BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

PHẠM THỊ LỤA

RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

PHẠM THỊ LỤA

RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thương mại

Mã số: 62.34.10.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

HD1: TS. Nguyễn Thị Nhiễu

HD2: TS. Phạm Thu Giang

Hà Nội - 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,

đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi

tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực

tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ

nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận án

Phạm Thị Lụa

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................i

MỤC LỤC..............................................................................................................ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...............................................................................iii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ........................................................................iv

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ......................................................v

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................1 Lý do lựa chọn đề tài.......................................................................................... 1 1. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4 3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 5 4. Những đóng góp mới của Luận án ................................................................... 6 5. Kết cấu của Luận án .......................................................................................... 8 6.

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.....................................................9 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI 1. NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................... 9 1.1. Các nghiên cứu của nước ngoài ........................................................................ 9 1.2. Các nghiên cứu ở trong nước .......................................................................... 10 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU CÓ 2. LIÊN QUAN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN..................... 14

PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................ 17

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY......................... 17 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. ............................................ 17 1.1.1. Khái niệm rào cản kỹ thuật ............................................................................. 17 1.1.2. Phân loại rào cản kỹ thuật............................................................................... 23 1.1.3. Tác động của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế ........................... 31 1.1.3.1. Đối với nước xuất khẩu .................................................................................................. 31

1.1.3.2. Đối với nước nhập khẩu.................................................................................................. 33 1.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU ...... 35 1.2.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu................. 35 1.2.1.1. Khái niệm....................................................................................................................... 35

1.2.1.2. Các loại rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may ............................................................... 35

1.2.2.1. Khái niệm....................................................................................................................... 39

1.2.2. Vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu............................... 39

1.2.2.2. Phương thức vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu ................................ 40 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của một quốc gia.............................................................. 43

1.2.3.1. Các nhân tố quốc tế ........................................................................................................ 43

1.2.3.2. Các nhân tố trong nước................................................................................................... 46 1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM........................................................................................................ 48 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới................................................... 48

1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc......................................................................................... 48

1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ ................................................................................................. 51

1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan ............................................................................................. 53 1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam............................................................................ 54

1.3.2.1. Bài học thành công có thể vận dụng............................................................................... 54

1.3.2.2. Bài học không nên vận dụng........................................................................................... 56

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG ĐỂ VƯỢT RÀO CẢN................................................................................................ 58

2. 1. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. ....................................................................................................... 58

2.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ....................................... 58

2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam thời gian qua...................................................................................................................... 61

2.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CHÍNH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. ............................................................................... 63

2.2.1.1. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Hoa Kỳ ................................. 63

2.2.1.2. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường EU ........................................ 70

2.2.1. Rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng DMXK của Việt Nam..................................................................................................... 63

2.2.1.3. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Nhật Bản............................... 75 2.2.2. Đánh giá tác động của rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam......................................... 80

2.2.2.1. Tác động tích cực ........................................................................................................... 80

2.2.2.2. Tác động tiêu cực ........................................................................................................... 83

2.3. THỰC TRẠNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. ....................... 87 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. ................................................. 87 2.3.1.1. Các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ................ 89

2.3.1.2. Các biện pháp, chính sách của nhà nước hỗ trợ DN vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu ............................................................................................................... 92 2.3.2. Đánh giá về các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. .................................................................. 96 2.3.2.1. Kết quả đạt được ............................................................................................................ 96

2.3.2.2. Hạn chế .........................................................................................................................100

2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế....................................................................................109

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020....................................................................................... 115 3.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.................................................... 115 3.1.1. Xu hướng phát triển của rào cản kỹ thuật trên thế giới............................. 115 3.1.2. Xu hướng áp dụng RCKT của các thị trường xuất khẩu chính đối với hàng dệt may Việt Nam........................................................................................... 118 3.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020. ................................................................................................................. 121 3.2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đến năm 2020 ........... 121 3.2.2. Một số quan điểm vượt RCKT của hàng DMXK của Việt Nam............... 124 3.2.3. Những định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam thời gian tới ............................................................................................................. 126 3.2.3.1. Định hướng từ phía Nhà nước........................................................................................126

3.2.3.2. Định hướng từ phía DN .................................................................................................127 3.3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM................................. 127 3.3.1. Nhóm giải pháp vượt rào chung ................................................................... 128 3.3.1.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước..........................................................................128

3.3.1.2. Đối với Hiệp hội dệt may...............................................................................................137

3.3.1.3. Đối với các doanh nghiệp dệt may. ................................................................................139 3.3.2. Giải pháp vượt từng rào cản kỹ thuật.......................................................... 141 3.3.2.1. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. ..........................................141

3.3.2.2. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng. .................................141

3.3.2.3. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về môi trường..........................................................142

3.3.2.4. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội. .............................................143

3.3.2.5. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về ghi nhãn hàng dệt may. .......................................144

3.3.2.6. Đối với các quy định về xuất xứ hàng dệt may. ..............................................................144

KẾT LUẬN........................................................................................................ 147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ........................................ 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 152

PHỤ LỤC........................................................................................................... 161 Phụ lục 1. Phiếu khảo sát..................................................................................... 162 Phụ lục 2. Những nguyên tắc pháp lý của WTO và tóm tắt Hiệp định TBT ......... 166 Phụ lục 3. Tiêu chuẩn SA 8000............................................................................ 170 Phụ lục 4. Hướng dẫn ghi nhãn các sản phẩm dệt may của Mỹ, EU, Nhật ........... 174 Phụ lục 5. Danh mục biện pháp kỹ thuật tại các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.. 177

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. Từ viết tắt Tiếng Việt

Từ viết tắt Tên đầy đủ

Dệt may DM

Dệt may xuất khẩu DMXK

Doanh nghiệp DN

Doanh nghiệp dệt may DNDM

Doanh nghiệp nhà nước DNNN

DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp tư nhân DNTN

Khoa học công nghệ KHCN

Nhãn hiệu hàng hóa NHHH

Nhãn hiệu thương mại NHTM

Nguyên phụ liệu NPL

Quản lý nhà nước QLNN

Rào cản kỹ thuật RCKT

Rào cản thương mại RCTM

TCVN Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam

TMQT Thương mại quốc tế

TNHH Tránh nhiệm hữu hạn

VCCI Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam

VITAS Hiệp hội DM Việt Nam

XHCN Xã hội chủ nghĩa

XK Xuất khẩu

XTTM Xúc tiến thương mại

2. Từ viết tắt Tiếng Anh

Tên đầy đủ Tiếng Anh Tên đầy đủ Tiếng Việt Từ viết tắt

AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

COC Code of conduct Bộ quy tắc ứng xử

EC European Commission Ủy ban châu Âu

EFTA European Free Trade Association Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu

EU European Union Liên minh châu Âu

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế International Labour Organization

ISO Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế International Organization for Standardization

JIS Japanese Industrial Standards Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản

NAFTA North America Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ

OECD Organisation for Economic Co- operation and Development Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SA8000 Social Accountability 8000 Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội

TBT Agreement on Technical Barriers to Trade Hiệp định RCKT đối với thương mại

WRAP Worldwide Reponsible Accredited Production Tiêu chuẩn trách nhiệm sản xuất hàng DM toàn cầu

WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại Thế giới

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013

phân theo khu vực thị trường nhập khẩu ................................................................60

Bảng 2.2: Ý nghĩa phạm vi áp dụng của dấu chứng nhận quản lý chất lượng ở Nhật

Bản........................................................................................................................76

Bảng 2.3: Loại hình doanh nghiệp đã tiến hành khảo sát .......................................88

Bảng 2.4: Những lý do khiến DN quan tâm đến các quy định trong hoạt động xuất

khẩu hàng dệt may...............................................................................................977

Bảng 2.5: Mức độ hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức giúp DN vượt RCKT...............99

Bảng 2.6: Mức độ nhận biết của DN về các rào cản kỹ thuật trong hoạt động xuất

khẩu trên các thị trường chính .............................................................................102

Bảng 2.7: Mức độ khó khăn của DN trong việc đáp ứng các RCKT ...................103

Bảng 2.8: Mức độ khó khăn mà DN phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật trên một

số thị trường chủ yếu ...........................................................................................104

Bảng 2.9: Mức độ đáp ứng của DN đối với các rào cản kỹ thuật..........................105

Bảng 3.1: Các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 theo mục tiêu .....................117

Bảng 3.2: Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030 ........................122

v

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1: Các loại rào cản kỹ thuật........................................................................31

Hình 1.2. Khung phân tích vượt RCKT đối với hàng dệt may XK .........................43

Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng DM VN trong giai đoạn 2007-2013 ......60

Hình 2.2. Áp dụng quy tắc xuất xứ không ưu đãi của Hải quan Hoa Kỳ ................69

Hình 2.3. Các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao

động trong DN.......................................................................................................82

Hình 3.1. Những vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT trong giai đoạn

1995-2012 ...........................................................................................................116

Hình 3.2. Mô hình chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu hàng DM.................................136

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong những năm đổi mới, cùng với các ngành kinh tế khác, ngành công

nghiệp DM đã có đóng góp đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm,

tăng thu nhập cho một bộ phận lớn người lao động. Hiện nay, DM là một trong hai

nhóm hàng XK chủ lực có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam. Năm 2012, kim ngạch

XK hàng DM đạt 15,1 tỷ USD, tăng 7,5 % so với năm 2011, chiếm trên 13% tổng

kim ngạch XK của cả nước. Năm 2013, kim ngạch XK DM đạt 20,020 tỷ đô la Mỹ.

Phát triển ngành công nghiệp DM đã được xác định là định hướng chiến lược quan

trong trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Thị trường XK hàng DM của Việt Nam hiện nay rất đa dạng trong đó phải

kể đến một số thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... Đây là những thị

trường phát triển, có đòi hỏi rất cao và nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm DM, về

an toàn sản phẩm tiêu dùng, về đảm bảo sức khỏe con người, động thực vật và bảo

vệ môi trường sinh thái. Trong những năm gần đây, trước những khó khăn của kinh

tế thế giới hậu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm

2008-2009, chính phủ nhiều nước, kể cả các thị trường lớn Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản

đã tăng cường áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại nhằm vực dậy nền kinh tế

của mình.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu sắc như hiện nay, xu hướng tự do hóa thương

mại ngày càng phát triển và đi liền với xu hướng đó là bảo hộ thương mại cũng gia

tăng như một thực tế khách quan. Khi tham gia hệ thống TMQT, song phương, khu

vực hay đa phương, các nước đều cam kết cắt giảm thuế quan nên việc bảo hộ thương

mại chủ yếu được thực hiện thông qua các biện pháp phi thuế quan, trong đó hệ thống

rào cản kỹ thuật được xem là biện pháp hữu hiệu nhất và ngày càng trở lên thông

dụng để ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ người

tiêu dùng và các lợi ích quốc gia. Trong khi việc đặt ra các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc,

các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm phù hợp nhằm ngăn chặn những hàng hóa kém

chất lượng, hàng hóa độc hại ảnh hưởng tới an toàn, sức khỏe con người, động thực

2

vật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, gây ô nhiễm môi trường tràn vào trong nước là

đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống thì không tránh khỏi việc các nước lợi dụng các biện

pháp, quy định kỹ thuật nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, ngăn chặn hàng nhập khẩu

cạnh tranh hơn từ nước ngoài, gây phương hại đến TMQT.

Các loại RCKT trong thương mại nói chung và đối với hàng DM nói riêng

được các nước áp dụng ngày càng nhiều hơn, cao hơn, tinh vi và phức tạp hơn. Trong

các FTA, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán, các quy định và tiêu chuẩn đối với

hàng DM cũng cao hơn so với WTO. Chẳng hạn, trong đàm phán Hiệp định đối tác

kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), đòi hỏi của Hoa Kỳ đối với xuất xứ hàng DM

rất ngặt nghèo (từ sợi trở đi - yarn forward),... Ngoài ra, các nước đàm phán TPP,

nhất là Hoa Kỳ cũng đặt ra những yêu cầu rất cao đối với vấn đề lao động và công

đoàn. Một khi TPP được ký kết, những quy định về xuất xứ hay về lao động và công

đoàn có thể trở thành những RCKT mới đối với XK hàng DM của Việt Nam.

Tính chất đa dạng, phức tạp của các RCKT và xu hướng gia tăng sử dụng

chúng của các thị trường nhập khẩu lớn hàng DM đang đặt ra những thách thức to lớn

đối với các nước XK hàng DM nói chung và Việt Nam nói riêng. Để hỗ trợ, tạo thuận

lợi cho XK hàng DM nước mình, chính phủ nhiều nước XK hàng DM lớn như Trung

Quốc, Ấn Độ,... đã nghiên cứu một cách hệ thống các RCKT do các nước nhập khẩu

dựng lên và có đối sách thích hợp giúp DN các nước này vượt rào cản thành công để

đẩy mạnh XK hàng DM.

Trên thưc tế, thời gian qua, được sự hỗ trợ của nhà nước, các DNDM Việt

Nam đã ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu kỹ thuật, các tiêu chuẩn của các

nước nhập khẩu đối với hàng DM. Có thể nói hàng DMXK của Việt Nam thời gian

qua đã đạt được thành tựu quan trọng trong vượt RCKT của các thị trường nhập

khẩu, sức cạnh tranh của hàng DMXK được nâng cao đã góp phần quan trọng đưa

kim ngạch XK hàng DM của Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong số các mặt hàng

XK chủ lực, đồng thời duy trì và mở rộng thị phần hàng DM Việt Nam trên các thị

trường chủ yếu Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn xảy ra một

số trường hợp hàng DMXK của Việt Nam không đảm bảo các yêu cầu về chất

lượng, an toàn, vệ sinh môi trường, một số trường hợp bị phía đối tác cảnh cáo, trả

3

lại hàng làm phương hại tới XK và uy tín của hàng DM Việt Nam. Đó là chưa kể

tới việc hàng DMXK của Việt Nam vẫn chủ yếu là hàng gia công, thực hiện chủ

yếu ở công đoạn may cuối cùng, còn phụ thuộc lớn vào mẫu mã, NPL nhập khẩu,

giá trị gia tăng và giá trị trong nước thấp, điều này sẽ là khó khăn thách thức lớn đối

với việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao của các thị

trường nhập khẩu, như quy định về xuất xứ ngặt nghèo trong TPP chẳng hạn, trong

khi lại có thể tạo ra những kẽ hở cho gian lận thương mại.

Trước sự gia tăng sử dụng RCKT của các thị trường nhập khẩu và năng lực

vượt RCKT còn hạn chế của Việt Nam cả ở tầm vĩ mô và DN, có thể ảnh hưởng lớn

đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển XK hàng DM thời gian tới, vấn đề nghiên

cứu một cách sâu sắc về hệ thống RCKT của các thị trường nhập khẩu đối với hàng

DMXK của Việt Nam đang đặt ra rất cấp thiết. Đó cũng chính là lý do tác giả lựa

chọn vấn đề “Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu và giải pháp của

Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các RCKT của

các nước nhập khẩu, năng lực vượt rào cản của hàng DMXK của Việt Nam nhằm

cung cấp luận cứ khoa học cho việc đàm phán, mở rộng tiếp cận thị trường cho

hàng DMXK và đề xuất các biện pháp vượt RCKT phù hợp nhằm đẩy mạnh XK

hàng DM, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược

phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ cơ sở khoa học (cả lý luận và thực tiễn) cho

việc đề xuất các giải pháp nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy

mạnh XK hàng DM của Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện những nhiệm

vụ chủ yếu sau:

Một là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về RCKT và vượt RCKT trong

XK hàng DM.

Hai là, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc

vượt qua RCKT thương mại đối với hàng DM và rút ra các bài học cho Việt Nam..

4

Ba là, phân tích và đánh giá thực trạng XK hàng DM của Việt Nam trong

những năm gần đây.

Bốn là, phân tích hệ thống RCKT của một số thị trường chủ yếu đối với mặt

hàng DMXK và tác động của RCKT đối với hàng DMXK củaVN; phân tích thực

trạng vượt RCKT của Việt Nam thời gian qua; đánh giá những thành tựu đạt được,

những bất cập và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế; xác định các yêu cầu cần

phải điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới về cơ chế, chính sách của Nhà nước, nhằm

tạo điều kiện thuận lợi cho hàng DMXK của Việt Nam vượt qua các RCKT.

Năm là, nghiên cứu, phân tích bối cảnh, triển vọng XK hàng DM Việt Nam đến

năm 2020, từ đó đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp cả ở tầm vĩ mô và vi

mô nhằm tăng cường năng lực vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu RCKT đối với hàng dệt may

xuất khẩu.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các RCKT đối với hàng DM

của các nước nhập khẩu, các chính sách và biện pháp mà Việt Nam đã áp dụng để

vượt qua các rào cản, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực vượt RCKT,

đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam

- Về không gian:

+ Nghiên cứu RCKT đối với hàng DM của 3 thị trường nhập khẩu chính

của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Các thị trường này chiếm khoảng 70% kim

ngạch XK hàng DM của Việt Nam.

+ Nghiên cứu năng lực vượt RCKT của hàng DMXK Việt Nam trên

phạm vi cả nước, cả tầm vĩ mô và vi mô (Nhà nước và DN).

- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng vượt RCKT giai đoạn từ năm 2007 -

2013 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn đến năm 2020. Đây là giai đoạn mà Việt

Nam chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam thực sự hội nhập sâu rộng

vào nền kinh tế thế giới, hàng DMXK phải đối mặt nhiều hơn với các rào cản phi

thuế quan nói chung và RCKT nói riêng.

5

Những phạm vi nói trên không làm ảnh hưởng đến kết quả tổng thể và mục

đích nghiên cứu của luận án.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có

được dữ liệu phản ánh một cách tổng hợp, khách quan, đa chiều về RCKT đối với

hàng DM Việt Nam và xác lập cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp vượt

RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam. Đó là các phương pháp sau:

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng làm rõ

bản chất đối tượng nghiên cứu, phân tích đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa

RCKT với tình hình XK hàng DM của Việt Nam.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu dùng để nghiên cứu cơ sở lý luận, văn

bản có liên quan, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, kinh nghiệm của

các nước, thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp.

Dữ liệu thứ cấp được thu thập và phân tích là những dữ liệu tổng quan về

tình hình XK của Việt Nam, thực trạng về RCKT tại các nước nhập khẩu chính,

thực trạng về việc áp dụng các biện pháp vượt rào của các DNDM Việt Nam.

Nguồn dữ liệu thứ cấp được công bố trong các báo cáo thường niên của văn

phòng TBT Việt Nam, Bộ Công thương, các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo

khoa học trong nước và quốc tế. Thông tin số liệu về ngành DM có thể tìm thấy

trong báo cáo phân tích ngành DM từng năm, chiến lược và chính sách phát triển

ngành DM Việt Nam, báo cáo tình hình XK hàng năm của tập đoàn DM Việt Nam.

Quy trình thu thập và phân tích dữ liệu như sau:

+ Liên hệ với các tổ chức cung cấp thông tin và tiến hành sao chép tài

liệu: Trong đó Bộ Công thương, văn phòng TBT Việt Nam, tập đoàn Dệt may Việt

Nam, Viện Dệt may Việt Nam là những đơn vị được tác giả nghiên cứu tiếp cận và

thu thập tài liệu.

+ Thu thập từ các nguồn thông tin đại chúng: Tìm kiếm dữ liệu mới nhất

trên các nguồn dễ tiếp cận như sách báo, tạp chí cả dưới dạng in ấn và trực tuyến.

Dạnh mục các tài liệu này được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo.

+ Kiểm tra dữ liệu: Dữ liệu thu thập từ các nguồn khác nhau được kiểm

tra theo các tiêu thức về tính chính xác, tính thích hợp và tính thời sự. Các dữ liệu

6

được đối chiếu và so sánh để có được sự nhất quán đảm bảo nội dung phân tích có

được độ tin cậy cao.

+ Tập hợp và phân tích dữ liệu theo mục tiêu đã xác định: Sau khi đã tập

hợp và sàng lọc, dữ liệu thứ cấp chủ yếu được sử dụng để hình thành cơ sở lý luận

cũng như tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về RCKT đối với hàng

DMXK (Chương 1 của luận án). Dữ liệu thứ cấp cũng là nguồn tài liệu quan trọng

để phân tích các nội dung về thực trạng của ngành DM Việt Nam, thực trạng về

RCKT và các biện pháp đối phó với rào cản của các DNDM Việt Nam thời gian

qua (Chương 2 của luận án). Bên cạnh đó, dữ liệu thứ cấp cũng cung cấp một số

thông tin cơ bản cho phần dự báo xu hướng, quan điểm và định hướng vượt RCKT

đối với hàng DMXK của Việt Nam (Chương 3 của luận án).

- Phương pháp điều tra khảo sát được sử dụng để nhận diện đúng về mức

độ quan tâm và nhận thức về RCKT của các DNDMVN, thực trạng đáp ứng; mức

độ hỗ trợ của chính phủ đối với DN (các biện pháp, chính sách).

+ Đối tượng điều tra khảo sát: các DNDM Việt Nam. Luận án sẽ tiến

hành khảo sát điển hình, lựa chọn khảo sát một số DN trên địa bàn các tỉnh là những

vùng có ngành DM phát triển.

+ Nội dung điều tra khảo sát: về nhận thức, thực trạng đáp ứng RCKT

của DN, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, kiến nghị của DN với Nhà nước…

+ Tổng hợp, phân tích và đánh giá: phân tích dữ liệu, đưa ra kết quả và

các nhận định theo từng nội dung khảo sát.

- Phương pháp so sánh, tổng hợp và dự báo dùng để làm rõ xu thế phát

triển của RCKT, năng lực đáp ứng của DN Việt Nam để vượt qua RCKT, xây dựng

báo cáo tổng hợp đề tài luận án…

- Phương pháp chuyên gia để tận dụng những kinh nghiệm, lựa chọn những

ý kiến tối ưu của họ nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu.

5. Những đóng góp mới của Luận án

Thứ nhất, Luận án có cách tiếp cận mới, các công trình nghiên cứu khoa học

trước đây thường nhìn nhận RCKT theo cách tiêu cực, còn luận án nghiên cứu theo

một hướng tích cực, coi RCKT là những quy định, tiêu chuẩn hợp lý, khoa học buộc

7

các quốc gia, các nhà nhập khẩu, xuất khẩu phải tuôn thủ. Theo đó, RCKT được

tiếp cận các quy định, tiêu chuẩn từ hai phía trong mối quan hệ giữa các quốc gia

nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa (nước đặt ra RCKT và nước chịu tác động của

RCKT), trên bình diện vĩ mô và vi mô (Nhà nước và doanh nghiệp).

Thứ hai, Luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về

rào cản kỹ thuật và vượt RCKT trong thương mại đối với hàng dệt may xuất khẩu,

đã luận giải khái niệm về RCKT và thể hiện rõ quan điểm của mình trong sử dụng

cách phân loại RCKT chính đối với hàng dệt may xuất khẩu; đưa ra phương thức

vượt rào cản kỹ thuật theo hướng tích cực, tôn trọng lợi ích của đối tác; đề xuất mô

hình vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu; phân tích xác thực các nhân tố

ảnh hưởng đến khả năng vượt rào của các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may.

Thứ ba, Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt RCKT đối với hàng dệt

may xuất khẩu của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan từ 2 phía Nhà

nước và doanh nghiệp để rút ra những bài học cho Nhà nước và các DNDM của

Việt Nam.

Thứ tư, Luận án đã đánh giá thực trạng sử dụng RCKT của các quốc gia

nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK hàng DM của Việt Nam. Phân tích,

đánh giá về năng lực đáp ứng và những biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với

hàng dệt may xuất khẩu của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam thông qua

các tư liệu, số liệu thứ cấp, điều tra, khảo sát… thời gian qua, chỉ ra những mặt

được, những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong việc áp dụng các biện

pháp vượt rào cản. Đây là cơ sở thực tiễn để các cơ quan nghiên cứu và quản lý nhà

nước, các doanh nghiệp dệt may làm căn cứ để đưa ra các quyết định hợp lý nhằm

vượt RCKT trong thời gian tới.

Thứ năm, dựa trên những đánh giá về thực trạng vượt RCKT đối với hàng

dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua, xu hướng phát triển và khả năng áp

dụng rào cản kỹ thuật ở các thị trường xuất khẩu chính đối với hàng dệt may Việt

Nam, luận án đã đề xuất 4 quan điểm; 2 nhóm định hướng lớn vượt RCKT từ phía

Nhà nước và doanh nghiệp; đồng thời đề xuất các nhóm giải pháp chung vượt qua

8

các loại RCKT và các giải pháp vượt từng RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu

của Việt Nam đến năm 2020.

6. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan các công trình nghiên cứu, Kết luận, Danh

mục tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, nội dung chính của Luận án được trình bày

theo 3 Chương như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận về rào cản kỹ thuật và vượt rào cản kỹ thuật trong

xuất khẩu hàng dệt may.

Chương 2. Thực trạng rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của

Việt Nam và các biện pháp áp dụng để vượt rào cản.

Chương 3. Quan điểm, phương hướng và giải pháp vượt rào cản kỹ thuật để

đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2020.

9

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Trong bối cảnh kinh tế thế giới toàn cầu hóa sâu sắc và KHCN phát triển

vượt bậc như hiện nay, các RCTM nói chung và RCKT thương mại nói riêng cũng

ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. RCKT thương mại là một trong những

vấn đề lớn của TMQT ngày nay, được quan tâm nghiên cứu cả ở trong và ngoài

nước. Tổ chức Thương mại thế giới có Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật thương mại

- TBT, Hiệp định về các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật - SPS nhằm

hạn chế việc các nước lợi dụng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật và các quy định

SPS để bảo hộ thương mại, cản trở tự do thương mại; các hiệp định thương mại tự

do song phương (FTAs) và khu vực (RTAs) đều có những quy định về TBT và

SPS, v.v nhằm tạo thuận lợi cho thương mại. Các nước thành viên WTO và các hiệp

định tự do thương mại song phương và khu vực khác đều có các Văn phòng TBT và

SPS để theo dõi, giám sát, điều phối và hợp tác thực hiện TBT và SPS,... Rất nhiều

công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về RCKT thương mại đã được thực hiện.

Sau đây là một số công trình tiêu biểu có liên quan nhiều tới vấn đề nghiên cứu của

đề tài luận án:

1.1. Các nghiên cứu của nước ngoài

Ở nước ngoài, từ trước tới nay các công trình nghiên cứu có thể được

khái quát qua các nội dung sau:

- Khái niệm RCKT và các tác động của nó được đề cập qua những nghiên

cứu về rào cản thương mại, rào cản phi thuế quan như của Baldwin (1970) trong

cuốn “Sự biến dạng phi thuế quan trong Thương mại quốc tế”, hay của Philippa

Dee (2005) trong “Các phương pháp xác định ảnh hưởng của các biện pháp phi

thuế quan...”. Ngoài ra, các khái niệm và nội dung tổng quan về RCKT cũng

được trình bày một cách khái quát trong các tài tiệu của các Tổ chức và Diễn đàn

Kinh tế Quốc tế như WTO, OECD, PECC. Sâu hơn về RCKT có nghiên cứu của

tác giả Keith E. Maskus với “Quantifying the Impact of Technical Barriers to Trade,

10

a Framework for Analysis”. Bài viết đã cung cấp cái nhìn tổng quan về phương

pháp luận của các RCKT đối với thương mại, các hàng rào phi thuế quan là mối

quan tâm đặc biệt đối với nước đang phát triển; Xiaohua Bao và Larry D. Qiu với

bài viết “Do Technical Barriers to Trade Promote or Restrict Trade? evidence from

China”, Asia Pacific of Accounting and Econimic, số 17/2010. Nghiên cứu này

khẳng định TBT đã được coi là một trong những rào cản phi thuế quan khó khăn

nhất (NTBs) để định lượng. Tác giả xây dựng một cơ sở dữ liệu TBT từ 1998-2006

để kiểm tra ảnh hưởng của TBT Trung Quốc đối với hàng hóa nhập khẩu.

Một số công trình cũng nghiên cứu cụ thể hơn về hệ thống RCKT riêng

có đối với hàng dệt may xuất khẩu của quốc gia mình và có những giải pháp đề

xuất nhằm đẩy mạnh xuất khẩu như: Ningchuan Jiang“Effect of Technical Barriers

to Trade on Chinese Textile Product Trade” đăng trên tạp chí International Business

Reseach tháng 7/2008. Bài viết này xem xét lại các khái niệm và nội dung của các

RCKT đối với thương mại, đánh giá tác động của hàng rào kỹ thuật đối với thương

mại trong lĩnh vực sản phẩm DM của Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, đối với DM

Trung Quốc và đề xuất các biện pháp đối phó với các RCKT. Tác giả Sangeeta

Khorana đã nghiên cứu “Barriers to exporting to the EU: evidence from textiles and

leather goods firms in india”, School of Management and Business, United

Kingdom. Dựa trên các nghiên cứu cơ bản, tác giả phân tích rào cản đối với hàng

DM của Ấn Độ và các công ty may mặc và da giày XK sang Liên minh châu Âu

(EU)….

Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của nước ngoài còn chưa được phân tích

một cách có hệ thống về RCKT và cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào đề cập

đến RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam

1.2. Các nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học của các Bộ, Ngành,

các Trường Đại học, Viện nghiên cứu đã đề cập đến RCKT trên các nội dung

chính sau:

11

Về khái niêm và phân loại RCKT: Đã có khá nhiều nghiên cứu, bài viết, tài

liệu giảng dạy đề cập tới RCKT trong TMQT, trong đó đã đưa ra những khái niệm

và các cách phân loại về RCKT.

Trong báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ do TS Nguyễn Thị Mão chủ

trì thực hiện năm 2001 “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và

những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt nam”, TS Bùi

Thị Lý “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi doanh nghiệp Việt

Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát triển” Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ năm 2005; kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ 2009 của tác giả

Hoàng Thị Vân Anh “Nghiên cứu tác động ảnh hưởng của hàng rào kỹ thuật thương

mại (TBT) Nhật Bản đối với xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam và

giải pháp khắc phục” những vấn đề cơ bản của RCKT đã được trình bày cụ thể, rõ

ràng. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác về rào cản thương mại, rào cản

phi thuế quan cũng đề cập đến khái niệm, nội dung của RCKT - một trong những

rào cản phức tạp nhất trong thương mại quốc tế như kết quả nghiên cứu của tác giả

Đào Thị Thu Giang “Các biện pháp vượt rào cản phi thuế quan trong trong thương

mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt nam”, Luận án Tiến sĩ

kinh tế năm 2009; các công trình của PGS.TS Đinh Văn Thành “Nghiên cứu các

rào cản trong thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”,

NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2005; “Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng

nông sản trong thương mại quốc tế”, đề tài NCKH cấp Bộ năm 2004; nghiên cứu

“Đáp ứng rào cản phi thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu bền vững hàng thủy sản của

Việt Nam” của GS.TS Đỗ Đức Bình và Bùi Huy Nhượng, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia năm 2009. Một số giáo trình giảng dạy ở các trường đại học trong khối

kinh tế cũng đã được biên soạn và trình bày những nội dung cơ bản liên quan tới

RCKT như: Giáo trình thương mại quốc tế của Trường Đại học Mở thành phố Hồ

Chí Minh của Ths.Đinh Thị Liên và TS. Đoàn Thị Mỹ Hạnh biên soạn và phát hành

năm 2009, Giáo trình thương mại quốc tế của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà

Nội tái bản năm 2010 của PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn…

12

Về thực trạng và khả năng vượt rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế

của Việt Nam.

Hầu hết các công trình đã nghiên cứu về RCKT đều tập trung làm rõ thực

trạng vượt RCKT đối với hàng hóa xuất khẩu trong phạm vi nghiên cứu của từng

tác giả. Cụ thể là: trong nghiên cứu “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại

quốc tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt

nam” của TS. Nguyễn Thị Mão, tác giả đã phân tích thực trạng vượt RCKT trong

TMQT ở Việt Nam, nghiên cứu cũng cho thấy các DN lựa chọn các hệ thống chất

lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, TQM, HACCP.... hoặc hệ thống chất lượng theo

tiêu chuẩn “Giải thưởng chất lượng Việt Nam”. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra

rằng: vẫn còn nhiều DN chưa mạnh dạn áp dụng do chưa thấy hiệu quả kinh tế thực

sự hoặc chưa phải thực sự đối đầu với thị trường thế giới, hoặc do chi phí quá lớn,

chưa đủ nguồn nhân lực có kiến thức, chưa có kinh nghiệm trong tổ chức quản lý hệ

thống chất lượng, vai trò còn nhiều chậm trễ...đồng thời, tác giả cũng phân tích

nguyên nhân của những hạn chế trong việc vượt RCKT của các DN Việt Nam. TS.

Bùi Thị Lý trong nghiên cứu “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại

khi doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát

triển” đã chỉ rõ những quy định về RCKT thương mại của một số nước phát triển

như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Phân tích những tác động của RCKT thương mại đối

với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. Từ những phân tích này, đề tài

cũng chỉ ra nguyên nhân của những tác động đó. Trong một số công trình của

PGS.TS Đinh Văn Thành về rào cản thương mại và rào cản phi thuế quan, tác giả

đã nghiên cứu, đánh giá tác động và rút ra các vấn đề giải quyết trước thực trạng

các RCTM của một số nước là thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam như Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia; hệ thống hóa và phân tích các loại rào cản

có liên quan trực tiếp đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, phân tích chi tiết và

thực trạng các loại rào cản thuế quan và phi thuế quan hiện nay ở nước ta, chỉ rõ

mặt được, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng. Với luận án “Các biện pháp vượt

rào cản phi thuế quan trong trong thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu

hàng hoá của Việt nam” của TS. Đào Thị Thu Giang, tác giả đã thu thập các số liệu

13

từ nguồn thông tin thứ cấp và sơ cấp để tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng

năng lực vượt qua rào cản phi thuế quan của các DN xuất khẩu Việt Nam. Phần lớn

các rào cản phi thuế quan đã đánh vào các điểm yếu của hàng hoá Việt Nam. Các

nước nhập khẩu đã tìm hiểu và phân tích rất sâu sắc hàng hoá nhập khẩu nói chung

và Việt Nam nói riêng trước khi đưa ra các rào cản phi thuế quan. Các DN Việt

Nam đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường

nhập khẩu. Tuy vậy, những hạn chế về năng lực cạnh tranh về nguồn nguyên liệu,

nhân lực, công nghệ của các DN đã làm cho xuất khẩu hàng hoá bị ảnh hưởng bởi

các rào cản này. Những yếu kém trong tổ chức phối hợp công tư, phối hợp giữa các

DN, vai trò hạn chế của các hiệp hội và các cơ quan Chính phủ đã làm giảm khả

năng vượt rào của hàng hoá và các DN Việt Nam. Ngoài ra, một số tác giả khác

cũng đề cập đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng hóa xuất khẩu của

Việt Nam như nghiên cứu của GS.TS Đỗ Đức Bình phân tích thực trạng vượt rào

cản phi thuế quan cho hàng thủy sản của Việt Nam, vượt rào cản môi trường của

hàng hóa sang EU, nghiên cứu của TS. Nguyễn Hoàng khi hàng hóa xuất khẩu sang

thị trường Mỹ, tạp chí nghiên cứu TCKT số 2 - 2010, vvv,.....Một số chuyên đề

nghiên cứu, bài báo đăng trên các tạp chí và một số tham luận tại Hội thảo khoa học

về RCTM, RCKT đối với hàng hóa xuất khẩu, các biện pháp thuế quan và phi thuế

quan, về bảo hộ sản xuất trong nước.

- Các nghiên cứu về giải pháp vượt rào cản : Rất nhiều công trình nghiên

cứu đã đưa ra các giải pháp nhằm tăng năng lực vượt rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu

hàng hóa, trong đó có một số công trình tiêu biểu của các tác giả như PGS.TS Đinh

Văn Thành, TS.Đào Thị Thu Giang, TS. Nguyễn Thị Mão, GS.TS Đỗ Đức Bình với

các nghiên cứu đã nêu ở trên đều có những đề xuất về các giải pháp vượt rào, đó là:

tăng cường tuyên truyền thông tin về các RCKT, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nâng

cao năng lực nội tại, hoàn thiện các tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với quốc tế....Bên

cạnh đó, cũng có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành đã nghiên cứu những

giải pháp vượt rào cho một số ngành hàng của Việt Nam vào một vài thị trường

xuất khẩu lớn như Nguyễn Kim Định (2006), “Doanh nghiệp làm thế nào để có thể

vượt được các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế?”, tạp chí kinh tế

14

phát triển; Nguyễn Hoàng (2010), “Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi

doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ”, tạp chí nghiên

cứu tài chính kế toán, số 02(79); Nguyễn Xuân Minh (2011), “Vượt qua rào cản -

đẩy mạnh xuất khẩu năm 2011 - 2012”, tạp chí thương mại số 26; Trần Quốc Trung

(2011),“Giải pháp ứng phó với rào cản kỹ thuật mới trong xuất khẩu thủy sản”, tạp

chí thương mại số 27....

2.

NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN.

Theo NCS được biết và tiếp cận, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một

công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về các RCKT đối

với mặt hàng DMXK của Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trước đây tập trung

nhiều vào nghiên cứu những RCTM cho các mặt hàng XK của Việt Nam nói chung

hoặc rào cản phi thuế quan cho một mặt hàng nhất định mà chưa đi sâu phân tích

RCKT hàng dệt may Việt Nam. Hệ thống các giải pháp cũng còn mang tính định

hướng, chung cho các mặt hàng. Một số nghiên cứu đã tìm hiểu về RCKT nhưng

chưa đầy đủ, toàn diện và nhất là những nghiên cứu này chưa phản ánh và cập nhật

được những diễn biến mới nhất về RCKT - một lĩnh vực thường xuyên, liên tục

xuất hiện vấn đề mới. Những vấn đề còn tồn tại của các nghiên cứu có liên quan là:

- Về khái niệm và cách phân loại RCKT: Mặc dù có rất nhiều cách định

nghĩa và phân loại RCKT nhưng các nghiên cứu trước đây vẫn chưa làm rõ tính

chất, mức độ của RCKT và RCKT đối với hàng DMXK, đồng nhất RCKT với các

biện pháp kỹ thuật, nhìn nhận RCKT mang tính tiêu cực, phi lý mà chưa thấy được

trong thực tiễn có RCKT mang tính khách quan, khoa học, hợp lý. Thực tế cho thấy,

trong khi thừa nhận sự cần thiết khách quan của việc tồn tại các rào cản kỹ thuật

trong thương mại để ngăn chặn nhập khẩu hàng hóa độc hại, hàng hóa không đảm

bảo chất lượng ảnh hưởng tới an toàn sức khỏe con người và động thực vật, gây ô

nhiễm, suy thoái môi trường, phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì các

RCKT do từng quốc gia đưa ra nhiều khi ngặt nghèo quá mức cần thiết nhằm bảo

hộ thương mại, gây cản trở cho hàng hóa XK của nước ngoài. Hơn nữa, cùng với

thời gian và sự phát triển không ngừng của kinh tế thế giới, của khoa học, kỹ thuật

15

và công nghệ, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, các

RCKT cũng có xu hướng ngày càng cao hơn, tinh vi, phức tạp hơn.

Việc phân loại RCKT cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, việc phân loại

RCKT tập trung vào các tiêu chí đối với sản phẩm cụ thể, ngày nay người ta còn

quan tâm đến quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm, vấn đề an

toàn sức khỏe người tiêu dùng, an toàn môi trường, trách nhiệm xã hội trong quá

trình sản xuất sản phẩm, bên cạnh đó là những quy định về ghi nhãn hàng hóa là

vấn đề rất được quan tâm. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực,

tiến tới ký kết Hiệp định (TPP) thì các quy định về nguồn gốc xuất xứ để bảo vệ

người tiêu dùng được các nước nhập khẩu đặc biệt chú trọng.

- Nội dung của vượt RCKT đối với hàng hóa nói chung và hàng dệt may xuất

khẩu nói riêng cũng chưa được các nghiên cứu trước đề cập đầy đủ: Đã có một số

công trình nghiên cứu về giải pháp vượt rào cản thương mại, vượt rào cản phi thuế

quan đối với hàng hóa nói chung và hàng nông thủy sản nói riêng nhưng cho đến

nay chưa có công trình nào nghiên cứu về các phương thức vượt RCKT đối với

hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. Các nhân tố

ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam

cũng chưa có nghiên cứu nào đề cập.

- Việc phân tích, đánh giá năng lực vượt rào và thực trạng đáp ứng RCKT

của hàng DMXKVN cũng chưa được làm rõ. Các nghiên cứu liên quan chỉ mới đề

cập đến vấn đề RCKT đối với hàng hóa XK trong đó lấy một số mặt hàng XK chủ

lực của Việt Nam để phân tích. Chưa có một nghiên cứu sâu nào ở trong nước về

RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam. Một số nghiên cứu của nước ngoài phân

tích về RCKT đối với hàng DM nhưng lại dựa trên những thực tiễn của Trung Quốc

hoặc Ấn Độ, hơn nữa thời gian nghiên cứu cách đây cũng khá lâu, NCS chỉ có thể

tham khảo để xử lý các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Các nghiên cứu liên quan

cũng đã phân tích, đánh giá tác động của RCTM, rào cản phi thuế quan đến hàng

hóa XK ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nhưng cho đến nay chưa có công trình

nghiên cứu khoa học nào phân tích thực tiễn, đánh giá tác động của RCKT cũng

16

như chưa đề cập sâu sắc, đầy đủ và hệ thống các biện pháp vượt rào đối với hàng

DMXK của Việt Nam thời gian qua. Vì vậy, có thể nói, vấn đề nghiên cứu của đề

tài có tính mới, tính hệ thống, chuyên sâu và cập nhật được những diễn biến và xu

hướng mới nhất về RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam.

- Về giải pháp vượt RCKT đối với hàng dệt may XK của Việt Nam: Cho đến

nay, chưa có công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập một cách hệ thống và đầy

đủ các giải pháp vượt RCKT của các nước cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt

Nam. Vì vậy, đây cũng chính là một nội dung mới và khác biệt của đề tài luận án,

góp phần tạo giá trị gia tăng cho luận án tiến sĩ này.

Do chưa có công trình trong và ngoài nước nào nghiên cứu một cách hệ

thống, chuyên sâu và cập nhật về RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam, luận án

sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề này, tập trung vào những nội dung chính sau:

+ Hệ thống hóa và làm rõ thêm lý luận về RCKT và vượt RCKT đối với

hàng DMXK. Cụ thể: Luận án đưa ra quan điểm riêng về khái niệm và cách phân

loại mới về RCKT và RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu trong bối cảnh hiện

nay; khái niệm và các phương thức vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu;

các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào của một quốc gia; nghiên cứu kinh

nghiệm của các nước trên thế giới về vượt RCKT cho hàng DMXK trên cả hai góc

độ Nhà nước và DN, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho các cơ quan QLNN và

DNDM Việt Nam

+ Phân tích, đánh giá thực trạng RCKT và các biện pháp vượt RCKT đối

với hàng DMXK của các cơ quan QLNN và các DNDM Việt Nam thời gian qua,

kết quả đạt được, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân.

+ Đề xuất có căn cứ khoa học các giải pháp đối với Nhà nước và các

DNDM Việt Nam nhằm đáp ứng và vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu

trên thế giới, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam.

17

PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY

1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ

THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.

1.1.1. Khái niệm rào cản kỹ thuật

Trong đời sống xã hội, thuật ngữ “rào cản” được hiểu là tất cả những gì gây

cản trở, khó khăn cho hoạt động tiếp cận một đối tượng nào đó. Còn trong lĩnh vực

thương mại quốc tế, thuật ngữ “rào cản” được hiểu là những quy định, biện pháp,

chính sách của một quốc gia nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, bảo đảm an toàn sức

khỏe con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và các lợi ích quốc gia, gây khó

khăn, cản trở tiếp cận thị trường quốc gia đó của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài.

Trên thực tế, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, việc trao đổi hàng

hoá, dịch vụ đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới và phúc lợi cho toàn

nhân loại. Phấn đấu cho nền thương mại tự do toàn cầu là mục tiêu của nhiều quốc

gia và của hệ thống thương mại đa phương của WTO. Trong hoạt động này, nước

xuất khẩu và nước nhập khẩu có thể thực hiện hoàn toàn theo năng lực của mình để

đạt được mong muốn từ mức thấp nhất đến cao nhất phù hợp với mục tiêu đặt ra.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan và chủ quan, đặc biệt là

do trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều giữa các nước mà các biện

pháp bảo hộ ra đời. Các biện pháp này được thể hiện qua các quy định, tiêu chuẩn

do nước nhập khẩu đặt ra nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ người tiêu

dùng, bảo vệ môi trường và người lao động....Các quy định và tiêu chuẩn này sẽ có

những mức độ cao, thấp khác nhau, khách quan hay chủ quan, hợp lý hay không

hợp lý là tùy thuộc vào quan điểm của nước nhập khẩu (nước đặt ra quy định) và

đối tượng chịu ảnh hưởng của các quy định đó (nước xuất khẩu) dựa trên cơ sở

những nguyên tắc và quy định của WTO và các chuẩn mực quốc tế khác mà các bên

cam kết.

18

Như vậy, bất kỳ một quy định, tiêu chuẩn nào cũng có thể được xem là rào

cản, chỉ khác biệt ở mức độ cao hay thấp, hợp lý hay không hợp lý, khách quan hay

không khách quan. Tác giả đã tiếp cận với các quy định, tiêu chuẩn từ hai phía

trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và

thấy rằng:

Xét về tính chất của rào cản:

- Với các quy định, tiêu chuẩn chỉ phù hợp với lợi ích của nước nhập khẩu

nhưng không phù hợp với nước xuất khẩu: có sự mâu thuẫn lợi ích, có lợi cho nước

đặt ra quy định nhưng thiệt hại cho nước xuất khẩu (nước chịu tác động). Các quy

định này được cho là không khách quan, không hợp lý.

- Với các quy định, tiêu chuẩn phù hợp với lợi ích của cả nước nhập khẩu và

nước xuất khẩu: biện pháp này được cho là hợp lý mang tính khách quan, khoa học,

hai bên cùng có lợi.

Trong mối quan hệ hai bên, thì luôn xuất hiện mâu thuẫn giữa nước đặt ra

quy định, tiêu chuẩn với nước phải thực hiện. Nếu trình độ phát triển của hai nền

kinh tế tương đương nhau thì mức độ mâu thuẫn sẽ dễ có tiếng nói chung; nếu trình

độ phát triển kinh tế không ngang nhau thì các quy định, tiêu chuẩn mà nước nhập

khẩu đặt ra sẽ được đánh giá ở mức độ cao. Căn cứ để các quốc gia đánh giá mức

độ rào cản là cao hay thấp là:

- Đối với nước nhập khẩu: Căn cứ vào yêu cầu và mục tiêu bảo vệ lợi ích của

quốc gia mình trong mối liên hệ với hiệu quả kinh tế xã hội toàn diện, những mong

muốn đạt được khi đặt ra các quy định, tiêu chuẩn.

