BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
PHẠM THỊ LỤA
RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
PHẠM THỊ LỤA
RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thương mại
Mã số: 62.34.10.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
HD1: TS. Nguyễn Thị Nhiễu
HD2: TS. Phạm Thu Giang
Hà Nội - 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án
Phạm Thị Lụa
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................i
MỤC LỤC..............................................................................................................ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...............................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ........................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ......................................................v
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................1 Lý do lựa chọn đề tài.......................................................................................... 1 1. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4 3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 5 4. Những đóng góp mới của Luận án ................................................................... 6 5. Kết cấu của Luận án .......................................................................................... 8 6.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.....................................................9 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI 1. NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................... 9 1.1. Các nghiên cứu của nước ngoài ........................................................................ 9 1.2. Các nghiên cứu ở trong nước .......................................................................... 10 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU CÓ 2. LIÊN QUAN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN..................... 14
PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................ 17
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY......................... 17 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. ............................................ 17 1.1.1. Khái niệm rào cản kỹ thuật ............................................................................. 17 1.1.2. Phân loại rào cản kỹ thuật............................................................................... 23 1.1.3. Tác động của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ........................... 31 1.1.3.1. Đối với nước xuất khẩu .................................................................................................. 31
1.1.3.2. Đối với nước nhập khẩu.................................................................................................. 33 1.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU ...... 35 1.2.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu................. 35 1.2.1.1. Khái niệm....................................................................................................................... 35
1.2.1.2. Các loại rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may ............................................................... 35
1.2.2.1. Khái niệm....................................................................................................................... 39
1.2.2. Vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu............................... 39
1.2.2.2. Phương thức vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu ................................ 40 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của một quốc gia.............................................................. 43
1.2.3.1. Các nhân tố quốc tế ........................................................................................................ 43
1.2.3.2. Các nhân tố trong nước................................................................................................... 46 1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM........................................................................................................ 48 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới................................................... 48
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc......................................................................................... 48
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ ................................................................................................. 51
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan ............................................................................................. 53 1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam............................................................................ 54
1.3.2.1. Bài học thành công có thể vận dụng............................................................................... 54
1.3.2.2. Bài học không nên vận dụng........................................................................................... 56
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG ĐỂ VƯỢT RÀO CẢN................................................................................................ 58
2. 1. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. ....................................................................................................... 58
2.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ....................................... 58
2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam thời gian qua...................................................................................................................... 61
2.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CHÍNH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. ............................................................................... 63
2.2.1.1. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Hoa Kỳ ................................. 63
2.2.1.2. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường EU ........................................ 70
2.2.1. Rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng DMXK của Việt Nam..................................................................................................... 63
2.2.1.3. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Nhật Bản............................... 75 2.2.2. Đánh giá tác động của rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam......................................... 80
2.2.2.1. Tác động tích cực ........................................................................................................... 80
2.2.2.2. Tác động tiêu cực ........................................................................................................... 83
2.3. THỰC TRẠNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. ....................... 87 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. ................................................. 87 2.3.1.1. Các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ................ 89
2.3.1.2. Các biện pháp, chính sách của nhà nước hỗ trợ DN vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu ............................................................................................................... 92 2.3.2. Đánh giá về các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. .................................................................. 96 2.3.2.1. Kết quả đạt được ............................................................................................................ 96
2.3.2.2. Hạn chế .........................................................................................................................100
2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế....................................................................................109
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020....................................................................................... 115 3.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.................................................... 115 3.1.1. Xu hướng phát triển của rào cản kỹ thuật trên thế giới............................. 115 3.1.2. Xu hướng áp dụng RCKT của các thị trường xuất khẩu chính đối với hàng dệt may Việt Nam........................................................................................... 118 3.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020. ................................................................................................................. 121 3.2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đến năm 2020 ........... 121 3.2.2. Một số quan điểm vượt RCKT của hàng DMXK của Việt Nam............... 124 3.2.3. Những định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam thời gian tới ............................................................................................................. 126 3.2.3.1. Định hướng từ phía Nhà nước........................................................................................126
3.2.3.2. Định hướng từ phía DN .................................................................................................127 3.3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM................................. 127 3.3.1. Nhóm giải pháp vượt rào chung ................................................................... 128 3.3.1.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước..........................................................................128
3.3.1.2. Đối với Hiệp hội dệt may...............................................................................................137
3.3.1.3. Đối với các doanh nghiệp dệt may. ................................................................................139 3.3.2. Giải pháp vượt từng rào cản kỹ thuật.......................................................... 141 3.3.2.1. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. ..........................................141
3.3.2.2. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng. .................................141
3.3.2.3. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về môi trường..........................................................142
3.3.2.4. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội. .............................................143
3.3.2.5. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về ghi nhãn hàng dệt may. .......................................144
3.3.2.6. Đối với các quy định về xuất xứ hàng dệt may. ..............................................................144
KẾT LUẬN........................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ........................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 152
PHỤ LỤC........................................................................................................... 161 Phụ lục 1. Phiếu khảo sát..................................................................................... 162 Phụ lục 2. Những nguyên tắc pháp lý của WTO và tóm tắt Hiệp định TBT ......... 166 Phụ lục 3. Tiêu chuẩn SA 8000............................................................................ 170 Phụ lục 4. Hướng dẫn ghi nhãn các sản phẩm dệt may của Mỹ, EU, Nhật ........... 174 Phụ lục 5. Danh mục biện pháp kỹ thuật tại các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.. 177
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Từ viết tắt Tiếng Việt
Từ viết tắt Tên đầy đủ
Dệt may DM
Dệt may xuất khẩu DMXK
Doanh nghiệp DN
Doanh nghiệp dệt may DNDM
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp tư nhân DNTN
Khoa học công nghệ KHCN
Nhãn hiệu hàng hóa NHHH
Nhãn hiệu thương mại NHTM
Nguyên phụ liệu NPL
Quản lý nhà nước QLNN
Rào cản kỹ thuật RCKT
Rào cản thương mại RCTM
TCVN Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam
TMQT Thương mại quốc tế
TNHH Tránh nhiệm hữu hạn
VCCI Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
VITAS Hiệp hội DM Việt Nam
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XK Xuất khẩu
XTTM Xúc tiến thương mại
2. Từ viết tắt Tiếng Anh
Tên đầy đủ Tiếng Anh Tên đầy đủ Tiếng Việt Từ viết tắt
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
COC Code of conduct Bộ quy tắc ứng xử
EC European Commission Ủy ban châu Âu
EFTA European Free Trade Association Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu
EU European Union Liên minh châu Âu
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế International Labour Organization
ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế International Organization for Standardization
JIS Japanese Industrial Standards Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản
NAFTA North America Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
OECD Organisation for Economic Co- operation and Development Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
SA8000 Social Accountability 8000 Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
TBT Agreement on Technical Barriers to Trade Hiệp định RCKT đối với thương mại
WRAP Worldwide Reponsible Accredited Production Tiêu chuẩn trách nhiệm sản xuất hàng DM toàn cầu
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại Thế giới
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013
phân theo khu vực thị trường nhập khẩu ................................................................60
Bảng 2.2: Ý nghĩa phạm vi áp dụng của dấu chứng nhận quản lý chất lượng ở Nhật
Bản........................................................................................................................76
Bảng 2.3: Loại hình doanh nghiệp đã tiến hành khảo sát .......................................88
Bảng 2.4: Những lý do khiến DN quan tâm đến các quy định trong hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may...............................................................................................977
Bảng 2.5: Mức độ hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức giúp DN vượt RCKT...............99
Bảng 2.6: Mức độ nhận biết của DN về các rào cản kỹ thuật trong hoạt động xuất
khẩu trên các thị trường chính .............................................................................102
Bảng 2.7: Mức độ khó khăn của DN trong việc đáp ứng các RCKT ...................103
Bảng 2.8: Mức độ khó khăn mà DN phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật trên một
số thị trường chủ yếu ...........................................................................................104
Bảng 2.9: Mức độ đáp ứng của DN đối với các rào cản kỹ thuật..........................105
Bảng 3.1: Các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 theo mục tiêu .....................117
Bảng 3.2: Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030 ........................122
v
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Các loại rào cản kỹ thuật........................................................................31
Hình 1.2. Khung phân tích vượt RCKT đối với hàng dệt may XK .........................43
Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng DM VN trong giai đoạn 2007-2013 ......60
Hình 2.2. Áp dụng quy tắc xuất xứ không ưu đãi của Hải quan Hoa Kỳ ................69
Hình 2.3. Các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao
động trong DN.......................................................................................................82
Hình 3.1. Những vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT trong giai đoạn
1995-2012 ...........................................................................................................116
Hình 3.2. Mô hình chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu hàng DM.................................136
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm đổi mới, cùng với các ngành kinh tế khác, ngành công
nghiệp DM đã có đóng góp đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho một bộ phận lớn người lao động. Hiện nay, DM là một trong hai
nhóm hàng XK chủ lực có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam. Năm 2012, kim ngạch
XK hàng DM đạt 15,1 tỷ USD, tăng 7,5 % so với năm 2011, chiếm trên 13% tổng
kim ngạch XK của cả nước. Năm 2013, kim ngạch XK DM đạt 20,020 tỷ đô la Mỹ.
Phát triển ngành công nghiệp DM đã được xác định là định hướng chiến lược quan
trong trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Thị trường XK hàng DM của Việt Nam hiện nay rất đa dạng trong đó phải
kể đến một số thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... Đây là những thị
trường phát triển, có đòi hỏi rất cao và nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm DM, về
an toàn sản phẩm tiêu dùng, về đảm bảo sức khỏe con người, động thực vật và bảo
vệ môi trường sinh thái. Trong những năm gần đây, trước những khó khăn của kinh
tế thế giới hậu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm
2008-2009, chính phủ nhiều nước, kể cả các thị trường lớn Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản
đã tăng cường áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại nhằm vực dậy nền kinh tế
của mình.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu sắc như hiện nay, xu hướng tự do hóa thương
mại ngày càng phát triển và đi liền với xu hướng đó là bảo hộ thương mại cũng gia
tăng như một thực tế khách quan. Khi tham gia hệ thống TMQT, song phương, khu
vực hay đa phương, các nước đều cam kết cắt giảm thuế quan nên việc bảo hộ thương
mại chủ yếu được thực hiện thông qua các biện pháp phi thuế quan, trong đó hệ thống
rào cản kỹ thuật được xem là biện pháp hữu hiệu nhất và ngày càng trở lên thông
dụng để ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ người
tiêu dùng và các lợi ích quốc gia. Trong khi việc đặt ra các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc,
các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm phù hợp nhằm ngăn chặn những hàng hóa kém
chất lượng, hàng hóa độc hại ảnh hưởng tới an toàn, sức khỏe con người, động thực
2
vật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, gây ô nhiễm môi trường tràn vào trong nước là
đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống thì không tránh khỏi việc các nước lợi dụng các biện
pháp, quy định kỹ thuật nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, ngăn chặn hàng nhập khẩu
cạnh tranh hơn từ nước ngoài, gây phương hại đến TMQT.
Các loại RCKT trong thương mại nói chung và đối với hàng DM nói riêng
được các nước áp dụng ngày càng nhiều hơn, cao hơn, tinh vi và phức tạp hơn. Trong
các FTA, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán, các quy định và tiêu chuẩn đối với
hàng DM cũng cao hơn so với WTO. Chẳng hạn, trong đàm phán Hiệp định đối tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), đòi hỏi của Hoa Kỳ đối với xuất xứ hàng DM
rất ngặt nghèo (từ sợi trở đi - yarn forward),... Ngoài ra, các nước đàm phán TPP,
nhất là Hoa Kỳ cũng đặt ra những yêu cầu rất cao đối với vấn đề lao động và công
đoàn. Một khi TPP được ký kết, những quy định về xuất xứ hay về lao động và công
đoàn có thể trở thành những RCKT mới đối với XK hàng DM của Việt Nam.
Tính chất đa dạng, phức tạp của các RCKT và xu hướng gia tăng sử dụng
chúng của các thị trường nhập khẩu lớn hàng DM đang đặt ra những thách thức to lớn
đối với các nước XK hàng DM nói chung và Việt Nam nói riêng. Để hỗ trợ, tạo thuận
lợi cho XK hàng DM nước mình, chính phủ nhiều nước XK hàng DM lớn như Trung
Quốc, Ấn Độ,... đã nghiên cứu một cách hệ thống các RCKT do các nước nhập khẩu
dựng lên và có đối sách thích hợp giúp DN các nước này vượt rào cản thành công để
đẩy mạnh XK hàng DM.
Trên thưc tế, thời gian qua, được sự hỗ trợ của nhà nước, các DNDM Việt
Nam đã ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu kỹ thuật, các tiêu chuẩn của các
nước nhập khẩu đối với hàng DM. Có thể nói hàng DMXK của Việt Nam thời gian
qua đã đạt được thành tựu quan trọng trong vượt RCKT của các thị trường nhập
khẩu, sức cạnh tranh của hàng DMXK được nâng cao đã góp phần quan trọng đưa
kim ngạch XK hàng DM của Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong số các mặt hàng
XK chủ lực, đồng thời duy trì và mở rộng thị phần hàng DM Việt Nam trên các thị
trường chủ yếu Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn xảy ra một
số trường hợp hàng DMXK của Việt Nam không đảm bảo các yêu cầu về chất
lượng, an toàn, vệ sinh môi trường, một số trường hợp bị phía đối tác cảnh cáo, trả
3
lại hàng làm phương hại tới XK và uy tín của hàng DM Việt Nam. Đó là chưa kể
tới việc hàng DMXK của Việt Nam vẫn chủ yếu là hàng gia công, thực hiện chủ
yếu ở công đoạn may cuối cùng, còn phụ thuộc lớn vào mẫu mã, NPL nhập khẩu,
giá trị gia tăng và giá trị trong nước thấp, điều này sẽ là khó khăn thách thức lớn đối
với việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao của các thị
trường nhập khẩu, như quy định về xuất xứ ngặt nghèo trong TPP chẳng hạn, trong
khi lại có thể tạo ra những kẽ hở cho gian lận thương mại.
Trước sự gia tăng sử dụng RCKT của các thị trường nhập khẩu và năng lực
vượt RCKT còn hạn chế của Việt Nam cả ở tầm vĩ mô và DN, có thể ảnh hưởng lớn
đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển XK hàng DM thời gian tới, vấn đề nghiên
cứu một cách sâu sắc về hệ thống RCKT của các thị trường nhập khẩu đối với hàng
DMXK của Việt Nam đang đặt ra rất cấp thiết. Đó cũng chính là lý do tác giả lựa
chọn vấn đề “Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu và giải pháp của
Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các RCKT của
các nước nhập khẩu, năng lực vượt rào cản của hàng DMXK của Việt Nam nhằm
cung cấp luận cứ khoa học cho việc đàm phán, mở rộng tiếp cận thị trường cho
hàng DMXK và đề xuất các biện pháp vượt RCKT phù hợp nhằm đẩy mạnh XK
hàng DM, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ cơ sở khoa học (cả lý luận và thực tiễn) cho
việc đề xuất các giải pháp nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy
mạnh XK hàng DM của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về RCKT và vượt RCKT trong
XK hàng DM.
Hai là, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc
vượt qua RCKT thương mại đối với hàng DM và rút ra các bài học cho Việt Nam..
4
Ba là, phân tích và đánh giá thực trạng XK hàng DM của Việt Nam trong
những năm gần đây.
Bốn là, phân tích hệ thống RCKT của một số thị trường chủ yếu đối với mặt
hàng DMXK và tác động của RCKT đối với hàng DMXK củaVN; phân tích thực
trạng vượt RCKT của Việt Nam thời gian qua; đánh giá những thành tựu đạt được,
những bất cập và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế; xác định các yêu cầu cần
phải điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới về cơ chế, chính sách của Nhà nước, nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho hàng DMXK của Việt Nam vượt qua các RCKT.
Năm là, nghiên cứu, phân tích bối cảnh, triển vọng XK hàng DM Việt Nam đến
năm 2020, từ đó đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp cả ở tầm vĩ mô và vi
mô nhằm tăng cường năng lực vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu RCKT đối với hàng dệt may
xuất khẩu.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các RCKT đối với hàng DM
của các nước nhập khẩu, các chính sách và biện pháp mà Việt Nam đã áp dụng để
vượt qua các rào cản, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực vượt RCKT,
đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam
- Về không gian:
+ Nghiên cứu RCKT đối với hàng DM của 3 thị trường nhập khẩu chính
của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Các thị trường này chiếm khoảng 70% kim
ngạch XK hàng DM của Việt Nam.
+ Nghiên cứu năng lực vượt RCKT của hàng DMXK Việt Nam trên
phạm vi cả nước, cả tầm vĩ mô và vi mô (Nhà nước và DN).
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng vượt RCKT giai đoạn từ năm 2007 -
2013 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn đến năm 2020. Đây là giai đoạn mà Việt
Nam chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam thực sự hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới, hàng DMXK phải đối mặt nhiều hơn với các rào cản phi
thuế quan nói chung và RCKT nói riêng.
5
Những phạm vi nói trên không làm ảnh hưởng đến kết quả tổng thể và mục
đích nghiên cứu của luận án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có
được dữ liệu phản ánh một cách tổng hợp, khách quan, đa chiều về RCKT đối với
hàng DM Việt Nam và xác lập cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp vượt
RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam. Đó là các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng làm rõ
bản chất đối tượng nghiên cứu, phân tích đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa
RCKT với tình hình XK hàng DM của Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu dùng để nghiên cứu cơ sở lý luận, văn
bản có liên quan, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, kinh nghiệm của
các nước, thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp.
Dữ liệu thứ cấp được thu thập và phân tích là những dữ liệu tổng quan về
tình hình XK của Việt Nam, thực trạng về RCKT tại các nước nhập khẩu chính,
thực trạng về việc áp dụng các biện pháp vượt rào của các DNDM Việt Nam.
Nguồn dữ liệu thứ cấp được công bố trong các báo cáo thường niên của văn
phòng TBT Việt Nam, Bộ Công thương, các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo
khoa học trong nước và quốc tế. Thông tin số liệu về ngành DM có thể tìm thấy
trong báo cáo phân tích ngành DM từng năm, chiến lược và chính sách phát triển
ngành DM Việt Nam, báo cáo tình hình XK hàng năm của tập đoàn DM Việt Nam.
Quy trình thu thập và phân tích dữ liệu như sau:
+ Liên hệ với các tổ chức cung cấp thông tin và tiến hành sao chép tài
liệu: Trong đó Bộ Công thương, văn phòng TBT Việt Nam, tập đoàn Dệt may Việt
Nam, Viện Dệt may Việt Nam là những đơn vị được tác giả nghiên cứu tiếp cận và
thu thập tài liệu.
+ Thu thập từ các nguồn thông tin đại chúng: Tìm kiếm dữ liệu mới nhất
trên các nguồn dễ tiếp cận như sách báo, tạp chí cả dưới dạng in ấn và trực tuyến.
Dạnh mục các tài liệu này được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo.
+ Kiểm tra dữ liệu: Dữ liệu thu thập từ các nguồn khác nhau được kiểm
tra theo các tiêu thức về tính chính xác, tính thích hợp và tính thời sự. Các dữ liệu
6
được đối chiếu và so sánh để có được sự nhất quán đảm bảo nội dung phân tích có
được độ tin cậy cao.
+ Tập hợp và phân tích dữ liệu theo mục tiêu đã xác định: Sau khi đã tập
hợp và sàng lọc, dữ liệu thứ cấp chủ yếu được sử dụng để hình thành cơ sở lý luận
cũng như tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về RCKT đối với hàng
DMXK (Chương 1 của luận án). Dữ liệu thứ cấp cũng là nguồn tài liệu quan trọng
để phân tích các nội dung về thực trạng của ngành DM Việt Nam, thực trạng về
RCKT và các biện pháp đối phó với rào cản của các DNDM Việt Nam thời gian
qua (Chương 2 của luận án). Bên cạnh đó, dữ liệu thứ cấp cũng cung cấp một số
thông tin cơ bản cho phần dự báo xu hướng, quan điểm và định hướng vượt RCKT
đối với hàng DMXK của Việt Nam (Chương 3 của luận án).
- Phương pháp điều tra khảo sát được sử dụng để nhận diện đúng về mức
độ quan tâm và nhận thức về RCKT của các DNDMVN, thực trạng đáp ứng; mức
độ hỗ trợ của chính phủ đối với DN (các biện pháp, chính sách).
+ Đối tượng điều tra khảo sát: các DNDM Việt Nam. Luận án sẽ tiến
hành khảo sát điển hình, lựa chọn khảo sát một số DN trên địa bàn các tỉnh là những
vùng có ngành DM phát triển.
+ Nội dung điều tra khảo sát: về nhận thức, thực trạng đáp ứng RCKT
của DN, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, kiến nghị của DN với Nhà nước…
+ Tổng hợp, phân tích và đánh giá: phân tích dữ liệu, đưa ra kết quả và
các nhận định theo từng nội dung khảo sát.
- Phương pháp so sánh, tổng hợp và dự báo dùng để làm rõ xu thế phát
triển của RCKT, năng lực đáp ứng của DN Việt Nam để vượt qua RCKT, xây dựng
báo cáo tổng hợp đề tài luận án…
- Phương pháp chuyên gia để tận dụng những kinh nghiệm, lựa chọn những
ý kiến tối ưu của họ nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Thứ nhất, Luận án có cách tiếp cận mới, các công trình nghiên cứu khoa học
trước đây thường nhìn nhận RCKT theo cách tiêu cực, còn luận án nghiên cứu theo
một hướng tích cực, coi RCKT là những quy định, tiêu chuẩn hợp lý, khoa học buộc
7
các quốc gia, các nhà nhập khẩu, xuất khẩu phải tuôn thủ. Theo đó, RCKT được
tiếp cận các quy định, tiêu chuẩn từ hai phía trong mối quan hệ giữa các quốc gia
nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa (nước đặt ra RCKT và nước chịu tác động của
RCKT), trên bình diện vĩ mô và vi mô (Nhà nước và doanh nghiệp).
Thứ hai, Luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về
rào cản kỹ thuật và vượt RCKT trong thương mại đối với hàng dệt may xuất khẩu,
đã luận giải khái niệm về RCKT và thể hiện rõ quan điểm của mình trong sử dụng
cách phân loại RCKT chính đối với hàng dệt may xuất khẩu; đưa ra phương thức
vượt rào cản kỹ thuật theo hướng tích cực, tôn trọng lợi ích của đối tác; đề xuất mô
hình vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu; phân tích xác thực các nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng vượt rào của các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may.
Thứ ba, Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt RCKT đối với hàng dệt
may xuất khẩu của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan từ 2 phía Nhà
nước và doanh nghiệp để rút ra những bài học cho Nhà nước và các DNDM của
Việt Nam.
Thứ tư, Luận án đã đánh giá thực trạng sử dụng RCKT của các quốc gia
nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK hàng DM của Việt Nam. Phân tích,
đánh giá về năng lực đáp ứng và những biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với
hàng dệt may xuất khẩu của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam thông qua
các tư liệu, số liệu thứ cấp, điều tra, khảo sát… thời gian qua, chỉ ra những mặt
được, những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong việc áp dụng các biện
pháp vượt rào cản. Đây là cơ sở thực tiễn để các cơ quan nghiên cứu và quản lý nhà
nước, các doanh nghiệp dệt may làm căn cứ để đưa ra các quyết định hợp lý nhằm
vượt RCKT trong thời gian tới.
Thứ năm, dựa trên những đánh giá về thực trạng vượt RCKT đối với hàng
dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua, xu hướng phát triển và khả năng áp
dụng rào cản kỹ thuật ở các thị trường xuất khẩu chính đối với hàng dệt may Việt
Nam, luận án đã đề xuất 4 quan điểm; 2 nhóm định hướng lớn vượt RCKT từ phía
Nhà nước và doanh nghiệp; đồng thời đề xuất các nhóm giải pháp chung vượt qua
8
các loại RCKT và các giải pháp vượt từng RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam đến năm 2020.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan các công trình nghiên cứu, Kết luận, Danh
mục tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, nội dung chính của Luận án được trình bày
theo 3 Chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về rào cản kỹ thuật và vượt rào cản kỹ thuật trong
xuất khẩu hàng dệt may.
Chương 2. Thực trạng rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam và các biện pháp áp dụng để vượt rào cản.
Chương 3. Quan điểm, phương hướng và giải pháp vượt rào cản kỹ thuật để
đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2020.
9
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong bối cảnh kinh tế thế giới toàn cầu hóa sâu sắc và KHCN phát triển
vượt bậc như hiện nay, các RCTM nói chung và RCKT thương mại nói riêng cũng
ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. RCKT thương mại là một trong những
vấn đề lớn của TMQT ngày nay, được quan tâm nghiên cứu cả ở trong và ngoài
nước. Tổ chức Thương mại thế giới có Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật thương mại
- TBT, Hiệp định về các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật - SPS nhằm
hạn chế việc các nước lợi dụng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật và các quy định
SPS để bảo hộ thương mại, cản trở tự do thương mại; các hiệp định thương mại tự
do song phương (FTAs) và khu vực (RTAs) đều có những quy định về TBT và
SPS, v.v nhằm tạo thuận lợi cho thương mại. Các nước thành viên WTO và các hiệp
định tự do thương mại song phương và khu vực khác đều có các Văn phòng TBT và
SPS để theo dõi, giám sát, điều phối và hợp tác thực hiện TBT và SPS,... Rất nhiều
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về RCKT thương mại đã được thực hiện.
Sau đây là một số công trình tiêu biểu có liên quan nhiều tới vấn đề nghiên cứu của
đề tài luận án:
1.1. Các nghiên cứu của nước ngoài
Ở nước ngoài, từ trước tới nay các công trình nghiên cứu có thể được
khái quát qua các nội dung sau:
- Khái niệm RCKT và các tác động của nó được đề cập qua những nghiên
cứu về rào cản thương mại, rào cản phi thuế quan như của Baldwin (1970) trong
cuốn “Sự biến dạng phi thuế quan trong Thương mại quốc tế”, hay của Philippa
Dee (2005) trong “Các phương pháp xác định ảnh hưởng của các biện pháp phi
thuế quan...”. Ngoài ra, các khái niệm và nội dung tổng quan về RCKT cũng
được trình bày một cách khái quát trong các tài tiệu của các Tổ chức và Diễn đàn
Kinh tế Quốc tế như WTO, OECD, PECC. Sâu hơn về RCKT có nghiên cứu của
tác giả Keith E. Maskus với “Quantifying the Impact of Technical Barriers to Trade,
10
a Framework for Analysis”. Bài viết đã cung cấp cái nhìn tổng quan về phương
pháp luận của các RCKT đối với thương mại, các hàng rào phi thuế quan là mối
quan tâm đặc biệt đối với nước đang phát triển; Xiaohua Bao và Larry D. Qiu với
bài viết “Do Technical Barriers to Trade Promote or Restrict Trade? evidence from
China”, Asia Pacific of Accounting and Econimic, số 17/2010. Nghiên cứu này
khẳng định TBT đã được coi là một trong những rào cản phi thuế quan khó khăn
nhất (NTBs) để định lượng. Tác giả xây dựng một cơ sở dữ liệu TBT từ 1998-2006
để kiểm tra ảnh hưởng của TBT Trung Quốc đối với hàng hóa nhập khẩu.
Một số công trình cũng nghiên cứu cụ thể hơn về hệ thống RCKT riêng
có đối với hàng dệt may xuất khẩu của quốc gia mình và có những giải pháp đề
xuất nhằm đẩy mạnh xuất khẩu như: Ningchuan Jiang“Effect of Technical Barriers
to Trade on Chinese Textile Product Trade” đăng trên tạp chí International Business
Reseach tháng 7/2008. Bài viết này xem xét lại các khái niệm và nội dung của các
RCKT đối với thương mại, đánh giá tác động của hàng rào kỹ thuật đối với thương
mại trong lĩnh vực sản phẩm DM của Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, đối với DM
Trung Quốc và đề xuất các biện pháp đối phó với các RCKT. Tác giả Sangeeta
Khorana đã nghiên cứu “Barriers to exporting to the EU: evidence from textiles and
leather goods firms in india”, School of Management and Business, United
Kingdom. Dựa trên các nghiên cứu cơ bản, tác giả phân tích rào cản đối với hàng
DM của Ấn Độ và các công ty may mặc và da giày XK sang Liên minh châu Âu
(EU)….
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của nước ngoài còn chưa được phân tích
một cách có hệ thống về RCKT và cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào đề cập
đến RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học của các Bộ, Ngành,
các Trường Đại học, Viện nghiên cứu đã đề cập đến RCKT trên các nội dung
chính sau:
11
Về khái niêm và phân loại RCKT: Đã có khá nhiều nghiên cứu, bài viết, tài
liệu giảng dạy đề cập tới RCKT trong TMQT, trong đó đã đưa ra những khái niệm
và các cách phân loại về RCKT.
Trong báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ do TS Nguyễn Thị Mão chủ
trì thực hiện năm 2001 “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và
những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt nam”, TS Bùi
Thị Lý “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát triển” Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ năm 2005; kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ 2009 của tác giả
Hoàng Thị Vân Anh “Nghiên cứu tác động ảnh hưởng của hàng rào kỹ thuật thương
mại (TBT) Nhật Bản đối với xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam và
giải pháp khắc phục” những vấn đề cơ bản của RCKT đã được trình bày cụ thể, rõ
ràng. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác về rào cản thương mại, rào cản
phi thuế quan cũng đề cập đến khái niệm, nội dung của RCKT - một trong những
rào cản phức tạp nhất trong thương mại quốc tế như kết quả nghiên cứu của tác giả
Đào Thị Thu Giang “Các biện pháp vượt rào cản phi thuế quan trong trong thương
mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt nam”, Luận án Tiến sĩ
kinh tế năm 2009; các công trình của PGS.TS Đinh Văn Thành “Nghiên cứu các
rào cản trong thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”,
NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2005; “Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng
nông sản trong thương mại quốc tế”, đề tài NCKH cấp Bộ năm 2004; nghiên cứu
“Đáp ứng rào cản phi thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu bền vững hàng thủy sản của
Việt Nam” của GS.TS Đỗ Đức Bình và Bùi Huy Nhượng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia năm 2009. Một số giáo trình giảng dạy ở các trường đại học trong khối
kinh tế cũng đã được biên soạn và trình bày những nội dung cơ bản liên quan tới
RCKT như: Giáo trình thương mại quốc tế của Trường Đại học Mở thành phố Hồ
Chí Minh của Ths.Đinh Thị Liên và TS. Đoàn Thị Mỹ Hạnh biên soạn và phát hành
năm 2009, Giáo trình thương mại quốc tế của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội tái bản năm 2010 của PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn…
12
Về thực trạng và khả năng vượt rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế
của Việt Nam.
Hầu hết các công trình đã nghiên cứu về RCKT đều tập trung làm rõ thực
trạng vượt RCKT đối với hàng hóa xuất khẩu trong phạm vi nghiên cứu của từng
tác giả. Cụ thể là: trong nghiên cứu “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại
quốc tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt
nam” của TS. Nguyễn Thị Mão, tác giả đã phân tích thực trạng vượt RCKT trong
TMQT ở Việt Nam, nghiên cứu cũng cho thấy các DN lựa chọn các hệ thống chất
lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, TQM, HACCP.... hoặc hệ thống chất lượng theo
tiêu chuẩn “Giải thưởng chất lượng Việt Nam”. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng: vẫn còn nhiều DN chưa mạnh dạn áp dụng do chưa thấy hiệu quả kinh tế thực
sự hoặc chưa phải thực sự đối đầu với thị trường thế giới, hoặc do chi phí quá lớn,
chưa đủ nguồn nhân lực có kiến thức, chưa có kinh nghiệm trong tổ chức quản lý hệ
thống chất lượng, vai trò còn nhiều chậm trễ...đồng thời, tác giả cũng phân tích
nguyên nhân của những hạn chế trong việc vượt RCKT của các DN Việt Nam. TS.
Bùi Thị Lý trong nghiên cứu “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại
khi doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát
triển” đã chỉ rõ những quy định về RCKT thương mại của một số nước phát triển
như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Phân tích những tác động của RCKT thương mại đối
với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. Từ những phân tích này, đề tài
cũng chỉ ra nguyên nhân của những tác động đó. Trong một số công trình của
PGS.TS Đinh Văn Thành về rào cản thương mại và rào cản phi thuế quan, tác giả
đã nghiên cứu, đánh giá tác động và rút ra các vấn đề giải quyết trước thực trạng
các RCTM của một số nước là thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam như Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia; hệ thống hóa và phân tích các loại rào cản
có liên quan trực tiếp đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, phân tích chi tiết và
thực trạng các loại rào cản thuế quan và phi thuế quan hiện nay ở nước ta, chỉ rõ
mặt được, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng. Với luận án “Các biện pháp vượt
rào cản phi thuế quan trong trong thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá của Việt nam” của TS. Đào Thị Thu Giang, tác giả đã thu thập các số liệu
13
từ nguồn thông tin thứ cấp và sơ cấp để tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng
năng lực vượt qua rào cản phi thuế quan của các DN xuất khẩu Việt Nam. Phần lớn
các rào cản phi thuế quan đã đánh vào các điểm yếu của hàng hoá Việt Nam. Các
nước nhập khẩu đã tìm hiểu và phân tích rất sâu sắc hàng hoá nhập khẩu nói chung
và Việt Nam nói riêng trước khi đưa ra các rào cản phi thuế quan. Các DN Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường
nhập khẩu. Tuy vậy, những hạn chế về năng lực cạnh tranh về nguồn nguyên liệu,
nhân lực, công nghệ của các DN đã làm cho xuất khẩu hàng hoá bị ảnh hưởng bởi
các rào cản này. Những yếu kém trong tổ chức phối hợp công tư, phối hợp giữa các
DN, vai trò hạn chế của các hiệp hội và các cơ quan Chính phủ đã làm giảm khả
năng vượt rào của hàng hoá và các DN Việt Nam. Ngoài ra, một số tác giả khác
cũng đề cập đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam như nghiên cứu của GS.TS Đỗ Đức Bình phân tích thực trạng vượt rào
cản phi thuế quan cho hàng thủy sản của Việt Nam, vượt rào cản môi trường của
hàng hóa sang EU, nghiên cứu của TS. Nguyễn Hoàng khi hàng hóa xuất khẩu sang
thị trường Mỹ, tạp chí nghiên cứu TCKT số 2 - 2010, vvv,.....Một số chuyên đề
nghiên cứu, bài báo đăng trên các tạp chí và một số tham luận tại Hội thảo khoa học
về RCTM, RCKT đối với hàng hóa xuất khẩu, các biện pháp thuế quan và phi thuế
quan, về bảo hộ sản xuất trong nước.
- Các nghiên cứu về giải pháp vượt rào cản : Rất nhiều công trình nghiên
cứu đã đưa ra các giải pháp nhằm tăng năng lực vượt rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa, trong đó có một số công trình tiêu biểu của các tác giả như PGS.TS Đinh
Văn Thành, TS.Đào Thị Thu Giang, TS. Nguyễn Thị Mão, GS.TS Đỗ Đức Bình với
các nghiên cứu đã nêu ở trên đều có những đề xuất về các giải pháp vượt rào, đó là:
tăng cường tuyên truyền thông tin về các RCKT, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nâng
cao năng lực nội tại, hoàn thiện các tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với quốc tế....Bên
cạnh đó, cũng có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành đã nghiên cứu những
giải pháp vượt rào cho một số ngành hàng của Việt Nam vào một vài thị trường
xuất khẩu lớn như Nguyễn Kim Định (2006), “Doanh nghiệp làm thế nào để có thể
vượt được các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế?”, tạp chí kinh tế
14
phát triển; Nguyễn Hoàng (2010), “Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ”, tạp chí nghiên
cứu tài chính kế toán, số 02(79); Nguyễn Xuân Minh (2011), “Vượt qua rào cản -
đẩy mạnh xuất khẩu năm 2011 - 2012”, tạp chí thương mại số 26; Trần Quốc Trung
(2011),“Giải pháp ứng phó với rào cản kỹ thuật mới trong xuất khẩu thủy sản”, tạp
chí thương mại số 27....
2.
NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN.
Theo NCS được biết và tiếp cận, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về các RCKT đối
với mặt hàng DMXK của Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trước đây tập trung
nhiều vào nghiên cứu những RCTM cho các mặt hàng XK của Việt Nam nói chung
hoặc rào cản phi thuế quan cho một mặt hàng nhất định mà chưa đi sâu phân tích
RCKT hàng dệt may Việt Nam. Hệ thống các giải pháp cũng còn mang tính định
hướng, chung cho các mặt hàng. Một số nghiên cứu đã tìm hiểu về RCKT nhưng
chưa đầy đủ, toàn diện và nhất là những nghiên cứu này chưa phản ánh và cập nhật
được những diễn biến mới nhất về RCKT - một lĩnh vực thường xuyên, liên tục
xuất hiện vấn đề mới. Những vấn đề còn tồn tại của các nghiên cứu có liên quan là:
- Về khái niệm và cách phân loại RCKT: Mặc dù có rất nhiều cách định
nghĩa và phân loại RCKT nhưng các nghiên cứu trước đây vẫn chưa làm rõ tính
chất, mức độ của RCKT và RCKT đối với hàng DMXK, đồng nhất RCKT với các
biện pháp kỹ thuật, nhìn nhận RCKT mang tính tiêu cực, phi lý mà chưa thấy được
trong thực tiễn có RCKT mang tính khách quan, khoa học, hợp lý. Thực tế cho thấy,
trong khi thừa nhận sự cần thiết khách quan của việc tồn tại các rào cản kỹ thuật
trong thương mại để ngăn chặn nhập khẩu hàng hóa độc hại, hàng hóa không đảm
bảo chất lượng ảnh hưởng tới an toàn sức khỏe con người và động thực vật, gây ô
nhiễm, suy thoái môi trường, phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì các
RCKT do từng quốc gia đưa ra nhiều khi ngặt nghèo quá mức cần thiết nhằm bảo
hộ thương mại, gây cản trở cho hàng hóa XK của nước ngoài. Hơn nữa, cùng với
thời gian và sự phát triển không ngừng của kinh tế thế giới, của khoa học, kỹ thuật
15
và công nghệ, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, các
RCKT cũng có xu hướng ngày càng cao hơn, tinh vi, phức tạp hơn.
Việc phân loại RCKT cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, việc phân loại
RCKT tập trung vào các tiêu chí đối với sản phẩm cụ thể, ngày nay người ta còn
quan tâm đến quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm, vấn đề an
toàn sức khỏe người tiêu dùng, an toàn môi trường, trách nhiệm xã hội trong quá
trình sản xuất sản phẩm, bên cạnh đó là những quy định về ghi nhãn hàng hóa là
vấn đề rất được quan tâm. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực,
tiến tới ký kết Hiệp định (TPP) thì các quy định về nguồn gốc xuất xứ để bảo vệ
người tiêu dùng được các nước nhập khẩu đặc biệt chú trọng.
- Nội dung của vượt RCKT đối với hàng hóa nói chung và hàng dệt may xuất
khẩu nói riêng cũng chưa được các nghiên cứu trước đề cập đầy đủ: Đã có một số
công trình nghiên cứu về giải pháp vượt rào cản thương mại, vượt rào cản phi thuế
quan đối với hàng hóa nói chung và hàng nông thủy sản nói riêng nhưng cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu về các phương thức vượt RCKT đối với
hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. Các nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
cũng chưa có nghiên cứu nào đề cập.
- Việc phân tích, đánh giá năng lực vượt rào và thực trạng đáp ứng RCKT
của hàng DMXKVN cũng chưa được làm rõ. Các nghiên cứu liên quan chỉ mới đề
cập đến vấn đề RCKT đối với hàng hóa XK trong đó lấy một số mặt hàng XK chủ
lực của Việt Nam để phân tích. Chưa có một nghiên cứu sâu nào ở trong nước về
RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam. Một số nghiên cứu của nước ngoài phân
tích về RCKT đối với hàng DM nhưng lại dựa trên những thực tiễn của Trung Quốc
hoặc Ấn Độ, hơn nữa thời gian nghiên cứu cách đây cũng khá lâu, NCS chỉ có thể
tham khảo để xử lý các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Các nghiên cứu liên quan
cũng đã phân tích, đánh giá tác động của RCTM, rào cản phi thuế quan đến hàng
hóa XK ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nhưng cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu khoa học nào phân tích thực tiễn, đánh giá tác động của RCKT cũng
16
như chưa đề cập sâu sắc, đầy đủ và hệ thống các biện pháp vượt rào đối với hàng
DMXK của Việt Nam thời gian qua. Vì vậy, có thể nói, vấn đề nghiên cứu của đề
tài có tính mới, tính hệ thống, chuyên sâu và cập nhật được những diễn biến và xu
hướng mới nhất về RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam.
- Về giải pháp vượt RCKT đối với hàng dệt may XK của Việt Nam: Cho đến
nay, chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập một cách hệ thống và đầy
đủ các giải pháp vượt RCKT của các nước cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam. Vì vậy, đây cũng chính là một nội dung mới và khác biệt của đề tài luận án,
góp phần tạo giá trị gia tăng cho luận án tiến sĩ này.
Do chưa có công trình trong và ngoài nước nào nghiên cứu một cách hệ
thống, chuyên sâu và cập nhật về RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam, luận án
sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề này, tập trung vào những nội dung chính sau:
+ Hệ thống hóa và làm rõ thêm lý luận về RCKT và vượt RCKT đối với
hàng DMXK. Cụ thể: Luận án đưa ra quan điểm riêng về khái niệm và cách phân
loại mới về RCKT và RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu trong bối cảnh hiện
nay; khái niệm và các phương thức vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu;
các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào của một quốc gia; nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước trên thế giới về vượt RCKT cho hàng DMXK trên cả hai góc
độ Nhà nước và DN, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho các cơ quan QLNN và
DNDM Việt Nam
+ Phân tích, đánh giá thực trạng RCKT và các biện pháp vượt RCKT đối
với hàng DMXK của các cơ quan QLNN và các DNDM Việt Nam thời gian qua,
kết quả đạt được, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất có căn cứ khoa học các giải pháp đối với Nhà nước và các
DNDM Việt Nam nhằm đáp ứng và vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu
trên thế giới, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam.
17
PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ
THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
1.1.1. Khái niệm rào cản kỹ thuật
Trong đời sống xã hội, thuật ngữ “rào cản” được hiểu là tất cả những gì gây
cản trở, khó khăn cho hoạt động tiếp cận một đối tượng nào đó. Còn trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, thuật ngữ “rào cản” được hiểu là những quy định, biện pháp,
chính sách của một quốc gia nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, bảo đảm an toàn sức
khỏe con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và các lợi ích quốc gia, gây khó
khăn, cản trở tiếp cận thị trường quốc gia đó của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài.
Trên thực tế, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, việc trao đổi hàng
hoá, dịch vụ đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới và phúc lợi cho toàn
nhân loại. Phấn đấu cho nền thương mại tự do toàn cầu là mục tiêu của nhiều quốc
gia và của hệ thống thương mại đa phương của WTO. Trong hoạt động này, nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu có thể thực hiện hoàn toàn theo năng lực của mình để
đạt được mong muốn từ mức thấp nhất đến cao nhất phù hợp với mục tiêu đặt ra.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan và chủ quan, đặc biệt là
do trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều giữa các nước mà các biện
pháp bảo hộ ra đời. Các biện pháp này được thể hiện qua các quy định, tiêu chuẩn
do nước nhập khẩu đặt ra nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ người tiêu
dùng, bảo vệ môi trường và người lao động....Các quy định và tiêu chuẩn này sẽ có
những mức độ cao, thấp khác nhau, khách quan hay chủ quan, hợp lý hay không
hợp lý là tùy thuộc vào quan điểm của nước nhập khẩu (nước đặt ra quy định) và
đối tượng chịu ảnh hưởng của các quy định đó (nước xuất khẩu) dựa trên cơ sở
những nguyên tắc và quy định của WTO và các chuẩn mực quốc tế khác mà các bên
cam kết.
18
Như vậy, bất kỳ một quy định, tiêu chuẩn nào cũng có thể được xem là rào
cản, chỉ khác biệt ở mức độ cao hay thấp, hợp lý hay không hợp lý, khách quan hay
không khách quan. Tác giả đã tiếp cận với các quy định, tiêu chuẩn từ hai phía
trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và
thấy rằng:
Xét về tính chất của rào cản:
- Với các quy định, tiêu chuẩn chỉ phù hợp với lợi ích của nước nhập khẩu
nhưng không phù hợp với nước xuất khẩu: có sự mâu thuẫn lợi ích, có lợi cho nước
đặt ra quy định nhưng thiệt hại cho nước xuất khẩu (nước chịu tác động). Các quy
định này được cho là không khách quan, không hợp lý.
- Với các quy định, tiêu chuẩn phù hợp với lợi ích của cả nước nhập khẩu và
nước xuất khẩu: biện pháp này được cho là hợp lý mang tính khách quan, khoa học,
hai bên cùng có lợi.
Trong mối quan hệ hai bên, thì luôn xuất hiện mâu thuẫn giữa nước đặt ra
quy định, tiêu chuẩn với nước phải thực hiện. Nếu trình độ phát triển của hai nền
kinh tế tương đương nhau thì mức độ mâu thuẫn sẽ dễ có tiếng nói chung; nếu trình
độ phát triển kinh tế không ngang nhau thì các quy định, tiêu chuẩn mà nước nhập
khẩu đặt ra sẽ được đánh giá ở mức độ cao. Căn cứ để các quốc gia đánh giá mức
độ rào cản là cao hay thấp là:
- Đối với nước nhập khẩu: Căn cứ vào yêu cầu và mục tiêu bảo vệ lợi ích của
quốc gia mình trong mối liên hệ với hiệu quả kinh tế xã hội toàn diện, những mong
muốn đạt được khi đặt ra các quy định, tiêu chuẩn.
