intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ lớp 4 – 5 tuổi B3 trường mầm non Song Mai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ lớp 4 – 5 tuổi B3 trường mầm non Song Mai" được hoàn thành với các biện pháp như: Tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ; Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi; Phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ lớp 4 – 5 tuổi B3 trường mầm non Song Mai

  1. PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ
  2. 2 Như chúng ta đã biết tự phục vụ là một kỹ năng quan trọng, thúc đẩy và giúp trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Đây còn là cơ hội để trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống. Giáo dục và rèn kỹ năng tự phục cho trẻ trong trường mầm non hiện nay là hoạt động được chú trọng trong mỗi nhà trường. Không có kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến trẻ lười biếng, khó khăn khi tham gia các hoạt động tập thể. Tuy nhiên việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ hiện nay chưa được tổ chức thường xuyên, liên tục, chưa kích thích được sự hứng thú và ý thức tự giác của trẻ. Ngoài ra nhiều gia đình còn nuông chiều con quá mức, thường làm thay cho con mọi việc dẫn đến việc trẻ thiếu tự tin trong cuộc sống. Vậy làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho trẻ một cách nhẹ nhàng, thoải mái, hấp dẫn mà lại đạt được kết quả và chất lượng cao nhất? Chính vì những lý do trên mà năm học này tôi lựa chọn: “Biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ lớp 4 – 5 tuổi B3 trường mầm non Song Mai” PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng - Xuất phát từ tình hình thực tế của trường, điều kiện của lớp và khả năng của bản thân trong quá trình tổ chức rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, bản thân tôi nhận thấy có những ưu điểm và hạn chế sau: 1.1. Ưu điểm Nhà trường luôn quan tâm, chú trọng đến các hoạt động rèn kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Được Ban giám hiệu giúp đỡ tạo mọi điều kiện để giáo viên được học tập, rèn luyện tham dự các buổi sinh hoạt của tổ chuyên môn của trường và chuyên đề do Phòng Giáo dục tổ chức. Bản thân tôi có nhiều năm công tác trong nghề luôn năng động, nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ. 1.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế 1.2.1. Giáo viên 2
  3. 3 - Bản thân tôi chưa xây dựng được môi trường trong và ngoài lớp để tạo sự hứng thú cho trẻ trong việc tổ chức rèn kỹ năng tự phục vục, tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng còn mang nặng tính hình thức, áp đặt trẻ. - Bản thân chưa chú trọng việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi dẫn đến kỹ năng tự phục vụ của trẻ còn hạn chế. * Nguyên nhân: Bản thân tôi chưa vận dụng linh hoạt phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong việc dạy trẻ. 1.2.2 Trẻ em - Một số trẻ đầu năm mới ra lớp và được bố mẹ, ông bà chiều chuộng nên không có kĩ năng tự phục vụ. * Nguyên nhân: - Một số trẻ chưa học qua độ tuổi 3-4 tuổi và còn nhút nhát trong các hoạt động tập thể. Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều. - Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin. Trẻ chưa tích cực tham gia vào hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ. 1.2.3 Phụ huynh - Đa số các bậc phụ huynh đều làm nông nghiệp và công nhân không có thời gian dạy dỗ con ở nhà. Chưa hiểu nội dung chương trình Chăm sóc giáo dục trẻ mầm non nên vẫn xem nhẹ việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. * Nguyên nhân - Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, phụ huynh cho rằng con còn nhỏ nên cần được giúp đỡ. Ngoài ra phụ huynh chỉ quan tâm đến hoạt động làm quen với toán, hoạt động tạo hình, hoạt động âm nhạc.... 2. Biện pháp rèn kỹ năng tự phục cho trẻ lớp 4 – 5 tuổi B3 trường mầm non Song Mai. 2.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. 2.1.1. Nội dung