- Đối với nước xuất khẩu (nước chịu tác động từ các quy định, tiêu chuẩn):

Căn cứ vào mong muốn, mục tiêu xuất khẩu hàng hóa, năng lực sản xuất và tiêu

thụ, trình độ phát triển của nền kinh tế và lợi ích của quốc gia mình trong quá trình

trao đổi hàng hóa, dịch vụ.

Trong hoạt động thương mại quốc tế, rào cản thương mại bao gồm rào cản

thuế quan và rào cản phi thuế quan .

Rào cản thuế quan là rào cản truyền thống, sử dụng các biện pháp thuế mà

chủ yếu là mức thuế cao đánh vào hàng hóa nhập khẩu. WTO thừa nhận và cho

19

phép các nước thành viên được sử dụng rào cản thuế quan để bảo hộ, nhưng phải

ràng buộc và giảm dần để đảm bảo minh bạch và tự do hóa thương mại.

Tất cả các biện pháp không phải là thuế quan, được qui định cụ thể trong hệ

thống chính sách luật pháp hay phát sinh từ thực tiễn quản l ý hoạt động thương mại,

có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thì được gọi là các biện pháp phi thuế quan.

Các biện pháp phi thuế như hạn chế định lượng, các biện pháp mang tính thủ tục

hành chính, các biện pháp kỹ thuật... Khi một biện pháp phi thuế quan được áp

dụng gây cản trở cho thương mại mà không giải thích được theo bất kỳ một định

chế hay nguyên tắc nào của WTO thì biện pháp đó được coi là một rào cản phi thuế

quan gây cản trở hay bóp méo thương mại.

Trong các loại rào cản phi thuế quan thì RCKT được các nước sử dụng nhiều

nhất. RCKT thương mại ngày nay không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia nói riêng

mà mang tính toàn cầu. Có rất nhiều cách nhìn nhận và định nghĩa khác nhau về

thuật ngữ RCKT thương mại.

Theo cách tiếp cận của WTO trong Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong

thương mại - TBT, các “hàng rào kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to

trade) là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng

hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập

khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ

thuật - biện pháp TBT). Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và

hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường,

an ninh,... Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống

các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu.

Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm

ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để

bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá

nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “RCKT

đối với thương mại”. Phụ lục I của Hiệp định TBT của WTO cũng định nghĩa rõ:

(1) Quy định kỹ thuật (technical regulations): Là tài liệu chứa đựng đặc tính

của sản phẩm hoặc quy trình và các phương pháp sản xuất có liên quan, gồm có các

20

quy định về hành chính được áp dụng một cách bắt buộc. Chúng có thể bao gồm tất

cả hoặc chỉ liên quan riêng đến thuật ngữ chuyên môn, các biểu tượng, yêu cầu về

bao bì, mã hiệu hoặc nhãn hiệu được áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc

phương pháp sản xuất.

(2) Tiêu chuẩn (technical standards): Là tài liệu được chấp nhận bởi một tổ

chức được công nhận, đề ra, để sử dụng chung và nhiều lần, các quy tắc, hướng dẫn,

hoặc đặc tính của sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất sản phẩm

đó mà việc thực hiện là không bắt buộc. Nó cũng có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ

liên quan đến một trong các yếu tố như: thuật ngữ chuyên môn, biểu tượng, yêu cầu

về bao bì, mã hiệu, hoặc nhãn hiệu được áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc

phương pháp sản xuất.

(3) Các thủ tục đánh giá sự phù hợp (conformity assessment procedure): là

bất cứ thủ tục nào, áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để xác định xem các yêu cầu có

liên quan trong các quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật có được thực hiện hay không.

Các thủ tục đánh giá tính phù hợp bao gồm có các thủ tục về chọn mẫu, thử nghiệm,

và kiểm tra; đánh giá, thẩm định và đảm bảo tính phù hợp; đăng ký, công nhận và

chấp nhận cũng như là sự kết hợp của chúng.

Hiệp định TBT thừa nhận việc các nước áp dụng các biện pháp kỹ thuật

trong TMQT là cần thiết và hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu được cho là hợp

pháp như các yêu cầu vì an ninh quốc phòng, ngăn chặn hành vi lừa đảo, bảo vệ sức

khoẻ và tính mạng con người, bảo vệ sức khỏe và an toàn động thực vật, bảo vệ môi

trường, v.v, đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước

thành viên WTO sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ bằng

cách đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ

khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình đánh

giá hợp chuẩn, hợp quy của sản phẩm hàng hóa.

Bên cạnh đó, còn rất nhiều cách nhìn nhận và định nghĩa khác về RCKT.

Trong nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học Thornsbusy, Robert và DeRemer

đã đưa ra định nghĩa sau về RCKT trong TMQT: “Rào cản kỹ thuật trong thương

mại quốc tế là tất cả các quy định kỹ thuật (technical regulations), các tiêu chuẩn

21

(standards) khác nhau trên thế giới quy định cho sản phẩm liên quan đến tất cả các

quá trình từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng một sản phẩm nhằm mục đích ngăn

chặn hàng hóa từ nước khác xâm nhập thị trường trong nước”[53].

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD năm 1997 cũng đưa ra định

nghĩa riêng về RCKT trong TMQT, đó là “các quy định mang tính chất xã hội, là

các quy định do một nhà nước đưa ra nhằm đạt được các mục tiêu về sức khỏe, an

toàn, chất lượng và đảm bảo môi trường; căn cứ vào RCKT thương mại, người ta

có thể nhận thấy các mục tiêu này thông qua việc một nước ngăn cản hàng hóa

không đảm bảo chất lượng nhập khẩu vào nước mình.” Hiện tại, RCKT thương mại

là một trong ba biện pháp hạn chế thương mại được áp dụng rất hiệu quả tại các

nước trên thế giới [42].

“Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế là một hình thức bảo hộ mậu

dịch thông qua việc nước nhập khẩu đưa ra các yêu cầu về tiêu chuẩn hết sức khắt

khe đối với hàng hóa nhập khẩu. Các tiêu chuẩn này có thể liên quan đến tất cả các

quá trình của sản phẩm, từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng. Hàng hóa nếu không

đạt được các tiêu chuẩn trên sẽ không được phép nhập khẩu vào lãnh thổ của nước

nhập khẩu” [28].

Mặc dù đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về RCKT, song theo tác giả

có thể hiểu như sau: Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế là những quy định,

tiêu chuẩn, biện pháp kỹ thuật do nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản những

hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu vào thị trường

nước nhập khẩu.

Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn, sức khoẻ

của con người, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn

chặn các hành vi lừa dối. Tuy nhiên, trên thực tế, do sự chênh lệch về trình độ phát

triển nên những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến kỹ thuật thường rất cao và

nghiêm ngặt của các nước phát triển đã tạo ra những cản trở rất lớn nhất đối với

việc tiếp cận các thị trường nước ngoài của các nước đang và kém phát triển vì

những nước này chưa có đủ trình độ và kỹ năng về KHCN để đáp ứng những yêu

cầu kỹ thuật cao đó. Các nước phát triển cũng thường yêu cầu các nước đang và

22

kém phát triển phải thực hiện các quy định rất chặt chẽ liên quan tới môi trường và

nhiều khi còn yêu cầu các nước này phải xuất trình trước các sản phẩm mẫu để họ

kiểm tra, thử nghiệm,.... Điều này đã làm phức tạp thêm rất nhiều các thủ tục kiểm

tra và chứng nhận sản phẩm XK để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng các yêu

cầu kỹ thuật đặt ra. Có thể nói, RCKT là một công cụ bảo hộ thương mại hết sức

tinh vi và hiệu quả và rất được các nước phát triển sử dụng.

Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng:

Thứ nhất, về nhận thức, cần phải thấy rằng trong thực tiễn TMQT có các rào

cản hợp lý mang tính khách quan, khoa học và rào cản phi lý thiếu tính khách quan

và chưa thực sự có căn cứ khoa học. Rào cản hợp lý, khoa học và khách quan là

những quy định buộc các nước tham gia phải tuân thủ và đáp ứng. Còn rào cản phi

lý, thiếu khách quan nhiều khi lại coi trọng hạn chế, áp đặt và trừng phạt các đối tác

thương mại, do đó buộc các nước tham gia trao đổi thương mại với nhau phải đàm

phán, mặc cả để giảm thiểu thậm chí phải dỡ bỏ.

Thứ hai, cần phân định giữa biện pháp kỹ thuật và RCKT. Trong khi việc các

nước áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích hợp là sự cần thiết khách quan để bảo

đảm an toàn sức khoẻ con người và động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa

các hành động xấu...được quốc tế thừa nhận thì những biện pháp kỹ thuật tinh vi,

phức tạp, vượt quá mức cần thiết gây cản trở bất hợp lý cho TMQT trở thành các

RCKT mà các nước dùng để bảo hộ thương mại. Chính vì vậy, trong Hiệp định về

Hàng rào kỹ thuật trong thương mại -TBT, WTO yêu cầu các qui định kỹ thuật, tiêu

chuẩn cũng như thủ tục để đánh giá sự phù hợp với các qui định kỹ thuật và tiêu

chuẩn này không được tạo ra các trở ngại không cần thiết đối với TMQT, phải đảm

bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đãi ngộ quốc gia, phải minh bạch và tiến

tới hài hoà hoá. Nhưng các thành viên có thể đưa ra các biện pháp cần thiết để bảo

vệ môi trường, sức khoẻ con người và động thực vật, ngăn ngừa các hành động

xấu... được cho là thích hợp, với điều kiện là các biện pháp đó không được áp dụng

theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện, hay hạn chế vô lý đối với TMQT.

Thứ ba, phải thừa nhận trên thực tế, việc phân định giữa biện pháp kỹ thuật

và RCKT thương mại là rất khó khăn, phức tạp và cần đến sự hỗ trợ của các chuyên

23

gia. Chính sự khó khăn, phức tạp này cùng với sự chênh lệch về trình độ phát triển

giữa các quốc gia đã tạo điều kiện cho các nước, nhất là các nước phát triển ngày

càng tăng sử dụng RCKT thương mại như một công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản xuất

trong nước, gây khó khăn cản trở cho việc tiếp cận thị trường nước ngoài của các

nước đang và kém phát triển. Tuy nhiên, sự phân định này lại là cần thiết và rất có ý

nghĩa đối với các nhà XK trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chống lại

những RCKT phi lý, cản trở và bóp méo thương mại.

Thứ tư, hàng rào kỹ thuật và RCKT là hai phạm trù khác nhau. RCKT đối

với hàng nhập khẩu nói chung, hàng dệt may nói riêng là do từng quốc gia, khu vực

thị trường đưa ra. Mặc dù các RCKT này dựa trên các quy định quốc tế, nhưng vẫn

có những quy định, tiêu chuẩn riêng có thể cao hơn, rộng hơn, có thể có điểm phi lý

hơn, thậm chí mâu thuẫn, trái với các quy định quốc tế. Những điểm mâu thuẫn, phi

lý, hoặc trái với quy định quốc tế thì các quốc gia tham gia hợp tác phải đàm phán,

thỏa thuận để điều chỉnh, thậm chí phải dỡ bỏ để đạt mục tiêu thuận lợi hóa thương

mại. Còn hàng rào kỹ thuật là do Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đưa ra. Đây

là một trong số các hiệp định mà hàng trăm nước thành viên của WTO đã cam kết

và thực thi. Tuy nhiên, trên một mức độ nhất định, hàng rào kỹ thuật có diện rộng

hơn nhưng dễ “thấp” hơn so với RCKT, vì RCKT do từng nước đưa ra nhiều khi

mang tính chất gây khó khăn, thậm chí trừng phạt thương mại lẫn nhau, ngăn cản

không cho hàng nhập khẩu vào quốc gia quá mức.

1.1.2. Phân loại rào cản kỹ thuật

Hiện nay có khá nhiều cách phân loại về RCKT trong thương mại.

1.1.2.1. Theo nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Ngoại thương, RCKT

được chia thành các loại sau [45]:

- Phân loại rào cản kỹ thuật dựa vào công cụ chính sách: Theo tiêu chí này,

RCKT được chia làm 2 loại: Quy định kỹ thuật và yêu cầu về thông tin của sản

phẩm.

Khi chính phủ của một quốc gia nhận thấy hệ thống luật lệ của quốc gia liên

quan đến hàng hóa chưa hiệu quả, hoặc khi hàng hóa nhập khẩu bị phát hiện hoặc

có nghi ngờ kém về chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ…hoặc khi người tiêu

24

dùng nhận thấy gặp khó khăn và tốn kém trong việc kiện nếu hàng nhập khẩu kém

chất lượng theo luật đảm bảo trách nhiệm đối với sản phẩm, thì chính phủ thường

dùng đến RCKT thương mại dựa trên công cụ chính sách để giải quyết những

vướng mắc trên. Những rào cản này sẽ tồn tại dưới hình thức các lệnh cấm, các quy

định kỹ thuật mang tính chất bắt buộc đối với sản phẩm, hoặc những yêu cầu về

thông tin đối với sản phẩm nhập khẩu.

- Phân loại RCKT dựa theo phạm vi áp dụng biện pháp kỹ thuật.

Nhân tố để phân biệt rào cản kỹ thuật thương trong mại căn cứ vào phạm vi

áp dụng biện pháp kỹ thuật với rào cản kỹ thuật thương mại dựa trên các công cụ

chính sách là các biện pháp kỹ thuật đó có làm tăng chi phí cho các nhà sản xuất

trong nước cũng như những nhà XK nước ngoài hay không. Trong cách phân chia

này, RCKT được nghiên cứu, xem xét thông qua việc áp dụng các biện pháp kỹ

thuật, theo đó, ta chia các biện pháp kỹ thuật thành ba loại:

+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng đồng bộ

+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng phổ biến

+ Các biện pháp kỹ thuật áp dụng đặc biệt

- Phân loại RCKT dựa trên mục đích quản lý.

Cách phân định RCKT thương mại này xuất phát từ mong muốn giải thích

tại sao và bằng cách nào cung và cầu của thị trường nội địa có thể thay đổi do tác

động của các biện pháp kỹ thuật được sử dụng. Nghiên cứu sự thay đổi này của

cung cầu trên thị trường, chúng ta có thể tìm ra kết luận liệu việc áp dụng một biện

pháp kỹ thuật nhất định có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến xã hội. Cách phân

định này xuất phát từ việc nêu lên ba mục đích mang tính xã hội của việc áp dụng

các RCKT thương mại, đó là bảo vệ lợi ích kinh tế của nhà sản xuất, bảo vệ sức

khoẻ và lợi ích kinh tế của người tiêu dùng và cuối cùng là bảo vệ môi trường. Theo

tiêu chí này, RCKT bao gồm:

+ Những biện pháp kỹ thuật nhằm mục đích hạn chế rủi ro (rish-reducing

measures)

+ Những biện pháp kỹ thuật không có tác dụng hạn chế rủi ro (non risk-

reducing measures)

25

1.1.2.2. Theo quan điểm của Bộ Công thương

Bộ Công thương là cơ quan chịu trách nhiệm QLNN đối với hoạt động

thương mại. Theo đó, RCKT được phân định như sau:

(i) Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đều đặt

ra các yêu cầu cụ thể về vật lý (physical) đối với sản phẩm. Các yêu cầu này có thể

liên quan tới kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm.

Các yêu cầu này cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và

mở rộng tới các quy trình và phương pháp sản phẩm liên quan tới sản phẩm. Tuy

nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật là ở chỗ sự tuân

thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện trong khi sự tuân thủ với các quy định kỹ

thuật là bắt buộc.

(ii) Các thủ tục đánh giá sự phù hợp: chẳng hạn như xét nghiệm, thẩm tra

xác thực, kiểm định, chứng nhận - được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp

ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn đặt ra.

(iii) Những quy định về đóng gói sản phẩm: Vấn đề bao bì sau tiêu dùng liên

quan đến việc xử lý chất thải rắn. Các quy định về đóng gói bao gồm những quy

định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những quy định về tái sinh, những quy

định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng... Những tiêu chuẩn và quy định liên

quan đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi

việc đóng gói phải phù hợp với việc tái sinh hoặc dùng lại.

(iv) Yêu cầu về dán nhãn sinh thái: Dán nhãn sinh thái có nghĩa là các nước

nhập khẩu yêu cầu các nước XK phải thực hiện việc dán nhãn mác sản phẩm của

mình theo những tiêu chuẩn nhất định nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng về sinh

thái cho các nước nhập khẩu. Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích

thông báo cho người tiêu dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi

trường. Các tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái được xây dựng dựa trên cơ sở phân

tích chu kỳ sống của sản phẩm, một quá trình còn được gọi là phương pháp phân

tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết). Theo phương pháp này, người ta sẽ

đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác

nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó, bao gồm giai đoạn tiền sản xuất (chế biến

26

các nguyên liệu thô), sản xuất, phân phối (bao gồm đóng gói), sử dụng hoặc tiêu

thụ, và loại bỏ sau khi sử dụng. Đặc biệt đây thường là yêu cầu của các nước phát

triển đối với các nước kém phát triển (LDCs), các yêu cầu này dù thuộc hình thức tự

nguyện hay hình thức bắt buộc thì đều gây những khó khăn nhất định trong quá

trình XK của các nước LDCs.

(v) Các yêu cầu về phương pháp sản xuất sản phẩm (PPMs): bao gồm các quy

định về các phương pháp sản xuất sản phẩm có ảnh hưởng đến đặc thù và chất lượng

sản phẩm XK. Hiện nay các luật và các quy định về môi trường đang mở rộng phạm

vi điều chỉnh của mình đối với các PMMs, kể cả các PMMs không có tác động trực

tiếp đến chất lượng và đặc thù của sản phẩm XK, song nhiều khi lại có tác động tiêu

cực đến môi trường tại nơi sản xuất sản phẩm. Các quy định PMMs đang trở thành

những RCKT rất khó vượt qua đối với các nước đang và chậm phát triển.

(vi) Các yêu cầu của người tiêu dùng: Nhiều nước phát triển áp đặt các điều

kiện về môi trường, lao động đối với các nhà XK tại các nước đang và chậm phát

triển. Các yêu cầu này liên quan đến các vấn đề như môi trường, lao động trẻ em và

các quyền về con người, những yêu cầu này ảnh hưởng rất nhiều tới cơ hội thương

mại của các nước XK, nhất là các nước đang và kém phát triển.

1.1.2.3. Theo góc độ tiếp cận từ phía doanh nghiệp:

Doanh nghiệp là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các RCKT trong

thương mại. Trong suốt quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ, XK sản phẩm ra nước

ngoài, các DN phải quan tâm đến các vấn đề sau:

- Chất lượng sản phẩm

- An toàn cho người sử dụng

- Bảo vệ môi trường

- Trách nhiệm xã hội.

- Chống gian lận thương mại

Tương ứng với mỗi vấn đề mà DN quan tâm là một loại hình RCKT

(i) Tiêu chuẩn chất lượng: Chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu để hàng

hoá có thể thâm nhập vào thị trường các nước. Người tiêu dùng các nước, đặc biệt

là người tiêu dùng ở những nước phát triển đều có yêu cầu cao về chất lượng sản

27

phẩm. Người tiêu dùng thường ưa chuộng và đánh giá cao những hàng hoá được

cấp giấy chứng nhận chất lượng. Và các nước cũng đưa ra nhiều quy định về chất

lượng sản phẩm đối với hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng nước

mình. Tuy nhiên, chất lượng là một khái niệm rất rộng và phức tạp do đó có nhiều

nước đã lợi dụng việc đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng để dựng lên những rào cản

về chất lượng đối với hàng nhập khẩu.

Hiện nay, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc

đối với các DN sản xuất hàng XK, vì nhiều thị trường nhập khẩu bây giờ đều yêu cầu

các DNXK phải có giấy chứng nhận chất lượng quốc tế. Người tiêu dùng có thể yên

tâm hơn khi sử dụng sản phẩm của những DN này. Nói cách khác, ISO 9000 có thể

được coi như một ngôn ngữ xác định chữ tín giữa người sản xuất và người tiêu dùng,

giữa các DN với nhau. Và thực tế cho thấy rằng ở mọi thị trường nhập khẩu hàng

hoá của những DN có giấy chứng nhận ISO 9000 thì dễ thâm nhập thị trường hơn

nhiều so với hàng hoá của các DN khác. Đối với một số chủng loại sản phẩm, thì chỉ

những hàng hoá nào có đủ các giấy chứng nhận chất lượng nhất định và đáp ứng các

yêu cầu cụ thể của nước nhập khẩu thì mới được nhập vào lãnh thổ nước đó.

(ii) Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng: An toàn cho người sử dụng là

những vấn đề được người tiêu dùng và Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm vì nó

liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng.

Các biện pháp này gồm các quy chuẩn kỹ thuật hoặc các tiêu chuẩn được đặt

ra để bảo vệ an toàn và sức khỏe của cá nhân như các tiêu chuẩn về không sử dụng

các sản phẩm DM có chứa chất độc hại, gồm các chất hóa học có thể gây ung thư và

các bệnh ngoài da hoặc các quy định về sử dụng các vật liệu chậm cháy trong sản

xuất đồ gỗ gia dụng, đảm bảo không dễ cháy đối với các loại ga giường, quần áo trẻ

em. Ngoài ra, tuỳ theo mặt hàng và tuỳ theo yêu cầu của từng thị trường mà còn có

nhiều các quy định khác như quy định về nhãn mác sản phẩm, quy định các chỉ tiêu

về tiếng ồn, mức phóng xạ đối với các sản phẩm tiêu dùng…

Cũng như các loại RCKT khác, rào cản về an toàn cho người tiêu dùng là loại

rào cản hết sức phức tạp, tinh vi, đa dạng và được sử dụng ngày càng nhiều khiến cho

các DNXK rất khó nắm bắt và khó vượt qua gây cản trở không ít cho TMQT.

28

(iii) Tiêu chuẩn về môi trường

Phát triển thương mại gắn với bảo vệ môi trường đang là xu thế TMQT, đó là

phát triển thương mại bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, được gọi

chung là “thương mại-môi trường”. Sau một thời gian dài chạy theo lợi nhuận, phát

triển ồ ạt, không quan tâm đến môi trường, các quốc gia đã nhận thấy tầm quan trọng

của nó đối với sự phát triển bền vững và đã thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo

vệ môi trường, trong đó có việc đưa ra các tiêu chuẩn về môi trường đối với hàng hoá

nhập khẩu. Các quy định của WTO cũng cho phép các nước sử dụng các biện pháp

bảo hộ vì mục đích môi trường, nên các quốc gia đã dựng lên những rào cản về môi

trường đối với hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu. Hiện nay giấy chứng nhận ISO

14000 đã trở thành một yêu cầu bắt buộc, một giấy thông hành của DN khi muốn XK

hàng sang các nước khác, đặc biệt là khi XK sang thị trường những nước phát triển.

Hệ thống rào cản môi trường trong TMQT hiện nay rất đa dạng và được áp

dụng rất khác nhau ở các nước tuỳ vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Nhưng nhìn

chung, các rào cản môi trường thường được áp dụng trong TMQT bao gồm:

- Các phương pháp sản xuất theo quy định môi trường

Đây là các tiêu chuẩn quy định sản phẩm cần phải được sản xuất như thế

nào. Các tiêu chuẩn này áp dụng cho giai đoạn sản xuất, nghĩa là giai đoạn trước khi

sản phẩm được tung ra trên thị trường. Về mặt môi trường, việc xem xét quy trình

sản xuất là để giải quyết một trong những câu hỏi trọng tâm của quá trình quản lý

môi trường: sản phẩm được sản xuất như thế nào, sản phẩm được sử dụng như thế

nào, sản phẩm được vứt bỏ như thế nào, những quá trình này có làm tổn hại đến môi

trường không.

- Các yêu cầu về đóng gói bao bì

Bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những quy

định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng…

Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm

và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc đóng gói phải phù hợp với việc tái sinh hay

dùng lại. Những sản phẩm không phù hợp có thể bị thị trường từ chối cả nguyên vật

liệu đóng gói và sản phẩm chứa trong bao bì.

29

- Nhãn môi trường

Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích thông báo cho người tiêu

dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về

dán nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm,

một quá trình còn được gọi là phân tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết).

Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường

của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó. Các giai

đoạn này bao gồm giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân phối (bao gồm cả đóng

gói), sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi sử dụng.

Các quy định về môi trường được các nước sử dụng ngày càng nhiều và đã

thật sự trở thành một rào cản hữu hiệu để bảo hộ thị trường trong nước mà vẫn phù

hợp với các quy định của WTO.

(iv) Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội

Đi đôi với trách nhiệm môi trường, các DN còn phải quan tâm tới trách

nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội gồm ba nội dung chính:

- Các tiêu chuẩn với những quyền của người lao động được thừa nhận rộng rãi.

Đó là các quyền được lao động tự do, lao động không phân biệt đối xử

(Không phân biệt giới tính, nguồn gốc, tôn giáo, chính trị …) lao động theo luật

định (giờ làm việc, mức lương lao động) và tuyệt đối không có hình phạt nào gây

tổn thương thể xác, tinh thần, danh dự.

- Các tiêu chuẩn liên quan đến an toàn sức khỏe và rủi ro nghề nghiệp: Đó là

các điều kiện để làm việc, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các chế độ bồi

thường khi người lao động gặp tai nạn nghề nghiệp; các chế độ trợ cấp khi người

lao động bị buộc thôi việc, ngừng việc; các ưu đãi trợ giúp người thất nghiệp.

- Các yêu cầu cho hệ thống quản lý phải luôn tuân thủ và cải tiến, nâng cao

hơn nữa chất lượng đời sống và bảo vệ người lao động.

Các quy định trách nhiệm xã hội là biện pháp bảo vệ tốt nhất cho người lao

động tại các nước. Tuy nhiên với nhiều nước còn nghèo, chậm phát triển, mức sống

còn thấp thì đây cũng là một loại hình rào cản tương đối khó khăn cho các DN nước

đó khi gia nhập thị trường chung thế giới [84].

30

(v). Các quy định về ghi nhãn hàng hóa.

Trong các loại RCKT, thì RCKT quy định về ghi nhãn hàng hóa nhằm chống

gian lận thương mại là rào cản khá mới mẻ, chưa dành được nhiều sự quan tâm của

các DN. Do hạn chế thông tin, nhiều DN và nhà sản xuất chỉ coi đăng ký bản

quyền, nhãn hiệu, sáng chế, mẫu mã… là cách tự bảo vệ mình khỏi các vấn đề tranh

chấp thương mại mà không hiểu được rằng đây cũng là một loại RCKT để bảo hộ

sản xuất nội địa mà các quốc gia đặt ra. Căn cứ theo luật bảo hộ của một số nước,

cứ mỗi một nhãn hiệu, một kiểu dáng thương mại mới, một tên thương mại mới,

một nguồn gốc xuất xứ mới được đăng ký, một bằng sáng chế, phát minh hoặc sở

hữu trí tuệ mới ra đời là cơ hội cạnh tranh của các sản phẩm vào sau lại giảm đi một

phần. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tại một số nước có cùng một số điều

kiện nhất định, thì việc trùng lặp về nhãn hiệu, kiểu dáng, sáng chế… hoàn toàn có

thể xảy ra. Riêng đối với nước XK, tự nhiên sẽ chịu thiệt thòi khi tham gia vào một

thị trường mà cũng có những sản phẩm tương tự về kiểu dáng, sáng chế hay thậm

chí là nhãn hiệu. Đây cũng là một cách hay mà các quốc gia nhập khẩu đã dùng để

giảm bớt các đối thủ cạnh tranh tới từ các nước khác và vô hình chung đã tạo ra độc

quyền trong phạm vi nhất định. RCKT loại này được sử dụng với mục đích đảm

bảo công bằng thương mại và đảm bảo quyền lợi cho các DN cạnh tranh bình

đẳng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đây là loại RCKT mới và mang tính

bảo hộ hợp pháp cao nhất.

1.1.2.4. Quan điểm của tác giả về phân loại RCKT

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài, xác lập luận cứ khoa học cho

việc đề xuất các giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm vượt qua các RCKT đối với hàng

DMXK của Việt Nam, tác giả sẽ sử dụng kết hợp cách phân loại của Bộ Công

Thương và với các vấn đề mà DN quan tâm đồng thời nhấn mạnh đến những quy

định về xuất xứ hàng hóa của các nước được sử dụng như một RCKT mới.

Xuất xứ hàng hóa là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng

hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn sản xuất cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong

trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia sản xuất ra hàng hóa đó.

Quy định về xuất xứ hàng hóa là một trong những nội dung quan trọng trong Hiệp

định TPP. Quy định này được hiểu là: các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên

31

của TPP sang các thành viên khác đều phải có xuất xứ nội khối. Khi đó, các sản

phẩm này mới được hưởng các ưu đãi mà các thành viên dành cho nhau, được

hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Tuy nhiên, với năng lực tự sản xuất và cung ứng

nguyên phụ liệu còn hạn chế, đặc biệt là với các nước đang phát triển thì những yêu

cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại lớn cho

các nước xuất khẩu.

Theo đó, tác giả cho rằng, RCKT trong thương mại quốc tế có thể được

chia thành sáu nhóm như sau:

Rào cản kỹ thuật

Quy định và

Quy định Quy định Quy định và Quy định và Quy định về

tiêu chuẩn và tiêu và tiêu tiêu chuẩn tiêu chuẩn nguồn gốc

về chất chuẩn về an chuẩn môi về trách về ghi nhãn xuất xứ

lượng sản toàn cho trường nhiệm xã sản phẩm

phẩm người sử hội

dụng

Hình 1.1: Các loại rào cản kỹ thuật

Nguồn: Đề xuất của tác giả

Cách phân loại về RCKT này sẽ được tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá

trình nghiên cứu của luận án.

1.1.3. Tác động của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế

Do hình thức đa dạng và linh hoạt nên RCKT có phạm vi ảnh hưởng rất rộng

rãi. Hầu hết các hoạt động thương mại trên thế giới đều gặp phải cản trở của RCKT.

Thực tế cho thấy, RCKT đã ảnh hưởng đến cả nước xuất khẩu và nhập khẩu trên cả

hai mặt tích cực và tiêu cực.[44]

1.1.3.1. Đối với nước xuất khẩu

RCKT có tác động tích cực trên các khía cạnh sau:

32

Thứ nhất, trước RCKT của các nước nhập khẩu hàng hóa đặt ra yêu cầu cho

các nhà xuất khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực sản xuất, đầu tư, đổi

mới trang thiết bị kỹ thuật, cải tiến quản lý, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm

của mình. Chính phủ các nước XK cũng phải sát cánh cùng DN, hỗ trợ các DN, nỗ

lực tìm ra các biện pháp chính sách thích hợp để giúp DN vượt RCKT của nước nhập

khẩu. Chính những nỗ lực của nước XK đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh

của nền kinh tế, của các DN và hàng hóa XK qua đó mà có thể mở rộng được thị

trường tiêu thụ sản phẩm, tăng XK, tăng thu nhập, tạo việc làm cho nền kinh tế,...

Thứ hai, chính việc đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường khắt khe của các thị

trường nhập khẩu sẽ góp phần quan trọng bảo vệ môi trường, giúp thực hiện phát

triển bền vững nền kinh tế cho nước xuất khẩu. Một khi đáp ứng được các tiêu

chuẩn môi trường không những nhà XK thực hiện được mục tiêu XK mà còn góp

phần cải thiện và bảo vệ môi trường sống, làm cho sản xuất sạch hơn, hạn chế được

tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình.

Thứ ba, việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động cao của các thị trường nhập

khẩu cũng giúp cho người lao động có điều kiện lao động tốt hơn, cải thiện được

sức khỏe, an toàn lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao

động, góp phần cải thiện an sinh xã hội, đây là yếu tố cơ bản để đảm bảo ổn định

trật tự xã hội cho phát triển.

Cuối cùng, các nước XK cũng có thể nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ

chức quốc tế; nước nhập khẩu để cải thiện năng lực, đáp ứng và vượt qua các RCKT.

- Bên cạnh những tác động tích cực thì RCKT cũng ảnh hưởng tiêu cực đến

nước xuất khẩu:

Thứ nhất, để đáp ứng được những yêu cầu của quy định về kỹ thuật của các

nước nhập khẩu thì các DNXK sẽ phải tăng chi phí sản xuất để thay đổi điều kiện

sản xuất sao, do đó chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận của nhà sản xuất sẽ giảm sút.

Bởi vì, các RCKT thường đặt ra các qui định liên quan đến qui trình sản xuất,

nguyên vật liệu sản xuất, nguyên liệu bao gói… để vượt qua rào cản này, doanh

nghiệp xuất khẩu phải tăng các khoản đầu tư cố định vào máy móc thiết bị, công

nghệ và qui trình quản lý,…để nâng cao chất lượng sản phẩm, cùng với đó là chi

phí thử nghiệm, kiểm định, giám định, công nhận và lấy giấy chứng nhận. Ngoài ra,

33

cũng có thể dẫn đến sự phá sản của các DNXK khi không đáp ứng được những yêu

cầu đề ra, bị mất vị thế trên thị trường thế giới.

Thứ hai, RCKT cũng gây ra nhiều thiệt hại cho nhà sản xuất. Cụ thể là, khi

nhà sản xuất trong nước XK lô hàng sang thị trường quốc tế, nếu lô hàng đó dù chỉ

có một sai sót nhỏ không đáp ứng được một trong những tiêu chuẩn đã quy định, thì

lô hàng đó sẽ bị từ chối cấm nhập khẩu, hàng hóa đó sẽ bị trả lại cho nhà XK hoặc

bị tiêu hủy…điều này sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của nhà sản xuất, gây thiệt hại lớn

cho nhà XK.

Thứ ba, RCKT cũng ảnh hưởng tới những người lao động sản xuất trong các

ngành sản xuất XK. Có thể thấy, khi các DNXK làm ăn thua lỗ, dẫn đến phá sản sẽ

đe dọa đến công ăn việc làm cũng như đời sống của những lao động làm trong

những DN này, và có thể ảnh hưởng lớn tới tình trạng thất nghiệp của quốc gia đó.

1.1.3.2. Đối với nước nhập khẩu

Nói đến rào cản kỹ thuật - đây được coi là một trong những chính sách bảo

hộ của chính phủ nước nhập khẩu dùng để hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nước

ngoài vào thị trường nước mình. Việc sử dụng RCKT mang lại cho quốc gia này

những tác động tích cực, nhưng bên cạnh đó cũng có những tác động tiêu cực.

- Tác động tích cực:

Thứ nhất, RCKT góp phần bảo vệ người tiêu dùng. Việc áp dụng các RCKT

đã làm nâng cao chất lượng của hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này, qua đó

quyền lợi người tiêu dùng được nâng cao. Việc áp dụng các RCKT yêu cầu các sản

phẩm khi muốn nhập khẩu vào thị trường nước này phải đáp ứng đầy đủ theo những

tiêu chuẩn đã được thỏa thuận, chính điều này đã làm cho những sản phẩm có chất

lượng tốt mới có thể thâm nhập vào thị trường nước này còn những sản phẩm chất

lượng kém sẽ không được nhập khẩu vào thị trường này. Khi các RCKT được áp

dụng cũng đồng nghĩa rằng chất lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao, người

tiêu dùng sẽ được tiêu thụ những mặt hàng với chất lượng cao, an toàn cho sức khỏe

của người sử dụng, chống lừa dối gian lận.

Thứ hai, việc áp dụng các RCKT giúp bảo vệ môi trường. Khi áp dụng các

biện pháp kỹ thuật, các sản phẩm không thân thiện với môi trường sẽ không được

34

phép nhập khẩu vào thị trường nước này, chỉ có những sản phẩm đã thỏa mãn theo

đúng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường mới được phép nhập khẩu. Ngoài ra, các tiêu

chuẩn này đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ thực vật, tài nguyên thiên

nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái…

Thứ ba, bảo hộ nền sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu hàng hóa nước

ngoài. Đây chính là một trong những tác động chính của RCKT. Việc áp dụng các

biện pháp kỹ thuật này đã ngăn chặn sự đe dọa của hàng hóa ngoại nhập, giúp giảm

cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước, từ đó bảo hộ cho nền sản xuất trong nước,

tạo điều kiện cho các DN phát triển, tạo công ăn việc làm, giúp tăng trưởng kinh tế.

- Tác động tiêu cực:

Thứ nhất, không tạo ra động lực phát triển nền sản xuất trong nước. Rõ ràng,

việc sử dụng các RCKT chính là biện pháp của chính phủ nhằm bảo hộ nền sản xuất

trong nước, do vậy nền sản xuất trong nước sẽ không có được động cơ phát triển

cạnh tranh với nền sản xuất quốc tế.

Thứ hai, giảm sự lựa chọn của người tiêu dùng và giảm lợi ích của nền sản

xuất của nước nhập khẩu. Với việc áp dụng các RCKT người tiêu dùng sẽ được tiêu

dùng những mặt hàng có chất lượng tốt, tuy nhiên sự lựa chọn tiêu dùng sẽ bị thu

hẹp Các nhà sản xuất trong nước do được bảo hộ sẽ không nỗ lực trong việc cải tiến

hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm dẫn đến

sự trì trệ, thiếu năng động và kém cạnh tranh của ngành sản xuất trong nước. Ngoài

ra, việc nước nhập khẩu dựng lên quá nhiều RCKT có thể dẫn đến các biện pháp trả

đũa hay các RCKT cao hơn của nước XK đối với hàng hóa sản xuất từ nước nhập

khẩu, gây ra cản trở thương mại, ảnh hưởng đến các ngành sản xuất khác của nước

nhập khẩu.

Như vậy, có thể thấy mức độ ảnh hưởng của các loại RCKT đối với TMQT là

rất lớn. Các nước có trình độ phát triển cao, có tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng

đối với TMQT là những nước thường áp dụng các RCKT vì các nước này có đầy đủ

cơ sở vật chất và kỹ thuật để đưa ra các rào cản và cũng có thể dựa vào tiềm lực của

mình để ép các quốc gia khác phải tuân thủ các điều kiện do mình đặt ra. Thực tế

cũng đã chỉ ra rằng các nhà XK của các nước đang và kém phát triển là những nước

chịu tác động của RCKT nhiều nhất bởi hàng XK của những nước này chủ yếu dựa

35

vào thiên nhiên có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến ảnh hưởng

đến môi trường, trình độ KHCN thấp kém nên các tiêu chuẩn chất lượng và các tiêu

chuẩn vệ sinh an toàn không cao và vì vậy khó có thể vượt qua được các rào cản đó

khi mà thậm chí các nước phát triển cũng gặp không ít khó khăn khi gặp phải. Trong

tương lai thậm chí các nước kém phát triển này còn gặp phải những khó khăn còn lớn

hơn khi các nước tăng cường sử dụng những rào cản này [54].

1.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU

1.2.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu

1.2.1.1. Khái niệm

Dựa theo khái niệm về RCKT đối với hàng hóa XK nói chung ở phần 1.1.1,

tác giả cho rằng “Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu là những quy

định, tiêu chuẩn, biện pháp kỹ thuật do nước nhập khẩu đặt ra nhằm ngăn cản hàng

dệt may của nước xuất khẩu không đáp ứng được yêu cầu vào thị trường nước nhập

khẩu.

Có thể nói, hàng DM là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và là

tiềm năng phát triển cao. RCKT đối với hàng DM trong TMQT cũng có đầy đủ các

đặc điểm của RCKT nói chung. Ngoài ra, do DM là ngành truyền thống của hầu hết

các nước và sử dụng nhiều lao động nên RCKT đối với hàng DM trong TMQT

cũng có một số đặc điểm riêng như:

- Các RCKT dưới dạng các tiêu chuẩn về môi trường, về trách nhiệm xã hội,

sở hữu trí tuệ nhằm chống gian lận... thường cao quá mức cần thiết, khó tuân thủ

đối với các nước đang phát triển

- Hầu hết các RCKT đối với hàng DM đều dựa trên các cam kết của WTO,

tuy nhiên một số thị trường nhập khẩu hàng DM lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... còn

có nhiều RCKT khác dưới dạng các quy định riêng

1.2.1.2. Các loại rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may

Đối với hàng DMXK, RCKT cũng được chia thành các loại như đối với hàng

hóa xuất khẩu nói chung đã được trình bày ở mục 1.1.2. Đó là:

(i) Các quy định về chất lượng sản phẩm. Đó là các quy định về tiêu chuẩn

chất lượng (ISO 9000) đây là bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng do tổ chức quốc

36

tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. Bộ tiêu chuẩn này bao gồm các tiểu chuẩn quy định

những yêu cầu của một hệ thống quản lý chất lượng mà DN nói chung và các

DNDM nói riêng muốn được chứng nhận phải áp dụng như ISO 9001/2/3; hoặc ISO

9000:2000, và các tiêu chuẩn hỗ trợ khác.

(ii) Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người.

Các biện pháp này bao gồm những quy định về hóa chất độc hại trong sản

phẩm DM gây nguy hiểm đối với sức khỏe người tiêu dùng, Các hóa chất độc hại

bao gồm: các amin thơm gây ung thư (liên quan đến thuốc nhuộm azo), các thuốc

nhuộm phát tán gây dị ứng, các kim loại nặng (cadimi, crom, chì, thủy ngân,

niken…), các hợp chất hữu cơ thiếc (MBT, TBT, TPhT…), các hợp chất có chứa

clo (chất tải hữu cơ có chứa clo như clobenzen, clotoluen), các chất chậm cháy

(PBBs, Peta- BDE, octo BDE…), Focmaldehyt, Phtalat (DEHP, DINP…), tổng

hàm lượng chì trong sơn và bề mặt phủ. Các sản phẩm được coi là có chứa chất

nguy hiểm sẽ bị cấm nhập khẩu vào thị trường của các nước phát triển.

(iii) Các quy định và tiêu chuẩn môi trường.

Quy định về bảo vệ môi trường (ISO14000): quy định này nêu rõ các yêu cầu

về hệ thống quản lý môi trường, trong đó đặc biệt lưu ý đến các quy định pháp lý về

tác động và ảnh hưởng của môi trường nhằm giúp các DNDM hệ thống hóa các chính

sách và các mục tiêu môi trường của mình. Trong ISO14000 bao gồm ISO14001 và

ISO14004 trong đó ISO14001 là các yêu cầu đối với hệ thống còn ISO14004 là các

văn bản hướng dẫn xây dựng hệ thống theo các yêu cầu đó. Các DNDM cần phải

nắm bắt và hiểu rõ để tuân thủ các yêu cầu thực hiện trách nhiệm xử lý ô nhiễm môi

trường và sử dụng nguyên nhiên liệu không làm mất cân bằng sinh thái, các sản phẩm

sản xuất ra phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn không gây ô nhiễm môi trường.

Hiện nay, các nhà nhập khẩu đã đưa ra các tiêu chuẩn“xanh”, “sạch” đối với

sản phẩm từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. Tiêu chuẩn thương mại “xanh” trở

thành RCTM “xanh” (Green Trade Barrier). Đối với sản phẩm DM, tiêu chuẩn này

đòi hỏi các sản phẩm may mặc phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái, an toàn

về sức khoẻ đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong quá trình

37

sản xuất. Các quy định PMM hiện đang đặt ra những thách thức lớn đối với các cơ

sở DM của Việt Nam, đặc biệt là các DN dệt, nhuộm, in,…

(iv) Các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội

Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại mang lại nhiều quyền lực cho các

khách hàng quốc tế và đặt ra thách thức đối với vai trò của công đoàn và luật pháp

quốc gia, trong đó có nhu cầu về khuôn khổ pháp luật quốc tế mới như các điều

khoản về tiêu chuẩn lao động trong các hiệp định tự do thương mại. Một loạt các

khung pháp luật mới đã xuất hiện ở cấp độ toàn cầu với các quy định cụ thể về tiêu

chuẩn lao động. Ngoài việc thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, hàng đệt may

XK còn phải tuân thủ các RCKT do các nước phát triển đặt ra như các tiêu chuẩn về

vệ sinh, an toàn công nghiệp, tiêu chuẩn lao động,...

Các cam kết về lao động được thể hiện qua bộ tiêu chuẩn lao động như là nội

dung cơ bản về trách nhiệm xã hội DN (CSR), các hiệp định của các công ty đa

quốc gia với tổ chức nghiệp đoàn lao động toàn cầu. Hiện nay, một trong những tiêu

chuẩn xã hội quan trọng nhất là tiêu chuẩn SA 8000 do Tổ chức Quốc tế về Trách

nhiệm xã hội (SAI), một tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ xây dựng. SA 8000 là

hệ thống tiêu chuẩn quốc tế quy định về điều kiện làm việc, quyền lợi của người lao

động nhằm hướng tới việc đảm bảo giá trị đạo đức của nguồn hàng hoá & dịch vụ.

Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 xem xét các vấn đề chủ yếu như: lao động

trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ & an toàn lao động, bồi thường, phân biệt đối

xử trong lao động, thời gian làm việc, tự do công đoàn, quyền thoả ước tập thể và

các hình phạt trong lao động. SA 8000 được xây dựng dựa trên nền tảng tiêu chuẩn

của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các công ước và khuyến nghị của Liên hợp

quốc về quyền con người và trẻ em. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội

toàn cầu nhà sản xuất - WRAP - một tiêu chuẩn độc lập của sản xuất đúng với

nguyên tắc ứng xử, được thực hiện và kiểm soát một cách độc lập và bảo đảm rằng

hoạt động của các nhà sản xuất đúng nguyên tắc ứng xử theo một quy tắc gắn kết và

bao hàm toàn diện. WRAP chứng nhận rằng các sản phẩm may mặc được sản xuất

phù hợp với 12 nguyên tắc chủ yếu sau: (1) Luật pháp và quy tắc nơi làm việc; (2)

Ngăn cấm lao động cưỡng bức; (3) Ngăn cấm lao động trẻ em; (4) Ngăn cấm quấy

38

rối và ngược đãi; (5) Bồi thường và phúc lợi; (6) Giờ làm việc phải không được

vượt quá giới hạn của luật pháp; (7) Ngăn cấm phân biệt đối xử; (8) Sức khoẻ và an

toàn môi trường làm việc; (9) Các quyền hợp pháp của nhân viên về tự do hiệp hội

và thoả thuận tập thể; (10) Các điều lệ, quy tắc và tiêu chuẩn về môi trường; (11)

Thực hiện đúng thủ tục thuế quan và (12) Cấm chất ma tuý.