- Đối với nước xuất khẩu (nước chịu tác động từ các quy định, tiêu chuẩn):
Căn cứ vào mong muốn, mục tiêu xuất khẩu hàng hóa, năng lực sản xuất và tiêu
thụ, trình độ phát triển của nền kinh tế và lợi ích của quốc gia mình trong quá trình
trao đổi hàng hóa, dịch vụ.
Trong hoạt động thương mại quốc tế, rào cản thương mại bao gồm rào cản
thuế quan và rào cản phi thuế quan .
Rào cản thuế quan là rào cản truyền thống, sử dụng các biện pháp thuế mà
chủ yếu là mức thuế cao đánh vào hàng hóa nhập khẩu. WTO thừa nhận và cho
19
phép các nước thành viên được sử dụng rào cản thuế quan để bảo hộ, nhưng phải
ràng buộc và giảm dần để đảm bảo minh bạch và tự do hóa thương mại.
Tất cả các biện pháp không phải là thuế quan, được qui định cụ thể trong hệ
thống chính sách luật pháp hay phát sinh từ thực tiễn quản l ý hoạt động thương mại,
có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thì được gọi là các biện pháp phi thuế quan.
Các biện pháp phi thuế như hạn chế định lượng, các biện pháp mang tính thủ tục
hành chính, các biện pháp kỹ thuật... Khi một biện pháp phi thuế quan được áp
dụng gây cản trở cho thương mại mà không giải thích được theo bất kỳ một định
chế hay nguyên tắc nào của WTO thì biện pháp đó được coi là một rào cản phi thuế
quan gây cản trở hay bóp méo thương mại.
Trong các loại rào cản phi thuế quan thì RCKT được các nước sử dụng nhiều
nhất. RCKT thương mại ngày nay không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia nói riêng
mà mang tính toàn cầu. Có rất nhiều cách nhìn nhận và định nghĩa khác nhau về
thuật ngữ RCKT thương mại.
Theo cách tiếp cận của WTO trong Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong
thương mại - TBT, các “hàng rào kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to
trade) là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng
hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập
khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ
thuật - biện pháp TBT). Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và
hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường,
an ninh,... Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống
các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm
ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để
bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá
nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “RCKT
đối với thương mại”. Phụ lục I của Hiệp định TBT của WTO cũng định nghĩa rõ:
(1) Quy định kỹ thuật (technical regulations): Là tài liệu chứa đựng đặc tính
của sản phẩm hoặc quy trình và các phương pháp sản xuất có liên quan, gồm có các
20
quy định về hành chính được áp dụng một cách bắt buộc. Chúng có thể bao gồm tất
cả hoặc chỉ liên quan riêng đến thuật ngữ chuyên môn, các biểu tượng, yêu cầu về
bao bì, mã hiệu hoặc nhãn hiệu được áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc
phương pháp sản xuất.
(2) Tiêu chuẩn (technical standards): Là tài liệu được chấp nhận bởi một tổ
chức được công nhận, đề ra, để sử dụng chung và nhiều lần, các quy tắc, hướng dẫn,
hoặc đặc tính của sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất sản phẩm
đó mà việc thực hiện là không bắt buộc. Nó cũng có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ
liên quan đến một trong các yếu tố như: thuật ngữ chuyên môn, biểu tượng, yêu cầu
về bao bì, mã hiệu, hoặc nhãn hiệu được áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc
phương pháp sản xuất.
(3) Các thủ tục đánh giá sự phù hợp (conformity assessment procedure): là
bất cứ thủ tục nào, áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để xác định xem các yêu cầu có
liên quan trong các quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật có được thực hiện hay không.
Các thủ tục đánh giá tính phù hợp bao gồm có các thủ tục về chọn mẫu, thử nghiệm,
và kiểm tra; đánh giá, thẩm định và đảm bảo tính phù hợp; đăng ký, công nhận và
chấp nhận cũng như là sự kết hợp của chúng.
Hiệp định TBT thừa nhận việc các nước áp dụng các biện pháp kỹ thuật
trong TMQT là cần thiết và hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu được cho là hợp
pháp như các yêu cầu vì an ninh quốc phòng, ngăn chặn hành vi lừa đảo, bảo vệ sức
khoẻ và tính mạng con người, bảo vệ sức khỏe và an toàn động thực vật, bảo vệ môi
trường, v.v, đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước
thành viên WTO sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ bằng
cách đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ
khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình đánh
giá hợp chuẩn, hợp quy của sản phẩm hàng hóa.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều cách nhìn nhận và định nghĩa khác về RCKT.
Trong nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học Thornsbusy, Robert và DeRemer
đã đưa ra định nghĩa sau về RCKT trong TMQT: “Rào cản kỹ thuật trong thương
mại quốc tế là tất cả các quy định kỹ thuật (technical regulations), các tiêu chuẩn
21
(standards) khác nhau trên thế giới quy định cho sản phẩm liên quan đến tất cả các
quá trình từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng một sản phẩm nhằm mục đích ngăn
chặn hàng hóa từ nước khác xâm nhập thị trường trong nước”[53].
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD năm 1997 cũng đưa ra định
nghĩa riêng về RCKT trong TMQT, đó là “các quy định mang tính chất xã hội, là
các quy định do một nhà nước đưa ra nhằm đạt được các mục tiêu về sức khỏe, an
toàn, chất lượng và đảm bảo môi trường; căn cứ vào RCKT thương mại, người ta
có thể nhận thấy các mục tiêu này thông qua việc một nước ngăn cản hàng hóa
không đảm bảo chất lượng nhập khẩu vào nước mình.” Hiện tại, RCKT thương mại
là một trong ba biện pháp hạn chế thương mại được áp dụng rất hiệu quả tại các
nước trên thế giới [42].
“Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế là một hình thức bảo hộ mậu
dịch thông qua việc nước nhập khẩu đưa ra các yêu cầu về tiêu chuẩn hết sức khắt
khe đối với hàng hóa nhập khẩu. Các tiêu chuẩn này có thể liên quan đến tất cả các
quá trình của sản phẩm, từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng. Hàng hóa nếu không
đạt được các tiêu chuẩn trên sẽ không được phép nhập khẩu vào lãnh thổ của nước
nhập khẩu” [28].
Mặc dù đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về RCKT, song theo tác giả
có thể hiểu như sau: Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế là những quy định,
tiêu chuẩn, biện pháp kỹ thuật do nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản những
hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu vào thị trường
nước nhập khẩu.
Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn, sức khoẻ
của con người, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn
chặn các hành vi lừa dối. Tuy nhiên, trên thực tế, do sự chênh lệch về trình độ phát
triển nên những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến kỹ thuật thường rất cao và
nghiêm ngặt của các nước phát triển đã tạo ra những cản trở rất lớn nhất đối với
việc tiếp cận các thị trường nước ngoài của các nước đang và kém phát triển vì
những nước này chưa có đủ trình độ và kỹ năng về KHCN để đáp ứng những yêu
cầu kỹ thuật cao đó. Các nước phát triển cũng thường yêu cầu các nước đang và
22
kém phát triển phải thực hiện các quy định rất chặt chẽ liên quan tới môi trường và
nhiều khi còn yêu cầu các nước này phải xuất trình trước các sản phẩm mẫu để họ
kiểm tra, thử nghiệm,.... Điều này đã làm phức tạp thêm rất nhiều các thủ tục kiểm
tra và chứng nhận sản phẩm XK để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng các yêu
cầu kỹ thuật đặt ra. Có thể nói, RCKT là một công cụ bảo hộ thương mại hết sức
tinh vi và hiệu quả và rất được các nước phát triển sử dụng.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng:
Thứ nhất, về nhận thức, cần phải thấy rằng trong thực tiễn TMQT có các rào
cản hợp lý mang tính khách quan, khoa học và rào cản phi lý thiếu tính khách quan
và chưa thực sự có căn cứ khoa học. Rào cản hợp lý, khoa học và khách quan là
những quy định buộc các nước tham gia phải tuân thủ và đáp ứng. Còn rào cản phi
lý, thiếu khách quan nhiều khi lại coi trọng hạn chế, áp đặt và trừng phạt các đối tác
thương mại, do đó buộc các nước tham gia trao đổi thương mại với nhau phải đàm
phán, mặc cả để giảm thiểu thậm chí phải dỡ bỏ.
Thứ hai, cần phân định giữa biện pháp kỹ thuật và RCKT. Trong khi việc các
nước áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích hợp là sự cần thiết khách quan để bảo
đảm an toàn sức khoẻ con người và động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa
các hành động xấu...được quốc tế thừa nhận thì những biện pháp kỹ thuật tinh vi,
phức tạp, vượt quá mức cần thiết gây cản trở bất hợp lý cho TMQT trở thành các
RCKT mà các nước dùng để bảo hộ thương mại. Chính vì vậy, trong Hiệp định về
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại -TBT, WTO yêu cầu các qui định kỹ thuật, tiêu
chuẩn cũng như thủ tục để đánh giá sự phù hợp với các qui định kỹ thuật và tiêu
chuẩn này không được tạo ra các trở ngại không cần thiết đối với TMQT, phải đảm
bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đãi ngộ quốc gia, phải minh bạch và tiến
tới hài hoà hoá. Nhưng các thành viên có thể đưa ra các biện pháp cần thiết để bảo
vệ môi trường, sức khoẻ con người và động thực vật, ngăn ngừa các hành động
xấu... được cho là thích hợp, với điều kiện là các biện pháp đó không được áp dụng
theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện, hay hạn chế vô lý đối với TMQT.
Thứ ba, phải thừa nhận trên thực tế, việc phân định giữa biện pháp kỹ thuật
và RCKT thương mại là rất khó khăn, phức tạp và cần đến sự hỗ trợ của các chuyên
23
gia. Chính sự khó khăn, phức tạp này cùng với sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các quốc gia đã tạo điều kiện cho các nước, nhất là các nước phát triển ngày
càng tăng sử dụng RCKT thương mại như một công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản xuất
trong nước, gây khó khăn cản trở cho việc tiếp cận thị trường nước ngoài của các
nước đang và kém phát triển. Tuy nhiên, sự phân định này lại là cần thiết và rất có ý
nghĩa đối với các nhà XK trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chống lại
những RCKT phi lý, cản trở và bóp méo thương mại.
Thứ tư, hàng rào kỹ thuật và RCKT là hai phạm trù khác nhau. RCKT đối
với hàng nhập khẩu nói chung, hàng dệt may nói riêng là do từng quốc gia, khu vực
thị trường đưa ra. Mặc dù các RCKT này dựa trên các quy định quốc tế, nhưng vẫn
có những quy định, tiêu chuẩn riêng có thể cao hơn, rộng hơn, có thể có điểm phi lý
hơn, thậm chí mâu thuẫn, trái với các quy định quốc tế. Những điểm mâu thuẫn, phi
lý, hoặc trái với quy định quốc tế thì các quốc gia tham gia hợp tác phải đàm phán,
thỏa thuận để điều chỉnh, thậm chí phải dỡ bỏ để đạt mục tiêu thuận lợi hóa thương
mại. Còn hàng rào kỹ thuật là do Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đưa ra. Đây
là một trong số các hiệp định mà hàng trăm nước thành viên của WTO đã cam kết
và thực thi. Tuy nhiên, trên một mức độ nhất định, hàng rào kỹ thuật có diện rộng
hơn nhưng dễ “thấp” hơn so với RCKT, vì RCKT do từng nước đưa ra nhiều khi
mang tính chất gây khó khăn, thậm chí trừng phạt thương mại lẫn nhau, ngăn cản
không cho hàng nhập khẩu vào quốc gia quá mức.
1.1.2. Phân loại rào cản kỹ thuật
Hiện nay có khá nhiều cách phân loại về RCKT trong thương mại.
1.1.2.1. Theo nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Ngoại thương, RCKT
được chia thành các loại sau [45]:
- Phân loại rào cản kỹ thuật dựa vào công cụ chính sách: Theo tiêu chí này,
RCKT được chia làm 2 loại: Quy định kỹ thuật và yêu cầu về thông tin của sản
phẩm.
Khi chính phủ của một quốc gia nhận thấy hệ thống luật lệ của quốc gia liên
quan đến hàng hóa chưa hiệu quả, hoặc khi hàng hóa nhập khẩu bị phát hiện hoặc
có nghi ngờ kém về chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ…hoặc khi người tiêu
24
dùng nhận thấy gặp khó khăn và tốn kém trong việc kiện nếu hàng nhập khẩu kém
chất lượng theo luật đảm bảo trách nhiệm đối với sản phẩm, thì chính phủ thường
dùng đến RCKT thương mại dựa trên công cụ chính sách để giải quyết những
vướng mắc trên. Những rào cản này sẽ tồn tại dưới hình thức các lệnh cấm, các quy
định kỹ thuật mang tính chất bắt buộc đối với sản phẩm, hoặc những yêu cầu về
thông tin đối với sản phẩm nhập khẩu.
- Phân loại RCKT dựa theo phạm vi áp dụng biện pháp kỹ thuật.
Nhân tố để phân biệt rào cản kỹ thuật thương trong mại căn cứ vào phạm vi
áp dụng biện pháp kỹ thuật với rào cản kỹ thuật thương mại dựa trên các công cụ
chính sách là các biện pháp kỹ thuật đó có làm tăng chi phí cho các nhà sản xuất
trong nước cũng như những nhà XK nước ngoài hay không. Trong cách phân chia
này, RCKT được nghiên cứu, xem xét thông qua việc áp dụng các biện pháp kỹ
thuật, theo đó, ta chia các biện pháp kỹ thuật thành ba loại:
+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng đồng bộ
+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng phổ biến
+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng đặc biệt
- Phân loại RCKT dựa trên mục đích quản lý.
Cách phân định RCKT thương mại này xuất phát từ mong muốn giải thích
tại sao và bằng cách nào cung và cầu của thị trường nội địa có thể thay đổi do tác
động của các biện pháp kỹ thuật được sử dụng. Nghiên cứu sự thay đổi này của
cung cầu trên thị trường, chúng ta có thể tìm ra kết luận liệu việc áp dụng một biện
pháp kỹ thuật nhất định có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến xã hội. Cách phân
định này xuất phát từ việc nêu lên ba mục đích mang tính xã hội của việc áp dụng
các RCKT thương mại, đó là bảo vệ lợi ích kinh tế của nhà sản xuất, bảo vệ sức
khoẻ và lợi ích kinh tế của người tiêu dùng và cuối cùng là bảo vệ môi trường. Theo
tiêu chí này, RCKT bao gồm:
+ Những biện pháp kỹ thuật nhằm mục đích hạn chế rủi ro (rish-reducing
measures)
+ Những biện pháp kỹ thuật không có tác dụng hạn chế rủi ro (non risk-
reducing measures)
25
1.1.2.2. Theo quan điểm của Bộ Công thương
Bộ Công thương là cơ quan chịu trách nhiệm QLNN đối với hoạt động
thương mại. Theo đó, RCKT được phân định như sau:
(i) Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đều đặt
ra các yêu cầu cụ thể về vật lý (physical) đối với sản phẩm. Các yêu cầu này có thể
liên quan tới kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm.
Các yêu cầu này cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và
mở rộng tới các quy trình và phương pháp sản phẩm liên quan tới sản phẩm. Tuy
nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật là ở chỗ sự tuân
thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện trong khi sự tuân thủ với các quy định kỹ
thuật là bắt buộc.
(ii) Các thủ tục đánh giá sự phù hợp: chẳng hạn như xét nghiệm, thẩm tra
xác thực, kiểm định, chứng nhận - được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp
ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn đặt ra.
(iii) Những quy định về đóng gói sản phẩm: Vấn đề bao bì sau tiêu dùng liên
quan đến việc xử lý chất thải rắn. Các quy định về đóng gói bao gồm những quy
định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những quy định về tái sinh, những quy
định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng... Những tiêu chuẩn và quy định liên
quan đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi
việc đóng gói phải phù hợp với việc tái sinh hoặc dùng lại.
(iv) Yêu cầu về dán nhãn sinh thái: Dán nhãn sinh thái có nghĩa là các nước
nhập khẩu yêu cầu các nước XK phải thực hiện việc dán nhãn mác sản phẩm của
mình theo những tiêu chuẩn nhất định nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng về sinh
thái cho các nước nhập khẩu. Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích
thông báo cho người tiêu dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi
trường. Các tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái được xây dựng dựa trên cơ sở phân
tích chu kỳ sống của sản phẩm, một quá trình còn được gọi là phương pháp phân
tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết). Theo phương pháp này, người ta sẽ
đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác
nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó, bao gồm giai đoạn tiền sản xuất (chế biến
26
các nguyên liệu thô), sản xuất, phân phối (bao gồm đóng gói), sử dụng hoặc tiêu
thụ, và loại bỏ sau khi sử dụng. Đặc biệt đây thường là yêu cầu của các nước phát
triển đối với các nước kém phát triển (LDCs), các yêu cầu này dù thuộc hình thức tự
nguyện hay hình thức bắt buộc thì đều gây những khó khăn nhất định trong quá
trình XK của các nước LDCs.
(v) Các yêu cầu về phương pháp sản xuất sản phẩm (PPMs): bao gồm các quy
định về các phương pháp sản xuất sản phẩm có ảnh hưởng đến đặc thù và chất lượng
sản phẩm XK. Hiện nay các luật và các quy định về môi trường đang mở rộng phạm
vi điều chỉnh của mình đối với các PMMs, kể cả các PMMs không có tác động trực
tiếp đến chất lượng và đặc thù của sản phẩm XK, song nhiều khi lại có tác động tiêu
cực đến môi trường tại nơi sản xuất sản phẩm. Các quy định PMMs đang trở thành
những RCKT rất khó vượt qua đối với các nước đang và chậm phát triển.
(vi) Các yêu cầu của người tiêu dùng: Nhiều nước phát triển áp đặt các điều
kiện về môi trường, lao động đối với các nhà XK tại các nước đang và chậm phát
triển. Các yêu cầu này liên quan đến các vấn đề như môi trường, lao động trẻ em và
các quyền về con người, những yêu cầu này ảnh hưởng rất nhiều tới cơ hội thương
mại của các nước XK, nhất là các nước đang và kém phát triển.
1.1.2.3. Theo góc độ tiếp cận từ phía doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các RCKT trong
thương mại. Trong suốt quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ, XK sản phẩm ra nước
ngoài, các DN phải quan tâm đến các vấn đề sau:
- Chất lượng sản phẩm
- An toàn cho người sử dụng
- Bảo vệ môi trường
- Trách nhiệm xã hội.
- Chống gian lận thương mại
Tương ứng với mỗi vấn đề mà DN quan tâm là một loại hình RCKT
(i) Tiêu chuẩn chất lượng: Chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu để hàng
hoá có thể thâm nhập vào thị trường các nước. Người tiêu dùng các nước, đặc biệt
là người tiêu dùng ở những nước phát triển đều có yêu cầu cao về chất lượng sản
27
phẩm. Người tiêu dùng thường ưa chuộng và đánh giá cao những hàng hoá được
cấp giấy chứng nhận chất lượng. Và các nước cũng đưa ra nhiều quy định về chất
lượng sản phẩm đối với hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng nước
mình. Tuy nhiên, chất lượng là một khái niệm rất rộng và phức tạp do đó có nhiều
nước đã lợi dụng việc đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng để dựng lên những rào cản
về chất lượng đối với hàng nhập khẩu.
Hiện nay, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc
đối với các DN sản xuất hàng XK, vì nhiều thị trường nhập khẩu bây giờ đều yêu cầu
các DNXK phải có giấy chứng nhận chất lượng quốc tế. Người tiêu dùng có thể yên
tâm hơn khi sử dụng sản phẩm của những DN này. Nói cách khác, ISO 9000 có thể
được coi như một ngôn ngữ xác định chữ tín giữa người sản xuất và người tiêu dùng,
giữa các DN với nhau. Và thực tế cho thấy rằng ở mọi thị trường nhập khẩu hàng
hoá của những DN có giấy chứng nhận ISO 9000 thì dễ thâm nhập thị trường hơn
nhiều so với hàng hoá của các DN khác. Đối với một số chủng loại sản phẩm, thì chỉ
những hàng hoá nào có đủ các giấy chứng nhận chất lượng nhất định và đáp ứng các
yêu cầu cụ thể của nước nhập khẩu thì mới được nhập vào lãnh thổ nước đó.
(ii) Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng: An toàn cho người sử dụng là
những vấn đề được người tiêu dùng và Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm vì nó
liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng.
Các biện pháp này gồm các quy chuẩn kỹ thuật hoặc các tiêu chuẩn được đặt
ra để bảo vệ an toàn và sức khỏe của cá nhân như các tiêu chuẩn về không sử dụng
các sản phẩm DM có chứa chất độc hại, gồm các chất hóa học có thể gây ung thư và
các bệnh ngoài da hoặc các quy định về sử dụng các vật liệu chậm cháy trong sản
xuất đồ gỗ gia dụng, đảm bảo không dễ cháy đối với các loại ga giường, quần áo trẻ
em. Ngoài ra, tuỳ theo mặt hàng và tuỳ theo yêu cầu của từng thị trường mà còn có
nhiều các quy định khác như quy định về nhãn mác sản phẩm, quy định các chỉ tiêu
về tiếng ồn, mức phóng xạ đối với các sản phẩm tiêu dùng…
Cũng như các loại RCKT khác, rào cản về an toàn cho người tiêu dùng là loại
rào cản hết sức phức tạp, tinh vi, đa dạng và được sử dụng ngày càng nhiều khiến cho
các DNXK rất khó nắm bắt và khó vượt qua gây cản trở không ít cho TMQT.
28
(iii) Tiêu chuẩn về môi trường
Phát triển thương mại gắn với bảo vệ môi trường đang là xu thế TMQT, đó là
phát triển thương mại bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, được gọi
chung là “thương mại-môi trường”. Sau một thời gian dài chạy theo lợi nhuận, phát
triển ồ ạt, không quan tâm đến môi trường, các quốc gia đã nhận thấy tầm quan trọng
của nó đối với sự phát triển bền vững và đã thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo
vệ môi trường, trong đó có việc đưa ra các tiêu chuẩn về môi trường đối với hàng hoá
nhập khẩu. Các quy định của WTO cũng cho phép các nước sử dụng các biện pháp
bảo hộ vì mục đích môi trường, nên các quốc gia đã dựng lên những rào cản về môi
trường đối với hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu. Hiện nay giấy chứng nhận ISO
14000 đã trở thành một yêu cầu bắt buộc, một giấy thông hành của DN khi muốn XK
hàng sang các nước khác, đặc biệt là khi XK sang thị trường những nước phát triển.
Hệ thống rào cản môi trường trong TMQT hiện nay rất đa dạng và được áp
dụng rất khác nhau ở các nước tuỳ vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Nhưng nhìn
chung, các rào cản môi trường thường được áp dụng trong TMQT bao gồm:
- Các phương pháp sản xuất theo quy định môi trường
Đây là các tiêu chuẩn quy định sản phẩm cần phải được sản xuất như thế
nào. Các tiêu chuẩn này áp dụng cho giai đoạn sản xuất, nghĩa là giai đoạn trước khi
sản phẩm được tung ra trên thị trường. Về mặt môi trường, việc xem xét quy trình
sản xuất là để giải quyết một trong những câu hỏi trọng tâm của quá trình quản lý
môi trường: sản phẩm được sản xuất như thế nào, sản phẩm được sử dụng như thế
nào, sản phẩm được vứt bỏ như thế nào, những quá trình này có làm tổn hại đến môi
trường không.
- Các yêu cầu về đóng gói bao bì
Bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những quy
định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng…
Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm
và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc đóng gói phải phù hợp với việc tái sinh hay
dùng lại. Những sản phẩm không phù hợp có thể bị thị trường từ chối cả nguyên vật
liệu đóng gói và sản phẩm chứa trong bao bì.
29
- Nhãn môi trường
Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích thông báo cho người tiêu
dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về
dán nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm,
một quá trình còn được gọi là phân tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết).
Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường
của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó. Các giai
đoạn này bao gồm giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân phối (bao gồm cả đóng
gói), sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi sử dụng.
Các quy định về môi trường được các nước sử dụng ngày càng nhiều và đã
thật sự trở thành một rào cản hữu hiệu để bảo hộ thị trường trong nước mà vẫn phù
hợp với các quy định của WTO.
(iv) Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Đi đôi với trách nhiệm môi trường, các DN còn phải quan tâm tới trách
nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội gồm ba nội dung chính:
- Các tiêu chuẩn với những quyền của người lao động được thừa nhận rộng rãi.
Đó là các quyền được lao động tự do, lao động không phân biệt đối xử
(Không phân biệt giới tính, nguồn gốc, tôn giáo, chính trị …) lao động theo luật
định (giờ làm việc, mức lương lao động) và tuyệt đối không có hình phạt nào gây
tổn thương thể xác, tinh thần, danh dự.
- Các tiêu chuẩn liên quan đến an toàn sức khỏe và rủi ro nghề nghiệp: Đó là
các điều kiện để làm việc, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các chế độ bồi
thường khi người lao động gặp tai nạn nghề nghiệp; các chế độ trợ cấp khi người
lao động bị buộc thôi việc, ngừng việc; các ưu đãi trợ giúp người thất nghiệp.
- Các yêu cầu cho hệ thống quản lý phải luôn tuân thủ và cải tiến, nâng cao
hơn nữa chất lượng đời sống và bảo vệ người lao động.
Các quy định trách nhiệm xã hội là biện pháp bảo vệ tốt nhất cho người lao
động tại các nước. Tuy nhiên với nhiều nước còn nghèo, chậm phát triển, mức sống
còn thấp thì đây cũng là một loại hình rào cản tương đối khó khăn cho các DN nước
đó khi gia nhập thị trường chung thế giới [84].
30
(v). Các quy định về ghi nhãn hàng hóa.
Trong các loại RCKT, thì RCKT quy định về ghi nhãn hàng hóa nhằm chống
gian lận thương mại là rào cản khá mới mẻ, chưa dành được nhiều sự quan tâm của
các DN. Do hạn chế thông tin, nhiều DN và nhà sản xuất chỉ coi đăng ký bản
quyền, nhãn hiệu, sáng chế, mẫu mã… là cách tự bảo vệ mình khỏi các vấn đề tranh
chấp thương mại mà không hiểu được rằng đây cũng là một loại RCKT để bảo hộ
sản xuất nội địa mà các quốc gia đặt ra. Căn cứ theo luật bảo hộ của một số nước,
cứ mỗi một nhãn hiệu, một kiểu dáng thương mại mới, một tên thương mại mới,
một nguồn gốc xuất xứ mới được đăng ký, một bằng sáng chế, phát minh hoặc sở
hữu trí tuệ mới ra đời là cơ hội cạnh tranh của các sản phẩm vào sau lại giảm đi một
phần. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tại một số nước có cùng một số điều
kiện nhất định, thì việc trùng lặp về nhãn hiệu, kiểu dáng, sáng chế… hoàn toàn có
thể xảy ra. Riêng đối với nước XK, tự nhiên sẽ chịu thiệt thòi khi tham gia vào một
thị trường mà cũng có những sản phẩm tương tự về kiểu dáng, sáng chế hay thậm
chí là nhãn hiệu. Đây cũng là một cách hay mà các quốc gia nhập khẩu đã dùng để
giảm bớt các đối thủ cạnh tranh tới từ các nước khác và vô hình chung đã tạo ra độc
quyền trong phạm vi nhất định. RCKT loại này được sử dụng với mục đích đảm
bảo công bằng thương mại và đảm bảo quyền lợi cho các DN cạnh tranh bình
đẳng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đây là loại RCKT mới và mang tính
bảo hộ hợp pháp cao nhất.
1.1.2.4. Quan điểm của tác giả về phân loại RCKT
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài, xác lập luận cứ khoa học cho
việc đề xuất các giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm vượt qua các RCKT đối với hàng
DMXK của Việt Nam, tác giả sẽ sử dụng kết hợp cách phân loại của Bộ Công
Thương và với các vấn đề mà DN quan tâm đồng thời nhấn mạnh đến những quy
định về xuất xứ hàng hóa của các nước được sử dụng như một RCKT mới.
Xuất xứ hàng hóa là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng
hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn sản xuất cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong
trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia sản xuất ra hàng hóa đó.
Quy định về xuất xứ hàng hóa là một trong những nội dung quan trọng trong Hiệp
định TPP. Quy định này được hiểu là: các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên
31
của TPP sang các thành viên khác đều phải có xuất xứ nội khối. Khi đó, các sản
phẩm này mới được hưởng các ưu đãi mà các thành viên dành cho nhau, được
hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Tuy nhiên, với năng lực tự sản xuất và cung ứng
nguyên phụ liệu còn hạn chế, đặc biệt là với các nước đang phát triển thì những yêu
cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại lớn cho
các nước xuất khẩu.
Theo đó, tác giả cho rằng, RCKT trong thương mại quốc tế có thể được
chia thành sáu nhóm như sau:
Rào cản kỹ thuật
Quy định và
Quy định Quy định Quy định và Quy định và Quy định về
tiêu chuẩn và tiêu và tiêu tiêu chuẩn tiêu chuẩn nguồn gốc
về chất chuẩn về an chuẩn môi về trách về ghi nhãn xuất xứ
lượng sản toàn cho trường nhiệm xã sản phẩm
phẩm người sử hội
dụng
Hình 1.1: Các loại rào cản kỹ thuật
Nguồn: Đề xuất của tác giả
Cách phân loại về RCKT này sẽ được tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá
trình nghiên cứu của luận án.
1.1.3. Tác động của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế
Do hình thức đa dạng và linh hoạt nên RCKT có phạm vi ảnh hưởng rất rộng
rãi. Hầu hết các hoạt động thương mại trên thế giới đều gặp phải cản trở của RCKT.
Thực tế cho thấy, RCKT đã ảnh hưởng đến cả nước xuất khẩu và nhập khẩu trên cả
hai mặt tích cực và tiêu cực.[44]
1.1.3.1. Đối với nước xuất khẩu
RCKT có tác động tích cực trên các khía cạnh sau:
32
Thứ nhất, trước RCKT của các nước nhập khẩu hàng hóa đặt ra yêu cầu cho
các nhà xuất khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực sản xuất, đầu tư, đổi
mới trang thiết bị kỹ thuật, cải tiến quản lý, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm
của mình. Chính phủ các nước XK cũng phải sát cánh cùng DN, hỗ trợ các DN, nỗ
lực tìm ra các biện pháp chính sách thích hợp để giúp DN vượt RCKT của nước nhập
khẩu. Chính những nỗ lực của nước XK đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, của các DN và hàng hóa XK qua đó mà có thể mở rộng được thị
trường tiêu thụ sản phẩm, tăng XK, tăng thu nhập, tạo việc làm cho nền kinh tế,...
Thứ hai, chính việc đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường khắt khe của các thị
trường nhập khẩu sẽ góp phần quan trọng bảo vệ môi trường, giúp thực hiện phát
triển bền vững nền kinh tế cho nước xuất khẩu. Một khi đáp ứng được các tiêu
chuẩn môi trường không những nhà XK thực hiện được mục tiêu XK mà còn góp
phần cải thiện và bảo vệ môi trường sống, làm cho sản xuất sạch hơn, hạn chế được
tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình.
Thứ ba, việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động cao của các thị trường nhập
khẩu cũng giúp cho người lao động có điều kiện lao động tốt hơn, cải thiện được
sức khỏe, an toàn lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động, góp phần cải thiện an sinh xã hội, đây là yếu tố cơ bản để đảm bảo ổn định
trật tự xã hội cho phát triển.
Cuối cùng, các nước XK cũng có thể nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ
chức quốc tế; nước nhập khẩu để cải thiện năng lực, đáp ứng và vượt qua các RCKT.
- Bên cạnh những tác động tích cực thì RCKT cũng ảnh hưởng tiêu cực đến
nước xuất khẩu:
Thứ nhất, để đáp ứng được những yêu cầu của quy định về kỹ thuật của các
nước nhập khẩu thì các DNXK sẽ phải tăng chi phí sản xuất để thay đổi điều kiện
sản xuất sao, do đó chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận của nhà sản xuất sẽ giảm sút.
Bởi vì, các RCKT thường đặt ra các qui định liên quan đến qui trình sản xuất,
nguyên vật liệu sản xuất, nguyên liệu bao gói… để vượt qua rào cản này, doanh
nghiệp xuất khẩu phải tăng các khoản đầu tư cố định vào máy móc thiết bị, công
nghệ và qui trình quản lý,…để nâng cao chất lượng sản phẩm, cùng với đó là chi
phí thử nghiệm, kiểm định, giám định, công nhận và lấy giấy chứng nhận. Ngoài ra,
33
cũng có thể dẫn đến sự phá sản của các DNXK khi không đáp ứng được những yêu
cầu đề ra, bị mất vị thế trên thị trường thế giới.
Thứ hai, RCKT cũng gây ra nhiều thiệt hại cho nhà sản xuất. Cụ thể là, khi
nhà sản xuất trong nước XK lô hàng sang thị trường quốc tế, nếu lô hàng đó dù chỉ
có một sai sót nhỏ không đáp ứng được một trong những tiêu chuẩn đã quy định, thì
lô hàng đó sẽ bị từ chối cấm nhập khẩu, hàng hóa đó sẽ bị trả lại cho nhà XK hoặc
bị tiêu hủy…điều này sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của nhà sản xuất, gây thiệt hại lớn
cho nhà XK.
Thứ ba, RCKT cũng ảnh hưởng tới những người lao động sản xuất trong các
ngành sản xuất XK. Có thể thấy, khi các DNXK làm ăn thua lỗ, dẫn đến phá sản sẽ
đe dọa đến công ăn việc làm cũng như đời sống của những lao động làm trong
những DN này, và có thể ảnh hưởng lớn tới tình trạng thất nghiệp của quốc gia đó.
1.1.3.2. Đối với nước nhập khẩu
Nói đến rào cản kỹ thuật - đây được coi là một trong những chính sách bảo
hộ của chính phủ nước nhập khẩu dùng để hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nước
ngoài vào thị trường nước mình. Việc sử dụng RCKT mang lại cho quốc gia này
những tác động tích cực, nhưng bên cạnh đó cũng có những tác động tiêu cực.
- Tác động tích cực:
Thứ nhất, RCKT góp phần bảo vệ người tiêu dùng. Việc áp dụng các RCKT
đã làm nâng cao chất lượng của hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này, qua đó
quyền lợi người tiêu dùng được nâng cao. Việc áp dụng các RCKT yêu cầu các sản
phẩm khi muốn nhập khẩu vào thị trường nước này phải đáp ứng đầy đủ theo những
tiêu chuẩn đã được thỏa thuận, chính điều này đã làm cho những sản phẩm có chất
lượng tốt mới có thể thâm nhập vào thị trường nước này còn những sản phẩm chất
lượng kém sẽ không được nhập khẩu vào thị trường này. Khi các RCKT được áp
dụng cũng đồng nghĩa rằng chất lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao, người
tiêu dùng sẽ được tiêu thụ những mặt hàng với chất lượng cao, an toàn cho sức khỏe
của người sử dụng, chống lừa dối gian lận.
Thứ hai, việc áp dụng các RCKT giúp bảo vệ môi trường. Khi áp dụng các
biện pháp kỹ thuật, các sản phẩm không thân thiện với môi trường sẽ không được
34
phép nhập khẩu vào thị trường nước này, chỉ có những sản phẩm đã thỏa mãn theo
đúng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường mới được phép nhập khẩu. Ngoài ra, các tiêu
chuẩn này đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ thực vật, tài nguyên thiên
nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái…
Thứ ba, bảo hộ nền sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu hàng hóa nước
ngoài. Đây chính là một trong những tác động chính của RCKT. Việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật này đã ngăn chặn sự đe dọa của hàng hóa ngoại nhập, giúp giảm
cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước, từ đó bảo hộ cho nền sản xuất trong nước,
tạo điều kiện cho các DN phát triển, tạo công ăn việc làm, giúp tăng trưởng kinh tế.
- Tác động tiêu cực:
Thứ nhất, không tạo ra động lực phát triển nền sản xuất trong nước. Rõ ràng,
việc sử dụng các RCKT chính là biện pháp của chính phủ nhằm bảo hộ nền sản xuất
trong nước, do vậy nền sản xuất trong nước sẽ không có được động cơ phát triển
cạnh tranh với nền sản xuất quốc tế.
Thứ hai, giảm sự lựa chọn của người tiêu dùng và giảm lợi ích của nền sản
xuất của nước nhập khẩu. Với việc áp dụng các RCKT người tiêu dùng sẽ được tiêu
dùng những mặt hàng có chất lượng tốt, tuy nhiên sự lựa chọn tiêu dùng sẽ bị thu
hẹp Các nhà sản xuất trong nước do được bảo hộ sẽ không nỗ lực trong việc cải tiến
hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm dẫn đến
sự trì trệ, thiếu năng động và kém cạnh tranh của ngành sản xuất trong nước. Ngoài
ra, việc nước nhập khẩu dựng lên quá nhiều RCKT có thể dẫn đến các biện pháp trả
đũa hay các RCKT cao hơn của nước XK đối với hàng hóa sản xuất từ nước nhập
khẩu, gây ra cản trở thương mại, ảnh hưởng đến các ngành sản xuất khác của nước
nhập khẩu.
Như vậy, có thể thấy mức độ ảnh hưởng của các loại RCKT đối với TMQT là
rất lớn. Các nước có trình độ phát triển cao, có tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng
đối với TMQT là những nước thường áp dụng các RCKT vì các nước này có đầy đủ
cơ sở vật chất và kỹ thuật để đưa ra các rào cản và cũng có thể dựa vào tiềm lực của
mình để ép các quốc gia khác phải tuân thủ các điều kiện do mình đặt ra. Thực tế
cũng đã chỉ ra rằng các nhà XK của các nước đang và kém phát triển là những nước
chịu tác động của RCKT nhiều nhất bởi hàng XK của những nước này chủ yếu dựa
35
vào thiên nhiên có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến ảnh hưởng
đến môi trường, trình độ KHCN thấp kém nên các tiêu chuẩn chất lượng và các tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn không cao và vì vậy khó có thể vượt qua được các rào cản đó
khi mà thậm chí các nước phát triển cũng gặp không ít khó khăn khi gặp phải. Trong
tương lai thậm chí các nước kém phát triển này còn gặp phải những khó khăn còn lớn
hơn khi các nước tăng cường sử dụng những rào cản này [54].
1.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU
1.2.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu
1.2.1.1. Khái niệm
Dựa theo khái niệm về RCKT đối với hàng hóa XK nói chung ở phần 1.1.1,
tác giả cho rằng “Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu là những quy
định, tiêu chuẩn, biện pháp kỹ thuật do nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản hàng
dệt may của nước xuất khẩu không đáp ứng được yêu cầu vào thị trường nước nhập
khẩu.
Có thể nói, hàng DM là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và là
tiềm năng phát triển cao. RCKT đối với hàng DM trong TMQT cũng có đầy đủ các
đặc điểm của RCKT nói chung. Ngoài ra, do DM là ngành truyền thống của hầu hết
các nước và sử dụng nhiều lao động nên RCKT đối với hàng DM trong TMQT
cũng có một số đặc điểm riêng như:
- Các RCKT dưới dạng các tiêu chuẩn về môi trường, về trách nhiệm xã hội,
sở hữu trí tuệ nhằm chống gian lận... thường cao quá mức cần thiết, khó tuân thủ
đối với các nước đang phát triển
- Hầu hết các RCKT đối với hàng DM đều dựa trên các cam kết của WTO,
tuy nhiên một số thị trường nhập khẩu hàng DM lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... còn
có nhiều RCKT khác dưới dạng các quy định riêng
1.2.1.2. Các loại rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may
Đối với hàng DMXK, RCKT cũng được chia thành các loại như đối với hàng
hóa xuất khẩu nói chung đã được trình bày ở mục 1.1.2. Đó là:
(i) Các quy định về chất lượng sản phẩm. Đó là các quy định về tiêu chuẩn
chất lượng (ISO 9000) đây là bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng do tổ chức quốc
36
tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. Bộ tiêu chuẩn này bao gồm các tiểu chuẩn quy định
những yêu cầu của một hệ thống quản lý chất lượng mà DN nói chung và các
DNDM nói riêng muốn được chứng nhận phải áp dụng như ISO 9001/2/3; hoặc ISO
9000:2000, và các tiêu chuẩn hỗ trợ khác.
(ii) Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người.
Các biện pháp này bao gồm những quy định về hóa chất độc hại trong sản
phẩm DM gây nguy hiểm đối với sức khỏe người tiêu dùng, Các hóa chất độc hại
bao gồm: các amin thơm gây ung thư (liên quan đến thuốc nhuộm azo), các thuốc
nhuộm phát tán gây dị ứng, các kim loại nặng (cadimi, crom, chì, thủy ngân,
niken…), các hợp chất hữu cơ thiếc (MBT, TBT, TPhT…), các hợp chất có chứa
clo (chất tải hữu cơ có chứa clo như clobenzen, clotoluen), các chất chậm cháy
(PBBs, Peta- BDE, octo BDE…), Focmaldehyt, Phtalat (DEHP, DINP…), tổng
hàm lượng chì trong sơn và bề mặt phủ. Các sản phẩm được coi là có chứa chất
nguy hiểm sẽ bị cấm nhập khẩu vào thị trường của các nước phát triển.
(iii) Các quy định và tiêu chuẩn môi trường.
Quy định về bảo vệ môi trường (ISO14000): quy định này nêu rõ các yêu cầu
về hệ thống quản lý môi trường, trong đó đặc biệt lưu ý đến các quy định pháp lý về
tác động và ảnh hưởng của môi trường nhằm giúp các DNDM hệ thống hóa các chính
sách và các mục tiêu môi trường của mình. Trong ISO14000 bao gồm ISO14001 và
ISO14004 trong đó ISO14001 là các yêu cầu đối với hệ thống còn ISO14004 là các
văn bản hướng dẫn xây dựng hệ thống theo các yêu cầu đó. Các DNDM cần phải
nắm bắt và hiểu rõ để tuân thủ các yêu cầu thực hiện trách nhiệm xử lý ô nhiễm môi
trường và sử dụng nguyên nhiên liệu không làm mất cân bằng sinh thái, các sản phẩm
sản xuất ra phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn không gây ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, các nhà nhập khẩu đã đưa ra các tiêu chuẩn“xanh”, “sạch” đối với
sản phẩm từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. Tiêu chuẩn thương mại “xanh” trở
thành RCTM “xanh” (Green Trade Barrier). Đối với sản phẩm DM, tiêu chuẩn này
đòi hỏi các sản phẩm may mặc phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái, an toàn
về sức khoẻ đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong quá trình
37
sản xuất. Các quy định PMM hiện đang đặt ra những thách thức lớn đối với các cơ
sở DM của Việt Nam, đặc biệt là các DN dệt, nhuộm, in,…
(iv) Các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại mang lại nhiều quyền lực cho các
khách hàng quốc tế và đặt ra thách thức đối với vai trò của công đoàn và luật pháp
quốc gia, trong đó có nhu cầu về khuôn khổ pháp luật quốc tế mới như các điều
khoản về tiêu chuẩn lao động trong các hiệp định tự do thương mại. Một loạt các
khung pháp luật mới đã xuất hiện ở cấp độ toàn cầu với các quy định cụ thể về tiêu
chuẩn lao động. Ngoài việc thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, hàng đệt may
XK còn phải tuân thủ các RCKT do các nước phát triển đặt ra như các tiêu chuẩn về
vệ sinh, an toàn công nghiệp, tiêu chuẩn lao động,...
Các cam kết về lao động được thể hiện qua bộ tiêu chuẩn lao động như là nội
dung cơ bản về trách nhiệm xã hội DN (CSR), các hiệp định của các công ty đa
quốc gia với tổ chức nghiệp đoàn lao động toàn cầu. Hiện nay, một trong những tiêu
chuẩn xã hội quan trọng nhất là tiêu chuẩn SA 8000 do Tổ chức Quốc tế về Trách
nhiệm xã hội (SAI), một tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ xây dựng. SA 8000 là
hệ thống tiêu chuẩn quốc tế quy định về điều kiện làm việc, quyền lợi của người lao
động nhằm hướng tới việc đảm bảo giá trị đạo đức của nguồn hàng hoá & dịch vụ.
Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 xem xét các vấn đề chủ yếu như: lao động
trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ & an toàn lao động, bồi thường, phân biệt đối
xử trong lao động, thời gian làm việc, tự do công đoàn, quyền thoả ước tập thể và
các hình phạt trong lao động. SA 8000 được xây dựng dựa trên nền tảng tiêu chuẩn
của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các công ước và khuyến nghị của Liên hợp
quốc về quyền con người và trẻ em. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
toàn cầu nhà sản xuất - WRAP - một tiêu chuẩn độc lập của sản xuất đúng với
nguyên tắc ứng xử, được thực hiện và kiểm soát một cách độc lập và bảo đảm rằng
hoạt động của các nhà sản xuất đúng nguyên tắc ứng xử theo một quy tắc gắn kết và
bao hàm toàn diện. WRAP chứng nhận rằng các sản phẩm may mặc được sản xuất
phù hợp với 12 nguyên tắc chủ yếu sau: (1) Luật pháp và quy tắc nơi làm việc; (2)
Ngăn cấm lao động cưỡng bức; (3) Ngăn cấm lao động trẻ em; (4) Ngăn cấm quấy
38
rối và ngược đãi; (5) Bồi thường và phúc lợi; (6) Giờ làm việc phải không được
vượt quá giới hạn của luật pháp; (7) Ngăn cấm phân biệt đối xử; (8) Sức khoẻ và an
toàn môi trường làm việc; (9) Các quyền hợp pháp của nhân viên về tự do hiệp hội
và thoả thuận tập thể; (10) Các điều lệ, quy tắc và tiêu chuẩn về môi trường; (11)
Thực hiện đúng thủ tục thuế quan và (12) Cấm chất ma tuý.