  4. 4 Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp cho trẻ thực hiện kỹ năng tự phục vụ cụ thể: - Xây dựng góc kỹ năng - Bố trí khu vực để đồ dùng cá nhân hợp lý 2.1.2. Cách thức, quá trình áp dụng biện pháp Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ là vô cùng cần thiết. Đây là giai đoạn quan trọng để giúp trẻ có những kĩ năng cơ bản, giúp trẻ chủ động sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn. Hiểu được tầm quan trọng của việc đó tôi đã quan tâm xây dựng môi trường thân thiện, gần gũi với trẻ. Để trẻ học tập tốt thì phải xây dựng môi trường học tập tốt nhất vì môi trường lớp học là nơi trẻ tiếp xúc hàng ngày. Nên ngay từ đầu năm học tôi và đồng nghiệp ở cùng lớp trang trí lớp học chú trọng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Môi trường lớp học có vị trí to lớn trong việc nhận thức của trẻ, là nơi để trẻ tiếp xúc hàng ngày để trẻ học tập và vui chơi. Vì hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Tôi đã chủ động xây dựng góc kỹ năng tự phục vụ phong phú như kỹ năng tết tóc, kỹ năng buộc dây giày, kỹ năng cài khuy áo, kéo khóa áo, đóng cúc áo, đan tết… Trẻ được vui chơi ở góc theo cách thức “ Học bằng chơi, chơi bằng học” Trẻ có nhiều cơ hội thực hành những công việc hằng ngày trẻ đã làm. Trẻ có nhiều lựa chọn và thực hiện các hoạt động, các bài tập theo hứng thú của mình. Tất cả các trẻ trong lớp khi tham gia vào hoạt động góc không phải cùng làm một thứ trong cùng một thời điểm. Trẻ có cơ hội lựa chọn học liệu và hoạt động của trẻ chủ động hơn trong khi chơi. Đồng thời trẻ có thể cùng nhau hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm. 4
  5. 5 Trẻ tham gia chơi góc kỹ năng sống Ngoài ra khu vực rửa tay tôi dán một bảng gồm các bước theo quy trình có hình ảnh minh hoạ cụ thể, dễ hiểu dán trên tường gần vòi rửa tay để khi nào trẻ quên có thể nhìn lên và làm theo đến khi trẻ đạt được 100% theo yêu cầu các bước rửa tay đúng cách. Kỹ năng này cũng là kỹ năng đặc biệt cần thiết trong giai đoạn dịch bệnh hiện nay, làm ngăn chặn dịch bệnh lây lan, đảm bảo an toàn cho sức khỏe của mỗi người. Quy trình các bước rửa tay Tạo môi trường ngoài lớp học để rèn trẻ kỹ năng tự phục vu: Giá để dép (dạy trẻ cởi dép, đi dép, cất dép), khu vực tủ để đồ dùng cá nhân (dạy trẻ cất ba lô, dạy trẻ cất áo vào tủ), phòng ăn (dạy trẻ cách cầm thìa, bát, gấp khăn lại, chuẩn bị giờ ăn …) ->Khu vực để giá dép: Tôi thiết kế ở phía ngoài hành lang cửa lớp, trên mảng tưởng của giá dép tôi dán các bước cởi dép, cất dép đúng quy trình để trẻ thực hiện.
  6. 6 ->Khu vực để tủ đồ dùng cá nhân: Tôi dán ký hiệu riêng của từng trẻ để trẻ cất và lấy ba lô dễ dàng hơn. Khu vực đồ dùng cá nhân của trẻ. 2.1.3. Kết quả áp dụng biện pháp: - Qua biện pháp trên giúp trẻ rèn luyện tính độc lập, biết tự phục vụ bản thân có thêm kỹ năng và biết ngăn nắp, nề nếp hơn. - Qua việc xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học như vậy, tôi thấy trẻ lớp tôi thực hiện đúng thao tác và có kỹ năng thực hiện rất tốt vì thông qua hình ảnh mà giúp nhắc nhở trẻ thực hiện thường xuyên, nhờ đó tạo thành thói quen. - Bản thân tôi được trau dồi kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, ngày càng nắm vững phương pháp và tự tin, sáng tạo trong quá trình giảng dạy. 2.2. Biện pháp 2: Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. 2.2.1. Nội dung biện pháp - Rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. + Hoạt động đón, trả trẻ. + Hoạt động góc. + Hoạt động ngoài trời. + Hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ. + Hoạt động chiều. + Hoạt động trải nghiệm, rèn kỹ năng sống. 2.2.2. Cách thức, quá trình áp dụng biện pháp * Hoạt động đón, trả trẻ: 6