Những tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội như SA 8000 hay WRAP đang được áp

dụng theo cách tự nguyện, nhưng những DNXK đáp ứng được các tiêu chuẩn này

lại được người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm một cách dễ dàng hơn nên có cơ hội

để đẩy mạnh XK. Hiện nay, người tiêu dùng ở các nước phát triển có xu hướng đòi

hỏi ngày càng cao đối với các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và những đòi hỏi này

sẽ tác động lên chính sách của các chính phủ để chuyển sang bắt buộc phải đáp ứng

các tiêu chuẩn này. Vì vậy, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội trở thành các RCKT

đối với XK của các nước đang và chậm phát triển.

(v) Các quy định về ghi nhãn hàng DM

Các quy định này giúp cho sản phẩm XK được an toàn. Đó là yêu cầu về dán

nhãn chính xác. Có rất nhiều quy định và tiêu chuẩn của các nước phát triển về dán

nhãn hàng DM. Chẳng hạn, Hoa kỳ có rất nhiều văn bản pháp luật và quy định kiểm

soát hoạt động sản xuất và dán nhãn các sản phẩm DM như quy định về nước xuất

xứ, đạo luật về nhận dạng các sản phẩm dệt TFPIA, đạo luật về dán nhãn các sản

phẩm len WPLA, đạo luật về bao gói, dán nhãn sản phẩm tốt FPLA,... Bên cạnh đó

là yêu cầu đối với nhãn hiệu: phải được làm bằng vải và đính kèm sản phẩm cho

đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng, phải được ghi bằng ngôn ngữ

tiếng Anh [89].

Nhãn hướng dẫn sử dụng là một thành phần không thể thiếu của sản phẩm

DM được sử dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Tại các nước này, hệ thống

nhãn hướng dẫn sử dụng đã được tiêu chuẩn hóa và phổ biến không chỉ trong sản

xuất mà cả trong đời sống hàng ngày. Vì thế, một sản phẩm DM không có nhãn

hướng dẫn sử dụng thì rất khó được thị trường chấp nhận lưu thông. Tại các nước

phát triển ở Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v tất cả hàng DM lưu thông trên thị

trường đều phải có nhãn hướng dẫn sử dụng. Mặt khác, một nhãn hướng dẫn sử dụng

39

nếu không được xây dựng chặt chẽ để đảm bảo chất lượng phù hợp có thể gây tổn

thương không nhỏ cho cả người sử dụng và nhà sản xuất lưu thông sản phẩm khi tiêu

dùng gặp sự cố trong quá trình sử dụng sản phẩm. Do vậy, các nhãn mác này đều

được xây dựng dựa trên cơ sở các phương pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm DM

phổ biến tại đó, các yêu cầu chất lượng dự kiến cho sản phẩm của nhà sản xuất nhằm

phục vụ cho mục đích sử dụng xác định của người tiêu dùng. Quy trình thử nghiệm

kiểm tra chất lượng và xây dựng nhãn hướng dẫn sử dụng cho sản phẩm DM đã được

ổn định từ khoảng hơn chục năm trở lại đây [76].

(vi) Các quy định về xuất xứ hàng DM

Các quy định về xuất xứ hàng DM của các nước, nhất là các nước phát triển

như Hoa Kỳ, EU,... rất phức tạp, không rõ ràng và minh bạch, lại chịu sự chi phối

rất lớn từ các nhà sản xuất trong nước của các thị trường này đã khiến cho quy tắc

xuất xứ trở thành RCKT rất khó đáp ứng đối với các nước đang và chậm phát triển.

Thông thường thì hàng DMXK từ các nước đang và chậm phát triển được hưởng ưu

đãi về thuế quan theo chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). GSP là

chương trình ưu đãi thuế quan không có đi có lại. Ngoài ra, trong tham gia các

FTA/RTA đều có các quy định ưu đãi thuế hàng DM dựa trên nguyên tắc có đi có

lại. Tuy nhiên các quy định và tiêu chuẩn để xác định xuất xứ hàng DM để được

hưởng các ưu đãi thuế này lại rất cao, rất phức tạp, không minh bạch (ví dụ như quy

định “từ sợi trở đi” của Hoa Kỳ) nên rất khó để các nước đang và chậm phát triển

có thể đáp ứng để được hưởng các ưu đãi thuế. Vì vậy, những tiêu chuẩn và quy

định về xuất xứ hàng hóa đang trở thành những RCKT lớn đối với hàng DMXK.

1.2.2. Vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu

1.2.2.1. Khái niệm

Theo từ điển tiếng Việt 2008 của trung tâm từ điển học thì động từ “vượt’ có

nghĩa là: (i) di chuyển qua nơi có khó khăn, trở ngại để đến một nơi khác; (ii) tiến

nhanh hơn và bỏ lại phía sau; (iii) ra khỏi giới hạn nào đó. Có thể thấy, nghĩa thứ

nhất của động từ vượt được áp dụng cho trường hợp này. Như vậy, việc vượt qua

RCKT trong thương mại có thể hiểu là việc nước XK di chuyển hàng hóa qua

40

những khó khăn, trở ngại gặp phải nơi biên giới của nước NK để đưa hàng hóa vào

tiêu thụ tại nước nhập khẩu

Từ đó, tác giả cho rằng: Vượt RCKT đối với hàng DMXK là việc thực hiện

các chiến lược, các giải pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu của nước nhập khẩu, đưa

hàng dệt may từ nước xuất khẩu vào tiêu thụ tại nước nhập khẩu. Nói cách khác,

vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu chính là khả năng, năng lực của nước

xuất khẩu (trong đó có DNDM và hàng DM xuất khẩu) đáp ứng, tuân thủ hay vượt

qua các quy định, tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật do các nước nhập khẩu đưa ra đối với

hàng dệt may nhập khẩu.

1.2.2.2. Phương thức vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DM xuất khẩu

Đối với hàng DM, vượt qua RCKT do các thị trường nhập khẩu đưa ra có ý

nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược xuất khẩu và chiến lược phát triển

ngành dệt may của mỗi quốc gia và thực sự là vấn đề rất được quan tâm của các cơ

quan quản lý Nhà nước và các DNDMXK. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm ra phương

thức vượt RCKT phù hợp là hết sức cần thiết đối với mỗi Chính Phủ và các

DNDMXK.

Trong luận án này, tác giả đã tiếp cận phương thức vượt RCKT đối với hàng

dệt may xuất khẩu theo hướng tích cực, chủ động, tôn trọng lợi ích của đối tác, tuân

thủ cam kết quốc tế để bảo vệ lợi ích của mình.

RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu là một phạm trù của thương mại quốc

tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT đối với hàng

dệt may xuất khẩu, nhưng vai trò của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại,

các tổ chức xã hội dân sự khác trong và ngoài nước là vô cùng quan trọng để doanh

nghiệp có thể vượt qua RCKT và xuất khẩu thành công..

Vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất xuất khẩu đòi hỏi sự nỗ lực của toàn

xã hội, không chỉ doanh nghiệp mà còn là Nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự, cả

trong nước và quốc tế. Trong đó, trách nhiệm chính và sự phối kết hợp giữa các bên

liên quan để vượt RCKT có thể thực hiện theo những phương thức sau:

- Doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT, đáp ứng các yêu cầu

kỹ thuật của thị trường nhập khẩu. Do đó, các DNDM cần:

41

 Chủ động, tích cực tìm hiểu, nắm bắt kịp thời, chính xác và đầy đủ về

RCKT của các thị trường nhập khẩu.

 Nhận diện đúng những tác động của RCKT đối với hàng dệt may xuất

khẩu để có biện pháp đổi mới, nâng cao năng lực nhằm đạt đến trình độ đáp ứng

được yêu cầu của nước nhập khẩu, vượt qua RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu.

Nói cách khác, trách nhiệm vượt RCKT chủ yếu thuộc về các doanh

nghiệp dù Nhà nước là một bên cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế và

Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong đáp

ứng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của các nước, phù hợp với quy định quốc tế

và cam kết với các đối tác.

- Nhà nước với vai trò tạo môi trường thuận lợi và hướng dẫn, hỗ trợ cho

doanh nghiệp vượt RCKT trên các phương diện:

 Tuyên truyền, phổ biến các thông tin, quy định của các nước nhập

khẩu cho các DNDM nắm được và thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng

 Tích cực triển khai các biện pháp hội nhập với thế giới, tăng cường

đàm phán, ký kết, tham gia các hiệp định TM song phương, khu vực và đa phương.

 Hỗ trợ các cơ chế chính sách về đầu tư, tài chính, KHCN, môi trường,

đào tạo nhân lực cho ngành DM.

 Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia hài hòa hóa với tiêu chuẩn quốc tế

và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các tiêu chuẩn ở các DNDM, sử dụng các quy

định, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá, thừa nhận kết quả thử nghiệm

 Tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, những RCKT không hợp

lý cần phải yêu cầu các nước nhập khẩu cắt bỏ.

 Lựa chọn đối tác xuất khẩu phù hợp với năng lực

 Cảnh báo sớm về RCKT của các nước nhập khẩu cho các DNDM biết

được để có biện pháp, kế hoạch ứng phó kịp thời.

- Hiệp hội là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp cùng phối hợp thực

hiện vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu. Vai trò của Hiệp hội là rất quan

trọng trong vượt RCKT. Hiệp hội đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng cho doanh

nghiệp, là một kênh quan trọng tập hợp và liên kết doanh nghiệp để vượt RCKT.

Hiệp hội hỗ trợ các DN vượt RCKT thông qua các hình thức:

42

 Tham gia hợp tác với các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính

phủ trong và ngoài nước, cung cấp thông tin, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch

vụ hỗ trợ kinh doanh, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vượt RCKT

 Tạo sự liên kết gắn bó chặt chẽ giữa các DN trong ngành dệt may hỗ

trợ nhau vượt rào.

- Sự phối kết hợp giữa Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp là không

thể thiếu để vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu. Doanh nghiệp đối diện

trực tiếp với RCKT, phải chủ động, tích cực tìm mọi biện pháp để vượt qua

RCKT, đưa hàng vào thị trường nước nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu

doanh nghiệp không được sự hậu thuẫn, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước thì rất khó

có thể vượt qua được RCKT. Trong thực tiễn, có thể những quy định, tiêu chuẩn

của các nước nhập khẩu hàng dệt may là cần thiết và hợp lý để bảo về lợi ích quốc

gia, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng do chênh lệch

về trình độ phát triển, các doanh nghiệp nước xuất khẩu chưa đủ năng lực để vượt

qua ngay thì Nhà nước cần can thiệp, tham gia đàm phán với nước đối tác để đảm

bảo một thời kỳ quá độ cho DN, đồng thời Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ DN xây dựng

đủ năng lực vượt rào cản. Trong nhiều trường hợp, RCKT do các nước nhập khẩu

đặt ra là bất hợp lý, quá mức cần thiết nhằm bảo hộ thương mại, Nhà nước cần

thông qua các định chế thương mại quốc tế và các cơ chế thích hợp khác, sát cánh

cùng doanh nghiệp đấu tranh yêu cầu nước nhập khẩu dỡ bỏ các RCKT bất hợp lý

này, v.v.

- Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế để vượt qua RCKT của nước

nhập khẩu: Nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp dệt may đều cần tích cực tranh thủ

sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế để vượt qua RCKT đối với hàng dệt may của các nước

nhập khẩu thông qua các kênh hợp tác đa dạng, hiệu quả. Đó là các hỗ trợ kỹ thuật

xây dựng, tăng cường năng lực thực thi các hiệp định thương mại quốc tế cho các

đối tác kém phát triển hơn. Đó là các hỗ trợ, giúp đỡ của các định chế kinh tế

thương mại quốc tế cho phát triển bền vững hay các liên kết, hợp tác giữa các doanh

nghiệp trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, liên kết giữa các nhà xuất khẩu với

các nhà nhập khẩu, phân phối hàng dệt may, liên kết với các hiệp hội bảo vệ người

tiêu dùng các nước nhập khẩu, v.v.

Nguồn hợp tác,

hỗ trợ quốc tế

43

Vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu của một nước

Nhà nước Hiệp hội

Quy định

Quy

Quy định

Quy định

Quy

Quy định

và TC AT

định và

và TC ghi

định và

và TC về

cho người

TC môi

nhãn

TC

xuất xứ

sử dụng

và TC CLSF

trường

TNXH

Doanh nghiệp

Hoa Kỳ EU Nhật Bản

RCKT của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng dệt may

Hình 1.2. Khung phân tích vượt RCKT đối với hàng dệt may XK

Chú thích: ----- Gián tiếp vượt rào cản; Trực tiếp vượt rào cản

Nguồn: Đề xuất của tác giả

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt rào cản kỹ thuật đối với

hàng dệt may xuất khẩu của một quốc gia

1.2.3.1. Các nhân tố quốc tế

(i) Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu

cực tới năng lực vượt RCKT của hàng DMXK của một quốc gia. Toàn cầu hóa và

44

hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại dựa trên

các hiệp định thương mại đa phương, khu vực và song phương. Hiệp định TBT của

WTO và các quy định về TBT trong các hiệp định tự do thương mại song phương

và khu vực khác tạo khung khổ pháp lý thuận lợi cho tiếp cận thị trường đối với

hàng DMXK do các yêu cầu ràng buộc các nước tham gia phải tuân thủ những

nguyên tắc và điều kiện của hiệp định TBT khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn,

tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình đánh giá hợp chuẩn, hợp quy của hàng hoá.

Việc bắt buộc phải tuân thủ các quy định này đã hạn chế các nước đưa ra những

biện pháp kỹ thuật quá mức cần thiết gây cản trở cho thương mại. Mặt khác, việc

tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương, khu vực và đa phương, bao

giờ cũng bao gồm các điều khoản về hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực cho các

thành viên kém phát triển hơn để hội nhập thành công, những hỗ trợ kỹ thuật này

cũng giúp tăng cường năng lực vượt RCKT trong thương mại. Tuy nhiên, toàn cầu

hóa và tự do hóa thương mại cũng có tác động làm gia tăng việc sử dụng các RCKT

thay cho biện pháp bảo hộ truyền thống bằng thuế quan mà các nước tham gia các

hiệp định tự do thương mại phải cam kết cắt giảm và loại bỏ.

(ii) Thế giới chuyển sang nền kinh tế tri thức với sự phát triển vượt bậc của

khoa học và công nghệ

Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh sang kinh tế tri thức cùng với sự phát

triển vượt bậc của KHCN đã tạo điều kiện cho các biện pháp kỹ thuật phát triển và

sự phát triển này cũng đem đến cả những tác động tích cực và tiêu cực đối với khả

năng vượt RCKT của các quốc gia.

Trong thế giới toàn cầu hóa, chuyển sang kinh tế tri thức và sự phát triển

mạnh mẽ của KHCN, đời sống của người dân được nâng cao như ngày nay phải

thừa nhận một thực tế là các RCKT có điều kiện để phát triển nở rộ, khiến cho các

nước XK càng khó vượt qua các các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt,

tinh vi, đa dạng và phức tạp hơn của các nước nhập khẩu, nhất là các nước phát

triển. Tuy nhiên và trên hết là sự lan truyền của tri thức và KHCN trên phạm vi toàn

cầu thông qua hoạt động thương mại, với KHCN trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp đã tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của kinh tế thế giới cũng như kinh tế của

45

các quốc gia. Trình độ phát triển và trình độ KHCN được cải thiện, nâng cao tạo ra

năng lực đáp ứng và vượt RCKT tốt hơn cho các nước XK. Hơn nữa, năng lực đáp

ứng và vượt RCKT được nâng cao lại tác động tạo ra sự chuyển biến về chất cho

nền kinh tế, giúp nâng cao trình độ phát triển và chuyển đổi mô hình tăng trưởng

kinh tế sang hiệu quả và sáng tạo hơn.

(iii) Toàn cầu hóa và điều phối chính sách liên chính phủ và toàn cầu cho

phát triển bền vững

Thế giới ngày nay, bên cạnh những vấn đề kinh tế hậu khủng hoảng chưa

giải quyết được, còn đang phải đối mặt với những vấn đề xã hội và môi trường.

Nhiều công ước quốc tế về môi trường liên quan đến thương mại đang được

các nước cam kết thực hiện. Các hiệp định môi trường đa biên cũng đã tính đến

những vấn đề thương mại có ảnh hưởng đến môi trường, đồng thời cũng xem xét các

vấn đề môi trường có ảnh hưởng đến tự do thương mại nhằm điều hoà giữa mục đích

bảo vệ môi trường và tăng trưởng thương mại. Các biện pháp trong các hiệp định môi

trường quốc tế được áp dụng đối với việc vận chuyển buôn bán, trao đổi, khai thác

các sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường như chất thải độc hại, động vật hoang dã,

các nguồn gien thực động vật, các chất phá huỷ tầng ôzôn, biến đổi khí hậu...

Các công ước quốc tế về con người, chẳng hạn như Công ước quốc tế về

quyền trẻ em, cũng có ảnh hưởng đến XK thương mại hàng DM. Chẳng hạn, việc

sử dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân là nguyên nhân của việc từ chối nhập

khẩu hàng hóa sử dụng các dạng lao động nói trên. Tương tự, điều kiện lao động

không được đảm bảo, chẳng hạn như môi trường lao động độc hại, điều kiện sinh

sống và làm việc của công nhân không đảm bảo cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp

cận thị trường của hàng XK. Việc áp dụng tiêu chuẩn SA8000 là một biện pháp để

cải thiện môi trường cho người lao động.

Như vậy, toàn cầu hóa và sự điều phối chính sách liên chính phủ vì mục tiêu

phát triển bền vững cũng ảnh hưởng nhiều đến RCKT và khả năng vượt RCKT của

các quốc gia. Các ảnh hưởng tiêu cực có thể thấy rõ từ việc các nước gia tăng sử

dụng các tiêu chuẩn về môi trường và tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và luận cứ cho

sự cần thiết của các biện pháp này là nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

46

Tuy nhiên, sự điều phối, hợp tác chính sách liên chính phủ thông qua việc tham gia

các công ước quốc tế về lao động và môi trường cũng ngăn chặn xu hướng bảo hộ

thương mại của các quy định về tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội trong

khi lại có thể hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các nước để đáp ứng các tiêu chuẩn và

quy định này. Mặt khác còn giúp nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chính

phủ trong xây dựng và thực thi các chính sách, biện pháp nhằm đáp ứng các RCKT

về môi trường và trách nhiệm xã hội.

1.2.3.2. Các nhân tố trong nước

(i) Trình độ phát triển và trình độ KHCN của quốc gia

Trình độ phát triển và trình độ KHCN của quốc gia là yếu tố tác động trực

tiếp tới khả năng vượt RCKT. Sở dĩ như vậy là vì RCKT là những quy định, biện

pháp về mặt kỹ thuật, nếu một nước không đủ trình độ và kỹ năng về KHCN thì rất

khó trong việc đáp ứng các yêu cầu về mặt kỹ thuật của nước nhập khẩu. Trình độ

KHCN còn thấp kém của các nước đang và kém phát triển đã ảnh hưởng rất lớn tới

khả năng vượt RCKT của hàng DMXK các nước này. Vì vậy, một trong những nỗ

lực để vượt RCKT đối với hàng DMXK là Việt Nam phải cố gắng nâng cao trình

độ KHCN của quốc gia, của DN

(ii) Năng lực quản lý của Nhà nước: Là một trong những yếu tố quan trọng

nhất tác động đến khả năng vượt RCKT của quốc gia. Năng lực quản lý của Nhà

nước trong vượt RCKT đối với hàng DMXK được phản ánh qua:

- Khung khổ luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với vượt RCKT, từ việc

thực hiện tự do hóa thương mại; hội nhập quốc tế song phương, khu vực, đa phương

đến việc ban hành và thực thi các biện pháp chính sách hỗ trợ DN vượt RCKT. Tham

gia các hiệp định tự do thương mại, các công ước, điều ước quốc tế về môi trường,

lao đông,… đã mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường cho hàng XK và tạo cơ sở pháp

lý cho việc ngăn chặn, đối phó với các RCKT phi lý của nước nhập khẩu.

- Ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích

DN vượt RCKT, đẩy mạnh XK

- Tạo dựng môi trường kinh doanh thân thiện thị trường và cạnh tranh lành

mạnh, bình đẳng về cơ hội cho mọi chủ thể kinh doanh

47

- Điều phối, hợp tác chính sách liên chính phủ về RCKT

Năng lực QLNN cao hay thấp phụ thuộc vào năng lực thể chế và chuyên

môn của bộ máy quản lý các cấp, từ cán bộ quản lý, đến cơ chế tổ chức vận hành bộ

máy quản lý và trình độ trang thiết bị kỹ thuật, thông tin của quản lý,...

(iii) Năng lực của doanh nghiệp

Năng lực của DN là yếu tố quyết định tới khả năng vượt RCKT đối với hàng

DMXK. Các yếu tố cơ bản tạo ra năng lực của DN gồm [32]:

- Năng lực nghiên cứu và phát triển: khả năng phát triển sản phẩm

mới, cải tiến quy trình công nghệ…

- Công nghệ sản xuất: máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, mức độ

tự động hóa…

- Nguồn nhân lực: Cán bộ quản lý, điều hành sản xuất, công nhân, phục vụ…

- Cơ sở hạ tầng: Mặt bằng sản xuất, nhà xưởng, giao thông nội bộ, điện

nước, hệ thống xử lý chất thải…

- Tài chính: Nguồn vốn chủ sở hữu, cơ cấu vốn, khả năng huy động vốn…

Tùy thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất cũng như chu kỳ kinh doanh của sản

phẩm mà vai trò và tác động của các yếu tố này có thể khác nhau. Đ ối với các

DNDM, khi tập trung phát triển thương hiệu/ mẫu mã mới, thì năng lực nghiên

cứu phát triển có ý nghĩa quyết định. Các yếu tố này tác động tương hỗ với

nhau và tạo thành nền tảng cơ bản của DN.

(iv) Liên kết Nhà nước - doanh nghiệp – hiệp hội, liên kết và hợp tác quốc tế.

Nhà nước tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ cho các DN

vượt RCKT. Các mối liên kết khác là chất xúc tác thúc đẩy hoạt động của các

DN. Các hiệp hội sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các DN khi phải đối mặt với những

rào cản kỹ thuật. Sự liên kết giữa các DN trong hiệp hội cùng với các cơ quan

chức năng của nhà nước, các nhà phân phối, các tổ chức xã hội dân sự nước ngoài,

v.v sẽ làm tăng trọng lượng của các ý kiến, đề nghị đối với chính quyền nước

nhập khẩu. Sự chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và các nguồn lực khác cũng sẽ tạo

cho DN giảm thiểu những khó khăn của họ. [32]

Trong các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT của một quốc gia thì

48

nhóm nhân tố thuộc về quốc gia XK (nhân tố trong nước) giữ vai trò quan trọng

nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững và hiệu quả của xuất khẩu hàng DM. Và

trong số các nhân tố trong nước này thì trước hết nhân tố thuộc về tư duy nhận thức

của Nhà nước, DN và người dân đối với sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may giữ vai

trò quan trọng nhất, có thể thúc đẩy hoặc cản trở việc đáp ứng RCKT.

1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM.

1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới

1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc [86], [97], [98]

Trung Quốc là nước XK hàng hoá tới nhiều nước nhất trên thế giới, trong đó

hàng DM là một trong những mặt hàng XK chính, vì sản phẩm DM có sức cạnh

tranh trên thị trường với giá thành thường thấp hơn các nước khác. Đó cũng chính

là lý do các nước trên thế giới tìm mọi cách hạn chế hàng DM Trung Quốc để bảo

hộ ngành DM trong nước. Theo đánh giá của Bộ Thương mại Trung Quốc, các

DNDM Trung Quốc thường gặp phải rất nhiều rào cản trong XK, đặc biệt là RCKT

của Hoa Kỳ, EU. Trước tình trạng DM trong nước gặp nhiều khó khăn khi đối phó

với rào cản này, Trung Quốc đã đề ra các đối sách sau:

- Các biện pháp vượt RCKT được chính phủ Trung Quốc thông qua:

(i) Tăng cường giao lưu và đàm phán giữa các quốc gia để giảm RCKT.

Chính phủ Trung Quốc đã tham gia tích cực vào đàm phán quốc tế song

phương và đa phương và tăng cường đối ngoại với chính phủ của các quốc gia phát

triển để đạt được biên bản ghi nhớ giữa các quốc gia và giảm RCKT nhiều nhất có

thể. Thông qua củng cố hoạt động đối ngoại, trao đổi và xây dựng lòng tin với các

đối tác quốc tế, các ngành liên quan, người tiêu dùng, nhóm xã hội, tổ chức kinh tế

& chính trị và các cá nhân, chính phủ Trung Quốc cố gắng loại bỏ những nghi ngại,

tạo lòng tin trong cộng đồng quốc tế về chất lượng an toàn tiêu dùng của hàng dệt

may Trung Quốc, qua đó mà giảm bớt RCKT đối với hàng DMXK của nước này.

(ii) Hình thành cơ chế thu nhập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất: Bộ

Thương mại Trung Quốc đã xây dựng và ban hành quy chế về thu nhập và xử lý

49

thông tin, trong đó giao rõ nhiệm vụ cụ thể cho các đại diện thương mại ở nước

ngoài có trách nhiệm cung cấp thông tin cho Bộ Thương mại nói chung và bộ phận

chuyên trách rào cản kỹ thuật nói riêng.

(iii) Thúc đẩy áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, đưa ra nhiều quy tắc và tiêu chuẩn

kỹ thuật trong nước phù hợp với các thị trường trên thế giới.

Theo thống kê, 70-80% tiêu chuẩn công nghệ hiện tại của Trung Quốc thấp

hơn tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn tiên tiến nước ngoài và thiết bị kỹ thuật tụt

hậu so với các nước phát triển từ 10 đến 20 năm. Chính phủ tăng cường tuyên

truyền, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000 về tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng

và quản lý chất lượng và ISO 14000 về tiêu chuẩn quản lý môi trường. Dù tiêu

chuẩn ISO không phải là tiêu chuẩn bắt buộc nhưng đó là tiêu chuẩn có thể tin

tưởng trên thế giới. Thúc đẩy sử dụng tiêu chuẩn ISO là tấm hộ chiếu cho các sản

phẩm gia nhập thị trường quốc tế.

Đối mặt với yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt hơn của RCKT nước ngoài, Trung

Quốc đưa ra và hoàn thiện các quy định kỹ thuật về sản phẩm may mặc, sức khoẻ

và bảo vệ môi trường. Trung Quốc bổ sung và hoàn thiện các biện pháp hiện tại về

kiểm tra sản phẩm may mặc, nâng cao tính chính xác và độ tin cậy của các biện

pháp kiểm tra, tăng cường tiêu chuẩn bắt buộc và các quy định kỹ thuật và thúc đẩy

hệ thống “nhãn mác bảo vệ môi trường”.

(iv) Thành lập cơ quan đặc biệt và thực hiện nghiên cứu nghiêm túc về thoả

thuận TBT.

Các ban ngành liên quan của Trung Quốc thành lập các cơ quan đặc biệt, tổ

chức cho các chuyên gia tham gia vào quy định các tiêu chuẩn quốc tế và phản ánh

một số quan điểm và yêu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Trung

Quốc về các tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ thành lập và hoàn thiện cơ chế phản ứng

nhanh và cảnh báo sớm bằng cách tham khảo cơ chế cảnh báo sớm của EU được

chia thành bốn cấp độ từ thấp đến cao bao gồm xanh, vàng, cam và đỏ. Khi xuất

khẩu tăng mạnh, chính phủ có thể điều chỉnh cấp độ cảnh báo sớm để nhắc nhở các

doanh nghiệp nội địa về sự thay đổi. Do vậy, cơ chế cảnh báo sớm có thể tạo điều

kiện cho sản phẩm may mặc Trung Quốc xâm nhập thị trường quốc tế.

50

(v) Tăng cường bồi dưỡng nhân tài.

Ở phạm vi nào đó, cạnh tranh thị trường là cạnh tranh nhân tài. Để có thể xử

lý vấn đề đối phó với các RCKT một cách có hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc

tế, Trung Quốc rất coi trọng việc đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình

độ cao, đồng thời những cán bộ này sẽ thường xuyên tuyên truyền thông tin tới các

DN những kiến thức về các quy định chung của WTO, cũng như quy định riêng của

từng nước.

- Các biện pháp vượt RCKT của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc

(i) Các DNDM của Trung Quốc đã chủ động áp dụng các biện pháp vượt

RCKT như: đầu tư tiến bộ KHKT để cải thiện chất lượng sản phẩm và kết cấu sản

phẩm XK, bồi dưỡng nhân tài kỹ thuật, xây dựng thương hiệu DM của Trung Quốc

Chất lượng sản phẩm là chìa khoá cho sự tồn tại và phát triển của một doanh

nghiệp. Các doanh nghiệp Trung Quốc phải đầu tư nhiều hơn vào khoa học và công

nghệ, cải thiện phần kỹ thuật của sản phẩm, quảng bá các sản phẩm mới trên thị

trường quốc tế hay thực hiện đổi mới kỹ thuật để làm cho kết cấu sản phẩm xuất

khẩu thoả mãn yêu cầu của nhiều người tiêu dùng khác nhau, đặc biệt là người tiêu

dùng của các quốc gia phát triển. Đối với TBT ở thị trường EU, Mỹ và Nhật Bản,

các doanh nghiệp điều chỉnh lại kết cấu sản phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật được

thay đổi nhằm giúp các sản phẩm thâm nhập các thị trường lớn.

Một mặt, chính phủ Trung Quốc đã bồi dưỡng nhân tài. Mặt khác, các doanh

nghiệp Trung Quốc cũng bồi dưỡng nhân tài và chuyên gia xuất khẩu tại các phòng

kiểm tra chất lượng và các phòng quản lý tài chính, nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn

của chính các doanh nghiệp. Việc bồi dưỡng nhân tài thông qua luyện tập để thay

đổi quan niệm cũ, đổi mới kiến thức, cải thiện chất lượng của chính doanh nghiệp

để đương đầu với cạnh tranh quốc tế khốc liệt.

Xây dựng những thương hiệu của chính Trung Quốc. Thương hiệu được tạo

ra thông qua quá trình rèn luyện lâu dài trên thị trường. Một thương hiệu quốc tế

danh tiếng biểu tượng cho các sản phẩm chất lượng cao, người tiêu dùng tin cậy và

trung thành. Các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc luôn cố

gắng xây dựng thương hiệu của chính mình và hình thành quan niệm sản phẩm

51

đáng tin cậy, chú trọng xúc tiến, quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm dệt may

Trung Quốc ở thị trường nước ngoài.

(ii) Tuân theo luật pháp, quy định và quản lý kinh doanh đáng tin cậy.

Thương mại quốc tế nhấn mạnh hiệu quả và sự tin cậy. Bất kể ai vi phạm luật

pháp thương mại quốc tế sẽ phải bị trừng phạt bởi các quy định. Tiêu chuẩn trách

nhiệm xã hội và tiêu chuẩn môi trường sinh thái đã trở thành RCKT chính đối với

hoạt động xuất khẩu sản phẩm may mặc Trung Quốc. Do vậy, ngành may mặc

Trung Quốc trước hết thực hiện quy định lao động nghiêm ngặt, bám vào ý tưởng

định hướng con người và duy trì quyền của người lao động; thứ hai, các doanh

nghiệp Trung Quốc thiết lập cơ chế phản ứng nhanh; thứ ba, các doanh nghiệp

Trung Quốc thiết lập cơ chế giám sát chất lượng nghiêm ngặt, nâng cao ý thức bảo

vệ môi trường “xanh”. Các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện theo các quy định

bảo vệ môi trường trong toàn bộ quá trình sản phẩm từ nguyên liệu thô, sản xuất,

thiết kế, đóng gói và thải loại sau khi sử dụng các sản phẩm may mặc, thúc đẩy xác

thực bảo vệ môi trường sinh thái theo tiêu chuẩn quốc tế; thứ tư, các doanh nghiệp

Trung Quốc thiết lập cơ chế dịch vụ tin cậy.

1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ [83]

Ấn Độ cũng có một số lợi thế riêng của mình so với Trung Quốc. Trước tiên,

Ấn Độ hiện là nước sản xuất chỉ lớn nhất thế giới, chiếm 25% thị phần thế giới,

đồng thời cũng là nhà sản xuất sợi cotton hàng đầu. Với lực lượng lao động có tay

nghề dồi dào, Ấn Độ hiện là nước có lợi thế cạnh tranh hơn Trung Quốc đối với hai

mặt hàng vải bông xù, vải bông chéo. Ấn Độ có nguồn nguyên liệu ổn định, phong

phú cung cấp cho các nhà máy, thậm chí một số nhà máy còn bán nguyên liệu cho

thị trường Trung Quốc.

Ấn Độ cũng vượt trội so với Trung Quốc trên thị trường cao cấp: họ có thể

cung cấp những lô hàng có số lượng ít may mặc và đồ dùng gia đình như ga giường,

khăn tắm, thảm, mền chăn có màu sắc, cách dệt và thêu theo yêu cầu của khách

hàng. Những nhà bán lẻ luôn tìm đến Ấn Độ do họ không muốn bị phụ thuộc hoàn

toàn vào Trung Quốc.

Tuy vậy, XK DM của Ấn Độ cũng gặp rất nhiều khó khăn khi xâm nhập vào

52

các thị trường lớn như Mỹ, EU do vấp phải các RCKT. Để giảm bớt ảnh hưởng của

các RCKT đó, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp như:

- Đối với Chính Phủ:

(i) Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình kiểm tra lô

hàng và cơ chế cấp giấy chứng nhận. Nhiều DN xuất khẩu đã bị đối xử bất công từ

nước nhập khẩu trong các trường hợp liên quan đến kiểm tra và chứng nhận các tiêu

chuẩn. Chính phủ Ấn Độ cử ít nhất một cơ quan được nước ngoài công nhận đạt

chuẩn kiểm tra và xác nhận để bảo vệ lợi ích của DN xuất khẩu.

(ii) Chính phủ còn áp dụng các biện pháp mà các nước đã sử dụng với mình

như kiện bán phá giá mặt hàng khác. Ấn Độ cũng sử dụng một loạt các biện pháp

thuế quan và phi thuế với các mặt hàng của các nước xuất sang Ấn Độ để thực hiện

mục đích làm cho các nước giảm các RCKT với hàng DM.

- Đối với các DN dệt may của Ấn Độ:

(i) Lựa chọn một thế hệ các nhà quản lý mới trong ngành DM với chủ

trương quan tâm đến hoạt động sáp nhập nhằm nâng cao chất lượng và tiết kiệm

chi phí. Với việc sáp nhập các DNDM vừa và nhỏ, DM Ấn Độ có thể hình thành

các DN với quy mô lớn, đủ vốn để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng và máy móc,

đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, các yêu cầu về sinh thái và bảo vệ người

lao động.

(ii) Tiếp cận, liên kết với DN của các nước liên quan để giảm bớt chi phí, hạ

thấp các rào cản khi XK hàng DM vào các thị trường lớn: Các DN DM Ấn Độ đã

chủ động liên kết, hợp tác với các nhà XK DM các nước vùng Andes là Ecuador,

Colombia, Peru để tận dụng cơ hội từ hiệp định thương mại song phương mà Mỹ,

EU đã ký với các nước này. Một điều khoản trong hiệp định cho phép 3 nước trên

được XK vào thị trường Mỹ, EU các sản phẩm dệt làm bằng nguyên liệu từ nước

thứ 3. Nếu thiết lập được các liên doanh, các DN Ấn Độ vừa tiết kiệm được chi phí

vận tải, vừa dễ dàng vào được thị trường lớn [45]. Khó có thể cạnh tranh về giá cả

với Trung Quốc, các DN Ấn Độ tìm cách hướng sang chất lượng và mẫu mã, đa

dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa quan hệ thương mại để vượt RCKT.

53

1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan

Trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, Thái Lan luôn tìm cách đáp ứng

các yêu cầu và biện pháp kỹ thuật có tính rào cản của các nước để đẩy mạnh xuất

khẩu. Điểm mạnh của Thái Lan là sản phẩm dệt may chất lượng cao, năng suất cao,

kỹ năng thiết kế mẫu mã tốt. Đối với RCKT, Thái lan luôn chủ động phòng ngừa và

dự báo. Một mặt, tranh thủ người tiêu dùng, mặt khác Bộ Thương mại Thái Lan

luôn tìm cơ hội để giảm tổn thất cho ngành dệt may đến mức thấp nhất.

- Về phía Chính Phủ, Thái Lan yêu cầu các nhà sản xuất phải có giấy chứng

nhận đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm xuất

khẩu. Đặc biệt, Chính phủ Thái Lan đưa ra các biện pháp mạnh, đồng bộ từ trung

ương đến địa phương để quản lý và xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

Chú ý đến các biện pháp quản lý nguyên liệu nhập khẩu, chú trọng khâu kỹ thuật.

Thêm vào đó, Chính phủ còn thành lập nhiều trung tâm kiểm tra chất lượng sản

phẩm xuất khẩu, khuyến khích các DNDM áp dụng các biện pháp bảo vệ môi

trường, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ người lao động.

Chính phủ Thái Lan đã thiết lập một quy trình giải quyết các vướng mắc

liên quan đến TBT. Khi nhận được văn bản báo cáo về việc hàng xuất khẩu của

Thái Lan bị giữ tại cửa khẩu, lãnh sự Thái Lan tại quốc gia đó sẽ thu thập thông

tin đầy đủ và yêu cầu DN xuất khẩu của Thái Lan kiểm tra lại sản phẩm của mình.

Nếu lệnh cấm đó dựa trên thông tin sai lệch, phía Thái Lan sẽ chủ động thương

lượng. [99].

Mặt khác, kinh nghiệm của Thái Lan đối phó với các rào cản kỹ thuật của

các nước còn là áp dụng lại các biện pháp mà các nước đã sử dụng với mình như

kiện bán phá giá mặt hàng khác. Thái Lan cũng sử dụng một loạt các biện pháp thuế

quan và phi thuế với các mặt hàng của các nước xuất sang Thái Lan để thực hiện

mục đích khiến các nước giảm các rào cản kỹ thuật với hàng dệt may, v.v.

- Với các DN của Thái Lan, họ tập trung đầu tư công nghệ, các phương tiện

hiện đại để có thể kiểm định chất lượng tại chỗ, đáp ứng tốt các tiêu chuẩn kỹ thuật

của đối tác kinh doanh.[18]

54

1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam [15],[32],[56],[57]

1.3.2.1. Bài học thành công có thể vận dụng

Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan là những nước có nhiều điểm tương đồng với

Việt Nam và các nước này có kim ngạch XK hàng DM lớn trên thế giới. Qua

nghiên cứu kinh nghiệm của các nước này về vượt RCKT đối với hàng DMXK, cho

phép rút ra một số bài học hữu ích sau đây:

- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:

(i) Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, tuyên truyền, phổ biến cho DN về

các quy định, chính sách thương mại của các nước nhập khẩu đối với hàng DM.

Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy để đối phó với RCKT hàng DM, vấn

đề thu thập thông tin cho DN có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Đây là công việc

và trách nhiệm của các cơ quan QLNN, các hiệp hội, các cơ quan tư vấn và đào tạo.

Để các DNDM chủ động chuẩn bị các điều kiện nhằm vượt rào cản trong XK

hàng vào thị trường lớn trên thế giới, các nước trong đó có Trung Quốc, rất coi trọng

công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật cũng như chính sách thương mại của

những nước nhập khẩu. Việc này được thực hiện bởi các tổ chức Chính phủ, các tổ

chức phi chính phủ và các cơ quan thông tin, tư vấn pháp luật... Nhờ có sự chuẩn bị

chu đáo nên các DN có khả năng vượt rào cản tương đối thuận lợi.

(ii) Đổi mới QLNN, nâng cao năng lực đàm phán, giải quyết tranh chấp

thương mại của Nhà nước: Đây là biện pháp rất quan trọng đã giúp Trung Quốc

thành công trong vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM. Việc gia nhập WTO đòi hỏi

Trung Quốc không những phải tăng nhanh cải cách thể chế pháp lý theo hướng kinh

tế thị trường, mà còn đòi hỏi Chính phủ Trung Quốc phải dựa vào các quy luật kinh

tế thị trường để quản lý và điều tiết nền kinh tế đất nước, tách rời QLNN và DN,

các chính sách của nhà nước phải được minh bạch hoá, quy phạm pháp luật phải

được thể chế hoá và Trung Quốc phải chú trọng đến việc nghiên cứu và đưa ra các

chính sách hợp lý. Mặc dù đã có các quy định của WTO về các nguyên tắc và các

biện pháp có thể được áp dụng khi ban hành các chính sách thương mại và các quy

định về tiêu chuẩn kỹ thuật có tính chất như RCTM để thực hiện mà không vi phạm

quy định về đối xử quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tế quan hệ thương mại song

55

phương vẫn thường phát sinh những vấn đề tranh chấp. Kinh nghiệm của các nước

trong việc giải quyết vấn đề này thường là chủ động đàm phán để có được các nhân

nhượng thương mại tạm thời. Khi không thoả thuận được để có những nhân nhượng

tạm thời thì cần cân nhắc tới lợi ích kinh tế để có các ứng xử khi giải quyết tranh

chấp hơn là theo đuổi các mục tiêu “ta đúng, đối tác sai”. Tăng cường năng lực đàm

phán và giải quyết tranh chấp sẽ giúp các chính phủ có các đối sách sáng suốt và

phù hợp để giải quyết tranh chấp thương mại.

(iii) Đầu tư các nguồn lực nhằm thúc đẩy tiến bộ KHKT, bồi dưỡng nhân tài

trong lĩnh vực dệt may, cơ chế chính sách tài chính, đầu tư… giúp DN vượt RCKT

Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp của Trung Quốc trên thị

trường thế giới và trong nước, Trung Quốc cho rằng tuyệt đối không thể thiếu việc

thúc đẩy tiến bộ KHCN. Không thể chỉ dựa vào hoạt động nhập khẩu KHCN để

nâng cao số lượng và chất lượng của sản phẩm mà Nhà nước cần phải đầu tư cho

nghiên cứu, ứng dụng KHCN ngay trong nước. Do vậy, Trung Quốc cũng đã xây

dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý cho hoạt động sáng tạo khoa học kỹ

thuật phù hợp với thể chế của nền kinh tế thị trường và các nguyên tắc của WTO.

Trung Quốc căn cứ vào các Hiệp định và điều khoản ưu đãi cho các nước đang phát

triển để xây dựng và hoàn thiện các chính sách về tài chính, đầu tư, thuế cho hoạt

động nghiên cứu triển khai cho DN. Nhà nước Trung Quốc còn chủ trương giảm số

lượng và giảm tỷ trọng đầu tư cho các cơ quan nghiên cứu của Bộ, ngành, thúc đẩy

cải cách của các viện nghiên cứu, quyết tâm đào thải các xí nghiệp và các sản phẩm

có tính năng kỹ thuật lạc hậu, tốn nguyên liệu, tổn hại đến môi trường. Tạo điều

kiện tốt cho tất cả các nhân tài khoa học kỹ thuật được tuyển chọn và sử dụng theo

hướng thị trường hoá để họ có thể phát huy tối đa năng lực của mình.

(iv) Chính phủ và các Bộ ngành liên quan luôn chú ý, quan tâm và hỗ trợ

thích hợp cho việc thành lập các trung tâm kiểm tra chất lượng đối với các sản

phẩm xuất khẩu, yêu cầu các nhà xuất khẩu phải có giấy chứng nhận đảm bảo tiêu

chuẩn quốc gia. Đồng thời, Chính phủ hỗ trợ các DNXK trong quá trình kiểm tra

các lô hàng xuất khẩu, cơ chế cấp giấy phép….Đây là một trong số các chính sách,

biện pháp hết sức hiệu quả để đáp ứng các RCKT của đối tác đưa ra, đồng thời góp

56

phần loại bỏ các DNXK, các hàng hóa không đáp ứng tiêu chuẩn nhưng vẫn xuất

khẩu và do đó bị đối tác nhập khẩu gây ách tắc và trả đũa.

- Bài học cho các DN dệt may Việt Nam:

(i) Chủ động và sẵn sàng đối phó với các RCKT của các nước nhập khẩu

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, cần phải xác định rõ việc đối phó và tìm

cách vượt RCKT đối với hàng DM là tất yếu và các DNDM cần chủ động. Các

DNDM vừa chủ động tìm hiểu, nghiên cứu về các quy định, tiêu chuẩn của các nước

nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường lớn vừa đề nghị các cơ quan Nhà nước hỗ trợ.

Chủ động nâng cao năng lực nội tại để đáp ứng với RCKT như đầu tư đổi mới trang

thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm và an toàn cho sử dụng; tích cực chuyển

hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội. Các DN của

cả Trung Quốc và Ấn Độ đều tích cực đưa ra và áp dụng những biện pháp để có thể

cải tạo cơ sở sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, trách nhiệm xã hội giúp

hàng DM có thể dễ dàng vượt qua các RCKT mới của các thị trường nhập khẩu.

(ii) Có biện pháp phòng ngừa để giảm rủi ro thông qua các hoạt động đầu tư,

liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài trong các liên minh thương

mại có sự tham gia của các nước nhập khẩu chính để giảm bớt chi phí, hạ thấp các

rào cản khi XK hàng DM vào các thị trường lớn, nâng cao năng lực vượt rào. Kinh

nghiệm này của Ấn Độ rất đáng học hỏi vì đó là một cách tiếp cận thị trường hiệu

quả, tránh được các tác động lớn của RCTM.

Tuy nhiên, để vận dụng thành công các bài học kinh nghiệm ở trên thì Việt

Nam cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ quan, Bộ ngành từ Trung Ương đến địa

phương, cam kết chặt chẽ của các cấp lãnh đạo, sự phối hợp của cộng đồng doanh

nghiệp, sự ổn định của môi trường kinh tễ vĩ mô và có lộ trình áp dụng rõ ràng.

Đồng thời, Việt Nam cần chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện được các chương

trình, dự án nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng dệt may.

1.3.2.2. Bài học không nên vận dụng

Bên cạnh những bài học thành công có thể vận dụng, qua nghiên cứu kinh

nghiệm của các nước nêu trên, có thể rút ra một số bài học cần tránh để không gặp

rủi ro, tổn thất.

57

- Thứ nhất, Việt Nam không nên áp dụng biện pháp trả đũa các nước nhập

khẩu. Việt Nam chưa đủ lớn, đủ mạnh như Trung Quốc để có những biện pháp trả

đũa các biện pháp của các nước nhập khẩu. Và nếu bị trừng phạt như Trung Quốc,

nền CNSX hàng DMXK của Việt Nam rõ ràng bị đe dọa và chắc chắn sẽ chịu nhiều

thiệt thòi [32]. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy trong quá trình thiết lập quan

hệ thương mại với các quốc gia phát triển trên thế giới, cần phải chủ động trong việc

nâng cao năng lực cạnh tranh và điều tiết XK.

- Thứ hai, Việt Nam không nên áp dụng chính sách phát triển quá n h a n h

đối với hàng DM vì có thể dẫn đến việc đứng trước nguy cơ đánh mất thị phần.