Những tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội như SA 8000 hay WRAP đang được áp
dụng theo cách tự nguyện, nhưng những DNXK đáp ứng được các tiêu chuẩn này
lại được người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm một cách dễ dàng hơn nên có cơ hội
để đẩy mạnh XK. Hiện nay, người tiêu dùng ở các nước phát triển có xu hướng đòi
hỏi ngày càng cao đối với các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và những đòi hỏi này
sẽ tác động lên chính sách của các chính phủ để chuyển sang bắt buộc phải đáp ứng
các tiêu chuẩn này. Vì vậy, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội trở thành các RCKT
đối với XK của các nước đang và chậm phát triển.
(v) Các quy định về ghi nhãn hàng DM
Các quy định này giúp cho sản phẩm XK được an toàn. Đó là yêu cầu về dán
nhãn chính xác. Có rất nhiều quy định và tiêu chuẩn của các nước phát triển về dán
nhãn hàng DM. Chẳng hạn, Hoa kỳ có rất nhiều văn bản pháp luật và quy định kiểm
soát hoạt động sản xuất và dán nhãn các sản phẩm DM như quy định về nước xuất
xứ, đạo luật về nhận dạng các sản phẩm dệt TFPIA, đạo luật về dán nhãn các sản
phẩm len WPLA, đạo luật về bao gói, dán nhãn sản phẩm tốt FPLA,... Bên cạnh đó
là yêu cầu đối với nhãn hiệu: phải được làm bằng vải và đính kèm sản phẩm cho
đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng, phải được ghi bằng ngôn ngữ
tiếng Anh [89].
Nhãn hướng dẫn sử dụng là một thành phần không thể thiếu của sản phẩm
DM được sử dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Tại các nước này, hệ thống
nhãn hướng dẫn sử dụng đã được tiêu chuẩn hóa và phổ biến không chỉ trong sản
xuất mà cả trong đời sống hàng ngày. Vì thế, một sản phẩm DM không có nhãn
hướng dẫn sử dụng thì rất khó được thị trường chấp nhận lưu thông. Tại các nước
phát triển ở Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v tất cả hàng DM lưu thông trên thị
trường đều phải có nhãn hướng dẫn sử dụng. Mặt khác, một nhãn hướng dẫn sử dụng
39
nếu không được xây dựng chặt chẽ để đảm bảo chất lượng phù hợp có thể gây tổn
thương không nhỏ cho cả người sử dụng và nhà sản xuất lưu thông sản phẩm khi tiêu
dùng gặp sự cố trong quá trình sử dụng sản phẩm. Do vậy, các nhãn mác này đều
được xây dựng dựa trên cơ sở các phương pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm DM
phổ biến tại đó, các yêu cầu chất lượng dự kiến cho sản phẩm của nhà sản xuất nhằm
phục vụ cho mục đích sử dụng xác định của người tiêu dùng. Quy trình thử nghiệm
kiểm tra chất lượng và xây dựng nhãn hướng dẫn sử dụng cho sản phẩm DM đã được
ổn định từ khoảng hơn chục năm trở lại đây [76].
(vi) Các quy định về xuất xứ hàng DM
Các quy định về xuất xứ hàng DM của các nước, nhất là các nước phát triển
như Hoa Kỳ, EU,... rất phức tạp, không rõ ràng và minh bạch, lại chịu sự chi phối
rất lớn từ các nhà sản xuất trong nước của các thị trường này đã khiến cho quy tắc
xuất xứ trở thành RCKT rất khó đáp ứng đối với các nước đang và chậm phát triển.
Thông thường thì hàng DMXK từ các nước đang và chậm phát triển được hưởng ưu
đãi về thuế quan theo chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). GSP là
chương trình ưu đãi thuế quan không có đi có lại. Ngoài ra, trong tham gia các
FTA/RTA đều có các quy định ưu đãi thuế hàng DM dựa trên nguyên tắc có đi có
lại. Tuy nhiên các quy định và tiêu chuẩn để xác định xuất xứ hàng DM để được
hưởng các ưu đãi thuế này lại rất cao, rất phức tạp, không minh bạch (ví dụ như quy
định “từ sợi trở đi” của Hoa Kỳ) nên rất khó để các nước đang và chậm phát triển
có thể đáp ứng để được hưởng các ưu đãi thuế. Vì vậy, những tiêu chuẩn và quy
định về xuất xứ hàng hóa đang trở thành những RCKT lớn đối với hàng DMXK.
1.2.2. Vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu
1.2.2.1. Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt 2008 của trung tâm từ điển học thì động từ “vượt’ có
nghĩa là: (i) di chuyển qua nơi có khó khăn, trở ngại để đến một nơi khác; (ii) tiến
nhanh hơn và bỏ lại phía sau; (iii) ra khỏi giới hạn nào đó. Có thể thấy, nghĩa thứ
nhất của động từ vượt được áp dụng cho trường hợp này. Như vậy, việc vượt qua
RCKT trong thương mại có thể hiểu là việc nước XK di chuyển hàng hóa qua
40
những khó khăn, trở ngại gặp phải nơi biên giới của nước NK để đưa hàng hóa vào
tiêu thụ tại nước nhập khẩu
Từ đó, tác giả cho rằng: Vượt RCKT đối với hàng DMXK là việc thực hiện
các chiến lược, các giải pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu của nước nhập khẩu, đưa
hàng dệt may từ nước xuất khẩu vào tiêu thụ tại nước nhập khẩu. Nói cách khác,
vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu chính là khả năng, năng lực của nước
xuất khẩu (trong đó có DNDM và hàng DM xuất khẩu) đáp ứng, tuân thủ hay vượt
qua các quy định, tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật do các nước nhập khẩu đưa ra đối với
hàng dệt may nhập khẩu.
1.2.2.2. Phương thức vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DM xuất khẩu
Đối với hàng DM, vượt qua RCKT do các thị trường nhập khẩu đưa ra có ý
nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược xuất khẩu và chiến lược phát triển
ngành dệt may của mỗi quốc gia và thực sự là vấn đề rất được quan tâm của các cơ
quan quản lý Nhà nước và các DNDMXK. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm ra phương
thức vượt RCKT phù hợp là hết sức cần thiết đối với mỗi Chính Phủ và các
DNDMXK.
Trong luận án này, tác giả đã tiếp cận phương thức vượt RCKT đối với hàng
dệt may xuất khẩu theo hướng tích cực, chủ động, tôn trọng lợi ích của đối tác, tuân
thủ cam kết quốc tế để bảo vệ lợi ích của mình.
RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu là một phạm trù của thương mại quốc
tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT đối với hàng
dệt may xuất khẩu, nhưng vai trò của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại,
các tổ chức xã hội dân sự khác trong và ngoài nước là vô cùng quan trọng để doanh
nghiệp có thể vượt qua RCKT và xuất khẩu thành công..
Vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất xuất khẩu đòi hỏi sự nỗ lực của toàn
xã hội, không chỉ doanh nghiệp mà còn là Nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự, cả
trong nước và quốc tế. Trong đó, trách nhiệm chính và sự phối kết hợp giữa các bên
liên quan để vượt RCKT có thể thực hiện theo những phương thức sau:
- Doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT, đáp ứng các yêu cầu
kỹ thuật của thị trường nhập khẩu. Do đó, các DNDM cần:
41
Chủ động, tích cực tìm hiểu, nắm bắt kịp thời, chính xác và đầy đủ về
RCKT của các thị trường nhập khẩu.
Nhận diện đúng những tác động của RCKT đối với hàng dệt may xuất
khẩu để có biện pháp đổi mới, nâng cao năng lực nhằm đạt đến trình độ đáp ứng
được yêu cầu của nước nhập khẩu, vượt qua RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu.
Nói cách khác, trách nhiệm vượt RCKT chủ yếu thuộc về các doanh
nghiệp dù Nhà nước là một bên cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế và
Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong đáp
ứng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của các nước, phù hợp với quy định quốc tế
và cam kết với các đối tác.
- Nhà nước với vai trò tạo môi trường thuận lợi và hướng dẫn, hỗ trợ cho
doanh nghiệp vượt RCKT trên các phương diện:
Tuyên truyền, phổ biến các thông tin, quy định của các nước nhập
khẩu cho các DNDM nắm được và thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng
Tích cực triển khai các biện pháp hội nhập với thế giới, tăng cường
đàm phán, ký kết, tham gia các hiệp định TM song phương, khu vực và đa phương.
Hỗ trợ các cơ chế chính sách về đầu tư, tài chính, KHCN, môi trường,
đào tạo nhân lực cho ngành DM.
Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia hài hòa hóa với tiêu chuẩn quốc tế
và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các tiêu chuẩn ở các DNDM, sử dụng các quy
định, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá, thừa nhận kết quả thử nghiệm
Tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, những RCKT không hợp
lý cần phải yêu cầu các nước nhập khẩu cắt bỏ.
Lựa chọn đối tác xuất khẩu phù hợp với năng lực
Cảnh báo sớm về RCKT của các nước nhập khẩu cho các DNDM biết
được để có biện pháp, kế hoạch ứng phó kịp thời.
- Hiệp hội là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp cùng phối hợp thực
hiện vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu. Vai trò của Hiệp hội là rất quan
trọng trong vượt RCKT. Hiệp hội đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng cho doanh
nghiệp, là một kênh quan trọng tập hợp và liên kết doanh nghiệp để vượt RCKT.
Hiệp hội hỗ trợ các DN vượt RCKT thông qua các hình thức:
42
Tham gia hợp tác với các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ trong và ngoài nước, cung cấp thông tin, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vượt RCKT
Tạo sự liên kết gắn bó chặt chẽ giữa các DN trong ngành dệt may hỗ
trợ nhau vượt rào.
- Sự phối kết hợp giữa Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp là không
thể thiếu để vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu. Doanh nghiệp đối diện
trực tiếp với RCKT, phải chủ động, tích cực tìm mọi biện pháp để vượt qua
RCKT, đưa hàng vào thị trường nước nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu
doanh nghiệp không được sự hậu thuẫn, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước thì rất khó
có thể vượt qua được RCKT. Trong thực tiễn, có thể những quy định, tiêu chuẩn
của các nước nhập khẩu hàng dệt may là cần thiết và hợp lý để bảo về lợi ích quốc
gia, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng do chênh lệch
về trình độ phát triển, các doanh nghiệp nước xuất khẩu chưa đủ năng lực để vượt
qua ngay thì Nhà nước cần can thiệp, tham gia đàm phán với nước đối tác để đảm
bảo một thời kỳ quá độ cho DN, đồng thời Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ DN xây dựng
đủ năng lực vượt rào cản. Trong nhiều trường hợp, RCKT do các nước nhập khẩu
đặt ra là bất hợp lý, quá mức cần thiết nhằm bảo hộ thương mại, Nhà nước cần
thông qua các định chế thương mại quốc tế và các cơ chế thích hợp khác, sát cánh
cùng doanh nghiệp đấu tranh yêu cầu nước nhập khẩu dỡ bỏ các RCKT bất hợp lý
này, v.v.
- Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế để vượt qua RCKT của nước
nhập khẩu: Nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp dệt may đều cần tích cực tranh thủ
sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế để vượt qua RCKT đối với hàng dệt may của các nước
nhập khẩu thông qua các kênh hợp tác đa dạng, hiệu quả. Đó là các hỗ trợ kỹ thuật
xây dựng, tăng cường năng lực thực thi các hiệp định thương mại quốc tế cho các
đối tác kém phát triển hơn. Đó là các hỗ trợ, giúp đỡ của các định chế kinh tế
thương mại quốc tế cho phát triển bền vững hay các liên kết, hợp tác giữa các doanh
nghiệp trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, liên kết giữa các nhà xuất khẩu với
các nhà nhập khẩu, phân phối hàng dệt may, liên kết với các hiệp hội bảo vệ người
tiêu dùng các nước nhập khẩu, v.v.
Nguồn hợp tác,
hỗ trợ quốc tế
43
Vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của một nước
Nhà nước Hiệp hội
Quy định
Quy
Quy định
Quy định
Quy
Quy định
và TC AT
định và
và TC ghi
định và
và TC về
cho người
TC môi
nhãn
TC
xuất xứ
sử dụng
và TC CLSF
trường
TNXH
Doanh nghiệp
Hoa Kỳ EU Nhật Bản
RCKT của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng dệt may
Hình 1.2. Khung phân tích vượt RCKT đối với hàng dệt may XK
Chú thích: ----- Gián tiếp vượt rào cản; Trực tiếp vượt rào cản
Nguồn: Đề xuất của tác giả
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với
hàng dệt may xuất khẩu của một quốc gia
1.2.3.1. Các nhân tố quốc tế
(i) Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu
cực tới năng lực vượt RCKT của hàng DMXK của một quốc gia. Toàn cầu hóa và
44
hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại dựa trên
các hiệp định thương mại đa phương, khu vực và song phương. Hiệp định TBT của
WTO và các quy định về TBT trong các hiệp định tự do thương mại song phương
và khu vực khác tạo khung khổ pháp lý thuận lợi cho tiếp cận thị trường đối với
hàng DMXK do các yêu cầu ràng buộc các nước tham gia phải tuân thủ những
nguyên tắc và điều kiện của hiệp định TBT khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn,
tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình đánh giá hợp chuẩn, hợp quy của hàng hoá.
Việc bắt buộc phải tuân thủ các quy định này đã hạn chế các nước đưa ra những
biện pháp kỹ thuật quá mức cần thiết gây cản trở cho thương mại. Mặt khác, việc
tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương, khu vực và đa phương, bao
giờ cũng bao gồm các điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực cho các
thành viên kém phát triển hơn để hội nhập thành công, những hỗ trợ kỹ thuật này
cũng giúp tăng cường năng lực vượt RCKT trong thương mại. Tuy nhiên, toàn cầu
hóa và tự do hóa thương mại cũng có tác động làm gia tăng việc sử dụng các RCKT
thay cho biện pháp bảo hộ truyền thống bằng thuế quan mà các nước tham gia các
hiệp định tự do thương mại phải cam kết cắt giảm và loại bỏ.
(ii) Thế giới chuyển sang nền kinh tế tri thức với sự phát triển vượt bậc của
khoa học và công nghệ
Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh sang kinh tế tri thức cùng với sự phát
triển vượt bậc của KHCN đã tạo điều kiện cho các biện pháp kỹ thuật phát triển và
sự phát triển này cũng đem đến cả những tác động tích cực và tiêu cực đối với khả
năng vượt RCKT của các quốc gia.
Trong thế giới toàn cầu hóa, chuyển sang kinh tế tri thức và sự phát triển
mạnh mẽ của KHCN, đời sống của người dân được nâng cao như ngày nay phải
thừa nhận một thực tế là các RCKT có điều kiện để phát triển nở rộ, khiến cho các
nước XK càng khó vượt qua các các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt,
tinh vi, đa dạng và phức tạp hơn của các nước nhập khẩu, nhất là các nước phát
triển. Tuy nhiên và trên hết là sự lan truyền của tri thức và KHCN trên phạm vi toàn
cầu thông qua hoạt động thương mại, với KHCN trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp đã tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của kinh tế thế giới cũng như kinh tế của
45
các quốc gia. Trình độ phát triển và trình độ KHCN được cải thiện, nâng cao tạo ra
năng lực đáp ứng và vượt RCKT tốt hơn cho các nước XK. Hơn nữa, năng lực đáp
ứng và vượt RCKT được nâng cao lại tác động tạo ra sự chuyển biến về chất cho
nền kinh tế, giúp nâng cao trình độ phát triển và chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế sang hiệu quả và sáng tạo hơn.
(iii) Toàn cầu hóa và điều phối chính sách liên chính phủ và toàn cầu cho
phát triển bền vững
Thế giới ngày nay, bên cạnh những vấn đề kinh tế hậu khủng hoảng chưa
giải quyết được, còn đang phải đối mặt với những vấn đề xã hội và môi trường.
Nhiều công ước quốc tế về môi trường liên quan đến thương mại đang được
các nước cam kết thực hiện. Các hiệp định môi trường đa biên cũng đã tính đến
những vấn đề thương mại có ảnh hưởng đến môi trường, đồng thời cũng xem xét các
vấn đề môi trường có ảnh hưởng đến tự do thương mại nhằm điều hoà giữa mục đích
bảo vệ môi trường và tăng trưởng thương mại. Các biện pháp trong các hiệp định môi
trường quốc tế được áp dụng đối với việc vận chuyển buôn bán, trao đổi, khai thác
các sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường như chất thải độc hại, động vật hoang dã,
các nguồn gien thực động vật, các chất phá huỷ tầng ôzôn, biến đổi khí hậu...
Các công ước quốc tế về con người, chẳng hạn như Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, cũng có ảnh hưởng đến XK thương mại hàng DM. Chẳng hạn, việc
sử dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân là nguyên nhân của việc từ chối nhập
khẩu hàng hóa sử dụng các dạng lao động nói trên. Tương tự, điều kiện lao động
không được đảm bảo, chẳng hạn như môi trường lao động độc hại, điều kiện sinh
sống và làm việc của công nhân không đảm bảo cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp
cận thị trường của hàng XK. Việc áp dụng tiêu chuẩn SA8000 là một biện pháp để
cải thiện môi trường cho người lao động.
Như vậy, toàn cầu hóa và sự điều phối chính sách liên chính phủ vì mục tiêu
phát triển bền vững cũng ảnh hưởng nhiều đến RCKT và khả năng vượt RCKT của
các quốc gia. Các ảnh hưởng tiêu cực có thể thấy rõ từ việc các nước gia tăng sử
dụng các tiêu chuẩn về môi trường và tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và luận cứ cho
sự cần thiết của các biện pháp này là nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
46
Tuy nhiên, sự điều phối, hợp tác chính sách liên chính phủ thông qua việc tham gia
các công ước quốc tế về lao động và môi trường cũng ngăn chặn xu hướng bảo hộ
thương mại của các quy định về tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội trong
khi lại có thể hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các nước để đáp ứng các tiêu chuẩn và
quy định này. Mặt khác còn giúp nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chính
phủ trong xây dựng và thực thi các chính sách, biện pháp nhằm đáp ứng các RCKT
về môi trường và trách nhiệm xã hội.
1.2.3.2. Các nhân tố trong nước
(i) Trình độ phát triển và trình độ KHCN của quốc gia
Trình độ phát triển và trình độ KHCN của quốc gia là yếu tố tác động trực
tiếp tới khả năng vượt RCKT. Sở dĩ như vậy là vì RCKT là những quy định, biện
pháp về mặt kỹ thuật, nếu một nước không đủ trình độ và kỹ năng về KHCN thì rất
khó trong việc đáp ứng các yêu cầu về mặt kỹ thuật của nước nhập khẩu. Trình độ
KHCN còn thấp kém của các nước đang và kém phát triển đã ảnh hưởng rất lớn tới
khả năng vượt RCKT của hàng DMXK các nước này. Vì vậy, một trong những nỗ
lực để vượt RCKT đối với hàng DMXK là Việt Nam phải cố gắng nâng cao trình
độ KHCN của quốc gia, của DN
(ii) Năng lực quản lý của Nhà nước: Là một trong những yếu tố quan trọng
nhất tác động đến khả năng vượt RCKT của quốc gia. Năng lực quản lý của Nhà
nước trong vượt RCKT đối với hàng DMXK được phản ánh qua:
- Khung khổ luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với vượt RCKT, từ việc
thực hiện tự do hóa thương mại; hội nhập quốc tế song phương, khu vực, đa phương
đến việc ban hành và thực thi các biện pháp chính sách hỗ trợ DN vượt RCKT. Tham
gia các hiệp định tự do thương mại, các công ước, điều ước quốc tế về môi trường,
lao đông,… đã mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường cho hàng XK và tạo cơ sở pháp
lý cho việc ngăn chặn, đối phó với các RCKT phi lý của nước nhập khẩu.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích
DN vượt RCKT, đẩy mạnh XK
- Tạo dựng môi trường kinh doanh thân thiện thị trường và cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng về cơ hội cho mọi chủ thể kinh doanh
47
- Điều phối, hợp tác chính sách liên chính phủ về RCKT
Năng lực QLNN cao hay thấp phụ thuộc vào năng lực thể chế và chuyên
môn của bộ máy quản lý các cấp, từ cán bộ quản lý, đến cơ chế tổ chức vận hành bộ
máy quản lý và trình độ trang thiết bị kỹ thuật, thông tin của quản lý,...
(iii) Năng lực của doanh nghiệp
Năng lực của DN là yếu tố quyết định tới khả năng vượt RCKT đối với hàng
DMXK. Các yếu tố cơ bản tạo ra năng lực của DN gồm [32]:
- Năng lực nghiên cứu và phát triển: khả năng phát triển sản phẩm
mới, cải tiến quy trình công nghệ…
- Công nghệ sản xuất: máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, mức độ
tự động hóa…
- Nguồn nhân lực: Cán bộ quản lý, điều hành sản xuất, công nhân, phục vụ…
- Cơ sở hạ tầng: Mặt bằng sản xuất, nhà xưởng, giao thông nội bộ, điện
nước, hệ thống xử lý chất thải…
- Tài chính: Nguồn vốn chủ sở hữu, cơ cấu vốn, khả năng huy động vốn…
Tùy thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất cũng như chu kỳ kinh doanh của sản
phẩm mà vai trò và tác động của các yếu tố này có thể khác nhau. Đ ối với các
DNDM, khi tập trung phát triển thương hiệu/ mẫu mã mới, thì năng lực nghiên
cứu phát triển có ý nghĩa quyết định. Các yếu tố này tác động tương hỗ với
nhau và tạo thành nền tảng cơ bản của DN.
(iv) Liên kết Nhà nước - doanh nghiệp – hiệp hội, liên kết và hợp tác quốc tế.
Nhà nước tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ cho các DN
vượt RCKT. Các mối liên kết khác là chất xúc tác thúc đẩy hoạt động của các
DN. Các hiệp hội sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các DN khi phải đối mặt với những
rào cản kỹ thuật. Sự liên kết giữa các DN trong hiệp hội cùng với các cơ quan
chức năng của nhà nước, các nhà phân phối, các tổ chức xã hội dân sự nước ngoài,
v.v sẽ làm tăng trọng lượng của các ý kiến, đề nghị đối với chính quyền nước
nhập khẩu. Sự chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và các nguồn lực khác cũng sẽ tạo
cho DN giảm thiểu những khó khăn của họ. [32]
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT của một quốc gia thì
48
nhóm nhân tố thuộc về quốc gia XK (nhân tố trong nước) giữ vai trò quan trọng
nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững và hiệu quả của xuất khẩu hàng DM. Và
trong số các nhân tố trong nước này thì trước hết nhân tố thuộc về tư duy nhận thức
của Nhà nước, DN và người dân đối với sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may giữ vai
trò quan trọng nhất, có thể thúc đẩy hoặc cản trở việc đáp ứng RCKT.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM.
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc [86], [97], [98]
Trung Quốc là nước XK hàng hoá tới nhiều nước nhất trên thế giới, trong đó
hàng DM là một trong những mặt hàng XK chính, vì sản phẩm DM có sức cạnh
tranh trên thị trường với giá thành thường thấp hơn các nước khác. Đó cũng chính
là lý do các nước trên thế giới tìm mọi cách hạn chế hàng DM Trung Quốc để bảo
hộ ngành DM trong nước. Theo đánh giá của Bộ Thương mại Trung Quốc, các
DNDM Trung Quốc thường gặp phải rất nhiều rào cản trong XK, đặc biệt là RCKT
của Hoa Kỳ, EU. Trước tình trạng DM trong nước gặp nhiều khó khăn khi đối phó
với rào cản này, Trung Quốc đã đề ra các đối sách sau:
- Các biện pháp vượt RCKT được chính phủ Trung Quốc thông qua:
(i) Tăng cường giao lưu và đàm phán giữa các quốc gia để giảm RCKT.
Chính phủ Trung Quốc đã tham gia tích cực vào đàm phán quốc tế song
phương và đa phương và tăng cường đối ngoại với chính phủ của các quốc gia phát
triển để đạt được biên bản ghi nhớ giữa các quốc gia và giảm RCKT nhiều nhất có
thể. Thông qua củng cố hoạt động đối ngoại, trao đổi và xây dựng lòng tin với các
đối tác quốc tế, các ngành liên quan, người tiêu dùng, nhóm xã hội, tổ chức kinh tế
& chính trị và các cá nhân, chính phủ Trung Quốc cố gắng loại bỏ những nghi ngại,
tạo lòng tin trong cộng đồng quốc tế về chất lượng an toàn tiêu dùng của hàng dệt
may Trung Quốc, qua đó mà giảm bớt RCKT đối với hàng DMXK của nước này.
(ii) Hình thành cơ chế thu nhập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất: Bộ
Thương mại Trung Quốc đã xây dựng và ban hành quy chế về thu nhập và xử lý
49
thông tin, trong đó giao rõ nhiệm vụ cụ thể cho các đại diện thương mại ở nước
ngoài có trách nhiệm cung cấp thông tin cho Bộ Thương mại nói chung và bộ phận
chuyên trách rào cản kỹ thuật nói riêng.
(iii) Thúc đẩy áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, đưa ra nhiều quy tắc và tiêu chuẩn
kỹ thuật trong nước phù hợp với các thị trường trên thế giới.
Theo thống kê, 70-80% tiêu chuẩn công nghệ hiện tại của Trung Quốc thấp
hơn tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn tiên tiến nước ngoài và thiết bị kỹ thuật tụt
hậu so với các nước phát triển từ 10 đến 20 năm. Chính phủ tăng cường tuyên
truyền, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000 về tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng
và quản lý chất lượng và ISO 14000 về tiêu chuẩn quản lý môi trường. Dù tiêu
chuẩn ISO không phải là tiêu chuẩn bắt buộc nhưng đó là tiêu chuẩn có thể tin
tưởng trên thế giới. Thúc đẩy sử dụng tiêu chuẩn ISO là tấm hộ chiếu cho các sản
phẩm gia nhập thị trường quốc tế.
Đối mặt với yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt hơn của RCKT nước ngoài, Trung
Quốc đưa ra và hoàn thiện các quy định kỹ thuật về sản phẩm may mặc, sức khoẻ
và bảo vệ môi trường. Trung Quốc bổ sung và hoàn thiện các biện pháp hiện tại về
kiểm tra sản phẩm may mặc, nâng cao tính chính xác và độ tin cậy của các biện
pháp kiểm tra, tăng cường tiêu chuẩn bắt buộc và các quy định kỹ thuật và thúc đẩy
hệ thống “nhãn mác bảo vệ môi trường”.
(iv) Thành lập cơ quan đặc biệt và thực hiện nghiên cứu nghiêm túc về thoả
thuận TBT.
Các ban ngành liên quan của Trung Quốc thành lập các cơ quan đặc biệt, tổ
chức cho các chuyên gia tham gia vào quy định các tiêu chuẩn quốc tế và phản ánh
một số quan điểm và yêu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Trung
Quốc về các tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ thành lập và hoàn thiện cơ chế phản ứng
nhanh và cảnh báo sớm bằng cách tham khảo cơ chế cảnh báo sớm của EU được
chia thành bốn cấp độ từ thấp đến cao bao gồm xanh, vàng, cam và đỏ. Khi xuất
khẩu tăng mạnh, chính phủ có thể điều chỉnh cấp độ cảnh báo sớm để nhắc nhở các
doanh nghiệp nội địa về sự thay đổi. Do vậy, cơ chế cảnh báo sớm có thể tạo điều
kiện cho sản phẩm may mặc Trung Quốc xâm nhập thị trường quốc tế.
50
(v) Tăng cường bồi dưỡng nhân tài.
Ở phạm vi nào đó, cạnh tranh thị trường là cạnh tranh nhân tài. Để có thể xử
lý vấn đề đối phó với các RCKT một cách có hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc
tế, Trung Quốc rất coi trọng việc đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình
độ cao, đồng thời những cán bộ này sẽ thường xuyên tuyên truyền thông tin tới các
DN những kiến thức về các quy định chung của WTO, cũng như quy định riêng của
từng nước.
- Các biện pháp vượt RCKT của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc
(i) Các DNDM của Trung Quốc đã chủ động áp dụng các biện pháp vượt
RCKT như: đầu tư tiến bộ KHKT để cải thiện chất lượng sản phẩm và kết cấu sản
phẩm XK, bồi dưỡng nhân tài kỹ thuật, xây dựng thương hiệu DM của Trung Quốc
Chất lượng sản phẩm là chìa khoá cho sự tồn tại và phát triển của một doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp Trung Quốc phải đầu tư nhiều hơn vào khoa học và công
nghệ, cải thiện phần kỹ thuật của sản phẩm, quảng bá các sản phẩm mới trên thị
trường quốc tế hay thực hiện đổi mới kỹ thuật để làm cho kết cấu sản phẩm xuất
khẩu thoả mãn yêu cầu của nhiều người tiêu dùng khác nhau, đặc biệt là người tiêu
dùng của các quốc gia phát triển. Đối với TBT ở thị trường EU, Mỹ và Nhật Bản,
các doanh nghiệp điều chỉnh lại kết cấu sản phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật được
thay đổi nhằm giúp các sản phẩm thâm nhập các thị trường lớn.
Một mặt, chính phủ Trung Quốc đã bồi dưỡng nhân tài. Mặt khác, các doanh
nghiệp Trung Quốc cũng bồi dưỡng nhân tài và chuyên gia xuất khẩu tại các phòng
kiểm tra chất lượng và các phòng quản lý tài chính, nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn
của chính các doanh nghiệp. Việc bồi dưỡng nhân tài thông qua luyện tập để thay
đổi quan niệm cũ, đổi mới kiến thức, cải thiện chất lượng của chính doanh nghiệp
để đương đầu với cạnh tranh quốc tế khốc liệt.
Xây dựng những thương hiệu của chính Trung Quốc. Thương hiệu được tạo
ra thông qua quá trình rèn luyện lâu dài trên thị trường. Một thương hiệu quốc tế
danh tiếng biểu tượng cho các sản phẩm chất lượng cao, người tiêu dùng tin cậy và
trung thành. Các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc luôn cố
gắng xây dựng thương hiệu của chính mình và hình thành quan niệm sản phẩm
51
đáng tin cậy, chú trọng xúc tiến, quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm dệt may
Trung Quốc ở thị trường nước ngoài.
(ii) Tuân theo luật pháp, quy định và quản lý kinh doanh đáng tin cậy.
Thương mại quốc tế nhấn mạnh hiệu quả và sự tin cậy. Bất kể ai vi phạm luật
pháp thương mại quốc tế sẽ phải bị trừng phạt bởi các quy định. Tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội và tiêu chuẩn môi trường sinh thái đã trở thành RCKT chính đối với
hoạt động xuất khẩu sản phẩm may mặc Trung Quốc. Do vậy, ngành may mặc
Trung Quốc trước hết thực hiện quy định lao động nghiêm ngặt, bám vào ý tưởng
định hướng con người và duy trì quyền của người lao động; thứ hai, các doanh
nghiệp Trung Quốc thiết lập cơ chế phản ứng nhanh; thứ ba, các doanh nghiệp
Trung Quốc thiết lập cơ chế giám sát chất lượng nghiêm ngặt, nâng cao ý thức bảo
vệ môi trường “xanh”. Các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện theo các quy định
bảo vệ môi trường trong toàn bộ quá trình sản phẩm từ nguyên liệu thô, sản xuất,
thiết kế, đóng gói và thải loại sau khi sử dụng các sản phẩm may mặc, thúc đẩy xác
thực bảo vệ môi trường sinh thái theo tiêu chuẩn quốc tế; thứ tư, các doanh nghiệp
Trung Quốc thiết lập cơ chế dịch vụ tin cậy.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ [83]
Ấn Độ cũng có một số lợi thế riêng của mình so với Trung Quốc. Trước tiên,
Ấn Độ hiện là nước sản xuất chỉ lớn nhất thế giới, chiếm 25% thị phần thế giới,
đồng thời cũng là nhà sản xuất sợi cotton hàng đầu. Với lực lượng lao động có tay
nghề dồi dào, Ấn Độ hiện là nước có lợi thế cạnh tranh hơn Trung Quốc đối với hai
mặt hàng vải bông xù, vải bông chéo. Ấn Độ có nguồn nguyên liệu ổn định, phong
phú cung cấp cho các nhà máy, thậm chí một số nhà máy còn bán nguyên liệu cho
thị trường Trung Quốc.
Ấn Độ cũng vượt trội so với Trung Quốc trên thị trường cao cấp: họ có thể
cung cấp những lô hàng có số lượng ít may mặc và đồ dùng gia đình như ga giường,
khăn tắm, thảm, mền chăn có màu sắc, cách dệt và thêu theo yêu cầu của khách
hàng. Những nhà bán lẻ luôn tìm đến Ấn Độ do họ không muốn bị phụ thuộc hoàn
toàn vào Trung Quốc.
Tuy vậy, XK DM của Ấn Độ cũng gặp rất nhiều khó khăn khi xâm nhập vào
52
các thị trường lớn như Mỹ, EU do vấp phải các RCKT. Để giảm bớt ảnh hưởng của
các RCKT đó, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp như:
- Đối với Chính Phủ:
(i) Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình kiểm tra lô
hàng và cơ chế cấp giấy chứng nhận. Nhiều DN xuất khẩu đã bị đối xử bất công từ
nước nhập khẩu trong các trường hợp liên quan đến kiểm tra và chứng nhận các tiêu
chuẩn. Chính phủ Ấn Độ cử ít nhất một cơ quan được nước ngoài công nhận đạt
chuẩn kiểm tra và xác nhận để bảo vệ lợi ích của DN xuất khẩu.
(ii) Chính phủ còn áp dụng các biện pháp mà các nước đã sử dụng với mình
như kiện bán phá giá mặt hàng khác. Ấn Độ cũng sử dụng một loạt các biện pháp
thuế quan và phi thuế với các mặt hàng của các nước xuất sang Ấn Độ để thực hiện
mục đích làm cho các nước giảm các RCKT với hàng DM.
- Đối với các DN dệt may của Ấn Độ:
(i) Lựa chọn một thế hệ các nhà quản lý mới trong ngành DM với chủ
trương quan tâm đến hoạt động sáp nhập nhằm nâng cao chất lượng và tiết kiệm
chi phí. Với việc sáp nhập các DNDM vừa và nhỏ, DM Ấn Độ có thể hình thành
các DN với quy mô lớn, đủ vốn để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng và máy móc,
đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, các yêu cầu về sinh thái và bảo vệ người
lao động.
(ii) Tiếp cận, liên kết với DN của các nước liên quan để giảm bớt chi phí, hạ
thấp các rào cản khi XK hàng DM vào các thị trường lớn: Các DN DM Ấn Độ đã
chủ động liên kết, hợp tác với các nhà XK DM các nước vùng Andes là Ecuador,
Colombia, Peru để tận dụng cơ hội từ hiệp định thương mại song phương mà Mỹ,
EU đã ký với các nước này. Một điều khoản trong hiệp định cho phép 3 nước trên
được XK vào thị trường Mỹ, EU các sản phẩm dệt làm bằng nguyên liệu từ nước
thứ 3. Nếu thiết lập được các liên doanh, các DN Ấn Độ vừa tiết kiệm được chi phí
vận tải, vừa dễ dàng vào được thị trường lớn [45]. Khó có thể cạnh tranh về giá cả
với Trung Quốc, các DN Ấn Độ tìm cách hướng sang chất lượng và mẫu mã, đa
dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa quan hệ thương mại để vượt RCKT.
53
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, Thái Lan luôn tìm cách đáp ứng
các yêu cầu và biện pháp kỹ thuật có tính rào cản của các nước để đẩy mạnh xuất
khẩu. Điểm mạnh của Thái Lan là sản phẩm dệt may chất lượng cao, năng suất cao,
kỹ năng thiết kế mẫu mã tốt. Đối với RCKT, Thái lan luôn chủ động phòng ngừa và
dự báo. Một mặt, tranh thủ người tiêu dùng, mặt khác Bộ Thương mại Thái Lan
luôn tìm cơ hội để giảm tổn thất cho ngành dệt may đến mức thấp nhất.
- Về phía Chính Phủ, Thái Lan yêu cầu các nhà sản xuất phải có giấy chứng
nhận đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm xuất
khẩu. Đặc biệt, Chính phủ Thái Lan đưa ra các biện pháp mạnh, đồng bộ từ trung
ương đến địa phương để quản lý và xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.
Chú ý đến các biện pháp quản lý nguyên liệu nhập khẩu, chú trọng khâu kỹ thuật.
Thêm vào đó, Chính phủ còn thành lập nhiều trung tâm kiểm tra chất lượng sản
phẩm xuất khẩu, khuyến khích các DNDM áp dụng các biện pháp bảo vệ môi
trường, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ người lao động.
Chính phủ Thái Lan đã thiết lập một quy trình giải quyết các vướng mắc
liên quan đến TBT. Khi nhận được văn bản báo cáo về việc hàng xuất khẩu của
Thái Lan bị giữ tại cửa khẩu, lãnh sự Thái Lan tại quốc gia đó sẽ thu thập thông
tin đầy đủ và yêu cầu DN xuất khẩu của Thái Lan kiểm tra lại sản phẩm của mình.
Nếu lệnh cấm đó dựa trên thông tin sai lệch, phía Thái Lan sẽ chủ động thương
lượng. [99].
Mặt khác, kinh nghiệm của Thái Lan đối phó với các rào cản kỹ thuật của
các nước còn là áp dụng lại các biện pháp mà các nước đã sử dụng với mình như
kiện bán phá giá mặt hàng khác. Thái Lan cũng sử dụng một loạt các biện pháp thuế
quan và phi thuế với các mặt hàng của các nước xuất sang Thái Lan để thực hiện
mục đích khiến các nước giảm các rào cản kỹ thuật với hàng dệt may, v.v.
- Với các DN của Thái Lan, họ tập trung đầu tư công nghệ, các phương tiện
hiện đại để có thể kiểm định chất lượng tại chỗ, đáp ứng tốt các tiêu chuẩn kỹ thuật
của đối tác kinh doanh.[18]
54
1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam [15],[32],[56],[57]
1.3.2.1. Bài học thành công có thể vận dụng
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan là những nước có nhiều điểm tương đồng với
Việt Nam và các nước này có kim ngạch XK hàng DM lớn trên thế giới. Qua
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước này về vượt RCKT đối với hàng DMXK, cho
phép rút ra một số bài học hữu ích sau đây:
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
(i) Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, tuyên truyền, phổ biến cho DN về
các quy định, chính sách thương mại của các nước nhập khẩu đối với hàng DM.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy để đối phó với RCKT hàng DM, vấn
đề thu thập thông tin cho DN có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Đây là công việc
và trách nhiệm của các cơ quan QLNN, các hiệp hội, các cơ quan tư vấn và đào tạo.
Để các DNDM chủ động chuẩn bị các điều kiện nhằm vượt rào cản trong XK
hàng vào thị trường lớn trên thế giới, các nước trong đó có Trung Quốc, rất coi trọng
công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật cũng như chính sách thương mại của
những nước nhập khẩu. Việc này được thực hiện bởi các tổ chức Chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ và các cơ quan thông tin, tư vấn pháp luật... Nhờ có sự chuẩn bị
chu đáo nên các DN có khả năng vượt rào cản tương đối thuận lợi.
(ii) Đổi mới QLNN, nâng cao năng lực đàm phán, giải quyết tranh chấp
thương mại của Nhà nước: Đây là biện pháp rất quan trọng đã giúp Trung Quốc
thành công trong vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM. Việc gia nhập WTO đòi hỏi
Trung Quốc không những phải tăng nhanh cải cách thể chế pháp lý theo hướng kinh
tế thị trường, mà còn đòi hỏi Chính phủ Trung Quốc phải dựa vào các quy luật kinh
tế thị trường để quản lý và điều tiết nền kinh tế đất nước, tách rời QLNN và DN,
các chính sách của nhà nước phải được minh bạch hoá, quy phạm pháp luật phải
được thể chế hoá và Trung Quốc phải chú trọng đến việc nghiên cứu và đưa ra các
chính sách hợp lý. Mặc dù đã có các quy định của WTO về các nguyên tắc và các
biện pháp có thể được áp dụng khi ban hành các chính sách thương mại và các quy
định về tiêu chuẩn kỹ thuật có tính chất như RCTM để thực hiện mà không vi phạm
quy định về đối xử quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tế quan hệ thương mại song
55
phương vẫn thường phát sinh những vấn đề tranh chấp. Kinh nghiệm của các nước
trong việc giải quyết vấn đề này thường là chủ động đàm phán để có được các nhân
nhượng thương mại tạm thời. Khi không thoả thuận được để có những nhân nhượng
tạm thời thì cần cân nhắc tới lợi ích kinh tế để có các ứng xử khi giải quyết tranh
chấp hơn là theo đuổi các mục tiêu “ta đúng, đối tác sai”. Tăng cường năng lực đàm
phán và giải quyết tranh chấp sẽ giúp các chính phủ có các đối sách sáng suốt và
phù hợp để giải quyết tranh chấp thương mại.
(iii) Đầu tư các nguồn lực nhằm thúc đẩy tiến bộ KHKT, bồi dưỡng nhân tài
trong lĩnh vực dệt may, cơ chế chính sách tài chính, đầu tư… giúp DN vượt RCKT
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp của Trung Quốc trên thị
trường thế giới và trong nước, Trung Quốc cho rằng tuyệt đối không thể thiếu việc
thúc đẩy tiến bộ KHCN. Không thể chỉ dựa vào hoạt động nhập khẩu KHCN để
nâng cao số lượng và chất lượng của sản phẩm mà Nhà nước cần phải đầu tư cho
nghiên cứu, ứng dụng KHCN ngay trong nước. Do vậy, Trung Quốc cũng đã xây
dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý cho hoạt động sáng tạo khoa học kỹ
thuật phù hợp với thể chế của nền kinh tế thị trường và các nguyên tắc của WTO.
Trung Quốc căn cứ vào các Hiệp định và điều khoản ưu đãi cho các nước đang phát
triển để xây dựng và hoàn thiện các chính sách về tài chính, đầu tư, thuế cho hoạt
động nghiên cứu triển khai cho DN. Nhà nước Trung Quốc còn chủ trương giảm số
lượng và giảm tỷ trọng đầu tư cho các cơ quan nghiên cứu của Bộ, ngành, thúc đẩy
cải cách của các viện nghiên cứu, quyết tâm đào thải các xí nghiệp và các sản phẩm
có tính năng kỹ thuật lạc hậu, tốn nguyên liệu, tổn hại đến môi trường. Tạo điều
kiện tốt cho tất cả các nhân tài khoa học kỹ thuật được tuyển chọn và sử dụng theo
hướng thị trường hoá để họ có thể phát huy tối đa năng lực của mình.
(iv) Chính phủ và các Bộ ngành liên quan luôn chú ý, quan tâm và hỗ trợ
thích hợp cho việc thành lập các trung tâm kiểm tra chất lượng đối với các sản
phẩm xuất khẩu, yêu cầu các nhà xuất khẩu phải có giấy chứng nhận đảm bảo tiêu
chuẩn quốc gia. Đồng thời, Chính phủ hỗ trợ các DNXK trong quá trình kiểm tra
các lô hàng xuất khẩu, cơ chế cấp giấy phép….Đây là một trong số các chính sách,
biện pháp hết sức hiệu quả để đáp ứng các RCKT của đối tác đưa ra, đồng thời góp
56
phần loại bỏ các DNXK, các hàng hóa không đáp ứng tiêu chuẩn nhưng vẫn xuất
khẩu và do đó bị đối tác nhập khẩu gây ách tắc và trả đũa.
- Bài học cho các DN dệt may Việt Nam:
(i) Chủ động và sẵn sàng đối phó với các RCKT của các nước nhập khẩu
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, cần phải xác định rõ việc đối phó và tìm
cách vượt RCKT đối với hàng DM là tất yếu và các DNDM cần chủ động. Các
DNDM vừa chủ động tìm hiểu, nghiên cứu về các quy định, tiêu chuẩn của các nước
nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường lớn vừa đề nghị các cơ quan Nhà nước hỗ trợ.
Chủ động nâng cao năng lực nội tại để đáp ứng với RCKT như đầu tư đổi mới trang
thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm và an toàn cho sử dụng; tích cực chuyển
hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội. Các DN của
cả Trung Quốc và Ấn Độ đều tích cực đưa ra và áp dụng những biện pháp để có thể
cải tạo cơ sở sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, trách nhiệm xã hội giúp
hàng DM có thể dễ dàng vượt qua các RCKT mới của các thị trường nhập khẩu.
(ii) Có biện pháp phòng ngừa để giảm rủi ro thông qua các hoạt động đầu tư,
liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài trong các liên minh thương
mại có sự tham gia của các nước nhập khẩu chính để giảm bớt chi phí, hạ thấp các
rào cản khi XK hàng DM vào các thị trường lớn, nâng cao năng lực vượt rào. Kinh
nghiệm này của Ấn Độ rất đáng học hỏi vì đó là một cách tiếp cận thị trường hiệu
quả, tránh được các tác động lớn của RCTM.
Tuy nhiên, để vận dụng thành công các bài học kinh nghiệm ở trên thì Việt
Nam cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ quan, Bộ ngành từ Trung Ương đến địa
phương, cam kết chặt chẽ của các cấp lãnh đạo, sự phối hợp của cộng đồng doanh
nghiệp, sự ổn định của môi trường kinh tễ vĩ mô và có lộ trình áp dụng rõ ràng.
Đồng thời, Việt Nam cần chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện được các chương
trình, dự án nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng dệt may.
1.3.2.2. Bài học không nên vận dụng
Bên cạnh những bài học thành công có thể vận dụng, qua nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước nêu trên, có thể rút ra một số bài học cần tránh để không gặp
rủi ro, tổn thất.
