo “Kinh tế vĩ mỗ ổn định qua 5 cặp cân đối lớn” đăng trên Tạp chí

Thuế số 3 (570) 2016.

4. Bài báo “Từ 4/2/2016: áp dụng quy định mới về quản lý rủi ro trong lĩnh

vực thuế” đăng trên Tạp chí Ngân quỹ Quốc gia tháng 2/2016.

5. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế “Quản lý rủi ro trong quản lý

thuế - Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp áp dụng tại Việt Nam” năm 2019.

6. Bài báo “Kinh nghiệm quốc tế về quản lý rủi ro trong quản lý thuế và

bài học cho Việt Nam” đăng trên Tạp chí tài chính kỳ 1 tháng 4 năm

2020 (726).

7. Bài báo “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rui ro trong quản lý thuế

tại Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2021.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1 Trần Tuấn Anh (2013), Ứng dụng kỹ thuật QLRR vào hoạt động thanh tra,

kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp tại Cục Thuế Hà Nội, Luận án

Thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

2 Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015

quy định về áp dụng rủi ro trong QLT.

3 Bộ Tài chính (2016), Quyết định số 20710/QĐ-BTC ngày 20/12/2016

về việc cải cách QLT giai đoạn 2016-2020.

4 Bộ Tài chính (2016), Quyết định số 1005/QĐ-BTC ngày 1/11/2016 về

Bộ tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa

chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra,

thanh tra sau hoàn thuế GTGT

5 Bộ Tài chính (2018), Quyết định số 253/QĐ-BTC ngày 20/3/2018 về việc

áp dụng Bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu

hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.

6 Bộ Tài chính (2020), Tổng hợp tình hình thực hiện số thu NSNN giai

đoạn 2014-2018

7 Bộ Tài chính (2020), Tổng hợp thống kê nhân sự ngành thuế giai đoạn 2014-

2018.

8 Bộ Tài chính Hoa Kỳ (2009), Cập nhật về giảm thiểu khoảng cách thuế

Liên bang và tăng cường tự nguyện tuân thủ.

9 Business school Tax & Business Law (2018), Hướng dẫn cho phân đoạn

NNT/Chiến lược Tuân thủ cho Việt Nam.

10 Chính Phủ (2014), Nghị quyết 19/2014/NQ-CP ngày 18/03/2014 và Nghị

quyết 19/2015/NQ-CP ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp

chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh.

11 Chính phủ (2016), Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy

12định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật QLT

12 Chính Phủ, Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về

việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin

điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của Cơ quan nhà nước

13 Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính

phủ điện tử

14 CQT Úc (2003), Báo cáo về chương trình tuân thủ

15 CQT và hải quan Anh (2011), Tiêu điểm quốc tế về thuế

16 CQT Nam Phi (2004), Phân tích về cách tiếp cận tuân thủ của CQT trên

cơ sở lựa chọn hồ sơ và mức độ rủi ro

17 Nguyễn Thị Thùy Dương (2011), QLT ở Việt Nam trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế

quốc dân, Hà Nội

18 ECOPA (2010), Thông lệ quốc tế về lựa chọn trường hợp thanh tra dựa

trên rủi ro.

19 Nguyễn Thị Minh Hòa (2011), Nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT

hướng tới quản lý tuân thủ, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện tài chính,

Hà Nội.

20 Quách Đăng Hòa (2018), Xây dựng khung tiêu chuẩn QLRR của hải

quan Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Tài chính, Hà Nội

21 Nguyễn Thi Thanh Hoài (2011), Một số vấn đề về tuân thủ thuế, Đề tài

nghiên cứu cấp học viện, Học viện tài chính, Hà Nội.

22 Ngân hàng thế giới (2011), Cải cách thuế ở Việt nam – hướng tới một hệ

thống hiệu quả và công bằng hơn.

23 Ngân hàng thế giới (2017), Chương trình tuân thủ thuế- Kinh nghiệm

quốc tế

24 Ngân hàng thế giới (2017), Chương trình tuân thủ tổng thể - Tổng quan

về phương pháp luận.