Bài học từ Trung Quốc cho thấy, các DNDM ở các nước đã phải lên tiếng kêu

gọi chính phủ của họ tìm các biện pháp giúp đỡ và Trung Quốc đã bị tái áp hạn

ngạch tại thị trường EU, Hoa Kỳ.

Tóm lại, rào cản kỹ thuật thương mại ngày nay không chỉ là vấn đề của mỗi

quốc gia nói riêng mà mang tính toàn cầu. Chương 1 của luận án đã nghiên cứu,

làm rõ, hệ thống hóa và phát triển một số vấn đề lý luận về rào cản kỹ thuật và vượt

rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế đối với hàng dệt may xuất khẩu. Cụ thể,

tác giả đã đưa ra và luận giải khái niệm về rào cản kỹ thuật, vượt rào cản kỹ thuật,

đồng thời thể hiện rõ quan điểm của mình trong phân loại rào cản kỹ thuật, các loại

rào cản kỹ thuật chính đối với hàng dệt may xuất khẩu. Luận án cũng phân tích

luận giải về phương thức vượt RCKT và hình thành khung phân tích về vượt RCKT

đối với hàng dệt may xuất khẩu.

Ngoài ra, nội dung chương 1 cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt rào cản

kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ,

Thái Lan cả trên bình diện nhà nước và doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp

hỗ trợ của Nhà nước và các nỗ lực vượt RCKT của bản thân DN, rút ra những bài

học có thể áp dụng và không nên áp dụng vào Việt Nam.

Các nội dung trong chương 1 trên được sử dụng làm căn cứ xuyên suốt

trong toàn bộ luận án, từ việc đánh giá thực trạng, xác định các quan điểm, định

hướng đến việc đưa ra các giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK.

58

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG ĐỂ VƯỢT RÀO CẢN

2. 1. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM

HIỆN NAY.

2.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam [46]

DM là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản phẩm DM của Việt Nam không ngừng phát triển

về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch, trở thành một trong số mặt

hàng XK chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những

thành công của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi

đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng 6.000 doanh nghiệp dệt may; thu hút hơn 2,5

triệu lao động; chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công nghiệp Việt

Nam. Theo số liệu của VITAS, mỗi 1 tỷ USD xuất khẩu hàng dệt may có thể tạo ra

việc làm cho 150 - 200 nghìn lao động, trong đó có 100 nghìn lao động trong doanh

nghiệp dệt may và 50 - 100 nghìn lao động tại các doanh nghiệp hỗ trợ khác. Phần

lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (84%); tập trung ở Đông Nam

Bộ (60%) và đồng bằng sông Hồng. Các doanh nghiệp may chiếm khoảng 70%

tổng số doanh nghiệp trong ngành với hình thức xuất khẩu chủ yếu là CMT (85%).

Về cơ cấu XK: hàng DM của Việt Nam XK chủ yếu theo hình thức gia công

cho nước ngoài và nguyên vật liệu chủ yếu là nhập khẩu. Năm 2013, tỷ trọng hai

loại hình này chiếm hơn 96% trong tổng kim ngạch XK hàng DM của cả nước;

trong đó, xuất gia công chiếm 75, 3%, xuất sản xuất XK chiếm 21, 2%.

Về kim ngạch XK: Trong giai đoạn 2001 - 2012, dệt may là ngành sản xuất

có giá trị xuất khẩu cao chỉ đứng sau ngành dầu khí. Xuất khẩu dệt may liên tục

được mở rộng và là ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất nhưng chủ yếu

59

tăng trưởng về lượng. Tính bình quân cả giai đoạn, giá trị kim ngạch xuất khẩu

ngành hàng năm tăng khoảng 20%.

Về thị trường xuất khẩu: Hàng dệt may XK của Việt Nam hiện nay đã có mặt

ở 54 thị trường trên thế giới và hiện Việt Nam đứng trong top 5 nước xuất khẩu lớn

nhất thế giới, xuất khẩu lớn thứ 2 tại thị trường Hoa kỳ, thứ 3 tại thị trường Nhật Bản,

thứ 9 tại thị trường EU.

Trong các thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thì Hoa Kỳ luôn

dẫn đầu với kim ngạch đạt 8,550 tỷ USD, chiếm 42,71 % trong tổng kim ngạch xuất

khẩu hàng dệt may của cả nước trong năm 2013. Đồng thời trong số các nhóm hàng

của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ thì hàng dệt may cũng dẫn đầu với tỷ

trọng chiếm 37,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.

EU với 28 nước thành viên hơn 500 triệu người tiêu dùng là một thị trường

tiêu thụ khổng lồ đối với mặt hàng dệt may thế giới, cũng là thị trường nhập khẩu

lớn thứ hai của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, lượng và kim ngạch

hàng dệt may của Việt Nam xuất sang khối này còn rất nhỏ bé so với tiềm năng của

thị trường, dẫu rằng kim ngạch xuất khẩu cũng đã tăng. Thị trường EU luôn đòi

hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục, mặt khác yêu cầu về môi trường

và trách nhiệm xã hội đối với hàng dệt may của EU cũng rất khắt khe. Vì vậy, điều

quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường EU là phải nâng cao chất lượng và

đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, đáp ứng tốt các rào cản kỹ thuật

mà EU đặt ra nhằm cạnh tranh với các nước khác để tăng XK sang thị trường này.

Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 3 của Việt Nam sau

thị trường Mỹ và EU, nhưng lại là thị trường có kim ngạch nhập khẩu tăng rất mạnh

thời gian từ 2007 đến nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang

Nhật Bản đã tăng từ mức 700 triệu USD năm 2007 lên mức 2.410 triệu USD năm

2013. Hiện nay, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản

được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP của Nhật Bản. Đây là một trong những

thuận lợi lớn cho ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh không chỉ về

kim ngạch, mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh cả về khối lượng. Tuy

60

nhiên, hàng dệt may của Việt Nam đang phải đương đầu với sự cạnh tranh hết sức

khốc liệt của hàng dệt may Trung Quốc và của các nước ASEAN khác.

Với nhiều nỗ lực trong việc đổi mới qui trình công nghệ, trang bị máy móc

thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu, hàng dệt may

cũng đang dần chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản và tạo được ấn tượng tốt về

chất lượng và giá cả cũng như tính thời trang của sản phẩm đối với người tiêu dùng

Nhật Bản. Việt Nam chủ trương đánh giá cao thị trường này và coi đó là một bạn

hàng mang tính chiến lược lâu dài.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013 phân theo khu vực thị trường nhập khẩu

Đơn vị: Triệu USD

2009

2010

2011

2012

2013

Thị trường

2007

2008

4.995

6.118

6.872

7.428

8.550

Hoa Kỳ

4.400

5.100

1.603

1.883

2.506

2.356

2.890

EU

1.500

1.700

954

1.154

1.684

1.958

2.410

Nhật Bản

700

820

1.532

2.055

4.669

5.276

6.170

Khác

1.180

1.510

7.780

9.130

Tổng cộng

9.084

11.210 15.731

17.018

20.020

Nguồn: Tổng cục Hải quan.

XK

Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng DM VN trong giai đoạn 2007-2013

Nguồn: Tổng cục Hải quan

61

2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu dệt may của Việt Nam

thời gian qua.

Trong những năm qua, ngành DM Việt Nam đã trải qua không ít khó khăn

trở ngại, song ngành vẫn vượt qua và phấn đấu để đạt được những kết quả và thành

tựu lớn. Ngoài việc giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động xã hội,

ngành DM cũng đóng góp nhiều cho sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.

Kim ngạch XK DM không ngừng tăng qua các năm, đưa DM trở thành một trong

hai nhóm mặt hàng XK chủ lực có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam những năm

qua, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước để trang trải yêu cầu nhập khẩu máy

móc thiết bị công nghệ và nguyên vật liệu phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động và cải thiện thu nhập cho gia đình họ,

đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội và tăng nguồn

kinh phí cho bảo vệ môi trường.

Những thành tựu xuất khẩu dệt may trong thời gian vừa qua có một phần

nguyên nhân từ việc Việt Nam chủ động tự do hóa thương mại thông qua quá trình

hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mà điểm quan trọng nhất là gia nhập WTO.

Nhờ quá trình này, các doanh nghiệp dệt may đã có tiếp cận tốt hơn đối với các thị

trường xuất khẩu, và được bảo vệ tốt hơn theo các quy định của WTO cũng như của

các hiệp định thương mại. Bên cạnh đó, sự phát triển của ngành dệt may, đặc biệt

trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng một phần nhờ các chính sách, biện pháp hỗ trợ của

Chính phủ Việt Nam, cũng như nỗ lực của Hiệp hội Dệt May Việt Nam. Chính phủ

đã có Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn

đến 2020, trong khi đó, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cũng góp phần đưa tiếng nói

của doanh nghiệp đến với các cơ quan quản lý, và thực hiện tốt công tác tìm hiểu

thị trường để phổ biến thông tin cho doanh nghiệp. Đồng thời, các DNDMVN cũng

chủ động tìm hiểu về thông tin, các quy định từ phía khách hàng từ đó sản xuất sản

phẩm đáp ứng được yêu cầu của đối tác.

Ngành dệt may Việt Nam có một số điểm mạnh. Trước hết, trang thiết bị của

ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá cao. Các sản phẩm đã có chất

62

lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, và

Nhật Bản chấp nhận.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn

bó chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản

thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi

phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt.

Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về

xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản

thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở

rộng tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất

khẩu nói riêng, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể hiện xu hướng

tăng trong thời gian qua.

Tuy vậy, ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu

phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ

lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp.

Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa t-

ương xứng với ngành may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất

khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Như đã phân

tích ở trên, tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm

hơn so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành

may mặc đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu.

Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy

động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính

quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô,

và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn

đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức

thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít

nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời

63

điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế

chính là những dẫn chứng tiêu biểu.

Mặt khác, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài

bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn

hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của

mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.

Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong

thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các

nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực

mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất,

kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Bên cạnh

đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và

kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.

Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và

thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như

Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong

khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v). Những

cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp

dẫn đối với các nhà đầu tư và mở ra những thị trường mới với các quan hệ hợp tác

mới. [31]

2.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CHÍNH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM.

2.2.1. Rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng

DMXK của Việt Nam

2.2.1.1. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Hoa Kỳ

Hoa Kỳ với hơn 313 triệu người tiêu dùng (năm 2012) và mức sống vào

hàng cao nhất thế giới là thị trường tiêu dùng hàng hóa lớn nhất thế giới. Thị trường

Hoa Kỳ có những yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với hàng hóa tiêu dùng và hệ thống

64

RCKT của Hoa Kỳ cũng vào loại khắt khe nhất thế giới. Đối với hàng DM, có thể

kể đến một số RCKT thương mại tiêu biểu của Hoa Kỳ như sau:

(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm DM. [52],[44],[70]

Điểm đặc biệt trong tiêu chuẩn chất lượng của Hoa Kỳ là ở chỗ nước này

không sử dụng tiêu chuẩn quốc tế và phụ thuộc nhiều vào các chứng chỉ bắt buộc.

Mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành ở

Hoa Kỳ tương đối thấp, thậm chí các tiêu chuẩn này không được biết đến tại Hoa

Kỳ dù rằng tất cả các thành viên tham gia Hiệp định TBT đều cam kết sử dụng rộng

rãi hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Một số tiêu chuẩn của Hoa Kỳ được coi là "tương

đương về mặt kỹ thuật" với các tiêu chuẩn quốc tế. Ở Hoa Kỳ, không có thị trường

thống nhất toàn liên bang đối với hàng DM do có sự khác biệt về yêu cầu kỹ thuật

và tiêu chuẩn sản phẩm giữa liên bang và bang, giữa các khu vực hoặc bang với

nhau, hoặc thậm chí giữa các quận và thành phố với nhau. Do vậy, các nhà sản xuất

nước ngoài muốn tiêu thụ những sản phẩm này tại các nơi khác nhau ở Hoa Kỳ phải

thay đổi các tiêu chuẩn cho phù hợp không những với tiêu chuẩn liên bang, mà còn

với các tiêu chuẩn ở các địa phương cụ thể. Sự thay đổi này sẽ phát sinh chi phí sản

xuất, điều này gây cản trở không nhỏ đối với các nhà XK nước ngoài.

Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng DM của Hoa Kỳ là vô cùng

phức tạp do nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các hiệp hội, các tổ chức

quốc tế nghiên cứu và phát triển, áp dụng tiêu chuẩn nào là tuỳ thuộc vào từng

khách hàng cụ thể. Ví dụ:

- Các tiêu chuẩn về kiểm tra màu sắc nhuộm sản phẩm dệt, công nghệ hoàn

tất, làm sạch sản phẩm DM do Hiệp hội các chuyên gia hoá học và màu sản phẩm

dệt của Hoa Kỳ (American Association of Textile Chemists and Colorists) và Tổ

chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO), Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ

(American Textile Manufacturers Institute) quy định.

- Đối với từng loại sản phẩm cụ thể cũng có những tiêu chuẩn chất lượng

riêng: các tiêu chuẩn về vải công nghiệp do Hiệp hội vải công nghiệp quốc tế

(Industrial Fabrics Association International), Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, Hiệp hội

65

các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ quy định; các tiêu chuẩn về quần áo ngủ do Hiệp

hội sản phẩm quần áo ngủ quốc tế (International Sleep Products Association) quy

định; các tiêu chuẩn về vải không dệt do Hiệp hội vải không dệt (Association of

Nonwoven Fabrics Industry), Hiệp hội kiểm tra và vật liệu Hoa Kỳ (American

Society for Testing and Materials) và Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế quy định.

(ii) Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng.

Hầu hết hàng DM nhập vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ các quy định của Luật

về Sản phẩm dễ cháy (FFA). Luật này có qui định về tính dễ bén lửa đối với hàng

DM. Theo quy định mới thì vải sợi, hàng DM nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải đáp ứng

tiêu chuẩn về vải dễ cháy để tránh trường hợp sản phẩm quá dễ cháy, gây hại cho

người tiêu dùng. Các loại vải mỏng, vải xốp thường dễ bắt cháy và cháy rất nhanh.

Các loại quần, áo, thảm, đồ ngủ của trẻ em... đều có mức tiêu chuẩn cháy khác nhau.

Không ai có thể XK vào Hoa Kỳ hàng may mặc hoặc đồ trang trí nội thất hoặc bất kỳ

loại vải hay chất liệu liên quan nào để sử dụng cho các sản phẩm đó, nếu người sản

xuất không tuân thủ các tiêu chuẩn về hàng dễ cháy. Có một số sản phẩm được nhập

vào Hoa Kỳ rồi gia công lại để giảm tính chất dễ cháy của chúng sao cho đáp ứng

được tiêu chuẩn của này, nếu có phải ghi trong hóa đơn hay giấy tờ liên quan khác

của lô hàng [58].

Cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ trên áo, đặc biệt là áo trẻ

em. Mặc dù luật đã cấm quần áo có dây thắt nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ lâu, nhưng

thời gian qua vẫn có nhiều loại quần áo trẻ em có dây thắt được nhập vào Hoa Kỳ.

Luật mới nghiêm khắc cấm điều này nên các nhà sản xuất Việt Nam phải chấm dứt

sản xuất hàng có dây thắt.

Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng có quy định mới về nồng độ chì trong sản phẩm. Từ

tháng 2-2009, các sản phẩm dệt sẽ chỉ được nhập khẩu vào Hoa Kỳ nếu đáp ứng

tiêu chuẩn về nồng độ chì. Bà Nancy A. Nord, ủy viên cao cấp của Ủy ban An toàn

sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ, cho biết: “Nồng độ cho phép thấp đến mức có thể

nói đơn giản là không có chì”.

Đặc biệt, hàng DMXK vào thị trường Hoa Kỳ phải có báo cáo kiểm tra của

66

phòng thí nghiệm về việc sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn mới. Chỉ những phòng thí

nghiệm đạt chuẩn, được công nhận theo tiêu chuẩn quốc tế mới có chức năng kiểm

tra sản phẩm và đưa ra báo cáo kiểm tra có giá trị. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ đã công

bố trình tự công nhận phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn. [24]

(iii) Tiêu chuẩn môi trường.

Tại Hoa Kỳ, luật bảo vệ môi trường được thể hiện rất chặt chẽ và thực hiện

từ 1/1/2010. Ở cấp độ liên bang đã có rất nhiều đạo luật liên quan đến môi trường

được áp dụng, trong đó quan trọng nhất phải kể đến hệ thống quản lý môi trường

ISO 14000. Các tiêu chuẩn môi trường yêu cầu hàng DMXK vào Hoa Kỳ phải là

các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ

đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất. Các quy

định và tiêu chuẩn môi trường gồm các quy định về đóng gói, bao bì; các quy định

về ghi nhãn; các quy định và tiêu chuẩn về phương pháp sản xuất, chế biến sản

phẩm (PMM). Những năm gần đây đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kể trong

việc sử dụng các loại nhãn mác môi trường trên sản phẩm hoặc trên bao bì sản

phẩm ở Hoa Kỳ để nhấn mạnh đến các thuộc tính và đặc điểm về môi trường của

chúng. Hầu hết các nhãn mác này được sử dụng một cách tự nguyện và do nhà sản

xuất hoặc người bán lẻ chủ động quyết định, nhằm mục đích tiếp thị khuyếch

trương thương hiệu hàng hóa của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp và theo

xu hướng phát triển, các nhãn hiệu đó có thể bị bắt buộc. Những quy định đó nhằm

để cảnh báo người tiêu dùng về tính chất độc hại của sản phẩm đối với môi trường.

[44],[70]

(iv) Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội

Bên cạnh các tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn và môi trường, các vấn đề

lao động và trách nhiệm ngày càng có phần quan trọng cao hơn đối với người tiêu

dùng Hoa Kỳ. Điều này cũng khiến cho hàng rào kỹ thuật của thị trường Hoa Kỳ

càng khó vượt qua hơn. Đối với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, Hoa Kỳ áp dụng phổ

biến hai tiêu chuẩn, đó là tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (Social Accountability

8000-SA8000) và chương trình chứng nhận WRAP.

67

- Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội SA 8000 không phải là một bộ quy tắc

ứng xử duy nhất và các DN buộc phải lựa chọn, do đây vốn là quy tắc mang tính

chất tự nguyện, song khi XK sang thị trường Hoa Kỳ, SA 8000 được coi như giấy

thông hành cho các DN, đặc biệt là DN sử dụng nhiều lao động. Khi DN đã có

chứng chỉ SA 8000, điều đó chứng tỏ được trách nhiệm của DN về măt xã hội và từ

đó DN sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối tác và việc XK hàng hóa sẽ

thuận lợi hơn. Tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung về

quyền con người. Các yêu cầu của tiêu chuẩn phù hợp với những qui định trong các

công ước của Tổ chức lao động thế giới (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về

quyền trẻ em và Tuyên bố chung về nhân quyền.

- Tiêu chuẩn trách nhiệm sản xuất toàn cầu (WRAP - Worldwide

Responsible Accredited Production): WRAP là một tiêu chuẩn độc lập của sản xuất

đúng với nguyên tắc ứng xử, được thực hiện và kiểm soát một cách độc lập và bảo

đảm rằng hoạt động của các nhà sản xuất đúng nguyên tắc ứng xử theo một quy tắc

gắn kết và bao hàm toàn diện. [81].

(v) Các quy định liên quan tới nhãn hàng DM

Trong nhãn hàng DM của Hoa Kỳ quy định rất chặt chẽ các phần phải có bắt

buộc gắn trên hàng hoá. Nhãn hàng DM phải chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan

đến hàng hóa. Bao gồm:

- Nhãn phải ghi rõ thành phần sợi: Theo luật và các quy định về hàng dệt và

hàng len thì sản phẩm có sợi như sợi, vải vóc, quần áo và các mặt hàng gia đình

khác phải được ghi nhãn chỉ rõ thành phần sợi. Tên và tỷ trọng của mỗi loại thành

phần sợi được ghi lần lượt theo trật tự giảm dần. Ví dụ: 65% cotton, 35% polyester.

Nếu sản phẩm làm từ một loại sợi thì ghi “all” (toàn phần) hay ghi 100%. Không

cần phải khai báo thành phần của fec-me-tuya, cúc, các loại hạt, các miếng đáp

bằng hình vẽ, hoặc bất kỳ một bộ phận nào không được làm từ sợi, chỉ hay vải. Nói

chung chỉ cần nêu tên các loại sợi chiếm từ 5% trọng lượng sợi trở lên. Sợi chiếm

dưới 5% cần được ghi nhãn là “sợi khác” hoặc “các loại sợi khác” (nếu sợi đó

chiếm dưới 5% nhưng có tầm quan trọng đáng kể về chức năng ở mức tỷ trọng ấy

thì có thể ghi cụ thể).

68

Việc xác định chính xác thành phần sợi để ghi vào nhãn hàng DM đối với

các DN Việt Nam không đơn giản. Bên cạnh đó chất lượng của hàng hoá (thành

phần sợi) trong cả lô hàng thường không nhất quán, mặc dù đã cho phép sai số 3%

nhưng nhiều lô hàng vẫn không thể đảm bảo được và bị trả lại. Ghi nhãn chính xác

là một việc làm không thể bỏ qua đối với hàng DM muốn vào thị trường Hoa Kỳ,

đây đang là RCKT mà các DN Việt Nam phải vượt qua.

- Nhãn phải ghi hướng dẫn sử dụng: Trên các nhãn hiệu sản phẩm phải ghi

hướng dẫn bảo quản sử dụng sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu sau: người tiêu

dùng phải thực hiện được, dễ đọc trong suốt thời gian sử dụng quần áo, được in trên

thẻ treo hoặc ở mặt ngoài của bao bì nếu nhãn hiệu không thể nhìn thấy, đính kèm

với sản phẩm trước khi hàng hoá được bán ở Hoa Kỳ, có dịch sang tiếng Anh nếu

sử dụng các ký hiệu quốc tế. Hướng dẫn bảo quản phải bao gồm các mục như giặt,

tẩy, sấy, là, cảnh báo đặc biệt như phải giặt riêng, dung môi có thể làm hỏng hàng

hoá, dung môi an toàn để giặt quần áo. Ký hiệu bảo quản không bắt buộc, nhưng

những ký hiệu được sử dụng phải được Hiệp hội Hoa Kỳ về kiểm tra và nguyên liệu

(ASTM) đưa ra. Hiện nay, Hoa Kỳ và đại diện tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đang hợp

tác để hài hoà các ký hiệu hướng dẫn bảo quản vào hệ thống quốc tế.

- Nhãn phải ghi công ty sản xuất, nước xuất xứ: ghi xuất xứ hàng hoá có vai

trò quan trọng trong việc xác định mức thuế áp dụng co hàng DM. Bên cạnh đó,

việc ghi xuất xứ trên nhãn hàng DM còn giúp cho người tiêu dùng và các nhà kinh

doanh tại Hoa Kỳ xác định được đó là sản phẩm nước nào để lựa chọn.

Trong Luật về hàng dệt và hàng len quy định xuất xứ phải luôn luôn được

ghi trên mặt trước của nhãn hàng. Thành phần sợi và danh tính nhà sản xuất hoặc

nhà kinh doanh có thể xuất hiện trên mặt sau của nhãn hàng.

(vi) Quy định về xuất xứ hàng DM

Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm tới quy định về xuất xứ hàng DM vì những quy

định này liên quan tới việc thực hiện các ưu đãi về thuế.

Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ (CBP - Customs and Border

Protection) áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa thuộc diện không được hưởng ưu đãi

như mô hình sau:

69

Quy tắc XX không

ưu đãi

Tiêu chuẩn “chế biến lớn”

Tiêu chuẩn “đáp ứng toàn bộ”

Sản phẩm

Tất cả các sản

DM

Toàn bộ quá trình

phẩm khác

phẩm của một nước

cụ thể

Phương pháp

dỡ bỏ thuế quan

Xem xét từng trường hợp dựa

trên sự thay đổi về tên, đặc tính,

hoặc phương pháp sử dụng

SX, chế tạo sản

Hình 2.2. Áp dụng quy tắc xuất xứ không ưu đãi của Hải quan Hoa Kỳ

Nguồn: WTO, US Trade Policy Review 12/2012

Đối với hàng hóa được ưu đãi thuế: Do việc Hoa Kỳ không ngừng tăng số

lượng các FTA với các nước đã dẫn đến sự phát triển của bộ quy tắc xuất xứ ưu đãi

áp dụng cho hàng hóa của các nước có FTAs với Hoa Kỳ. Mỗi FTA đều có QTXX

riêng tùy vào năng lực đàm phán của các bên. QTXX ưu đãi được sử dụng cho các

chương trình ưu đãi thương mại không có đi có lại chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn “đáp

ứng toàn bộ” - "wholly obtained" criteria, hoặc theo tiêu chuẩn “chế biến lớn” -

“substantial transformation” criteria, được xác định bằng cách sử dụng yêu cầu hàm

lượng giá trị nội địa tối thiểu trong tổng giá trị được định giá. Trái lại, các bộ quy

tắc xuất xứ trong các FTA của Mỹ được hình thành dựa trên QTXX của Hiệp định

NAFTA lại chủ yếu sử dụng các quy tắc sản phẩm cụ thể, chủ yếu dựa trên phương

pháp luận dỡ bỏ thuế quan và/hoặc tiêu chuẩn hàm lượng khu vực. Quy tắc sản

phẩm cụ thể dựa trên mã số phân loại HS và có thể được mở rộng đến chương, mục

và tiểu mục HS. Các FTA mà Mỹ tham gia như NAFTA, CAFTA-DR, FTA với Úc,

70

Chi Lê, Peru và Singapore hầu hết đều dùng sự thay đổi trong phân loại hàng hóa

HS để xác định xuất xứ hàng hóa với bộ phận, linh kiện được sản xuất ở nhiều

nước. Ngoài ra, với cùng một FTA, có thể áp dụng QTXX khác nhau cho từng

chương HS hay từng nước. Như đối với hàng DM là một ví dụ điển hình với quy tắc

“từ sợi trở đi” - "yarn forward" đối với nhiều loại sản phẩm. Quy tắc này chủ yếu

yêu cầu 3 công đoạn hay mức độ chế biến của sản phẩm là sản xuất sợi, vải và quần

áo để tính hàm lượng giá trị khu vực để áp dụng QTXX ưu đãi. Các ngành công

nghiệp của Hoa Kỳ được ghi nhận là có ảnh hưởng rất lớn đối với sự thay đổi

QTXX ưu đãi trong đàm phán. Sự tăng nhanh của các QTXX khác nhau, tính chất

phức tạp và thiếu minh bạch trong áp dụng QTXX của Hoa Kỳ đã trở thành một

trong những RCTM lớn đối với XK hàng DM của Việt Nam sang thị trường này.

2.2.1.2. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường EU

Cùng với xu thế chung trong TMQT, các nước EU không sử dụng nhiều biện

pháp hạn ngạch, thuế quan mà tập trung hướng đến xây dựng hàng rào phi thuế

quan, trong đó RCKT là biện pháp phổ biến nhất. Là thành viên của tổ chức WTO

nên chế độ quản lý nhập khẩu của EU cũng dựa trên những nguyên tắc của tổ chức

này nhằm bảo hộ người tiêu dùng và nền sản xuất trong nước. Riêng đối với hàng

DM, hệ thống RCKT của thị trường này cũng hết sức khắt khe [25]. Bao gồm:

(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.

Các thành viên EU là những nước đi đầu trong việc áp dụng ISO 9000. Tiêu

chuẩn quản lý chất lượng là không bắt buộc bởi đăng ký tiêu chuẩn chất lượng là

quá trình tự nguyện ở hầu hết các nước. Do vậy, việc yêu cầu phải có chứng chỉ

ISO 9000 còn tùy thuộc vào từng đối tác, từng công ty hay sản phẩm cụ thể. Tuy

nhiên, theo tư vấn từ Trung tâm thông tin Kinh doanh Châu Âu, một khi DN được

cấp chứng chỉ theo tiêu chuẩn quản lý được quốc tế công nhận thì có nghĩa là sản

phẩm của DN đó sẽ thâm nhập thị trường này một cách dễ dàng hơn, nhất là đối với

hàng hóa từ các nước đang phát triển. Riêng đối với EU - một thị trường đặc biệt

khó tính, ISO 9000 được coi như là quy tắc bất thành văn bởi chứng chỉ ISO đôi khi

có thể thay thế cho chứng chỉ chất lượng sản phẩm với điều kiện DN đã đáp ứng đủ

tiêu chuẩn châu Âu "EN 29002 hoặc EN 29003".

(ii) Quy định về đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người tiêu dùng.

71

Những quy định của châu Âu về an toàn sản phẩm đều tựu trung lại việc đưa

ra thị trường một sản phẩm đạt đến độ an toàn và sức khỏe cao nhất cho người sử

dụng. Một sản phẩm được gọi là an toàn khi nó đạt được tất cả những điều khoản

của châu Âu về an toàn sản phẩm. Khi hợp đồng không có điều khoản của châu Âu

cho trường hợp nào đó, sản phẩm phải tuân theo những yêu cầu cụ thể của quốc gia

thành viên, nơi mà sản phẩm đó sẽ được bán. Trong trường hợp không có quy định

của quốc gia thành viên, sản phẩm phải được tuân theo những quy định, luật hay

gợi ý từ những trường hợp tương tự có thể xảy ra trước đó; chuẩn của các quốc gia

thành viên nơi sản phẩm sẽ được bán, chuẩn từ các điển hình tốt liên quan đến sức

khỏe và an toàn; và cuối cùng là theo mong muốn cao nhất về an toàn cho người

tiêu dùng [58]. Hiện nay, EU cấm sử dụng hoặc hạn chế sử dụng các chất nghi là có

hại cho sức khỏe con người trên sản phẩm may mặc, các chất gây ung thư, hóa chất

Formaldehyde, hóa chất chống cháy cho sản phẩm dệt, dây luồn trên quần áo trẻ em

(Phụ lục 5).

(iii) Tiêu chuẩn môi trường

Theo quy định này, EU cấm nhập khẩu và bán các mặt hàng DM có chứa

các chất bị cấm (RS). EU đã ban hành một loạt các thông tư, quy chuẩn, luật, sắc

luật liên quan đến vấn đề này. Gồm những quy định sau [70]:

- Quy định REACH: Đây là quy định của Ủy ban châu Âu (EC) về việc

“đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế sử dụng hóa chất” đối với một số mặt

hàng nhập khẩu vào EU, trong đó có các sản phẩm DM.

Để thực hiện tốt quy định REACH, các DNDM cần xây dựng mô hình quản

lý các chất trong nguyên liệu dùng cho sản xuất (chất nào được dùng, đặc tính của

chất, có thể cung cấp thông tin về chất đó cho EU khi có yêu cầu...) và thực hiện

quản lý chuỗi cung cấp thông qua các hoạt động, như: Đề ra các yêu cầu đối với

nhà cung cấp hóa chất, nhà cung cấp hóa chất phải cung cấp cho khách hàng phiếu

an toàn dữ liệu, vật liệu theo mẫu tuân thủ với REACH.

- Tiêu chuẩn về chất lượng môi trường. Hiện tại, hai hệ thống tiêu chuẩn

mang tính phổ biến nhất áp dụng tự nguyện cho hàng may mặc nhập khẩu vào EU

là tiêu chuẩn ISO 14001 và EMAS (The European Eco - Management and Audit

scheme). Đối với bộ tiêu chuẩn EMAS, chủ yếu được áp dụng rộng rãi nhất là tại

72

Đức. Hệ thống EMAS tương đối khó đối với DN và tốn nhiều chi phí vì vậy, các

DN nên áp dụng theo tiêu chuẩn ISO 14001.

Trong quá trình sản xuất hàng DM, các khâu chủ yếu liên quan đến vấn đề

môi trường mà các DNDM Việt Nam cần phải chú ý khi xuát khẩu hàng hóa sang

EU đó là:

Về sản xuất và xử lý nguyên liệu. Các nguyên liệu chính sử dụng trong sản

xuất các sản phẩm may mặc thông thường là bông và sợi nhân tạo, vì vậy mà trong

quá trình sản xuất nhiều chất độc hại được thải ra. Đặc biệt là trong quá trình trồng

trọt nguyên liệu và sản xuất vải. Trong quá trình chế biến hoàn thiện vải sau khi đi

qua nhiều công đoạn xử lý khác nhau sẽ thải ra một lượng lớn các chất độc hại như

oxygen, chất biocide, nhiều chất độc không thể hủy bằng phương pháp vi khuẩn

cũng có thể tìm thấy trong quá trình giặt tẩy chính là nguyên nhân gây lên các vấn

đề về môi trường.

Công đoạn in và nhuộm. Đây là hai công đoạn chính làm ô nhiễm môi

trường. Theo quy định của EU tỷ lệ phần trăm không cố định trên vải, thay đổi từ 1-

2% đối với thuốc nhuộm màu và crom và từ 30-40% đối với thuốc nhuộm phản ứng

và phosphorus. Các DNDM có thể tham khảo các phương thức nhuộm thân thiện

hơn với môi trường mang lại hiệu quả cao hơn trong quá trình nhuộm. Những

hướng dẫn đang lưu ý trong khi nhuộm đó là: cần tận dụng tối đa lượng thuốc

nhuộm bằng cách cho sợi vào một bồn nhuộm, tránh sử dụng 1 bồn chứa đầy

thuốc nhuộm cho một số lương nhỏ, xem xét liệu có thể tiếp tục nhuộm những lô

sau với cùng mầu hoặc mầu tối hơn.

Nhuộm Azo và các chất độc hại khác: đây là loại thuốc nhuộm nguy hiểm có

khả năng gây ung thư hoặc có thể hình thành các hợp chất amin hoặc chất biến tính

có thể gây ung thư vì vậy mà đều bị cấm lưu thông tại Đức. Tại Hà Lan loại thuốc

nhuộm này bị cấm sử dung đối với các mặt hàng ga trải giường và quần áo. Có

khoảng 120 loại thuốc nhuộm azo bị cấm. Một số loại khác cũng bị cấm tại một số

nước thành viên EU như pentachlorophenol.

(iv) Quy định đối với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội

Cùng với các quy định về chất lượng sản phẩm, khâu đóng gói bao bì... EU

cũng quan tâm đến việc cải thiện điều kiện lao động trong ngành công nghiệp DM.

73

Những quy định về điều kiện lao động và trách nhiệm xã hội được EU áp dụng theo

tiêu chuẩn SA 8000 và SA 8001. Theo đó, một số chiến dịch được thực hiện, như:

Chiến dịch quần áo sạch, quy tắc đạo đức, điển hình là quy tắc thương mại công

bằng trong ngành may mặc, trong đó xem xét các vấn đề về chi phí ăn uống, mức

độ tự do trong công ty, không phân biệt đối xử, điều kiện về an toàn và sức khỏe

nơi làm việc… Các công ty Việt Nam cần lưu ý đây là những vấn đề có liên quan

đến điều kiện lao động trong quá trình sản xuất của DN mình sẽ có những tác động

đối với các nhà nhập khẩu hay nhà mua hàng quốc tế. Ngày càng có nhiều công ty

châu Âu lấy việc cải thiện điều kiện lao động làm tiêu chí cho việc bắt đầu hay tiếp

tục làm ăn với các đối tác ở các nước đang phát triển.

(v) Các quy định về đóng gói, nhãn hiệu và ghi nhãn sản phẩm

Quy định này được thực hiện theo Thông tư 96/74/EC quy định cách thức

ghi nhãn cho các sản phẩm DM bán tại EU. Cụ thể:

- Đóng gói: Ngoài tác dụng bảo vệ sản phẩm tránh bị mất mát và hư hỏng

trong quá trình vậnchuyển, việc đóng gói sản phẩm cần đáp ứng các yêu cầu của

nước nhập khẩu và các khách hàng về bảo vệ môi trường. Nghiên cứu kỹ lưỡng về

bao bì đóng gói, sao cho các sản phẩm phải được bảo vệ chống lại thời tiết, những

thay đổi về nhiệt độ, xử lý không cẩn thận và mất cắp...

- Nhãn hiệu: Nhãn cần phải nêu đúng các thông tin về thành phần xơ sợi của

sản phẩm. Nhãn bắt buộc phải được xem là một phần của chất lượng.

- Kích cỡ: Đối với hàng DM, 4 số đo cơ bản về cơ thể thường được dùng để

xác định số kích cỡ của sản phẩm là: Chiều dài cơ thể, vòng ngực, dài vai và vòng

hông. Hiện nay, trong nội bộ các nước EU chưa có sự thống nhất về việc ghi nhãn

kích cỡ sản phẩm. Hơn nữa, các kích cỡ theo yêu cầu của mỗi khách mua có thể

khác nhau rất nhiều nên mỗi DN sản xuất hàng may mặc lớn đều có xu hướng lập

bảng kích cỡ cụ thể của riêng mình.

- Ghi nhãn sản phẩm: Chương trình Nhãn mác thương mại bình đẳng đang

được xây dựng và triển khai mạnh mẽ ở Châu Âu, cụ thể do một vài tổ chức khởi

xướng như Hiệp hội thương mại bình đẳng Châu Âu (EFTA), Transfair International

và Mã Havelaar. Có 2 loại nội dung ghi trên nhãn của sản phẩm như sau:

1. Các yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, tỉ lệ sợi, khả năng dễ cháy;

74

2. Các yêu cầu không bắt buộc: hướng dẫn giặt tẩy, nhãn kích cỡ.

(vi) Quy định về xuất xứ hàng hóa

EU đặc biệt quan tâm tới vấn đề xuất xứ hàng hóa, vì nó liên quan đến việc

có được hưởng chế độ ưu đãi thuế của EU hay không? Việc xem xét và đánh giá

nguồn gốc xuất xứ hàng DMXK vào EU là dựa trên cơ sở nguyên liệu sản xuất tại

chính nước đó. Đặc biệt, kể từ ngày 1/1/2011, EC vừa thông qua quy định mới về

Quy tắc xuất xứ, quy định này bao gồm một số điểm mới như:

- Đơn giản hóa quy định về Quy tắc xuất xứ gồm một trong các tiêu chí: Hàm

lượng giá trị nội địa, chuyển mục hoặc tiểu mục thuế, các hoạt động gia công, việc

sử dụng nguyên liệu hoàn toàn tại nước thụ hưởng.

- Mức độ tỷ trọng linh động theo nước (nếu là nước chậm phát triển thì hàm

lượng chỉ 30% hoặc tương đương) hay tỷ trọng giá trị nguyên liệu (ví dụ sợi ni lông

(hàm lượng 20%), sợi nhựa hoặc nhôm (hàm lượng 30%).

- EU được phép quy định hàm lượng giá trị nội địa linh động cho các nước căn

cứ vào tình hình thiên tai, tình hình kinh tế hay một chương trình ưu đãi riêng theo

sáng kiến của EU.

- Điều chỉnh cộng gộp xuất xứ: Theo quy định của EU về quy tắc xuất xứ ưu

đãi GSP, các nước được hưởng ưu đãi GSP có thể cộng gộp xuất xứ với các nước

khác trong cùng nhóm khu vực để đảm bảo rằng quá trình chế biến không bị thiếu

theo quy định. Nếu quá trình chế biến không đảm bảo theo quy định, sản phẩm vẫn

có thể được xem xét công nhận xuất xứ nếu giá trị chế biến được thực hiện ở nước

đó lớn hơn giá trị nguyên vật liệu sử dụng của bất kỳ nước nào trong nhóm cộng

gộp. Ngoài ra, nước trong nhóm khu vực cộng gộp có giá trị hải quan cao nhất về

xuất xứ nguyên vật liệu được coi là nước xuất xứ của sản phẩm. Có bốn nhóm khu

vực được hưởng ưu đãi thuế quan theo chương trình ưu đãi thuế quan phổ cấp GSP

của EU. Trong đó, Việt Nam ở nhóm I gồm các nước Brunei-Darussalam, Cam-pu-

chia, Indonesia, Lào, Malaysia và Philippin.

Tùy theo yêu cầu của nước hưởng lợi, cộng gộp được thực hiện giữa các nước

trong nhóm I (có Việt Nam) và nhóm III có thể có điều kiện. Vì vậy, các nhà XK

phải cẩn thận trong sử dụng xuất xứ cộng gộp, phải xem xem nguyên vật liệu đầu

vào của các nước trong khu vực được hưởng ưu đãi hay bị loại trừ.

75

Hiện nay những hàng hóa XK sang thị trường EU có nguồn gốc “thuần” từ

Việt Nam là rất ít. Hầu hết các sản phẩm đã qua quá trình sản xuất ở hai hay nhiều

nước khác nhau. Cách xác định về nguồn gốc hàng hóa tùy theo luật của từng nước,

nhưng cách xác định cơ bản nhất là ngoài hàng hóa có nguồn gốc “thuần” thì hàng

hóa đã bị “biến tính căn bản” tại thị trường nước XK cũng được chấp nhận như

nguồn gốc xuất xứ tại nước này. Hàng hóa được coi là “biến tính căn bản” khi nó đã

qua một quá trình sản xuất và được thay đổi một cách cơ bản về tên gọi, tính chất

hay nguyên liệu sử dụng. Đây là loại rào cản mới, vì vậy các DN Việt Nam nếu

nắm được những qui định này, chắc chắn họ sẽ có cơ hội để vượt qua RCTM này để

vừa XK hàng hóa của mình vào được thị trường này, vừa tận dụng được những ưu

đãi mà phía EU đã đưa ra.

2.2.1.3. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Nhật

Bản

(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.

Các tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng: rất nhiều sản phẩm được cấp giấy chứng

nhận ở nước XK, nhưng lại không đạt các yêu cầu khắt khe khi vào thị trường Nhật.

Tiêu chuẩn chất lượng của châu Âu và Hoa Kỳ đều chú trọng vào hình thức bên

ngoài, mà không đi sâu vào chi tiết bên trong, chủ yếu liên quan đến tay nghề công

nhân, nhưng người tiêu dùng Nhật lại luôn có xu hướng đòi hỏi sự hoàn hảo trong

toàn bộ sản phẩm họ mua. Họ chú ý đến cả những khuyết tật nhỏ nhất trên sản

phẩm như vết xước, vết rạn, ngay cả khi những tì vết này là đặc điểm cố hữu trên

nguyên liệu sử dụng.

Dấu chứng nhận “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” (JIS - Japanese

Industrial Standard) dựa trên “Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào

tháng 6 năm 1949. JIS góp phần rất lớn trong việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên

phạm vi toàn bộ nền công nghiệp Nhật Bản. Dấu chứng nhận JIS chỉ được phép áp

dụng với các sản phẩm thoả mãn các yêu cầu về chất lượng của JIS. Theo điều 26

của Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên

đối với các sản phẩm được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ

cho hoạt động của các cơ quan này. Sau khi Nhật tham gia ký kết Hiệp định về rào

cản kỹ thuật đối với thương mại của GATT, Nhật đã sửa đổi Luật này cho phép các

76

nhà sản xuất nước ngoài cũng được cấp phép đóng dấu JIS. Tuy nhiên, Nhật là một

nước có nền công nghệ rất phát triển vì vậy các tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng hoá

thường rất cao. Vì thế, để được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS

không phải là một điều dễ dàng, đặc biệt là đối với hàng hoá của các nước đang và

kém phát triển.

Do đó, khi kiểm tra các sản phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu

chuẩn JIS là đủ xác nhận chất lượng của chúng. Giấy phép đóng dấu chứng nhận

tiêu chuẩn JIS trên hàng hoá do Bộ trưởng Bộ Kinh tế Thương mại và Công nghiệp

cấp cho nhà sản xuất. Những ai cố ý đóng dấu chất lượng JIS lên hàng hoá mà

không phải là nhà sản xuất đã được Bộ trưởng Bộ Kinh tế Thương mại và Công

nghiệp cấp giấy phép sẽ bị phạt tù tới 1 năm hoặc nộp phạt tới 500.000 Yên.

Ngoài tiêu chuẩn JIS còn có nhiều loại dấu chất lượng khác được sử dụng ở

Nhật, như dấu Q, S, SG, Len, S.I.F. Ý nghĩa của các dấu chứng nhận này liên quan

đến chất lượng và độ an toàn của sản phẩm.

Bảng 2.2: Ý nghĩa phạm vi áp dụng của dấu chứng nhận quản lý chất lượng ở Nhật Bản

Ý nghĩa Phạm vi ứng dụng

Dấu Q: Chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm

Dấu S: độ an toàn Dùng cho các loại sản phẩm dệt bao gồm: quần áo trẻ em và các loại quần áo khác, khăn trải giường. Dùng cho nhiều chủng loại hàng hóa dành cho trẻ em, đồ dùng gia đình, dụng cụ thể thao

Dấu Len Dùng cho sơi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan, hàng dệt kim có trên 99% len mới.

Dấu S.I.F: Các ngành hàng may mặc có chất lượng tốt Hàng may mặc như quần áo nam nữ, ô, áo khoác, ba lô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao

Nguồn: Viện Dệt may

(ii) Quy định về an toàn cho người sử dụng

Luật kiểm soát các sản phẩm gia dụng có chứa các chất nguy hiểm (được

kiểm soát bởi Văn phòng An toàn Hóa chất, Phòng Đánh giá và Cấp phép, Cục An

toàn Y-dược Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi) mục tiêu của luật này là hạn chế các sản

phẩm gia dụng có chứa các chất nguy hiểm, nhờ vậy mà đóng góp vào bảo vệ sức

77

khỏe của dân tộc. Luật yêu cầu tất cả các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ tiêu chuẩn

về hàm lượng các chất nguy hiểm có thể gây tổn thương cho da. Các sản phẩm may

mặc có mức độ độc hại cao hơn mức cho phép sẽ bị cấm bán ở thị trường Nhật Bản.

Bộ Phúc lợi và Lao động Nhật Bản chỉ rõ 20 chất nguy hiểm và có bằng chứng là gây

nguy hiểm cho sức khỏe con người như sau: Hydro clorua, Vinyl Clorua, 4.6-Diclo-7,

Kali hydroxit, Natri hydroxit, Tetra clo etylen, Triclo etylen, Tris phosphin oxit, Hợp

chất Tris phosphat, hợp chất tributil thiếc, hợp chất triphenil thiếc, hợp chất Bis

phosphat, Dieldrin, Benzo anthracen, Benzo pyren, Formaldehyde, Metanol, hợp chất

thủy ngân hữu cơ, Axit sunfuric.

(iii) Quy định về môi trường.

- Tiêu chuẩn môi trường: Giống như tất cả các quốc gia khác trên thế giới,

Nhật Bản rất coi trọng vấn đề môi trường. Năm 1989, Cục môi trường khuyến

khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái (kể các các

sản phẩm sản xuất trong nước cũng như sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, các sản

phẩm này được dóng dấu “Ecomark”. Để được đóng dấu này, sản phẩm phải đạt ít

nhất một trong các tiêu chuẩn sau:

1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm môi trường (hoặc gây ô

nhiễm không đáng kể)

2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường

3. Chất thải sau khi sử dụng sản phẩm đó không gây hại cho môi trường

(hoặc gây hại rất ít)

4. Sản phẩm có đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo bất cứ

cách thức nào khác.