57
- Thứ nhất, Việt Nam không nên áp dụng biện pháp trả đũa các nước nhập
khẩu. Việt Nam chưa đủ lớn, đủ mạnh như Trung Quốc để có những biện pháp trả
đũa các biện pháp của các nước nhập khẩu. Và nếu bị trừng phạt như Trung Quốc,
nền CNSX hàng DMXK của Việt Nam rõ ràng bị đe dọa và chắc chắn sẽ chịu nhiều
thiệt thòi [32]. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy trong quá trình thiết lập quan
hệ thương mại với các quốc gia phát triển trên thế giới, cần phải chủ động trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh và điều tiết XK.
- Thứ hai, Việt Nam không nên áp dụng chính sách phát triển quá n h a n h
đối với hàng DM vì có thể dẫn đến việc đứng trước nguy cơ đánh mất thị phần.
Bài học từ Trung Quốc cho thấy, các DNDM ở các nước đã phải lên tiếng kêu
gọi chính phủ của họ tìm các biện pháp giúp đỡ và Trung Quốc đã bị tái áp hạn
ngạch tại thị trường EU, Hoa Kỳ.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật thương mại ngày nay không chỉ là vấn đề của mỗi
quốc gia nói riêng mà mang tính toàn cầu. Chương 1 của luận án đã nghiên cứu,
làm rõ, hệ thống hóa và phát triển một số vấn đề lý luận về rào cản kỹ thuật và vượt
rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế đối với hàng dệt may xuất khẩu. Cụ thể,
tác giả đã đưa ra và luận giải khái niệm về rào cản kỹ thuật, vượt rào cản kỹ thuật,
đồng thời thể hiện rõ quan điểm của mình trong phân loại rào cản kỹ thuật, các loại
rào cản kỹ thuật chính đối với hàng dệt may xuất khẩu. Luận án cũng phân tích
luận giải về phương thức vượt RCKT và hình thành khung phân tích về vượt RCKT
đối với hàng dệt may xuất khẩu.
Ngoài ra, nội dung chương 1 cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt rào cản
kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan cả trên bình diện nhà nước và doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp
hỗ trợ của Nhà nước và các nỗ lực vượt RCKT của bản thân DN, rút ra những bài
học có thể áp dụng và không nên áp dụng vào Việt Nam.
Các nội dung trong chương 1 trên được sử dụng làm căn cứ xuyên suốt
trong toàn bộ luận án, từ việc đánh giá thực trạng, xác định các quan điểm, định
hướng đến việc đưa ra các giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK.
58
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG ĐỂ VƯỢT RÀO CẢN
2. 1. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY.
2.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam [46]
DM là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản phẩm DM của Việt Nam không ngừng phát triển
về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch, trở thành một trong số mặt
hàng XK chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những
thành công của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi
đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 6.000 doanh nghiệp dệt may; thu hút hơn 2,5
triệu lao động; chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công nghiệp Việt
Nam. Theo số liệu của VITAS, mỗi 1 tỷ USD xuất khẩu hàng dệt may có thể tạo ra
việc làm cho 150 - 200 nghìn lao động, trong đó có 100 nghìn lao động trong doanh
nghiệp dệt may và 50 - 100 nghìn lao động tại các doanh nghiệp hỗ trợ khác. Phần
lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (84%); tập trung ở Đông Nam
Bộ (60%) và đồng bằng sông Hồng. Các doanh nghiệp may chiếm khoảng 70%
tổng số doanh nghiệp trong ngành với hình thức xuất khẩu chủ yếu là CMT (85%).
Về cơ cấu XK: hàng DM của Việt Nam XK chủ yếu theo hình thức gia công
cho nước ngoài và nguyên vật liệu chủ yếu là nhập khẩu. Năm 2013, tỷ trọng hai
loại hình này chiếm hơn 96% trong tổng kim ngạch XK hàng DM của cả nước;
trong đó, xuất gia công chiếm 75, 3%, xuất sản xuất XK chiếm 21, 2%.
Về kim ngạch XK: Trong giai đoạn 2001 - 2012, dệt may là ngành sản xuất
có giá trị xuất khẩu cao chỉ đứng sau ngành dầu khí. Xuất khẩu dệt may liên tục
được mở rộng và là ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất nhưng chủ yếu
59
tăng trưởng về lượng. Tính bình quân cả giai đoạn, giá trị kim ngạch xuất khẩu
ngành hàng năm tăng khoảng 20%.
Về thị trường xuất khẩu: Hàng dệt may XK của Việt Nam hiện nay đã có mặt
ở 54 thị trường trên thế giới và hiện Việt Nam đứng trong top 5 nước xuất khẩu lớn
nhất thế giới, xuất khẩu lớn thứ 2 tại thị trường Hoa kỳ, thứ 3 tại thị trường Nhật Bản,
thứ 9 tại thị trường EU.
Trong các thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thì Hoa Kỳ luôn
dẫn đầu với kim ngạch đạt 8,550 tỷ USD, chiếm 42,71 % trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của cả nước trong năm 2013. Đồng thời trong số các nhóm hàng
của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ thì hàng dệt may cũng dẫn đầu với tỷ
trọng chiếm 37,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
EU với 28 nước thành viên hơn 500 triệu người tiêu dùng là một thị trường
tiêu thụ khổng lồ đối với mặt hàng dệt may thế giới, cũng là thị trường nhập khẩu
lớn thứ hai của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, lượng và kim ngạch
hàng dệt may của Việt Nam xuất sang khối này còn rất nhỏ bé so với tiềm năng của
thị trường, dẫu rằng kim ngạch xuất khẩu cũng đã tăng. Thị trường EU luôn đòi
hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục, mặt khác yêu cầu về môi trường
và trách nhiệm xã hội đối với hàng dệt may của EU cũng rất khắt khe. Vì vậy, điều
quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường EU là phải nâng cao chất lượng và
đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, đáp ứng tốt các rào cản kỹ thuật
mà EU đặt ra nhằm cạnh tranh với các nước khác để tăng XK sang thị trường này.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 3 của Việt Nam sau
thị trường Mỹ và EU, nhưng lại là thị trường có kim ngạch nhập khẩu tăng rất mạnh
thời gian từ 2007 đến nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
Nhật Bản đã tăng từ mức 700 triệu USD năm 2007 lên mức 2.410 triệu USD năm
2013. Hiện nay, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP của Nhật Bản. Đây là một trong những
thuận lợi lớn cho ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh không chỉ về
kim ngạch, mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh cả về khối lượng. Tuy
60
nhiên, hàng dệt may của Việt Nam đang phải đương đầu với sự cạnh tranh hết sức
khốc liệt của hàng dệt may Trung Quốc và của các nước ASEAN khác.
Với nhiều nỗ lực trong việc đổi mới qui trình công nghệ, trang bị máy móc
thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu, hàng dệt may
cũng đang dần chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản và tạo được ấn tượng tốt về
chất lượng và giá cả cũng như tính thời trang của sản phẩm đối với người tiêu dùng
Nhật Bản. Việt Nam chủ trương đánh giá cao thị trường này và coi đó là một bạn
hàng mang tính chiến lược lâu dài.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013 phân theo khu vực thị trường nhập khẩu
Đơn vị: Triệu USD
2009
2010
2011
2012
2013
Thị trường
2007
2008
4.995
6.118
6.872
7.428
8.550
Hoa Kỳ
4.400
5.100
1.603
1.883
2.506
2.356
2.890
EU
1.500
1.700
954
1.154
1.684
1.958
2.410
Nhật Bản
700
820
1.532
2.055
4.669
5.276
6.170
Khác
1.180
1.510
7.780
9.130
Tổng cộng
9.084
11.210 15.731
17.018
20.020
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
XK
Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng DM VN trong giai đoạn 2007-2013
Nguồn: Tổng cục Hải quan
61
2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam
thời gian qua.
Trong những năm qua, ngành DM Việt Nam đã trải qua không ít khó khăn
trở ngại, song ngành vẫn vượt qua và phấn đấu để đạt được những kết quả và thành
tựu lớn. Ngoài việc giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động xã hội,
ngành DM cũng đóng góp nhiều cho sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Kim ngạch XK DM không ngừng tăng qua các năm, đưa DM trở thành một trong
hai nhóm mặt hàng XK chủ lực có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam những năm
qua, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước để trang trải yêu cầu nhập khẩu máy
móc thiết bị công nghệ và nguyên vật liệu phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động và cải thiện thu nhập cho gia đình họ,
đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội và tăng nguồn
kinh phí cho bảo vệ môi trường.
Những thành tựu xuất khẩu dệt may trong thời gian vừa qua có một phần
nguyên nhân từ việc Việt Nam chủ động tự do hóa thương mại thông qua quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mà điểm quan trọng nhất là gia nhập WTO.
Nhờ quá trình này, các doanh nghiệp dệt may đã có tiếp cận tốt hơn đối với các thị
trường xuất khẩu, và được bảo vệ tốt hơn theo các quy định của WTO cũng như của
các hiệp định thương mại. Bên cạnh đó, sự phát triển của ngành dệt may, đặc biệt
trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng một phần nhờ các chính sách, biện pháp hỗ trợ của
Chính phủ Việt Nam, cũng như nỗ lực của Hiệp hội Dệt May Việt Nam. Chính phủ
đã có Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn
đến 2020, trong khi đó, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng góp phần đưa tiếng nói
của doanh nghiệp đến với các cơ quan quản lý, và thực hiện tốt công tác tìm hiểu
thị trường để phổ biến thông tin cho doanh nghiệp. Đồng thời, các DNDMVN cũng
chủ động tìm hiểu về thông tin, các quy định từ phía khách hàng từ đó sản xuất sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu của đối tác.
Ngành dệt may Việt Nam có một số điểm mạnh. Trước hết, trang thiết bị của
ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá cao. Các sản phẩm đã có chất
62
lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, và
Nhật Bản chấp nhận.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản
thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi
phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt.
Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về
xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản
thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở
rộng tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất
khẩu nói riêng, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể hiện xu hướng
tăng trong thời gian qua.
Tuy vậy, ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu
phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ
lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp.
Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa t-
ương xứng với ngành may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất
khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Như đã phân
tích ở trên, tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm
hơn so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành
may mặc đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy
động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính
quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô,
và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn
đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức
thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít
nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời
63
điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế
chính là những dẫn chứng tiêu biểu.
Mặt khác, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài
bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn
hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của
mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.
Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong
thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực
mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Bên cạnh
đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và
kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.
Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và
thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như
Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong
khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v). Những
cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư và mở ra những thị trường mới với các quan hệ hợp tác
mới. [31]
2.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CHÍNH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM.
2.2.1. Rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng
DMXK của Việt Nam
2.2.1.1. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ với hơn 313 triệu người tiêu dùng (năm 2012) và mức sống vào
hàng cao nhất thế giới là thị trường tiêu dùng hàng hóa lớn nhất thế giới. Thị trường
Hoa Kỳ có những yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với hàng hóa tiêu dùng và hệ thống
64
RCKT của Hoa Kỳ cũng vào loại khắt khe nhất thế giới. Đối với hàng DM, có thể
kể đến một số RCKT thương mại tiêu biểu của Hoa Kỳ như sau:
(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm DM. [52],[44],[70]
Điểm đặc biệt trong tiêu chuẩn chất lượng của Hoa Kỳ là ở chỗ nước này
không sử dụng tiêu chuẩn quốc tế và phụ thuộc nhiều vào các chứng chỉ bắt buộc.
Mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành ở
Hoa Kỳ tương đối thấp, thậm chí các tiêu chuẩn này không được biết đến tại Hoa
Kỳ dù rằng tất cả các thành viên tham gia Hiệp định TBT đều cam kết sử dụng rộng
rãi hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Một số tiêu chuẩn của Hoa Kỳ được coi là "tương
đương về mặt kỹ thuật" với các tiêu chuẩn quốc tế. Ở Hoa Kỳ, không có thị trường
thống nhất toàn liên bang đối với hàng DM do có sự khác biệt về yêu cầu kỹ thuật
và tiêu chuẩn sản phẩm giữa liên bang và bang, giữa các khu vực hoặc bang với
nhau, hoặc thậm chí giữa các quận và thành phố với nhau. Do vậy, các nhà sản xuất
nước ngoài muốn tiêu thụ những sản phẩm này tại các nơi khác nhau ở Hoa Kỳ phải
thay đổi các tiêu chuẩn cho phù hợp không những với tiêu chuẩn liên bang, mà còn
với các tiêu chuẩn ở các địa phương cụ thể. Sự thay đổi này sẽ phát sinh chi phí sản
xuất, điều này gây cản trở không nhỏ đối với các nhà XK nước ngoài.
Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng DM của Hoa Kỳ là vô cùng
phức tạp do nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các hiệp hội, các tổ chức
quốc tế nghiên cứu và phát triển, áp dụng tiêu chuẩn nào là tuỳ thuộc vào từng
khách hàng cụ thể. Ví dụ:
- Các tiêu chuẩn về kiểm tra màu sắc nhuộm sản phẩm dệt, công nghệ hoàn
tất, làm sạch sản phẩm DM do Hiệp hội các chuyên gia hoá học và màu sản phẩm
dệt của Hoa Kỳ (American Association of Textile Chemists and Colorists) và Tổ
chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO), Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ
(American Textile Manufacturers Institute) quy định.
- Đối với từng loại sản phẩm cụ thể cũng có những tiêu chuẩn chất lượng
riêng: các tiêu chuẩn về vải công nghiệp do Hiệp hội vải công nghiệp quốc tế
(Industrial Fabrics Association International), Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, Hiệp hội
65
các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ quy định; các tiêu chuẩn về quần áo ngủ do Hiệp
hội sản phẩm quần áo ngủ quốc tế (International Sleep Products Association) quy
định; các tiêu chuẩn về vải không dệt do Hiệp hội vải không dệt (Association of
Nonwoven Fabrics Industry), Hiệp hội kiểm tra và vật liệu Hoa Kỳ (American
Society for Testing and Materials) và Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế quy định.
(ii) Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng.
Hầu hết hàng DM nhập vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ các quy định của Luật
về Sản phẩm dễ cháy (FFA). Luật này có qui định về tính dễ bén lửa đối với hàng
DM. Theo quy định mới thì vải sợi, hàng DM nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải đáp ứng
tiêu chuẩn về vải dễ cháy để tránh trường hợp sản phẩm quá dễ cháy, gây hại cho
người tiêu dùng. Các loại vải mỏng, vải xốp thường dễ bắt cháy và cháy rất nhanh.
Các loại quần, áo, thảm, đồ ngủ của trẻ em... đều có mức tiêu chuẩn cháy khác nhau.
Không ai có thể XK vào Hoa Kỳ hàng may mặc hoặc đồ trang trí nội thất hoặc bất kỳ
loại vải hay chất liệu liên quan nào để sử dụng cho các sản phẩm đó, nếu người sản
xuất không tuân thủ các tiêu chuẩn về hàng dễ cháy. Có một số sản phẩm được nhập
vào Hoa Kỳ rồi gia công lại để giảm tính chất dễ cháy của chúng sao cho đáp ứng
được tiêu chuẩn của này, nếu có phải ghi trong hóa đơn hay giấy tờ liên quan khác
của lô hàng [58].
Cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ trên áo, đặc biệt là áo trẻ
em. Mặc dù luật đã cấm quần áo có dây thắt nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ lâu, nhưng
thời gian qua vẫn có nhiều loại quần áo trẻ em có dây thắt được nhập vào Hoa Kỳ.
Luật mới nghiêm khắc cấm điều này nên các nhà sản xuất Việt Nam phải chấm dứt
sản xuất hàng có dây thắt.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng có quy định mới về nồng độ chì trong sản phẩm. Từ
tháng 2-2009, các sản phẩm dệt sẽ chỉ được nhập khẩu vào Hoa Kỳ nếu đáp ứng
tiêu chuẩn về nồng độ chì. Bà Nancy A. Nord, ủy viên cao cấp của Ủy ban An toàn
sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ, cho biết: “Nồng độ cho phép thấp đến mức có thể
nói đơn giản là không có chì”.
Đặc biệt, hàng DMXK vào thị trường Hoa Kỳ phải có báo cáo kiểm tra của
66
phòng thí nghiệm về việc sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn mới. Chỉ những phòng thí
nghiệm đạt chuẩn, được công nhận theo tiêu chuẩn quốc tế mới có chức năng kiểm
tra sản phẩm và đưa ra báo cáo kiểm tra có giá trị. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ đã công
bố trình tự công nhận phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn. [24]
(iii) Tiêu chuẩn môi trường.
Tại Hoa Kỳ, luật bảo vệ môi trường được thể hiện rất chặt chẽ và thực hiện
từ 1/1/2010. Ở cấp độ liên bang đã có rất nhiều đạo luật liên quan đến môi trường
được áp dụng, trong đó quan trọng nhất phải kể đến hệ thống quản lý môi trường
ISO 14000. Các tiêu chuẩn môi trường yêu cầu hàng DMXK vào Hoa Kỳ phải là
các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ
đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất. Các quy
định và tiêu chuẩn môi trường gồm các quy định về đóng gói, bao bì; các quy định
về ghi nhãn; các quy định và tiêu chuẩn về phương pháp sản xuất, chế biến sản
phẩm (PMM). Những năm gần đây đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kể trong
việc sử dụng các loại nhãn mác môi trường trên sản phẩm hoặc trên bao bì sản
phẩm ở Hoa Kỳ để nhấn mạnh đến các thuộc tính và đặc điểm về môi trường của
chúng. Hầu hết các nhãn mác này được sử dụng một cách tự nguyện và do nhà sản
xuất hoặc người bán lẻ chủ động quyết định, nhằm mục đích tiếp thị khuyếch
trương thương hiệu hàng hóa của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp và theo
xu hướng phát triển, các nhãn hiệu đó có thể bị bắt buộc. Những quy định đó nhằm
để cảnh báo người tiêu dùng về tính chất độc hại của sản phẩm đối với môi trường.
[44],[70]
(iv) Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Bên cạnh các tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn và môi trường, các vấn đề
lao động và trách nhiệm ngày càng có phần quan trọng cao hơn đối với người tiêu
dùng Hoa Kỳ. Điều này cũng khiến cho hàng rào kỹ thuật của thị trường Hoa Kỳ
càng khó vượt qua hơn. Đối với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, Hoa Kỳ áp dụng phổ
biến hai tiêu chuẩn, đó là tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (Social Accountability
8000-SA8000) và chương trình chứng nhận WRAP.
67
- Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội SA 8000 không phải là một bộ quy tắc
ứng xử duy nhất và các DN buộc phải lựa chọn, do đây vốn là quy tắc mang tính
chất tự nguyện, song khi XK sang thị trường Hoa Kỳ, SA 8000 được coi như giấy
thông hành cho các DN, đặc biệt là DN sử dụng nhiều lao động. Khi DN đã có
chứng chỉ SA 8000, điều đó chứng tỏ được trách nhiệm của DN về măt xã hội và từ
đó DN sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối tác và việc XK hàng hóa sẽ
thuận lợi hơn. Tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung về
quyền con người. Các yêu cầu của tiêu chuẩn phù hợp với những qui định trong các
công ước của Tổ chức lao động thế giới (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em và Tuyên bố chung về nhân quyền.
- Tiêu chuẩn trách nhiệm sản xuất toàn cầu (WRAP - Worldwide
Responsible Accredited Production): WRAP là một tiêu chuẩn độc lập của sản xuất
đúng với nguyên tắc ứng xử, được thực hiện và kiểm soát một cách độc lập và bảo
đảm rằng hoạt động của các nhà sản xuất đúng nguyên tắc ứng xử theo một quy tắc
gắn kết và bao hàm toàn diện. [81].
(v) Các quy định liên quan tới nhãn hàng DM
Trong nhãn hàng DM của Hoa Kỳ quy định rất chặt chẽ các phần phải có bắt
buộc gắn trên hàng hoá. Nhãn hàng DM phải chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan
đến hàng hóa. Bao gồm:
- Nhãn phải ghi rõ thành phần sợi: Theo luật và các quy định về hàng dệt và
hàng len thì sản phẩm có sợi như sợi, vải vóc, quần áo và các mặt hàng gia đình
khác phải được ghi nhãn chỉ rõ thành phần sợi. Tên và tỷ trọng của mỗi loại thành
phần sợi được ghi lần lượt theo trật tự giảm dần. Ví dụ: 65% cotton, 35% polyester.
Nếu sản phẩm làm từ một loại sợi thì ghi “all” (toàn phần) hay ghi 100%. Không
cần phải khai báo thành phần của fec-me-tuya, cúc, các loại hạt, các miếng đáp
bằng hình vẽ, hoặc bất kỳ một bộ phận nào không được làm từ sợi, chỉ hay vải. Nói
chung chỉ cần nêu tên các loại sợi chiếm từ 5% trọng lượng sợi trở lên. Sợi chiếm
dưới 5% cần được ghi nhãn là “sợi khác” hoặc “các loại sợi khác” (nếu sợi đó
chiếm dưới 5% nhưng có tầm quan trọng đáng kể về chức năng ở mức tỷ trọng ấy
thì có thể ghi cụ thể).
68
Việc xác định chính xác thành phần sợi để ghi vào nhãn hàng DM đối với
các DN Việt Nam không đơn giản. Bên cạnh đó chất lượng của hàng hoá (thành
phần sợi) trong cả lô hàng thường không nhất quán, mặc dù đã cho phép sai số 3%
nhưng nhiều lô hàng vẫn không thể đảm bảo được và bị trả lại. Ghi nhãn chính xác
là một việc làm không thể bỏ qua đối với hàng DM muốn vào thị trường Hoa Kỳ,
đây đang là RCKT mà các DN Việt Nam phải vượt qua.
- Nhãn phải ghi hướng dẫn sử dụng: Trên các nhãn hiệu sản phẩm phải ghi
hướng dẫn bảo quản sử dụng sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu sau: người tiêu
dùng phải thực hiện được, dễ đọc trong suốt thời gian sử dụng quần áo, được in trên
thẻ treo hoặc ở mặt ngoài của bao bì nếu nhãn hiệu không thể nhìn thấy, đính kèm
với sản phẩm trước khi hàng hoá được bán ở Hoa Kỳ, có dịch sang tiếng Anh nếu
sử dụng các ký hiệu quốc tế. Hướng dẫn bảo quản phải bao gồm các mục như giặt,
tẩy, sấy, là, cảnh báo đặc biệt như phải giặt riêng, dung môi có thể làm hỏng hàng
hoá, dung môi an toàn để giặt quần áo. Ký hiệu bảo quản không bắt buộc, nhưng
những ký hiệu được sử dụng phải được Hiệp hội Hoa Kỳ về kiểm tra và nguyên liệu
(ASTM) đưa ra. Hiện nay, Hoa Kỳ và đại diện tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đang hợp
tác để hài hoà các ký hiệu hướng dẫn bảo quản vào hệ thống quốc tế.
- Nhãn phải ghi công ty sản xuất, nước xuất xứ: ghi xuất xứ hàng hoá có vai
trò quan trọng trong việc xác định mức thuế áp dụng co hàng DM. Bên cạnh đó,
việc ghi xuất xứ trên nhãn hàng DM còn giúp cho người tiêu dùng và các nhà kinh
doanh tại Hoa Kỳ xác định được đó là sản phẩm nước nào để lựa chọn.
Trong Luật về hàng dệt và hàng len quy định xuất xứ phải luôn luôn được
ghi trên mặt trước của nhãn hàng. Thành phần sợi và danh tính nhà sản xuất hoặc
nhà kinh doanh có thể xuất hiện trên mặt sau của nhãn hàng.
(vi) Quy định về xuất xứ hàng DM
Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm tới quy định về xuất xứ hàng DM vì những quy
định này liên quan tới việc thực hiện các ưu đãi về thuế.
Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ (CBP - Customs and Border
Protection) áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa thuộc diện không được hưởng ưu đãi
như mô hình sau:
69
Quy tắc XX không
ưu đãi
Tiêu chuẩn “chế biến lớn”
Tiêu chuẩn “đáp ứng toàn bộ”
Sản phẩm
Tất cả các sản
DM
Toàn bộ quá trình
phẩm khác
phẩm của một nước
cụ thể
Phương pháp
dỡ bỏ thuế quan
Xem xét từng trường hợp dựa
trên sự thay đổi về tên, đặc tính,
hoặc phương pháp sử dụng
SX, chế tạo sản
Hình 2.2. Áp dụng quy tắc xuất xứ không ưu đãi của Hải quan Hoa Kỳ
Nguồn: WTO, US Trade Policy Review 12/2012
Đối với hàng hóa được ưu đãi thuế: Do việc Hoa Kỳ không ngừng tăng số
lượng các FTA với các nước đã dẫn đến sự phát triển của bộ quy tắc xuất xứ ưu đãi
áp dụng cho hàng hóa của các nước có FTAs với Hoa Kỳ. Mỗi FTA đều có QTXX
riêng tùy vào năng lực đàm phán của các bên. QTXX ưu đãi được sử dụng cho các
chương trình ưu đãi thương mại không có đi có lại chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn “đáp
ứng toàn bộ” - "wholly obtained" criteria, hoặc theo tiêu chuẩn “chế biến lớn” -
“substantial transformation” criteria, được xác định bằng cách sử dụng yêu cầu hàm
lượng giá trị nội địa tối thiểu trong tổng giá trị được định giá. Trái lại, các bộ quy
tắc xuất xứ trong các FTA của Mỹ được hình thành dựa trên QTXX của Hiệp định
NAFTA lại chủ yếu sử dụng các quy tắc sản phẩm cụ thể, chủ yếu dựa trên phương
pháp luận dỡ bỏ thuế quan và/hoặc tiêu chuẩn hàm lượng khu vực. Quy tắc sản
phẩm cụ thể dựa trên mã số phân loại HS và có thể được mở rộng đến chương, mục
và tiểu mục HS. Các FTA mà Mỹ tham gia như NAFTA, CAFTA-DR, FTA với Úc,
70
Chi Lê, Peru và Singapore hầu hết đều dùng sự thay đổi trong phân loại hàng hóa
HS để xác định xuất xứ hàng hóa với bộ phận, linh kiện được sản xuất ở nhiều
nước. Ngoài ra, với cùng một FTA, có thể áp dụng QTXX khác nhau cho từng
chương HS hay từng nước. Như đối với hàng DM là một ví dụ điển hình với quy tắc
“từ sợi trở đi” - "yarn forward" đối với nhiều loại sản phẩm. Quy tắc này chủ yếu
yêu cầu 3 công đoạn hay mức độ chế biến của sản phẩm là sản xuất sợi, vải và quần
áo để tính hàm lượng giá trị khu vực để áp dụng QTXX ưu đãi. Các ngành công
nghiệp của Hoa Kỳ được ghi nhận là có ảnh hưởng rất lớn đối với sự thay đổi
QTXX ưu đãi trong đàm phán. Sự tăng nhanh của các QTXX khác nhau, tính chất
phức tạp và thiếu minh bạch trong áp dụng QTXX của Hoa Kỳ đã trở thành một
trong những RCTM lớn đối với XK hàng DM của Việt Nam sang thị trường này.
2.2.1.2. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường EU
Cùng với xu thế chung trong TMQT, các nước EU không sử dụng nhiều biện
pháp hạn ngạch, thuế quan mà tập trung hướng đến xây dựng hàng rào phi thuế
quan, trong đó RCKT là biện pháp phổ biến nhất. Là thành viên của tổ chức WTO
nên chế độ quản lý nhập khẩu của EU cũng dựa trên những nguyên tắc của tổ chức
này nhằm bảo hộ người tiêu dùng và nền sản xuất trong nước. Riêng đối với hàng
DM, hệ thống RCKT của thị trường này cũng hết sức khắt khe [25]. Bao gồm:
(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
Các thành viên EU là những nước đi đầu trong việc áp dụng ISO 9000. Tiêu
chuẩn quản lý chất lượng là không bắt buộc bởi đăng ký tiêu chuẩn chất lượng là
quá trình tự nguyện ở hầu hết các nước. Do vậy, việc yêu cầu phải có chứng chỉ
ISO 9000 còn tùy thuộc vào từng đối tác, từng công ty hay sản phẩm cụ thể. Tuy
nhiên, theo tư vấn từ Trung tâm thông tin Kinh doanh Châu Âu, một khi DN được
cấp chứng chỉ theo tiêu chuẩn quản lý được quốc tế công nhận thì có nghĩa là sản
phẩm của DN đó sẽ thâm nhập thị trường này một cách dễ dàng hơn, nhất là đối với
hàng hóa từ các nước đang phát triển. Riêng đối với EU - một thị trường đặc biệt
khó tính, ISO 9000 được coi như là quy tắc bất thành văn bởi chứng chỉ ISO đôi khi
có thể thay thế cho chứng chỉ chất lượng sản phẩm với điều kiện DN đã đáp ứng đủ
tiêu chuẩn châu Âu "EN 29002 hoặc EN 29003".
(ii) Quy định về đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người tiêu dùng.
71
Những quy định của châu Âu về an toàn sản phẩm đều tựu trung lại việc đưa
ra thị trường một sản phẩm đạt đến độ an toàn và sức khỏe cao nhất cho người sử
dụng. Một sản phẩm được gọi là an toàn khi nó đạt được tất cả những điều khoản
của châu Âu về an toàn sản phẩm. Khi hợp đồng không có điều khoản của châu Âu
cho trường hợp nào đó, sản phẩm phải tuân theo những yêu cầu cụ thể của quốc gia
thành viên, nơi mà sản phẩm đó sẽ được bán. Trong trường hợp không có quy định
của quốc gia thành viên, sản phẩm phải được tuân theo những quy định, luật hay
gợi ý từ những trường hợp tương tự có thể xảy ra trước đó; chuẩn của các quốc gia
thành viên nơi sản phẩm sẽ được bán, chuẩn từ các điển hình tốt liên quan đến sức
khỏe và an toàn; và cuối cùng là theo mong muốn cao nhất về an toàn cho người
tiêu dùng [58]. Hiện nay, EU cấm sử dụng hoặc hạn chế sử dụng các chất nghi là có
hại cho sức khỏe con người trên sản phẩm may mặc, các chất gây ung thư, hóa chất
Formaldehyde, hóa chất chống cháy cho sản phẩm dệt, dây luồn trên quần áo trẻ em
(Phụ lục 5).
(iii) Tiêu chuẩn môi trường
Theo quy định này, EU cấm nhập khẩu và bán các mặt hàng DM có chứa
các chất bị cấm (RS). EU đã ban hành một loạt các thông tư, quy chuẩn, luật, sắc
luật liên quan đến vấn đề này. Gồm những quy định sau [70]:
- Quy định REACH: Đây là quy định của Ủy ban châu Âu (EC) về việc
“đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế sử dụng hóa chất” đối với một số mặt
hàng nhập khẩu vào EU, trong đó có các sản phẩm DM.
Để thực hiện tốt quy định REACH, các DNDM cần xây dựng mô hình quản
lý các chất trong nguyên liệu dùng cho sản xuất (chất nào được dùng, đặc tính của
chất, có thể cung cấp thông tin về chất đó cho EU khi có yêu cầu...) và thực hiện
quản lý chuỗi cung cấp thông qua các hoạt động, như: Đề ra các yêu cầu đối với
nhà cung cấp hóa chất, nhà cung cấp hóa chất phải cung cấp cho khách hàng phiếu
an toàn dữ liệu, vật liệu theo mẫu tuân thủ với REACH.
- Tiêu chuẩn về chất lượng môi trường. Hiện tại, hai hệ thống tiêu chuẩn
mang tính phổ biến nhất áp dụng tự nguyện cho hàng may mặc nhập khẩu vào EU
là tiêu chuẩn ISO 14001 và EMAS (The European Eco - Management and Audit
scheme). Đối với bộ tiêu chuẩn EMAS, chủ yếu được áp dụng rộng rãi nhất là tại
72
Đức. Hệ thống EMAS tương đối khó đối với DN và tốn nhiều chi phí vì vậy, các
DN nên áp dụng theo tiêu chuẩn ISO 14001.
Trong quá trình sản xuất hàng DM, các khâu chủ yếu liên quan đến vấn đề
môi trường mà các DNDM Việt Nam cần phải chú ý khi xuát khẩu hàng hóa sang
EU đó là:
Về sản xuất và xử lý nguyên liệu. Các nguyên liệu chính sử dụng trong sản
xuất các sản phẩm may mặc thông thường là bông và sợi nhân tạo, vì vậy mà trong
quá trình sản xuất nhiều chất độc hại được thải ra. Đặc biệt là trong quá trình trồng
trọt nguyên liệu và sản xuất vải. Trong quá trình chế biến hoàn thiện vải sau khi đi
qua nhiều công đoạn xử lý khác nhau sẽ thải ra một lượng lớn các chất độc hại như
oxygen, chất biocide, nhiều chất độc không thể hủy bằng phương pháp vi khuẩn
cũng có thể tìm thấy trong quá trình giặt tẩy chính là nguyên nhân gây lên các vấn
đề về môi trường.
Công đoạn in và nhuộm. Đây là hai công đoạn chính làm ô nhiễm môi
trường. Theo quy định của EU tỷ lệ phần trăm không cố định trên vải, thay đổi từ 1-
2% đối với thuốc nhuộm màu và crom và từ 30-40% đối với thuốc nhuộm phản ứng
và phosphorus. Các DNDM có thể tham khảo các phương thức nhuộm thân thiện
hơn với môi trường mang lại hiệu quả cao hơn trong quá trình nhuộm. Những
hướng dẫn đang lưu ý trong khi nhuộm đó là: cần tận dụng tối đa lượng thuốc
nhuộm bằng cách cho sợi vào một bồn nhuộm, tránh sử dụng 1 bồn chứa đầy
thuốc nhuộm cho một số lương nhỏ, xem xét liệu có thể tiếp tục nhuộm những lô
sau với cùng mầu hoặc mầu tối hơn.
Nhuộm Azo và các chất độc hại khác: đây là loại thuốc nhuộm nguy hiểm có
khả năng gây ung thư hoặc có thể hình thành các hợp chất amin hoặc chất biến tính
có thể gây ung thư vì vậy mà đều bị cấm lưu thông tại Đức. Tại Hà Lan loại thuốc
nhuộm này bị cấm sử dung đối với các mặt hàng ga trải giường và quần áo. Có
khoảng 120 loại thuốc nhuộm azo bị cấm. Một số loại khác cũng bị cấm tại một số
nước thành viên EU như pentachlorophenol.
(iv) Quy định đối với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
Cùng với các quy định về chất lượng sản phẩm, khâu đóng gói bao bì... EU
cũng quan tâm đến việc cải thiện điều kiện lao động trong ngành công nghiệp DM.
73
Những quy định về điều kiện lao động và trách nhiệm xã hội được EU áp dụng theo
tiêu chuẩn SA 8000 và SA 8001. Theo đó, một số chiến dịch được thực hiện, như:
Chiến dịch quần áo sạch, quy tắc đạo đức, điển hình là quy tắc thương mại công
bằng trong ngành may mặc, trong đó xem xét các vấn đề về chi phí ăn uống, mức
độ tự do trong công ty, không phân biệt đối xử, điều kiện về an toàn và sức khỏe
nơi làm việc… Các công ty Việt Nam cần lưu ý đây là những vấn đề có liên quan
đến điều kiện lao động trong quá trình sản xuất của DN mình sẽ có những tác động
đối với các nhà nhập khẩu hay nhà mua hàng quốc tế. Ngày càng có nhiều công ty
châu Âu lấy việc cải thiện điều kiện lao động làm tiêu chí cho việc bắt đầu hay tiếp
tục làm ăn với các đối tác ở các nước đang phát triển.
(v) Các quy định về đóng gói, nhãn hiệu và ghi nhãn sản phẩm
Quy định này được thực hiện theo Thông tư 96/74/EC quy định cách thức
ghi nhãn cho các sản phẩm DM bán tại EU. Cụ thể:
- Đóng gói: Ngoài tác dụng bảo vệ sản phẩm tránh bị mất mát và hư hỏng
trong quá trình vậnchuyển, việc đóng gói sản phẩm cần đáp ứng các yêu cầu của
nước nhập khẩu và các khách hàng về bảo vệ môi trường. Nghiên cứu kỹ lưỡng về
bao bì đóng gói, sao cho các sản phẩm phải được bảo vệ chống lại thời tiết, những
thay đổi về nhiệt độ, xử lý không cẩn thận và mất cắp...
- Nhãn hiệu: Nhãn cần phải nêu đúng các thông tin về thành phần xơ sợi của
sản phẩm. Nhãn bắt buộc phải được xem là một phần của chất lượng.
- Kích cỡ: Đối với hàng DM, 4 số đo cơ bản về cơ thể thường được dùng để
xác định số kích cỡ của sản phẩm là: Chiều dài cơ thể, vòng ngực, dài vai và vòng
hông. Hiện nay, trong nội bộ các nước EU chưa có sự thống nhất về việc ghi nhãn
kích cỡ sản phẩm. Hơn nữa, các kích cỡ theo yêu cầu của mỗi khách mua có thể
khác nhau rất nhiều nên mỗi DN sản xuất hàng may mặc lớn đều có xu hướng lập
bảng kích cỡ cụ thể của riêng mình.
- Ghi nhãn sản phẩm: Chương trình Nhãn mác thương mại bình đẳng đang
được xây dựng và triển khai mạnh mẽ ở Châu Âu, cụ thể do một vài tổ chức khởi
xướng như Hiệp hội thương mại bình đẳng Châu Âu (EFTA), Transfair International
và Mã Havelaar. Có 2 loại nội dung ghi trên nhãn của sản phẩm như sau:
1. Các yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, tỉ lệ sợi, khả năng dễ cháy;
74
2. Các yêu cầu không bắt buộc: hướng dẫn giặt tẩy, nhãn kích cỡ.
(vi) Quy định về xuất xứ hàng hóa
EU đặc biệt quan tâm tới vấn đề xuất xứ hàng hóa, vì nó liên quan đến việc
có được hưởng chế độ ưu đãi thuế của EU hay không? Việc xem xét và đánh giá
nguồn gốc xuất xứ hàng DMXK vào EU là dựa trên cơ sở nguyên liệu sản xuất tại
chính nước đó. Đặc biệt, kể từ ngày 1/1/2011, EC vừa thông qua quy định mới về
Quy tắc xuất xứ, quy định này bao gồm một số điểm mới như:
- Đơn giản hóa quy định về Quy tắc xuất xứ gồm một trong các tiêu chí: Hàm
lượng giá trị nội địa, chuyển mục hoặc tiểu mục thuế, các hoạt động gia công, việc
sử dụng nguyên liệu hoàn toàn tại nước thụ hưởng.
- Mức độ tỷ trọng linh động theo nước (nếu là nước chậm phát triển thì hàm
lượng chỉ 30% hoặc tương đương) hay tỷ trọng giá trị nguyên liệu (ví dụ sợi ni lông
(hàm lượng 20%), sợi nhựa hoặc nhôm (hàm lượng 30%).
- EU được phép quy định hàm lượng giá trị nội địa linh động cho các nước căn
cứ vào tình hình thiên tai, tình hình kinh tế hay một chương trình ưu đãi riêng theo
sáng kiến của EU.
- Điều chỉnh cộng gộp xuất xứ: Theo quy định của EU về quy tắc xuất xứ ưu
đãi GSP, các nước được hưởng ưu đãi GSP có thể cộng gộp xuất xứ với các nước
khác trong cùng nhóm khu vực để đảm bảo rằng quá trình chế biến không bị thiếu
theo quy định. Nếu quá trình chế biến không đảm bảo theo quy định, sản phẩm vẫn
có thể được xem xét công nhận xuất xứ nếu giá trị chế biến được thực hiện ở nước
đó lớn hơn giá trị nguyên vật liệu sử dụng của bất kỳ nước nào trong nhóm cộng
gộp. Ngoài ra, nước trong nhóm khu vực cộng gộp có giá trị hải quan cao nhất về
xuất xứ nguyên vật liệu được coi là nước xuất xứ của sản phẩm. Có bốn nhóm khu
vực được hưởng ưu đãi thuế quan theo chương trình ưu đãi thuế quan phổ cấp GSP
của EU. Trong đó, Việt Nam ở nhóm I gồm các nước Brunei-Darussalam, Cam-pu-
chia, Indonesia, Lào, Malaysia và Philippin.
Tùy theo yêu cầu của nước hưởng lợi, cộng gộp được thực hiện giữa các nước
trong nhóm I (có Việt Nam) và nhóm III có thể có điều kiện. Vì vậy, các nhà XK
phải cẩn thận trong sử dụng xuất xứ cộng gộp, phải xem xem nguyên vật liệu đầu
vào của các nước trong khu vực được hưởng ưu đãi hay bị loại trừ.
75
Hiện nay những hàng hóa XK sang thị trường EU có nguồn gốc “thuần” từ
Việt Nam là rất ít. Hầu hết các sản phẩm đã qua quá trình sản xuất ở hai hay nhiều
nước khác nhau. Cách xác định về nguồn gốc hàng hóa tùy theo luật của từng nước,
nhưng cách xác định cơ bản nhất là ngoài hàng hóa có nguồn gốc “thuần” thì hàng
hóa đã bị “biến tính căn bản” tại thị trường nước XK cũng được chấp nhận như
nguồn gốc xuất xứ tại nước này. Hàng hóa được coi là “biến tính căn bản” khi nó đã
qua một quá trình sản xuất và được thay đổi một cách cơ bản về tên gọi, tính chất
hay nguyên liệu sử dụng. Đây là loại rào cản mới, vì vậy các DN Việt Nam nếu
nắm được những qui định này, chắc chắn họ sẽ có cơ hội để vượt qua RCTM này để
vừa XK hàng hóa của mình vào được thị trường này, vừa tận dụng được những ưu
đãi mà phía EU đã đưa ra.
2.2.1.3. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Nhật
Bản
(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
Các tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng: rất nhiều sản phẩm được cấp giấy chứng
nhận ở nước XK, nhưng lại không đạt các yêu cầu khắt khe khi vào thị trường Nhật.
Tiêu chuẩn chất lượng của châu Âu và Hoa Kỳ đều chú trọng vào hình thức bên
ngoài, mà không đi sâu vào chi tiết bên trong, chủ yếu liên quan đến tay nghề công
nhân, nhưng người tiêu dùng Nhật lại luôn có xu hướng đòi hỏi sự hoàn hảo trong
toàn bộ sản phẩm họ mua. Họ chú ý đến cả những khuyết tật nhỏ nhất trên sản
phẩm như vết xước, vết rạn, ngay cả khi những tì vết này là đặc điểm cố hữu trên
nguyên liệu sử dụng.
Dấu chứng nhận “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” (JIS - Japanese
Industrial Standard) dựa trên “Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào
tháng 6 năm 1949. JIS góp phần rất lớn trong việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên
phạm vi toàn bộ nền công nghiệp Nhật Bản. Dấu chứng nhận JIS chỉ được phép áp
dụng với các sản phẩm thoả mãn các yêu cầu về chất lượng của JIS. Theo điều 26
của Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên
đối với các sản phẩm được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ
cho hoạt động của các cơ quan này. Sau khi Nhật tham gia ký kết Hiệp định về rào
cản kỹ thuật đối với thương mại của GATT, Nhật đã sửa đổi Luật này cho phép các
76
nhà sản xuất nước ngoài cũng được cấp phép đóng dấu JIS. Tuy nhiên, Nhật là một
nước có nền công nghệ rất phát triển vì vậy các tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng hoá
thường rất cao. Vì thế, để được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS
không phải là một điều dễ dàng, đặc biệt là đối với hàng hoá của các nước đang và
kém phát triển.
Do đó, khi kiểm tra các sản phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu
chuẩn JIS là đủ xác nhận chất lượng của chúng. Giấy phép đóng dấu chứng nhận
tiêu chuẩn JIS trên hàng hoá do Bộ trưởng Bộ Kinh tế Thương mại và Công nghiệp
cấp cho nhà sản xuất. Những ai cố ý đóng dấu chất lượng JIS lên hàng hoá mà
không phải là nhà sản xuất đã được Bộ trưởng Bộ Kinh tế Thương mại và Công
nghiệp cấp giấy phép sẽ bị phạt tù tới 1 năm hoặc nộp phạt tới 500.000 Yên.
Ngoài tiêu chuẩn JIS còn có nhiều loại dấu chất lượng khác được sử dụng ở
Nhật, như dấu Q, S, SG, Len, S.I.F. Ý nghĩa của các dấu chứng nhận này liên quan
đến chất lượng và độ an toàn của sản phẩm.
Bảng 2.2: Ý nghĩa phạm vi áp dụng của dấu chứng nhận quản lý chất lượng ở Nhật Bản
Ý nghĩa Phạm vi ứng dụng
Dấu Q: Chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm
Dấu S: độ an toàn Dùng cho các loại sản phẩm dệt bao gồm: quần áo trẻ em và các loại quần áo khác, khăn trải giường. Dùng cho nhiều chủng loại hàng hóa dành cho trẻ em, đồ dùng gia đình, dụng cụ thể thao
Dấu Len Dùng cho sơi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan, hàng dệt kim có trên 99% len mới.
Dấu S.I.F: Các ngành hàng may mặc có chất lượng tốt Hàng may mặc như quần áo nam nữ, ô, áo khoác, ba lô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao
Nguồn: Viện Dệt may
(ii) Quy định về an toàn cho người sử dụng
Luật kiểm soát các sản phẩm gia dụng có chứa các chất nguy hiểm (được
kiểm soát bởi Văn phòng An toàn Hóa chất, Phòng Đánh giá và Cấp phép, Cục An
toàn Y-dược Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi) mục tiêu của luật này là hạn chế các sản
phẩm gia dụng có chứa các chất nguy hiểm, nhờ vậy mà đóng góp vào bảo vệ sức
77
khỏe của dân tộc. Luật yêu cầu tất cả các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ tiêu chuẩn
về hàm lượng các chất nguy hiểm có thể gây tổn thương cho da. Các sản phẩm may
mặc có mức độ độc hại cao hơn mức cho phép sẽ bị cấm bán ở thị trường Nhật Bản.