  7. 7 Trong hoạt động đón, trả trẻ tôi vừa giao tiếp với trẻ, với phụ huynh đồng thời cũng quan sát những hành động, kỹ năng của trẻ từ đó có những uốn nắn kịp thời cho trẻ. Ví dụ: Trong giờ đón trẻ, lớp tôi có trẻ đến lớp cất dép và cất ba lô lên giá nhưng không đúng, ba lô để xộc xệch trong tủ, giày dép chiếc trái, chiếc phải không ngay ngắn. Đối với trường hợp như vậy tôi đã xử lý như sau: Tôi đã lại gần trẻ nhắc nhở: Con để chưa đẹp rồi, con để lại đi. Sau đó tôi hỏi thêm con nói cho cô biết các bước cất ba lô, dép đúng quy định nào! Sau khi trẻ nói xong cô bổ sung và nhắc lại các bước để trẻ nhớ và cho trẻ làm lại. Cô giải thích cho trẻ việc trẻ cất không đúng sẽ làm cho lớp học không được đẹp. Giờ trả trẻ: Tôi cho trẻ thực hiện các kỹ năng như: Sửa lại quần áo, đầu tóc cho gọn gàng, sạch sẽ trong thời gian chờ đợi bố mẹ đến đón. Ngoài ra tôi còn rèn trẻ kỹ năng biết cất ghế đúng vị trí khi ra về. * Hoạt động góc: Vui chơi – nhất là trò chơi phân vai chính là một hoạt động phản ánh thực cuộc sống xã hội thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những gì mà mình thích chứ không phải là những gì người khác ép buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất hiện ở trẻ sự tích cực, tự nguyện. Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thấn. Chơi là để học hỏi làm người là để phát triển nhân cách một cách toàn diện. Với những ý nghĩ to lớn đó, có thể khẳng định rằng: Chơi cũng là cách để rèn luyện và phát huy khả năng tự lập. Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể hiện khả năng tự lập của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải quyết lấy mọi tình huống, chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của ai. Cũng chính vì thế mà khi trẻ tham gia hoạt động góc, tôi là người tạo tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, trẻ tự chơi, tự khám phá và tôi chỉ giúp đỡ trẻ khi thật sự cần thiết. Khi trẻ chơi xong trẻ tự cất dọn đồ dùng, đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định.
  8. 8 Hoạt động góc là hoạt động mà trẻ mầm non rất thích thú. Ở các góc chơi trẻ thể hiện các vai chơi, đóng làm người lớn bắt chước làm những công việc của người lớn. Cũng chính tại hoạt động chơi góc trẻ sẽ “bộc lộ” sự sáng tạo được những kinh nghiệm của bản thân. Ví dụ: Trong chủ đề “Nghề nghiệp” có nhiều góc chơi, trong mỗi góc lại có nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cô giới thiệu các góc chơi, nhiệm vụ của từng vai chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn góc phân vai, có trẻ chọn góc xây dựng… Được đóng vai bố mẹ, anh, chị bế em, chải tóc cho em, cài cúc áo, đi tất, cho em ăn…Từ những hoạt động hàng ngày của người lớn mà trẻ đã vận dụng vào xã hội thu nhỏ thông qua hoạt động góc. Ngoài ra khi trẻ tham gia chơi góc trẻ có kỹ năng bày biện đồ dùng, sắp sếp đồ dùng ngăn nắp gọn gàng. Trẻ sắp xếp đồ chơi ngăn nắp, gọn gàng. * Hoạt động ngoài trời: Hoạt động ngoài trời là hoạt động trẻ được tự do hòa mình với thiên nhiên, với môi trường xung quanh. Thông qua hoạt động ngoài trời, tôi cung cấp cho trẻ những kỹ năng giữ vệ sinh chung, không vứt rác bừa bãi, nhặt rác đúng nơi quy định, nhặt lá, tưới cây...trong vườn trường.Từ đó tôi đánh giá được kỹ năng của trẻ đã đạt được trong thực tế khi được cô hướng dẫn. Trong quá trình chơi và hoạt động tự chọn, nhắc nhở trẻ biết bảo quản, giữ gìn đồ chơi, thu dọn, cất đồ dùng, đồ chơi vào đúng nơi quy định. Khi vào lớp, yêu cầu trẻ tự cất giày dép 8
  9. 9 đúng nơi quy định, tự rửa tay, lau mặt, nghỉ vài phút để chuẩn bị cho hoạt động tiếp theo. Ví dụ: Giờ hoạt động ngoài trời. + Chủ đề nhánh “Một số nghề phổ biến trong xã hội” (Trò chuyện về bác lao công). + Trò chơi vận động: Chuyền bóng. + Chơi tự do: Chơi với đồ chơi ngoài trời, phấn, lá cây. Tôi cho trẻ ra sân để tham gia hoạt động, tôi cùng trẻ trò chuyện về công việc, dụng cụ lao động của các bác lao công, tôi cho trẻ được trải nghiệm cách cầm chổi để quét rát, lá rụng trên sân trường. Từ đó giúp trẻ có kỹ năng quét dọn nhà cửa giúp đỡ bố mẹ và cũng thông qua hoạt động giúp trẻ thêm yêu