(iv) Quy định về trách nhiệm xã hội

Cũng như các nước Mỹ và EU, tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội là một yêu

cầu hết sức quan trọng của nhà nhập khẩu Nhật Bản. Những sản phẩm được sản

xuất ra bởi các hành vi bóc lột sức lao động trẻ em, vi phạm nhân quyền đều bị cấm

ở Nhật Bản. Thông thường, khi tìm hiểu đối tác, các nhà nhập khẩu Nhật Bản

78

thường rất quan tâm đến yếu tố này. Các nhà nhập khẩu Nhật Bản cũng đánh giá

cao các nhà sản xuất có được chứng nhận về tiêu chuẩn lao động SA 8000.

(v) Các quy định liên quan nhãn hàng DM.

Đạo luật chống lại phần thưởng không thể biện minh được và giới thiệu lừa

dối (được kiểm soát bằng Ủy ban Thương mại công bằng Nhật Bản, Phòng Thương

mại liên quan tới người tiêu dùng, Vụ Tập quán Thương mại) có mục tiêu ngăn

ngừa việc khuyến khích người tiêu dùng bằng phần thưởng không biện minh được

hoặc bằng giới thiệu lừa dối liên quan đến giao dịch hàng hóa. Đạo luật quy định

các thực hành ghi nhãn chính xác cho hàng nhập khẩu để đảm bảo người tiêu dùng

không nhận được thông tin lừa dối về xuất xứ thực. “Nước xuất xứ” nghĩa là nước

tại đó thực hiện các hành động gây ra sự biến đổi quan trọng về bản chất của sản

phẩm. Chú ý rằng nhãn chứng thực nước xuất xứ phải được may vào quần áo.

Ngoài ra, luật Nhãn hàng Gia dụng 1962 của Nhật quy định rằng hàng dệt bán trên

đất Nhật phải có nhãn hàng. Trên sản phẩm nhập khẩu, bắt buộc ghi tên nhà nhập

khẩu, nhà phân phối.

(vi) Quy định về xuất xứ hàng hóa:

Nhật Bản áp dụng quy tắc xuất xứ ưu đãi không có đi có lại theo chương

trình ưu đãi thuế quan phổ cập - GSP và ưu đãi có đi có lại theo các FTA/EPA khác

nhau. Để được hưởng thuế quan ưu đãi phải có giấy chứng nhận xuất xứ của cơ

quan có thẩm quyền nước XK cấp để chứng tỏ rằng sản phẩm nhập khẩu đạt tiêu

chuẩn “chế biến toàn bộ”- "wholly obtained" hay “chế biến lớn” - "substantially

transformed" (ví dụ như thay đổi phân loại hàng hóa theo mã HS 4 chữ số hoặc đạt

40% giá trị gia tăng) tại nước XK. Đối với những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn

“chế biến toàn bộ”, những tiêu chuẩn cụ thể dựa trên quy tắc thay đổi phân loại HS,

quy tắc hàm lượng chế biến hoặc quy tắc giá trị gia tăng sẽ được áp dụng cho từng

sản phẩm. Quy tắc xuất xứ trong các EPA và GSP áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể

cho nhiều loại sản phẩm.

Quy tắc xuất xứ tối huệ quốc - MFN của Nhật Bản được sử dụng để áp dụng

mức thuế MFN (đối lập với mức thuế thông thường) được quy định cụ thể trong

79

điều 4-2 của Sắc lệnh của Nội các Nhật về thi hành Luật Hải quan và điều 1-5 và 1-

6 của Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Hải quan. Quy tắc xuất xứ MFN được áp

dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước được hưởng quy chế MFN. Theo đó,

nước xuất xứ là nước mà hàng hóa được sản xuất toàn bộ hay được chế biến lớn

(thay đổi phân loại hàng hóa theo mã HS 4 chữ số)

Hàng DM của Việt Nam được hưởng ưu đãi theo chương trình GSP. Đối với

hàng may, xuất xứ là nơi công đoạn may được thực hiện, hàng dệt kim là nơi thực

hiện công đoạn dệt. Hàng hoá muốn được miễn thuế theo hệ thống ưu đãi thuế quan

phổ cập (GSP) thì phải được chế biến tại Việt nam theo những tiêu chuẩn cụ thể

dựa trên quy tắc thay đổi phân loại HS, quy tắc hàm lượng chế biến hoặc quy tắc

giá trị gia tăng sẽ được áp dụng cho từng sản phẩm.

Tóm lại, qua việc nghiên cứu các rào cản kỹ thuật của một số nước đối với

hàng dệt may nhập khẩu, cho phép rút ra một số kết luận rằng: Trên cơ sở các quy

định chung của quốc tế, đặc biệt là của WTO về rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt

may, mỗi quốc gia có thể đưa ra thêm những quy định của mình, thậm chí cao

hơn, khắt khe hơn tiêu chuẩn do WTO đưa ra. Điều đó đòi hỏi các quốc gia xuất

khẩu cần:

Một là, đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý, cần phải nghiên cứu

nghiêm túc và đầy đủ các quy định của các nước nhập khẩu về các rào cản phi thuế

quan nói chung và RCKT nói riêng đối với hàng DM, từ đó có cảnh bảo kịp thời,

đầy đủ và chính xác cho các DNXK của mình để có những biện pháp phản ứng và

ứng phó hiệu quả.

Hai là, các doanh nghiệp phải chủ động và chú trọng nghiên cứu, nắm bắt

chính xác và kịp thời rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu. Trên cơ sở các

quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, các doanh nghiệp dệt may phải có các biện pháp

điều chỉnh phù hợp theo hướng tuân thủ chấp hành các quy định về tiêu chuẩn do

các nhà nhập khẩu yêu cầu, đồng thời các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực

đàm phán, mặc cả để loại bỏ các rào cản phi lý, không có căn cứ khoa học. Trên

80

thực tế, các rào cản kỹ thuật này chỉ nhằm vào bảo hộ thị trường, vi phạm nguyên

tắc công bằng, minh bạch trong thương mại quốc tế.

2.2.2. Đánh giá tác động của rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập

khẩu chính đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam.

2.2.2.1. Tác động tích cực

Thứ nhất, RCKT tạo động lực thúc đẩy đầu tư chiều sâu, cải tiến chất lượng,

nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng DMXK của Việt Nam. Về nguyên tắc, khi các

thị trường nhập khẩu Hoa kỳ, EU, Nhật Bản,v.v. áp dụng các quy định và tiêu chuẩn

kỹ thuật cũng như các quy trình đánh giá sự phù hợp cao và ngặt nghèo đối với hàng

DM nhập khẩu thì bắt buộc hàng XK của Việt Nam phải đáp ứng các quy định và

tiêu chuẩn đó mới có thể XK sang các thị trường này. Vì vậy, cà Nhà nước và DN,

trong nỗ lực đẩy mạnh XK, phải đổi mới sản xuất, tăng cường đầu tư trang thiết bị

kỹ thuật hiện đại, cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng tốt

các yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu qua đó mà XK thành công. Vì vậy, bên

cạnh những tác động tiêu cực mà NCS sẽ phân tích sau, có thể nói, RCKT đã tạo

động lực cho hàng DMXK của Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh XK, nâng cao

chất lượng, hình ảnh và uy tín của mình để không những có thể đẩy mạnh XK sang

các thị trường trên mà còn có thể mở rộng XK ra các thị trường khác trên thế giới.

Trên thực tế, XK hàng DM của Việt Nam đã tăng rất mạnh và đều đặn thời gian qua

để trở thành một trong hai mặt hàng XK chủ lực lớn nhất của Việt Nam. Đặc biệt XK

sang Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đều tăng rất mạnh và củng cố được thị phần ở những

thị trường này như đã phân tích ở mục 2.1. Điều này chứng tỏ sức cạnh tranh tăng

của hàng DMXK của Việt Nam nhờ những nỗ lực của Nhà nước và DN để vượt qua

được hệ thống RCKT khắt khe của các thị trường nhập khẩu lớn này.

Thứ hai, các RCKT của các nước nhập khẩu chính cũng tác động tích cực tới

hoạt động bảo vệ môi trường của Việt Nam. Hàng DMXK của Việt Nam, trong

những nỗ lực để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản, không những đã quan tâm tìm hiểu về những tiêu chuẩn môi

trường của các nước, qua đó mà nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi

81

trường mà còn phải có biện pháp hiệu quả để thực hiện và tuân thủ các quy định,

tiêu chuẩn môi trường đó. Trên thực tế, các DNDMXK của Việt Nam đã ngày càng

quan tâm tới các quy định và tiêu chuẩn môi trường. Hiện nay, đã có nhiều DNDM

có các biện pháp ngăn ngừa, xử lý liên quan đến môi trường như: Áp dụng một số

công nghệ xử lý khí thải thông qua bộ phận thu khí lò hơi; Sử dụng định mức tiêu

hao hợp lý nguồn nguyên, nhiên liệu của ngành dệt nhuộm thông qua các giải pháp

kỹ thuật, quản lý để giảm thiểu tại nguồn khác nhau; Có các hệ thống xử lý nước

thải cho các dây chuyền dệt nhuộm, di chuyển các xí nghiệp nhuộm vào các KCN

DM có trung tâm xử lý nước thải tập trung. Việt Nam có hơn 10 trung tâm kiểm tra

các loại thuốc nhuộm bị cấm tại các cơ sở xuất khẩu sản phẩm may mặc, có hơn 20

tổ chức kiểm tra ở Việt Nam đã có trình độ xác thực để cấp báo cáo kiểm tra về

thuốc nhuộm bị cấm. Hiện tại, có trên 200 doanh nghiệp nhận chứng chỉ xác thực

về tiêu chuẩn Oeko-TexStandard l00. Điều này rất tốt cho cạnh tranh công bằng

trên thị trường nội địa và để người tiêu dùng hàng đầu lựa chọn được các sản phẩm

đạt yêu cầu. Đồng thời có ý nghĩa đối với Việt Nam khi mở rộng khối lượng xuất

khẩu sản phẩm may mặc. Bên cạnh đó, đã có nhiều DN áp dụng hệ thống tiêu chuẩn

quản lý môi trường ISO 14000 như dệt Phong Phú, Việt Thắng và ứng dụng công

nghệ sản xuất sạch như Công ty TanTech; Công ty ChanShin; Công ty Samwoo,

Công ty Tong Hong,... nhằm nâng cao khả năng đáp ứng được các quy định và tiêu

chuẩn môi trường ngày càng chặt chẽ của các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản...

Thứ ba, RCKT của các nước nhập khẩu cũng góp phần bảo vệ người lao động

tốt hơn. Khi các DNDM Việt Nam thực hiện chính sách để đáp ứng các quy định về

trách nhiệm xã hội mà các nước nhập khẩu đưa ra, thì quyền lợi người lao động trong

ngành DM cũng được bảo vệ, được hưởng những lợi ích chính đáng của mình. Môi

trường đuợc cải thiện cộng thêm người lao động với sức khoẻ, khả năng làm việc tốt

lại tác động ngược lại làm nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh XK của

DNDM Việt Nam. Theo kết quả khảo sát 500 DN (DNDM chiếm khoảng 20%) của

Viện Nghiên cứu thương mại thực hiện năm 2013 về phát triển xuất nhập khẩu bền

vững, các DN trong các nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh XK đã tích cực áp dụng

82

các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động, trong

đó tỷ lệ DN áp dụng các quy định đảm bảo an toàn lao động tại nơi làm việc đạt cao

nhất tới 64,5%, tiếp đến là các biện pháp thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã

hội, thất nghiệp cho người lao động (61,7% số DN điều tra); cải thiện điều kiện lao

động tại nơi làm việc (42,3% số DN điều tra);áp dụng tiêu chuẩn lao động SA 8000

(28,4% số DN điều tra),…

CÁC BIỆN PHÁP

8.9

22.6

28.4

Các biện pháp khác Đảm bảo quyền tham gia bình đẳng cho người lao động trong các hiệp hội (Công đoàn, nghiệp Áp dụng tiêu chuẩn lao động SA 8000 (chế độ người lao động, thời gian làm việc)

42.3

Cải thiện điều kiện lao động

61.7

Thực hiện chế độ bảo hiểm (y tế, xã hội, thất nghiệp)

64.5

Áp dụng các quy định đảm bảo an toàn lao động tại nơi làm việc

0

10

20

30

40

50

60

70

Tỷ lệ doanh nghiệp (% )

Hình 2.3. Các biện pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động trong DN

Nguồn: Viện Nghiên cứu thương mại, Báo cáo khảo sát về xuất nhập khẩu bền vững, 2013.

Ghi chú: Một DN có thể áp dụng nhiều biện pháp cải thiện môi trường và

điều kiện làm việc cho người lao động.

Thứ tư, các DNDM Việt Nam đã hạn chế được tình trạng gian lận thương

mại trong XK. Trên thực tế đã có sự gian lận thương mại bằng hình thức làm giả

giấy tờ chứng nhận xuất xứ, nhãn hiệu, visa của Việt Nam. Có những thời điểm, tỷ

lệ cấp Visa của Việt Nam đối với Cat. 342/642 mới chỉ đạt 88,98% nhưng theo

thống kê của Hải quan Hoa Kỳ, tỷ lệ hàng nhập khẩu của Cat. này đã đạt 100%.

Tình trạng này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành DM Việt Nam

trên thị trường thế giới[44].

Thứ năm, thúc đẩy thay đổi quan niệm. Từ quan điểm nhất định nào đó, xuất

khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam đương đầu với RCKT nước ngoài có thể

khiến cho các nhà hoạt động và sản xuất trong ngành dệt may Việt Nam thay đổi

83

quan niệm sai của họ: từ việc chỉ tập trung vào chất lượng bên ngoài của sản phẩm

đến việc tập trung vào cả chất lượng bên trong của sản phẩm; từ việc chỉ nhấn mạnh

chất lượng sản phẩm đến nhấn mạnh quy trình sản xuất và chất lượng sản phẩm; từ

việc chỉ coi lợi nhuận kinh tế là ưu tiên hàng đầu đến nhấn mạnh lợi nhuận kinh tế

và lợi ích người tiêu dùng.

Thứ sáu, nâng cao năng lực đàm phán, thương lượng và giải quyết các tranh

chấp quốc tế. Việc thường xuyên phải cọ sát, đương đầu với các vấn đề về RCKT

ngày càng gia tăng của các thị trường nhập khẩu, ở khía cạnh tích cực, cũng giúp

các nhà quản lý và các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam có nhiều trải

nghiệm thực tế quý giá, học hỏi và tích lũy kinh nghiệm, nâng cao khả năng ứng

phó và vượt RCKT, v.v. Trên thực tế, hiện nay rất nhiều doanh nghiệp dệt may xuất

khẩu của Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp lớn như Việt Tiến, May 10, đã nhận

thức và ý thức rất rõ về tầm quan trọng của vượt RCKT, đồng thời năng lực đáp

ứng các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu đã được nâng cao

rõ rệt, ngay cả các quy định rất khắt khẻ về ghi nhãn, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã

hội SA8000, WRAP hay các tiêu chuẩn môi trường, v.v.[18]

2.2.2.2. Tác động tiêu cực

RCKT hiện không chỉ còn là nguy cơ nữa mà thực sự đã gây ra những tác

động to lớn tới hàng DMXK của Việt Nam. Các DNDM Việt Nam đang từng ngày

từng giờ phải đối mặt với những RCKT hết sức ngặt nghèo ngay chính những thị

trường có mức độ tự do hóa thương mại cao nhất như Mỹ, EU hay Nhật Bản.

Không ít DN lao đao vì vướng vào RCKT

Theo Đại diện Thương mại Hoa Kỳ-USTR, sự quá mức cần thiết, phân biệt

đối xử hoặc những quy định không phù hợp khác của các biện pháp kỹ thuật ngày

nay có thể sẽ dẫn đến giảm cạnh tranh, cản trở sáng tạo và gây cản trở cho thương

mại. Thậm trí, ngay cả khi các biện pháp kỹ thuật được sử dụng phù hợp thì các

công ty, nhất là các DNNVV cũng phải đối phó với những thách thức lớn trong việc

tiếp cận thông tin về tiêu chuẩn, sự tuân thủ các loại tiêu chuẩn khác nhau và hay

thay đổi của các thị trường nhập khẩu lớn. Đặc biệt là trong các trường hợp các biện

pháp kỹ thuật thay đổi nhanh hoặc có sự khác biệt giữa yêu cầu kỹ thuật của các thị

84

trường khác nhau. Điều này là rất chính xác trong trường hợp các RCKT với hàng

DMXK của Việt Nam. Xu hướng đòi hỏi cao và các quy định ngày càng khắt khe

về yêu cầu chất lượng, an toàn sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và

trách nhiệm xã hội, sự phức tạp tăng lên của các quy định về nhãn mác, quy tắc

xuất xứ, v.v của các thị trường nhập khẩu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản là những

thách thức lớn và tác động tiêu cực đối với hàng DMXK của Việt Nam. Có thể nêu

một số tác động chủ yếu như sau:

(i) RCKT của các nước nhập khẩu chính đã và đang làm tăng chi phí (gồm

cả chi phí sản xuất lẫn chi phí XK), giảm năng lực cạnh tranh đối với hàng DMXK

của Việt Nam, đánh mất thị phần quốc tế.

Các DNXK hàng DM muốn đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe thì buộc

sẽ phải tăng chi phí sản xuất để thay đổi điều kiện sản xuất và do đó giá thành sản

xuất sẽ cao lên, nếu DN không tăng giá bán sản phẩm thì lợi nhuận của DN sẽ giảm,

dẫn đến sự sụt giảm nguồn đầu tư mở rộng sản xuất và giảm chi cho phúc lợi xã hội.

Còn nếu tăng giá bán sản phẩm thì sẽ ảnh hưởng ngay tới khả năng cạnh tranh của

sản phẩm trên thị trường và có thể dẫn tới việc giảm XK. Nếu DN không thể thích

nghi được với những yêu cầu mới đó thì có thể dẫn đến phá sản, hoặc bị mất vị thế và

thị phần, giảm giá trị thương hiệu trên thị trường thế giới

- Chất lượng của sản phẩm, ngày nay là yếu tố có tính chất quyết định đến

năng lực cạnh tranh của DN. Yêu cầu của thị trường nhập khẩu đòi hỏi các DN phải

nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm. Để làm được việc đó, điều đầu tiên DN

phải làm là đầu tư thay đổi công nghệ và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến vào

sản xuất. Điều này đòi hỏi DN phải bỏ ra chi phí không nhỏ. Trong khi đó, theo điều

tra, Việt Nam hiện có 80% là DNDM có quy mô nhỏ nên vốn dành cho đầu tư trang

thiết bị là không nhiều, thông thường chiếm từ 0,2 - 0,3% doanh thu. Do vậy, nếu

phải thay đổi công nghệ thì chắc chắn sẽ làm tăng gánh nặng trả nợ vay của DN.

- Bên cạnh đó, thực hiện rào cản xanh yêu cầu các tiêu chuẩn môi trường và

nhãn mác sinh thái phải được áp dụng trong quy trình sản xuất, xử lý, lưu trữ và vận

chuyển sản phẩm hình thành nên hệ thống quản lý môi trường hoàn thiện và không

ô nhiễm và ảnh hưởng đến từng mắt xích quy trình từ sản xuất, bán hàng đến xử lý

85

thải loại. Do vậy, nhằm đạt tiêu chuẩn môi trường của các quốc gia nhập khẩu,

những nhà xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam phải tăng đầu tư thiết bị và

lao động cũng như thực hiện xác thực môi trường. Cải tiến máy móc kiểm tra và chi

phí xác thực & kiểm tra tại các tổ chức kiểm tra nước ngoài sẽ làm tăng chi phí xuất

khẩu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, những lợi thế cạnh tranh của các doanh

nghiệp dệt may Việt Nam tập trung ở chi phí lao động thấp. Mức độ kỹ thuật của

sản phẩm thấp làm yếu đi khả năng cạnh tranh của ngành dệt may trên thị trường

quốc tế. Với vị thế là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam phải thích nghi với

“xu hướng xanh”. Nhằm thích nghi với “xu hướng xanh” và phá vỡ RCKT, chi phí

cho mỗi mắt xích của quy trình từ sản xuất, bán hàng đến xử lý thải loại sẽ tăng lên

và do vậy tổng chi phí cũng sẽ tăng lên. Lợi thế giá gốc yếu đi tương đối, lợi nhuận

doanh nghiệp bị ảnh hưởng và cạnh tranh quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của

doanh nghiệp sẽ giảm đi. Hơn nữa, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia EU là những

thành viên quan trọng của “Ủy ban Thương mại và Môi trường” trong WTO. Hoạt

động của họ luôn dẫn đến hiệu ứng Domino vì vậy một số quốc gia công nghiệp

hóa mới nổi cũng bắt chước họ tạo ra RCKT, do vậy hoạt động xuất khẩu sản phẩm

dệt may Việt Nam có thể phải đối mặt với tình huống nghiêm trọng hơn.

(ii) Phạm vi ảnh hưởng rất lớn và một số ngành liên quan bị ảnh hưởng.

RCKT không chỉ ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam mà còn ảnh hưởng

đến ngành in và nhuộm, ngành hóa chất, ngành sợi và nguyên liệu thô, làm giảm

kinh doanh và thu nhập của các ngành này.

(iii) RCKT của các thị trường nhập khẩu gây tác động chệch hướng thương

mại hàng DMXK của Việt Nam, là nguyên nhân không nhỏ khiến cho DN đánh mất

thị phần và phải chuyển hướng thương mại sang các thị trường khác. Việc mất thị

phần có thể là do DN bị giảm sút năng lực cạnh tranh vì không đáp ứng đầy đủ yêu

cầu của thị trường hoặc cũng có thể họ tự tháo lui, chuyển hướng kinh doanh sang

các thị trường khác khi quy định của nước nhập khẩu vượt quá khả năng mà họ có

thể đáp ứng. Nhất là vào thời điểm hiện nay, khi hàng DMXK của Việt Nam chưa

định vị được một chỗ đứng vững chắc trong lòng người tiêu dùng các nước nhập

86

khẩu chính vốn đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và trách

nhiệm xã hội thì bất kỳ một tác động nhỏ nào cũng có thể ảnh hưởng xấu đến khả

năng XK của Việt Nam. Chệch hướng thương mại có thể là điều tốt, thể hiện sự

năng động, chủ động của DN trong đa dạng hóa thị trường XK để giảm bớt rủi ro

biến động của thị trường. Nhưng trong đa phần các trường hợp, do không đáp ứng

được yêu cầu cao của các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, các DN phải chấp

nhận chuyển hướng XK sang các thị trường có đòi hỏi thấp hơn như các nước thuộc

Liên Xô cũ, Trung Quốc hay các nước châu Phi,… với nhu cầu tăng nhưng không

ổn định, giá cả rẻ và các đơn hàng nhỏ, lẻ. Ngoài ra còn rất nhiều hệ lụy khác do

mất thị phần ở các thị trường nhập khẩu chính yếu hàng DM. Trong một nghiên cứu

định lượng (mô hình lực hấp dẫn) của nhóm tác giả Viện NCTM thực hiện về tác

động của việc thực hiện Hiệp định tự do thương mại ASEAN Trung Quốc-ACFTA

tới XK hàng DM của Việt Nam thực hiện năm 2010 cho thấy, việc thực hiện tự do

hóa thương mại theo ACTFA đã đem đến điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho

XK hàng DM của Việt Nam sang Trung Quốc, có thể làm chệch hướng thương mại

XK hàng DM của Việt Nam, tăng XK sang Trung Quốc trong khi giảm tương đối

XK sang hai thị trường lớn khác là Hoa Kỳ và Nhật Bản,...

(iv) RCKT trong thương mại còn gián tiếp gây khó khăn cho đời sống người

lao động Việt Nam. Công nghiệp DM ở Việt Nam hiện nay sử dụng hơn 2,5 triệu

lao động. Trong thời kỳ khủng hoảng vừa qua, các nước nhập khẩu chính hàng DM

như Hoa Kỳ, EU đều gia tăng bảo hộ thương mại, dựng lên các RCKT mới. Các

DNDM vấp phải RCKT không XK được đã phải tạm ngưng sản xuất, thậm chí

đóng cửa nhà máy, hàng nghìn công nhân ở các DNDM không có việc làm. Điều

này, về lâu dài sẽ dẫn tới việc người lao động không yên tâm sản xuất và chuyển

sang các nghề khác, gây mất ổn định nguồn cung nguyên liệu cũng như nguồn lao

động hàng DMXK.

(v) Tái cấu trúc trong chuỗi cung ứng hàng DMXK dưới tác động của

RCKT từ các thị trường nhập khẩu chính. Các DNNVV là những đối tượng phải

đối mặt nhiều nhất với những thách thức từ RCKT. Theo VITAS, có tới 80% các

DNDM là DNNVV, số lao động dưới 300 người. Số DN từ 1000 công nhân chỉ

87

chiếm 6%. Với nguồn lực hạn chế cả về tài chính, nhân lực và phương tiện, các

DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và xử lý thông tin về các quy

định do các thị trường nhập khẩu đặt ra. Do đó, RCKT làm suy yếu hơn nữa các

DNNVV, và có thể dẫn đến việc sáp nhập thành các DN lớn hơn, hoặc có thể thay

đổi cơ cấu DN trên thị trường. Hiện tượng tái cấu trúc không chỉ ở việc giảm về số

lượng DN trong ngành mà còn ở nhiều khả năng tích hợp dọc trong chuỗi cung

ứng. Tích hợp dọc là khả năng có thể xảy ra khi các DN lớn có khả năng chi phối

thị trường sẽ mở rộng lĩnh vực hoạt động để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định

với chất lượng cao.

Tác động của các RCKT từ một số nước nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU,

Nhật Bản đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là rất lớn. Nhiệm

vụ đặt ra cho các DN, các cơ quan quản lý nhà nước những khó khăn thách thức

trong vượt RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. Trong đó, nhiệm vụ hết

sức quan trọng là nghiên cứu, dự báo xu hướng phát triển của RCKT và cảnh báo

sớm về các quy định, tiêu chuẩn của các thị trường nhập khẩu để có biện pháp

phòng ngừa, lên kế hoạch và chủ động ứng phó, vượt RCKT nhằm đẩy mạnh xuất

khẩu hàng dệt may thời gian tới.

2.3. THỰC TRẠNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT

MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.

2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với

hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.

Trước những rào cản kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu hàng dệt may,

Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã có những biện pháp ứng phó nhằm

vượt qua các rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu. Để hiểu rõ hơn về thực trạng, tác giả

đã tiến hành khảo sát nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn

trong quá trình thực hiện các biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật của các

doanh nghiệp dệt may Việt Nam thời gian qua và sự hỗ trợ của Nhà nước giúp

DNDM vượt rào. Phiếu khảo sát được thiết kế với 13 câu hỏi, ở các mức độ đánh

giá khác nhau (Phu lục 1). Sau khi khảo sát, tác giả gặp gỡ trực tiếp một số cán

bộ quản lý của ngành dệt may như Hiệp hội dệt may, vụ xuất nhập khẩu - Bộ

88

Công thương, cán bộ nghiên cứu của Viện Dệt may để tìm hiểu sâu hơn những

nhận định và ý kiến cá nhân của những người có trách nhiệm trong hoạt động

xuất khẩu hàng dệt may.

Phiếu khảo sát được gửi đến cán bộ quản lý các DN qua hội nghị tổng kết

ngành Dệt may Việt Nam vào 12/2013. Số phiếu gửi đi là 100, số phiếu thu về là 68

phiếu. Trong số đó có 45 phiếu đầy đủ thông tin đảm bảo đủ dữ liệu để phân tích.

Danh sách các doanh nghiệp tham gia trả lời khảo sát tập trung chủ yếu là các DN

xuất khẩu hàng dệt may tại các địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà

Nẵng, Bình Dương, Huế, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên... với nhiều loại hình

doanh nghiệp được trình bày ở bảng 2.4. Trong tổng số 45 doanh nghiệp được khảo

sát thì số doanh nghiệp chiếm chủ yếu là công ty TNHH và công ty cổ phần

(44,4%); loại hình doanh nghiệp nhà nước (26,7%), doanh nghiệp tư nhân (22,2%),

chỉ có 6,7% là DN có vốn đầu tư nước ngoài.

Bảng 2.3: Loại hình doanh nghiệp đã tiến hành khảo sát

STT Loại hình doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%)

1 DNNN 12 26,7

2 DNTN 10 22,2

3 DN có vốn ĐTNN 3 6,7

4 Loại hình DN khác 20 44,4

Tổng số 45 100

Nguồn: Tổng hợp hết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013

Kết quả khảo sát cho thấy: có tới 26 doanh nghiệp (chiếm 57,8% số DN

được khảo sát) đã xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, tiếp đến là EU (42,2%), Nhật

Bản (26,7%), Hàn Quốc (20%). Một số doanh nghiệp thì lựa chọn các thị trường

xuất khẩu chính khác là, Canada, Newzland, Thụy Sĩ, Ấn Độ...nhưng số DN này

không nhiều.

89

Ý kiến của các DN được khảo sát và các chuyên gia kinh tế về những biện

pháp đã áp dụng để vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu được tổng hợp và

đánh giá sau đây.

2.3.1.1. Các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp dệt

may Việt Nam

Thực tiễn thời gian qua cho thấy các DNDM Việt Nam đã áp dụng các biện

pháp vượt RCKT sau:

Thứ nhất, để đáp ứng với RCKT của các nước nhập khẩu, các DNDM Việt

Nam đã tích cực và chủ động tiếp cận với yêu cầu của các nước nhập khẩu, xây

dựng các hệ thống quản lý đảm bảo tuân thủ về chất lượng, an toàn sản phẩm, môi

trường, trách nhiệm xã hội và ghi nhãn hàng dệt may. Cụ thể là:

- Đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, dây truyền sản xuất. Để có thể

XK bền vững tại thị trường rộng lớn và khó tính, các DNXK dệt may Việt Nam

hiểu rằng đã đến lúc chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang

loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường” sử dụng các máy móc thiết bị phù

hợp, tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo khả năng “vượt rào”.

Theo báo cáo của tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), nhiều loại máy móc,

thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts,

máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork,

máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt- May thắng Lợi và Dệt 8- 3; các máy

nhuộm “khí động lực” (Air- Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8-3;

máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước- xử lý

hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng)

v.v... Hay một ví dụ điển hình đối với Công ty may Việt Tiến ngoài việc tập trung

cho nguồn nhân lực, May Việt Tiến luôn đầu tư đổi mới thiết bị và cải tiến công nghệ

như: hệ thống thiết kế mẫu rập, nhảy size, hệ thống giác sơ đồ, trải, cắt tự động…,

mua hoặc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến của Hoa Kỳ, Nhật Bản,

Singapore…Nhờ đó, công ty quản lý được số liệu trên từng công đoạn, xây dựng hệ

thống thời gian cho từng bước công việc, phân công lao động, ghép bước công việc

90

một cách hợp lý, giảm thiểu được thời gian sản xuất, tiết kiệm được chi phí, góp phần

giảm giá thành sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường.

Ngoài ra, ngành dệt đã có bước phát triển với những dự án đầu tư lớn của các

nhà đầu tư nước ngoài trong đó có: Dự án dệt kim của Công ty Global Dyeing (Hàn

Quốc) hoạt động với công suất 18.000 tấn / năm, dự án Formosa (Đài Loan) sản

xuất xơ sợi tổng hợp, đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và đang có khả năng mở

rộng, dự án liên doanh Phong Phú - ITG (Hoa Kỳ) đầu tư một cụm nhà máy liên

hợp dệt nhuộm may lớn nhất Việt Nam ở Hóa Khánh đang triển khai, dự án nhà

máy dệt nhuộm may của Tập đoàn Berhar (Malaysia) tại Khu kinh tế Chu Lai.

- Nhiều doanh nghiệp dệt may áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến

ISO 9001:2000; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001; thực hiện quản lý nội vi;

kiểm soát quá trình; thay đổi nguyên liệu; cải tiến thiết bị; ứng dụng công nghệ sản

xuất mới; … như Công ty may Việt Tiến, Công ty dệt Phong Phú, Công ty may 10,

Công ty cổ phần dệt 10/10, Công ty cổ phần kinh doanh len Sài Gòn, Công ty cổ

phần may Sài Gòn 3, Công ty Scavi Việt Nam , Công ty TNHH sợi Tianan, Công ty

may Nhà Bè, Công ty may Hưng Yên, Công ty dệt May Thành công, Công ty Dệt

may Hà Nội ,v.v. Chính vì vậy, các DN này đã có được một hệ thống quản lý tương

đối bài bản, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm sử dụng nguyên, nhiên vật liệu, đồng thời

giảm thiểu chất thải ra môi trường, góp phần đảm bảo sản xuất có hiệu quả, bảo vệ,

cải thiện môi trường, đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của nước

nhập khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất, xuất khẩu.

- Các chuyên gia của Viện Dệt may cũng cho rằng, một số DN rất quan tâm

đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội. Ví dụ, ở công ty May 10, bình

quân hàng năm, công ty đón tiếp hàng chục đoàn của các đối tác nước ngoài đến

kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động. Để tạo điều

kiện thuận lợi cho các đoàn kiểm tra, công ty đã đầu tư hàng trăm triệu đồng trang

bị thẻ từ, bảng chấm công điện tử... giúp cho việc kiểm tra số giờ làm thêm của

công nhân được dễ dàng và minh bạch. Để kiểm tra việc có sử dụng lao động vị

thành niên hay không, trong hồ sơ tuyển dụng lao động, công ty có đầy đủ các loại

91

giấy tờ hợp lệ theo yêu cầu của đối tác nước ngoài như: chứng minh thư nhân dân,

giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy kiểm tra sức khoẻ... Đối với các phân xưởng sản

xuất, công ty đã trang bị đầy đủ hệ thống chiếu sáng, thông gió, thiết bị y tế, phòng

cháy chữa cháy, có cửa thoát hiểm cho người lao động khi có sự cố. Tuy nhiên,

những công ty thực sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xã hội như May 10 còn ít;

việc áp dụng và thực hiện các tiêu chuẩn phù hợp với SA 8000 còn rời rạc, chưa có

tính đồng bộ và nhất quán.

- Các doanh nghiệp cũng chú trọng hơn đến xây dựng và củng cố thương

hiệu, các quy định về ghi nhãn sản phẩm. Một doanh nghiệp có XK thành công

hay không được đánh giá qua mức độ ảnh hưởng của họ đối với người tiêu dùng,

thị trường đối tác. doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng chứng tỏ là một doanh

nghiệp uy tín, và sản phẩm phải vượt qua được những RCKT cũng như các yêu

cầu khắt khe của người tiêu dùng. Chẳng hạn như công ty may Việt Tiến, xây

dựng và bảo vệ thương hiệu là chuyện sống còn. Các thương hiệu như: Việt Tiến,

Vee Sendy, T-up, Vie Laross đã được công ty tiến hành đăng ký bảo vệ thương

hiệu của mình tại các thị trường tiềm năng như Hoa Kỳ, Canada thông qua một

công ty XTTM phát triển của Nhật Bản. Công ty cũng tiến hành xây dựng thương

hiệu của mình tại các nước trong khối ASEAN như Singapore, Thái Lan,

Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei, đồng thời, tiếp tục đăng ký thương hiệu

của mình tại các nước châu Âu và sẽ kết hợp với Hội Luật gia Hà Nội để đẩy

mạnh hoạt động chống hàng gian, hàng giả, làm mất uy tín thương hiệu của mình.

Song song với các biện pháp ngăn chặn, Công ty đặc biệt chú trọng đến việc trang

bị các thiết bị, công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm riêng biệt của mình như:

tạo những đặc điểm về kỹ thuật- chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9001-2000 trên cơ

sở in vẽ, thiết kế chính xác trên các thiết bị hiện đại nhất, bảo đảm độ chính xác

cao đúng chiều vải, tạo ra những đường may thẳng, đều bền chắc cho sản phẩm...

Đồng thời tạo ra các đặc điểm về hình thức như: chỉ mang duy nhất nhãn hiệu

"Viettien" thể hiện trên bao bì, nhãn chính, nhãn treo của các loại sản phẩm. Cúc

92

nhựa có khắc chìm chữ "Viettien", hoặc "Vtec", riêng đối với các sản phẩm cao

cấp có đặc điểm chống hàng giả rất dễ nhận biết.

Thứ hai, nhiều DNDM lớn đã gắn chặt quyền lợi với các công ty nhập

khẩu, đây là một trong những biện pháp các DN Việt Nam thực hiện nhằm giảm

thiểu ảnh hưởng của các RCKT của các nước nhập khẩu áp đặt cho các DNXK dệt

may nước ngoài. Các DN Việt Nam đã kết hợp với các DN Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản

trong hoạt động sản xuất, phân phối mặt hàng dệt may, chính điều này đã giúp các

DN Việt Nam tránh được một số rào cản.

2.3.1.2. Các biện pháp, chính sách của nhà nước hỗ trợ DN vượt rào cản

kỹ thuật đối với hàng dệt may xuất khẩu

Thực tiễn Nhà nước đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ DN vượt RCKT sau:

(i) Hỗ trợ thông tin thị trường xuất khẩu cho DN, tăng cường các hoạt động

xúc tiến thương mại: Chính phủ hỗ trợ thông tin và xây dựng các quy chế, thể chế

thúc đẩy XK sang các thị trường. Chính phủ mở rộng quy mô hoạt động của các tổ

chức XTTM như Cục XTTM, mở rộng mạng lưới các Thương vụ Việt Nam tại các

nước nhập khẩu chính; Chính phủ thành lập phòng thông báo và điểm hỏi đáp về

hàng rào kỹ thuật trong thương mại, văn phòng TBT Việt Nam tăng khả năng đáp

ứng thông tin đến với các DN.

Văn phòng TBT Việt Nam là cơ quan đầu mối quốc gia của Việt Nam thực

hiện thông báo, hỏi đáp về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá sự

phù hợp liên quan đến RCKT trong thương mại theo hướng dẫn của WTO. Hiện

nay, mạng lưới TBT Việt Nam đã có mặt ở 64 tỉnh thành trên cả nước.

(ii) Ban hành các văn bản pháp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ

tục đánh giá sự phù hợp với cam kết trong hiệp định TBT của WTO và các cam kết

quốc tế khác

Về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về RCKT thương mại, tiêu chuẩn và

chứng nhận sự phù hợp, Việt Nam đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ

thuật (năm 2006), Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (năm 2007), Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, luật Đo lường năm 2011. Các nghị định

93

hướng dẫn thi hành các luật liên quan gồm Nghị định số 127/2007/NĐ-CP của

chính phủ ngày 01/08/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu

chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Nghị định số: 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm,

hàng hóa, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng, Nghị định số 86/2012/ND-CP ngày 19/10/2012 quy định chi thiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Đo lường, Nghị định về Ghi nhãn hàng hóa số

89/2006/NĐ-CP của Chính phủ năm 2006,...

Rất nhiều cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp và các biện pháp khác liên quan đến yêu cầu kỹ

thuật, bao gồm Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và

phát triển nông thôn, Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ

Giao thông, Bộ Y tế, Bộ Lao động, thương binh, xã hội, Bộ Văn hóa thể thao, du

lịch và Bộ Xây dựng. Bộ KH&CN chịu trách nhiệm công bố và quản lý tiêu chuẩn,

quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trên Công báo, chịu trách nhiệm cùng với các bộ khác

phát triển tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hàng hóa và dịch vụ theo lĩnh vực và thẩm

quyền chuyên môn.

Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng (STAMEQ), trực thuộc Bộ

KH&CN, là đại diện của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế và khu vực về những

vấn đề liên quan tới yêu cầu kỹ thuật. STAMEQ không thể ban hành văn bản quy

phạm pháp luật bắt buộc nhưng có trách nhiệm soạn thảo các văn bản quy phạm

pháp luật về tiêu chuẩn và những vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn trình lên Bộ và

Chính phủ phê duyệt.

(iii) Chính phủ đã tăng cường đàm phán, ký kết và tham gia các hiệp định

thương mại song phương, khu vực và đa phương để mở rộng điều kiện tiếp cận thị

trường cho hàng hóa và dịch vụ XK của Việt Nam trong đó có hàng DM. Tính đến

nay, Việt Nam ký kết FTA song phương là Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt

Nam - Nhật Bản (Vietnam - Japan economic Partnership Agreement VJEPA) và

94

Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - Chile, Hiệp định thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU . Đến cuối năm

2013, Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 6 hiệp định FTAs là

Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Tự

do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN -

Hàn Quốc (AKFTA), AJFTA, Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Ấn Độ

(AIFTA),khu vực thương mại tự do giữa các nước ASEAN, Australia và New

Zealand (AANZFTA). Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán TPP, RCEP, FTA với

EU, với Liên minh Thuế quan (Nga, Belarus, Kazakhstan), các nước EFTA và Hàn

Quốc. Việc tham gia đàm phán, ký kết các Hiệp định với hy vọng sẽ là cơ hội hạn

chế khối quốc gia này áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm của Việt

Nam trong đó có hàng dệt may xuất khẩu.

(iv) Các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu

hàng dệt may

Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm hoàn thiện môi

trường kinh doanh Việt Nam theo cơ chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo thuận lợi

cho phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội đất nước thì:

Trước hết, Nhà nước đặc biệt quan tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp DM,

một ngành công nghiệp mũi nhọn, một mặt hàng XK chủ lực vào hàng lớn nhất của

Việt Nam. Quyết định 36/2008/QĐ-TTg ngày 10/03/2008 của Thủ tướng chính phủ

phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp DM Việt Nam đến năm 2015,

định hướng đến năm 2020. Trên cơ sở Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt

may Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, Quyết định số QĐ

3218/QĐ-BCT ngày 11/4/2014 của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch phát

triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã đặt

mục tiêu “1. Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công

nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu

dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội

nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới; 2. Đảm bảo cho các doanh nghiệp Dệt

95

may phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý

chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế”.

Để thực hiện được các mục tiêu trên, Quy hoạch cũng đề ra một số giải pháp

cụ thể về đầu tư, tài chính, khoa học và công nghệ, phát triển thị trường, phát triển

nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Trong đó, nhấn mạnh vai trò ủng hộ, hỗ trợ của

Nhà nước về đầu tư, tài chính, phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển khoa học và công

nghệ, phát triển thị trường, đào tạo nguồn nhân lực là không thể thiếu để đảm bảo

cho ngành dệt may phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.

Việc triển khai thực hiện trong thực tiễn các chiến lược và quy hoạch phát

triển ngành DM thời gian qua đã hiện thực hóa các biện pháp chính sách của Nhà

nước hỗ trợ ngành DM, giúp cho ngành vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu để

tăng cường XK, hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra.

Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường kiểm tra, kiểm soát và tư vấn, giúp đỡ DN

XK dệt may

Ngày 30 tháng 11 năm 2007, Bộ Công Thương đã ra quyết định số

1935/QD-BCT thành lập tổ kiểm tra có sự tham gia của Vụ Xuất nhập khẩu, Vụ

Công nghiệp và tiêu dùng thực phẩm, Cục Quản lí thị trường (Bộ Công Thương),

Tổng cục Hải quan (Bộ tài chính), VITAS, VCCI. Nhiệm vụ của tổ này là kiểm tra

các DNXK có dấu hiệu gian lận thương mại, vi phạm qui định về xuất xứ hàng hóa,

qui định về quản lí chất lượng xuất nhập khẩu; kiểm tra DN có dấu hiệu vi phạm về

qui trình sản xuất hay có đơn giá XK quá thấp…; kiểm tra việc chấp hành các qui

định của Nhà nước trong xuất nhập khẩu DM của các DN. Khi phát hiện các trường

hợp vi phạm pháp luật, tổ sẽ báo cáo, kiến nghị lên các cơ quan hữu quan có thẩm

quyền ra quyết định xử lí. Tổ cũng giúp Bộ Công Thương thu thập thông tin về

tình hình sản xuất, XK của các DN trong diện kiểm tra để đề xuất những chính

sách phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế, nhằm đẩy mạnh XK, khắc

phục những hạn chế, cản trở trong sản xuất và XK nhất là tránh được các RCKT

của nước nhập khẩu.

96

Đồng thời, Nhà nước đã tham gia hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương

Bộ, ngành liên quan có những giải pháp phù hợp để giải quyết những tranh chấp

mại: Với trách nhiệm của mình, thời gian qua Bộ Công Thương đã phối hợp với các

thương mại, xóa bỏ những rào cản kỹ thuật mà một số nước đã áp đặt lên một số

mặt hàng dệt may có ưu thế của Việt Nam. Đồng thời để mở rộng thị trường và hỗ

trợ xuất khẩu dệt may, thời gian qua Bộ trưởng Bộ Công Thương đã chỉ đạo các

đơn vị trực thuộc đưa các nội dung dỡ bỏ các rào cản về thương mại, kỹ thuật trong

quá trình đàm phán các FTA với các đối tác TPP..… Ngoài ra, Bộ trưởng thường

xuyên chỉ đạo các thương vụ nước ngoài cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu

cho Hiệp hội DM và DNDMXK VN. Đồng thời cập nhật thông tin về thị trường

nước ngoài lên các trang thông tin canhbaosom.vn, thị trường nước ngoài

(ttnn.com.vn), thông tin thương mại (vinanet.vn), xúc tiến thương mại

(vietrade.com.vn)…[99]

2.3.2. Đánh giá về các biện pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt

may xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.

2.3.2.1. Kết quả đạt được

Nhìn vào số liệu kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang các thị

trường, chúng ta có thể thấy được những nỗ lực của Việt Nam trong việc đáp ứng

các rào cản phi thuế quan trong đó có RCKT. Kim ngạch xuất khẩu tăng thường

xuyên trong khi các RCKT của các nước nhập khẩu ngày càng tinh vi chứng tỏ Việt

Nam đã có những thích nghi và đổi mới để đáp ứng các rào cản này.