25 Quốc hội (2012), Luật sửa đổi bổ sung một số Điều Luật QLT số

21/2012/QH13 ngày 20/11/2012.

26 Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các Luật về thuế

số 71/2014/QH13 ngŕy 26/11/2014.

27 Quỹ tiền tệ quốc tế (2005), Thanh tra đối tượng nộp thuế lớn tại Châu Á

– Thái Bình Dương, Tài liệu hội thảo khoa học, Hà Nội

28 Bùi Thái Quang (2013), Phương pháp QLRR, đảm bảo nguồn thu ngân

sách bền vững, Tạp chí Tài chính, số 11 (589).

29 Thủ tướng Chính Phủ (2009), Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày

28/09/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính và các văn bản quy định cụ

thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các đơn vị thuộc Tổng cục Thuế,

Cục Thuế và Cục Thuế.

30 Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày

25/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính.

31 Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011

về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-

2020.

32 Tổng cục Thuế (2015), Quyết định 745/QĐ-TCT ngày 20 /4/2015 về việc

ban hành quy trình tuyên truyền, hỗ trợ NNT.

33 Tổng cục Thuế (2017), Quyết định số 2141/QĐ-TCT ngày 12/12/2017,

về việc hướng dẫn thực hiện quy trình áp dụng QLRR trong công tác

phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in,

phát hành và sử dụng hóa đơn

34 Tổng cục Thuế (2017), Quyết định số 1625/QĐ-TCT ngày 27/9/2017 về

Quy trình áp dụng QLRR trong việc phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế

GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế

hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT

35 Tổng cục Thuế (2014), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2013, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2014

36 Tổng cục Thuế (2015), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2014, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2015

37 Tổng cục Thuế (2016), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2015, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2016

38 Tổng cục Thuế (2017), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2016, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2017

39 Tổng cục Thuế (2018), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2017, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2018.

40 Tổng cục Thuế (2019), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2018, nhiệm

vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2019.

41 Tổng cục Thuế (2013), Mô hình QLT và cơ chế QLRR.

42 Nguyễn Đức Tú (2012), QLRR tín dụng tại NHTMCP Công Thương Việt

Nam.

43 Phi Vân Tuấn (2013), Giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra

theo kỹ thuật QLRR, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục Thuế.

44 Lưu Ngọc Thơ (2013), Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt

Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội

45 Bùi Khánh Toàn, (2019), QLRR trong QLT - Kinh nghiệm quốc tế và

giải pháp áp dụng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành

thuế.

46 Lê Xuân Trường (2011), Giáo trình QLT, Học viện Tài chính, NXB tài

chính Hà Nội.

47 Trần Huy Trường (2015), Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế

đối với doanh nghiệp lớn Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện

Tài chính, Hà Nội

48 Trung tâm chính sách và QLT (2004), Sổ tay hướng dẫn của OECD về

quản lý và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế.

49 Trung tâm chính sách và QLT (2009), Quản lý tuân thủ của chức năng

quản lý doanh nghiệp – Kinh nghiệm và thông lệ của 8 nước thành viên

OECD

50 Trung tâm chính sách và QLT (2010), Hiểu và tác động tới hành vi tuân

thủ của NNT.

51 Đặng Thị Bạch Vân (2014), Xoay quanh vấn đề NNT và tuân thủ thuế,

Tạp chí Phát triển và Hội nhập – Số 16(26) – Tháng 05-06/2014.

Tài liệu Tiếng Anh

52 Andreoni J.,Erard B. (1998), Tax compliance, Journal of Economic

Literature.

53 B. Ravikumar & Yuzhe Zhang (2009), Optimal Auditing and Taxation

in a Dynamic Model of tax compliance.

54 Braithwaite, V. (2001), A new approach to Tax compliance, the

Australian National University, Canberra

EC (2006), Risk management guide for tax administration 55

EC (2010), Compliance risk management guide for tax adimistration 56

IFCb(2016), Risk management teams, risk assessment- - 57

countries’experience.

58 John Brondolo, Carlos Silvani, Eric Le Borgne and Frank Bosch,

(2008), Tax Administration Reform and Fiscal Adjustment: The Case

of Indonesia.