Bộ Phúc lợi và Lao động Nhật Bản chỉ rõ 20 chất nguy hiểm và có bằng chứng là gây
nguy hiểm cho sức khỏe con người như sau: Hydro clorua, Vinyl Clorua, 4.6-Diclo-7,
Kali hydroxit, Natri hydroxit, Tetra clo etylen, Triclo etylen, Tris phosphin oxit, Hợp
chất Tris phosphat, hợp chất tributil thiếc, hợp chất triphenil thiếc, hợp chất Bis
phosphat, Dieldrin, Benzo anthracen, Benzo pyren, Formaldehyde, Metanol, hợp chất
thủy ngân hữu cơ, Axit sunfuric.
(iii) Quy định về môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường: Giống như tất cả các quốc gia khác trên thế giới,
Nhật Bản rất coi trọng vấn đề môi trường. Năm 1989, Cục môi trường khuyến
khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái (kể các các
sản phẩm sản xuất trong nước cũng như sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, các sản
phẩm này được dóng dấu “Ecomark”. Để được đóng dấu này, sản phẩm phải đạt ít
nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm môi trường (hoặc gây ô
nhiễm không đáng kể)
2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường
3. Chất thải sau khi sử dụng sản phẩm đó không gây hại cho môi trường
(hoặc gây hại rất ít)
4. Sản phẩm có đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo bất cứ
cách thức nào khác.
(iv) Quy định về trách nhiệm xã hội
Cũng như các nước Mỹ và EU, tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội là một yêu
cầu hết sức quan trọng của nhà nhập khẩu Nhật Bản. Những sản phẩm được sản
xuất ra bởi các hành vi bóc lột sức lao động trẻ em, vi phạm nhân quyền đều bị cấm
ở Nhật Bản. Thông thường, khi tìm hiểu đối tác, các nhà nhập khẩu Nhật Bản
78
thường rất quan tâm đến yếu tố này. Các nhà nhập khẩu Nhật Bản cũng đánh giá
cao các nhà sản xuất có được chứng nhận về tiêu chuẩn lao động SA 8000.
(v) Các quy định liên quan nhãn hàng DM.
Đạo luật chống lại phần thưởng không thể biện minh được và giới thiệu lừa
dối (được kiểm soát bằng Ủy ban Thương mại công bằng Nhật Bản, Phòng Thương
mại liên quan tới người tiêu dùng, Vụ Tập quán Thương mại) có mục tiêu ngăn
ngừa việc khuyến khích người tiêu dùng bằng phần thưởng không biện minh được
hoặc bằng giới thiệu lừa dối liên quan đến giao dịch hàng hóa. Đạo luật quy định
các thực hành ghi nhãn chính xác cho hàng nhập khẩu để đảm bảo người tiêu dùng
không nhận được thông tin lừa dối về xuất xứ thực. “Nước xuất xứ” nghĩa là nước
tại đó thực hiện các hành động gây ra sự biến đổi quan trọng về bản chất của sản
phẩm. Chú ý rằng nhãn chứng thực nước xuất xứ phải được may vào quần áo.
Ngoài ra, luật Nhãn hàng Gia dụng 1962 của Nhật quy định rằng hàng dệt bán trên
đất Nhật phải có nhãn hàng. Trên sản phẩm nhập khẩu, bắt buộc ghi tên nhà nhập
khẩu, nhà phân phối.
(vi) Quy định về xuất xứ hàng hóa:
Nhật Bản áp dụng quy tắc xuất xứ ưu đãi không có đi có lại theo chương
trình ưu đãi thuế quan phổ cập - GSP và ưu đãi có đi có lại theo các FTA/EPA khác
nhau. Để được hưởng thuế quan ưu đãi phải có giấy chứng nhận xuất xứ của cơ
quan có thẩm quyền nước XK cấp để chứng tỏ rằng sản phẩm nhập khẩu đạt tiêu
chuẩn “chế biến toàn bộ”- "wholly obtained" hay “chế biến lớn” - "substantially
transformed" (ví dụ như thay đổi phân loại hàng hóa theo mã HS 4 chữ số hoặc đạt
40% giá trị gia tăng) tại nước XK. Đối với những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn
“chế biến toàn bộ”, những tiêu chuẩn cụ thể dựa trên quy tắc thay đổi phân loại HS,
quy tắc hàm lượng chế biến hoặc quy tắc giá trị gia tăng sẽ được áp dụng cho từng
sản phẩm. Quy tắc xuất xứ trong các EPA và GSP áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể
cho nhiều loại sản phẩm.
Quy tắc xuất xứ tối huệ quốc - MFN của Nhật Bản được sử dụng để áp dụng
mức thuế MFN (đối lập với mức thuế thông thường) được quy định cụ thể trong
79
điều 4-2 của Sắc lệnh của Nội các Nhật về thi hành Luật Hải quan và điều 1-5 và 1-
6 của Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Hải quan. Quy tắc xuất xứ MFN được áp
dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước được hưởng quy chế MFN. Theo đó,
nước xuất xứ là nước mà hàng hóa được sản xuất toàn bộ hay được chế biến lớn
(thay đổi phân loại hàng hóa theo mã HS 4 chữ số)
Hàng DM của Việt Nam được hưởng ưu đãi theo chương trình GSP. Đối với
hàng may, xuất xứ là nơi công đoạn may được thực hiện, hàng dệt kim là nơi thực
hiện công đoạn dệt. Hàng hoá muốn được miễn thuế theo hệ thống ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) thì phải được chế biến tại Việt nam theo những tiêu chuẩn cụ thể
dựa trên quy tắc thay đổi phân loại HS, quy tắc hàm lượng chế biến hoặc quy tắc
giá trị gia tăng sẽ được áp dụng cho từng sản phẩm.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu các rào cản kỹ thuật của một số nước đối với
hàng dệt may nhập khẩu, cho phép rút ra một số kết luận rằng: Trên cơ sở các quy
định chung của quốc tế, đặc biệt là của WTO về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt
may, mỗi quốc gia có thể đưa ra thêm những quy định của mình, thậm chí cao
hơn, khắt khe hơn tiêu chuẩn do WTO đưa ra. Điều đó đòi hỏi các quốc gia xuất
khẩu cần:
Một là, đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý, cần phải nghiên cứu
nghiêm túc và đầy đủ các quy định của các nước nhập khẩu về các rào cản phi thuế
quan nói chung và RCKT nói riêng đối với hàng DM, từ đó có cảnh bảo kịp thời,
đầy đủ và chính xác cho các DNXK của mình để có những biện pháp phản ứng và
ứng phó hiệu quả.
Hai là, các doanh nghiệp phải chủ động và chú trọng nghiên cứu, nắm bắt
chính xác và kịp thời rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu. Trên cơ sở các
quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, các doanh nghiệp dệt may phải có các biện pháp
điều chỉnh phù hợp theo hướng tuân thủ chấp hành các quy định về tiêu chuẩn do
các nhà nhập khẩu yêu cầu, đồng thời các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực
đàm phán, mặc cả để loại bỏ các rào cản phi lý, không có căn cứ khoa học. Trên
80
thực tế, các rào cản kỹ thuật này chỉ nhằm vào bảo hộ thị trường, vi phạm nguyên
tắc công bằng, minh bạch trong thương mại quốc tế.
2.2.2. Đánh giá tác động của rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập
khẩu chính đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam.
2.2.2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, RCKT tạo động lực thúc đẩy đầu tư chiều sâu, cải tiến chất lượng,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng DMXK của Việt Nam. Về nguyên tắc, khi các
thị trường nhập khẩu Hoa kỳ, EU, Nhật Bản,v.v. áp dụng các quy định và tiêu chuẩn
kỹ thuật cũng như các quy trình đánh giá sự phù hợp cao và ngặt nghèo đối với hàng
DM nhập khẩu thì bắt buộc hàng XK của Việt Nam phải đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn đó mới có thể XK sang các thị trường này. Vì vậy, cà Nhà nước và DN,
trong nỗ lực đẩy mạnh XK, phải đổi mới sản xuất, tăng cường đầu tư trang thiết bị
kỹ thuật hiện đại, cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng tốt
các yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu qua đó mà XK thành công. Vì vậy, bên
cạnh những tác động tiêu cực mà NCS sẽ phân tích sau, có thể nói, RCKT đã tạo
động lực cho hàng DMXK của Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh XK, nâng cao
chất lượng, hình ảnh và uy tín của mình để không những có thể đẩy mạnh XK sang
các thị trường trên mà còn có thể mở rộng XK ra các thị trường khác trên thế giới.
Trên thực tế, XK hàng DM của Việt Nam đã tăng rất mạnh và đều đặn thời gian qua
để trở thành một trong hai mặt hàng XK chủ lực lớn nhất của Việt Nam. Đặc biệt XK
sang Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đều tăng rất mạnh và củng cố được thị phần ở những
thị trường này như đã phân tích ở mục 2.1. Điều này chứng tỏ sức cạnh tranh tăng
của hàng DMXK của Việt Nam nhờ những nỗ lực của Nhà nước và DN để vượt qua
được hệ thống RCKT khắt khe của các thị trường nhập khẩu lớn này.
Thứ hai, các RCKT của các nước nhập khẩu chính cũng tác động tích cực tới
hoạt động bảo vệ môi trường của Việt Nam. Hàng DMXK của Việt Nam, trong
những nỗ lực để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản, không những đã quan tâm tìm hiểu về những tiêu chuẩn môi
trường của các nước, qua đó mà nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi
81
trường mà còn phải có biện pháp hiệu quả để thực hiện và tuân thủ các quy định,
tiêu chuẩn môi trường đó. Trên thực tế, các DNDMXK của Việt Nam đã ngày càng
quan tâm tới các quy định và tiêu chuẩn môi trường. Hiện nay, đã có nhiều DNDM
có các biện pháp ngăn ngừa, xử lý liên quan đến môi trường như: Áp dụng một số
công nghệ xử lý khí thải thông qua bộ phận thu khí lò hơi; Sử dụng định mức tiêu
hao hợp lý nguồn nguyên, nhiên liệu của ngành dệt nhuộm thông qua các giải pháp
kỹ thuật, quản lý để giảm thiểu tại nguồn khác nhau; Có các hệ thống xử lý nước
thải cho các dây chuyền dệt nhuộm, di chuyển các xí nghiệp nhuộm vào các KCN
DM có trung tâm xử lý nước thải tập trung. Việt Nam có hơn 10 trung tâm kiểm tra
các loại thuốc nhuộm bị cấm tại các cơ sở xuất khẩu sản phẩm may mặc, có hơn 20
tổ chức kiểm tra ở Việt Nam đã có trình độ xác thực để cấp báo cáo kiểm tra về
thuốc nhuộm bị cấm. Hiện tại, có trên 200 doanh nghiệp nhận chứng chỉ xác thực
về tiêu chuẩn Oeko-TexStandard l00. Điều này rất tốt cho cạnh tranh công bằng
trên thị trường nội địa và để người tiêu dùng hàng đầu lựa chọn được các sản phẩm
đạt yêu cầu. Đồng thời có ý nghĩa đối với Việt Nam khi mở rộng khối lượng xuất
khẩu sản phẩm may mặc. Bên cạnh đó, đã có nhiều DN áp dụng hệ thống tiêu chuẩn
quản lý môi trường ISO 14000 như dệt Phong Phú, Việt Thắng và ứng dụng công
nghệ sản xuất sạch như Công ty TanTech; Công ty ChanShin; Công ty Samwoo,
Công ty Tong Hong,... nhằm nâng cao khả năng đáp ứng được các quy định và tiêu
chuẩn môi trường ngày càng chặt chẽ của các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản...
Thứ ba, RCKT của các nước nhập khẩu cũng góp phần bảo vệ người lao động
tốt hơn. Khi các DNDM Việt Nam thực hiện chính sách để đáp ứng các quy định về
trách nhiệm xã hội mà các nước nhập khẩu đưa ra, thì quyền lợi người lao động trong
ngành DM cũng được bảo vệ, được hưởng những lợi ích chính đáng của mình. Môi
trường đuợc cải thiện cộng thêm người lao động với sức khoẻ, khả năng làm việc tốt
lại tác động ngược lại làm nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh XK của
DNDM Việt Nam. Theo kết quả khảo sát 500 DN (DNDM chiếm khoảng 20%) của
Viện Nghiên cứu thương mại thực hiện năm 2013 về phát triển xuất nhập khẩu bền
vững, các DN trong các nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh XK đã tích cực áp dụng
82
các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động, trong
đó tỷ lệ DN áp dụng các quy định đảm bảo an toàn lao động tại nơi làm việc đạt cao
nhất tới 64,5%, tiếp đến là các biện pháp thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội, thất nghiệp cho người lao động (61,7% số DN điều tra); cải thiện điều kiện lao
động tại nơi làm việc (42,3% số DN điều tra);áp dụng tiêu chuẩn lao động SA 8000
(28,4% số DN điều tra),…
CÁC BIỆN PHÁP
8.9
22.6
28.4
Các biện pháp khác Đảm bảo quyền tham gia bình đẳng cho người lao động trong các hiệp hội (Công đoàn, nghiệp Áp dụng tiêu chuẩn lao động SA 8000 (chế độ người lao động, thời gian làm việc)
42.3
Cải thiện điều kiện lao động
61.7
Thực hiện chế độ bảo hiểm (y tế, xã hội, thất nghiệp)
64.5
Áp dụng các quy định đảm bảo an toàn lao động tại nơi làm việc
0
10
20
30
40
50
60
70
Tỷ lệ doanh nghiệp (% )
Hình 2.3. Các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động trong DN
Nguồn: Viện Nghiên cứu thương mại, Báo cáo khảo sát về xuất nhập khẩu bền vững, 2013.
Ghi chú: Một DN có thể áp dụng nhiều biện pháp cải thiện môi trường và
điều kiện làm việc cho người lao động.
Thứ tư, các DNDM Việt Nam đã hạn chế được tình trạng gian lận thương
mại trong XK. Trên thực tế đã có sự gian lận thương mại bằng hình thức làm giả
giấy tờ chứng nhận xuất xứ, nhãn hiệu, visa của Việt Nam. Có những thời điểm, tỷ
lệ cấp Visa của Việt Nam đối với Cat. 342/642 mới chỉ đạt 88,98% nhưng theo
thống kê của Hải quan Hoa Kỳ, tỷ lệ hàng nhập khẩu của Cat. này đã đạt 100%.
Tình trạng này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành DM Việt Nam
trên thị trường thế giới[44].
Thứ năm, thúc đẩy thay đổi quan niệm. Từ quan điểm nhất định nào đó, xuất
khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam đương đầu với RCKT nước ngoài có thể
khiến cho các nhà hoạt động và sản xuất trong ngành dệt may Việt Nam thay đổi
83
quan niệm sai của họ: từ việc chỉ tập trung vào chất lượng bên ngoài của sản phẩm
đến việc tập trung vào cả chất lượng bên trong của sản phẩm; từ việc chỉ nhấn mạnh
chất lượng sản phẩm đến nhấn mạnh quy trình sản xuất và chất lượng sản phẩm; từ
việc chỉ coi lợi nhuận kinh tế là ưu tiên hàng đầu đến nhấn mạnh lợi nhuận kinh tế
và lợi ích người tiêu dùng.
Thứ sáu, nâng cao năng lực đàm phán, thương lượng và giải quyết các tranh
chấp quốc tế. Việc thường xuyên phải cọ sát, đương đầu với các vấn đề về RCKT
ngày càng gia tăng của các thị trường nhập khẩu, ở khía cạnh tích cực, cũng giúp
các nhà quản lý và các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam có nhiều trải
nghiệm thực tế quý giá, học hỏi và tích lũy kinh nghiệm, nâng cao khả năng ứng
phó và vượt RCKT, v.v. Trên thực tế, hiện nay rất nhiều doanh nghiệp dệt may xuất
khẩu của Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp lớn như Việt Tiến, May 10, đã nhận
thức và ý thức rất rõ về tầm quan trọng của vượt RCKT, đồng thời năng lực đáp
ứng các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu đã được nâng cao
rõ rệt, ngay cả các quy định rất khắt khẻ về ghi nhãn, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã
hội SA8000, WRAP hay các tiêu chuẩn môi trường, v.v.[18]
2.2.2.2. Tác động tiêu cực
RCKT hiện không chỉ còn là nguy cơ nữa mà thực sự đã gây ra những tác
động to lớn tới hàng DMXK của Việt Nam. Các DNDM Việt Nam đang từng ngày
từng giờ phải đối mặt với những RCKT hết sức ngặt nghèo ngay chính những thị
trường có mức độ tự do hóa thương mại cao nhất như Mỹ, EU hay Nhật Bản.
Không ít DN lao đao vì vướng vào RCKT
Theo Đại diện Thương mại Hoa Kỳ-USTR, sự quá mức cần thiết, phân biệt
đối xử hoặc những quy định không phù hợp khác của các biện pháp kỹ thuật ngày
nay có thể sẽ dẫn đến giảm cạnh tranh, cản trở sáng tạo và gây cản trở cho thương
mại. Thậm trí, ngay cả khi các biện pháp kỹ thuật được sử dụng phù hợp thì các
công ty, nhất là các DNNVV cũng phải đối phó với những thách thức lớn trong việc
tiếp cận thông tin về tiêu chuẩn, sự tuân thủ các loại tiêu chuẩn khác nhau và hay
thay đổi của các thị trường nhập khẩu lớn. Đặc biệt là trong các trường hợp các biện
pháp kỹ thuật thay đổi nhanh hoặc có sự khác biệt giữa yêu cầu kỹ thuật của các thị
84
trường khác nhau. Điều này là rất chính xác trong trường hợp các RCKT với hàng
DMXK của Việt Nam. Xu hướng đòi hỏi cao và các quy định ngày càng khắt khe
về yêu cầu chất lượng, an toàn sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và
trách nhiệm xã hội, sự phức tạp tăng lên của các quy định về nhãn mác, quy tắc
xuất xứ, v.v của các thị trường nhập khẩu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản là những
thách thức lớn và tác động tiêu cực đối với hàng DMXK của Việt Nam. Có thể nêu
một số tác động chủ yếu như sau:
(i) RCKT của các nước nhập khẩu chính đã và đang làm tăng chi phí (gồm
cả chi phí sản xuất lẫn chi phí XK), giảm năng lực cạnh tranh đối với hàng DMXK
của Việt Nam, đánh mất thị phần quốc tế.
Các DNXK hàng DM muốn đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe thì buộc
sẽ phải tăng chi phí sản xuất để thay đổi điều kiện sản xuất và do đó giá thành sản
xuất sẽ cao lên, nếu DN không tăng giá bán sản phẩm thì lợi nhuận của DN sẽ giảm,
dẫn đến sự sụt giảm nguồn đầu tư mở rộng sản xuất và giảm chi cho phúc lợi xã hội.
Còn nếu tăng giá bán sản phẩm thì sẽ ảnh hưởng ngay tới khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường và có thể dẫn tới việc giảm XK. Nếu DN không thể thích
nghi được với những yêu cầu mới đó thì có thể dẫn đến phá sản, hoặc bị mất vị thế và
thị phần, giảm giá trị thương hiệu trên thị trường thế giới
- Chất lượng của sản phẩm, ngày nay là yếu tố có tính chất quyết định đến
năng lực cạnh tranh của DN. Yêu cầu của thị trường nhập khẩu đòi hỏi các DN phải
nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm. Để làm được việc đó, điều đầu tiên DN
phải làm là đầu tư thay đổi công nghệ và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến vào
sản xuất. Điều này đòi hỏi DN phải bỏ ra chi phí không nhỏ. Trong khi đó, theo điều
tra, Việt Nam hiện có 80% là DNDM có quy mô nhỏ nên vốn dành cho đầu tư trang
thiết bị là không nhiều, thông thường chiếm từ 0,2 - 0,3% doanh thu. Do vậy, nếu
phải thay đổi công nghệ thì chắc chắn sẽ làm tăng gánh nặng trả nợ vay của DN.
- Bên cạnh đó, thực hiện rào cản xanh yêu cầu các tiêu chuẩn môi trường và
nhãn mác sinh thái phải được áp dụng trong quy trình sản xuất, xử lý, lưu trữ và vận
chuyển sản phẩm hình thành nên hệ thống quản lý môi trường hoàn thiện và không
ô nhiễm và ảnh hưởng đến từng mắt xích quy trình từ sản xuất, bán hàng đến xử lý
85
thải loại. Do vậy, nhằm đạt tiêu chuẩn môi trường của các quốc gia nhập khẩu,
những nhà xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam phải tăng đầu tư thiết bị và
lao động cũng như thực hiện xác thực môi trường. Cải tiến máy móc kiểm tra và chi
phí xác thực & kiểm tra tại các tổ chức kiểm tra nước ngoài sẽ làm tăng chi phí xuất
khẩu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, những lợi thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam tập trung ở chi phí lao động thấp. Mức độ kỹ thuật của
sản phẩm thấp làm yếu đi khả năng cạnh tranh của ngành dệt may trên thị trường
quốc tế. Với vị thế là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam phải thích nghi với
“xu hướng xanh”. Nhằm thích nghi với “xu hướng xanh” và phá vỡ RCKT, chi phí
cho mỗi mắt xích của quy trình từ sản xuất, bán hàng đến xử lý thải loại sẽ tăng lên
và do vậy tổng chi phí cũng sẽ tăng lên. Lợi thế giá gốc yếu đi tương đối, lợi nhuận
doanh nghiệp bị ảnh hưởng và cạnh tranh quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp sẽ giảm đi. Hơn nữa, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia EU là những
thành viên quan trọng của “Ủy ban Thương mại và Môi trường” trong WTO. Hoạt
động của họ luôn dẫn đến hiệu ứng Domino vì vậy một số quốc gia công nghiệp
hóa mới nổi cũng bắt chước họ tạo ra RCKT, do vậy hoạt động xuất khẩu sản phẩm
dệt may Việt Nam có thể phải đối mặt với tình huống nghiêm trọng hơn.
(ii) Phạm vi ảnh hưởng rất lớn và một số ngành liên quan bị ảnh hưởng.
RCKT không chỉ ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam mà còn ảnh hưởng
đến ngành in và nhuộm, ngành hóa chất, ngành sợi và nguyên liệu thô, làm giảm
kinh doanh và thu nhập của các ngành này.
(iii) RCKT của các thị trường nhập khẩu gây tác động chệch hướng thương
mại hàng DMXK của Việt Nam, là nguyên nhân không nhỏ khiến cho DN đánh mất
thị phần và phải chuyển hướng thương mại sang các thị trường khác. Việc mất thị
phần có thể là do DN bị giảm sút năng lực cạnh tranh vì không đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của thị trường hoặc cũng có thể họ tự tháo lui, chuyển hướng kinh doanh sang
các thị trường khác khi quy định của nước nhập khẩu vượt quá khả năng mà họ có
thể đáp ứng. Nhất là vào thời điểm hiện nay, khi hàng DMXK của Việt Nam chưa
định vị được một chỗ đứng vững chắc trong lòng người tiêu dùng các nước nhập
86
khẩu chính vốn đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và trách
nhiệm xã hội thì bất kỳ một tác động nhỏ nào cũng có thể ảnh hưởng xấu đến khả
năng XK của Việt Nam. Chệch hướng thương mại có thể là điều tốt, thể hiện sự
năng động, chủ động của DN trong đa dạng hóa thị trường XK để giảm bớt rủi ro
biến động của thị trường. Nhưng trong đa phần các trường hợp, do không đáp ứng
được yêu cầu cao của các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, các DN phải chấp
nhận chuyển hướng XK sang các thị trường có đòi hỏi thấp hơn như các nước thuộc
Liên Xô cũ, Trung Quốc hay các nước châu Phi,… với nhu cầu tăng nhưng không
ổn định, giá cả rẻ và các đơn hàng nhỏ, lẻ. Ngoài ra còn rất nhiều hệ lụy khác do
mất thị phần ở các thị trường nhập khẩu chính yếu hàng DM. Trong một nghiên cứu
định lượng (mô hình lực hấp dẫn) của nhóm tác giả Viện NCTM thực hiện về tác
động của việc thực hiện Hiệp định tự do thương mại ASEAN Trung Quốc-ACFTA
tới XK hàng DM của Việt Nam thực hiện năm 2010 cho thấy, việc thực hiện tự do
hóa thương mại theo ACTFA đã đem đến điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho
XK hàng DM của Việt Nam sang Trung Quốc, có thể làm chệch hướng thương mại
XK hàng DM của Việt Nam, tăng XK sang Trung Quốc trong khi giảm tương đối
XK sang hai thị trường lớn khác là Hoa Kỳ và Nhật Bản,...
(iv) RCKT trong thương mại còn gián tiếp gây khó khăn cho đời sống người
lao động Việt Nam. Công nghiệp DM ở Việt Nam hiện nay sử dụng hơn 2,5 triệu
lao động. Trong thời kỳ khủng hoảng vừa qua, các nước nhập khẩu chính hàng DM
như Hoa Kỳ, EU đều gia tăng bảo hộ thương mại, dựng lên các RCKT mới. Các
DNDM vấp phải RCKT không XK được đã phải tạm ngưng sản xuất, thậm chí
đóng cửa nhà máy, hàng nghìn công nhân ở các DNDM không có việc làm. Điều
này, về lâu dài sẽ dẫn tới việc người lao động không yên tâm sản xuất và chuyển
sang các nghề khác, gây mất ổn định nguồn cung nguyên liệu cũng như nguồn lao
động hàng DMXK.
(v) Tái cấu trúc trong chuỗi cung ứng hàng DMXK dưới tác động của
RCKT từ các thị trường nhập khẩu chính. Các DNNVV là những đối tượng phải
đối mặt nhiều nhất với những thách thức từ RCKT. Theo VITAS, có tới 80% các
DNDM là DNNVV, số lao động dưới 300 người. Số DN từ 1000 công nhân chỉ
87
chiếm 6%. Với nguồn lực hạn chế cả về tài chính, nhân lực và phương tiện, các
DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và xử lý thông tin về các quy
định do các thị trường nhập khẩu đặt ra. Do đó, RCKT làm suy yếu hơn nữa các
DNNVV, và có thể dẫn đến việc sáp nhập thành các DN lớn hơn, hoặc có thể thay
đổi cơ cấu DN trên thị trường. Hiện tượng tái cấu trúc không chỉ ở việc giảm về số
lượng DN trong ngành mà còn ở nhiều khả năng tích hợp dọc trong chuỗi cung
ứng. Tích hợp dọc là khả năng có thể xảy ra khi các DN lớn có khả năng chi phối
thị trường sẽ mở rộng lĩnh vực hoạt động để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định
với chất lượng cao.
Tác động của các RCKT từ một số nước nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là rất lớn. Nhiệm
vụ đặt ra cho các DN, các cơ quan quản lý nhà nước những khó khăn thách thức
trong vượt RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. Trong đó, nhiệm vụ hết
sức quan trọng là nghiên cứu, dự báo xu hướng phát triển của RCKT và cảnh báo
sớm về các quy định, tiêu chuẩn của các thị trường nhập khẩu để có biện pháp
phòng ngừa, lên kế hoạch và chủ động ứng phó, vượt RCKT nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may thời gian tới.
2.3. THỰC TRẠNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT
MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.
Trước những rào cản kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu hàng dệt may,
Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã có những biện pháp ứng phó nhằm
vượt qua các rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu. Để hiểu rõ hơn về thực trạng, tác giả
đã tiến hành khảo sát nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn
trong quá trình thực hiện các biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam thời gian qua và sự hỗ trợ của Nhà nước giúp
DNDM vượt rào. Phiếu khảo sát được thiết kế với 13 câu hỏi, ở các mức độ đánh
giá khác nhau (Phu lục 1). Sau khi khảo sát, tác giả gặp gỡ trực tiếp một số cán
bộ quản lý của ngành dệt may như Hiệp hội dệt may, vụ xuất nhập khẩu - Bộ
88
Công thương, cán bộ nghiên cứu của Viện Dệt may để tìm hiểu sâu hơn những
nhận định và ý kiến cá nhân của những người có trách nhiệm trong hoạt động
xuất khẩu hàng dệt may.
Phiếu khảo sát được gửi đến cán bộ quản lý các DN qua hội nghị tổng kết
ngành Dệt may Việt Nam vào 12/2013. Số phiếu gửi đi là 100, số phiếu thu về là 68
phiếu. Trong số đó có 45 phiếu đầy đủ thông tin đảm bảo đủ dữ liệu để phân tích.
Danh sách các doanh nghiệp tham gia trả lời khảo sát tập trung chủ yếu là các DN
xuất khẩu hàng dệt may tại các địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nẵng, Bình Dương, Huế, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên... với nhiều loại hình
doanh nghiệp được trình bày ở bảng 2.4. Trong tổng số 45 doanh nghiệp được khảo
sát thì số doanh nghiệp chiếm chủ yếu là công ty TNHH và công ty cổ phần
(44,4%); loại hình doanh nghiệp nhà nước (26,7%), doanh nghiệp tư nhân (22,2%),
chỉ có 6,7% là DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 2.3: Loại hình doanh nghiệp đã tiến hành khảo sát
STT Loại hình doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%)
1 DNNN 12 26,7
2 DNTN 10 22,2
3 DN có vốn ĐTNN 3 6,7
4 Loại hình DN khác 20 44,4
Tổng số 45 100
Nguồn: Tổng hợp hết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013
Kết quả khảo sát cho thấy: có tới 26 doanh nghiệp (chiếm 57,8% số DN
được khảo sát) đã xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, tiếp đến là EU (42,2%), Nhật
Bản (26,7%), Hàn Quốc (20%). Một số doanh nghiệp thì lựa chọn các thị trường
xuất khẩu chính khác là, Canada, Newzland, Thụy Sĩ, Ấn Độ...nhưng số DN này
không nhiều.
89
Ý kiến của các DN được khảo sát và các chuyên gia kinh tế về những biện
pháp đã áp dụng để vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu được tổng hợp và
đánh giá sau đây.
2.3.1.1. Các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam
Thực tiễn thời gian qua cho thấy các DNDM Việt Nam đã áp dụng các biện
pháp vượt RCKT sau:
Thứ nhất, để đáp ứng với RCKT của các nước nhập khẩu, các DNDM Việt
Nam đã tích cực và chủ động tiếp cận với yêu cầu của các nước nhập khẩu, xây
dựng các hệ thống quản lý đảm bảo tuân thủ về chất lượng, an toàn sản phẩm, môi
trường, trách nhiệm xã hội và ghi nhãn hàng dệt may. Cụ thể là:
- Đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, dây truyền sản xuất. Để có thể
XK bền vững tại thị trường rộng lớn và khó tính, các DNXK dệt may Việt Nam
hiểu rằng đã đến lúc chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang
loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường” sử dụng các máy móc thiết bị phù
hợp, tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo khả năng “vượt rào”.
Theo báo cáo của tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), nhiều loại máy móc,
thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts,
máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork,
máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt- May thắng Lợi và Dệt 8- 3; các máy
nhuộm “khí động lực” (Air- Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8-3;
máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước- xử lý
hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng)
v.v... Hay một ví dụ điển hình đối với Công ty may Việt Tiến ngoài việc tập trung
cho nguồn nhân lực, May Việt Tiến luôn đầu tư đổi mới thiết bị và cải tiến công nghệ
như: hệ thống thiết kế mẫu rập, nhảy size, hệ thống giác sơ đồ, trải, cắt tự động…,
mua hoặc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến của Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Singapore…Nhờ đó, công ty quản lý được số liệu trên từng công đoạn, xây dựng hệ
thống thời gian cho từng bước công việc, phân công lao động, ghép bước công việc
90
một cách hợp lý, giảm thiểu được thời gian sản xuất, tiết kiệm được chi phí, góp phần
giảm giá thành sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra, ngành dệt đã có bước phát triển với những dự án đầu tư lớn của các
nhà đầu tư nước ngoài trong đó có: Dự án dệt kim của Công ty Global Dyeing (Hàn
Quốc) hoạt động với công suất 18.000 tấn / năm, dự án Formosa (Đài Loan) sản
xuất xơ sợi tổng hợp, đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và đang có khả năng mở
rộng, dự án liên doanh Phong Phú - ITG (Hoa Kỳ) đầu tư một cụm nhà máy liên
hợp dệt nhuộm may lớn nhất Việt Nam ở Hóa Khánh đang triển khai, dự án nhà
máy dệt nhuộm may của Tập đoàn Berhar (Malaysia) tại Khu kinh tế Chu Lai.
- Nhiều doanh nghiệp dệt may áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến
ISO 9001:2000; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001; thực hiện quản lý nội vi;
kiểm soát quá trình; thay đổi nguyên liệu; cải tiến thiết bị; ứng dụng công nghệ sản
xuất mới; … như Công ty may Việt Tiến, Công ty dệt Phong Phú, Công ty may 10,
Công ty cổ phần dệt 10/10, Công ty cổ phần kinh doanh len Sài Gòn, Công ty cổ
phần may Sài Gòn 3, Công ty Scavi Việt Nam , Công ty TNHH sợi Tianan, Công ty
may Nhà Bè, Công ty may Hưng Yên, Công ty dệt May Thành công, Công ty Dệt
may Hà Nội ,v.v. Chính vì vậy, các DN này đã có được một hệ thống quản lý tương
đối bài bản, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm sử dụng nguyên, nhiên vật liệu, đồng thời
giảm thiểu chất thải ra môi trường, góp phần đảm bảo sản xuất có hiệu quả, bảo vệ,
cải thiện môi trường, đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của nước
nhập khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất, xuất khẩu.
- Các chuyên gia của Viện Dệt may cũng cho rằng, một số DN rất quan tâm
đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội. Ví dụ, ở công ty May 10, bình
quân hàng năm, công ty đón tiếp hàng chục đoàn của các đối tác nước ngoài đến
kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động. Để tạo điều
kiện thuận lợi cho các đoàn kiểm tra, công ty đã đầu tư hàng trăm triệu đồng trang
bị thẻ từ, bảng chấm công điện tử... giúp cho việc kiểm tra số giờ làm thêm của
công nhân được dễ dàng và minh bạch. Để kiểm tra việc có sử dụng lao động vị
thành niên hay không, trong hồ sơ tuyển dụng lao động, công ty có đầy đủ các loại
91
giấy tờ hợp lệ theo yêu cầu của đối tác nước ngoài như: chứng minh thư nhân dân,
giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy kiểm tra sức khoẻ... Đối với các phân xưởng sản
xuất, công ty đã trang bị đầy đủ hệ thống chiếu sáng, thông gió, thiết bị y tế, phòng
cháy chữa cháy, có cửa thoát hiểm cho người lao động khi có sự cố. Tuy nhiên,
những công ty thực sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xã hội như May 10 còn ít;
việc áp dụng và thực hiện các tiêu chuẩn phù hợp với SA 8000 còn rời rạc, chưa có
tính đồng bộ và nhất quán.
- Các doanh nghiệp cũng chú trọng hơn đến xây dựng và củng cố thương
hiệu, các quy định về ghi nhãn sản phẩm. Một doanh nghiệp có XK thành công
hay không được đánh giá qua mức độ ảnh hưởng của họ đối với người tiêu dùng,
thị trường đối tác. doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng chứng tỏ là một doanh
nghiệp uy tín, và sản phẩm phải vượt qua được những RCKT cũng như các yêu
cầu khắt khe của người tiêu dùng. Chẳng hạn như công ty may Việt Tiến, xây
dựng và bảo vệ thương hiệu là chuyện sống còn. Các thương hiệu như: Việt Tiến,
Vee Sendy, T-up, Vie Laross đã được công ty tiến hành đăng ký bảo vệ thương
hiệu của mình tại các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, Canada thông qua một
công ty XTTM phát triển của Nhật Bản. Công ty cũng tiến hành xây dựng thương
hiệu của mình tại các nước trong khối ASEAN như Singapore, Thái Lan,
Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei, đồng thời, tiếp tục đăng ký thương hiệu
của mình tại các nước châu Âu và sẽ kết hợp với Hội Luật gia Hà Nội để đẩy
mạnh hoạt động chống hàng gian, hàng giả, làm mất uy tín thương hiệu của mình.
Song song với các biện pháp ngăn chặn, Công ty đặc biệt chú trọng đến việc trang
bị các thiết bị, công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm riêng biệt của mình như:
tạo những đặc điểm về kỹ thuật- chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9001-2000 trên cơ
sở in vẽ, thiết kế chính xác trên các thiết bị hiện đại nhất, bảo đảm độ chính xác
cao đúng chiều vải, tạo ra những đường may thẳng, đều bền chắc cho sản phẩm...
Đồng thời tạo ra các đặc điểm về hình thức như: chỉ mang duy nhất nhãn hiệu
"Viettien" thể hiện trên bao bì, nhãn chính, nhãn treo của các loại sản phẩm. Cúc
92
nhựa có khắc chìm chữ "Viettien", hoặc "Vtec", riêng đối với các sản phẩm cao
cấp có đặc điểm chống hàng giả rất dễ nhận biết.
Thứ hai, nhiều DNDM lớn đã gắn chặt quyền lợi với các công ty nhập
khẩu, đây là một trong những biện pháp các DN Việt Nam thực hiện nhằm giảm
thiểu ảnh hưởng của các RCKT của các nước nhập khẩu áp đặt cho các DNXK dệt
may nước ngoài. Các DN Việt Nam đã kết hợp với các DN Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản
trong hoạt động sản xuất, phân phối mặt hàng dệt may, chính điều này đã giúp các
DN Việt Nam tránh được một số rào cản.
2.3.1.2. Các biện pháp, chính sách của nhà nước hỗ trợ DN vượt rào cản
kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu
Thực tiễn Nhà nước đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ DN vượt RCKT sau:
(i) Hỗ trợ thông tin thị trường xuất khẩu cho DN, tăng cường các hoạt động
xúc tiến thương mại: Chính phủ hỗ trợ thông tin và xây dựng các quy chế, thể chế
thúc đẩy XK sang các thị trường. Chính phủ mở rộng quy mô hoạt động của các tổ
chức XTTM như Cục XTTM, mở rộng mạng lưới các Thương vụ Việt Nam tại các
nước nhập khẩu chính; Chính phủ thành lập phòng thông báo và điểm hỏi đáp về
hàng rào kỹ thuật trong thương mại, văn phòng TBT Việt Nam tăng khả năng đáp
ứng thông tin đến với các DN.
Văn phòng TBT Việt Nam là cơ quan đầu mối quốc gia của Việt Nam thực
hiện thông báo, hỏi đáp về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá sự
phù hợp liên quan đến RCKT trong thương mại theo hướng dẫn của WTO. Hiện
nay, mạng lưới TBT Việt Nam đã có mặt ở 64 tỉnh thành trên cả nước.
(ii) Ban hành các văn bản pháp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ
tục đánh giá sự phù hợp với cam kết trong hiệp định TBT của WTO và các cam kết
quốc tế khác
Về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về RCKT thương mại, tiêu chuẩn và
chứng nhận sự phù hợp, Việt Nam đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật (năm 2006), Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (năm 2007), Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, luật Đo lường năm 2011. Các nghị định
93
hướng dẫn thi hành các luật liên quan gồm Nghị định số 127/2007/NĐ-CP của
chính phủ ngày 01/08/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Nghị định số: 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, Nghị định số 86/2012/ND-CP ngày 19/10/2012 quy định chi thiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đo lường, Nghị định về Ghi nhãn hàng hóa số
89/2006/NĐ-CP của Chính phủ năm 2006,...
Rất nhiều cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp và các biện pháp khác liên quan đến yêu cầu kỹ
thuật, bao gồm Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ
Giao thông, Bộ Y tế, Bộ Lao động, thương binh, xã hội, Bộ Văn hóa thể thao, du
lịch và Bộ Xây dựng. Bộ KH&CN chịu trách nhiệm công bố và quản lý tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trên Công báo, chịu trách nhiệm cùng với các bộ khác
phát triển tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hàng hóa và dịch vụ theo lĩnh vực và thẩm
quyền chuyên môn.
Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng (STAMEQ), trực thuộc Bộ
KH&CN, là đại diện của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế và khu vực về những
vấn đề liên quan tới yêu cầu kỹ thuật. STAMEQ không thể ban hành văn bản quy
phạm pháp luật bắt buộc nhưng có trách nhiệm soạn thảo các văn bản quy phạm
pháp luật về tiêu chuẩn và những vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn trình lên Bộ và
Chính phủ phê duyệt.
(iii) Chính phủ đã tăng cường đàm phán, ký kết và tham gia các hiệp định
thương mại song phương, khu vực và đa phương để mở rộng điều kiện tiếp cận thị
trường cho hàng hóa và dịch vụ XK của Việt Nam trong đó có hàng DM. Tính đến
nay, Việt Nam ký kết FTA song phương là Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt
Nam - Nhật Bản (Vietnam - Japan economic Partnership Agreement VJEPA) và
94
Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - Chile, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU . Đến cuối năm
2013, Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 6 hiệp định FTAs là
Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Tự
do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN -
Hàn Quốc (AKFTA), AJFTA, Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Ấn Độ
(AIFTA),khu vực thương mại tự do giữa các nước ASEAN, Australia và New
Zealand (AANZFTA). Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán TPP, RCEP, FTA với
EU, với Liên minh Thuế quan (Nga, Belarus, Kazakhstan), các nước EFTA và Hàn
Quốc. Việc tham gia đàm phán, ký kết các Hiệp định với hy vọng sẽ là cơ hội hạn
chế khối quốc gia này áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm của Việt
Nam trong đó có hàng dệt may xuất khẩu.
(iv) Các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may
Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm hoàn thiện môi
trường kinh doanh Việt Nam theo cơ chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo thuận lợi
cho phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội đất nước thì:
Trước hết, Nhà nước đặc biệt quan tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp DM,
một ngành công nghiệp mũi nhọn, một mặt hàng XK chủ lực vào hàng lớn nhất của
Việt Nam. Quyết định 36/2008/QĐ-TTg ngày 10/03/2008 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp DM Việt Nam đến năm 2015,
định hướng đến năm 2020. Trên cơ sở Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt
may Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, Quyết định số QĐ
3218/QĐ-BCT ngày 11/4/2014 của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch phát
triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã đặt
mục tiêu “1. Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công
nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu
dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội
nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới; 2. Đảm bảo cho các doanh nghiệp Dệt
95
may phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý
chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế”.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, Quy hoạch cũng đề ra một số giải pháp
cụ thể về đầu tư, tài chính, khoa học và công nghệ, phát triển thị trường, phát triển
nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Trong đó, nhấn mạnh vai trò ủng hộ, hỗ trợ của
Nhà nước về đầu tư, tài chính, phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển khoa học và công
nghệ, phát triển thị trường, đào tạo nguồn nhân lực là không thể thiếu để đảm bảo
cho ngành dệt may phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Việc triển khai thực hiện trong thực tiễn các chiến lược và quy hoạch phát
triển ngành DM thời gian qua đã hiện thực hóa các biện pháp chính sách của Nhà
nước hỗ trợ ngành DM, giúp cho ngành vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu để
tăng cường XK, hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra.
Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường kiểm tra, kiểm soát và tư vấn, giúp đỡ DN
XK dệt may
Ngày 30 tháng 11 năm 2007, Bộ Công Thương đã ra quyết định số
1935/QD-BCT thành lập tổ kiểm tra có sự tham gia của Vụ Xuất nhập khẩu, Vụ
Công nghiệp và tiêu dùng thực phẩm, Cục Quản lí thị trường (Bộ Công Thương),
Tổng cục Hải quan (Bộ tài chính), VITAS, VCCI. Nhiệm vụ của tổ này là kiểm tra
các DNXK có dấu hiệu gian lận thương mại, vi phạm qui định về xuất xứ hàng hóa,
qui định về quản lí chất lượng xuất nhập khẩu; kiểm tra DN có dấu hiệu vi phạm về
qui trình sản xuất hay có đơn giá XK quá thấp…; kiểm tra việc chấp hành các qui
định của Nhà nước trong xuất nhập khẩu DM của các DN. Khi phát hiện các trường
hợp vi phạm pháp luật, tổ sẽ báo cáo, kiến nghị lên các cơ quan hữu quan có thẩm
quyền ra quyết định xử lí. Tổ cũng giúp Bộ Công Thương thu thập thông tin về
tình hình sản xuất, XK của các DN trong diện kiểm tra để đề xuất những chính
sách phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế, nhằm đẩy mạnh XK, khắc
phục những hạn chế, cản trở trong sản xuất và XK nhất là tránh được các RCKT
của nước nhập khẩu.
96
Đồng thời, Nhà nước đã tham gia hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương
Bộ, ngành liên quan có những giải pháp phù hợp để giải quyết những tranh chấp
mại: Với trách nhiệm của mình, thời gian qua Bộ Công Thương đã phối hợp với các
thương mại, xóa bỏ những rào cản kỹ thuật mà một số nước đã áp đặt lên một số
mặt hàng dệt may có ưu thế của Việt Nam. Đồng thời để mở rộng thị trường và hỗ
trợ xuất khẩu dệt may, thời gian qua Bộ trưởng Bộ Công Thương đã chỉ đạo các
đơn vị trực thuộc đưa các nội dung dỡ bỏ các rào cản về thương mại, kỹ thuật trong
quá trình đàm phán các FTA với các đối tác TPP..… Ngoài ra, Bộ trưởng thường
xuyên chỉ đạo các thương vụ nước ngoài cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu
cho Hiệp hội DM và DNDMXK VN. Đồng thời cập nhật thông tin về thị trường
nước ngoài lên các trang thông tin canhbaosom.vn, thị trường nước ngoài
(ttnn.com.vn), thông tin thương mại (vinanet.vn), xúc tiến thương mại
(vietrade.com.vn)…[99]
2.3.2. Đánh giá về các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.