Về phía các DNDM: Các DN đã đạt được những thành công trong việc đáp

ứng RCKT của các nước như sau:

Thứ nhất, nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về các rào cản kỹ thuật

đã nâng lên rõ rệt: Nhiều doanh nghiệp sau khoảng thời gian rất dài tham gia xuất

khẩu hàng dệt may trả lời rằng, họ đã quen với việc đáp ứng các quy định của thị

trường xuất khẩu, và luôn quan tâm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Các doanh

nghiệp đã ý thực được: để vượt qua RCKT thì cần thiết phải tăng chi phí rất lớn,

song họ đều nhận thức rằng muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì không có cách nào khác

97

phải đáp ứng các quy định của nước nhập khẩu. Đặc biệt là các quy định với tư cách

là rào cản hợp lý và có căn cứ khoa học buộc phải tuân thủ. Kết quả khảo sát cũng

cho thấy các doanh nghiệp đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ sức khỏe con người,

bảo vệ người lao động, môi trường sinh thái. Có đến 72,5% DN quan tâm nghiên

cứu các RCKT vì nhận thấy trách nhiệm của họ, 70% DN cho rằng xuất phát từ yêu

cầu của khách hàng và 75% cho rằng họ nhận thấy tầm quan trọng của các quy định

này, chỉ có 27,5% cho rằng vì đã bị từ chối nhập hàng (Bảng 2.4). Kết quả điều tra

cũng cho thấy, khi thực hiện cam kết của WTO, các DN Việt Nam đã có sự chuẩn

bị cho việc thích ứng với các quy định này.

Bảng 2.4: Những lý do khiến DN quan tâm đến các quy định trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may

STT Lý do Số lượng DN Tỷ lệ (%)

1 Khách hàng yêu cầu 31 70,0

2 Từng bị từ chối nhập hàng 12 27,5

3 DN bạn phổ biến kinh nghiệm 18 40,0

4 Nhận thấy tầm quan trọng của các quy định 34 75,0

5 Nhận thấy trách nhiệm của DN 32 72,5

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013

Các doanh nghiệp cũng nhận thức được việc đáp ứng các quy định của các

nước nhập khẩu có vai trò rất quan trọng, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu,

giảm ô nhiễm môi trường sống, người lao động làm việc có hiệu quả hơn, điều đó

giúp DNDM nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chính vì thế,

mặc dù những quy định của các nước nhập khẩu ngày một khắt khe hơn nhưng các

doanh nghiệp dệt may của Việt nam vẫn duy trì được thị trường và tăng kim ngạch

xuất khẩu. Hiện nay, nhiều DN đã nhận thức được rằng cần phải tự giác và chủ

động thực hiện các quy định để đáp ứng yêu cầu của khách hàng chứ không trông

chờ vào Nhà nước như trước đây. Nhìn một cách tổng thể, các DNDM đã có chuyển

biến nhiều trong việc nhận thức về trách nhiệm để nâng cao khả năng vượt RCKT.

Chính vì thế, các DN có quy mô lớn vẫn giữ vững kim ngạch xuất khẩu ở các thị

98

trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản do họ rất quan tâm đến việc thực hiện

và đáp ứng các quy định của các thị trường này. Tuy nhiên, khi đánh giá về nhận

thức vẫn còn nhiều vấn đề phải đặt ra

Thứ hai, khả năng đáp ứng RCKT của các DNDM Việt Nam đã tốt hơn.

Nhìn vào số liệu kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong thời gian

qua, ta có thể thấy được kết quả nỗ lực của dệt may của Việt Nam trong việc đáp ứng

các rào cản kỹ thuật của các thị trường lớn [44]. Kim ngạch xuất khẩu tăng thường

xuyên trong khi các rào cản kỹ thuật của nước ngày càng tinh vi chứng tỏ Việt Nam đã

có những thích nghi và đổi mới nhất định để đáp ứng các rào cản này. Từ khi gia nhập

WTO, các DN Việt Nam đã có điều kiện thuận lợi hơn và quen dần với những quy

định khắt khe của các thị trường khó tính, có kinh nghiệm hơn trong việc ứng phó

với các RCKT để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nhập khẩu

lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và xâm nhập ngày càng tốt hơn vào các thị trường

khác như Hàn Quốc, Canada….Theo ý kiến chuyên gia của Viện Dệt may Việt Nam

và Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Công thương cho thấy:

- Về các qui định, tiêu chuẩn kỹ thuật, nói chung các doanh nghiệp đã nắm

bắt được những nguyên tắc cơ bản về nhãn mác, xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn về an

toàn cho người sử dụng đáp ứng được những yêu cầu của rào cản này. Đó là thành

công của các doanh nghiệp trong giai đoạn này vì trước đây, Việt Nam còn rất

nhiều bỡ ngỡ vấn đề tem mác, xuất xứ, … của hàng hóa.

- Về các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội, các doanh nghiệp Việt

Nam đã bước đầu có thông tin về các tiêu chuẩn này. Thực tế là một số doanh

nghiệp dệt may tiên phong của Việt Nam đã đánh giá đúng được vị trí của những

chứng chỉ về môi trường và trách nhiệm xã hội, nỗ lực để đạt được các tiêu chuẩn

này thông qua việc cải tiến máy móc thiết bị, quan tâm đến bảo vệ môi trường và

người lao động và chấp nhận bỏ chi phí lớn để có được các chứng chỉ quốc tế.

Như vậy, về nhận thức và mức độ đáp ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu

hàng dệt may về các rào cản kỹ thuật đã được nâng lên rõ rệt. Các doanh nghiệp đã

nhận thức tốt hơn về trách nhiệm của mình để tăng cường năng lực vượt qua các rào

99

cản, để duy trì và phát triển thị phần ở các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU và

Nhật Bản. Các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, nhân lực để đáp ứng

quy định của các nước. Do đó, trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của

các doanh nghiệp này đã tăng lên đáng kể.

Về phía các cơ quan QLNN: Qua các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối

với các DNDM ở trên cho thấy: Chính Phủ Việt Nam đã quan tâm, nỗ lực và tạo

điều kiện để DN vượt qua các RCKT, đẩy mạnh xuất khẩu hàng DM.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, các DN xuất khẩu hàng dệt may của Việt

Nam đã đánh giá cao vai trò của các cơ quan quản lý ngành dệt may, Bộ Công

thương, Bộ Khoa học & Công nghệ đã tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, cung

cấp các thông tin về các quy định cũng như cảnh báo của các nước nhập khẩu. Các

cơ quản quản lý chức năng đã đôn đốc DN thực hiện nghiêm ngặt các quy định.

Bảng 2.5: Mức độ hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức giúp DN vượt RCKT

Mức độ 1 2 3 4 5

Hỗ trợ SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL

2 4,4 3 6,7 11 24,4 15 33,3 14 31,1

2 4,4 10 22,2 24 53,3 6 13,3 3 6,7

hội 3 6,7 1 2,2 21 46,7 15 33,3 5 11,1

tổ chức 3 6,7 8 17,8 14 31,1 13 28,8 7 15,6 Các cơ quan bộ, ngành Chính quyền địa phương Hiệp doanh nghiệp Các khác

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013

Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức

độ thấp nhất, 5 là mức độ hỗ trợ cao nhất.

Các DN cũng cho biết, thông tin mà họ nhận được từ văn bản của các Bộ,

ngành rất quan trọng bên cạnh kênh thông tin từ đối tác ở nước nhập khẩu. Bên

cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cho rằng: Những doanh nghiệp lớn có vị trí nằm

trong các thành phố, gần với các cơ quan quản lý đánh giá cao vai trò của các cơ

100

quan này hơn những doanh nghiệp ở xa thành phố. Hơn nữa, những năm gần đây,

vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam cũng được nhiều doanh nghiệp ghi nhận.

Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nên các DN cũng có

nhiều thuận lợi trong việc vượt qua rào cản kỹ thuật. Có việc kiểm tra, kiểm soát

thường xuyên, chặt chẽ nên chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã

đáp ứng được phần lớn yêu cầu của các thị trường khó tính.

Các DN cũng khẳng định rằng, họ đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà

nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại để tăng cường năng lực vượt RCKT, từ

chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường, tạo thuận lợi

cho thương mại, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đến các hỗ trợ về tài

chính, kỹ thuật, thông tin thị trường, XTTM và đào tạo nguồn nhân lực. Có thể nói,

sự ủng hộ, hỗ trợ của Chính phủ là không thể thiếu để DN vượt qua RCKT, tăng

cường xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và mở rộng xuất khẩu ra

các thị trường khác.

2.3.2.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành công mà Nhà nước và các DNDM của Việt Nam đã

đạt được như trên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế.

- Đối với các cơ quan QLNN, các biện pháp tạo điều kiện và hỗ trợ cho các

DNDM vượt RCKT vẫn còn bất cập, đó là:

Thứ nhất, sự chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và quy định của nước nhập

khẩu. Theo Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (có Hiệu lực từ 1/1/2007) hệ

thống Tiêu chuẩn Việt Nam gồm: 1. Tiêu chuẩn quốc gia, ký hiệu là TCVN; 2. Tiêu

chuẩn cơ sở, ký hiệu là TCCS. Đến ngày 31/3/2011 Việt Nam có

6054 TCVN, 119 Quy chuẩn Quốc gia (QCVN) và 204 Văn bản Kỹ thuật Đo lường

Việt Nam (ĐLVN) còn hiệu lực. Tại Việt Nam, các quy chuẩn quốc gia là bắt buộc

phải áp dụng, trong khi khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia. Đến cuối

năm 2012, có 6800 tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) còn hiệu lực. Trong số đó, 40%

đã được hài hòa hóa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực hoặc tiêu chuẩn của nước

ngoài, (tăng 25% so với năm 2005). Nhiều bộ TCVN được ban hành hầu như không

còn phù hợp với xu thế phát triển nhanh về công nghệ. Bộ Công thương đã sơ bộ rà

soát hệ thống tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật của ngành dệt may thì trong gần 200

101

tiêu chuẩn có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế, 49 tiêu chuẩn cần

được xây dựng mới, tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hóa

chất có ảnh hưởng đến con người.

Do vẫn còn nhiều tiêu chuẩn quốc gia chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế

nên DN đang phải áp dụng cùng lúc nhiều tiêu chuẩn: tiêu chuẩn quốc tế, tiêu

chuẩn quốc gia (đối với những danh mục quy chuẩn quốc gia) và tiêu chuẩn của

nước nhập khẩu...điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn trở ngại cho DN. Mặt khác,

DN đang phải đối mặt với nhiều RCKT do các nước nhập khẩu đặt ra, những hàng

hóa có tiêu chuẩn không phù hợp sẽ không được chấp nhận. Khi đó để có thể bán

được hàng vào nước nhập khẩu, DN sẽ phải chịu thêm rất nhiều chi phí tốn kém

cho các thử nghiệm, chứng nhận, công nhận... tại các nước này.

Mặc dù Việt Nam đã tham gia vào nhiều thoả ước thừa nhận lẫn nhau song

phương, khu vực và đa phương, rất nỗ lực hài hòa hóa, tăng cường chấp nhận tiêu

chuẩn quốc tế, nhưng trên thực tế việc các nước thừa nhận các tiêu chuẩn và quy

chuẩn kỹ thuật của Việt nam là rất khó trừ phi các tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu

chuẩn quốc tế.

Bên cạnh đó, tính chất tiến thoái lưỡng nan của việc áp dụng các tiêu chuẩn

và quy định kỹ thuật ở Việt Nam. Do trình độ phát triển, trình độ khoa học, kỹ thuật

và công nghệ của Việt Nam, nhất là các DN trong nước còn chưa cao, những tiêu

chuẩn quá cao được đưa vào làm tiêu chuẩn quốc gia sẽ khiến DN khó áp dụng.

Nhưng không tiến tới hài hoà ngang bằng với các hệ thống tiêu chuẩn khu vực và

quốc tế thì các DN trong nước cũng khó có thể cạnh tranh được khi hàng ngoại

nhập với những tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật cao tràn vào thị trường trong

nước khi các rào cản thuế quan được dỡ bỏ.

Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiệp định TBT,

quy định của các nước nhập khẩu còn yếu. Tiến độ xây dựng một số đề án liên quan

đến hoạt động đánh giá hợp quy còn chậm do chưa có sự chỉ đạo sát sao và sự phối

hợp tích cực giữa các cơ quan liên quan. Việc thành lập điểm TBT tại một số địa

phương còn gặp khó khăn. Tại các điểm TBT đã được thành lập, cán bộ nhiều khi

102

làm việc kiêm nhiệm, công việc mới nên nhiều khi còn lung túng trong việc triển

khai các nghiệp vụ cụ thể.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN từ Trung ương đến địa phương,

còn nhiều bất cập. Rất nhiều DN không hài lòng với sự hỗ trợ, phối kết hợp của

chính quyền địa phương nơi DN hoạt động. Do đó, nhiều khi những văn bản, hướng

dẫn, các thông tin đến DN không kịp thời và việc triển khai của DN gặp nhiều khó

khăn. Đây cũng là điểm yếu trong quản lý nhà nước từ nhiều năm qua.

- Đối với các DNDM Việt Nam

Một là, mặc dù nhận thức của các DN đã nâng lên đáng kể song vẫn còn

nhiều bất cập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, bên cạnh những doanh nghiệp đã

nhận thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu các quy định của các thị trường

nhập khẩu thì vẫn còn nhiều DN chưa thật quan tâm, nhất là các doanh nghiệp nhỏ.

Các chuyên gia của Viện Dệt may, và Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương cho

biết, có doanh nghiệp thậm chí không biết rào cản kỹ thuật là gì. Điều này sẽ là bất

lợi rất lớn khi DN muốn mở rộng thị trường hoặc chia sẻ rủi ro trong xuất khẩu. Kết

quả tổng hợp tại bảng 2.6 cho thấy còn nhiều DN chưa thực sự nhận biết rõ về

RCKT của các nước nhập khẩu chính. Có tới 53,4% số DN được khảo sát nhận biết

ở mức thấp và trung bình về RCKT của thị trường Hoa Kỳ, tỷ lệ này đối với thị

trường EU là trên 55,5%, đối với thị trường Nhật Bản lên tới 78,8%, v.v

Bảng 2.6: Mức độ nhận biết của DN về các rào cản kỹ thuật trong hoạt động xuất khẩu trên các thị trường chính

Mức độ 1 2 3 4 5

Thị trường SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL

Hoa Kỳ 8 17,8 7 15,6 9 20,0 14 31,1 7 15,6

EU 6 13,3 10 22,2 9 20,0 13 28,9 7 15,6

Nhật Bản 8 17,8 7 15,6 18 45,4 7 15,6 5 11,1

Hàn Quốc 9 20,0 5 11,1 15 33,3 11 24,4 5 11,1

8 11 24,4 1 2,2 Thị trường khác 17,8 14 22,2 11 24,4

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả

103

Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ

nhận biết thấp nhất; 5 là mức độ nhận biết cao nhất

Hai là, năng lực đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu của các DNDM

Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.

Ngày nay, yêu cầu của các nước nhập khẩu càng trở lên khắt khe nhưng tiềm

lực của các DN thì hạn chế nên DN đã và đang gặp khó khăn về nhiều phương diện.

Bảng tổng hợp 2.7 cho thấy mức độ khó khăn của các DN tập trung chủ yếu ở mức

điểm trung bình (từ 20% đến 44,4%). Có 42,2% DN cho rằng họ bị thiếu về kỹ

thuật ở mức khá cao, đây có lẽ là vấn đề nan giải nhất hiện nay. Trong khi cách đây

vài năm, các DN cho rằng thiếu kinh phí là khó khăn lớn nhất thì hiện nay chỉ có

33,3% cho rằng họ thiếu kinh phí ở mức khá. Một số DN lớn đánh giá thiếu nhân

lực để xử lý các vấn đề liên quan đến quy định, tiêu chuẩn Việt Nam chưa phù hợp

với tiêu chuẩn thế giới, cơ chế chính sách chưa chặt chẽ là khó khăn lớn nhất.

Bảng 2.7: Mức độ khó khăn của DN trong việc đáp ứng các RCKT

1 2 3 4 5

Mức độ khó khăn SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL

Thiếu thông tin 15,6 13,3 20 44,4 7 15,6 5 11,1 6 7

20,0 15 33,3 12 26,7 7 15,6 9 4,4 2 Thiếu kinh phí

20,0 12 26,7 19 42,2 2 4,4 9 4,4 2 Thiếu kỹ thuật

17,8 17 37,8 9 20,0 8 17,8 8 6,7 3 Thiếu nhân lực

15,6 15 33,3 14 31,1 6 13,3 7 6,7 3 Thiếu dịch vụ

5 11,1 10 22,2 19 42,2 11 24,4 5 11,1 Thiếu đơn vị đánh giá

2 4,4 2 4,4 19 42,2 14 31,1 8 17,8 Tiêu chuẩn chưa phù hợp

chế, CS 2 4,4 5 11,1 15 33,3 15 33,3 8 17,8 Cơ chưa chặt chẽ

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013

104

Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ

khó khăn thấp nhất; 5 là mức độ khó khăn cao nhất

Một trong những nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng dệt may là nhu cầu

của người tiêu dùng. Ở các nước phát triển, người tiêu dùng ngày càng đưa ra

những quy định khắt khe hơn đối với sản phẩm, do đó mức độ khó khăn của các

doanh nghiệp xuất khẩu sẽ càng lớn. Điều này thể hiện rất rõ qua ý kiến của các

doanh nghiệp (Bảng 2.8). Rất ít doanh nghiệp tự đánh giá mức độ khó khăn của các

doanh nghiệp là bình thường và đa số doanh nghiệp nhỏ cho rằng họ gặp nhiều khó

khăn để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là những khách hàng lớn,

truyền thống của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ quy mô của doanh nghiệp có ảnh

hưởng rất lớn đến năng lực vượt rào cản. Các doanh nghiệp lớn sẽ có nhiều nguồn

lực để vượt rào cản kỹ thuật hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong khi ở Việt

Nam có đến 80% các DNVVN)

Bảng 2.8: Mức độ khó khăn mà DN phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật trên một số thị trường chủ yếu

Mức độ 1 2 3 4 5

Thị trường SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL

Hoa Kỳ 2 4,4 5 11,0 7 15,5 14 31,1 17 37,8

EU 0 0,0 6 13,3 10 22,2 23 51,2 6 13,3

Nhật Bản 2 4,4 2 4,4 19 42,2 16 35,5 6 13,3

Hàn Quốc 6 0 0,0 5 11,0 13,3 15 33,3 18 40

2 0 0,0 4 8,9 Thị trường khác 4,4 2 4,4 3 6,7

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả năm 2013

Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%); 1 là mức độ khó khăn thấp nhất; 5 là mức độ khó khăn cao nhất

Thực tế cho thấy, rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu hàng dệt may

ngày càng cao hơn, chặt chẽ hơn. Các DN đã phải nỗ lực hết mình để giữ thị

trường, nhất là các DN tư nhân, công ty cổ phần. Do đó, khi được hỏi về mức độ

105

đáp ứng các RCKT, nhiều DN cho rằng họ chỉ đáp ứng được ở mức độ trung bình

và thấp (Bảng 2.9).

Bảng 2.9: Mức độ đáp ứng của DN đối với rào cản kỹ thuật

Mức độ Rất thấp Trung bình Tốt Rất tốt

Thấp

Quy định SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL

1 2 9 20 19 42 10 22 4 9

0 0 7 16 19 42 13 29 6 13

1 2 7 16 25 56 10 22 2 4

trách 1 2 6 13 20 44 14 31 4 9 Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng Quy định về an toàn cho người sử dụng Tiêu chuẩn về quản lý môi trường Tiêu chuẩn nhiệm xã hội

1 2 7 16 13 29 18 40 6 13 Quy định về ghi nhãn hàng DM

1 2 3 7 25 56 8 18 8 18 Quy định về nguồn gốc xuất xứ

2 4 10 22 14 31 15 33 4 9 Các quy định khác (xin ghi rõ):………

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát doanh nghiệp của tác giả 2013

Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỷ lệ trên tổng số 45 DN (%)

 Về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu

của Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều cải tiến nhưng chưa hoàn toàn đạt yêu cầu,

đặc biệt là đối với ngành dệt. Quy chế kiểm tra chất lượng còn chưa chặt chẽ, tình

trạng xuất hàng kém chất lượng gây mất uy tín vẫn còn tồn tại. Cho đến nay vẫn

chưa nhiều doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO trong quản lý chất lượng và có ít

doanh ngiệp được cấp chứng chỉ. Số liệu điều tra cũng cho thấy, số DN đạt tiêu

chuẩn chất lượng cao còn thấp (21%)

 Về các qui định về tính an toàn của sản phẩm: Kết quả điều tra cũng cho

thấy mức độ đáp ứng của tiêu chuẩn này ở mức trung bình chiếm tỷ lệ cao. Ngoài

ra, theo Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May, phần lớn các thiết bị nghiên cứu, thử

106

nghiệm chất lượng hàng dệt may được đầu tư từ những năm 90, nay đã cũ và lạc

hậu. Hiện nay Việt Nam chưa có các phòng thí nghiệm sinh thái đủ tiêu chuẩn để

cấp chứng chỉ an toàn cho hàng xuất khẩu và kiểm tra các loại hàng hoá, bảo đảm

an toàn cho người sử dụng tại Việt Nam cũng như tại thị trường nhập khẩu. Vì thế,

việc cấp chứng chỉ này cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam phải thông qua

phòng thí nghiệm của thị trường nước nhập khẩu. Việc này gây không ít khó khăn

về thủ tục, chi phí cũng như thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam.

Ngày 10/10/2010 tại TP.HCM đã diễn ra Hội nghị quốc tế về an toàn sản

phẩm và các chất bị hạn chế đối với mặt hàng dệt may và giày dép nhập khẩu vào

Hoa Kỳ. Hội nghị này đã trang bị cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất

khẩu nội dung qui định về tính an toàn sản phẩm của Hoa Kỳ, định hướng cho các

doanh nghiệp về chất lượng cần đạt được của sản phẩm. Hội nghị này là thật sự cần

thiết trong bối cảnh các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn lúng túng và chưa

thích nghi được với các qui định mới của Hoa Kỳ về tính an toàn của sản phẩm.

Mặc dù sản phẩm áo, váy của trẻ em có dây thắt ở khu vực cổ đã bị Hoa Kỳ

cấm từ lâu nhưng trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn chưa chú ý

đến việc kiểm soát chặt chẽ các mẫu thiết kế dẫn tới vẫn sản xuất các loại sản phẩm

này và không thể xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn

xuất khẩu lại được đem bán trong nước vì tiêu chuẩn an toàn về sản phẩm dệt may

của Việt Nam còn thấp và ý thức của người dân với tính an toàn của sản phẩm dệt

may chưa cao. Hàng không xuất khẩu được phải bán với giá rẻ hơn gây thiệt hại

không ít cho doanh nghiêp. Ngoài ra, hàng dệt may Việt Nam còn khó khăn trong

đáp ứng yêu cầu về nồng độ chì trong sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu của việc này

là do chất nhuộm vải và nguyên liệu sợi, vải, phụ liệu nhập khẩu của Việt Nam

chưa đạt yêu cầu. Dù đã cố gắng tự chủ về nguyên liệu nhưng đến năm 2010, Việt

Nam vẫn phải nhập khẩu đến hơn 60% nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan, Ấn

Độ và một số nước khác. Các nguyên liệu này khi nhập khẩu lại chỉ đáp ứng được

tiêu chuẩn của Việt Nam dẫn đến khi đuợc gia công thành sản phẩm thì nồng độ các

chất độc hại trong hàng may mặc vượt xa mức cho phép của Hoa Kỳ và không được

phép nhập khẩu. Hơn thế nữa, với các phòng thí nghiệm đã cực kì lạc hậu như hiện

107

nay, Việt Nam không thể xác định chính xác nồng độ các chất độc hại trong sản

phẩm với độ chính xác vô cùng khắt khe theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ. Quá trình hậu

kiểm của các doanh nghiệp dệt may cũng còn nhiều thiếu sót, ở một số khâu còn

qua loa, chưa chú trọng nên để lọt các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

 Về đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường: Tình trạng các xí

nghiệp trong dây chuyền nhuộm hoàn tất vẫn sử dụng chất phụ trợ, chất nhuộm gây

ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động và môi trường thậm chí là người sử dụng

sản phẩm. Nghiêm trọng nhất là trong quá trình hồ sợi, do sử dụng nhiều hoá chất

độc hại nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, tăng lượng COD trong nước

thải khó xử lí vi sinh. Kỹ thuật giảm trọng Polieste bông kiềm làm sản sinh luợng

terephtalat trong nước thải đến 5-6 lần. Với tình trạng ô nhiễm này, doanh

nghiệp cần đầu tư nhiều kinh phí cho việc xử lí môi trường và khó có thể đạt

được chứng chỉ đạt chuẩn.

 Về việc đáp ứng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, theo báo cáo của Tập

đoàn DMVN Vinatex, hiện nay, mới chỉ có một lượng nhỏ DN ở Việt Nam có được

chứng chỉ SA8000. Đến hết năm 2009, mới có 47 doanh nghiệp Việt Nam đạt tiêu

chuẩn này như công ty Dệt may Việt Thắng, Công ty Xuất nhập khẩu dệt may Việt

Tiến, Castrol Vietnam, Legamex...Trong đó có 35 doanh nghiệp thuộc khối dệt

may. Tuy nhiên nếu đối chiếu theo các tiêu chuẩn của chứng chỉ này thì phải có đến

1000 doanh nghiệp đạt yêu cầu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may

Việt Nam, lí do của tình trạng này là vì trong thời gian đầu khi hệ thống tiêu chuẩn

này phổ biến ở Việt Nam các doanh nghiệp rất “hăm hở”, vì cho rằng nó là quy

chuẩn quốc tế nên sẽ được khách hàng chấp nhận. Nhưng thực tế, theo ông Ân thì

mỗi khách hàng lại chọn cho mình một tổ chức giám định riêng, nên doanh nghiệp

dù có chứng chỉ SA 8000 hay không thì vẫn bị giám định, trong khi “thực ra hệ

thống tiêu chuẩn không khác nhau nhiều, chỉ thêm 1 đến 2 yêu cầu nữa”. Đó là lý

do chính khiến các doanh nghiệp chưa thật sự thấy cần thiết có chứng chỉ này.

Trong khi đó, doanh nghiệp lại gặp khó khăn vì mỗi khách hàng kiểm tra một lần,

khiến doanh nghiệp mất thời gian chuẩn bị. Trong thời gian qua, Tập đoàn dệt may

108

Việt Nam đã có đề xuất với các hiệp hội ngành nghề các nước, để thống nhất một tổ

chức giám định, nhưng kiến nghị này chưa được đồng ý. Hiện nay có nhiều luồng ý

kiến về sự cần thiết của chứng chỉ SA8000, có doanh nghiệp, điển hình như Công ty

may Sài Gòn cho rằng việc có được cấp chứng chỉ này hay không, không quan

trọng. Thường thì doanh nghiệp tìm cách có chứng chỉ để tăng uy tín thương hiệu,

còn thực chất là doanh nghiệp vẫn phải đối diện với việc đánh giá của từng khách

hàng. Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng không muốn chi trả chi phí đánh giá, chi

phí thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000, trong khi việc này không mang

lại hiệu quả thiết thực.

 Về đáp ứng các quy định ghi nhãn hàng dệt may: Hiện nay các doanh

nghiệp dệt may Việt Nam đã cơ bản nắm bắt được các tiêu chuẩn đặc biệt là tiêu

chuẩn về nhãn mác của hàng dệt, len và lông thú. Nhãn mác hàng dệt may Việt

Nam đã đáp ứng được qui chuẩn của nhãn mác như 100% hàng xuất khẩu được viết

bằng tiếng Anh với kí mã hiệu theo qui chuẩn của Hoa Kỳ và thế giới. Tuy nhiên,

hiện nay rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc do ghi thiếu

hoặc sai lệch thành phần của hàng dệt và hàng len. Tỉ lệ ghi trên nhãn mác như %

cotton, spandex...tuy đã qui định rõ nhưng khi kiểm tra lại theo nhãn thì không đạt

tiêu chuẩn. Đó là do khâu kiểm tra và đo lường của các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam còn thiếu chính xác, chưa đạt tiêu chuẩn.

 Khó khăn trong việc đáp ứng quy định về xuất xứ hàng dệt may: Dệt may

hiện là ngành được quan tâm nhất khi VN tham gia TPP, vì đây là ngành đóng góp

cho kim ngạch xuất khẩu rất lớn, tạo công ăn việc làm nhiều. Thực tế có rất nhiều lo

ngại cho ngành dệt may khi tham gia vào hiệp định này, mà trực tiếp là những thách

thức đối với thị trường Mỹ. Như chúng ta biết, thị phần của VN xếp vị trí thứ 2 ở

thị trường Mỹ nhưng vị trí này là không bền vững. Nguyên nhân là do thị phần của

VN chỉ chiếm 8%, còn Trung Quốc đứng vị trí số 1 với 35-36% về thị phần, gấp 4,5

lần VN - sự chênh lệch là rất lớn. Trong khi đó, những thị trường ở vị trí thứ 3, thứ

4 cũng có 7% hoặc 6,5% thị phần, chỉ cần một sai lệch nhỏ trong định hướng chung

là dệt may VN có thể mất vị trí thứ 2. Nghiêm trọng hơn, khi tham gia vào TPP, Mỹ

109

yêu cầu áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” là thách thức lớn đối với ngành dệt

may VN. Thách thức này thể hiện ở chỗ, chuỗi cung ứng dệt may trên thế giới là

chuỗi cung ứng toàn cầu, các nhà sản xuất, mua hàng đã có xu thế thiết lập tương

đối ổn định chuỗi cung ứng của mình. Vì vậy, không dễ để họ dịch chuyển chuỗi

cung ứng từ những nước không nằm trong TPP dịch chuyển về những nước nằm

trong TPP. Chưa tính đến trường hợp các DNVN có thể lo được vốn để đẩy mạnh

đầu tư vào khâu sợi, dệt, nhuộm nhưng nếu các nhà máy trên không nằm trong

chuỗi cung ứng, thì khả năng tham gia và hưởng lợi từ TPP là khó đạt được. Và một

dẫn chứng từ thực tế để thấy rõ thách thức này đối với ngàng dệt may VN hiện nay

là khi tham gia Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Nhật Bản, VN được hưởng

nguyên tắc “từ vải trở đi”. Mặc dù thông thoáng hơn cả nguyên tắc “từ sợi trở đi”

của TPP nhưng trong 4 năm qua, việc thu hút đầu tư sản xuất vải cho thị trường

Nhật Bản để đáp ứng được FTA thực sự không đáng kể.

Từ những hạn chế đó, các DN cho rằng mặc dù nhận thức được cần phải đáp

ứng quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhưng do khó khăn về

nhiều mặt nên họ mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà nước và chính quyền

địa phương. Đối với các DN lớn, thì mong muốn hỗ trợ nhiều hơn cả là được trợ

giúp về mặt kỹ thuật, hỗ trợ kinh phí, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển các dịch

vụ môi trường. Còn đối với các DN quy mô nhỏ, thì mong muốn chủ yếu là được

hỗ trợ cung cấp thông tin, hỗ trợ kinh phí, đào tạo nguồn nhân lực.

2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, cả bên trong và bên

ngoài, trong đó nguyên nhân chủ quan có tác động rất lớn đến khả năng vượt

RCKT của hàng DMXK Việt Nam mà nguyên nhân chính thuộc về tư duy, nhận

thức của cả Nhà nước, các cấp các ngành và các DNXK hàng dệt may Việt Nam đối

với RCKT chưa hoàn toàn mang tính tích cực và đầy đủ. Trên thực tế, Việt Nam nói

chung và các DNXK nói riêng thường chỉ nhấn mạnh RCKT do các đối tác nhập

khẩu luôn gây khó khăn cho mình và do đó trong thực tế chỉ tập trung nhiều hơn

cho đàm phán, giải quyết khiếu kiện…mà không tích cực đổi mới, cải cách cả về

110

phía Nhà nước và DN. Đây là nguyên nhân quan trọng, quyết định và kéo theo

nhiều nguyên nhân khác.

Bên cạnh nguyên nhân có tính quyết định trên thì có nhiều nguyên nhân khác

từ phía Nhà nước, Hiệp hội DM và các DNDM. NCS tập trung phân tích những

nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nguyên nhân thuộc về phía Nhà nước và các cơ quan QLNN

- Hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ,

đồng bộ, hiệu lực thực thi chưa cao. Các luật và quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn

kỹ thuật, môi trường, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội vẫn đang trong quá trình hoàn

thiện, chỉnh sửa, bổ sung và ban hành mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, hiệu lực thực thi của các văn

bản quy phạm pháp luật chưa cao, một phần do năng lực xây dựng pháp luật còn

hạn chế, khiến cho còn nhiều quy định chung chung, mơ hồ, chồng chéo và chứa

đựng nhiều mâu thuẫn, mặt khác là do Việt Nam vẫn chưa xây dựng được ý thức

thượng tôn pháp luật. Đối với ngành DM, việc biên soạn, chỉnh sửa bộ tiêu chuẩn

về môi trường trong ngành dệt chưa kịp thời; còn thiếu các văn bản mang tính pháp

lý cao cho phát triển công nghiệp hỗ trợ; chưa có luật về hiệp hội; qui định về áp

dụng tiêu chuẩn về môi trường còn chung chung; chế tài xử phạt các DN vi phạm

tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi trường còn lỏng lẻo. Chính quyền địa phương

chưa giám sát sâu sắc và hỗ trợ nhiều cho DN, …

- Trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém, trình độ KHCN lạc hậu, thiếu các

phòng thí nghiệm đạt chuẩn, QLNN còn hạn bất cập; phần lớn NPL ngành may đều

phải nhập khẩu dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu, do vậy Việt Nam gặp rất nhiều

khó khăn trong đối phó với các RCKT thương mại từ các nước phát triển Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam còn chưa đồng bộ và thực sự phù

hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nên các DNXK Việt Nam còn gặp trở ngại khi XK.

Việc nhập khẩu tới 80% NPL của ngành DMXK không những khiến cho hiệu quả

XK hàng DM của Việt Nam chưa cao vì phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập

khẩu từ thị trường nước ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc (khoảng 24%), tiếp theo là

Hàn Quốc (chiếm 23%), Đài Loan (chiếm 20, 28%), Hồng Kông (chiếm 13, 99%),

Nhật Bản (chiếm 8, 89%), mà còn làm suy giảm khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn

và yêu cầu kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhất là các quy định về quản lý chất

111

lượng sản phẩm, an toàn cho người sử dụng và các quy định về nhãn mác, xuất xứ,

v.v … Hiện cả nước có khoảng 10 nghìn hecta trồng bông với sản lượng hằng năm

chỉ đáp ứng khoảng 2% nhu cầu sản xuất. Nguyên nhân chính dẫn tới sự kém phát

triển của ngành bông, xơ ở Việt Nam là do nước ta không có lợi thế cạnh tranh tự

nhiên và không chú trọng đầu tư trong việc trồng bông và sản xuất xơ. Trồng bông

là ngành rất thâm dụng đất đai, việc trồng bông chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí

hậu, dẫn tới diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn chưa cao và còn manh mún. Bên

cạnh đó, trình độ thâm canh của nông dân chưa tốt, không có hệ thống thủy lợi hỗ

trợ, điều kiện trồng trọt chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch bằng

tay nên chất lượng bông của nước ta thấp dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với

các nước khác ở Bắc Mỹ và Châu Phi. [30].

- Các chính sách và nguồn lực của Nhà nước hỗ trợ vượt RCKT đối với hàng

DM còn hạn chế như các chính sách về đầu tư, tài chính, phát triển kết cấu hạ tầng,

phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển chuỗi cung ứng DM; hỗ trợ đào tạo nguồn

nhân lực DM, hỗ trợ về thông tin thị trường và XTTM,...

- Năng lực đàm phán, giải quyết tranh chấp liên quan đến RCKT của các cơ

quan nhà nước còn hạn chế. Việt Nam chưa đàm phán, ký kết được nhiều hiệp định

với các nước công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và kiểm tra.

- Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể bài bản và khoa học về nâng cao

năng lực cạnh tranh XK hàng DM, sự mâu thuẫn trong chính sách của nhà nước

trong việc khuyến khích đầu tư vào ngành dệt nhuộm và chính sách hạn chế các

ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường; thiếu vắng các cụm ngành công

nghiệp dệt may để hỗ trợ phát triển.. Vì chưa có chiến lược bài bản và khoa học,

cho nên Nhà nước chưa có đầu tư thỏa đáng, có trọng tâm trọng điểm để giúp các

DNDM trong nước kể cả nâng cao nhận thức cũng như có những cải cách, điều

chỉnh và đổi mới về KHCN, về các quy trình sản xuất liên quan tới dệt và may

nhằm không chỉ nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đồng thời

tuân thủ và đáp ứng tốt các RCKT do các nước nhập khẩu đưa ra. Thực tế, vai trò

của ngành dệt đối với ngành may nói riêng và tổng thể ngành dệt may là rất lớn vì

vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng của một sản

phẩm may mặc. Mặc dù có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu tại

112

chỗ cho ngành may nhưng trên thực tế, ngành dệt Việt Nam chưa phát triển như kỳ

vọng. Bên cạnh yếu tố chất lượng không đảm bảo thì sản lượng ngành dệt cũng

không đáp ứng nhu cầu của ngành may. Năm 2012, ngành may có nhu cầu sử dụng

khoảng 7 tỷ mét vải trong khi tổng lượng vải sản xuất trong nước chỉ đạt khoảng 1

tỷ mét, nước ta phải nhập khẩu 6 tỷ mét vải, tương đương 86% tổng nhu cầu. Nước

ta có khả năng nhuộm và hoàn tất 80.000 tấn vải đan và 700 triệu mét vải dệt mỗi

năm. Tuy nhiên, chỉ khoảng 20-25% lượng vải dệt này đủ chất lượng để sản xuất

thành phẩm xuất khẩu, trong khi vải đan hầu hết không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu

và chỉ được dùng cho thị trường nội địa.

Thứ hai, nguyên nhân thuộc về Hiệp hội DM.

Hiệp hội DM của Việt Nam còn chưa phát huy được đầy đủ vai trò của mình

trong việc đối phó với các RCKT thương mại của nước ngoài. Hiệp hội còn yếu về

tổ chức, về tiềm lực tài chính và năng lực chuyên môn, tính liên kết trong hiệp hội

lỏng lẻo. Với tư cách là tổ chức đại diện chính đáng cho các lợi ích của DN, có

trách nhiệm giúp đỡ DN đối phó với các RCKT của nước ngoài, nhưng thực tế Hiệp

hội DM của Việt Nam chưa thực sự làm được điều đó.

Thứ ba, nguyên nhân thuộc về các DNDM của Việt Nam.

- Nhiều DN chưa có điều kiện tiếp cận với các quy đinh, tiêu chuẩn của các

nước nhập khẩu. Phần lớn các DNDM của nước ta (đặc biệt là các DN nhỏ và vừa)

đáp ứng các RCKT của các nước nhập khẩu mang tính đối phó nhiều hơn là phòng

ngừa; DN chủ yếu đợi đến lúc bị bắt buộc, giám sát chặt chẽ mới có biện pháp thích

nghi, không chủ động tìm hiểu, đổi mới để đón đầu xu thế.

- Năng lực nội tại của các DNDM Việt Nam còn hạn chế: Quy mô sản xuất

của DN còn nhỏ theo kiểu manh mún, quản lý của các DN vẫn còn yếu, chưa

chuyên nghiệp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của các chủ DN, chính vì vậy các tiêu

chuẩn kỹ thuật của sản phẩm không đồng đều, không đáp ứng được yêu cầu từ phía

các nước phát triển. Hiện nay, một số DN có quy mô lớn xét theo tiêu chí lao động

chỉ chiếm 1,52% và xét theo tiêu chỉ vốn chỉ có 11,73%, số DN có quy mô vừa theo

tiêu chí lao động cũng chỉ chỉ chiếm 12,9%. Còn lại hơn 80% DN có quy mô vốn

thấp, số lượng lao động ít, hoạt động phân tán rải rác khắp cả nước. Với quy mô

113

như vậy, DN Việt Nam khó có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi mà mức độ

tự do hóa ngày càng tăng và hàng rào kỹ thuật được dựng lên ngày càng nhiều. Quy

mô vốn đầu tư nhỏ khiến cho các DN không đủ khả năng ứng dụng công nghệ mới

hay đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại. Việc đầu tư của DN còn dàn trải, cơ cấu

chưa hợp lý, chưa hiệu quả do thiếu thông tin về thị trường đầu vào: vốn, lao động,

nguyên vật liệu, thiết bị công nghệ thông tin về chính sách và quy định của Nhà

nước. DN chưa đầu tư đúng mức cho việc sản xuất NPL, ỷ lại vào nhập nguyên phụ

liệu giá rẻ của nước ngoài

- Khả năng liên kết của DNDM Việt Nam để vượt qua RCKT còn yếu kém.

Các DN chỉ dừng lại ở việc cải thiện sản xuất của mình mà chưa chú trọng đến đoàn

kết, giúp đỡ về thông tin cho DN khác trong nội bộ ngành. Không có sự liên kết,

phối hợp chặt chẽ, ngành DM Việt Nam thiếu sức mạnh để vượt qua RCKT mà các

nước nhập khẩu đặt ra. Biểu hiện ở chỗ: DN Nhà nước chưa phát huy được vai trò

chủ đạo, định hướng hỗ trợ DN tư nhân, mối quan hệ giữa các DN chưa tạo được

sức mạnh tổng thể trong phát triển ngành. Thực tế cho thấy, nhiều DN nhà nước

phải mua nguyên liệu với giá cao trong khi một bộ phận lớn các tổ hợp ươm tơ, kéo

sợi thủ công lại đang khó khăn trong khâu giải quyết đầu ra nhưng hai bên lại chưa

phối hợp được với nhau để sửu dụng tốt nguyên liệu trong nước. Hoặc trong khâu

may mặc, DNDN rất căng thẳng để hoàn thành đơn hàng đúng tiến độ thì DNTN

cũng sản xuất mặt hàng đó lại không có việc làm. Hoặc là DN có vốn đầu tư nước

ngoài chủ yếu sản xuất hàng may mặc xuất khẩu cũng hoạt động biệt lập với DN

trong nước, chưa thể hiện ưu thế về mặt kỹ thuật, công nghệ…

- Nhiều DN chưa có chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn. Năm 2014

được đánh giá vẫn là năm khó khăn đối với ngành dệt may, bởi do nền kinh tế chưa

thực sự hồi phục nên sức mua giảm, cạnh tranh gay gắt, nhiều DN buộc phải thu

hẹp đầu tư, sản xuất cầm chừng. Nếu không có định hướng và chiến lược xây dựng

thương hiệu đúng đắn, trong các năm tiếp theo khó có thể hoàn thành mục tiêu phát

triển ngành Dệt may mà Bộ Công Thương đã đề ra là.

Tóm lại, ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò

quan trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế

114

giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng

góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh

tế nói chung ở Việt Nam.

Chương 2 đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng XK và thực trạng sử dụng

các RCKT của các nước nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK hàng DM

của Việt Nam cũng như những biện pháp vượt RCKT đối với hàng DM của Chính

phủ và DN Việt Nam, chỉ rõ rằng để vượt qua RCKT của các thị trường nhập khẩu

chủ yếu, hàng DM Việt Nam đã có những thích nghi, đổi mới quan trọng, đặc biệt

là trong công nghệ sản xuất, tạo dựng thương hiệu và thay đổi cách thức giám sát,

kiểm tra. Tuy nhiên, thực trạng đáp ứng các rào cản này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế

trong thời gian qua.

Nội dung của chương cũng đã đưa ra nguyên nhân của các hạn chế, trong

đó có những nguyên nhân khách quan do trình độ phát triển kinh tế, KHCN của

Việt Nam còn thấp, nhưng nguyên nhân chủ quan quan trong nhất là do năng lực

nước ta còn thấp, kể cả trong các cơ quan chính phủ và các DNDM. Nhận thức và ý

thức về việc chủ động nắm bắt xu hướng RCKT để có biện pháp phòng ngừa mang

tầm chiến lược còn yếu. Hiện nay các biện pháp vượt RCKT còn mang tính đối phó,

bị động và ngắn hạn. Cộng đồng DNDM chưa thật sự có sự gắn kết chặt chẽ với

nhau để tìm giải pháp,... Việc xác định chính xác những nguyên nhân trên chính là

căn cứ hết sức quan trọng để nghiên cứu các nội dung tiếp theo ở chương 3.

115

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020

3.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN RÀO CẢN KỸ THUẬT VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.

3.1.1. Xu hướng phát triển của rào cản kỹ thuật trên thế giới.

Thứ nhất, RCKT trên thế giới sẽ phát triển nhanh về số lượng trong thời gian

tới, tiếp tục xu hướng tăng nhanh về lượng của thời gian gần 2 thập kỷ qua. Theo

Báo cáo “Tổng kết 18 năm thực hiện và hoạt động của Hiệp định về Hàng rào kỹ

thuật thương mại” của Ủy ban TBT năm 2013 (G/TBT/33), từ khi Hiệp định

Marrakesh về thành lập WTO có hiệu lực ngày 1/1/1995 đến hết năm 2012, đã có

15736 thông báo, 2684 phụ lục và 485 hiệu đính về biện pháp kỹ thuật của 116

thành viên gửi lên Ủy ban TBT của WTO. Riêng trong năm 2012 các thành viên

của WTO đã thông báo lên Ủy ban TBT của WTO 1550 quy định kỹ thuật và thủ

tục đánh giá sự phù hợp mới hoặc chỉnh sửa, cùng với 575 bản Phụ lục và 45 bản

Hiệu đính những thông báo trước. Số lượng thông báo này là nhiều nhất kể từ khi

WTO ra đời, nhiều hơn cả đỉnh cao năm 2009 năm đỉnh điểm của cuộc khủng

hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.

Trong số 1550 thông báo mà Ủy ban TBT nhận được năm 2012, có tới 1367

thông báo về quy định kỹ thuật, 30 thông báo về quy định kỹ thuật khẩn cấp, 162

thông báo về thủ tục đánh giá sự phù hợp và 2 thông báo về thủ tục đánh giá sự phù

hợp khẩn cấp,... Xét về các mục tiêu thứ nhất, thứ hai và thứ ba của các thông báo

năm 2012, có tới 1023 thông báo nhằm bảo vệ an toàn, sức khỏe con người, 253

thông báo nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, 238 thông báo nhằm đáp ứng yêu cầu

chất lượng, 211 thông báo nhằm mục tiêu hạn chế lừa dối, bảo vệ người tiêu dùng,

81 thông báo nhằm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng và nhãn mác,...

Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013 cũng cho biết, từ năm 1995 đến năm

2012 có 360 vấn đề thương mại nổi cộm có liên quan tới TBT. Chỉ riêng năm 2012

116

đã có tới 94 vấn đề nổi cộm trong đó có 54 vấn đề cũ còn tồn tại và xuất hiện thêm

35 vấn đề mới, tăng 23,7% so với năm 2011 (76 vấn đề) và chiếm tới hơn ¼ số vấn

đề nổi cộm của cả 18 năm thực hiện TBT (hình 3.1).