công việc của các cô, chú lao công, thể hiện lòng biết ơn đối với người lao động. Ngoài ra sau khi tham gia hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ xếp hàng rửa tay và về lớp cất dép hàng ngày trẻ được thực hiện thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ trở thành kỹ năng thuần thục. Trẻ trải nghiệm làm bác lao công * Hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ: Là một hoạt động không thể thiếu ở trường mầm non. Bên cạnh việc giáo dục tri thức, thẩm mỹ, thể chất…cho các con tại trường mầm non, việc giáo dục các con về các vấn đề vệ sinh, ăn, ngủ cũng là việc hết sức quan trọng. Rèn luyện những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo đó là nhiệm vụ rất cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh covid 19 hiện nay thì yêu cầu về vệ sinh cá nhân được đặt lên hàng đầu, đây là yếu tố căn bản nhằm
  10. 10 phòng tránh lây lan dịch bệnh. Việc hiểu và nắm vững kiến thức vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường sống sẽ giúp cơ thể trẻ phát triển tốt, chống đỡ được các bệnh tật, đồng thời hình thành những thói quen cơ bản để giúp trẻ có nhiều nề nếp tốt. Có rất nhiều hoạt động ở trường mà tôi có thể thông qua đó để dạy trẻ kỹ năng vệ sinh. Đó là những điều rất đơn giản, thường gặp hàng ngày như tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, kê bàn, lấy bát, thìa… ->Tôi hướng dẫn cho trẻ kỹ năng rửa mặt, rửa tay trước khi ăn. Lớp tôi có 2 giáo viên, chúng tôi phân công một cô quan sát trẻ lau mặt, rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, cô còn lại chuẩn bị và hướng dẫn một số trẻ trực nhật bữa ăn. Hoặc có hôm tôi phân công một bạn trong lớp quan sát các bạn khác rửa tay, lau mặt và phân công một số bạn trực nhật bữa ăn. Trẻ rửa tay trước khi ăn Sau khi trẻ ăn xong, tôi cho trẻ tự cất ghế về đúng nơi quy định, lấy khăn lau miệng và uống nước, xúc miệng nước muối. Trẻ ăn xong trước, tôi cho trẻ đi giúp cô chuẩn bị gối, chăn. Sau khi trẻ ngủ dậy, trẻ tự đi vệ sinh và lau mặt, rửa tay sạch sẽ, trước và sau khi ăn phụ. Việc rèn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định là nội dung cần thực hiện thường xuyên, trẻ biết đi vệ sinh đúng nơi, đúng chỗ, biết xả nước sau khi đi vệ sinh *Hoạt động chiều: 10
  11. 11 Trong các buổi hoạt động chiều thứ ba và thứ năm hàng tuần là hoạt động vệ sinh và hoạt động lao động, tôi lên kế hoạch trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ hàng tuần các hoạt động như: Soi gương chải tóc, rửa mặt, rửa tay...hay khi thực hiện hoạt động lao động như: Gấp chăn, chiếu, gấp quần áo, lau bàn ghế, lau giá đồ chơi... Tôi cho trẻ xem băng hình giáo dục các kỹ năng tự phục vụ hoặc tôi làm thao tác mẫu cho trẻ xem sau đó cho trẻ thực hiện cùng cô. Việc rèn trẻ các kỹ năng tự phục vụ trong các hoạt động buổi chiều như vậy, tôi thấy trẻ lớp tôi đã có thói quen, nề nếp trong việc tự phục vụ của bản thân, trẻ có ý thức tự lập hơn trong những công việc đơn giản, phù hợp với khả năng của trẻ, từ đó hình thành kỹ năng tự phục vụ. Trẻ gấp chăn, soi gương chải tóc. * Hoạt động trải nghiệm và rèn kĩ năng sống: Hoạt động trải nghiệm là một phương thức học thông qua thực hành, là phương thức sử dụng các hoạt động giáo dục trong đó giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn. Trẻ được tham gia trực tiếp, được chiêm nghiệm và tự lực tích lũy kiến thức, kĩ năng, thái độ tạo thành kinh nghiệm. Vì vậy, để rèn luyện kĩ năng tự phục vụ cho trẻ tôi đã tổ chức cho trẻ các hoạt động trải nghiệm: Vắt nước cam; Sữa chua dầm hoa quả; Rửa cốc, đánh răng…qua hoạt động trẻ được tiếp xúc với công việc tự phục vụ bản thân, trẻ sẽ rất thích thú, tự tin hơn khi học cách tự làm nhũng công việc đó khi ở nhà. Khi tổ chức cho trẻ hoạt động tôi làm mẫu, hướng dẫn trẻ cách làm, để trẻ quan sát, khi trẻ được tự tay trải nghiệm, trẻ sẽ thấy vô cùng thích thú khi tự mình làm việc. Không gì tuyệt vời hơn khi chính trẻ được làm điều mình thích, việc tự