2.3.2.1. Kết quả đạt được
Nhìn vào số liệu kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang các thị
trường, chúng ta có thể thấy được những nỗ lực của Việt Nam trong việc đáp ứng
các rào cản phi thuế quan trong đó có RCKT. Kim ngạch xuất khẩu tăng thường
xuyên trong khi các RCKT của các nước nhập khẩu ngày càng tinh vi chứng tỏ Việt
Nam đã có những thích nghi và đổi mới để đáp ứng các rào cản này.
Về phía các DNDM: Các DN đã đạt được những thành công trong việc đáp
ứng RCKT của các nước như sau:
Thứ nhất, nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về các rào cản kỹ thuật
đã nâng lên rõ rệt: Nhiều doanh nghiệp sau khoảng thời gian rất dài tham gia xuất
khẩu hàng dệt may trả lời rằng, họ đã quen với việc đáp ứng các quy định của thị
trường xuất khẩu, và luôn quan tâm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Các doanh
nghiệp đã ý thực được: để vượt qua RCKT thì cần thiết phải tăng chi phí rất lớn,
song họ đều nhận thức rằng muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì không có cách nào khác
97
phải đáp ứng các quy định của nước nhập khẩu. Đặc biệt là các quy định với tư cách
là rào cản hợp lý và có căn cứ khoa học buộc phải tuân thủ. Kết quả khảo sát cũng
cho thấy các doanh nghiệp đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ sức khỏe con người,
bảo vệ người lao động, môi trường sinh thái. Có đến 72,5% DN quan tâm nghiên
cứu các RCKT vì nhận thấy trách nhiệm của họ, 70% DN cho rằng xuất phát từ yêu
cầu của khách hàng và 75% cho rằng họ nhận thấy tầm quan trọng của các quy định
này, chỉ có 27,5% cho rằng vì đã bị từ chối nhập hàng (Bảng 2.4). Kết quả điều tra
cũng cho thấy, khi thực hiện cam kết của WTO, các DN Việt Nam đã có sự chuẩn
bị cho việc thích ứng với các quy định này.
Bảng 2.4: Những lý do khiến DN quan tâm đến các quy định trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
STT Lý do Số lượng DN Tỷ lệ (%)
1 Khách hàng yêu cầu 31 70,0
2 Từng bị từ chối nhập hàng 12 27,5
3 DN bạn phổ biến kinh nghiệm 18 40,0
4 Nhận thấy tầm quan trọng của các quy định 34 75,0
5 Nhận thấy trách nhiệm của DN 32 72,5
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013
Các doanh nghiệp cũng nhận thức được việc đáp ứng các quy định của các
nước nhập khẩu có vai trò rất quan trọng, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu,
giảm ô nhiễm môi trường sống, người lao động làm việc có hiệu quả hơn, điều đó
giúp DNDM nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chính vì thế,
mặc dù những quy định của các nước nhập khẩu ngày một khắt khe hơn nhưng các
doanh nghiệp dệt may của Việt nam vẫn duy trì được thị trường và tăng kim ngạch
xuất khẩu. Hiện nay, nhiều DN đã nhận thức được rằng cần phải tự giác và chủ
động thực hiện các quy định để đáp ứng yêu cầu của khách hàng chứ không trông
chờ vào Nhà nước như trước đây. Nhìn một cách tổng thể, các DNDM đã có chuyển
biến nhiều trong việc nhận thức về trách nhiệm để nâng cao khả năng vượt RCKT.
Chính vì thế, các DN có quy mô lớn vẫn giữ vững kim ngạch xuất khẩu ở các thị
98
trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản do họ rất quan tâm đến việc thực hiện
và đáp ứng các quy định của các thị trường này. Tuy nhiên, khi đánh giá về nhận
thức vẫn còn nhiều vấn đề phải đặt ra
Thứ hai, khả năng đáp ứng RCKT của các DNDM Việt Nam đã tốt hơn.
Nhìn vào số liệu kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong thời gian
qua, ta có thể thấy được kết quả nỗ lực của dệt may của Việt Nam trong việc đáp ứng
các rào cản kỹ thuật của các thị trường lớn [44]. Kim ngạch xuất khẩu tăng thường
xuyên trong khi các rào cản kỹ thuật của nước ngày càng tinh vi chứng tỏ Việt Nam đã
có những thích nghi và đổi mới nhất định để đáp ứng các rào cản này. Từ khi gia nhập
WTO, các DN Việt Nam đã có điều kiện thuận lợi hơn và quen dần với những quy
định khắt khe của các thị trường khó tính, có kinh nghiệm hơn trong việc ứng phó
với các RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nhập khẩu
lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và xâm nhập ngày càng tốt hơn vào các thị trường
khác như Hàn Quốc, Canada….Theo ý kiến chuyên gia của Viện Dệt may Việt Nam
và Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Công thương cho thấy:
- Về các qui định, tiêu chuẩn kỹ thuật, nói chung các doanh nghiệp đã nắm
bắt được những nguyên tắc cơ bản về nhãn mác, xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn về an
toàn cho người sử dụng đáp ứng được những yêu cầu của rào cản này. Đó là thành
công của các doanh nghiệp trong giai đoạn này vì trước đây, Việt Nam còn rất
nhiều bỡ ngỡ vấn đề tem mác, xuất xứ, … của hàng hóa.
- Về các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội, các doanh nghiệp Việt
Nam đã bước đầu có thông tin về các tiêu chuẩn này. Thực tế là một số doanh
nghiệp dệt may tiên phong của Việt Nam đã đánh giá đúng được vị trí của những
chứng chỉ về môi trường và trách nhiệm xã hội, nỗ lực để đạt được các tiêu chuẩn
này thông qua việc cải tiến máy móc thiết bị, quan tâm đến bảo vệ môi trường và
người lao động và chấp nhận bỏ chi phí lớn để có được các chứng chỉ quốc tế.
Như vậy, về nhận thức và mức độ đáp ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may về các rào cản kỹ thuật đã được nâng lên rõ rệt. Các doanh nghiệp đã
nhận thức tốt hơn về trách nhiệm của mình để tăng cường năng lực vượt qua các rào
99
cản, để duy trì và phát triển thị phần ở các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU và
Nhật Bản. Các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, nhân lực để đáp ứng
quy định của các nước. Do đó, trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của
các doanh nghiệp này đã tăng lên đáng kể.
Về phía các cơ quan QLNN: Qua các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối
với các DNDM ở trên cho thấy: Chính Phủ Việt Nam đã quan tâm, nỗ lực và tạo
điều kiện để DN vượt qua các RCKT, đẩy mạnh xuất khẩu hàng DM.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, các DN xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam đã đánh giá cao vai trò của các cơ quan quản lý ngành dệt may, Bộ Công
thương, Bộ Khoa học & Công nghệ đã tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, cung
cấp các thông tin về các quy định cũng như cảnh báo của các nước nhập khẩu. Các
cơ quản quản lý chức năng đã đôn đốc DN thực hiện nghiêm ngặt các quy định.
Bảng 2.5: Mức độ hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức giúp DN vượt RCKT
Mức độ 1 2 3 4 5
Hỗ trợ SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
2 4,4 3 6,7 11 24,4 15 33,3 14 31,1
2 4,4 10 22,2 24 53,3 6 13,3 3 6,7
hội 3 6,7 1 2,2 21 46,7 15 33,3 5 11,1
tổ chức 3 6,7 8 17,8 14 31,1 13 28,8 7 15,6 Các cơ quan bộ, ngành Chính quyền địa phương Hiệp doanh nghiệp Các khác
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013
Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức
độ thấp nhất, 5 là mức độ hỗ trợ cao nhất.
Các DN cũng cho biết, thông tin mà họ nhận được từ văn bản của các Bộ,
ngành rất quan trọng bên cạnh kênh thông tin từ đối tác ở nước nhập khẩu. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cho rằng: Những doanh nghiệp lớn có vị trí nằm
trong các thành phố, gần với các cơ quan quản lý đánh giá cao vai trò của các cơ
100
quan này hơn những doanh nghiệp ở xa thành phố. Hơn nữa, những năm gần đây,
vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam cũng được nhiều doanh nghiệp ghi nhận.
Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nên các DN cũng có
nhiều thuận lợi trong việc vượt qua rào cản kỹ thuật. Có việc kiểm tra, kiểm soát
thường xuyên, chặt chẽ nên chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã
đáp ứng được phần lớn yêu cầu của các thị trường khó tính.
Các DN cũng khẳng định rằng, họ đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà
nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại để tăng cường năng lực vượt RCKT, từ
chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường, tạo thuận lợi
cho thương mại, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đến các hỗ trợ về tài
chính, kỹ thuật, thông tin thị trường, XTTM và đào tạo nguồn nhân lực. Có thể nói,
sự ủng hộ, hỗ trợ của Chính phủ là không thể thiếu để DN vượt qua RCKT, tăng
cường xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và mở rộng xuất khẩu ra
các thị trường khác.
2.3.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành công mà Nhà nước và các DNDM của Việt Nam đã
đạt được như trên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế.
- Đối với các cơ quan QLNN, các biện pháp tạo điều kiện và hỗ trợ cho các
DNDM vượt RCKT vẫn còn bất cập, đó là:
Thứ nhất, sự chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và quy định của nước nhập
khẩu. Theo Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (có Hiệu lực từ 1/1/2007) hệ
thống Tiêu chuẩn Việt Nam gồm: 1. Tiêu chuẩn quốc gia, ký hiệu là TCVN; 2. Tiêu
chuẩn cơ sở, ký hiệu là TCCS. Đến ngày 31/3/2011 Việt Nam có
6054 TCVN, 119 Quy chuẩn Quốc gia (QCVN) và 204 Văn bản Kỹ thuật Đo lường
Việt Nam (ĐLVN) còn hiệu lực. Tại Việt Nam, các quy chuẩn quốc gia là bắt buộc
phải áp dụng, trong khi khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia. Đến cuối
năm 2012, có 6800 tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) còn hiệu lực. Trong số đó, 40%
đã được hài hòa hóa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực hoặc tiêu chuẩn của nước
ngoài, (tăng 25% so với năm 2005). Nhiều bộ TCVN được ban hành hầu như không
còn phù hợp với xu thế phát triển nhanh về công nghệ. Bộ Công thương đã sơ bộ rà
soát hệ thống tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của ngành dệt may thì trong gần 200
101
tiêu chuẩn có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế, 49 tiêu chuẩn cần
được xây dựng mới, tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hóa
chất có ảnh hưởng đến con người.
Do vẫn còn nhiều tiêu chuẩn quốc gia chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
nên DN đang phải áp dụng cùng lúc nhiều tiêu chuẩn: tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn quốc gia (đối với những danh mục quy chuẩn quốc gia) và tiêu chuẩn của
nước nhập khẩu...điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn trở ngại cho DN. Mặt khác,
DN đang phải đối mặt với nhiều RCKT do các nước nhập khẩu đặt ra, những hàng
hóa có tiêu chuẩn không phù hợp sẽ không được chấp nhận. Khi đó để có thể bán
được hàng vào nước nhập khẩu, DN sẽ phải chịu thêm rất nhiều chi phí tốn kém
cho các thử nghiệm, chứng nhận, công nhận... tại các nước này.
Mặc dù Việt Nam đã tham gia vào nhiều thoả ước thừa nhận lẫn nhau song
phương, khu vực và đa phương, rất nỗ lực hài hòa hóa, tăng cường chấp nhận tiêu
chuẩn quốc tế, nhưng trên thực tế việc các nước thừa nhận các tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật của Việt nam là rất khó trừ phi các tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, tính chất tiến thoái lưỡng nan của việc áp dụng các tiêu chuẩn
và quy định kỹ thuật ở Việt Nam. Do trình độ phát triển, trình độ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ của Việt Nam, nhất là các DN trong nước còn chưa cao, những tiêu
chuẩn quá cao được đưa vào làm tiêu chuẩn quốc gia sẽ khiến DN khó áp dụng.
Nhưng không tiến tới hài hoà ngang bằng với các hệ thống tiêu chuẩn khu vực và
quốc tế thì các DN trong nước cũng khó có thể cạnh tranh được khi hàng ngoại
nhập với những tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật cao tràn vào thị trường trong
nước khi các rào cản thuế quan được dỡ bỏ.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiệp định TBT,
quy định của các nước nhập khẩu còn yếu. Tiến độ xây dựng một số đề án liên quan
đến hoạt động đánh giá hợp quy còn chậm do chưa có sự chỉ đạo sát sao và sự phối
hợp tích cực giữa các cơ quan liên quan. Việc thành lập điểm TBT tại một số địa
phương còn gặp khó khăn. Tại các điểm TBT đã được thành lập, cán bộ nhiều khi
102
làm việc kiêm nhiệm, công việc mới nên nhiều khi còn lung túng trong việc triển
khai các nghiệp vụ cụ thể.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN từ Trung ương đến địa phương,
còn nhiều bất cập. Rất nhiều DN không hài lòng với sự hỗ trợ, phối kết hợp của
chính quyền địa phương nơi DN hoạt động. Do đó, nhiều khi những văn bản, hướng
dẫn, các thông tin đến DN không kịp thời và việc triển khai của DN gặp nhiều khó
khăn. Đây cũng là điểm yếu trong quản lý nhà nước từ nhiều năm qua.
- Đối với các DNDM Việt Nam
Một là, mặc dù nhận thức của các DN đã nâng lên đáng kể song vẫn còn
nhiều bất cập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, bên cạnh những doanh nghiệp đã
nhận thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu các quy định của các thị trường
nhập khẩu thì vẫn còn nhiều DN chưa thật quan tâm, nhất là các doanh nghiệp nhỏ.
Các chuyên gia của Viện Dệt may, và Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương cho
biết, có doanh nghiệp thậm chí không biết rào cản kỹ thuật là gì. Điều này sẽ là bất
lợi rất lớn khi DN muốn mở rộng thị trường hoặc chia sẻ rủi ro trong xuất khẩu. Kết
quả tổng hợp tại bảng 2.6 cho thấy còn nhiều DN chưa thực sự nhận biết rõ về
RCKT của các nước nhập khẩu chính. Có tới 53,4% số DN được khảo sát nhận biết
ở mức thấp và trung bình về RCKT của thị trường Hoa Kỳ, tỷ lệ này đối với thị
trường EU là trên 55,5%, đối với thị trường Nhật Bản lên tới 78,8%, v.v
Bảng 2.6: Mức độ nhận biết của DN về các rào cản kỹ thuật trong hoạt động xuất khẩu trên các thị trường chính
Mức độ 1 2 3 4 5
Thị trường SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Hoa Kỳ 8 17,8 7 15,6 9 20,0 14 31,1 7 15,6
EU 6 13,3 10 22,2 9 20,0 13 28,9 7 15,6
Nhật Bản 8 17,8 7 15,6 18 45,4 7 15,6 5 11,1
Hàn Quốc 9 20,0 5 11,1 15 33,3 11 24,4 5 11,1
8 11 24,4 1 2,2 Thị trường khác 17,8 14 22,2 11 24,4
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả
103
Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ
nhận biết thấp nhất; 5 là mức độ nhận biết cao nhất
Hai là, năng lực đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu của các DNDM
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Ngày nay, yêu cầu của các nước nhập khẩu càng trở lên khắt khe nhưng tiềm
lực của các DN thì hạn chế nên DN đã và đang gặp khó khăn về nhiều phương diện.
Bảng tổng hợp 2.7 cho thấy mức độ khó khăn của các DN tập trung chủ yếu ở mức
điểm trung bình (từ 20% đến 44,4%). Có 42,2% DN cho rằng họ bị thiếu về kỹ
thuật ở mức khá cao, đây có lẽ là vấn đề nan giải nhất hiện nay. Trong khi cách đây
vài năm, các DN cho rằng thiếu kinh phí là khó khăn lớn nhất thì hiện nay chỉ có
33,3% cho rằng họ thiếu kinh phí ở mức khá. Một số DN lớn đánh giá thiếu nhân
lực để xử lý các vấn đề liên quan đến quy định, tiêu chuẩn Việt Nam chưa phù hợp
với tiêu chuẩn thế giới, cơ chế chính sách chưa chặt chẽ là khó khăn lớn nhất.
Bảng 2.7: Mức độ khó khăn của DN trong việc đáp ứng các RCKT
1 2 3 4 5
Mức độ khó khăn SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Thiếu thông tin 15,6 13,3 20 44,4 7 15,6 5 11,1 6 7
20,0 15 33,3 12 26,7 7 15,6 9 4,4 2 Thiếu kinh phí
20,0 12 26,7 19 42,2 2 4,4 9 4,4 2 Thiếu kỹ thuật
17,8 17 37,8 9 20,0 8 17,8 8 6,7 3 Thiếu nhân lực
15,6 15 33,3 14 31,1 6 13,3 7 6,7 3 Thiếu dịch vụ
5 11,1 10 22,2 19 42,2 11 24,4 5 11,1 Thiếu đơn vị đánh giá
2 4,4 2 4,4 19 42,2 14 31,1 8 17,8 Tiêu chuẩn chưa phù hợp
chế, CS 2 4,4 5 11,1 15 33,3 15 33,3 8 17,8 Cơ chưa chặt chẽ
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013
104
Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ
khó khăn thấp nhất; 5 là mức độ khó khăn cao nhất
Một trong những nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng dệt may là nhu cầu
của người tiêu dùng. Ở các nước phát triển, người tiêu dùng ngày càng đưa ra
những quy định khắt khe hơn đối với sản phẩm, do đó mức độ khó khăn của các
doanh nghiệp xuất khẩu sẽ càng lớn. Điều này thể hiện rất rõ qua ý kiến của các
doanh nghiệp (Bảng 2.8). Rất ít doanh nghiệp tự đánh giá mức độ khó khăn của các
doanh nghiệp là bình thường và đa số doanh nghiệp nhỏ cho rằng họ gặp nhiều khó
khăn để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là những khách hàng lớn,
truyền thống của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ quy mô của doanh nghiệp có ảnh
hưởng rất lớn đến năng lực vượt rào cản. Các doanh nghiệp lớn sẽ có nhiều nguồn
lực để vượt rào cản kỹ thuật hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong khi ở Việt
Nam có đến 80% các DNVVN)
Bảng 2.8: Mức độ khó khăn mà DN phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật trên một số thị trường chủ yếu
Mức độ 1 2 3 4 5
Thị trường SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Hoa Kỳ 2 4,4 5 11,0 7 15,5 14 31,1 17 37,8
EU 0 0,0 6 13,3 10 22,2 23 51,2 6 13,3
Nhật Bản 2 4,4 2 4,4 19 42,2 16 35,5 6 13,3
Hàn Quốc 6 0 0,0 5 11,0 13,3 15 33,3 18 40
2 0 0,0 4 8,9 Thị trường khác 4,4 2 4,4 3 6,7
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013
Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ khó khăn thấp nhất; 5 là mức độ khó khăn cao nhất
Thực tế cho thấy, rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu hàng dệt may
ngày càng cao hơn, chặt chẽ hơn. Các DN đã phải nỗ lực hết mình để giữ thị
trường, nhất là các DN tư nhân, công ty cổ phần. Do đó, khi được hỏi về mức độ
105
đáp ứng các RCKT, nhiều DN cho rằng họ chỉ đáp ứng được ở mức độ trung bình
và thấp (Bảng 2.9).
Bảng 2.9: Mức độ đáp ứng của DN đối với rào cản kỹ thuật
Mức độ Rất thấp Trung bình Tốt Rất tốt
Thấp
Quy định SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
1 2 9 20 19 42 10 22 4 9
0 0 7 16 19 42 13 29 6 13
1 2 7 16 25 56 10 22 2 4
trách 1 2 6 13 20 44 14 31 4 9 Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng Quy định về an toàn cho người sử dụng Tiêu chuẩn về quản lý môi trường Tiêu chuẩn nhiệm xã hội
1 2 7 16 13 29 18 40 6 13 Quy định về ghi nhãn hàng DM
1 2 3 7 25 56 8 18 8 18 Quy định về nguồn gốc xuất xứ
2 4 10 22 14 31 15 33 4 9 Các quy định khác (xin ghi rõ):………
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả 2013
Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%)
Về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều cải tiến nhưng chưa hoàn toàn đạt yêu cầu,
đặc biệt là đối với ngành dệt. Quy chế kiểm tra chất lượng còn chưa chặt chẽ, tình
trạng xuất hàng kém chất lượng gây mất uy tín vẫn còn tồn tại. Cho đến nay vẫn
chưa nhiều doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO trong quản lý chất lượng và có ít
doanh ngiệp được cấp chứng chỉ. Số liệu điều tra cũng cho thấy, số DN đạt tiêu
chuẩn chất lượng cao còn thấp (21%)
Về các qui định về tính an toàn của sản phẩm: Kết quả điều tra cũng cho
thấy mức độ đáp ứng của tiêu chuẩn này ở mức trung bình chiếm tỷ lệ cao. Ngoài
ra, theo Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May, phần lớn các thiết bị nghiên cứu, thử
106
nghiệm chất lượng hàng dệt may được đầu tư từ những năm 90, nay đã cũ và lạc
hậu. Hiện nay Việt Nam chưa có các phòng thí nghiệm sinh thái đủ tiêu chuẩn để
cấp chứng chỉ an toàn cho hàng xuất khẩu và kiểm tra các loại hàng hoá, bảo đảm
an toàn cho người sử dụng tại Việt Nam cũng như tại thị trường nhập khẩu. Vì thế,
việc cấp chứng chỉ này cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam phải thông qua
phòng thí nghiệm của thị trường nước nhập khẩu. Việc này gây không ít khó khăn
về thủ tục, chi phí cũng như thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 10/10/2010 tại TP.HCM đã diễn ra Hội nghị quốc tế về an toàn sản
phẩm và các chất bị hạn chế đối với mặt hàng dệt may và giày dép nhập khẩu vào
Hoa Kỳ. Hội nghị này đã trang bị cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất
khẩu nội dung qui định về tính an toàn sản phẩm của Hoa Kỳ, định hướng cho các
doanh nghiệp về chất lượng cần đạt được của sản phẩm. Hội nghị này là thật sự cần
thiết trong bối cảnh các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn lúng túng và chưa
thích nghi được với các qui định mới của Hoa Kỳ về tính an toàn của sản phẩm.
Mặc dù sản phẩm áo, váy của trẻ em có dây thắt ở khu vực cổ đã bị Hoa Kỳ
cấm từ lâu nhưng trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn chưa chú ý
đến việc kiểm soát chặt chẽ các mẫu thiết kế dẫn tới vẫn sản xuất các loại sản phẩm
này và không thể xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu lại được đem bán trong nước vì tiêu chuẩn an toàn về sản phẩm dệt may
của Việt Nam còn thấp và ý thức của người dân với tính an toàn của sản phẩm dệt
may chưa cao. Hàng không xuất khẩu được phải bán với giá rẻ hơn gây thiệt hại
không ít cho doanh nghiêp. Ngoài ra, hàng dệt may Việt Nam còn khó khăn trong
đáp ứng yêu cầu về nồng độ chì trong sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu của việc này
là do chất nhuộm vải và nguyên liệu sợi, vải, phụ liệu nhập khẩu của Việt Nam
chưa đạt yêu cầu. Dù đã cố gắng tự chủ về nguyên liệu nhưng đến năm 2010, Việt
Nam vẫn phải nhập khẩu đến hơn 60% nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan, Ấn
Độ và một số nước khác. Các nguyên liệu này khi nhập khẩu lại chỉ đáp ứng được
tiêu chuẩn của Việt Nam dẫn đến khi đuợc gia công thành sản phẩm thì nồng độ các
chất độc hại trong hàng may mặc vượt xa mức cho phép của Hoa Kỳ và không được
phép nhập khẩu. Hơn thế nữa, với các phòng thí nghiệm đã cực kì lạc hậu như hiện
107
nay, Việt Nam không thể xác định chính xác nồng độ các chất độc hại trong sản
phẩm với độ chính xác vô cùng khắt khe theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Quá trình hậu
kiểm của các doanh nghiệp dệt may cũng còn nhiều thiếu sót, ở một số khâu còn
qua loa, chưa chú trọng nên để lọt các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Về đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường: Tình trạng các xí
nghiệp trong dây chuyền nhuộm hoàn tất vẫn sử dụng chất phụ trợ, chất nhuộm gây
ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động và môi trường thậm chí là người sử dụng
sản phẩm. Nghiêm trọng nhất là trong quá trình hồ sợi, do sử dụng nhiều hoá chất
độc hại nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, tăng lượng COD trong nước
thải khó xử lí vi sinh. Kỹ thuật giảm trọng Polieste bông kiềm làm sản sinh luợng
terephtalat trong nước thải đến 5-6 lần. Với tình trạng ô nhiễm này, doanh
nghiệp cần đầu tư nhiều kinh phí cho việc xử lí môi trường và khó có thể đạt
được chứng chỉ đạt chuẩn.
Về việc đáp ứng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, theo báo cáo của Tập
đoàn DMVN Vinatex, hiện nay, mới chỉ có một lượng nhỏ DN ở Việt Nam có được
chứng chỉ SA8000. Đến hết năm 2009, mới có 47 doanh nghiệp Việt Nam đạt tiêu
chuẩn này như công ty Dệt may Việt Thắng, Công ty Xuất nhập khẩu dệt may Việt
Tiến, Castrol Vietnam, Legamex...Trong đó có 35 doanh nghiệp thuộc khối dệt
may. Tuy nhiên nếu đối chiếu theo các tiêu chuẩn của chứng chỉ này thì phải có đến
1000 doanh nghiệp đạt yêu cầu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may
Việt Nam, lí do của tình trạng này là vì trong thời gian đầu khi hệ thống tiêu chuẩn
này phổ biến ở Việt Nam các doanh nghiệp rất “hăm hở”, vì cho rằng nó là quy
chuẩn quốc tế nên sẽ được khách hàng chấp nhận. Nhưng thực tế, theo ông Ân thì
mỗi khách hàng lại chọn cho mình một tổ chức giám định riêng, nên doanh nghiệp
dù có chứng chỉ SA 8000 hay không thì vẫn bị giám định, trong khi “thực ra hệ
thống tiêu chuẩn không khác nhau nhiều, chỉ thêm 1 đến 2 yêu cầu nữa”. Đó là lý
do chính khiến các doanh nghiệp chưa thật sự thấy cần thiết có chứng chỉ này.
Trong khi đó, doanh nghiệp lại gặp khó khăn vì mỗi khách hàng kiểm tra một lần,
khiến doanh nghiệp mất thời gian chuẩn bị. Trong thời gian qua, Tập đoàn dệt may
108
Việt Nam đã có đề xuất với các hiệp hội ngành nghề các nước, để thống nhất một tổ
chức giám định, nhưng kiến nghị này chưa được đồng ý. Hiện nay có nhiều luồng ý
kiến về sự cần thiết của chứng chỉ SA8000, có doanh nghiệp, điển hình như Công ty
may Sài Gòn cho rằng việc có được cấp chứng chỉ này hay không, không quan
trọng. Thường thì doanh nghiệp tìm cách có chứng chỉ để tăng uy tín thương hiệu,
còn thực chất là doanh nghiệp vẫn phải đối diện với việc đánh giá của từng khách
hàng. Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng không muốn chi trả chi phí đánh giá, chi
phí thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000, trong khi việc này không mang
lại hiệu quả thiết thực.
Về đáp ứng các quy định ghi nhãn hàng dệt may: Hiện nay các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam đã cơ bản nắm bắt được các tiêu chuẩn đặc biệt là tiêu
chuẩn về nhãn mác của hàng dệt, len và lông thú. Nhãn mác hàng dệt may Việt
Nam đã đáp ứng được qui chuẩn của nhãn mác như 100% hàng xuất khẩu được viết
bằng tiếng Anh với kí mã hiệu theo qui chuẩn của Hoa Kỳ và thế giới. Tuy nhiên,
hiện nay rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc do ghi thiếu
hoặc sai lệch thành phần của hàng dệt và hàng len. Tỉ lệ ghi trên nhãn mác như %
cotton, spandex...tuy đã qui định rõ nhưng khi kiểm tra lại theo nhãn thì không đạt
tiêu chuẩn. Đó là do khâu kiểm tra và đo lường của các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam còn thiếu chính xác, chưa đạt tiêu chuẩn.
Khó khăn trong việc đáp ứng quy định về xuất xứ hàng dệt may: Dệt may
hiện là ngành được quan tâm nhất khi VN tham gia TPP, vì đây là ngành đóng góp
cho kim ngạch xuất khẩu rất lớn, tạo công ăn việc làm nhiều. Thực tế có rất nhiều lo
ngại cho ngành dệt may khi tham gia vào hiệp định này, mà trực tiếp là những thách
thức đối với thị trường Mỹ. Như chúng ta biết, thị phần của VN xếp vị trí thứ 2 ở
thị trường Mỹ nhưng vị trí này là không bền vững. Nguyên nhân là do thị phần của
VN chỉ chiếm 8%, còn Trung Quốc đứng vị trí số 1 với 35-36% về thị phần, gấp 4,5
lần VN - sự chênh lệch là rất lớn. Trong khi đó, những thị trường ở vị trí thứ 3, thứ
4 cũng có 7% hoặc 6,5% thị phần, chỉ cần một sai lệch nhỏ trong định hướng chung
là dệt may VN có thể mất vị trí thứ 2. Nghiêm trọng hơn, khi tham gia vào TPP, Mỹ
109
yêu cầu áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” là thách thức lớn đối với ngành dệt
may VN. Thách thức này thể hiện ở chỗ, chuỗi cung ứng dệt may trên thế giới là
chuỗi cung ứng toàn cầu, các nhà sản xuất, mua hàng đã có xu thế thiết lập tương
đối ổn định chuỗi cung ứng của mình. Vì vậy, không dễ để họ dịch chuyển chuỗi
cung ứng từ những nước không nằm trong TPP dịch chuyển về những nước nằm
trong TPP. Chưa tính đến trường hợp các DNVN có thể lo được vốn để đẩy mạnh
đầu tư vào khâu sợi, dệt, nhuộm nhưng nếu các nhà máy trên không nằm trong
chuỗi cung ứng, thì khả năng tham gia và hưởng lợi từ TPP là khó đạt được. Và một
dẫn chứng từ thực tế để thấy rõ thách thức này đối với ngàng dệt may VN hiện nay
là khi tham gia Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Nhật Bản, VN được hưởng
nguyên tắc “từ vải trở đi”. Mặc dù thông thoáng hơn cả nguyên tắc “từ sợi trở đi”
của TPP nhưng trong 4 năm qua, việc thu hút đầu tư sản xuất vải cho thị trường
Nhật Bản để đáp ứng được FTA thực sự không đáng kể.
Từ những hạn chế đó, các DN cho rằng mặc dù nhận thức được cần phải đáp
ứng quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhưng do khó khăn về
nhiều mặt nên họ mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà nước và chính quyền
địa phương. Đối với các DN lớn, thì mong muốn hỗ trợ nhiều hơn cả là được trợ
giúp về mặt kỹ thuật, hỗ trợ kinh phí, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các dịch
vụ môi trường. Còn đối với các DN quy mô nhỏ, thì mong muốn chủ yếu là được
hỗ trợ cung cấp thông tin, hỗ trợ kinh phí, đào tạo nguồn nhân lực.
2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, cả bên trong và bên
ngoài, trong đó nguyên nhân chủ quan có tác động rất lớn đến khả năng vượt
RCKT của hàng DMXK Việt Nam mà nguyên nhân chính thuộc về tư duy, nhận
thức của cả Nhà nước, các cấp các ngành và các DNXK hàng dệt may Việt Nam đối
với RCKT chưa hoàn toàn mang tính tích cực và đầy đủ. Trên thực tế, Việt Nam nói
chung và các DNXK nói riêng thường chỉ nhấn mạnh RCKT do các đối tác nhập
khẩu luôn gây khó khăn cho mình và do đó trong thực tế chỉ tập trung nhiều hơn
cho đàm phán, giải quyết khiếu kiện…mà không tích cực đổi mới, cải cách cả về
110
phía Nhà nước và DN. Đây là nguyên nhân quan trọng, quyết định và kéo theo
nhiều nguyên nhân khác.
Bên cạnh nguyên nhân có tính quyết định trên thì có nhiều nguyên nhân khác
từ phía Nhà nước, Hiệp hội DM và các DNDM. NCS tập trung phân tích những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nguyên nhân thuộc về phía Nhà nước và các cơ quan QLNN
- Hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ,
đồng bộ, hiệu lực thực thi chưa cao. Các luật và quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật, môi trường, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện, chỉnh sửa, bổ sung và ban hành mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, hiệu lực thực thi của các văn
bản quy phạm pháp luật chưa cao, một phần do năng lực xây dựng pháp luật còn
hạn chế, khiến cho còn nhiều quy định chung chung, mơ hồ, chồng chéo và chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, mặt khác là do Việt Nam vẫn chưa xây dựng được ý thức
thượng tôn pháp luật. Đối với ngành DM, việc biên soạn, chỉnh sửa bộ tiêu chuẩn
về môi trường trong ngành dệt chưa kịp thời; còn thiếu các văn bản mang tính pháp
lý cao cho phát triển công nghiệp hỗ trợ; chưa có luật về hiệp hội; qui định về áp
dụng tiêu chuẩn về môi trường còn chung chung; chế tài xử phạt các DN vi phạm
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi trường còn lỏng lẻo. Chính quyền địa phương
chưa giám sát sâu sắc và hỗ trợ nhiều cho DN, …
- Trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém, trình độ KHCN lạc hậu, thiếu các
phòng thí nghiệm đạt chuẩn, QLNN còn hạn bất cập; phần lớn NPL ngành may đều
phải nhập khẩu dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu, do vậy Việt Nam gặp rất nhiều
khó khăn trong đối phó với các RCKT thương mại từ các nước phát triển Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam còn chưa đồng bộ và thực sự phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nên các DNXK Việt Nam còn gặp trở ngại khi XK.
Việc nhập khẩu tới 80% NPL của ngành DMXK không những khiến cho hiệu quả
XK hàng DM của Việt Nam chưa cao vì phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập
khẩu từ thị trường nước ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc (khoảng 24%), tiếp theo là
Hàn Quốc (chiếm 23%), Đài Loan (chiếm 20, 28%), Hồng Kông (chiếm 13, 99%),
Nhật Bản (chiếm 8, 89%), mà còn làm suy giảm khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn
và yêu cầu kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhất là các quy định về quản lý chất
111
lượng sản phẩm, an toàn cho người sử dụng và các quy định về nhãn mác, xuất xứ,
v.v … Hiện cả nước có khoảng 10 nghìn hecta trồng bông với sản lượng hằng năm
chỉ đáp ứng khoảng 2% nhu cầu sản xuất. Nguyên nhân chính dẫn tới sự kém phát
triển của ngành bông, xơ ở Việt Nam là do nước ta không có lợi thế cạnh tranh tự
nhiên và không chú trọng đầu tư trong việc trồng bông và sản xuất xơ. Trồng bông
là ngành rất thâm dụng đất đai, việc trồng bông chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí
hậu, dẫn tới diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn chưa cao và còn manh mún. Bên
cạnh đó, trình độ thâm canh của nông dân chưa tốt, không có hệ thống thủy lợi hỗ
trợ, điều kiện trồng trọt chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch bằng
tay nên chất lượng bông của nước ta thấp dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với
các nước khác ở Bắc Mỹ và Châu Phi. [30].
- Các chính sách và nguồn lực của Nhà nước hỗ trợ vượt RCKT đối với hàng
DM còn hạn chế như các chính sách về đầu tư, tài chính, phát triển kết cấu hạ tầng,
phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển chuỗi cung ứng DM; hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực DM, hỗ trợ về thông tin thị trường và XTTM,...
- Năng lực đàm phán, giải quyết tranh chấp liên quan đến RCKT của các cơ
quan nhà nước còn hạn chế. Việt Nam chưa đàm phán, ký kết được nhiều hiệp định
với các nước công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và kiểm tra.
- Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể bài bản và khoa học về nâng cao
năng lực cạnh tranh XK hàng DM, sự mâu thuẫn trong chính sách của nhà nước
trong việc khuyến khích đầu tư vào ngành dệt nhuộm và chính sách hạn chế các
ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường; thiếu vắng các cụm ngành công
nghiệp dệt may để hỗ trợ phát triển.. Vì chưa có chiến lược bài bản và khoa học,
cho nên Nhà nước chưa có đầu tư thỏa đáng, có trọng tâm trọng điểm để giúp các
DNDM trong nước kể cả nâng cao nhận thức cũng như có những cải cách, điều
chỉnh và đổi mới về KHCN, về các quy trình sản xuất liên quan tới dệt và may
nhằm không chỉ nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đồng thời
tuân thủ và đáp ứng tốt các RCKT do các nước nhập khẩu đưa ra. Thực tế, vai trò
của ngành dệt đối với ngành may nói riêng và tổng thể ngành dệt may là rất lớn vì
vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng của một sản
phẩm may mặc. Mặc dù có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu tại
112
chỗ cho ngành may nhưng trên thực tế, ngành dệt Việt Nam chưa phát triển như kỳ
vọng. Bên cạnh yếu tố chất lượng không đảm bảo thì sản lượng ngành dệt cũng
không đáp ứng nhu cầu của ngành may. Năm 2012, ngành may có nhu cầu sử dụng
khoảng 7 tỷ mét vải trong khi tổng lượng vải sản xuất trong nước chỉ đạt khoảng 1
tỷ mét, nước ta phải nhập khẩu 6 tỷ mét vải, tương đương 86% tổng nhu cầu. Nước
ta có khả năng nhuộm và hoàn tất 80.000 tấn vải đan và 700 triệu mét vải dệt mỗi
năm. Tuy nhiên, chỉ khoảng 20-25% lượng vải dệt này đủ chất lượng để sản xuất
thành phẩm xuất khẩu, trong khi vải đan hầu hết không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu
và chỉ được dùng cho thị trường nội địa.
Thứ hai, nguyên nhân thuộc về Hiệp hội DM.
Hiệp hội DM của Việt Nam còn chưa phát huy được đầy đủ vai trò của mình
trong việc đối phó với các RCKT thương mại của nước ngoài. Hiệp hội còn yếu về
tổ chức, về tiềm lực tài chính và năng lực chuyên môn, tính liên kết trong hiệp hội
lỏng lẻo. Với tư cách là tổ chức đại diện chính đáng cho các lợi ích của DN, có
trách nhiệm giúp đỡ DN đối phó với các RCKT của nước ngoài, nhưng thực tế Hiệp
hội DM của Việt Nam chưa thực sự làm được điều đó.
Thứ ba, nguyên nhân thuộc về các DNDM của Việt Nam.
- Nhiều DN chưa có điều kiện tiếp cận với các quy đinh, tiêu chuẩn của các
nước nhập khẩu. Phần lớn các DNDM của nước ta (đặc biệt là các DN nhỏ và vừa)
đáp ứng các RCKT của các nước nhập khẩu mang tính đối phó nhiều hơn là phòng
ngừa; DN chủ yếu đợi đến lúc bị bắt buộc, giám sát chặt chẽ mới có biện pháp thích
nghi, không chủ động tìm hiểu, đổi mới để đón đầu xu thế.
- Năng lực nội tại của các DNDM Việt Nam còn hạn chế: Quy mô sản xuất
của DN còn nhỏ theo kiểu manh mún, quản lý của các DN vẫn còn yếu, chưa
chuyên nghiệp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của các chủ DN, chính vì vậy các tiêu
chuẩn kỹ thuật của sản phẩm không đồng đều, không đáp ứng được yêu cầu từ phía
các nước phát triển. Hiện nay, một số DN có quy mô lớn xét theo tiêu chí lao động
chỉ chiếm 1,52% và xét theo tiêu chỉ vốn chỉ có 11,73%, số DN có quy mô vừa theo
tiêu chí lao động cũng chỉ chỉ chiếm 12,9%. Còn lại hơn 80% DN có quy mô vốn
thấp, số lượng lao động ít, hoạt động phân tán rải rác khắp cả nước. Với quy mô
113
như vậy, DN Việt Nam khó có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi mà mức độ
tự do hóa ngày càng tăng và hàng rào kỹ thuật được dựng lên ngày càng nhiều. Quy
mô vốn đầu tư nhỏ khiến cho các DN không đủ khả năng ứng dụng công nghệ mới
hay đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại. Việc đầu tư của DN còn dàn trải, cơ cấu
chưa hợp lý, chưa hiệu quả do thiếu thông tin về thị trường đầu vào: vốn, lao động,
nguyên vật liệu, thiết bị công nghệ thông tin về chính sách và quy định của Nhà
nước. DN chưa đầu tư đúng mức cho việc sản xuất NPL, ỷ lại vào nhập nguyên phụ
liệu giá rẻ của nước ngoài
- Khả năng liên kết của DNDM Việt Nam để vượt qua RCKT còn yếu kém.
Các DN chỉ dừng lại ở việc cải thiện sản xuất của mình mà chưa chú trọng đến đoàn
kết, giúp đỡ về thông tin cho DN khác trong nội bộ ngành. Không có sự liên kết,
phối hợp chặt chẽ, ngành DM Việt Nam thiếu sức mạnh để vượt qua RCKT mà các
nước nhập khẩu đặt ra. Biểu hiện ở chỗ: DN Nhà nước chưa phát huy được vai trò
chủ đạo, định hướng hỗ trợ DN tư nhân, mối quan hệ giữa các DN chưa tạo được
sức mạnh tổng thể trong phát triển ngành. Thực tế cho thấy, nhiều DN nhà nước
phải mua nguyên liệu với giá cao trong khi một bộ phận lớn các tổ hợp ươm tơ, kéo
sợi thủ công lại đang khó khăn trong khâu giải quyết đầu ra nhưng hai bên lại chưa
phối hợp được với nhau để sửu dụng tốt nguyên liệu trong nước. Hoặc trong khâu
may mặc, DNDN rất căng thẳng để hoàn thành đơn hàng đúng tiến độ thì DNTN
cũng sản xuất mặt hàng đó lại không có việc làm. Hoặc là DN có vốn đầu tư nước
ngoài chủ yếu sản xuất hàng may mặc xuất khẩu cũng hoạt động biệt lập với DN
trong nước, chưa thể hiện ưu thế về mặt kỹ thuật, công nghệ…
- Nhiều DN chưa có chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn. Năm 2014
được đánh giá vẫn là năm khó khăn đối với ngành dệt may, bởi do nền kinh tế chưa
thực sự hồi phục nên sức mua giảm, cạnh tranh gay gắt, nhiều DN buộc phải thu
hẹp đầu tư, sản xuất cầm chừng. Nếu không có định hướng và chiến lược xây dựng
thương hiệu đúng đắn, trong các năm tiếp theo khó có thể hoàn thành mục tiêu phát
triển ngành Dệt may mà Bộ Công Thương đã đề ra là.
Tóm lại, ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò
quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế
114
giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng
góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh
tế nói chung ở Việt Nam.
Chương 2 đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng XK và thực trạng sử dụng
các RCKT của các nước nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK hàng DM
của Việt Nam cũng như những biện pháp vượt RCKT đối với hàng DM của Chính
phủ và DN Việt Nam, chỉ rõ rằng để vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu
chủ yếu, hàng DM Việt Nam đã có những thích nghi, đổi mới quan trọng, đặc biệt
là trong công nghệ sản xuất, tạo dựng thương hiệu và thay đổi cách thức giám sát,
kiểm tra. Tuy nhiên, thực trạng đáp ứng các rào cản này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế
trong thời gian qua.
Nội dung của chương cũng đã đưa ra nguyên nhân của các hạn chế, trong
đó có những nguyên nhân khách quan do trình độ phát triển kinh tế, KHCN của
Việt Nam còn thấp, nhưng nguyên nhân chủ quan quan trong nhất là do năng lực
nước ta còn thấp, kể cả trong các cơ quan chính phủ và các DNDM. Nhận thức và ý
thức về việc chủ động nắm bắt xu hướng RCKT để có biện pháp phòng ngừa mang
tầm chiến lược còn yếu. Hiện nay các biện pháp vượt RCKT còn mang tính đối phó,
bị động và ngắn hạn. Cộng đồng DNDM chưa thật sự có sự gắn kết chặt chẽ với
nhau để tìm giải pháp,... Việc xác định chính xác những nguyên nhân trên chính là
căn cứ hết sức quan trọng để nghiên cứu các nội dung tiếp theo ở chương 3.
115
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.
3.1.1. Xu hướng phát triển của rào cản kỹ thuật trên thế giới.
Thứ nhất, RCKT trên thế giới sẽ phát triển nhanh về số lượng trong thời gian
tới, tiếp tục xu hướng tăng nhanh về lượng của thời gian gần 2 thập kỷ qua. Theo
Báo cáo “Tổng kết 18 năm thực hiện và hoạt động của Hiệp định về Hàng rào kỹ
thuật thương mại” của Ủy ban TBT năm 2013 (G/TBT/33), từ khi Hiệp định
Marrakesh về thành lập WTO có hiệu lực ngày 1/1/1995 đến hết năm 2012, đã có
15736 thông báo, 2684 phụ lục và 485 hiệu đính về biện pháp kỹ thuật của 116
thành viên gửi lên Ủy ban TBT của WTO. Riêng trong năm 2012 các thành viên
của WTO đã thông báo lên Ủy ban TBT của WTO 1550 quy định kỹ thuật và thủ
tục đánh giá sự phù hợp mới hoặc chỉnh sửa, cùng với 575 bản Phụ lục và 45 bản
Hiệu đính những thông báo trước. Số lượng thông báo này là nhiều nhất kể từ khi
WTO ra đời, nhiều hơn cả đỉnh cao năm 2009 năm đỉnh điểm của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
Trong số 1550 thông báo mà Ủy ban TBT nhận được năm 2012, có tới 1367
thông báo về quy định kỹ thuật, 30 thông báo về quy định kỹ thuật khẩn cấp, 162
thông báo về thủ tục đánh giá sự phù hợp và 2 thông báo về thủ tục đánh giá sự phù
hợp khẩn cấp,... Xét về các mục tiêu thứ nhất, thứ hai và thứ ba của các thông báo
năm 2012, có tới 1023 thông báo nhằm bảo vệ an toàn, sức khỏe con người, 253
thông báo nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, 238 thông báo nhằm đáp ứng yêu cầu
chất lượng, 211 thông báo nhằm mục tiêu hạn chế lừa dối, bảo vệ người tiêu dùng,
81 thông báo nhằm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng và nhãn mác,...
Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013 cũng cho biết, từ năm 1995 đến năm
2012 có 360 vấn đề thương mại nổi cộm có liên quan tới TBT. Chỉ riêng năm 2012
116
đã có tới 94 vấn đề nổi cộm trong đó có 54 vấn đề cũ còn tồn tại và xuất hiện thêm
35 vấn đề mới, tăng 23,7% so với năm 2011 (76 vấn đề) và chiếm tới hơn ¼ số vấn
đề nổi cộm của cả 18 năm thực hiện TBT (hình 3.1).
Hình 3.1. Những vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT trong giai đoạn 1995-2012
Nguồn: Ủy ban TBT của WTO, Tổng kết 18 năm thực hiện và hoạt động của
Hiệp định TBT, 2013
Báo cáo của Ủy ban TBT của WTO năm 2013 cũng chỉ ra rằng, trong số 94
vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT năm 2012 thì những vấn đề được bàn
thảo nhiều nhất là: 1. Cung cấp thêm thông tin, làm rõ biện pháp kỹ thuật (tần suất
là 27); 2. Minh bạch (tần suất 21); 3.Tính hợp lý, hợp pháp (20); 4. Vấn đề khác
như tính phức tạp, thiếu bằng chứng khoa học hay về SHTT) (16); 5. Tiêu chuẩn
quốc tế (14); 6. Cản trở thương mại không cần thiết (13); 7. Có thời gian để thích
ứng (11); 8. Phân biệt đối xử (8);...
So với cả quá trình 18 năm thực hiện TBT, thì năm 2012 có sự khác biệt về
tần suất của vấn đề “cản trở thương mại không cần thiết”. Trong tổng số 360 vấn đề
thương mại nổi cộm liên quan đến TBT trong thời gian 1995-2012, tần suất của vấn
đề “cản trở thương mại không cần thiết” của biện pháp kỹ thuật là 213 lần chỉ đứng
sau vấn đề “cung cấp thêm thông tin, làm rõ” với tần suất 256 lần, v.v
117
Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013 cho thấy có sự gia tăng mạnh mẽ số
lượng thông báo về sử dụng các biện pháp kỹ thuật trong TMQT, nhất là từ năm
2007 đến nay. Lần đầu tiên số lượng thông báo sử dụng các biện pháp kỹ thuật vượt
con số 1000 là vảo năm 2007, số lượng thông báo tiếp tục gia tăng mạnh và đạt xấp
xỉ 1500 năm 2009, sau đó số lượng thông báo giảm chút ít trong các năm 2010 và
2011 trước khi tăng lên mức kỷ lục 1550 thông báo vào năm 2012. Ngoài ra, trong
vòng 18 năm, thông báo sử dụng các biện pháp kỹ thuật của ba thị trường lớn Hoa
Kỳ, EU và Nhật Bản cũng vào hàng nhiều nhất, lần lượt là 971, 689 và 644. Số
lượng thông báo của EU chỉ tính những biện pháp kỹ thuật chung cho toàn khối,
ngoài ra các nước thuộc EU còn có những biện pháp kỹ thuật riêng.,...
Lý do sử dụng các biện pháp kỹ thuật của các quốc gia năm 2012 được thể
hiện qua bảng tổng hợp 3.1
Bảng 3.1: Các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 theo mục tiêu
Mục tiêu và lý giải của thông báo
Số lần mà các mục tiêu được nêu là mục tiêu thứ nhất, thứ hai và thứ ba của các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 1023 Bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng
Bảo vệ môi trường 253
Yêu cầu chất lượng 238
Hạn chế lừa dối, bảo vệ người tiêu dùng 211
Thông tin cho người tiêu dùng và ghi nhãn 81
Hài hòa hóa 51
Giảm hoặc dỡ bỏ RCTM 39
Thông qua luật hoặc công nghệ mới trong nước Bảo vệ sức khỏe và đời sống động thực vật Thuận lợi hóa thương mại Khác Tiết kiệm chi phí tăng năng suất 30 25 24 9 5
Không cụ thể 4
Tổng cộng 1993
Nguồn: Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013
118
Thứ hai, mức độ của RCKT sẽ có xu hướng cao hơn, tinh vi hơn và phức tạp
hơn. Các RCKT này sẽ ngày càng phát triển cùng với tiến bộ KHCN. Các RCKT
được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn khoa học kỹ thuật, đây là một tất yếu khách
quan. Khi khoa học kỹ thuật tiến bộ thì các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng sẽ nâng cao
theo. Một nhân tố khác làm gia tăng mức độ của RCKT là mức sống của người tiêu
dùng. Khi mức sống của người tiêu dùng được nâng cao, họ sẽ có yêu cầu cao hơn
về sản phẩm, đặc biệt là độ an toàn của sản phẩm đối với sức khỏe. Báo cáo thường
niên của WTO năm 2012 chỉ rõ “phạm vi của các biện pháp phi thuế quan rất rộng,
phức tạp, được thúc đẩy bởi nhiều động cơ chính sách và luôn thay đổi. Các mục
tiêu chính sách công thúc đẩy các biện pháp phi thuế quan phát triển. Có rất nhiều
động lực thúc đẩy sự thay đổi và phát triển các biện pháp phi thuế quan kể từ sự
tăng cường phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong thế giới toàn cầu hóa, sự
nâng cao nhận thức xã hội, và sự gia tăng các vấn đề về sức khỏe, an toàn và chất
lượng môi trường”.
Thứ ba, các RCKT sẽ được mở rộng từ sản phẩm cụ thể sang toàn bộ quá
trình sản xuất. Nhằm gây cản trở thêm cho hàng hóa nhập khẩu, các quốc gia
không chỉ kiểm soát tiêu chuẩn kỹ thuật của thành phẩm XK, mà còn xem xét cả
quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Với sự ra đời của nhiều hệ thống quản lý sản
phẩm, được các quốc gia áp dụng rộng rãi, việc chỉ kiểm tra các sản phẩm cụ thể
khi nhập khẩu không thể đảm bảo thực hiện một số mục tiêu của RCKT như bảo vệ
môi trường hay trách nhiệm xã hội. Chính vì vậy, yêu cầu kiểm soát cả quá trình
sản xuất là tất yếu đối với các RCKT.
3.1.2. Xu hướng áp dụng RCKT của các thị trường xuất khẩu chính đối
với hàng dệt may Việt Nam
Qua nghiên cứu và tham khảo ý kiến chuyên gia về RCKT, có thể thấy rõ
một số xu hướng áp dụng rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu đối với hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam như sau:
- Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng sẽ dần chuyển thành tiêu chuẩn bắt
buộc. Nếu như trước đây bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được các nhà sản xuất áp dụng tự
nguyện, thì những năm gần đây đã chuyển thành biện pháp bắt buộc. Hơn nữa, việc
119
áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã trở nên rất phổ biến và phần lớn các
DN khi muốn nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm đều áp dụng các
chương trình tiêu chuẩn chất lượng. Khi hầu hết các DN đều tự nguyện áp dụng các
bộ tiêu chuẩn chất lượng, các quốc gia phát triển hoàn toàn có thể coi đó là nền tảng
đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu cơ bản đối với dệt may nhập khẩu.
- Các quy định về an toàn tiêu dùng ngày càng nghiêm ngặt và được lồng
ghép vào nhiều rào cản khác. Vấn đề sức khỏe và an toàn tiêu dùng trở thành mối
quan tâm hàng đầu của các quốc gia như bảng tổng hợp 3.1 về mục tiêu của các
biện pháp kỹ thuật thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012. Với sự gia tăng của các
chủng loại hàng hóa, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu của mình hơn, vì thế mà các đòi hỏi về chất lượng của họ ngày càng
cao, đặc biệt là vấn đề an toàn tiêu dùng. Khi người tiêu dùng ngày càng ý thức hơn
về sức khỏe và an toàn, các tiêu chuẩn kỹ thuật về tiêu dùng trở lên khắt khe hơn.
Về lý thuyết, việc các quốc gia đưa ra các RCTM trái với nguyên tắc tự do hoá th-
ương mại đã được thoả thuận trong TMQT. Vì vậy, các nước nhập khẩu hàng DM
nói chung thường núp dưới bóng lợi ích người tiêu dùng để thiết lập các rào cản
mới.
- Các quy định về bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm
xã hội, quy định về nhãn mác của sản phẩm sẽ trở thành quy định bắt buộc
Chính vì vậy các sản phẩm phải đáp ứng tiêu chuẩn môi trường thì các nước
nhập khẩu mới cho phép thông quan. Đối với hàng DM cũng vậy, phải là hàng may
mặc “xanh”. Hàng DM của các nước XK vào Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản bị trả lại do
không vượt qua được rào cản này ngày càng tăng. Hoa Kỳ cũng có xu hướng áp
dụng thêm các tiêu chuẩn môi trường của quốc tế nên nếu hàng DM không đảm bảo
tiêu chuẩn môi trường thì sẽ càng khó khăn hơn để vào được thị trường này. Trong
quy định tiêu chuẩn môi trường của Hoa Kỳ đối với hàng DM có quy định rõ không
được dùng hoá chất nhuộm vải hay các chất trợ nhuộm độc hại với môi trường.
Bên cạnh việc coi trọng vấn đề đảm bảo môi trường trong quá trình sản xuất,
các nước nhập khẩu còn rất coi trọng việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động trong
DN - các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, đặc biệt là các DN có đông lao động như
120
ngành DM. Các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA8000 và WRAP hiện nay không
bắt buộc, các DNDM áp dụng trên tinh thần tự nguyện. Nhưng ngày càng nhiều n-
ước chỉ nhập khẩu hàng DM của các nhà sản xuất, XK đáp ứng được các tiêu chuẩn
này. Xu hướng tiêu chuẩn này sẽ dần trở thành bắt buộc thời gian tới.
Việc các quy định ghi nhãn hàng dệt may của các thị trường phát triển, đặc
biệt là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản ngày càng cao và phức tạp hơn xuất phát từ mục tiêu,
động cơ chính sách của các nước công nghiệp phát triển luôn thay đổi và cũng do
những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng các nước này về an toàn
sản phẩm tiêu dùng, về yêu cầu chất lượng và bảo vệ môi trường , cũng như yêu cầu
cung cấp thông tin và chống lừa dối, gian lận thương mại. Các thị trưởng Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản yêu cầu phải ghi nhãn chính xác. Trong đó, ghi nhãn xuất xứ, tỷ lệ
sợi, tính chất dễ cháy và hướng dẫn sử dụng hàng dệt may là bắt buộc, ngoải ra còn
rất nhiều quy định về thông tin, hướng dẫn giặt tẩy, v.v. Đặc biệt là những quy định
về nhãn sinh thái liên quan tới toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm dệt may của các
thị trường phát triển đang nổi lên như một RCTM rất khó vượt qua đối với các nước
đang và chậm phát triển.
Hiện nay, việc ăn cắp bản quyền đang trở lên phố biến ở các quốc gia, nhất
là ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt Nam. Để đối phó tình trạng
này, một số quốc gia phát triển như Mỹ và EU, Nhật Bản một mặt yêu cầu các sản
phẩm nhập khẩu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn họ đặt ra, mặt khác họ buộc các
công ty nước ngoài phải trả chi phí bằng sáng chế rất cao nếu muốn XK các sản
phẩm đã đăng ký bản quyền.
- Tăng tính phức tạp và trở thành rào cản mới của các quy định về xuất xứ
hàng hóa: Quy tắc xuất xứ là các tiêu chuẩn được sử dụng để xác định nước mà
hàng hóa đó được sản xuất ra. Quy tắc xuất xứ rất quan trọng, được sử dụng trong
thực hiện các biện pháp chính sách thương mại bao gồm thống kê thương mại, xác
định thuế quan, xuất xứ nhãn hàng và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, trả
đũa và các biện pháp tự vệ.
Do tầm quan trọng của quy tắc xuất xứ trong thực hiện các công cụ chính
sách thương mại, các quốc gia ngày càng tăng cường sử dụng các quy định, tiêu
121
chuẩn về xuất xứ nhằm mục đích bảo hộ thương mại. Chính vì vậy, các nước như
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản đã ban hành nhiều bộ quy tắc xuất xứ khác nhau, áp dụng
cho hàng hóa được ưu đãi và không được ưu đãi với các mức độ khác nhau. Hơn
nữa đàm phán và áp dụng quy tắc xuất xứ của một nước còn chịu áp lực rất lớn từ
các ngành công nghiệp trong nước càng làm tăng tính phức tạp và không rõ ràng
minh bạch của các quy định về xuất xứ. Ngoài ra, các quy định rất phức tạp về mặt
kỹ thuật của quy tắc xuất xứ đã khiến cho các nước, nhất là các nước phát triển tăng
cường sử dụng quy tắc xuất xứ như một rào cản thương mại mới.
Đối với hàng DMXK, tính chất phức tạp của các quy định xuất xứ còn tăng
lên, bởi ngoài các quy định phức tạp của bản thân quy tắc này, sự gia tăng các chuỗi
cung ứng toàn cầu hàng DM càng khiến cho việc xác định xuất xứ thêm khó khăn.
Những xu hướng phát triển mới này của RCKT trong TMQT sẽ có khả năng
ảnh hưởng tới XK hàng DM của Việt Nam trên cả các khía cạnh tích cực và tiêu
cực, cả tạo thuận lợi và cơ hội mới lẫn gây ra khó khăn, thách thức mới.
3.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.
3.2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đến năm 2020
Năm 2013, mặc dù kinh tế Việt Nam và thế giới vẫn tiếp tục gặp khó khăn
nhưng với nỗ lực vượt khó của các DN, hàng dệt may của Việt Nam vẫn đạt kim
ngạch XK 20,020 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2012. Năm 2013, hàng DM của
Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 8,55 tỷ USD, tăng 15,1%; sang EU đạt
2,89 tỷ USD, tăng 23,7%; sang Nhật Bản đạt 2,41 tỷ USD, tăng 23% và sang Hàn
Quốc đạt 1,64 tỷ USD, tăng 53,5% so với năm 2012.
Trong năm 2014, theo đà phục hồi tốt hơn của kinh tế thế giới, nhất là kinh
tế Hoa Kỳ và EU, đồng thời kinh tế Việt Nam dự báo cũng tăng trưởng nhanh hơn
chút ít so với năm 2013 sẽ là điều kiện thuận lợi cho sản xuất, XK hàng dệt may của
Việt Nam tiếp tục tăng mạnh. Kim ngach XK hàng dệt may đặt mục tiêu tăng
trưởng 12% năm 2014. Các thị trường XK chính của dệt may vẫn là Mỹ, Nhật Bản
122
và EU. Năm 2014, mục tiêu tăng XK vào châu Âu từ 5%-6%; vào thị trường Mỹ từ
12%-14%; vào thị trường Hàn Quốc khoảng 25%;
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2020 đến nay cần có những điều chỉnh lớn cho phù hợp với tình
hình thực tiễn và những xu hướng mới. Bộ Công Thương đã phê duyệt Quy hoạch
phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, và
đang thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020 định hướng
đến 2030, theo đó, mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa kim ngạch XK của ngành
DM đạt từ 36 tỷ đến 38 tỷ đô la Mỹ và nâng lên từ 64 đến 67 tỷ đô la Mỹ năm 2030,
tương ứng nội địa hóa đạt 65% và 70%.
Bảng 3.2: Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2015 Năm 2020 Năm 2030
Tỷ USD 23-24 36-38 64-67 1. Kim ngạch XK
% 15-16 13-14 9-10 Tỷ lệ XK so cả nước
1.000 ng 2.500 3.300 4.400 2. Sử dụng lao động
3. Sản phẩm chủ yếu
- Bông xơ 1000 Tấn 8 15 30
- Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 400 700 1.500
- Sợi (kéo từ xơ cắt ngắn) 900 1.300 2.200
- Vải các loại 1000 Tấn Tr. m2 1.500 2.000 4.500
- Sản phẩm may Tr. SP 4.000 6.000 9.000
% 55 65 70 4. Tỷ lệ nội địa hóa
Nguồn: Bộ Công Thương, Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Hiện nay, Chính phủ đang nỗ lực mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường cho
hàng DMXK của Việt Nam bằng việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán tham gia vào
Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại
tự do với EU (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc để đưa thuế
xuất về 0%.
123
Nếu quá trình đàm phán tiến triển thuận lợi, các Hiệp định này được ký kết
và có hiệu lực thi hành sẽ mang đến động lực quan trọng cho sự phát triển của
ngành DM Việt Nam, góp phần đưa DM Việt Nam vươn lên tầm cao hơn trong
tương lai gần.
Tuy nhiên, để được hưởng thuế suất 0% theo TPP, hàng DM Việt Nam phải
chấp nhận áp dụng nhiều qui định khắt khe về xuất xứ theo công thức “từ sợi trở
đi” với việc các khâu đoạn từ kéo sợi-dệt-nhuộm-hoàn tất và may phải được làm tại
các nước thành viên TPP. Chính điều này đã gây trở ngại cho dệt may Việt bởi phân
khúc dệt-nhuộm-hoàn tất tại nước ta phát triển yếu, trở thành nút thắt cổ chai gây
cản trở cho toàn ngành.
Hiện 70% hàng DMXK của Việt Nam được thực hiện theo phương thức
CMT (cắt-ráp-hoàn thiện), với 88% NPL (chủ yếu là vải) phải nhập khẩu từ nước
ngoài, mà phần lớn các nước này không nằm trong TPP. Bên cạnh đó, trang thiết bị,
công nghệ không theo kịp các nước khác, gia công giá rẻ làm lợi thế cạnh tranh
đang bị các quốc gia mới nổi trong ngành dệt may lấn lướt.
Đồng thời, thách thức rất lớn với các DNDM trong nước là tiêu chuẩn về lao
động và môi trường của TPP rất cao, nhất là trong khâu dệt-nhuộm. Nếu DNDM vi
phạm những tiêu chuẩn này có thể bị truy thu thuế ngược lại với những lô hàng đã
được miễn thuế hoặc bị khởi kiện và không được tiếp tục xuất sang các nước thành
viên TPP nữa.
Hiệp đinh EVFTA cũng đang trong quá trình đàm phán thuận lợi và hàng
DMXK của Việt Nam sang EU nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn về xuất xứ sẽ được
hưởng mức thuế quan ưu đãi 0%. Hiện nay hàng DM Việt Nam vẫn được hưởng ưu
đãi theo chương trình GSP của EU, nhưng do những quy định về xuất xứ của EU rất
khó nên hầu như các DNDM vẫn chưa tận dụng được ưu đãi này. Ngoài ra những
quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của EU vào hàng cao nhất thế giới, nhất là các yêu
cầu về chất lượng, an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng, các quy định và tiêu
chuẩn môi trường, trách nhiệm xã hội,... Chỉ có những nỗ lực để vượt qua các
RCKT khắt khe cùng với tuân thủ các quy định về xuất xứ thì hàng DM Việt Nam
124
mới có thể đẩy mạnh XK hàng dệt may sang thị trường tiêu dùng hàng DM lớn nhất
thế giới này.
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đã và đang tạo điều kiện cho
hàng DM Việt Nam thâm nhập vào thị trường Nhật Bản dễ dàng hơn. Theo Hiệp
định này, các mặt hàng XK của Việt Nam (trong đó có DM) sẽ có mức cam kết tự
do hóa mạnh nhất. Nhờ đó, XK hàng dệt may vào Nhật Bản sẽ được hưởng ngay
thuế suất 0% nếu đáp ứng được yêu cầu xuất xứ. Đây chính là sức hấp dẫn để nhà
nhập khẩu quyết định chuyển sản xuất, tăng cường đơn hàng nhập khẩu từ Việt
Nam. Nhờ vậy, thị phần XK sang Nhật Bản sẽ tăng lên 20% năm 2014. Bên cạnh
đó, DN đầu tư nâng cấp nhà xưởng, thiết bị dệt kim để đảm bảo yêu cầu khắt khe
của thị trường Nhật Bản.
3.2.2. Một số quan điểm vượt RCKT của hàng DMXK của Việt Nam
Quan điểm phát triển xuất khẩu dệt may Việt Nam là đẩy mạnh sản xuất và
XK trong thời gian tới phải đảm bảo khai thác tốt nhất cả 3 lợi ích: kinh tế, xã hội
và bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp theo hướng công nghệ hiện đại, thiết
bị tiên tiến với bước đi phù hợp, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm,
đảm bảo năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thích ứng với quan
điểm này, tác giả cho rằng:
Thứ nhất, vượt RCKT đối với hàng DMXK là nhằm thực hiện các mục tiêu
của chiến lược phát triển ngành DM đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 và quy
hoạch phát triển ngành DM đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, phát triển
ngành DM trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về
XK, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho
xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế
giới; Đảm bảo cho các DNDM phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ
hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo
tiêu chuẩn quốc tế. Quy hoạch phát triển ngành DM của Việt Nam đã đặt ra mục
tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa kim ngạch XK của ngành DM đạt từ 36 tỷ đến 38
tỷ đô la Mỹ và nâng lên từ 64 đến 67 tỷ đô la Mỹ năm 2030, tương ứng nội địa hóa
đạt 65% và 70%.
125
Thứ hai, vượt RCKT đối với hàng DMXK yêu cầu các nhà quản lý và cộng
đồng DN Việt Nam phải nhận thức rõ xu hướng gia tăng các rào cản kỹ thuật trong
trong thương mại quốc tế nói chung và đối với hàng DMXK nói riêng là tất yếu
khách quan để chủ động tìm những giải pháp vượt qua thách thức khó khăn, phát
huy mặt tích cực của các RCKT nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh XK
hàng DM của Việt Nam.
Trong thế giới toàn cầu hóa sâu sắc và đang chuyển mạnh sang kinh tế tri
thức như hiện nay, các RCKT với những ưu điểm nổi trội so với rào cản thuế quan
truyền thống ngày càng có điều kiện để phát triển nở rộ. Xu hướng gia tăng các
RCKT là một thực tế khách quan, đi liền với sự phát triển của kinh tế thế giới, của
KHCN và mức sống ngày càng cao của người dân trên thế giới. Trên thực tế, các
rào cản kỹ thuật ngày càng phức tạp và khắt khe hơn do yêu cầu bảo hộ sản xuất
trong nước của các nước phát triển trước sức ép cạnh tranh của các dòng sản phẩm
nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Do vậy, chủ động nhận dạng được các rào
cản này và tìm mọi phương cách để vượt qua là con đường tất yếu và duy nhất đúng
đối với các nhà quản lý và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực ngày
càng lớn của cạnh tranh quốc tế trong xuất khẩu DM vào các thị trường lớn.
Thứ ba, việc thực hiện vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam phải
dựa trên cơ sở tuân thủ các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam trên cơ sở các
hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa phương.
Hiệp định TBT của WTO và các quy định về biện pháp kỹ thuật và công
nhận sự phù hợp trong các hiệp định thương mại song phương và khu vực mà Việt
Nam đã, đang và sẽ tham gia như BTA với Hoa Kỳ, EPA với EU và Nhật Bản hay
sắp tới sẽ là TPP, EVFTA,... sẽ là những căn cứ pháp lý để Việt Nam tuân thủ hay
từ chối tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp
của các nước Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp liên quan đến RCKT. Ngoài ra, trong các hiệp định này cũng bao gồm
các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để đảm bảo cho các thành viên có đủ năng lực thực thi
hiệp định. Đối với Việt Nam thì đây là sự hỗ trợ rất quan trọng để tăng cường năng
lực vượt RCKT.
126
Thứ tư, xây dựng và tăng cường năng lực vượt rào cản kỹ thuật của Nhà
nước và cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất khẩu
và nâng cao hiệu quả XK hàng DM thời gian tới.
Trên thực tế, năng lực vượt RCKT của Việt Nam hiện nay còn yếu, kể cả
năng lực QLNN và quản trị DN. Điều này do cả nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Việt Nam hiện là nước đang phát triển thu nhập trung bình thấp, trình độ
KHCN còn lạc hậu, mọi nguồn lực của quốc gia còn thiếu thốn và hạn chế đã ảnh
hưởng rất nhiều tới khả năng vượt RCKT. Vì vậy, trong thời gian tới, để vượt qua
hệ thống RCKT ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn thay đổi của các thị trường
nhập khẩu, cả nhà nước và cộng đồng DN đều phải nỗ lực hết mình nâng cao năng
lực về pháp lý, về kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, về ngoại ngữ,...
Chỉ có nỗ lực xây dựng và tăng cường năng lực vượt RCKT của các thị
trường nhập khẩu, hàng DMXK của Việt Nam mới có thể vượt rào cản thành công,
hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy được những tác
động tích cực của RCKT để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển XK hàng DM.
3.2.3. Những định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam
thời gian tới
3.2.3.1. Định hướng từ phía Nhà nước
- Tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về RCKT. Theo đó hoàn thiện hệ
thống luật pháp, chính sách về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự
phù hợp; tăng cường năng lực bộ máy QLNN về tiêu chuân, quy chuẩn kỹ thuật và
thủ tục đánh giá sự phù hợp, xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia,...
- Tăng cường ký kết, tham gia các hiệp định thương mại song phương, khu
vực và đa phương nhằm mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường, giảm bớt các rào cản
đối với hàng DMXK nói riêng và hàng hóa XK nói chung.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về lĩnh vực tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
- Tăng cường năng lực tham gia của hàng dệt may Việt Nam trong chuỗi giá
trị dệt may toàn cầu, thu hút mạnh mẽ FDI của các công ty đa quốc gia/xuyên quốc
gia cho ngành dệt may của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt, nhuộm.
127
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng DMXK Việt Nam. Định hướng chính là lấy XK làm mục tiêu cho phát
triển của ngành, tập trung nâng cao giá trị trong nước và giá trị gia tăng của sản
phẩm gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông
thôn. Nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường và
trách nhiệm xã hội cho các DNXK nhằm vượt qua những RCTM của các thị trường
nhập khẩu chính. Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm
bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Đa dạng hóa sản phẩm, phương thức
kinh doanh, đa dạng hóa và phát triển thị trường mới cho XK,... Phấn đấu tốc độ
tăng của XK hàng DM là khoảng 11 - 12% năm thời kỳ đến năm 2020.
3.2.3.2. Định hướng từ phía DN
- Chủ động nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ, chính xác các thông tin về thị
trường và các rào cản của thị trường đối với hàng DMXK để có biện pháp ứng phó
phù hợp và hiệu quả;
- Tăng cường liên kết doanh nghiệp, liên kết, hợp tác với các viện nghiên
cứu, các cơ quan của Nhà nước ở nước ngoài và đặc biệt là liên kết với các DN đầu
mối nhập khẩu để được hỗ trợ, tư vấn.
- Xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh XK bền vững của DN trên cơ
sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi
trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Có được chiến lược kinh doanh XK bền vững, sẽ là
cơ sở cho DN nỗ lực phấn đấu và và tranh thủ được sự giúp đỡ của Chính phủ và sự
giúp đỡ từ bên ngoài để phát triển sản xuất và XK, không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, an toàn sức khỏe con người và
các tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu. Thông qua đó tạo uy tín và
thương hiệu riêng cho hàng DM Việt Nam.
3.3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI
HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Việc hàng DM của Việt Nam tiếp cận và xâm nhập được thị trường rộng lớn
và có “sức mạnh” như thị trường các nước phát triển không chỉ đem lại cho đất
nước những lợi ích về kinh tế mà còn đem lại những lơi ích chính trị sâu sắc, bằng
128
việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và đem hàng hóa Việt
Nam tiếp cận gần hơn với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, một trong những
yêu cầu để xâm nhập thành công các thị trường này là Việt Nam phải vượt qua
RCKT thương mại của họ. Để làm được việc đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ những
biện pháp từ Nhà nước đến các DNDMXK.
3.3.1. Nhóm giải pháp vượt rào chung
Để vượt qua các RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, hơn bao giờ hết,
giải pháp cần thiết và có tính quyết định đến khả năng vượt rào của Việt Nam là vấn
đề tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn về tư duy, nhận thức cả về phía Nhà nước và các
DNDM Việt Nam. Đây là yêu cầu và cũng là giải pháp cơ bản, quan trọng nhất đảm
bảo khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản của các DN Việt Nam.
Song, cho đến nay, rất nhiều DN Việt Nam, chủ yếu là DNNNV, do quy mô nhỏ,
năng lực và nguồn lực có hạn, chưa quan tâm đến yêu cầu thị trường. Mặc dù đã có
nhiều DN lớn, kinh doanh bài bản, chuyên nghiệp hơn, đã nghiên cứu, tìm hiểu thị
trường trước khi tiến hành XK sản phẩm, nhưng con số này không nhiều và việc
nắm bắt yêu cầu của thị trường cũng chỉ ở mức vừa phải. Xu hướng gia tăng RCKT
của các thị trường nhập khẩu đối với hàng DMXK đặt ra yêu cầu bức thiết hiện nay
đối với cả Nhà nước và DN là phải nâng cao nhận thức và hiểu biết về RCKT để có
biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nhằm đẩy mạnh XK. Việt Nam cần phải chủ
động tìm hiểu luật pháp, tập quán thương mại của thị trường các nước NK; cần xác
định, có nhận thức đúng đắn về các rào cản kỹ thuật có thể gặp phải trong giai đoạn
tới và nhận thức rõ về sự cần thiết phải thay đổi cách thức hoạt động các cơ quan
Nhà nước, tổ chức, Hiệp hội và các DNDM trong thời gian tới. Trên cơ sở nhận
thức đúng mà xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh, phân tích rủi ro và cơ hội
từ việc đầu tư vào các giải pháp vượt qua rào cản kỹ thuật tiềm tàng.
Bên cạnh đó, để vượt rào thành công, Nhà nước, Hiệp hội DM và các
DNDM Việt Nam cần có giải pháp cụ thể, phù hợp.
3.3.1.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
(i) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, kiểm soát
chặt chẽ hơn nữa việc thực hiện các tiêu chuẩn của doanh nghiệp
129
Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, việc hài hóa
hóa các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một
xu hướng tất yếu. Để hàng DM của Việt Nam có thể được chấp nhận và tiêu thụ
được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp khó khăn với các RCKT, thì các
quốc gia đều nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia mới sao
cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước thừa nhận. Khi hệ thống
tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, thì các sản phẩm của các
DNDM trong nước một khi đã đáp ứng được tiêu chuẩn trong nước thì cũng đồng
thời đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và của quốc gia nhập khẩu, khi đó hàng
hóa vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu thụ được ở các thị
trường nước ngoài.
Trong những năm qua, hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) luôn được
xây dựng và phát triển trên cơ sở đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất
nước cũng những yêu cầu quản lý cấp bách trong từng thời kỳ. TCVN là tài liệu kỹ
thuật làm cơ sở cho việc đảm bảo, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống này còn có những
nhược điểm: chưa được áp dụng rộng rãi, trình độ khoa học và công nghệ của tiêu
chuẩn còn thấp, lạc hậu, mức độ đổi mới hàng năm chưa cao, tỉ lệ TCVN hài hòa
với quốc tế còn ở mức thấp (chỉ khoảng 40%)… Vì vậy, phát triển và đổi mới hệ
thống TCVN là một trong những đòi hỏi cấp bách của hoạt động tiêu chuẩn hóa
hiện nay và rất có ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp Việt Nam vượt qua RCKT
của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Việt Nam cần xây dựng một hệ
thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với
các yêu cầu của thời hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ
sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải bao quát hết những đòi hỏi
phổ biến của thế giới đối với hàng hóa như các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn
môi trường và trách nhiệm xã hội, tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, quy định về sở hữu
trí tuệ.
Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng tiêu chuẩn, nhà nước phải xây dựng hệ
thống quản lý và kiểm tra chất lượng chặt chẽ để đảm bảo mang được những sản
130
phẩm tốt nhất, an toàn nhất tới người tiêu dùng. Công tác này phải đặc biệt được
chú ý đối với hàng hóa XK nhằm đảm bảo hàng hóa xuất khỏi cửa khẩu Việt Nam
là đảm bảo chất lượng, tránh tình trạng hàng hóa bị ách lại tại của khẩu nước đến
hoặc bị trả về hoặc tiêu hủy do không đảm bảo chất lượng hoặc có những yếu tố gây
hại tới sức khỏe người tiêu dùng và môi trường. Việc này nếu thực hiện tốt sẽ giúp
giảm chi phí và rủi ro cho các DN Việt Nam khi xuất hàng, đồng thời nâng cao uy
tín của hàng DM và nhà XK Việt Nam. Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định
số 5563/QĐ-BCT ngày 26 tháng 10 năm 2011 phê duyệt Kế hoạch triển khai thực
hiện với các nội dung chính như: Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và các
biện pháp kỹ thuật trong thương mại; Xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm soát chất
lượng hàng hoá từ xa; xây dựng phương án tự bảo vệ; hỗ trợ DN áp dụng các biện
pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy XK, nhập khẩu.
Trong những năm tới, phải quyết liệt thực hiện tốt chủ trương này.
(ii) Tăng cường hệ thống thông tin quốc gia về RCKT, tuyên truyền, giới
thiệu, phổ biến nhanh chóng, kịp thời cho các DN về RCKT của các nước.
Một trong những nguyên nhân khiến cho các RCKT trở nên khó vượt qua là
vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận biết và
thường xuyên thay đổi. Các DN ở các nước đang và kém phát triển thường gặp khó
khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến RCKT của các nước
nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có rất ít các thông tin cũng như
hiểu biết rất hạn chế về RCKT tại các thị trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì
lý do đó mà các nước đang và kém phát triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều
nhất từ các RCKT.
Ở Việt Nam cũng vậy, các DN có nhận thức rất thấp về RCKT và lại càng
mơ hồ, không có sự quan tâm đúng mức đối với các rào cản cụ thể của các thị
trường XK đang áp dụng. Với điều kiện hiện tại của các DN, thì việc tiếp cận với
các nguồn thông tin trực tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về
RCKT nói riêng là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các DN, đặc biệt là các DNNVV có
được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường XK, thì sự trợ giúp của Nhà
nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên trách nghiên cứu về vấn
131
đề rào cản trong đó có RCKT. Các cơ quan này phải thường xuyên theo dõi, cập
nhật thông tin về RCKT của các thị trường nhập khẩu, tuyên truyền, phổ biến, giới
thiệu cho các DN biết về các quy định cũng như tiêu chuẩn do các nước nhập khẩu
đưa ra, giúp các DN có sự hiểu biết tốt hơn về những quy định, tiêu chuẩn mà các
mặt hàng XK của DN mình sẽ phải thích ứng khi xuất sang từng thị trường cụ thể,
nhất là những thị trường XK chiến lược của Việt Nam như EU, Nhật, Mỹ,... Các cơ
quan chuyên trách này cần tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên
truyền, giới thiệu định kỳ về RCKT của các thị trường và có những thông báo bổ
sung kịp thời cho các DN khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn..
Giáo dục ý thức cộng đồng và nâng cao nhận thức về RCKT đối với các cơ quan
quản lý và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về các lợi ích mà việc đáp ứng các
yêu cầu của các nước nhập khẩu mang lại cho quốc gia và doanh nghiệp. Từ đó,
DN sẽ có những biện pháp cần thiết để đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu
quả của hoạt động XK của DN nói riêng và của cả nước nói chung.
Hiện nay, nước ta có rất nhiều cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin thương
mại cho DN, trong đó thông tin về RCKT thương mại có thể được cung cấp bởi
Văn phòng TBT Việt Nam, Trung tâm Thông tin công thương, Cục XTTM, các
Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài,... Ngoài ra, VCCI - tổ chức hỗ trợ và xúc tiến
các hoạt động thương mại của Việt Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên
truyền, cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các
RCKT cho các DN, giúp các DN tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh XK...
Nâng cao năng lực hoạt động của TBT Việt Nam để đáp ứng được các yêu
cầu ngày càng cao về TBT trong các diễn đàn quốc tế (WTO), khu vực
(ASEAN,APEC…) cũng như các hiệp định đối tác kinh tế toàn diện/FTAs Việt
Nam đã ký trong giai đoạn 2005-2010 hoặc sẽ ký trong giai đoạn 2011-2015 (TPP,
Việt Nam-EU…). Bồi dưỡng kiến thức và trao đổi thông tin về nghiệp vụ cho cán
bộ thuộc văn phòng TBT Việt Nam: cung cấp thông tin về các biện pháp TBT đang
không ngừng gia tăng đối với các nước tham gia WTO, các quan ngại của Việt Nam
132
đối với các thành viên khác trong WTO chưa được Việt Nam quan tâm, xem xét kỹ
các yếu tố có thể gây bất lợi cho các quốc gia,…Bồi dưỡng kỹ năng thực hành tiếng
Anh về TBT cho các thành viên trong mạng lưới thực hiện các hoạt động trao đổi
những thông tin cơ bản về TBT bằng tiếng Anh dựa vào tài liệu do Văn phòng TBT
Việt Nam soạn thảo, trao đổi kiến thức, quan điểm về quản lý trong lĩnh vực TBT.
Bồi dưỡng kỹ năng tìm kiếm, tra cứu thông tin tại một số trang web phục vụ cho
hoạt động làm Bản tin về TBT của các Điểm TBT trong Mạng lưới TBT Việt Nam.
Tổ chức trao đổi về nâng cao hiệu quả hoạt động của Mạng lưới TBT Việt Nam:
chia sẽ những kinh nghiệm, khó khăn và cả những kiến nghị với Văn phòng TBT
Việt Nam.
(iii) Có chính sách hỗ trợ thiết thực và hiệu quả nhằm nâng cao năng lực
vượt RCKT cho doanh nghiệp.
Đó là các chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị
kỹ thuật ngành dệt may theo hướng sản xuất thân thiện môi trường, sản xuất sạch
hơn; hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp áp dụng các quy trình quản lý chất
lượng tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội theo chuẩn
mực quốc tế; hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho hoạt động nghiên cứu thiết
kế mẫu mã, đào tạo chuyên môn, kỹ thuật,nghiệp vụ cho lao động doanh nghiệp, hỗ
trợ đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực vượt RCKT
cho doanh nghiệp, v.v.
- Đổi mới, hoàn thiện chính sách tài chính, tín dụng theo hướng ưu đãi hơn
nữa cho các DN sản xuất hàng dệt may. Chẳng hạn, mở rộng tín dụng dài hạn, sử
dụng nguồn vốn ODA với các điều kiện ưu đãi về thời gian và lãi suất, bảo lãnh cho
các DN vay thương mại, mua trả chậm của các nhà cung cấp nước ngoài; tạo điều
kiện cho các DN tư nhân tiếp cận với các nguồn vốn….
- Thu hút nhà đầu tư vào ngành công nghiệp dệt để cung ứng cho ngành may
mặc. Điều quan trọng nhất trong số những điều này, có lẽ là chính sách công nghiệp
để thu hút đầu tư sản xuất nguyên liệu dệt, tốt nhất là tại các khu công nghiệp tập
trung với các dịch vụ môi trường có liên quan và các nguồn cung cấp năng lượng.
Để Việt Nam được hưởng mức thuế suất TPP cho hàng may mặc mà Việt Nam xuất
133
khẩu, nguyên vật liệu phải có nguồn gốc từ quốc gia TPP, hoặc ít nhất nguyên vật
liệu phải được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm ở quốc gia đó. Điều này có nghĩa là
không nhất thiết phải trồng cây bông hoặc nuôi cừu tại quốc gia TPP để được
hưởng mức thuế suất TPP cho quần áo bằng bông và len. Tuy nhiên, bông hoặc len
cần phải đã được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm tại Việt Nam
- Hỗ trợ các DNDM áp dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất dệt
may: tập trung cho công nghệ sản xuất nguyên phụ liệu, công nghệ đóng gói; tăng
cường liên kết với các tổ chức của các nước nhằm thu hút công nghệ mới.
- Hỗ trợ các DNDM về đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay
nghề cao: cử cán bộ, lao động đi học ở nước ngoài hoặc mời các chuyên gia nước
ngoài vào giảng dạy, đầu tư cho các trường Đại học có ngành dệt may để đào tạo
đội ngũ lao động có tay nghề cao, các trường dạy nghề….hoặc, Nhà nước hỗ trợ
cho các DN với hình thức đào tạo tại chỗ, đào tạo theo dự án
- Hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại: Với xu hướng ngày
càng gia tăng việc các nước sử dụng RCKT trong TMQT như hiện nay, những tranh
chấp liên quan đến RCKT là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp xảy ra tranh
chấp, Nhà nước phải khẳng định được vai trò của mình trong việc giải quyết tranh
chấp, bảo vệ quyền lợi của các DN thông qua:
+ Có tiếng nói chính thức bảo vệ DN trong nước trên trường quốc tế trong
trường hợp phía đối tác tuyên truyền bất lợi, hoặc gây áp lực chính trị,…
+ Tư vấn, hỗ trợ cho các DN về mặt chuyên môn pháp lý.
+ Thông qua các kênh quan hệ chính thức để thương lượng trước khi xúc
tiến các bước giải quyết tranh chấp tiếp theo. Ví dụ, thông qua việc gặp gỡ giữa hai
chính phủ hoặc hai cơ quan chuyên trách, hoặc tổ chức giải quyết tranh chấp cho
các DN liên quan theo cơ chế trọng tài TMQT.
+ Cung cấp tài chính để DN theo đuổi các vụ kiện nếu cần, nhằm giữ uy tín
của DN cũng như uy tín của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc hỗ trợ DN trong lĩnh vực này đòi hỏi nhà nước phải một chiến lược dài
hạn về xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn pháp lý và thương mại chuyên sâu,
đặc biệt là các lĩnh vực liên quan tới TMQT, luật pháp TMQT.
134
(iv) Nâng cao năng lực đàm phán và ký kết, tham gia các hiệp định song
phương, khu vực và đa phương về RCKT trong thương mại.
Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ
KHCN vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các RCKT nhằm hạn chế nhập khẩu
từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển. Do đó, Chính phủ
của các quốc gia đang và kém phát triển cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết
để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu là tham gia vào
các diễn đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp định quốc tế song
phương cũng như đa phương về RCKT, thì các nước sẽ có được sự bảo vệ cũng như
giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có được sự công bằng khi tham gia
vào TMQT. Ví dụ như trong Hiệp định TBT của WTO có điều khoản 11 về trợ giúp
kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải tư
vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển trong
việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay tham gia
vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi tham gia
Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành viên phát
triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số các quy
định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy trì công
nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ theo những
điều kiện kinh tế - xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó chưa phù hợp
với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức quốc tế về
RCKT, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử dụng sẽ được thống
nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy, các tiêu chuẩn, quy
định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà XK sẽ hiểu được các quy
định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ
ràng, phức tạp gây khó khăn cho các nhà XK.
Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội cũng như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, Việt Nam đang gặp
nhiều khó khăn khi phải đối mặt với các RCKT. Nhiều tiêu chuẩn mà nước ta áp
dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và chưa được các nước công nhận nên
135
hàng XK của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước nhập khẩu
yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các RCKT, thâm nhập vào
thị trường toàn cầu, Chính phủ cần tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp
định quốc tế về RCKT và tiêu chuẩn hoá, Hiệp định công nhận tiêu chuẩn của nhau.
Khi ký kết các hiệp định này, Việt Nam sẽ có điều kiện rà soát hiệp định, tham gia
xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp với trình độ phát triển của mình và có
thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được
quyền lợi của nước ta cũng như các nước đang và kém phát triển khác.
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất
lượng và RCKT nhưng Chính phủ vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán ký
kết các hiệp định về RCKT trong thương mại để bảo vệ quyền lợi quốc gia khi hội
nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ có phương án mềm dẻo nhưng kiên quyết để bảo vệ
lợi ích xuất khẩu của DN, bảo vệ người lao động; chú trọng bảo lưu các không gian
chính sách cần thiết để Chính phủ có thể hành động vì các lợi ích công cộng.
(v) Nâng cao vị thế của ngành DM trong chuỗi giá trị DM toàn cầu.
Xu hướng của các nhà mua hàng lớn tại Mỹ, EU, Nhật Bản là chọn những
DN có khả năng sản xuất trọn gói thay vì đặt hàng theo phương thức gia công. Để
làm được điều này, DNDMVN phải di chuyển lên thượng nguồn trong chuỗi giá trị
dệt may, nắm giữ các khâu trong phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu. Dịch chuyển
lên các phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu đòi hỏi một chiến lược đồng bộ và hài
hòa trong từng khâu của chuỗi giá trị dệt may, phù hợp với năng lực của các
DNDM Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, các DN may vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu nước
ngoài, vì vậy để đảm bảo sự chủ động với nguồn nguyên phụ liệu đòi hỏi các DN
phải có một mối liên kết chặt chẽ với các nhà cung cấp nước ngoài. Chính phủ cần
thiết phải xây dựng mạng lướng thông tin sẵn có về các nhà cung cấp nguyên phụ
liệu để các DN dễ dàng tiếp cận với nhà cung cấp nguyên liệu có độ tin cậy cao về
chất lượng và thời gian giao hàng. Trong dài hạn, để thực hiện tốt đơn hàng FOB và
ODM, ngành dệt may Việt Nam nhất thiết phải dịch chuyển sang phân khúc sản
136
xuất nguyên phụ liệu. Điều này, một mặt giúp các DN chủ động hoàn toàn nguyên
phụ liệu, nâng cao lợi thế cạnh tranh, mặt khác giúp nâng cao giá trị gia tăng cho
ngành dệt may.