Hình 3.1. Những vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT trong giai đoạn 1995-2012

Nguồn: Ủy ban TBT của WTO, Tổng kết 18 năm thực hiện và hoạt động của

Hiệp định TBT, 2013

Báo cáo của Ủy ban TBT của WTO năm 2013 cũng chỉ ra rằng, trong số 94

vấn đề thương mại nổi cộm liên quan tới TBT năm 2012 thì những vấn đề được bàn

thảo nhiều nhất là: 1. Cung cấp thêm thông tin, làm rõ biện pháp kỹ thuật (tần suất

là 27); 2. Minh bạch (tần suất 21); 3.Tính hợp lý, hợp pháp (20); 4. Vấn đề khác

như tính phức tạp, thiếu bằng chứng khoa học hay về SHTT) (16); 5. Tiêu chuẩn

quốc tế (14); 6. Cản trở thương mại không cần thiết (13); 7. Có thời gian để thích

ứng (11); 8. Phân biệt đối xử (8);...

So với cả quá trình 18 năm thực hiện TBT, thì năm 2012 có sự khác biệt về

tần suất của vấn đề “cản trở thương mại không cần thiết”. Trong tổng số 360 vấn đề

thương mại nổi cộm liên quan đến TBT trong thời gian 1995-2012, tần suất của vấn

đề “cản trở thương mại không cần thiết” của biện pháp kỹ thuật là 213 lần chỉ đứng

sau vấn đề “cung cấp thêm thông tin, làm rõ” với tần suất 256 lần, v.v

117

Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013 cho thấy có sự gia tăng mạnh mẽ số

lượng thông báo về sử dụng các biện pháp kỹ thuật trong TMQT, nhất là từ năm

2007 đến nay. Lần đầu tiên số lượng thông báo sử dụng các biện pháp kỹ thuật vượt

con số 1000 là vảo năm 2007, số lượng thông báo tiếp tục gia tăng mạnh và đạt xấp

xỉ 1500 năm 2009, sau đó số lượng thông báo giảm chút ít trong các năm 2010 và

2011 trước khi tăng lên mức kỷ lục 1550 thông báo vào năm 2012. Ngoài ra, trong

vòng 18 năm, thông báo sử dụng các biện pháp kỹ thuật của ba thị trường lớn Hoa

Kỳ, EU và Nhật Bản cũng vào hàng nhiều nhất, lần lượt là 971, 689 và 644. Số

lượng thông báo của EU chỉ tính những biện pháp kỹ thuật chung cho toàn khối,

ngoài ra các nước thuộc EU còn có những biện pháp kỹ thuật riêng.,...

Lý do sử dụng các biện pháp kỹ thuật của các quốc gia năm 2012 được thể

hiện qua bảng tổng hợp 3.1

Bảng 3.1: Các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 theo mục tiêu

Mục tiêu và lý giải của thông báo

Số lần mà các mục tiêu được nêu là mục tiêu thứ nhất, thứ hai và thứ ba của các thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012 1023 Bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng

Bảo vệ môi trường 253

Yêu cầu chất lượng 238

Hạn chế lừa dối, bảo vệ người tiêu dùng 211

Thông tin cho người tiêu dùng và ghi nhãn 81

Hài hòa hóa 51

Giảm hoặc dỡ bỏ RCTM 39

Thông qua luật hoặc công nghệ mới trong nước Bảo vệ sức khỏe và đời sống động thực vật Thuận lợi hóa thương mại Khác Tiết kiệm chi phí tăng năng suất 30 25 24 9 5

Không cụ thể 4

Tổng cộng 1993

Nguồn: Báo cáo của Ủy ban TBT năm 2013

118

Thứ hai, mức độ của RCKT sẽ có xu hướng cao hơn, tinh vi hơn và phức tạp

hơn. Các RCKT này sẽ ngày càng phát triển cùng với tiến bộ KHCN. Các RCKT

được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn khoa học kỹ thuật, đây là một tất yếu khách

quan. Khi khoa học kỹ thuật tiến bộ thì các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng sẽ nâng cao

theo. Một nhân tố khác làm gia tăng mức độ của RCKT là mức sống của người tiêu

dùng. Khi mức sống của người tiêu dùng được nâng cao, họ sẽ có yêu cầu cao hơn

về sản phẩm, đặc biệt là độ an toàn của sản phẩm đối với sức khỏe. Báo cáo thường

niên của WTO năm 2012 chỉ rõ “phạm vi của các biện pháp phi thuế quan rất rộng,

phức tạp, được thúc đẩy bởi nhiều động cơ chính sách và luôn thay đổi. Các mục

tiêu chính sách công thúc đẩy các biện pháp phi thuế quan phát triển. Có rất nhiều

động lực thúc đẩy sự thay đổi và phát triển các biện pháp phi thuế quan kể từ sự

tăng cường phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong thế giới toàn cầu hóa, sự

nâng cao nhận thức xã hội, và sự gia tăng các vấn đề về sức khỏe, an toàn và chất

lượng môi trường”.

Thứ ba, các RCKT sẽ được mở rộng từ sản phẩm cụ thể sang toàn bộ quá

trình sản xuất. Nhằm gây cản trở thêm cho hàng hóa nhập khẩu, các quốc gia

không chỉ kiểm soát tiêu chuẩn kỹ thuật của thành phẩm XK, mà còn xem xét cả

quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Với sự ra đời của nhiều hệ thống quản lý sản

phẩm, được các quốc gia áp dụng rộng rãi, việc chỉ kiểm tra các sản phẩm cụ thể

khi nhập khẩu không thể đảm bảo thực hiện một số mục tiêu của RCKT như bảo vệ

môi trường hay trách nhiệm xã hội. Chính vì vậy, yêu cầu kiểm soát cả quá trình

sản xuất là tất yếu đối với các RCKT.

3.1.2. Xu hướng áp dụng RCKT của các thị trường xuất khẩu chính đối

với hàng dệt may Việt Nam

Qua nghiên cứu và tham khảo ý kiến chuyên gia về RCKT, có thể thấy rõ

một số xu hướng áp dụng rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu đối với hàng dệt

may xuất khẩu của Việt Nam như sau:

- Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng sẽ dần chuyển thành tiêu chuẩn bắt

buộc. Nếu như trước đây bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được các nhà sản xuất áp dụng tự

nguyện, thì những năm gần đây đã chuyển thành biện pháp bắt buộc. Hơn nữa, việc

119

áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã trở nên rất phổ biến và phần lớn các

DN khi muốn nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm đều áp dụng các

chương trình tiêu chuẩn chất lượng. Khi hầu hết các DN đều tự nguyện áp dụng các

bộ tiêu chuẩn chất lượng, các quốc gia phát triển hoàn toàn có thể coi đó là nền tảng

đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu cơ bản đối với dệt may nhập khẩu.

- Các quy định về an toàn tiêu dùng ngày càng nghiêm ngặt và được lồng

ghép vào nhiều rào cản khác. Vấn đề sức khỏe và an toàn tiêu dùng trở thành mối

quan tâm hàng đầu của các quốc gia như bảng tổng hợp 3.1 về mục tiêu của các

biện pháp kỹ thuật thông báo lên Ủy ban TBT năm 2012. Với sự gia tăng của các

chủng loại hàng hóa, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm đáp

ứng nhu cầu của mình hơn, vì thế mà các đòi hỏi về chất lượng của họ ngày càng

cao, đặc biệt là vấn đề an toàn tiêu dùng. Khi người tiêu dùng ngày càng ý thức hơn

về sức khỏe và an toàn, các tiêu chuẩn kỹ thuật về tiêu dùng trở lên khắt khe hơn.

Về lý thuyết, việc các quốc gia đưa ra các RCTM trái với nguyên tắc tự do hoá th-

ương mại đã được thoả thuận trong TMQT. Vì vậy, các nước nhập khẩu hàng DM

nói chung thường núp dưới bóng lợi ích người tiêu dùng để thiết lập các rào cản

mới.

- Các quy định về bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm

xã hội, quy định về nhãn mác của sản phẩm sẽ trở thành quy định bắt buộc

Chính vì vậy các sản phẩm phải đáp ứng tiêu chuẩn môi trường thì các nước

nhập khẩu mới cho phép thông quan. Đối với hàng DM cũng vậy, phải là hàng may

mặc “xanh”. Hàng DM của các nước XK vào Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản bị trả lại do

không vượt qua được rào cản này ngày càng tăng. Hoa Kỳ cũng có xu hướng áp

dụng thêm các tiêu chuẩn môi trường của quốc tế nên nếu hàng DM không đảm bảo

tiêu chuẩn môi trường thì sẽ càng khó khăn hơn để vào được thị trường này. Trong

quy định tiêu chuẩn môi trường của Hoa Kỳ đối với hàng DM có quy định rõ không

được dùng hoá chất nhuộm vải hay các chất trợ nhuộm độc hại với môi trường.

Bên cạnh việc coi trọng vấn đề đảm bảo môi trường trong quá trình sản xuất,

các nước nhập khẩu còn rất coi trọng việc đáp ứng các tiêu chuẩn lao động trong

DN - các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, đặc biệt là các DN có đông lao động như

120

ngành DM. Các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA8000 và WRAP hiện nay không

bắt buộc, các DNDM áp dụng trên tinh thần tự nguyện. Nhưng ngày càng nhiều n-

ước chỉ nhập khẩu hàng DM của các nhà sản xuất, XK đáp ứng được các tiêu chuẩn

này. Xu hướng tiêu chuẩn này sẽ dần trở thành bắt buộc thời gian tới.

Việc các quy định ghi nhãn hàng dệt may của các thị trường phát triển, đặc

biệt là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản ngày càng cao và phức tạp hơn xuất phát từ mục tiêu,

động cơ chính sách của các nước công nghiệp phát triển luôn thay đổi và cũng do

những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng các nước này về an toàn

sản phẩm tiêu dùng, về yêu cầu chất lượng và bảo vệ môi trường , cũng như yêu cầu

cung cấp thông tin và chống lừa dối, gian lận thương mại. Các thị trưởng Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản yêu cầu phải ghi nhãn chính xác. Trong đó, ghi nhãn xuất xứ, tỷ lệ

sợi, tính chất dễ cháy và hướng dẫn sử dụng hàng dệt may là bắt buộc, ngoải ra còn

rất nhiều quy định về thông tin, hướng dẫn giặt tẩy, v.v. Đặc biệt là những quy định

về nhãn sinh thái liên quan tới toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm dệt may của các

thị trường phát triển đang nổi lên như một RCTM rất khó vượt qua đối với các nước

đang và chậm phát triển.

Hiện nay, việc ăn cắp bản quyền đang trở lên phố biến ở các quốc gia, nhất

là ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt Nam. Để đối phó tình trạng

này, một số quốc gia phát triển như Mỹ và EU, Nhật Bản một mặt yêu cầu các sản

phẩm nhập khẩu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn họ đặt ra, mặt khác họ buộc các

công ty nước ngoài phải trả chi phí bằng sáng chế rất cao nếu muốn XK các sản

phẩm đã đăng ký bản quyền.

- Tăng tính phức tạp và trở thành rào cản mới của các quy định về xuất xứ

hàng hóa: Quy tắc xuất xứ là các tiêu chuẩn được sử dụng để xác định nước mà

hàng hóa đó được sản xuất ra. Quy tắc xuất xứ rất quan trọng, được sử dụng trong

thực hiện các biện pháp chính sách thương mại bao gồm thống kê thương mại, xác

định thuế quan, xuất xứ nhãn hàng và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, trả

đũa và các biện pháp tự vệ.

Do tầm quan trọng của quy tắc xuất xứ trong thực hiện các công cụ chính

sách thương mại, các quốc gia ngày càng tăng cường sử dụng các quy định, tiêu

121

chuẩn về xuất xứ nhằm mục đích bảo hộ thương mại. Chính vì vậy, các nước như

Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản đã ban hành nhiều bộ quy tắc xuất xứ khác nhau, áp dụng

cho hàng hóa được ưu đãi và không được ưu đãi với các mức độ khác nhau. Hơn

nữa đàm phán và áp dụng quy tắc xuất xứ của một nước còn chịu áp lực rất lớn từ

các ngành công nghiệp trong nước càng làm tăng tính phức tạp và không rõ ràng

minh bạch của các quy định về xuất xứ. Ngoài ra, các quy định rất phức tạp về mặt

kỹ thuật của quy tắc xuất xứ đã khiến cho các nước, nhất là các nước phát triển tăng

cường sử dụng quy tắc xuất xứ như một rào cản thương mại mới.

Đối với hàng DMXK, tính chất phức tạp của các quy định xuất xứ còn tăng

lên, bởi ngoài các quy định phức tạp của bản thân quy tắc này, sự gia tăng các chuỗi

cung ứng toàn cầu hàng DM càng khiến cho việc xác định xuất xứ thêm khó khăn.

Những xu hướng phát triển mới này của RCKT trong TMQT sẽ có khả năng

ảnh hưởng tới XK hàng DM của Việt Nam trên cả các khía cạnh tích cực và tiêu

cực, cả tạo thuận lợi và cơ hội mới lẫn gây ra khó khăn, thách thức mới.

3.2. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020.

3.2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đến năm 2020

Năm 2013, mặc dù kinh tế Việt Nam và thế giới vẫn tiếp tục gặp khó khăn

nhưng với nỗ lực vượt khó của các DN, hàng dệt may của Việt Nam vẫn đạt kim

ngạch XK 20,020 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2012. Năm 2013, hàng DM của

Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 8,55 tỷ USD, tăng 15,1%; sang EU đạt

2,89 tỷ USD, tăng 23,7%; sang Nhật Bản đạt 2,41 tỷ USD, tăng 23% và sang Hàn

Quốc đạt 1,64 tỷ USD, tăng 53,5% so với năm 2012.

Trong năm 2014, theo đà phục hồi tốt hơn của kinh tế thế giới, nhất là kinh

tế Hoa Kỳ và EU, đồng thời kinh tế Việt Nam dự báo cũng tăng trưởng nhanh hơn

chút ít so với năm 2013 sẽ là điều kiện thuận lợi cho sản xuất, XK hàng dệt may của

Việt Nam tiếp tục tăng mạnh. Kim ngach XK hàng dệt may đặt mục tiêu tăng

trưởng 12% năm 2014. Các thị trường XK chính của dệt may vẫn là Mỹ, Nhật Bản

122

và EU. Năm 2014, mục tiêu tăng XK vào châu Âu từ 5%-6%; vào thị trường Mỹ từ

12%-14%; vào thị trường Hàn Quốc khoảng 25%;

Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015,

tầm nhìn đến năm 2020 đến nay cần có những điều chỉnh lớn cho phù hợp với tình

hình thực tiễn và những xu hướng mới. Bộ Công Thương đã phê duyệt Quy hoạch

phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, và

đang thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020 định hướng

đến 2030, theo đó, mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa kim ngạch XK của ngành

DM đạt từ 36 tỷ đến 38 tỷ đô la Mỹ và nâng lên từ 64 đến 67 tỷ đô la Mỹ năm 2030,

tương ứng nội địa hóa đạt 65% và 70%.

Bảng 3.2: Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may đến năm 2030

Chỉ tiêu ĐVT Năm 2015 Năm 2020 Năm 2030

Tỷ USD 23-24 36-38 64-67 1. Kim ngạch XK

% 15-16 13-14 9-10 Tỷ lệ XK so cả nước

1.000 ng 2.500 3.300 4.400 2. Sử dụng lao động

3. Sản phẩm chủ yếu

- Bông xơ 1000 Tấn 8 15 30

- Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 400 700 1.500

- Sợi (kéo từ xơ cắt ngắn) 900 1.300 2.200

- Vải các loại 1000 Tấn Tr. m2 1.500 2.000 4.500

- Sản phẩm may Tr. SP 4.000 6.000 9.000

% 55 65 70 4. Tỷ lệ nội địa hóa

Nguồn: Bộ Công Thương, Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Hiện nay, Chính phủ đang nỗ lực mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường cho

hàng DMXK của Việt Nam bằng việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán tham gia vào

Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại

tự do với EU (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc để đưa thuế

xuất về 0%.

123

Nếu quá trình đàm phán tiến triển thuận lợi, các Hiệp định này được ký kết

và có hiệu lực thi hành sẽ mang đến động lực quan trọng cho sự phát triển của

ngành DM Việt Nam, góp phần đưa DM Việt Nam vươn lên tầm cao hơn trong

tương lai gần.

Tuy nhiên, để được hưởng thuế suất 0% theo TPP, hàng DM Việt Nam phải

chấp nhận áp dụng nhiều qui định khắt khe về xuất xứ theo công thức “từ sợi trở

đi” với việc các khâu đoạn từ kéo sợi-dệt-nhuộm-hoàn tất và may phải được làm tại

các nước thành viên TPP. Chính điều này đã gây trở ngại cho dệt may Việt bởi phân

khúc dệt-nhuộm-hoàn tất tại nước ta phát triển yếu, trở thành nút thắt cổ chai gây

cản trở cho toàn ngành.

Hiện 70% hàng DMXK của Việt Nam được thực hiện theo phương thức

CMT (cắt-ráp-hoàn thiện), với 88% NPL (chủ yếu là vải) phải nhập khẩu từ nước

ngoài, mà phần lớn các nước này không nằm trong TPP. Bên cạnh đó, trang thiết bị,

công nghệ không theo kịp các nước khác, gia công giá rẻ làm lợi thế cạnh tranh

đang bị các quốc gia mới nổi trong ngành dệt may lấn lướt.

Đồng thời, thách thức rất lớn với các DNDM trong nước là tiêu chuẩn về lao

động và môi trường của TPP rất cao, nhất là trong khâu dệt-nhuộm. Nếu DNDM vi

phạm những tiêu chuẩn này có thể bị truy thu thuế ngược lại với những lô hàng đã

được miễn thuế hoặc bị khởi kiện và không được tiếp tục xuất sang các nước thành

viên TPP nữa.

Hiệp đinh EVFTA cũng đang trong quá trình đàm phán thuận lợi và hàng

DMXK của Việt Nam sang EU nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn về xuất xứ sẽ được

hưởng mức thuế quan ưu đãi 0%. Hiện nay hàng DM Việt Nam vẫn được hưởng ưu

đãi theo chương trình GSP của EU, nhưng do những quy định về xuất xứ của EU rất

khó nên hầu như các DNDM vẫn chưa tận dụng được ưu đãi này. Ngoài ra những

quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của EU vào hàng cao nhất thế giới, nhất là các yêu

cầu về chất lượng, an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng, các quy định và tiêu

chuẩn môi trường, trách nhiệm xã hội,... Chỉ có những nỗ lực để vượt qua các

RCKT khắt khe cùng với tuân thủ các quy định về xuất xứ thì hàng DM Việt Nam

124

mới có thể đẩy mạnh XK hàng dệt may sang thị trường tiêu dùng hàng DM lớn nhất

thế giới này.

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đã và đang tạo điều kiện cho

hàng DM Việt Nam thâm nhập vào thị trường Nhật Bản dễ dàng hơn. Theo Hiệp

định này, các mặt hàng XK của Việt Nam (trong đó có DM) sẽ có mức cam kết tự

do hóa mạnh nhất. Nhờ đó, XK hàng dệt may vào Nhật Bản sẽ được hưởng ngay

thuế suất 0% nếu đáp ứng được yêu cầu xuất xứ. Đây chính là sức hấp dẫn để nhà

nhập khẩu quyết định chuyển sản xuất, tăng cường đơn hàng nhập khẩu từ Việt

Nam. Nhờ vậy, thị phần XK sang Nhật Bản sẽ tăng lên 20% năm 2014. Bên cạnh

đó, DN đầu tư nâng cấp nhà xưởng, thiết bị dệt kim để đảm bảo yêu cầu khắt khe

của thị trường Nhật Bản.

3.2.2. Một số quan điểm vượt RCKT của hàng DMXK của Việt Nam

Quan điểm phát triển xuất khẩu dệt may Việt Nam là đẩy mạnh sản xuất và

XK trong thời gian tới phải đảm bảo khai thác tốt nhất cả 3 lợi ích: kinh tế, xã hội

và bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp theo hướng công nghệ hiện đại, thiết

bị tiên tiến với bước đi phù hợp, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm,

đảm bảo năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thích ứng với quan

điểm này, tác giả cho rằng:

Thứ nhất, vượt RCKT đối với hàng DMXK là nhằm thực hiện các mục tiêu

của chiến lược phát triển ngành DM đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 và quy

hoạch phát triển ngành DM đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, phát triển

ngành DM trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về

XK, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho

xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế

giới; Đảm bảo cho các DNDM phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ

hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo

tiêu chuẩn quốc tế. Quy hoạch phát triển ngành DM của Việt Nam đã đặt ra mục

tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa kim ngạch XK của ngành DM đạt từ 36 tỷ đến 38

tỷ đô la Mỹ và nâng lên từ 64 đến 67 tỷ đô la Mỹ năm 2030, tương ứng nội địa hóa

đạt 65% và 70%.

125

Thứ hai, vượt RCKT đối với hàng DMXK yêu cầu các nhà quản lý và cộng

đồng DN Việt Nam phải nhận thức rõ xu hướng gia tăng các rào cản kỹ thuật trong

trong thương mại quốc tế nói chung và đối với hàng DMXK nói riêng là tất yếu

khách quan để chủ động tìm những giải pháp vượt qua thách thức khó khăn, phát

huy mặt tích cực của các RCKT nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh XK

hàng DM của Việt Nam.

Trong thế giới toàn cầu hóa sâu sắc và đang chuyển mạnh sang kinh tế tri

thức như hiện nay, các RCKT với những ưu điểm nổi trội so với rào cản thuế quan

truyền thống ngày càng có điều kiện để phát triển nở rộ. Xu hướng gia tăng các

RCKT là một thực tế khách quan, đi liền với sự phát triển của kinh tế thế giới, của

KHCN và mức sống ngày càng cao của người dân trên thế giới. Trên thực tế, các

rào cản kỹ thuật ngày càng phức tạp và khắt khe hơn do yêu cầu bảo hộ sản xuất

trong nước của các nước phát triển trước sức ép cạnh tranh của các dòng sản phẩm

nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Do vậy, chủ động nhận dạng được các rào

cản này và tìm mọi phương cách để vượt qua là con đường tất yếu và duy nhất đúng

đối với các nhà quản lý và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực ngày

càng lớn của cạnh tranh quốc tế trong xuất khẩu DM vào các thị trường lớn.

Thứ ba, việc thực hiện vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam phải

dựa trên cơ sở tuân thủ các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam trên cơ sở các

hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa phương.

Hiệp định TBT của WTO và các quy định về biện pháp kỹ thuật và công

nhận sự phù hợp trong các hiệp định thương mại song phương và khu vực mà Việt

Nam đã, đang và sẽ tham gia như BTA với Hoa Kỳ, EPA với EU và Nhật Bản hay

sắp tới sẽ là TPP, EVFTA,... sẽ là những căn cứ pháp lý để Việt Nam tuân thủ hay

từ chối tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp

của các nước Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các

tranh chấp liên quan đến RCKT. Ngoài ra, trong các hiệp định này cũng bao gồm

các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để đảm bảo cho các thành viên có đủ năng lực thực thi

hiệp định. Đối với Việt Nam thì đây là sự hỗ trợ rất quan trọng để tăng cường năng

lực vượt RCKT.

126

Thứ tư, xây dựng và tăng cường năng lực vượt rào cản kỹ thuật của Nhà

nước và cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất khẩu

và nâng cao hiệu quả XK hàng DM thời gian tới.

Trên thực tế, năng lực vượt RCKT của Việt Nam hiện nay còn yếu, kể cả

năng lực QLNN và quản trị DN. Điều này do cả nguyên nhân khách quan và chủ

quan. Việt Nam hiện là nước đang phát triển thu nhập trung bình thấp, trình độ

KHCN còn lạc hậu, mọi nguồn lực của quốc gia còn thiếu thốn và hạn chế đã ảnh

hưởng rất nhiều tới khả năng vượt RCKT. Vì vậy, trong thời gian tới, để vượt qua

hệ thống RCKT ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn thay đổi của các thị trường

nhập khẩu, cả nhà nước và cộng đồng DN đều phải nỗ lực hết mình nâng cao năng

lực về pháp lý, về kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, về ngoại ngữ,...

Chỉ có nỗ lực xây dựng và tăng cường năng lực vượt RCKT của các thị

trường nhập khẩu, hàng DMXK của Việt Nam mới có thể vượt rào cản thành công,

hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy được những tác

động tích cực của RCKT để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển XK hàng DM.

3.2.3. Những định hướng vượt RCKT đối với hàng DMXK của Việt Nam

thời gian tới

3.2.3.1. Định hướng từ phía Nhà nước

- Tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về RCKT. Theo đó hoàn thiện hệ

thống luật pháp, chính sách về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự

phù hợp; tăng cường năng lực bộ máy QLNN về tiêu chuân, quy chuẩn kỹ thuật và

thủ tục đánh giá sự phù hợp, xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia,...

- Tăng cường ký kết, tham gia các hiệp định thương mại song phương, khu

vực và đa phương nhằm mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường, giảm bớt các rào cản

đối với hàng DMXK nói riêng và hàng hóa XK nói chung.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về lĩnh vực tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật

- Tăng cường năng lực tham gia của hàng dệt may Việt Nam trong chuỗi giá

trị dệt may toàn cầu, thu hút mạnh mẽ FDI của các công ty đa quốc gia/xuyên quốc

gia cho ngành dệt may của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt, nhuộm.

127

- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh

của hàng DMXK Việt Nam. Định hướng chính là lấy XK làm mục tiêu cho phát

triển của ngành, tập trung nâng cao giá trị trong nước và giá trị gia tăng của sản

phẩm gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông

thôn. Nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường và

trách nhiệm xã hội cho các DNXK nhằm vượt qua những RCTM của các thị trường

nhập khẩu chính. Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm

bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Đa dạng hóa sản phẩm, phương thức

kinh doanh, đa dạng hóa và phát triển thị trường mới cho XK,... Phấn đấu tốc độ

tăng của XK hàng DM là khoảng 11 - 12% năm thời kỳ đến năm 2020.

3.2.3.2. Định hướng từ phía DN

- Chủ động nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ, chính xác các thông tin về thị

trường và các rào cản của thị trường đối với hàng DMXK để có biện pháp ứng phó

phù hợp và hiệu quả;

- Tăng cường liên kết doanh nghiệp, liên kết, hợp tác với các viện nghiên

cứu, các cơ quan của Nhà nước ở nước ngoài và đặc biệt là liên kết với các DN đầu

mối nhập khẩu để được hỗ trợ, tư vấn.

- Xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh XK bền vững của DN trên cơ

sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi

trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Có được chiến lược kinh doanh XK bền vững, sẽ là

cơ sở cho DN nỗ lực phấn đấu và và tranh thủ được sự giúp đỡ của Chính phủ và sự

giúp đỡ từ bên ngoài để phát triển sản xuất và XK, không ngừng nâng cao chất

lượng, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, an toàn sức khỏe con người và

các tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu. Thông qua đó tạo uy tín và

thương hiệu riêng cho hàng DM Việt Nam.

3.3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VƯỢT QUA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI

HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Việc hàng DM của Việt Nam tiếp cận và xâm nhập được thị trường rộng lớn

và có “sức mạnh” như thị trường các nước phát triển không chỉ đem lại cho đất

nước những lợi ích về kinh tế mà còn đem lại những lơi ích chính trị sâu sắc, bằng

128

việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và đem hàng hóa Việt

Nam tiếp cận gần hơn với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, một trong những

yêu cầu để xâm nhập thành công các thị trường này là Việt Nam phải vượt qua

RCKT thương mại của họ. Để làm được việc đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ những

biện pháp từ Nhà nước đến các DNDMXK.

3.3.1. Nhóm giải pháp vượt rào chung

Để vượt qua các RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, hơn bao giờ hết,

giải pháp cần thiết và có tính quyết định đến khả năng vượt rào của Việt Nam là vấn

đề tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn về tư duy, nhận thức cả về phía Nhà nước và các

DNDM Việt Nam. Đây là yêu cầu và cũng là giải pháp cơ bản, quan trọng nhất đảm

bảo khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản của các DN Việt Nam.

Song, cho đến nay, rất nhiều DN Việt Nam, chủ yếu là DNNNV, do quy mô nhỏ,

năng lực và nguồn lực có hạn, chưa quan tâm đến yêu cầu thị trường. Mặc dù đã có

nhiều DN lớn, kinh doanh bài bản, chuyên nghiệp hơn, đã nghiên cứu, tìm hiểu thị

trường trước khi tiến hành XK sản phẩm, nhưng con số này không nhiều và việc

nắm bắt yêu cầu của thị trường cũng chỉ ở mức vừa phải. Xu hướng gia tăng RCKT

của các thị trường nhập khẩu đối với hàng DMXK đặt ra yêu cầu bức thiết hiện nay

đối với cả Nhà nước và DN là phải nâng cao nhận thức và hiểu biết về RCKT để có

biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nhằm đẩy mạnh XK. Việt Nam cần phải chủ

động tìm hiểu luật pháp, tập quán thương mại của thị trường các nước NK; cần xác

định, có nhận thức đúng đắn về các rào cản kỹ thuật có thể gặp phải trong giai đoạn

tới và nhận thức rõ về sự cần thiết phải thay đổi cách thức hoạt động các cơ quan

Nhà nước, tổ chức, Hiệp hội và các DNDM trong thời gian tới. Trên cơ sở nhận

thức đúng mà xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh, phân tích rủi ro và cơ hội

từ việc đầu tư vào các giải pháp vượt qua rào cản kỹ thuật tiềm tàng.

Bên cạnh đó, để vượt rào thành công, Nhà nước, Hiệp hội DM và các

DNDM Việt Nam cần có giải pháp cụ thể, phù hợp.

3.3.1.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

(i) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, kiểm soát

chặt chẽ hơn nữa việc thực hiện các tiêu chuẩn của doanh nghiệp

129

Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, việc hài hóa

hóa các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một

xu hướng tất yếu. Để hàng DM của Việt Nam có thể được chấp nhận và tiêu thụ

được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp khó khăn với các RCKT, thì các

quốc gia đều nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia mới sao

cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước thừa nhận. Khi hệ thống

tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, thì các sản phẩm của các

DNDM trong nước một khi đã đáp ứng được tiêu chuẩn trong nước thì cũng đồng

thời đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và của quốc gia nhập khẩu, khi đó hàng

hóa vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu thụ được ở các thị

trường nước ngoài.

Trong những năm qua, hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) luôn được

xây dựng và phát triển trên cơ sở đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất

nước cũng những yêu cầu quản lý cấp bách trong từng thời kỳ. TCVN là tài liệu kỹ

thuật làm cơ sở cho việc đảm bảo, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của

sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống này còn có những

nhược điểm: chưa được áp dụng rộng rãi, trình độ khoa học và công nghệ của tiêu

chuẩn còn thấp, lạc hậu, mức độ đổi mới hàng năm chưa cao, tỉ lệ TCVN hài hòa

với quốc tế còn ở mức thấp (chỉ khoảng 40%)… Vì vậy, phát triển và đổi mới hệ

thống TCVN là một trong những đòi hỏi cấp bách của hoạt động tiêu chuẩn hóa

hiện nay và rất có ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp Việt Nam vượt qua RCKT

của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Việt Nam cần xây dựng một hệ

thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với

các yêu cầu của thời hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ

sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải bao quát hết những đòi hỏi

phổ biến của thế giới đối với hàng hóa như các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn

môi trường và trách nhiệm xã hội, tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, quy định về sở hữu

trí tuệ.

Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng tiêu chuẩn, nhà nước phải xây dựng hệ

thống quản lý và kiểm tra chất lượng chặt chẽ để đảm bảo mang được những sản

130

phẩm tốt nhất, an toàn nhất tới người tiêu dùng. Công tác này phải đặc biệt được

chú ý đối với hàng hóa XK nhằm đảm bảo hàng hóa xuất khỏi cửa khẩu Việt Nam

là đảm bảo chất lượng, tránh tình trạng hàng hóa bị ách lại tại của khẩu nước đến

hoặc bị trả về hoặc tiêu hủy do không đảm bảo chất lượng hoặc có những yếu tố gây

hại tới sức khỏe người tiêu dùng và môi trường. Việc này nếu thực hiện tốt sẽ giúp

giảm chi phí và rủi ro cho các DN Việt Nam khi xuất hàng, đồng thời nâng cao uy

tín của hàng DM và nhà XK Việt Nam. Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định

số 5563/QĐ-BCT ngày 26 tháng 10 năm 2011 phê duyệt Kế hoạch triển khai thực

hiện với các nội dung chính như: Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và các

biện pháp kỹ thuật trong thương mại; Xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm soát chất

lượng hàng hoá từ xa; xây dựng phương án tự bảo vệ; hỗ trợ DN áp dụng các biện

pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy XK, nhập khẩu.

Trong những năm tới, phải quyết liệt thực hiện tốt chủ trương này.

(ii) Tăng cường hệ thống thông tin quốc gia về RCKT, tuyên truyền, giới

thiệu, phổ biến nhanh chóng, kịp thời cho các DN về RCKT của các nước.

Một trong những nguyên nhân khiến cho các RCKT trở nên khó vượt qua là

vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận biết và

thường xuyên thay đổi. Các DN ở các nước đang và kém phát triển thường gặp khó

khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến RCKT của các nước

nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có rất ít các thông tin cũng như

hiểu biết rất hạn chế về RCKT tại các thị trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì

lý do đó mà các nước đang và kém phát triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều

nhất từ các RCKT.

Ở Việt Nam cũng vậy, các DN có nhận thức rất thấp về RCKT và lại càng

mơ hồ, không có sự quan tâm đúng mức đối với các rào cản cụ thể của các thị

trường XK đang áp dụng. Với điều kiện hiện tại của các DN, thì việc tiếp cận với

các nguồn thông tin trực tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về

RCKT nói riêng là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các DN, đặc biệt là các DNNVV có

được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường XK, thì sự trợ giúp của Nhà

nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên trách nghiên cứu về vấn

131

đề rào cản trong đó có RCKT. Các cơ quan này phải thường xuyên theo dõi, cập

nhật thông tin về RCKT của các thị trường nhập khẩu, tuyên truyền, phổ biến, giới

thiệu cho các DN biết về các quy định cũng như tiêu chuẩn do các nước nhập khẩu

đưa ra, giúp các DN có sự hiểu biết tốt hơn về những quy định, tiêu chuẩn mà các

mặt hàng XK của DN mình sẽ phải thích ứng khi xuất sang từng thị trường cụ thể,

nhất là những thị trường XK chiến lược của Việt Nam như EU, Nhật, Mỹ,... Các cơ

quan chuyên trách này cần tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên

truyền, giới thiệu định kỳ về RCKT của các thị trường và có những thông báo bổ

sung kịp thời cho các DN khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn..

Giáo dục ý thức cộng đồng và nâng cao nhận thức về RCKT đối với các cơ quan

quản lý và doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về các lợi ích mà việc đáp ứng các

yêu cầu của các nước nhập khẩu mang lại cho quốc gia và doanh nghiệp. Từ đó,

DN sẽ có những biện pháp cần thiết để đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản

phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu

quả của hoạt động XK của DN nói riêng và của cả nước nói chung.

Hiện nay, nước ta có rất nhiều cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin thương

mại cho DN, trong đó thông tin về RCKT thương mại có thể được cung cấp bởi

Văn phòng TBT Việt Nam, Trung tâm Thông tin công thương, Cục XTTM, các

Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài,... Ngoài ra, VCCI - tổ chức hỗ trợ và xúc tiến

các hoạt động thương mại của Việt Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên

truyền, cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các

RCKT cho các DN, giúp các DN tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh XK...

Nâng cao năng lực hoạt động của TBT Việt Nam để đáp ứng được các yêu

cầu ngày càng cao về TBT trong các diễn đàn quốc tế (WTO), khu vực

(ASEAN,APEC…) cũng như các hiệp định đối tác kinh tế toàn diện/FTAs Việt

Nam đã ký trong giai đoạn 2005-2010 hoặc sẽ ký trong giai đoạn 2011-2015 (TPP,

Việt Nam-EU…). Bồi dưỡng kiến thức và trao đổi thông tin về nghiệp vụ cho cán

bộ thuộc văn phòng TBT Việt Nam: cung cấp thông tin về các biện pháp TBT đang

không ngừng gia tăng đối với các nước tham gia WTO, các quan ngại của Việt Nam

132

đối với các thành viên khác trong WTO chưa được Việt Nam quan tâm, xem xét kỹ

các yếu tố có thể gây bất lợi cho các quốc gia,…Bồi dưỡng kỹ năng thực hành tiếng

Anh về TBT cho các thành viên trong mạng lưới thực hiện các hoạt động trao đổi

những thông tin cơ bản về TBT bằng tiếng Anh dựa vào tài liệu do Văn phòng TBT

Việt Nam soạn thảo, trao đổi kiến thức, quan điểm về quản lý trong lĩnh vực TBT.

Bồi dưỡng kỹ năng tìm kiếm, tra cứu thông tin tại một số trang web phục vụ cho

hoạt động làm Bản tin về TBT của các Điểm TBT trong Mạng lưới TBT Việt Nam.

Tổ chức trao đổi về nâng cao hiệu quả hoạt động của Mạng lưới TBT Việt Nam:

chia sẽ những kinh nghiệm, khó khăn và cả những kiến nghị với Văn phòng TBT

Việt Nam.

(iii) Có chính sách hỗ trợ thiết thực và hiệu quả nhằm nâng cao năng lực

vượt RCKT cho doanh nghiệp.

Đó là các chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị

kỹ thuật ngành dệt may theo hướng sản xuất thân thiện môi trường, sản xuất sạch

hơn; hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp áp dụng các quy trình quản lý chất

lượng tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội theo chuẩn

mực quốc tế; hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho hoạt động nghiên cứu thiết

kế mẫu mã, đào tạo chuyên môn, kỹ thuật,nghiệp vụ cho lao động doanh nghiệp, hỗ

trợ đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực vượt RCKT

cho doanh nghiệp, v.v.

- Đổi mới, hoàn thiện chính sách tài chính, tín dụng theo hướng ưu đãi hơn

nữa cho các DN sản xuất hàng dệt may. Chẳng hạn, mở rộng tín dụng dài hạn, sử

dụng nguồn vốn ODA với các điều kiện ưu đãi về thời gian và lãi suất, bảo lãnh cho

các DN vay thương mại, mua trả chậm của các nhà cung cấp nước ngoài; tạo điều

kiện cho các DN tư nhân tiếp cận với các nguồn vốn….

- Thu hút nhà đầu tư vào ngành công nghiệp dệt để cung ứng cho ngành may

mặc. Điều quan trọng nhất trong số những điều này, có lẽ là chính sách công nghiệp

để thu hút đầu tư sản xuất nguyên liệu dệt, tốt nhất là tại các khu công nghiệp tập

trung với các dịch vụ môi trường có liên quan và các nguồn cung cấp năng lượng.

Để Việt Nam được hưởng mức thuế suất TPP cho hàng may mặc mà Việt Nam xuất

133

khẩu, nguyên vật liệu phải có nguồn gốc từ quốc gia TPP, hoặc ít nhất nguyên vật

liệu phải được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm ở quốc gia đó. Điều này có nghĩa là

không nhất thiết phải trồng cây bông hoặc nuôi cừu tại quốc gia TPP để được

hưởng mức thuế suất TPP cho quần áo bằng bông và len. Tuy nhiên, bông hoặc len

cần phải đã được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm tại Việt Nam

- Hỗ trợ các DNDM áp dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất dệt

may: tập trung cho công nghệ sản xuất nguyên phụ liệu, công nghệ đóng gói; tăng

cường liên kết với các tổ chức của các nước nhằm thu hút công nghệ mới.

- Hỗ trợ các DNDM về đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay

nghề cao: cử cán bộ, lao động đi học ở nước ngoài hoặc mời các chuyên gia nước

ngoài vào giảng dạy, đầu tư cho các trường Đại học có ngành dệt may để đào tạo

đội ngũ lao động có tay nghề cao, các trường dạy nghề….hoặc, Nhà nước hỗ trợ

cho các DN với hình thức đào tạo tại chỗ, đào tạo theo dự án

- Hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại: Với xu hướng ngày

càng gia tăng việc các nước sử dụng RCKT trong TMQT như hiện nay, những tranh

chấp liên quan đến RCKT là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp xảy ra tranh

chấp, Nhà nước phải khẳng định được vai trò của mình trong việc giải quyết tranh

chấp, bảo vệ quyền lợi của các DN thông qua:

+ Có tiếng nói chính thức bảo vệ DN trong nước trên trường quốc tế trong

trường hợp phía đối tác tuyên truyền bất lợi, hoặc gây áp lực chính trị,…

+ Tư vấn, hỗ trợ cho các DN về mặt chuyên môn pháp lý.

+ Thông qua các kênh quan hệ chính thức để thương lượng trước khi xúc

tiến các bước giải quyết tranh chấp tiếp theo. Ví dụ, thông qua việc gặp gỡ giữa hai

chính phủ hoặc hai cơ quan chuyên trách, hoặc tổ chức giải quyết tranh chấp cho

các DN liên quan theo cơ chế trọng tài TMQT.

+ Cung cấp tài chính để DN theo đuổi các vụ kiện nếu cần, nhằm giữ uy tín

của DN cũng như uy tín của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc hỗ trợ DN trong lĩnh vực này đòi hỏi nhà nước phải một chiến lược dài

hạn về xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn pháp lý và thương mại chuyên sâu,

đặc biệt là các lĩnh vực liên quan tới TMQT, luật pháp TMQT.

134

(iv) Nâng cao năng lực đàm phán và ký kết, tham gia các hiệp định song

phương, khu vực và đa phương về RCKT trong thương mại.

Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ

KHCN vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các RCKT nhằm hạn chế nhập khẩu

từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển. Do đó, Chính phủ

của các quốc gia đang và kém phát triển cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết

để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu là tham gia vào

các diễn đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp định quốc tế song

phương cũng như đa phương về RCKT, thì các nước sẽ có được sự bảo vệ cũng như

giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có được sự công bằng khi tham gia

vào TMQT. Ví dụ như trong Hiệp định TBT của WTO có điều khoản 11 về trợ giúp

kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải tư

vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển trong

việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay tham gia

vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi tham gia

Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành viên phát

triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số các quy

định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy trì công

nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ theo những

điều kiện kinh tế - xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó chưa phù hợp

với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức quốc tế về

RCKT, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử dụng sẽ được thống

nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy, các tiêu chuẩn, quy

định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà XK sẽ hiểu được các quy

định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ

ràng, phức tạp gây khó khăn cho các nhà XK.

Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, trình độ phát triển kinh tế - xã

hội cũng như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, Việt Nam đang gặp

nhiều khó khăn khi phải đối mặt với các RCKT. Nhiều tiêu chuẩn mà nước ta áp

dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và chưa được các nước công nhận nên

135

hàng XK của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước nhập khẩu

yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các RCKT, thâm nhập vào

thị trường toàn cầu, Chính phủ cần tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp

định quốc tế về RCKT và tiêu chuẩn hoá, Hiệp định công nhận tiêu chuẩn của nhau.

Khi ký kết các hiệp định này, Việt Nam sẽ có điều kiện rà soát hiệp định, tham gia

xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp với trình độ phát triển của mình và có

thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được

quyền lợi của nước ta cũng như các nước đang và kém phát triển khác.

Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất

lượng và RCKT nhưng Chính phủ vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán ký

kết các hiệp định về RCKT trong thương mại để bảo vệ quyền lợi quốc gia khi hội

nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ có phương án mềm dẻo nhưng kiên quyết để bảo vệ

lợi ích xuất khẩu của DN, bảo vệ người lao động; chú trọng bảo lưu các không gian

chính sách cần thiết để Chính phủ có thể hành động vì các lợi ích công cộng.

(v) Nâng cao vị thế của ngành DM trong chuỗi giá trị DM toàn cầu.

Xu hướng của các nhà mua hàng lớn tại Mỹ, EU, Nhật Bản là chọn những

DN có khả năng sản xuất trọn gói thay vì đặt hàng theo phương thức gia công. Để

làm được điều này, DNDMVN phải di chuyển lên thượng nguồn trong chuỗi giá trị

dệt may, nắm giữ các khâu trong phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu. Dịch chuyển

lên các phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu đòi hỏi một chiến lược đồng bộ và hài

hòa trong từng khâu của chuỗi giá trị dệt may, phù hợp với năng lực của các

DNDM Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Trong ngắn hạn, các DN may vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu nước

ngoài, vì vậy để đảm bảo sự chủ động với nguồn nguyên phụ liệu đòi hỏi các DN

phải có một mối liên kết chặt chẽ với các nhà cung cấp nước ngoài. Chính phủ cần

thiết phải xây dựng mạng lướng thông tin sẵn có về các nhà cung cấp nguyên phụ

liệu để các DN dễ dàng tiếp cận với nhà cung cấp nguyên liệu có độ tin cậy cao về

chất lượng và thời gian giao hàng. Trong dài hạn, để thực hiện tốt đơn hàng FOB và

ODM, ngành dệt may Việt Nam nhất thiết phải dịch chuyển sang phân khúc sản

136

xuất nguyên phụ liệu. Điều này, một mặt giúp các DN chủ động hoàn toàn nguyên

phụ liệu, nâng cao lợi thế cạnh tranh, mặt khác giúp nâng cao giá trị gia tăng cho

ngành dệt may.

Hình 3.2. Mô hình chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu hàng DM

(vi) Thành lập bộ phận cảnh báo sớm về RCKT.

Để có thể cảnh báo sớm các RCKT, tận dụng tối đa cơ hội và lợi thế, giảm

thiểu rủi ro không đáng có do không dự báo được tiêu chuẩn, quy định, các biện

pháp kỹ thuật, Nhà nước cần có bộ phận chuyên nghiên cứu về lĩnh vực này. Hệ

thống cảnh báo sớm sẽ giúp Chính phủ Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh

nghiệp DM Việt nam nói riêng: Xác định sớm các mối đe dọa/nguy cơ của các

RCKT mới đối với hàng DM Việt Nam xuất khẩu; giúp các doanh nghiệp DM Việt

Nam có đủ thời gian và điều kiện để kịp thời điều chỉnh nhằm loại bỏ những mối đe

dọa và chủ động đối phó với các RCKT của nước nhập khẩu, đồng thời duy trì và

phát triển kim ngạch và tốc độ xuất khẩu, qua đó giúp các ngành dệt may của Việt

Nam ngày càng có tính cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu.

Hệ thống cảnh báo sớm sẽ tập trung vào các thị trường xuất khẩu lớn của

Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhóm đối tượng hưởng lợi trực tiếp của hệ

thống này là các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam. Họ sẽ được tiếp cận

137

với các thông tin của các thị trường chính, họ cũng sẽ được cảnh báo nếu có nguy

cơ các nước nhập khẩu áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật mới, tinh vi và

phức tạp. Phạm vi của Hệ thống cảnh báo sẽ được điều chỉnh và mở rộng linh hoạt

dựa trên mức độ ảnh hưởng của các thị trường trong thời gian tiếp theo.

