intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết" được hoàn thành với các biện pháp như: Sử dụng đồ dùng trực quan hiệu quả cho hoạt động nhận biết; Sử dụng nghệ thuật phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết; Tạo môi trường nhận biết ở mọi lúc mọi nơi;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG MẦM NON QUỲNH ĐÔ XÃ VĨNH QUỲNH *************** BÀI THUYẾT TRÌNH Đề tài: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ NHÀ TRẺ 24 -36 THÁNG TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NHẬN BIẾT Giáo viên: Nguyễn Thị Hà Lứa tuổi: Nhà trẻ NĂM HỌC 2022 - 2023 I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài:
  2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở". Đúng vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ chính là công cụ để trẻ nhận thức và giao tiếp góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho trẻ. Hoạt động nhận biết giúp trẻ phát triển một cách toàn diện: Đức, trí, thể, mỹ và lao động đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Thông qua hoạt động nhận biết giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, hình thành cho trẻ những tư tưởng tình cảm tốt đẹp, góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Lứa tuổi 24-36 tháng lời nói của trẻ còn chưa rõ ràng mạch lạc, vốn từ của trẻ còn ít, đa số các cháu còn nói ngọng, nói lắp, nói không rõ chữ, rõ ý, hay lặp lại các câu nói của cô. Mặt khác các cháu còn nhỏ nên thường có phản ứng chậm chạp hoặc rất khó khăn để hiểu những yêu cầu của cô giáo. Vì bộ máy phát âm của trẻ còn yếu ớt rất nhạy cảm và còn tiếp tục hoàn chỉnh cùng với sự phát triển chung của cơ thể. Thông qua quá trình quan sát ở những giờ hoạt động nhận biết, tôi thấy các cháu rất thích được trò chuyện, thích được giao tiếp và thích được nói nhưng vì ngôn ngữ vốn từ còn hạn chế, các cháu sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều trẻ rất muốn nói những lại không thể diễn đạt được hết những suy nghĩ yêu cầu của mình dẫn đến tình trạng cô hiểu sai ý trẻ, hoặc có một số cô không hiểu trẻ nói gì, không đáp ứng được nhu cầu của trẻ khiến trẻ sợ đến lớp. Ở trường mầm non của tôi hiện nay hình thức tổ chức giờ dạy trẻ nhận biết còn gò bó, khi lên lớp giáo viên chưa chú trọng đến đồ dùng trực quan, sáng tạo hình thức tổ chức, chưa thực sự đầu tư cho giờ dạy. Bản thân tôi là một giáo viên được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Tôi nhận thấy rằng việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm vô cùng quan trọng, không phải là việc làm trong một sớm một chiều mà tôi xác định đây là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tìm tòi sáng tạo mới đem lại kết quả cao. Nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có trình tự, chính xác, giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người, làm phong phú vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết. Vì vậy tôi đã suy nghĩ và lựa chọn đề tài: "Giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết " Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã gặp một số và khó khăn như sau: 1. Khó khăn + Nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ lần đầu đến lớp nên còn nhút nhát, một số trẻ quá hiếu động thường không tập chung chú ý. + Đa số trẻ lần đầu đến lớp, trẻ còn nói ngọng nhiều, phát âm chưa được rõ ràng thậm trí có trẻ chưa biết nói. + Phụ huynh coi nhẹ tầm quan trọng của việc cung cấp các kiến thức cho trẻ nhất là trẻ lứa tuổi nhà trẻ, chưa quan tâm đến các hoạt động giáo dục trên lớp.