Hình 3.2. Mô hình chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu hàng DM
(vi) Thành lập bộ phận cảnh báo sớm về RCKT.
Để có thể cảnh báo sớm các RCKT, tận dụng tối đa cơ hội và lợi thế, giảm
thiểu rủi ro không đáng có do không dự báo được tiêu chuẩn, quy định, các biện
pháp kỹ thuật, Nhà nước cần có bộ phận chuyên nghiên cứu về lĩnh vực này. Hệ
thống cảnh báo sớm sẽ giúp Chính phủ Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh
nghiệp DM Việt nam nói riêng: Xác định sớm các mối đe dọa/nguy cơ của các
RCKT mới đối với hàng DM Việt Nam xuất khẩu; giúp các doanh nghiệp DM Việt
Nam có đủ thời gian và điều kiện để kịp thời điều chỉnh nhằm loại bỏ những mối đe
dọa và chủ động đối phó với các RCKT của nước nhập khẩu, đồng thời duy trì và
phát triển kim ngạch và tốc độ xuất khẩu, qua đó giúp các ngành dệt may của Việt
Nam ngày càng có tính cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu.
Hệ thống cảnh báo sớm sẽ tập trung vào các thị trường xuất khẩu lớn của
Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhóm đối tượng hưởng lợi trực tiếp của hệ
thống này là các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam. Họ sẽ được tiếp cận
137
với các thông tin của các thị trường chính, họ cũng sẽ được cảnh báo nếu có nguy
cơ các nước nhập khẩu áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật mới, tinh vi và
phức tạp. Phạm vi của Hệ thống cảnh báo sẽ được điều chỉnh và mở rộng linh hoạt
dựa trên mức độ ảnh hưởng của các thị trường trong thời gian tiếp theo.
3.3.1.2. Đối với Hiệp hội dệt may
Với vai trò là cầu nối giữa DN sản xuất trong nước với thị trường nước
ngoài, Hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong hoạt động XK - nhập khẩu của các
DN Việt Nam cũng như tham gia giải quyết những tranh chấp trong TMQT đối với
các ngành sản xuất nói chung cũng như ngành sản xuất dệt may nói riêng.
(i) Hình thành bộ phân đầu mối để thu thập và xử lý thông tin, kết nối với hệ
thống thông tin thương mại quốc gia, đảm bảo cung cấp kịp thời và chính xác thông
tin về RCKT của các nước cho doanh nghiệp
Hiệp hội dệt may cần tiếp tục đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền, phổ
biến cho cộng đồng DN kiến thức pháp lý liên quan đến XK của các đối tác nhập
khẩu lớn, các thông tin giá cả thị trường, đối thủ cạnh cạnh… Hiệp hội nên thành
lập và củng cố bộ phận thông tin của Hiệp hội để thu thập thông tin đầy đủ và chính
xác có tính chất chuyên ngành về thị trường XK chủ yếu. Với một thị trường có một
hệ thống pháp luật cũng như các quy định hết sức chồng chéo, phức tạp như EU,
Hoa Kỳ thì vấn đề này không chỉ là thu thập chính xác và đầy đủ thông tin, mà còn
phải có những đối sách với những quy định đó, chỉ có như vậy mới giúp DN vượt
qua rào cản, tiếp cận đến thị trường.
Hiệp hội cũng cần ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử vào hoạt động
hiệp hội, tham vấn Chính phủ về việc hình thành sàn giao dịch cho mặt hàng dệt
may Việt Nam cả yếu tố đầu vào cũng như yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất, từ
đó có thể giúp các DN Việt Nam yên tâm hơn trong việc tìm mua NPL và tiêu thụ
sản phẩm của mình.
(ii) Nâng cao năng lực của Hiệp hội ngành hàng
Luật về hiệp hội sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh sự ra đời và hoạt
động của hiệp hội. Với Luật về hiệp hội sẽ giúp tạo hành lang pháp l ý để các hiệp
138
hội phát huy vai trò, vị trí và đóng góp tính cực vào sự phát triển của kinh tế- xã hội
đất nước.
Trong xu thế hiện nay, khi Nhà nước giảm sự can thiệp trực tiếp vào hoạt
động kinh doanh của DN thì vai trò hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết. Hiệp hội
là đầu mối giao lưu với các tổ chức quốc tế, xúc tiến liên kết giữa Nhà nước và tư
nhân để tiến tới thống nhất việc điều hành sản xuất kinh doanh trong cả nước.
Thông qua việc tăng cường nguồn nhân lực có trình độ cao về pháp luật và
kinh doanh quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho Hiệp hội để tương xứng với
sự phát triển sản xuất kinh doanh và XK của ngành hàng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để các Hiệp hội tham gia vào các tổ chức và Hiệp hội ngành hàng quốc tế. Năng
lực hoạt động của Hiệp hội có được sự tăng cường và củng cố vững mạnh thì Hiệp
hội mới phát huy tốt vai trò định hướng, hỗ trợ các DN trong việc chủ động đối phó
với các RCTM quốc tế nhằm đẩy mạnh XK.
Hiệp hội phải có bộ máy đủ mạnh và người lãnh đạo uy tín cùng đội ngũ tác
nghiệp giỏi. Các Hiệp hội cũng cần coi trọng tuyên truyền giáo dục hội viên tự giác
cùng tiếng nói, chung hành động trước các đối tác, không vì lợi ích trước mắt của
đơn vị mình mà đi ngược lại, ảnh hưởng xấu đến toàn cục.
Hiệp hội nên mở thêm chi nhánh hoặc lập câu lạc bộ để trao đổi kinh nghiệm
giữa các DN làm ăn tốt với các DN mới, DN làm ăn chưa có hiệu quả, đồng thời
cũng nên tích cực vận động các nguồn tài trợ thông qua các dự án về hỗ trợ pháp lý,
trợ giúp kỹ thuật, đào tạo nhân lực, tiếp cận thị trường thông qua các cuộc hội đàm,
các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước.
Hiệp hội cần chủ động tham gia vào các tổ chức hoặc hiệp hội ngành hàng
quốc tế như Liên đoàn DM ASEAN (AFTEX), Uỷ ban Quốc tế về DM,... Tích cực
hưởng ứng và đưa ra các ý kiến đề xuất về hoạt động của các tổ chức này theo
hướng nâng cao vai trò, uy tín của ngành DM Việt Nam; mở rộng hợp tác với các tổ
chức hiệp hội ở các thị trường nhập khẩu lớn như Hiệp hội người tiêu dùng, Hiệp
hội các nhà nhập khẩu sản phẩm DM để tháo gỡ RCKT cho hàng DMXK Việt
Nam.
139
3.3.1.3. Đối với các doanh nghiệp dệt may.
(i) Chủ động áp dụng, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế: DN chủ động đầu tư
cải thiện sản xuất, nâng cao năng lực công nghệ, yêu cầu sản xuất theo chu trình
khép kín, chứng minh được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, nguyên liệu để đảm
bảo đáp ứng các yêu cầu trong tiêu chuẩn, quy chuẩn của các nước. Các DN cần
khẩn trương xây dựng hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc
tế và đặc biệt là phải thích nghi được với những tiêu chuẩn của thị trường Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản: Các hệ thống tiêu chuẩn như ISO 9001:2000; ISO 14001 : 2000; SA
8000, … Đây chính là chìa khóa để các DN có thể thành công trên những thị trường
lớn này.
(ii) Đa dạng hóa và phát triển thị trường mới, lựa chọn thị trường xuất khẩu
phù hợp với năng lực hiện có của DN để vượt qua RCKT,
Một lý do mà hàng dệt may Việt Nam phải đương đầu với rào cản kỹ thuật là
các thị trường xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu ở Nhật Bản, Mỹ và EU.
Việc tập trung thái quá vào các thị trường này khơi dậy sự không hài lòng của các
doanh nghiệp liên quan ở các quốc gia nhập khẩu và xích mích thương mại giữa
nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, thậm chí làm cho các quốc gia nhập khẩu quy
định các tiêu chuẫn kỹ thuật cao hơn để giới hạn các sản phẩm nhập khẩu. Nhằm
tránh xích mích thương mại không cần thiết, các doanh nghiệp Việt Nam nên nỗ lực
đa dạng hóa và phát triển các thị trường mới ngoài các thị trường chính, giúp tránh
xích mích thương mại không cần thiết và phát triển quan hệ thương mại với các
quốc gia khác để tìm kiếm không gian phát triển mới cho các hoạt động xuất khẩu
mặt hàng dệt may.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu là quá trình đánh giá các cơ hội thị trường để
chọn ra các thị trường có triển vọng nhất, phù hợp với tiềm năng thế mạnh của DN.
Để lựa chọn thị trường xuất khẩu, DN phải xây dựng chiến lược xuất khẩu trên cơ
sở giải quyết mối tương quan giữa năng lực, thế mạnh của DN và các thị trường có
thể xâm nhập. Khi lựa chọn chiến lược thị trường xuất khẩu, DN phải căn cứ vào
140
các nhân tố như: các nhân tố thuộc về DN; các nhân tố về sản phẩm và các nhân tố
về thị trường (nhu cầu, thị hiếu, các quy định với sản phẩm nhập khẩu....).
(iii) Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các DN, các thành phần kinh tế
nhằm phát huy ưu thế của toàn ngành DM
Tăng cường và nâng cao khả năng liên kết, hợp tác và hiệu quả liên kết hợp
tác giữa các DNDM trong nước, giữa các DNDM trong nước với DNDM nước
ngoài tại Việt Nam hoặc các đối tác nhập khẩu hàng DM để tăng khả năng đáp ứng
và vượt RCKT để đẩy mạnh XK hàng DM Việt Nam. Sự liên kết giữa các DNDM
nhằm thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, tận dụng lợi thế quy mô là một điều
kiện tiên quyết để thực hiện các mục tiêu này. Cần có một sự kết hợp uyển
chuyển giữa mô hình sản xuất quy mô lớn, công nghệ hiện đại với sự năng động,
linh hoạt của các DN nhỏ để đảm bảo tốc độ tăng trưởng và giảm chi phí sản
xuất, thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường về mẫu mã, sản xuất
đơn hàng nhỏ. Các biện pháp giảm giá thành sản phẩm như nâng cao năng suất
lao động, giảm chi phí quản lý, giảm tiêu hao năng lượng, chia sẻ chi phí tiếp thị,
chi phí thông tin thị trường cần được quán triệt nhằm đảm bảo thực hiện tiết kiệm
chi phí cho các DNDM [32]. Mở rộng trong cung cấp nguyên liệu, trong khâu sản
xuất, tiêu thụ giữa các đơn vị để khai thác tối đa công suất của các thiết bị hiện đại,
thiết bị chuyên dùng. Bên cạnh đó, để đáp ứng được các đơn hàng có khối lượng
lớn của nước ngoài, cần thiết phải mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với
các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Từ thực tế cho thấy, trước các vụ tranh chấp
thương mại, nếu có yếu tố nước ngoài cùng đứng về phía Việt Nam thì các phán
quyết cuối cùng bao giờ cũng có lợi cho Việt Nam [75].
(iv) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh XK bền vững của
doanh nghiệp
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu hướng gia tăng sử
dụng RCKT của các thị trường phát triển, các DNXK hàng DM của Việt Nam
muốn nâng cao được sức cạnh tranh, đẩy mạnh XK sang các thị trường này thì tất
yếu phải xây dựng và thực thi một chiến lược kinh doanh XK hiệu quả và bền vững.
141
Chiến lược kinh doanh XK bền vững của DN phải đặt mục tiêu phát triển XK theo
chiều sâu, nâng cao chất lượng và hiệu quả XK dựa trên đầu tư đổi mới trang thiết
bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng tiên tiến, áp dụng
tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội quốc tế trong quá trình sản xuất, XK.
Một chiến lược XK bền vững như vậy cũng sẽ thu hút sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ
của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại trong và ngoài nước cho DN thực
hiện thành công.
3.3.2. Giải pháp vượt từng rào cản kỹ thuật.
Để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, ngoài các giải pháp của Nhà nước,
Hiệp hội và các DNDM đã phân tích trên, NCS đề xuất một số giải pháp cụ thể cho
từng loại RCKT.
3.3.2.1. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm.
Để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, đòi hỏi Việt
Nam cần phải xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, 9001,
9002 tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam có uy tín với người tiêu dùng trên
thế giới, đẩy mạnh hoạt động chương trình năng suất chất lượng. Tuân thủ đúng quy
trình kiểm tra chất lượng hàng dệt may trước khi xuất khẩu. Các DNDM cần phối
hợp với cơ quan Hải quan để kiểm tra nguyên phụ liệu và trang thiết bị nhập khẩu
để đảm bảo chất lượng cho sản phẩm ngay từ khâu đầu vào.
3.3.2.2. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng.
Đa số người tiêu dùng hiện nay, đặc biệt ở các nước phát triển rất coi trọng
việc lựa chọn các sản phẩm dệt may, nhất là chăn, ga, gối, đệm đảm bảo an toàn cho
sức khỏe. Trên thực tế, các hoạt chất có hại trong các sản phẩm kém chất lượng, có
trong quá trình trồng bông nguyên liệu thông thường, trong khâu xử lý sợi bông,
nhuộm vải… có thể là nguyên nhân của hàng loạt bệnh. Trong đó dễ gặp nhất là các
bệnh liên quan đến dị ứng, mẩn ngứa và hô hấp. Các hóa chất có trong bảo quản
bông vải như formaldehyde, chất chống nấm có thể gây nhiễm độc cho da, bụi
cotton thông qua đường hô hấp có thể gây viêm nhiễm mãn tính, thậm chí gây ra
các ảnh hưởng nặng nền hơn như bệnh ung thư, các tổn thương thần kinh … Các tác
nhân này đặc biệt có hại cho trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh và thai nhi do sức đề kháng của trẻ
142
chưa phát triển hoàn toàn. Khi gặp những tác nhân này trẻ sẽ có những tổn thương
nghiêm trọng hơn ở người đã trưởng thành.
Hiện nay, một số quốc gia ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản quy định việc nhập
khẩu các sản phẩm dệt may phải đảm bảo không gây hại với người tiêu dùng. Xu
hướng này đang lan rộng ra các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng đặt ra yêu cầu
với các doanh nghiệp dệt may ngày càng phải chú ý hơn trong các khâu sản xuất,
đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm…
Nhà nước nên tổ chức các triển lãm, tuyên truyền về sản phẩm an toàn cho
người tiêu dùng, chú trọng hơn các hoạt động cổ vũ cho xu hướng tiêu dùng an
toàn, cho sức khỏe con người nhằm nâng cao nhận thức của các DN trong việc sản
xuất sản phẩm an toàn. Nhà nước cũng cần thành lập cơ quan đánh giá độc lập, có
đủ năng lực để kiểm tra và công nhận đạt chuẩn về an toàn của sản phẩm, hướng
dẫn các DNDM thực hiện các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu về an toàn cho người
sử dụng của các nước nhập khẩu.
Các doanh nghiệp cần nghiêm túc tuôn thủ các quy định, tuyên truyền cho
người người lao động trong DN thấy được tầm quan trọng của việc sản xuất sản
phẩm an toàn, có ý thức và trách nhiệm của mình khi tham gia sản xuất sản
phẩm.
3.3.2.3. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về môi trường.
Vì người dân các nước phát triển coi môi trường nơi đâu cũng là môi trường
chung của mình,vì vậy, nếu sản phẩm gây ô nhiễm môi trường Việt Nam thì cũng
gây ô nhiễm cho môi trường chung và do đó không được chấp nhận ở các nước phát
triển. Do đó, khi sản xuất hàng dệt may, Việt Nam phải đảm bảo không gây ô nhiễm
không chỉ cho môi trường nước xuất khẩu mà còn phải đảm bảo không gây ô nhiễm
môi trường tại Việt Nam. Giải pháp để vượt qua rào cản này là:
- Xây dựng cụm công nghiệp ngành dệt may. Chính Phủ có vai trò rất quan
trọng trong phát triển cụm CN, thu hút đầu tư vào khâu sản xuất NPL, nhất là khâu
dệt, nhuộm và hoàn tất. Vướng mắc lớn nhất của khâu dệt nhuộm là vấn đề xử lý
nước thải. Do đó, Chính phủ cần quy hoạch, xây dựng cụm nhà máy dệt nhuộm để
143
có hệ thống xử lý nước thải tốt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đáp ứng được yêu
cầu về tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu.
- Các DNDM cần đẩy mạnh việc quản lý hóa chất, triển khai các chương
trình sản xuất sạch hơn: Trong khi thực hiện các hệ thống quản lý môi trường, cần
rà soát các hóa chất thuốc nhuộm, chất trợ đang sử dụng, nguồn gốc, xuất xứ của
chúng, các phiếu số liệu an toàn của nhà cung ứng. Đổi mới công nghệ, sử dụng
hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất thuốc nhuộm thân thiện với môi
trường, các công nghệ sử dụng ít nước, ít năng lượng, giảm thiểu chất thải nước,
chất thải khí...
3.3.2.4. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội.
Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam là một công việc
không thể bỏ qua trên con đường hội nhập, vừa lợi ích cho doanh nghiệp, vừa lợi
ích cho xã hội, đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của
quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn luật pháp lao động tại Việt Nam, cũng là nội
dung quan trọng trong xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại.
Để định hướng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội, Việt Nam cần tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất của vấn đề
“trách nhiệm xã hội” và các bộ quy tắc ứng xử, nhất là trong các doanh nghiệp,
các nhà quản lý, hoạch định chính sách vĩ mô. Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các
nghiên cứu cơ bản, khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp đã thực hiện và sẽ thực
hiện các bộ quy tắc ứng xử, để phát hiện những thuận lợi cũng như các rào cản,
khó khăn, thách thức, từ đó khuyến nghị các giải pháp xúc tiến thực hiện trong
thời gian tới. Có thể thấy, trong quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội và các bộ
quy tắc ứng xử, các doanh nghiệp phải chi phí khá lớn cho đầu tư để cải thiện các
điều kiện vệ sinh lao động. Trong điều kiện cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp không
thể trang trải nổi những khoản chi này, bởi vậy có thể nhà nước phải hỗ trợ cho
vay từ quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ xúc tiến thương mại… với một chính sách ưu
tiên, ưu đãi.
144
3.3.2.5. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về ghi nhãn hàng dệt may.
Như đã phân tích, các quy định và tiêu chuẩn ghi nhãn hàng dệt may của các
thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có xu hướng ngày càng cao và phức tạp hơn. Bên
cạnh những quy định cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ an toàn sức khỏe người tiêu
dùng, bảo vệ môi trường sinh thái và chống lừa dối, gian lận thương mại, còn có
nhiều quy định không góp phần vào việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hoặc có thể
có lợi cho người tiêu dùng nhưng gây thêm quá nhiều thủ tục cho doanh nghiệp (ví
dụ nhãn phải được đăng ký, phê chuẩn, chấp thuận trước, nhãn phải được làm bằng
một số nguyên liệu nhất định….). Hay những quy định về nhãn sinh thái cũng tạo
thêm gánh nặng cho các DN DMXK các nước đang và chậm phát triển, trong đó có
Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần tích cực đàm phán với các nước nhập khẩu để
giảm thiểu những quy định trên mức cần thiết và đảm bảo rõ ràng minh bạch hơn
trong các quy định về ghi nhãn của các thị trường nhập khẩu. Đồng thời, các doanh
nghiệp phải nghiên cứu, tìm hiểu và nhận biết rõ các quy định và yêu cầu ghi nhãn
chính đáng của các thị trường nhập khẩu về thành phần sợi, nước xuất xứ, hướng
dẫn sử dụng để có biện pháp thích nghi, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định này
3.3.2.6. Đối với các quy định về xuất xứ hàng dệt may.
Để đảm bảo hàng hóa đáp ứng yêu cầu về xuất xứ, các DN cần nghiên cứu
kỹ quy tắc xuất xứ trong Hiệp định TPP (sau khi được ký kết) và EVFTA để chắc
chắn hàng hóa đáp ứng quy tắc cộng gộp và các tiêu chí xuất xứ tương ứng trước
khi sản xuất, xuất khẩu. Đặc biệt cần nhận thức rõ một điều là nguyên nhân chính
cho khó khăn hiện tại của VN trong vấn đề xuất xứ hàng hóa là do VN vẫn chưa
chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất xuất khẩu chủ
lực, và nguyên nhân sâu xa từ thực trạng này chính là do VN chưa xây dựng được
công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may, hầu hết các phụ kiện đều phải nhập khẩu.
Cho nên, nếu thực hiện nguyên tắc xuất xứ hàng hóa theo TPP, hay theo EVFTA,
thì không có đủ cơ sở để khẳng định mặt hàng mà chính chúng ta sản xuất mang
nguồn gốc VN. Vì vậy, vấn đề căn cơ nhất hiện nay là VN phải:
145
- Khẩn trương xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho ngành may
mặc cũng như các ngành khác. Đó là giải pháp căn cơ nhất. Bên cạnh đó, chúng ta
có thể có những giải pháp tạm thời khác, ví dụ như thương lượng với các nước TPP
để có thời gian, gọi là thời gian ân huệ nhất định để có điều kiện thời gian cho công
nghệ phụ trợ đó phát triển. Xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành
hàng sản xuất xuất khẩu là giải pháp cấp bách nhất hiện nay đối với VN trong bối
cảnh đàm phán Hiệp định TPP và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam - EU đang
đi vào giai đoạn cuối cùng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận khách quan là giải pháp này
mang tính dài hạn.
- Việt Nam cần có qui hoạch khoa học, cụ thể về các vùng trồng, sản xuất, cung
ứng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Nếu chỉ chú trọng đầu tư cho ngành dệt may
mà thiếu chú ý phát triển các vùng sản xuất nguyên phụ liệu thì dệt may Việt Nam đã,
đang và sẽ còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Do đó, Việt Nam cần có những
chính sách quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết qua các giai đoạn phát triển, đặc
biệt nên chú trọng phát triển những vùng trồng bông nuôi tằm giảm thiểu hoạt động
nhập khẩu yếu tố đầu vào. Do vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải xây dựng các
trung tâm sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu. Cần có kế hoạch kêu gọi các nhà
đầu tư nước ngoài Hong Kong, Đài Loan, Nhật Bản tham gia triển khai các trung
tâm nguyên phụ liệu này và cao hơn nữa, hợp tác đầu tư máy móc thiết bị sản xuất
nguyên phụ liệu tại Việt Nam, nhằm ổn định thị trường.
- Mỗi doanh nghiệp cần xác định chiến lược kinh doanh riêng cho mình tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể, hoặc là tận dụng những nguồn nguyên liệu sẵn có, để
chiếm lĩnh thị trường nội địa và phát huy thế mạnh, tạo thương hiệu đẩy mạnh xuất
khẩu hoặc là xây dựng chuỗi cung ứng riêng ngay trong nước cho chính doanh
nghiệp. Dù theo định hướng nào thì khi Việt Nam tham gia những hiệp định TPP,
các doanh nghiệp cần phải thông suốt mọi quy định, và nắm bắt kịp thời những lợi
thế, từ đó có những chiến lược phù hợp thì mới tránh được những thua thiệt trong
thương mại quốc tế.
146
Tóm lại, chương 3 đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của
RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường
nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong
thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết
định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát
triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức
tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi
trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu
dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT của các thị trường nhập khẩu sẽ
tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, thời gian
tới, RCKT cần phải đuợc quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.
Chương 3 cũng đưa ra quan điểm và định hướng vượt RCKT đối với hàng
DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động phòng
ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN để
vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các nhóm
giải pháp cụ thể đối với Nhà nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các
nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM. Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà
nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường
hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ
trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về
RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DN,... Các DN
phải phát huy nội lực bản thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược
kinh doanh XK bền vững để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua
đó phát triển thương hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.
Các nhóm giải pháp này được xây dựng một cách hệ thống, có căn cứ khoa
học và chắc rằng sẽ có tác dụng thiết thực thúc đẩy sự phát triển xuất khẩu ngành
dệt may nói riêng và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
và Nhà nước ta nói chung.
147
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa sâu sắc như hiện nay, đi liền với
xu hướng tự do hóa thương mại với việc cắt giảm và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan
truyền thống, là xu hướng ngày càng phát triển của các RCKT thương mại như một
tất yếu khách quan. Các RCKT thương mại, với những ưu điểm nổi trội so với rào
cản thuế quan truyền thống, đóng vai trò quyết định trong định hình các dòng chảy
của TMQT ngày nay.
RCKT của các thị trường nhập khẩu chính Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... đối với
hàng DMXK của Việt Nam cũng phát triển nở rộ và ngày càng trở nên cao hơn, tinh
vi, phức tạp hơn để cản trở sự thâm nhập mạnh mẽ của hàng DMXK của nước ta.
Điều này đặt ra những khó khăn, thách thức lớn cho cả Nhà nước và cộng đồng DN
Việt Nam trong vượt RCKT của các thị trường phát triển để đẩy mạnh XK hàng
DM, thực hiện mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược phát triển ngành
DM đến năm 2020, nhất là trong điều kiện thực tế hiện nay, năng lực vượt RCKT
của Việt Nam còn hạn chế do có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế và
khoa học, công nghệ so với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Xuất phát từ mâu thuẫn giữa việc gia tăng sử dụng các RCKT của các nước
phát triển gây cản trở cho XK hàng DM của Việt Nam với năng lực vượt RCKT còn
yếu nhưng phải nỗ lực để tăng cường XK hàng DM của Việt Nam sang các thị
trường này, NCS đã thực hiện đề tài luận án tiến sĩ “Rào cản kỹ thuật đối với hàng
dệt may xuất khẩu và giải pháp của Việt Nam” với mục đích nghiên cứu, làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất các giải pháp nhằm vượt RCKT của các
nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam. Luận án đã đạt được
những kết quả chính và có những điểm mới sau đây:
- Thứ nhất, Luận án có cách tiếp cận mới, nhìn nhận RCKT theo hướng tích
cực, coi RCKT là những quy định, tiêu chuẩn hợp lý, khoa học buộc các quốc gia,
các nhà nhập khẩu, xuất khẩu phải tuôn thủ. Theo đó, RCKT được tiếp cận từ hai
phía trong mối quan hệ giữa các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa, trên cả
2 bình diện Nhà nước và doanh nghiệp.
148
- Thứ hai, Luận án đã phát triển một số vấn đề lý luận về RCKT và vượt
RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, trong đó: Luận giải và đưa ra quan điểm
riêng về khái niệm và cách phân loại mới RCKT; Đưa ra phương thức vượt RCKT
và đề xuất mô hình vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, theo đó các doanh
nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT, nhưng vai trò của Nhà nước
và các tổ chức hỗ trợ thương mại, các tổ chức xã hội dân sự khác trong và ngoài
nước là vô cùng quan trọng để doanh nghiệp có thể vượt qua RCKT và xuất khẩu
thành công; Xác định hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT của
một quốc gia, trong đó, nhóm nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu (nhân tố trong
nước) giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững và hiệu
quả của xuất khẩu hàng dệt may. Và trong số các nhân tố này thì nhân tố thuộc về
tư duy nhận thức của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân đối với sản xuất và
xuất khẩu hàng dệt may giữ vai trò quan trọng nhất, có thể thúc đẩy hoặc cản trở
việc đáp ứng RCKT. Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt RCKT đối với hàng
DMXK của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan cả trên bình diện nhà
nước và doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước và các nỗ
lực vượt RCKT của bản thân DN, rút ra những bài học có thể áp dụng và không nên
áp dụng vào Việt Nam.
- Thứ ba, Luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng XK và thực trạng
sử dụng các RCKT của các nước nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK
hàng DM của Việt Nam cũng như những biện pháp vượt RCKT đối với hàng DM
của. Chính phủ và DN Việt Nam chỉ rõ rằng để vượt qua RCKT của các thị trường
nhập khẩu chủ yếu, hàng DM Việt Nam đã có những thích nghi, đổi mới quan
trọng, đặc biệt là trong công nghệ sản xuất, tạo dựng thương hiệu và thay đổi cách
thức giám sát, kiểm tra. Nhưng thực trạng đáp ứng các rào cản này vẫn bộc lộ nhiều
hạn chế trong thời gian qua. Những hạn chế đó có nguyên nhân khách quan do trình
độ phát triển kinh tế, KHCN của Việt Nam còn thấp, nhưng nguyên nhân chủ quan
quan trong nhất là do chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, kể cả trong các
cơ quan chính phủ và các DNDM. Nhận thức và ý thức về việc chủ động nắm bắt
xu hướng RCKT để có biện pháp phòng ngừa mang tầm chiến lược còn yếu. Hiện
149
nay các biện pháp vượt RCKT còn mang tính đối phó, bị động và ngắn hạn. Chính
phủ và cộng đồng DNDM chưa thật sự có sự gắn kết chặt chẽ với nhau để tìm giải
pháp,...
Thứ tư, Luận án đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của
RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường
nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong
thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết
định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát
triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức
tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi
trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu
dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT và mức độ sử dụng RCKT tăng
lên của các thị trường nhập khẩu sẽ có khả năng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn
tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, RCKT cần phải đuợc
quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.
Thứ năm, Luận án đã nêu ra các quan điểm và định hướng vượt RCKT đối
với hàng DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động
phòng ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN
để vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM.
Thứ sáu, Luận án đề xuất các nhóm giải pháp chung và cụ thể đối với Nhà
nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy mạnh
XK hàng DM. Nhà nước và Hiệp hội DM cần giúp đỡ hỗ trợ các DN vượt rào.
Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực
pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi
mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin
dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực cho DN,... Các DN phải chủ động, tích cực phát huy nội lực bản
thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược kinh doanh XK bền vững
để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua đó phát triển thương
hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.
150
Kết quả trên đây chính là những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề
tài luận án vào việc nâng cao năng lực vượt qua các RCKT trong TMQT, thúc
đẩy XK hàng DM của Việt Nam. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng luận án không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo,các
nhà khoa học để luận án hoàn chỉnh hơn.
Nghiên cứu sinh xin được bày tỏ lời cám ơn sâu sắc tới Ban lãnh đạo cùng các
Thầy giáo, Cô giáo, các cán bộ của Viện nghiên cứu Thương mại, đặc biệt là tập thể
Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Nhiễu và TS. Phạm Thu Giang. Nghiên cứu
sinh cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên
của Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp, Vụ Khoa học & Công nghệ -
Bộ Công Thương, Tập đoàn Dệt May Việt Nam (VINATEX), Văn phòng TBT Việt
Nam, Viện Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu cùng bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã luôn ủng hộ,
tạo điều kiện thuận lợi, chia sẻ khó khăn và luôn động viên tác giả trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành bản luận án này./.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
[1] Phạm Thị Lụa (2011). Công nghiệp DM Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, Tháng 3/2011.
[2] Phạm Thị Lụa (2011). Chính sách công nghiệp của Nhật Bản đối với các nước
ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp - Tháng 4/2011.
[3] Phạm Thị Lụa (2011). Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK
của Việt Nam, Tạp chí Thương mại - Số 8/2011.
[4] Phạm Thị Lụa (2012). Khuyến nghị về định hướng điều chỉnh chính sách XK
ngành DM Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Giáo dục lý luận - Tháng
12/2012.
[5] Phạm Thị Lụa (2012). XK hàng DM sang thị trường Nhật Bản và những
khuyến nghị đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí KHCN, Trường Đại
học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp, Tháng 12/2012.
[6] Phạm Thị Lụa (2014). Rào cản kỹ thuật - Thách thức lớn đối với các DNDM
Việt Nam, Tạp chí Công thương, Tháng 4/2014
[7] Phạm Thị Lụa (2014). DNDM Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật của các thị
trường XK, Tạp chí nghiên cứu thương mại, Số 8, Tháng 4/2014
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các văn bản.
[1] Nghị định về Ghi nhãn hàng hóa số 89/2006/NĐ-CP của Chính phủ năm
2006,...
[2] Nghị định số 127/2007/NĐ-CP của chính phủ ngày 01/08/2007 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
[3] Nghị định số: 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
[4] Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.
[5] Nghị định số 86/2012/ND-CP ngày 19/10/2012 quy định chi thiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đo lường.
[6] Quyết định số 682/QĐ-TTg ngày 10 tháng 05 năm 2011 “Đề án thực thi hiệp
định hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2011 - 2015”.
[7] Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg ngày 10/3/2008 của Thủ tướng chính Phủ,
“Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020”.
[8] Quyết định số 3218/QĐ-BCT ngày 11/4/2014 của Bộ Công Thương phê duyệt
“Quy hoạch phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030”
Sách, báo cáo Tiếng Việt
[9] Hoàng Thị Vân Anh (2009), “Nghiên cứu tác động ảnh hưởng của hàng rào
kỹ thuật thương mại (TBT) Nhật Bản đối với xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy
sản của Việt Nam và giải pháp khắc phục”, đề tài NCKH cấp Bộ.
[10] Lê Quốc Ân (2005), “Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt
Nam sau hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”.
153
[11] Lê Quốc Ân (2006), “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng năng lực
cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2015”, đề
tài nghiên cứu của Hiệp hội dệt may Việt Nam.
[12] BaKer & McKenzie (2010), “Sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại tại Hoa
Kỳ”.
[13] Báo cáo Dự án 2009, “Hội nhập Kinh tế và sự phát triển ở Việt Nam”.
[14] Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới (2000), “Xanh hóa
công nghiệp - Vai trò mới của Cộng đồng, thị trường và Chính Phủ”.
[15] Đỗ Đức Bình, Bùi Huy Nhượng (2009), “Đáp ứng rào cản phi thuế quan để
đẩy mạnh xuất khẩu bền vững hàng thủy sản của Việt Nam”, Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia.
[16] Bộ Công Thương (2006), “Nghiên cứu rào cản môi trường đối với thương mại
và đề xuất áp dụng tại Việt Nam”, đề tài NCKH.
[17] Bộ Công Thương (2008), “Hướng dẫn xây dựng và áp dụng các biện pháp trợ
cấp bảo vệ môi trường đối với ngành dệt may và da giầy”.
[18] Bộ Công thương (2008), dự án”Phân tích tác động của các quy định môi
trường dưới hình thức các rào cản thương mại môi trường đối với xuất khẩu
một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam”.
[19] Bộ Công thương (2010), “Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO”,
NXB Công thương.
[20] Bộ Kế hoạch và đầu tư (6/2014), “Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ
2014”, báo cáo hội thảo
[21] Bộ Thương mại (1999), “Thị trường hàng dệt may thế giới và khả năng xuất
khẩu của Việt Nam”, đề tài NCKH cấp Bộ.
[22] Bộ Thương mại (2004), “WTO thương mại đầu tư Việt Nam trong tiến trình
hội nhập”.
154
[23] Bộ Thương mại, Vụ Kế hoạch thống kê, “Cơ sở khoa học định hướng các biện
pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế thương mại thế giới”, Đề tài NCKH cấp Bộ.
[24] Cục XTTM (2010), “Hồ sơ thị trường Nhật Bản”.
[25] Dự án hỗ trợ đa biên, EU - Multrap III (2009), “Báo cáo vượt qua các rào cản
kỹ thuật để thúc đẩy xuất khẩu sang Liên Minh Châu Âu”.
[26] Dự án hỗ trợ thương mại đa biên, Multrap II (2009), “Cam kết của Việt Nam
trong WTO”.
[27] Đại diện Thương mại Mỹ (2004), “Việt Nam: các rào cản ngoại thương”.
[28] Đại học Ngoại thương (2001), “Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản
trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài NCKH cấp Bộ.
[29] Đỗ Thị Đông (2011), “Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của
các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế.
[30] FPT Security (4/2014), “Báo cáo ngành dệt may”
[31] Nguyễn Anh Dương - Đặng Phương Dung, “Việt Nam tham gia WTO và các
hiệp định thương mại tự do (FTA) - Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may”
[32] Đào Thị Thu Giang (2009), “Các biện pháp vượt rào cản phi thuế quan trong
thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt nam”, luận
án Tiến sĩ kinh tế.
[33] Phạm Thu Giang (2007), “Phân tích, tổng hợp các nội dung cụ thể có liên quan
đến hiệp định, các điểm phù hợp và không phù hợp của nghị định, thông tư, quyết
định của Bộ, Chính phủ, Quốc hội trong phạm vi ngành dệt may”, Báo cáo
[34] GS. Claudio - EU - Việt Nam Multrap III, “Hội nhập khu vực - Cơ hội và
thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam”.
[35] Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
[36] Hiệp định thương mại về hàng dệt và may mặc
[37] Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam.
155
[38] Hiệp định thương mại Việt Nam - EU
[39] Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
[40] Hiệp hội dệt may Việt Nam (2006), “Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2010”.
[41] Nguyễn Hoàng (2009), “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
vào thị trường các nước EU của dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”,
Luận án tiến sĩ kinh tế.
[42] Nguyễn Hữu Khải (2005), “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương
mại quốc tế”, NXB Lao động xã hội.
[43] Cao Sĩ Kiêm, “Tác động của hàng hóa nhập khẩu với sản xuất trong nước.
Các công cụ phòng vệ thương mại và sản xuất trong nước”
[44] Nguyễn Thị Hoàng Lan (2010), “Rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với hàng
dệt may xuất khẩu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, đề tài NCKH của
Trường Đại học Kinh tế TP. HCM
[45] Bùi Thị Lý (2005), “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát
triển”, đề tài NCKH cấp Bộ.
[46] Nguyễn Thị Hoàng Mai (2011), (2012), “Báo cáo cập nhật ngành dệt may”.
[47] Nguyễn Thị Mão (2001), “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc
tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt
nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
[48] Mutrap II, dự án hỗ trợ thương mại đa biên (2006),“Thông lệ và hướng dẫn về
quản lý các cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về các rào cản kỹ
thuật trong thương mại (TBT) và hiệp định kiểm dịch vệ sinh động, thực vật
(SPS) của WTO”.
[49] Nguyễn Thị Nhiễu (2007), “Giải pháp tăng cường sự tham gia của doanh
nghiệp và sản phẩm Việt Nam vào mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu
sau khi Việt Nam gia nhập WTO”, đề tài NCKH cấp Bộ
156
[50] Ngô Thị Việt Nga (2012) “Tái cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp dệt may của
tập đoàn dệt may Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế.
[51] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam VCCI, “Cam kết WTO về lĩnh
vực dệt may”
[52] Thông tư liên tịch của Bộ Công nghiệp - Bộ thương mại, “ Hướng dẫn giám
sát xuất khẩu dệt may vào thị trường Hoa Kỳ” ngày 28 tháng 2 năm 2007.
[53] Spencer Henson và John S. Wilson (2007), “Tổ chức thương mại thế giới và
các hàng rào kỹ thuật trong thương mại”, Mai Thế Trình dịch, NXB Chính trị
Quốc gia.
[54] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Báo cáo,”Tiêu chuẩn, đo lường,
đánh giá sự phù hợp và hiệp định TBT”.
[55] Tập đoàn dệt may Việt Nam (2005), “Quy hoạch phát triển ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2015 - tầm nhìn 2020”.
[56] Đinh Văn Thành (2005), “Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế
và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao động xã hội,
Hà Nội.
[57] Đinh Văn Thành (2005), “Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông
sản trong thương mại quốc tế”, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
[58] Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TP. HCM (2009), “Tài liệu ngành
hàng dệt may Việt Nam”.
[59] Hồ Tuấn (2005), “Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng tăng trưởng trong ngành may mặc Việt Nam”, đề tài NCKH cấp Bộ.
[60] Nguyễn Văn Tuấn (2010), “Thương mại quốc tế”, Giáo trình, NXB Đại học
KTQD
[61] Nguyễn Thị Tú (2010),”Nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ”, NXB Chính trị Quốc Gia.
[62] Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế (2004), “Tác động của các
hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển”
157
[63] Văn phòng TBT, Bộ Công thương (2006), “Nhiệm vụ nghiên cứu triển khai
một số hoạt động khoa học công nghệ về rào cản kỹ thuật thương mại trong
ngành công nghiệp”.
[64] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2011), “Các dự thảo đàm phán
NAMA về NTBs đối với ghi nhãn hàng dệt may, giày dép và đồ du lịch và TBTs
đối với ô tô, điện tử, hóa chất”.
[65] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2011), “Tăng cường vai trò của
các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế liên quan đến Nhà nước”.
[66] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2012), “Hồ sơ thị trường Nhật
Bản”.
[67] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2013), “Hồ sơ thị trường Hoa
Kỳ”
[68] Viện dệt may Việt Nam (2009), “Những rào cản kỹ thuật trong thương mại
dệt may Việt Nam”, nhà xuất bản Bách Khoa - Hà Nội.
[69] Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công thương
(2007), “chính sách công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Báo cáo
hội thảo.
[70] Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công thương
(2/2013), “Rào cản thương mại đối với các sản phẩm công nghiệp Việt Nam”.
[71] Viện Nghiên cứu Thương Mại (2003), “Cẩm nang thị trường xuất khẩu -Thị
trường Nhật Bản”, Nhà Xuất Bản Thương Mại, Hà Nội
[72] Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2012), “Tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau 3 năm Việt Nam gia nhập WTO”.
[73] Vụ Châu Âu - Bộ Thương Mại (2004), “Quan hệ kinh tế, thương mại Việt
Nam - Liên minh Châu Âu”.
[74] Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu
tổng quan các biện pháp phi thuế quan Việt Nam”, Hà Nội.
158
[75] Vụ khoa học - Bộ Công thương (2007), “Sổ tay hướng dẫn thực hiện hiệp định
TBT trong ngành công nghiệp”.
[76] Vụ khoa học - Bộ Công thương (2005), “Bổ sung quy định ghi nhãn hàng hóa
cho hàng dệt may nhập khẩu”.
[77] Vụ thị trường Châu Âu, Bộ Công thương (2011), “Quy tắc xuất xứ mới của
Liên minh Châu Âu”, Nhà xuất bản thông tin và truyền thông.
Sách, báo cáo tiếng Anh
[78] Damien J Naven (2000), “Evaluating the effects of Non-tarriff
barriers”; The economic analysis of protection in WTO dispute, University
of Lausane and CEPR.
[79] Economic and social commission for ASIA and the Pacific (2000), “Non -
tariff measures with potentially restrictive market access implications
emerging in a post-uruguay ruond context”, United Nations.
[80] Gordhan K. Saini, “Non-Tariff Measures Affecting India’s Textiles and
Clothing Exports: Findings from the Survey of Exporters”.
[81] Hildegunn Kyvik Nordås, “The Global Textile and Clothing Industry post the
Agreement on textiles and Clothing”, World Trade Organization.
[82] Keith E. Maskus, “Quantifying the Impact of Technical Barriers to Trade, a
Framework for Analysis”.
[83] Sangeeta Khorana, “Barriers to exporting to the EU: evidence from textiles
and leather goods firms in india”, School of Management and Business,
United Kingdom.
[84] USTR (2013), “2013 Report on Technical Barriers to Trade”
[85] WTO Committee on Technical Barriers to Trade (2013), “Eighteenth Annual
Review of the Implementation and Operation of the WTO Agreement on
Technical Barriers to Trade”, G/TBT/33.
159
[86] Xiaohua Bao (2009), “Quantifying the Trade Effects of Technical Barriers to
Trade: Evidence from China”, School of International Business
Administration.
[87] Xiaohua Bao and Larry D. Qiu (2011), “How Does Technical Barriers to
Trade Influence Trade Flows?”, School of International Business
administration, Shanghai University of Finance and Economics.
Báo, tạp chí
[88] Đỗ Đức Bình (2009), “Rào cản môi trương - Rào cản xanh của EU và giải
pháp vượt rào đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
EU”, tạp chí Kinh tế - Pháp luật Châu Âu, (6).
[89] Phạm Minh Đạt (2008), “Giải pháp vượt rào cản môi trường cho hàng thủy
sản xuất khẩu của Việt Nam”, tạp chí Thương mại, (23).
[90] Nguyễn Kim Định (2006), “Doanh nghiệp làm thế nào để có thể vượt được
các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế?”, tạp chí kinh tế phát
triển.
[91] Nguyễn Hoàng (2010), “Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ”, tạp chí
nghiên cứu tài chính kế toán, số 02(79).
[92] Trần Thanh Long (2009), “Ảnh hưởng của rào cản thương mại khi Việt Nam
đã gia nhập WTO”, tạp chí Kinh tế và dự báo,( 18).
[93] Nguyễn Xuân Minh (2011), “Vượt qua rào cản - đẩy mạnh xuất khẩu năm
2011 - 2012”, tạp chí thương mại, ( 26).
[94] Phan Ngọc Trung (2006), “Rào cản thương mại - Thách thức đối với quá trình
hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam”, tạp chí Kinh tế và dự báo, (8).
[95] Trần Quốc Trung (2011),“Giải pháp ứng phó với rào cản kỹ thuật mới trong
xuất khẩu thủy sản”, tạp chí thương mại, ( 27).
160
[96] Gabriel J. Felbermayr · Benjamin Jung “Sorting It Out: Technical Barriers to
Trade and Industry Productivity”, tạp chí Springer Science + Business Media,
LLC 2 4 / 3 / 2009.
[97] Ningchuan Jiang (2008), “Effect of Technical Barriers to Trade on Chinese
Textile Product Trade”, tạp chí International Business Reseach.
[98] Xiaohua Bao và Larry D. Qiu (2010), “Do Technical Barriers to Trade
Promote or Restrict Trade? evidence from China”, Asia Pacific of Accounting
and Econimic, (17).
[99] Các trang website:
- www.tbtvn.org
- www. trade.ec.europa.eu
- www. ustr.gov
- www.jtia.or.jp;
- www.vinatex.com
- www.vietrade.gov.vn
- www.vneconomy.com.n
- www.vietnamtextile.org
- www.vcci.co.vn
- www.ciem.org.vn
- www.trungtamwto.vn
161