3.3.1.2. Đối với Hiệp hội dệt may

Với vai trò là cầu nối giữa DN sản xuất trong nước với thị trường nước

ngoài, Hiệp hội có vai trò rất quan trọng trong hoạt động XK - nhập khẩu của các

DN Việt Nam cũng như tham gia giải quyết những tranh chấp trong TMQT đối với

các ngành sản xuất nói chung cũng như ngành sản xuất dệt may nói riêng.

(i) Hình thành bộ phân đầu mối để thu thập và xử lý thông tin, kết nối với hệ

thống thông tin thương mại quốc gia, đảm bảo cung cấp kịp thời và chính xác thông

tin về RCKT của các nước cho doanh nghiệp

Hiệp hội dệt may cần tiếp tục đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền, phổ

biến cho cộng đồng DN kiến thức pháp lý liên quan đến XK của các đối tác nhập

khẩu lớn, các thông tin giá cả thị trường, đối thủ cạnh cạnh… Hiệp hội nên thành

lập và củng cố bộ phận thông tin của Hiệp hội để thu thập thông tin đầy đủ và chính

xác có tính chất chuyên ngành về thị trường XK chủ yếu. Với một thị trường có một

hệ thống pháp luật cũng như các quy định hết sức chồng chéo, phức tạp như EU,

Hoa Kỳ thì vấn đề này không chỉ là thu thập chính xác và đầy đủ thông tin, mà còn

phải có những đối sách với những quy định đó, chỉ có như vậy mới giúp DN vượt

qua rào cản, tiếp cận đến thị trường.

Hiệp hội cũng cần ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử vào hoạt động

hiệp hội, tham vấn Chính phủ về việc hình thành sàn giao dịch cho mặt hàng dệt

may Việt Nam cả yếu tố đầu vào cũng như yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất, từ

đó có thể giúp các DN Việt Nam yên tâm hơn trong việc tìm mua NPL và tiêu thụ

sản phẩm của mình.

(ii) Nâng cao năng lực của Hiệp hội ngành hàng

Luật về hiệp hội sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh sự ra đời và hoạt

động của hiệp hội. Với Luật về hiệp hội sẽ giúp tạo hành lang pháp l ý để các hiệp

138

hội phát huy vai trò, vị trí và đóng góp tính cực vào sự phát triển của kinh tế- xã hội

đất nước.

Trong xu thế hiện nay, khi Nhà nước giảm sự can thiệp trực tiếp vào hoạt

động kinh doanh của DN thì vai trò hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết. Hiệp hội

là đầu mối giao lưu với các tổ chức quốc tế, xúc tiến liên kết giữa Nhà nước và tư

nhân để tiến tới thống nhất việc điều hành sản xuất kinh doanh trong cả nước.

Thông qua việc tăng cường nguồn nhân lực có trình độ cao về pháp luật và

kinh doanh quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho Hiệp hội để tương xứng với

sự phát triển sản xuất kinh doanh và XK của ngành hàng nhằm tạo điều kiện thuận

lợi để các Hiệp hội tham gia vào các tổ chức và Hiệp hội ngành hàng quốc tế. Năng

lực hoạt động của Hiệp hội có được sự tăng cường và củng cố vững mạnh thì Hiệp

hội mới phát huy tốt vai trò định hướng, hỗ trợ các DN trong việc chủ động đối phó

với các RCTM quốc tế nhằm đẩy mạnh XK.

Hiệp hội phải có bộ máy đủ mạnh và người lãnh đạo uy tín cùng đội ngũ tác

nghiệp giỏi. Các Hiệp hội cũng cần coi trọng tuyên truyền giáo dục hội viên tự giác

cùng tiếng nói, chung hành động trước các đối tác, không vì lợi ích trước mắt của

đơn vị mình mà đi ngược lại, ảnh hưởng xấu đến toàn cục.

Hiệp hội nên mở thêm chi nhánh hoặc lập câu lạc bộ để trao đổi kinh nghiệm

giữa các DN làm ăn tốt với các DN mới, DN làm ăn chưa có hiệu quả, đồng thời

cũng nên tích cực vận động các nguồn tài trợ thông qua các dự án về hỗ trợ pháp lý,

trợ giúp kỹ thuật, đào tạo nhân lực, tiếp cận thị trường thông qua các cuộc hội đàm,

các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước.

Hiệp hội cần chủ động tham gia vào các tổ chức hoặc hiệp hội ngành hàng

quốc tế như Liên đoàn DM ASEAN (AFTEX), Uỷ ban Quốc tế về DM,... Tích cực

hưởng ứng và đưa ra các ý kiến đề xuất về hoạt động của các tổ chức này theo

hướng nâng cao vai trò, uy tín của ngành DM Việt Nam; mở rộng hợp tác với các tổ

chức hiệp hội ở các thị trường nhập khẩu lớn như Hiệp hội người tiêu dùng, Hiệp

hội các nhà nhập khẩu sản phẩm DM để tháo gỡ RCKT cho hàng DMXK Việt

Nam.

139

3.3.1.3. Đối với các doanh nghiệp dệt may.

(i) Chủ động áp dụng, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế: DN chủ động đầu tư

cải thiện sản xuất, nâng cao năng lực công nghệ, yêu cầu sản xuất theo chu trình

khép kín, chứng minh được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, nguyên liệu để đảm

bảo đáp ứng các yêu cầu trong tiêu chuẩn, quy chuẩn của các nước. Các DN cần

khẩn trương xây dựng hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc

tế và đặc biệt là phải thích nghi được với những tiêu chuẩn của thị trường Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản: Các hệ thống tiêu chuẩn như ISO 9001:2000; ISO 14001 : 2000; SA

8000, … Đây chính là chìa khóa để các DN có thể thành công trên những thị trường

lớn này.

(ii) Đa dạng hóa và phát triển thị trường mới, lựa chọn thị trường xuất khẩu

phù hợp với năng lực hiện có của DN để vượt qua RCKT,

Một lý do mà hàng dệt may Việt Nam phải đương đầu với rào cản kỹ thuật là

các thị trường xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu ở Nhật Bản, Mỹ và EU.

Việc tập trung thái quá vào các thị trường này khơi dậy sự không hài lòng của các

doanh nghiệp liên quan ở các quốc gia nhập khẩu và xích mích thương mại giữa

nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, thậm chí làm cho các quốc gia nhập khẩu quy

định các tiêu chuẫn kỹ thuật cao hơn để giới hạn các sản phẩm nhập khẩu. Nhằm

tránh xích mích thương mại không cần thiết, các doanh nghiệp Việt Nam nên nỗ lực

đa dạng hóa và phát triển các thị trường mới ngoài các thị trường chính, giúp tránh

xích mích thương mại không cần thiết và phát triển quan hệ thương mại với các

quốc gia khác để tìm kiếm không gian phát triển mới cho các hoạt động xuất khẩu

mặt hàng dệt may.

Lựa chọn thị trường xuất khẩu là quá trình đánh giá các cơ hội thị trường để

chọn ra các thị trường có triển vọng nhất, phù hợp với tiềm năng thế mạnh của DN.

Để lựa chọn thị trường xuất khẩu, DN phải xây dựng chiến lược xuất khẩu trên cơ

sở giải quyết mối tương quan giữa năng lực, thế mạnh của DN và các thị trường có

thể xâm nhập. Khi lựa chọn chiến lược thị trường xuất khẩu, DN phải căn cứ vào

140

các nhân tố như: các nhân tố thuộc về DN; các nhân tố về sản phẩm và các nhân tố

về thị trường (nhu cầu, thị hiếu, các quy định với sản phẩm nhập khẩu....).

(iii) Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các DN, các thành phần kinh tế

nhằm phát huy ưu thế của toàn ngành DM

Tăng cường và nâng cao khả năng liên kết, hợp tác và hiệu quả liên kết hợp

tác giữa các DNDM trong nước, giữa các DNDM trong nước với DNDM nước

ngoài tại Việt Nam hoặc các đối tác nhập khẩu hàng DM để tăng khả năng đáp ứng

và vượt RCKT để đẩy mạnh XK hàng DM Việt Nam. Sự liên kết giữa các DNDM

nhằm thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, tận dụng lợi thế quy mô là một điều

kiện tiên quyết để thực hiện các mục tiêu này. Cần có một sự kết hợp uyển

chuyển giữa mô hình sản xuất quy mô lớn, công nghệ hiện đại với sự năng động,

linh hoạt của các DN nhỏ để đảm bảo tốc độ tăng trưởng và giảm chi phí sản

xuất, thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường về mẫu mã, sản xuất

đơn hàng nhỏ. Các biện pháp giảm giá thành sản phẩm như nâng cao năng suất

lao động, giảm chi phí quản lý, giảm tiêu hao năng lượng, chia sẻ chi phí tiếp thị,

chi phí thông tin thị trường cần được quán triệt nhằm đảm bảo thực hiện tiết kiệm

chi phí cho các DNDM [32]. Mở rộng trong cung cấp nguyên liệu, trong khâu sản

xuất, tiêu thụ giữa các đơn vị để khai thác tối đa công suất của các thiết bị hiện đại,

thiết bị chuyên dùng. Bên cạnh đó, để đáp ứng được các đơn hàng có khối lượng

lớn của nước ngoài, cần thiết phải mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với

các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Từ thực tế cho thấy, trước các vụ tranh chấp

thương mại, nếu có yếu tố nước ngoài cùng đứng về phía Việt Nam thì các phán

quyết cuối cùng bao giờ cũng có lợi cho Việt Nam [75].

(iv) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh XK bền vững của

doanh nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu hướng gia tăng sử

dụng RCKT của các thị trường phát triển, các DNXK hàng DM của Việt Nam

muốn nâng cao được sức cạnh tranh, đẩy mạnh XK sang các thị trường này thì tất

yếu phải xây dựng và thực thi một chiến lược kinh doanh XK hiệu quả và bền vững.

141

Chiến lược kinh doanh XK bền vững của DN phải đặt mục tiêu phát triển XK theo

chiều sâu, nâng cao chất lượng và hiệu quả XK dựa trên đầu tư đổi mới trang thiết

bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng tiên tiến, áp dụng

tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội quốc tế trong quá trình sản xuất, XK.

Một chiến lược XK bền vững như vậy cũng sẽ thu hút sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ

của Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ thương mại trong và ngoài nước cho DN thực

hiện thành công.

3.3.2. Giải pháp vượt từng rào cản kỹ thuật.

Để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, ngoài các giải pháp của Nhà nước,

Hiệp hội và các DNDM đã phân tích trên, NCS đề xuất một số giải pháp cụ thể cho

từng loại RCKT.

3.3.2.1. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm.

Để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, đòi hỏi Việt

Nam cần phải xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, 9001,

9002 tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam có uy tín với người tiêu dùng trên

thế giới, đẩy mạnh hoạt động chương trình năng suất chất lượng. Tuân thủ đúng quy

trình kiểm tra chất lượng hàng dệt may trước khi xuất khẩu. Các DNDM cần phối

hợp với cơ quan Hải quan để kiểm tra nguyên phụ liệu và trang thiết bị nhập khẩu

để đảm bảo chất lượng cho sản phẩm ngay từ khâu đầu vào.

3.3.2.2. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng.

Đa số người tiêu dùng hiện nay, đặc biệt ở các nước phát triển rất coi trọng

việc lựa chọn các sản phẩm dệt may, nhất là chăn, ga, gối, đệm đảm bảo an toàn cho

sức khỏe. Trên thực tế, các hoạt chất có hại trong các sản phẩm kém chất lượng, có

trong quá trình trồng bông nguyên liệu thông thường, trong khâu xử lý sợi bông,

nhuộm vải… có thể là nguyên nhân của hàng loạt bệnh. Trong đó dễ gặp nhất là các

bệnh liên quan đến dị ứng, mẩn ngứa và hô hấp. Các hóa chất có trong bảo quản

bông vải như formaldehyde, chất chống nấm có thể gây nhiễm độc cho da, bụi

cotton thông qua đường hô hấp có thể gây viêm nhiễm mãn tính, thậm chí gây ra

các ảnh hưởng nặng nền hơn như bệnh ung thư, các tổn thương thần kinh … Các tác

nhân này đặc biệt có hại cho trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh và thai nhi do sức đề kháng của trẻ

142

chưa phát triển hoàn toàn. Khi gặp những tác nhân này trẻ sẽ có những tổn thương

nghiêm trọng hơn ở người đã trưởng thành.

Hiện nay, một số quốc gia ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản quy định việc nhập

khẩu các sản phẩm dệt may phải đảm bảo không gây hại với người tiêu dùng. Xu

hướng này đang lan rộng ra các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng đặt ra yêu cầu

với các doanh nghiệp dệt may ngày càng phải chú ý hơn trong các khâu sản xuất,

đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm…

Nhà nước nên tổ chức các triển lãm, tuyên truyền về sản phẩm an toàn cho

người tiêu dùng, chú trọng hơn các hoạt động cổ vũ cho xu hướng tiêu dùng an

toàn, cho sức khỏe con người nhằm nâng cao nhận thức của các DN trong việc sản

xuất sản phẩm an toàn. Nhà nước cũng cần thành lập cơ quan đánh giá độc lập, có

đủ năng lực để kiểm tra và công nhận đạt chuẩn về an toàn của sản phẩm, hướng

dẫn các DNDM thực hiện các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu về an toàn cho người

sử dụng của các nước nhập khẩu.

Các doanh nghiệp cần nghiêm túc tuôn thủ các quy định, tuyên truyền cho

người người lao động trong DN thấy được tầm quan trọng của việc sản xuất sản

phẩm an toàn, có ý thức và trách nhiệm của mình khi tham gia sản xuất sản

phẩm.

3.3.2.3. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về môi trường.

Vì người dân các nước phát triển coi môi trường nơi đâu cũng là môi trường

chung của mình,vì vậy, nếu sản phẩm gây ô nhiễm môi trường Việt Nam thì cũng

gây ô nhiễm cho môi trường chung và do đó không được chấp nhận ở các nước phát

triển. Do đó, khi sản xuất hàng dệt may, Việt Nam phải đảm bảo không gây ô nhiễm

không chỉ cho môi trường nước xuất khẩu mà còn phải đảm bảo không gây ô nhiễm

môi trường tại Việt Nam. Giải pháp để vượt qua rào cản này là:

- Xây dựng cụm công nghiệp ngành dệt may. Chính Phủ có vai trò rất quan

trọng trong phát triển cụm CN, thu hút đầu tư vào khâu sản xuất NPL, nhất là khâu

dệt, nhuộm và hoàn tất. Vướng mắc lớn nhất của khâu dệt nhuộm là vấn đề xử lý

nước thải. Do đó, Chính phủ cần quy hoạch, xây dựng cụm nhà máy dệt nhuộm để

143

có hệ thống xử lý nước thải tốt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đáp ứng được yêu

cầu về tiêu chuẩn môi trường của các nước nhập khẩu.

- Các DNDM cần đẩy mạnh việc quản lý hóa chất, triển khai các chương

trình sản xuất sạch hơn: Trong khi thực hiện các hệ thống quản lý môi trường, cần

rà soát các hóa chất thuốc nhuộm, chất trợ đang sử dụng, nguồn gốc, xuất xứ của

chúng, các phiếu số liệu an toàn của nhà cung ứng. Đổi mới công nghệ, sử dụng

hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất thuốc nhuộm thân thiện với môi

trường, các công nghệ sử dụng ít nước, ít năng lượng, giảm thiểu chất thải nước,

chất thải khí...

3.3.2.4. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội.

Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam là một công việc

không thể bỏ qua trên con đường hội nhập, vừa lợi ích cho doanh nghiệp, vừa lợi

ích cho xã hội, đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của

quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn luật pháp lao động tại Việt Nam, cũng là nội

dung quan trọng trong xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại.

Để định hướng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã

hội, Việt Nam cần tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất của vấn đề

“trách nhiệm xã hội” và các bộ quy tắc ứng xử, nhất là trong các doanh nghiệp,

các nhà quản lý, hoạch định chính sách vĩ mô. Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các

nghiên cứu cơ bản, khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp đã thực hiện và sẽ thực

hiện các bộ quy tắc ứng xử, để phát hiện những thuận lợi cũng như các rào cản,

khó khăn, thách thức, từ đó khuyến nghị các giải pháp xúc tiến thực hiện trong

thời gian tới. Có thể thấy, trong quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội và các bộ

quy tắc ứng xử, các doanh nghiệp phải chi phí khá lớn cho đầu tư để cải thiện các

điều kiện vệ sinh lao động. Trong điều kiện cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp không

thể trang trải nổi những khoản chi này, bởi vậy có thể nhà nước phải hỗ trợ cho

vay từ quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ xúc tiến thương mại… với một chính sách ưu

tiên, ưu đãi.

144

3.3.2.5. Đối với các quy định và tiêu chuẩn về ghi nhãn hàng dệt may.

Như đã phân tích, các quy định và tiêu chuẩn ghi nhãn hàng dệt may của các

thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có xu hướng ngày càng cao và phức tạp hơn. Bên

cạnh những quy định cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ an toàn sức khỏe người tiêu

dùng, bảo vệ môi trường sinh thái và chống lừa dối, gian lận thương mại, còn có

nhiều quy định không góp phần vào việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hoặc có thể

có lợi cho người tiêu dùng nhưng gây thêm quá nhiều thủ tục cho doanh nghiệp (ví

dụ nhãn phải được đăng ký, phê chuẩn, chấp thuận trước, nhãn phải được làm bằng

một số nguyên liệu nhất định….). Hay những quy định về nhãn sinh thái cũng tạo

thêm gánh nặng cho các DN DMXK các nước đang và chậm phát triển, trong đó có

Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần tích cực đàm phán với các nước nhập khẩu để

giảm thiểu những quy định trên mức cần thiết và đảm bảo rõ ràng minh bạch hơn

trong các quy định về ghi nhãn của các thị trường nhập khẩu. Đồng thời, các doanh

nghiệp phải nghiên cứu, tìm hiểu và nhận biết rõ các quy định và yêu cầu ghi nhãn

chính đáng của các thị trường nhập khẩu về thành phần sợi, nước xuất xứ, hướng

dẫn sử dụng để có biện pháp thích nghi, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định này

3.3.2.6. Đối với các quy định về xuất xứ hàng dệt may.

Để đảm bảo hàng hóa đáp ứng yêu cầu về xuất xứ, các DN cần nghiên cứu

kỹ quy tắc xuất xứ trong Hiệp định TPP (sau khi được ký kết) và EVFTA để chắc

chắn hàng hóa đáp ứng quy tắc cộng gộp và các tiêu chí xuất xứ tương ứng trước

khi sản xuất, xuất khẩu. Đặc biệt cần nhận thức rõ một điều là nguyên nhân chính

cho khó khăn hiện tại của VN trong vấn đề xuất xứ hàng hóa là do VN vẫn chưa

chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất xuất khẩu chủ

lực, và nguyên nhân sâu xa từ thực trạng này chính là do VN chưa xây dựng được

công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may, hầu hết các phụ kiện đều phải nhập khẩu.

Cho nên, nếu thực hiện nguyên tắc xuất xứ hàng hóa theo TPP, hay theo EVFTA,

thì không có đủ cơ sở để khẳng định mặt hàng mà chính chúng ta sản xuất mang

nguồn gốc VN. Vì vậy, vấn đề căn cơ nhất hiện nay là VN phải:

145

- Khẩn trương xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho ngành may

mặc cũng như các ngành khác. Đó là giải pháp căn cơ nhất. Bên cạnh đó, chúng ta

có thể có những giải pháp tạm thời khác, ví dụ như thương lượng với các nước TPP

để có thời gian, gọi là thời gian ân huệ nhất định để có điều kiện thời gian cho công

nghệ phụ trợ đó phát triển. Xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành

hàng sản xuất xuất khẩu là giải pháp cấp bách nhất hiện nay đối với VN trong bối

cảnh đàm phán Hiệp định TPP và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam - EU đang

đi vào giai đoạn cuối cùng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận khách quan là giải pháp này

mang tính dài hạn.

- Việt Nam cần có qui hoạch khoa học, cụ thể về các vùng trồng, sản xuất, cung

ứng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Nếu chỉ chú trọng đầu tư cho ngành dệt may

mà thiếu chú ý phát triển các vùng sản xuất nguyên phụ liệu thì dệt may Việt Nam đã,

đang và sẽ còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Do đó, Việt Nam cần có những

chính sách quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết qua các giai đoạn phát triển, đặc

biệt nên chú trọng phát triển những vùng trồng bông nuôi tằm giảm thiểu hoạt động

nhập khẩu yếu tố đầu vào. Do vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải xây dựng các

trung tâm sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu. Cần có kế hoạch kêu gọi các nhà

đầu tư nước ngoài Hong Kong, Đài Loan, Nhật Bản tham gia triển khai các trung

tâm nguyên phụ liệu này và cao hơn nữa, hợp tác đầu tư máy móc thiết bị sản xuất

nguyên phụ liệu tại Việt Nam, nhằm ổn định thị trường.

- Mỗi doanh nghiệp cần xác định chiến lược kinh doanh riêng cho mình tùy

thuộc vào điều kiện cụ thể, hoặc là tận dụng những nguồn nguyên liệu sẵn có, để

chiếm lĩnh thị trường nội địa và phát huy thế mạnh, tạo thương hiệu đẩy mạnh xuất

khẩu hoặc là xây dựng chuỗi cung ứng riêng ngay trong nước cho chính doanh

nghiệp. Dù theo định hướng nào thì khi Việt Nam tham gia những hiệp định TPP,

các doanh nghiệp cần phải thông suốt mọi quy định, và nắm bắt kịp thời những lợi

thế, từ đó có những chiến lược phù hợp thì mới tránh được những thua thiệt trong

thương mại quốc tế.

146

Tóm lại, chương 3 đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của

RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường

nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong

thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết

định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát

triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức

tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi

trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu

dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT của các thị trường nhập khẩu sẽ

tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, thời gian

tới, RCKT cần phải đuợc quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.

Chương 3 cũng đưa ra quan điểm và định hướng vượt RCKT đối với hàng

DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động phòng

ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN để

vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các nhóm

giải pháp cụ thể đối với Nhà nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các

nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM. Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà

nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường

hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ

trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về

RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DN,... Các DN

phải phát huy nội lực bản thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược

kinh doanh XK bền vững để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua

đó phát triển thương hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.

Các nhóm giải pháp này được xây dựng một cách hệ thống, có căn cứ khoa

học và chắc rằng sẽ có tác dụng thiết thực thúc đẩy sự phát triển xuất khẩu ngành

dệt may nói riêng và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng

và Nhà nước ta nói chung.

147

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa sâu sắc như hiện nay, đi liền với

xu hướng tự do hóa thương mại với việc cắt giảm và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan

truyền thống, là xu hướng ngày càng phát triển của các RCKT thương mại như một

tất yếu khách quan. Các RCKT thương mại, với những ưu điểm nổi trội so với rào

cản thuế quan truyền thống, đóng vai trò quyết định trong định hình các dòng chảy

của TMQT ngày nay.

RCKT của các thị trường nhập khẩu chính Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... đối với

hàng DMXK của Việt Nam cũng phát triển nở rộ và ngày càng trở nên cao hơn, tinh

vi, phức tạp hơn để cản trở sự thâm nhập mạnh mẽ của hàng DMXK của nước ta.

Điều này đặt ra những khó khăn, thách thức lớn cho cả Nhà nước và cộng đồng DN

Việt Nam trong vượt RCKT của các thị trường phát triển để đẩy mạnh XK hàng

DM, thực hiện mục tiêu chiến lược xuất nhập khẩu và chiến lược phát triển ngành

DM đến năm 2020, nhất là trong điều kiện thực tế hiện nay, năng lực vượt RCKT

của Việt Nam còn hạn chế do có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế và

khoa học, công nghệ so với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.

Xuất phát từ mâu thuẫn giữa việc gia tăng sử dụng các RCKT của các nước

phát triển gây cản trở cho XK hàng DM của Việt Nam với năng lực vượt RCKT còn

yếu nhưng phải nỗ lực để tăng cường XK hàng DM của Việt Nam sang các thị

trường này, NCS đã thực hiện đề tài luận án tiến sĩ “Rào cản kỹ thuật đối với hàng

dệt may xuất khẩu và giải pháp của Việt Nam” với mục đích nghiên cứu, làm rõ cơ

sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất các giải pháp nhằm vượt RCKT của các

nước nhập khẩu, đẩy mạnh XK hàng DM của Việt Nam. Luận án đã đạt được

những kết quả chính và có những điểm mới sau đây:

- Thứ nhất, Luận án có cách tiếp cận mới, nhìn nhận RCKT theo hướng tích

cực, coi RCKT là những quy định, tiêu chuẩn hợp lý, khoa học buộc các quốc gia,

các nhà nhập khẩu, xuất khẩu phải tuôn thủ. Theo đó, RCKT được tiếp cận từ hai

phía trong mối quan hệ giữa các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa, trên cả

2 bình diện Nhà nước và doanh nghiệp.

148

- Thứ hai, Luận án đã phát triển một số vấn đề lý luận về RCKT và vượt

RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, trong đó: Luận giải và đưa ra quan điểm

riêng về khái niệm và cách phân loại mới RCKT; Đưa ra phương thức vượt RCKT

và đề xuất mô hình vượt RCKT đối với hàng dệt may xuất khẩu, theo đó các doanh

nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp phải vượt RCKT, nhưng vai trò của Nhà nước

và các tổ chức hỗ trợ thương mại, các tổ chức xã hội dân sự khác trong và ngoài

nước là vô cùng quan trọng để doanh nghiệp có thể vượt qua RCKT và xuất khẩu

thành công; Xác định hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vượt RCKT của

một quốc gia, trong đó, nhóm nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu (nhân tố trong

nước) giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển bền vững và hiệu

quả của xuất khẩu hàng dệt may. Và trong số các nhân tố này thì nhân tố thuộc về

tư duy nhận thức của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân đối với sản xuất và

xuất khẩu hàng dệt may giữ vai trò quan trọng nhất, có thể thúc đẩy hoặc cản trở

việc đáp ứng RCKT. Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm vượt RCKT đối với hàng

DMXK của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan cả trên bình diện nhà

nước và doanh nghiệp, tập trung vào các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước và các nỗ

lực vượt RCKT của bản thân DN, rút ra những bài học có thể áp dụng và không nên

áp dụng vào Việt Nam.

- Thứ ba, Luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng XK và thực trạng

sử dụng các RCKT của các nước nhập khẩu chính và tác động của chúng tới XK

hàng DM của Việt Nam cũng như những biện pháp vượt RCKT đối với hàng DM

của. Chính phủ và DN Việt Nam chỉ rõ rằng để vượt qua RCKT của các thị trường

nhập khẩu chủ yếu, hàng DM Việt Nam đã có những thích nghi, đổi mới quan

trọng, đặc biệt là trong công nghệ sản xuất, tạo dựng thương hiệu và thay đổi cách

thức giám sát, kiểm tra. Nhưng thực trạng đáp ứng các rào cản này vẫn bộc lộ nhiều

hạn chế trong thời gian qua. Những hạn chế đó có nguyên nhân khách quan do trình

độ phát triển kinh tế, KHCN của Việt Nam còn thấp, nhưng nguyên nhân chủ quan

quan trong nhất là do chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, kể cả trong các

cơ quan chính phủ và các DNDM. Nhận thức và ý thức về việc chủ động nắm bắt

xu hướng RCKT để có biện pháp phòng ngừa mang tầm chiến lược còn yếu. Hiện

149

nay các biện pháp vượt RCKT còn mang tính đối phó, bị động và ngắn hạn. Chính

phủ và cộng đồng DNDM chưa thật sự có sự gắn kết chặt chẽ với nhau để tìm giải

pháp,...

Thứ tư, Luận án đã tiến hành nghiên cứu, làm rõ xu hướng phát triển của

RCKT và khả năng gia tăng áp dụng RCKT đối với hàng DMXK của các thị trường

nhập khẩu chính thời gian tới. Theo đó, RCKT với những ưu điểm vượt trội trong

thế giới toàn cầu hóa và KHCN phát triển như vũ bão, đang củng cố vai trò quyết

định trong định hình các dòng chảy TMQT. Xu hướng là các RCKT ngày càng phát

triển cao hơn, được các nước sử dụng ngày càng nhiều hơn và trở nên tinh vi, phức

tạp hơn, với các mối quan tâm hàng đầu là an toàn sức khỏe con người, bảo vệ môi

trường, yêu cầu chất lượng, ngăn chặn các hành vi lừa dối và bảo vệ người tiêu

dùng,... Những xu hướng phát triển mới của RCKT và mức độ sử dụng RCKT tăng

lên của các thị trường nhập khẩu sẽ có khả năng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt hơn

tới hàng DMXK của Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, RCKT cần phải đuợc

quan tâm, chú ý nhiều hơn trên cả góc độ vĩ mô và vi mô.

Thứ năm, Luận án đã nêu ra các quan điểm và định hướng vượt RCKT đối

với hàng DMXK thời gian tới trên tinh thần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chủ động

phòng ngừa, nỗ lực hết mình và có định hướng chiến lược cả ở tầm quốc gia và DN

để vượt RCKT, đẩy mạnh XK hàng DM.

Thứ sáu, Luận án đề xuất các nhóm giải pháp chung và cụ thể đối với Nhà

nước, Hiệp hội và DN nhằm vượt qua RCKT của các nước nhập khẩu, đẩy mạnh

XK hàng DM. Nhà nước và Hiệp hội DM cần giúp đỡ hỗ trợ các DN vượt rào.

Những hỗ trợ không thể thiếu của Nhà nước cho DN là ở việc tăng cường năng lực

pháp lý và QLNN về TBT, tăng cường hội nhập quốc tế về TBT, hỗ trợ đầu tư đổi

mới trang thiết bị kỹ thuật, KHCN, hỗ trợ cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống tin

dự báo, cảnh báo và khuyến cáo về RCKT mới cho doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo

nguồn nhân lực cho DN,... Các DN phải chủ động, tích cực phát huy nội lực bản

thân, nỗ lực đổi mới không ngừng, triển khai chiến lược kinh doanh XK bền vững

để sản phẩm đáp ứng RCKT của các nước nhập khẩu, qua đó phát triển thương

hiệu, phát triển XK hàng DM Việt Nam.

150

Kết quả trên đây chính là những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề

tài luận án vào việc nâng cao năng lực vượt qua các RCKT trong TMQT, thúc

đẩy XK hàng DM của Việt Nam. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng luận án không

tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo,các

nhà khoa học để luận án hoàn chỉnh hơn.

Nghiên cứu sinh xin được bày tỏ lời cám ơn sâu sắc tới Ban lãnh đạo cùng các

Thầy giáo, Cô giáo, các cán bộ của Viện nghiên cứu Thương mại, đặc biệt là tập thể

Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Nhiễu và TS. Phạm Thu Giang. Nghiên cứu

sinh cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên

của Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp, Vụ Khoa học & Công nghệ -

Bộ Công Thương, Tập đoàn Dệt May Việt Nam (VINATEX), Văn phòng TBT Việt

Nam, Viện Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà nghiên

cứu cùng bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã luôn ủng hộ,

tạo điều kiện thuận lợi, chia sẻ khó khăn và luôn động viên tác giả trong suốt quá

trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành bản luận án này./.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

[1] Phạm Thị Lụa (2011). Công nghiệp DM Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, Tháng 3/2011.

[2] Phạm Thị Lụa (2011). Chính sách công nghiệp của Nhật Bản đối với các nước

ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp - Tháng 4/2011.

[3] Phạm Thị Lụa (2011). Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK

của Việt Nam, Tạp chí Thương mại - Số 8/2011.

[4] Phạm Thị Lụa (2012). Khuyến nghị về định hướng điều chỉnh chính sách XK

ngành DM Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Giáo dục lý luận - Tháng

12/2012.

[5] Phạm Thị Lụa (2012). XK hàng DM sang thị trường Nhật Bản và những

khuyến nghị đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí KHCN, Trường Đại

học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp, Tháng 12/2012.

[6] Phạm Thị Lụa (2014). Rào cản kỹ thuật - Thách thức lớn đối với các DNDM

Việt Nam, Tạp chí Công thương, Tháng 4/2014

[7] Phạm Thị Lụa (2014). DNDM Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật của các thị

trường XK, Tạp chí nghiên cứu thương mại, Số 8, Tháng 4/2014

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các văn bản.

[1] Nghị định về Ghi nhãn hàng hóa số 89/2006/NĐ-CP của Chính phủ năm

2006,...

[2] Nghị định số 127/2007/NĐ-CP của chính phủ ngày 01/08/2007 quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.

[3] Nghị định số: 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

[4] Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng.

[5] Nghị định số 86/2012/ND-CP ngày 19/10/2012 quy định chi thiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Đo lường.

[6] Quyết định số 682/QĐ-TTg ngày 10 tháng 05 năm 2011 “Đề án thực thi hiệp

định hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2011 - 2015”.

[7] Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg ngày 10/3/2008 của Thủ tướng chính Phủ,

“Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam đến

năm 2015, định hướng đến năm 2020”.

[8] Quyết định số 3218/QĐ-BCT ngày 11/4/2014 của Bộ Công Thương phê duyệt

“Quy hoạch phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030”

Sách, báo cáo Tiếng Việt

[9] Hoàng Thị Vân Anh (2009), “Nghiên cứu tác động ảnh hưởng của hàng rào

kỹ thuật thương mại (TBT) Nhật Bản đối với xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy

sản của Việt Nam và giải pháp khắc phục”, đề tài NCKH cấp Bộ.

[10] Lê Quốc Ân (2005), “Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt

Nam sau hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”.

153

[11] Lê Quốc Ân (2006), “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng năng lực

cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2015”, đề

tài nghiên cứu của Hiệp hội dệt may Việt Nam.

[12] BaKer & McKenzie (2010), “Sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại tại Hoa

Kỳ”.

[13] Báo cáo Dự án 2009, “Hội nhập Kinh tế và sự phát triển ở Việt Nam”.

[14] Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới (2000), “Xanh hóa

công nghiệp - Vai trò mới của Cộng đồng, thị trường và Chính Phủ”.

[15] Đỗ Đức Bình, Bùi Huy Nhượng (2009), “Đáp ứng rào cản phi thuế quan để

đẩy mạnh xuất khẩu bền vững hàng thủy sản của Việt Nam”, Nhà xuất bản

chính trị Quốc gia.

[16] Bộ Công Thương (2006), “Nghiên cứu rào cản môi trường đối với thương mại

và đề xuất áp dụng tại Việt Nam”, đề tài NCKH.

[17] Bộ Công Thương (2008), “Hướng dẫn xây dựng và áp dụng các biện pháp trợ

cấp bảo vệ môi trường đối với ngành dệt may và da giầy”.

[18] Bộ Công thương (2008), dự án”Phân tích tác động của các quy định môi

trường dưới hình thức các rào cản thương mại môi trường đối với xuất khẩu

một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam”.

[19] Bộ Công thương (2010), “Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO”,

NXB Công thương.

[20] Bộ Kế hoạch và đầu tư (6/2014), “Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ

2014”, báo cáo hội thảo

[21] Bộ Thương mại (1999), “Thị trường hàng dệt may thế giới và khả năng xuất

khẩu của Việt Nam”, đề tài NCKH cấp Bộ.

[22] Bộ Thương mại (2004), “WTO thương mại đầu tư Việt Nam trong tiến trình

hội nhập”.

154

[23] Bộ Thương mại, Vụ Kế hoạch thống kê, “Cơ sở khoa học định hướng các biện

pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội

nhập kinh tế thương mại thế giới”, Đề tài NCKH cấp Bộ.

[24] Cục XTTM (2010), “Hồ sơ thị trường Nhật Bản”.

[25] Dự án hỗ trợ đa biên, EU - Multrap III (2009), “Báo cáo vượt qua các rào cản

kỹ thuật để thúc đẩy xuất khẩu sang Liên Minh Châu Âu”.

[26] Dự án hỗ trợ thương mại đa biên, Multrap II (2009), “Cam kết của Việt Nam

trong WTO”.

[27] Đại diện Thương mại Mỹ (2004), “Việt Nam: các rào cản ngoại thương”.

[28] Đại học Ngoại thương (2001), “Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản

trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài NCKH cấp Bộ.

[29] Đỗ Thị Đông (2011), “Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của

các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế.

[30] FPT Security (4/2014), “Báo cáo ngành dệt may”

[31] Nguyễn Anh Dương - Đặng Phương Dung, “Việt Nam tham gia WTO và các

hiệp định thương mại tự do (FTA) - Hàm ý đối với xuất khẩu hàng dệt may”

[32] Đào Thị Thu Giang (2009), “Các biện pháp vượt rào cản phi thuế quan trong

thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt nam”, luận

án Tiến sĩ kinh tế.

[33] Phạm Thu Giang (2007), “Phân tích, tổng hợp các nội dung cụ thể có liên quan

đến hiệp định, các điểm phù hợp và không phù hợp của nghị định, thông tư, quyết

định của Bộ, Chính phủ, Quốc hội trong phạm vi ngành dệt may”, Báo cáo

[34] GS. Claudio - EU - Việt Nam Multrap III, “Hội nhập khu vực - Cơ hội và

thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam”.

[35] Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại

[36] Hiệp định thương mại về hàng dệt và may mặc

[37] Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam.

155

[38] Hiệp định thương mại Việt Nam - EU

[39] Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

[40] Hiệp hội dệt may Việt Nam (2006), “Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may Việt

Nam giai đoạn 2006 - 2010”.

[41] Nguyễn Hoàng (2009), “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu

vào thị trường các nước EU của dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”,

Luận án tiến sĩ kinh tế.

[42] Nguyễn Hữu Khải (2005), “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương

mại quốc tế”, NXB Lao động xã hội.

[43] Cao Sĩ Kiêm, “Tác động của hàng hóa nhập khẩu với sản xuất trong nước.

Các công cụ phòng vệ thương mại và sản xuất trong nước”

[44] Nguyễn Thị Hoàng Lan (2010), “Rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với hàng

dệt may xuất khẩu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, đề tài NCKH của

Trường Đại học Kinh tế TP. HCM

[45] Bùi Thị Lý (2005), “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi

doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường một số nước phát

triển”, đề tài NCKH cấp Bộ.

[46] Nguyễn Thị Hoàng Mai (2011), (2012), “Báo cáo cập nhật ngành dệt may”.

[47] Nguyễn Thị Mão (2001), “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc

tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp Việt

nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

[48] Mutrap II, dự án hỗ trợ thương mại đa biên (2006),“Thông lệ và hướng dẫn về

quản lý các cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về các rào cản kỹ

thuật trong thương mại (TBT) và hiệp định kiểm dịch vệ sinh động, thực vật

(SPS) của WTO”.

[49] Nguyễn Thị Nhiễu (2007), “Giải pháp tăng cường sự tham gia của doanh

nghiệp và sản phẩm Việt Nam vào mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu

sau khi Việt Nam gia nhập WTO”, đề tài NCKH cấp Bộ

156

[50] Ngô Thị Việt Nga (2012) “Tái cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp dệt may của

tập đoàn dệt may Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế.

[51] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam VCCI, “Cam kết WTO về lĩnh

vực dệt may”

[52] Thông tư liên tịch của Bộ Công nghiệp - Bộ thương mại, “ Hướng dẫn giám

sát xuất khẩu dệt may vào thị trường Hoa Kỳ” ngày 28 tháng 2 năm 2007.

[53] Spencer Henson và John S. Wilson (2007), “Tổ chức thương mại thế giới và

các hàng rào kỹ thuật trong thương mại”, Mai Thế Trình dịch, NXB Chính trị

Quốc gia.

[54] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Báo cáo,”Tiêu chuẩn, đo lường,

đánh giá sự phù hợp và hiệp định TBT”.

[55] Tập đoàn dệt may Việt Nam (2005), “Quy hoạch phát triển ngành dệt may

Việt Nam đến năm 2015 - tầm nhìn 2020”.

[56] Đinh Văn Thành (2005), “Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế

và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao động xã hội,

Hà Nội.

[57] Đinh Văn Thành (2005), “Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông

sản trong thương mại quốc tế”, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

[58] Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TP. HCM (2009), “Tài liệu ngành

hàng dệt may Việt Nam”.

[59] Hồ Tuấn (2005), “Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp nâng cao chất

lượng tăng trưởng trong ngành may mặc Việt Nam”, đề tài NCKH cấp Bộ.

[60] Nguyễn Văn Tuấn (2010), “Thương mại quốc tế”, Giáo trình, NXB Đại học

KTQD

[61] Nguyễn Thị Tú (2010),”Nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam

trên thị trường Hoa Kỳ”, NXB Chính trị Quốc Gia.

[62] Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế (2004), “Tác động của các

hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển”

157

[63] Văn phòng TBT, Bộ Công thương (2006), “Nhiệm vụ nghiên cứu triển khai

một số hoạt động khoa học công nghệ về rào cản kỹ thuật thương mại trong

ngành công nghiệp”.

[64] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2011), “Các dự thảo đàm phán

NAMA về NTBs đối với ghi nhãn hàng dệt may, giày dép và đồ du lịch và TBTs

đối với ô tô, điện tử, hóa chất”.

[65] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2011), “Tăng cường vai trò của

các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp thương mại

quốc tế liên quan đến Nhà nước”.

[66] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2012), “Hồ sơ thị trường Nhật

Bản”.

[67] Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2013), “Hồ sơ thị trường Hoa

Kỳ”

[68] Viện dệt may Việt Nam (2009), “Những rào cản kỹ thuật trong thương mại

dệt may Việt Nam”, nhà xuất bản Bách Khoa - Hà Nội.

[69] Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công thương

(2007), “chính sách công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Báo cáo

hội thảo.

[70] Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công thương

(2/2013), “Rào cản thương mại đối với các sản phẩm công nghiệp Việt Nam”.

[71] Viện Nghiên cứu Thương Mại (2003), “Cẩm nang thị trường xuất khẩu -Thị

trường Nhật Bản”, Nhà Xuất Bản Thương Mại, Hà Nội

[72] Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2012), “Tác động của hội nhập

kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau 3 năm Việt Nam gia nhập WTO”.

[73] Vụ Châu Âu - Bộ Thương Mại (2004), “Quan hệ kinh tế, thương mại Việt

Nam - Liên minh Châu Âu”.

[74] Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu

tổng quan các biện pháp phi thuế quan Việt Nam”, Hà Nội.

158

[75] Vụ khoa học - Bộ Công thương (2007), “Sổ tay hướng dẫn thực hiện hiệp định

TBT trong ngành công nghiệp”.

[76] Vụ khoa học - Bộ Công thương (2005), “Bổ sung quy định ghi nhãn hàng hóa

cho hàng dệt may nhập khẩu”.

[77] Vụ thị trường Châu Âu, Bộ Công thương (2011), “Quy tắc xuất xứ mới của

Liên minh Châu Âu”, Nhà xuất bản thông tin và truyền thông.

Sách, báo cáo tiếng Anh

[78] Damien J Naven (2000), “Evaluating the effects of Non-tarriff

barriers”; The economic analysis of protection in WTO dispute, University

of Lausane and CEPR.

[79] Economic and social commission for ASIA and the Pacific (2000), “Non -

tariff measures with potentially restrictive market access implications

emerging in a post-uruguay ruond context”, United Nations.

[80] Gordhan K. Saini, “Non-Tariff Measures Affecting India’s Textiles and

Clothing Exports: Findings from the Survey of Exporters”.

[81] Hildegunn Kyvik Nordås, “The Global Textile and Clothing Industry post the

Agreement on textiles and Clothing”, World Trade Organization.

[82] Keith E. Maskus, “Quantifying the Impact of Technical Barriers to Trade, a

Framework for Analysis”.

[83] Sangeeta Khorana, “Barriers to exporting to the EU: evidence from textiles

and leather goods firms in india”, School of Management and Business,

United Kingdom.

[84] USTR (2013), “2013 Report on Technical Barriers to Trade”

[85] WTO Committee on Technical Barriers to Trade (2013), “Eighteenth Annual

Review of the Implementation and Operation of the WTO Agreement on

Technical Barriers to Trade”, G/TBT/33.

159

[86] Xiaohua Bao (2009), “Quantifying the Trade Effects of Technical Barriers to

Trade: Evidence from China”, School of International Business

Administration.

[87] Xiaohua Bao and Larry D. Qiu (2011), “How Does Technical Barriers to

Trade Influence Trade Flows?”, School of International Business

administration, Shanghai University of Finance and Economics.

Báo, tạp chí

[88] Đỗ Đức Bình (2009), “Rào cản môi trương - Rào cản xanh của EU và giải

pháp vượt rào đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường

EU”, tạp chí Kinh tế - Pháp luật Châu Âu, (6).

[89] Phạm Minh Đạt (2008), “Giải pháp vượt rào cản môi trường cho hàng thủy

sản xuất khẩu của Việt Nam”, tạp chí Thương mại, (23).

[90] Nguyễn Kim Định (2006), “Doanh nghiệp làm thế nào để có thể vượt được

các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế?”, tạp chí kinh tế phát

triển.

[91] Nguyễn Hoàng (2010), “Giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại khi

doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ”, tạp chí

nghiên cứu tài chính kế toán, số 02(79).

[92] Trần Thanh Long (2009), “Ảnh hưởng của rào cản thương mại khi Việt Nam

đã gia nhập WTO”, tạp chí Kinh tế và dự báo,( 18).

[93] Nguyễn Xuân Minh (2011), “Vượt qua rào cản - đẩy mạnh xuất khẩu năm

2011 - 2012”, tạp chí thương mại, ( 26).

[94] Phan Ngọc Trung (2006), “Rào cản thương mại - Thách thức đối với quá trình

hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam”, tạp chí Kinh tế và dự báo, (8).

[95] Trần Quốc Trung (2011),“Giải pháp ứng phó với rào cản kỹ thuật mới trong

xuất khẩu thủy sản”, tạp chí thương mại, ( 27).

160

[96] Gabriel J. Felbermayr · Benjamin Jung “Sorting It Out: Technical Barriers to

Trade and Industry Productivity”, tạp chí Springer Science + Business Media,

LLC 2 4 / 3 / 2009.

[97] Ningchuan Jiang (2008), “Effect of Technical Barriers to Trade on Chinese

Textile Product Trade”, tạp chí International Business Reseach.

[98] Xiaohua Bao và Larry D. Qiu (2010), “Do Technical Barriers to Trade

Promote or Restrict Trade? evidence from China”, Asia Pacific of Accounting

and Econimic, (17).

[99] Các trang website:

- www.tbtvn.org

- www. trade.ec.europa.eu

- www. ustr.gov

- www.jtia.or.jp;

- www.vinatex.com

- www.vietrade.gov.vn

- www.vneconomy.com.n

- www.vietnamtextile.org

- www.vcci.co.vn

- www.ciem.org.vn

- www.trungtamwto.vn

161

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội - 2014