59 John Brondolo and Zhiyong Zhang, (2016), Tax Administration

Reform in China: Achievements, Challenges, and Reform Priorities

60 Lars P.Feld and Bruno S.Frey (2007), Tax compliance as the Result of

a Psychological Tax Contract, The Role of Incentive and Responsive

Regulation, Law & Policy.

61 Margaret Cotton (2006), Sellecting cases for auditing.

62 Matthew Rablen – HM Revenue & Customs (2007), Enforcing Tax

Compliance: Audit Probability versus Audit Effectivensee.

63 Muwer Sultan Khwaja, Rajul Awasthi and Jan Loeprick (2011), Risk-

based audit: Approaches and countries experiences.

64 OECD (2004), Risks Management Complicance – Managing and

Improving Tax Compliance. Prepared by Forum on Tax

Administration Compliance Sub – Group

65 USAID (2018), Legal foundation and conditions for developing and

implementing tax compliance program.

66 World Bank (2007), VietNam tax administration Modernization

Project.

67 OECD (2009), Tax Administration in OECD and Selected Non

68 World Bank (2016), Organizational structure of the Risk Management

69 World Bank (2016), Large taxpayer compliance management.

1

PHỤ LỤC Phụ lục: 01 PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN CÁN BỘ THUẾ

VỀ VIỆC QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

□ Dưới 05 năm □ Từ 05 năm đến 10 năm □ Từ 10 năm trở lên

□ Công chức □ Lãnh đạo

□ Thanh tra - kiểm tra □ Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế □ Kê khai - kế toán thuế □ Tuyên truyền - hỗ trợ NNT □ Bộ phận khác

Tác giả nghiên cứu luận án kính mong anh (chị) cùng đánh giá việc thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế tại Việt Nam thời gian qua bằng cách trả lời các câu hỏi trong phiếu khảo sát dưới đây. Sự hợp tác của các anh (chị) sẽ giúp tác giả đưa ra các giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện công tác quản lý rủi ro trong quản lý thuế nói riêng và nâng cao hiệu quả quản lý thuế nói chung. Tác giả cam kết bảo mật thông tin và chỉ sử dụng Phiếu khảo sát này cho mục đích nghiên cứu. PHẦN I. THÔNG TIN NGƯỜI THAM GIA KHẢO SÁT Anh (chị) vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân dưới đây: 1. Số năm anh (chị) công tác: 2. Vị trí công việc anh (chị) đang công tác: 3. Bộ phận chức năng anh (chị) đang công tác:

2

□ Cần thiết □ Tương đối cần thiết □ Không cần thiết

□ Đầy đủ □ Tương đối đầy đủ □ Chưa đầy đủ

□ Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế □ Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế khác

□ Giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm

□ Tương đối phù hợp

PHẦN II. THỰC HIỆN QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ Anh (chị) vui lòng cho biết ý kiến của mình về các câu hỏi khảo sát dưới dây, mỗi câu hỏi xin chọn một đáp án. 1. Sự cần thiết quản lý rủi ro trong quản lý thuế đối với điều kiện nước ta hiện nay. 2. Các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định hiện hành đã đảm bảo hành lang pháp lý cho việc thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế? 3. Tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần điều chỉnh như thế nào cho phù hợp? giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm 4. Đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế đã được ban hành và thực hiện trong thời gian vừa qua? 4.1. Bộ chỉ số tiêu chí lựa chọn Người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại trụ sở Người nộp thuế □ Phù hợp □ Tương đối phù hợp □ Chưa phù hợp với thực tế 4.2. Bộ tiêu chí, chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế GTGT. □ Phù hợp □ Chưa phù hợp với thực tế

3

□ Phù hợp

□ Tương đối phù hợp

□ Chưa phù hợp với thực tế

□ Tốt □ Tương đối tốt □ Chưa tốt □ Kém

□ Hiệu quả □ Tương đối hiệu quả □ Chưa hiệu quả

□ Nhanh □ Bình thường □ Chưa kịp thời

4.3. Bộ tiêu chí, chỉ số Phân tích thông tin đánh giá Người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn. 5. Việc thu thập và khai thác thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 6. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 7. Thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro. 8. Hiệu quả thực hiện quản lý rủi ro trong các nghiệp vụ quản lý thuế thời gian qua. 8.1. Việc thực hiện quản lý rủi ro trong triển khai các nghiệp vụ quản lý thuế.

□ Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế □ Chưa có tác dụng đáng kể □ Không có tác dụng

8.2. Chất lượng thực hiện quản lý rủi ro trong triển khai các nghiệp vụ quản lý thuế thời gian qua. □ Tốt □ Tương đối tốt □ Chưa tốt □ Kém

4

□ Hoàn thiện hệ thống pháp lý □ Hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh giá rủi ro □ Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…) □ Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế □ Thực hiện quản lý rủi ro một cách toàn diện trong tất cả các chức năng

□ Đề xuất khác

9. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế thời gian tới. quản lý thuế

Chân thành cảm ơn sự hợp tác của các anh (chị)!

1

Phụ lục: 02 TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁN BỘ THUẾ VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG QUẢN LÝ THUẾ

I. Cơ cấu mẫu điều tra khảo sát cán bộ thuế

1. Số năm công tác của cán bộ tham gia khảo sát

Bảng 1: Số năm công tác của cán bộ tham gia khảo sát

STT Năm công tác của CBT Tỷ lệ Số lượng

1 Dưới 5 năm 2 Từ 5 đến 10 năm 3 Trên 10 năm

Tổng cộng 82 80 238 400 20.5% 20.0% 59.5% 100%

2. Vị trí công tác của cán bộ tham gia khảo sát

Bảng 2: Vị trí công tác của cán bộ tham gia khảo sát

STT Vị trí công tác Tỷ lệ Số lượng

1 2 102 298 25.5% 74.5%

Lãnh đạo quản lý Chuyên viên Tổng cộng 400 100%

2

3. Bộ phận chức năng của cán bộ tham gia khảo sát

Bảng 3: Bộ phận chức năng của cán bộ tham gia khảo sát

STT Vị trí công tác Tỷ lệ Số lượng

Tuyên truyền hỗ trợ NNT Kê khai và Kế toán thuế Thanh tra kiểm tra Quản lý nợ thuế Bộ phận khác 1 2 3 4 5

30 51 170 29 120 400 7,5% 12,75% 42,5% 7,25% 30% 100% Tổng cộng

3

Qua bảng 1,2, 3 và biểu đồ 1, 2, 3 cho thấy, trong tổng số 400 phiếu hợp lệ,

tỷ lệ người được hỏi công tác trên 10 năm trong ngành Thuế là 238 (chiếm

59,5%), từ 5 đến 10 năm là 80 người (chiếm 20%) , chỉ có 82 người dưới 5 năm

kinh nghiệm. Trong tổng số người trả lời có 24,5% giữ chức vụ lãnh đạo từ cấp

phòng trờ lên, còn lại là chuyên viên thuế. Trong đó, số người làm tại 4 chức

năng quản lý chính là 208 người (chiếm 70%), bộ phận khác là 120 người

(chiếm 30%).

II. Tổng hợp kết quả khảo sát về thực hiện QLRR trong quản lý thuế

1. Tổng hợp kết quả khảo sát về sự cần thiết thực hiện quản lý rủi ro

trong quản lý thuế

Bảng 4: Sự cần thiết thực hiện quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Tỷ lệ

Stt 1 2 3

Sự cần thiết thực hiện QLRR trong QLT Số lượng 370 Cần thiết 30 Tương đối cần thiết 0 Không cần thiết 400 Tổng cộng 92.5% 7.5% 0.0% 100%

2. Tổng hợp kết quả khảo sát các văn bản quy phạm pháp luật và các

quy định hiện hành đã đảm bảo hành lang pháp lý để thực hiện quản lý

rủi ro trong quản lý thuế

Bảng 5: Văn bản quy phạm pháp luật đã đảm bảo hành lang pháp lý

Hành lang pháp lý

Đầy đủ Tương đối đầy đủ Chưa đầy đủ Stt 1 2 3

Tổng cộng Số lượng 73 283 44 400 Tỷ lệ 18.25% 70.75% 11.00% 100%

4

3. Kết quả khảo sát tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần

điều chỉnh cho phù hợp.