  12. 12 phục vụ không những tạo cho trẻ niềm vui mà còn tập cho trẻ những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống. Trẻ thực hành đánh răng 2.2.3. Kết quả áp dụng biện pháp: - Trẻ hứng thú với hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ. - Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi thực hiện một số kỹ năng đơn giản như: Cất ba lô, giày dép... đúng nơi quy định. - Giáo viên linh hoạt hơn trong tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, tạo sự hứng thú cho trẻ khi tham gia. 2.3. Biện pháp 3: Phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 2.3.1. Nội dung biện pháp - Kết hợp cùng phụ huynh học sinh rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua hình thức tuyên truyền. Trao đổi với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ hoặc tuyên truyền với phụ huynh qua nhóm zalo của lớp. 2.3.2. Cách thức, quá trình áp dụng biện pháp Trước thực trạng đa số phụ huynh chưa quan tâm, chú trọng đến việc dạy và rèn luyện những kĩ năng tụ phục vụ bản thân cho trẻ. Tôi thường xuyên đăng hình ảnh trẻ đang lao động tự phục vụ cho phụ huynh xem thông qua nhóm zalo của lớp kèm theo những lời nhận xét, khen ngợi trẻ đã có nhiều tiến bộ. Đồng thời tôi cũng đề nghị phụ huynh dạy trẻ những kĩ năng tự phục vụ khi ở nhà hay chụp lại và gửi vào nhóm zalo của lớp để nâng cao hiệu quả của việc tuyên truyền. 12
  13. 13 Hình ảnh tuyên truyền rèn kỹ năng cho trẻ trong nhóm zalo lớp Trẻ thực hành kỹ năng tại nhà Ngoài ra thông qua các buổi họp phụ huynh, các buổi đón, trả trẻ tôi tranh thủ trao đổi với phụ huynh về tình hình rèn luyện và sự tiến bộ của trẻ, cùng mong muốn phụ huynh tiếp tục phối hợp cùng giáo viên để rèn luyện cho trẻ những kĩ năng cơ bản thuần thục hơn. Khi trẻ đến lớp với tâm thế mạnh dạn, tự tin hơn và luôn hứng thú tham gia vào các hoạt động và có tính tự lập cao.
  14. 14 Giáo viên và phụ huynh trao đổi trong giờ đón, trả trẻ. 2.3.3. Kết quả áp dụng biện pháp: Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, tạo điều kiện,nhiệt tình kết hợp với giáo viên giúp trẻ hứng thú, tự tin hơn trong các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ. PHẦN C: MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP * Một số văn bản và hướng dẫn làm cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp: - Số: 09/KH-MNSM, ngày 15 tháng 9 năm 2021. Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ Giáo dục mầm non năm học 2021 – 2022 của trường mầm non Song Mai. - Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ Giáo dục mầm non năm học 2021 – 2022 của tổ mẫu giáo 4 – 5 tuổi, trường mầm non Song Mai. * Báo cáo số liệu trước khi thực hiện biện pháp và kết quả sự tiến bộ của trẻ sau khi thực hiện biện pháp. Stt Nội dung Số trẻ Trước Sau khi áp dụng biện pháp nghiên khảo sát khi áp cứu dụng biện pháp 14
  15. 15 Số trẻ Số trẻ Tỷ lệ % Tỷ lệ % đạt đạt Trẻ hứng thú, mạnh dạn, 1 tự tin tham gia vào các 32 23/32 71.9% 30/32 93.8% công việc tự phục vụ 2 Trẻ có tính tự lập cao 32 20/32 62.5% 29/32 90.6% Trẻ có kỹ năng thực hiện 3 32 24/32 75% 30/32 93.8% công việc tự phục vụ PHẦN D: CAM KẾT Tôi cam kết biện pháp trên đây của tôi không sao chép vi phạm bản quyền, các biện pháp đã triển khai thực hiện và minh chứng về sự tiến bộ của học sinh là trung thực. Song Mai, ngày 20 tháng 04 năm 2022 GIÁO VIÊN Nguyễn Thị Khánh Ly PHẦN E. ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT CỦA NHÀ TRƯỜNG 1. Đánh giá, nhận xét của tổ/nhóm chuyên môn ………………………………………...………………………………………… ………………………………………….………………………………………… ……………………………………………………………………………………. TỔ/NHÓM TRƯỞNG CHUYÊN MÔN 2. Đánh giá, nhận xét, xác nhận của Hiệu trưởng
  16. 16 ………………………………………...………………………………………… ………………………………………….………………………………………… ……………………………………………………………………………………. HIỆU TRƯỞNG Nguyễn Thị Mai Phương 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2