Bảng 6 : Tổ chức bộ máy quản lý rủi ro tại Cục Thuế cần điều chỉnh cho

phù hợp.

Số lượng Tỷ lệ

Stt Tổ chức bộ máy tại Cục Thuế 1 Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế 117 29.25%

2 186 46.50%

Thành lập phòng Quản lý rủi ro tại Cục Thuế lớn, các Cục Thuế khác giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm

Giao 01 phòng Thanh tra - kiểm tra kiêm nhiệm 3

24.25% 100% Tổng cộng 97 400

4. Kết quả khảo sát về việc đánh giá hệ thống tiêu chí, chỉ số phân

tích, mức độ rủi ro Người nộp thuế đã được ban hành và áp dụng.

5

Bảng 7: Đánh giá về hệ thống tiêu chí, chỉ số phân tích, mức độ rủi ro

Người nộp thuế

STT Bộ tiêu chí Phù hợp Chưa phù hợp Tương đối phù hợp

1 120 256 24 Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra tại trụ sở NNT

2 138 248 14 Bộ tiêu chí xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra sau hoàn thuế GTGT

3 137 240 23

Bộ tiêu chí đánh giá NNT rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn

6

5. Kết quả khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng

công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.

Bảng 8: Khảo sát khảo sát về thu thập và khai thác thông tin, ứng dụng

công nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro

Stt Khai thác thông tin Tốt, hiệu quả Chưa tốt, Chưa hiệu quả Tương đối tốt, tương đối hiệu quả

1 93 246 61 Thu thập và khai thác thông tin

2 Ứng dụng CNTT 129 237 34

7

6. Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công

nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.

Bảng 9: Kết quả khảo sát về thời gian xây dựng, nâng cấp ứng dụng công

nghệ thông tin phục vụ quản lý rủi ro.

Số lượng Tỷ lệ Stt Thời gian xây dựng, nâng cấp CNTT

Nhanh Bình thường Chưa kịp thời 106 238 56 1 2 3 26.5% 59.5% 14.0%

Tổng cộng 400 100%

8

7. Kết quả khảo sát về hiệu quả thực hiện quản lý rủi ro trong các

chức năng quản lý thuế thời gian qua

7.1 Kết quả khảo sát về tác dụng thực hiện quản lý rủi ro trong các

chức năng quản lý thuế thời gian qua

Bảng 10: Kết quả khảo sát về tác dụng thực hiện quản lý rủi ro

trong các chức năng quản lý thuế

Stt Số lượng Tỷ lệ Tác dụng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT

1 312 78%

2 3 Có tác dụng tích cực cho công tác quản lý thuế Chưa có tác dụng đáng kể Không có tác dụng

Tổng cộng 88 0 400 22% 0% 100%

7.2 Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện quản lý rủi ro trong các

chức năng quản lý thuế thời gian qua

Bảng 11: Kết quả khảo sát về chất lượng thực hiện QLRR

trong các chức năng quản lý thuế

Số lượng Tỷ lệ Stt Chất lượng thực hiện QLRR trong các chức năng QLT

Tốt Tương đối tốt Chưa tốt Kém 1 2 3 4

Tổng cộng 105 258 37 0 400 26.25% 64.50% 9.25% 0 100%

9

8. Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong

quản lý thuế thời gian tới.

Bảng 12: Kết quả khảo sát về các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro

trong quản lý thuế

Stt Các giải pháp, kiến nghị Số lượng Tỷ lệ

1 94 23.50%

2 100 25.00% Hoàn thiện hệ thống pháp lý Hoàn thiện tiêu chí quy trình đánh giá rủi ro

3 42 10.50% Ứng dụng công nghệ mới (AI, BI…)

4 62 15.50%

Nâng cao hiệu quả của công tác thu thập thông tin, dữ liệu Người nộp thuế

5 100 25.00%

Áp dụng quản lý rủi ro một cách toàn diện trong tất cả các chức năng quản lý thuế

6 Đề xuất khác 2 0.50%

Tổng cộng 400 100%

10