  3. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết tập nói như sau: II. CÁC GIẢI PHÁP Giải pháp 1. Sử dụng đồ dùng trực quan hiệu quả cho hoạt động nhận biết. Trong mỗi hoạt động học có chủ định, chuẩn bị đồ dùng trực quan là phần quan trọng nhất tạo nên thành công của giờ học. Đồ dùng trực quan có đẹp hấp dẫn thì mới gây được sự chú ý của trẻ. Tuy nhiên sử dụng đồ dùng trực quan phải đúng nơi, đúng lúc và đúng chỗ nhằm khắc sâu kiến thức cho trẻ. Trong các hoạt động nhận biết tôi dùng màn hình, máy chiếu tạo nên các slide, hoặc sử dụng sa bàn mô hình, các con vật, các loại quả nhồi bông, tranh minh họa, vật thật. Với các đề tài nhận biết tập nói chủ đề: “thực vật, động vật” tôi thường sử dụng đồ dùng trực quan là vật thật để trẻ được cảm nhận sờ cầm nắm, tri giác trực tiếp tạo hứng thú cho trẻ hoạt động từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển rõ rệt. VD: Khi dạy trẻ nhận biết tập nói: “Quả cam” tôi đã suy nghĩ nêu câu hỏi và chọn giáo dục trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn.Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ dẽ chán chóng quên. Vì vậy tôi đã quyết định phải dạy bằng vật thật “Quả cam thật” sau đó mới cho trẻ quan sát tranh. Bởi vì khi trẻ được học bằng quả cam thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác… giờ học sinh động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn. Với các đề tài dạy trẻ bằng giáo án điện tử tôi sử dụng màn hình máy chiếu và làm các slide động để minh họa một cách rõ nét nội dung cần cho trẻ nhận biết. Để có những slide này tôi sử dụng máy ảnh, điện thoại quay những hình ảnh thực bên ngoài sau đó tạo thành các slide phù hợp với nội dung bài dạy. Sau đó chuyển các hình ảnh đã quay được sang máy tình và cắt ghép các hình ảnh tạo thành các slide, đảm bảo tính khoa học thu hút sự chú ý của trẻ Với các đề tài dạy trẻ theo mô hình, tranh ảnh tôi dùng giấy, bìa cứng, thùng cát tông, keo, kéo, màu nước, xốp màu ….Vẽ các loại cỏ, cây, hoa, lá, con vật… lên bìa cứng, thùng cát tông, xốp màu. Sau đó dùng màu nước tô màu phù hợp cho các hình đã vẽ… dùng kéo cắt theo hình đã vẽ và đưa vào sử dụng trong các tiết học nhận biết đã xây dựng Ví dụ: Đề tài" Nhận biết một số đồ chơi trong lớp" chủ đề " Đồ chơi của bé" Tôi dùng thùng cát tông xung quanh bên ngoài chiếc thùng này tôi dùng bút vẽ về những đồ chơi mà trẻ đã nhận biết như: quả bóng, hình khối, búp bê…và kết hợp phát triển thể lực bằng cách phía trong chiếc hộp tôi dán đường rích rắc bằng bìa cứng để cho trẻ chơi trò chơi " Thi thả bóng", từ đó trẻ có thể nhận biết được thả
  4. bóng bắt đầu từ trên và lấy bóng ở dưới. Với hoạt động này tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia, vừa cung cấp đầy đủ vốn từ lại vừa phát triển vận động, nhận thức tư duy của trẻ. Ví dụ: Với các chủ đề " Những con vật đáng yêu", " Cây và những bông hoa đẹp" tôi dùng bìa cứng, vải dạ, keo nến, bông, kim chỉ. Vẽ các loại rau, củ, quả, con vật…dùng kéo cắt theo hình đã vẽ, rồi in lên vải dạ có màu phù hợp với đặc điểm màu sắc của rau, củ, quả, con vật….thành 2 miếng giống nhau, cắt vải dạ theo hình, dùng kim, chỉ màu khâu theo đường viền, khi khâu để lại 1 đoạn nhỏ, lấy bông nhồi vào bên trong rồi khâu lại tạo thành rau củ, quả, con vật. Sau đó lấy keo nến, vải dạ vụn trang trí cho rau, củ quả, con vật thêm sinh động hấp dẫn. Với những đồ chơi này đảm bảo an toàn cho trẻ, màu sắc hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Trong hoạt động nhận biết có thể dạy trẻ nhận biết đặc điểm nổi bật, màu sắc, ích lợi của các loại rau củ quả, con vật… cung cấp kiến thức từ đó làm phong phú vốn từ cho trẻ. Biện pháp 2. Sử dụng nghệ thuật phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết. a. Sáng tạo hình thức gây hứng thú cho trẻ Để tiết học sôi nổi, thu hút trẻ tham gia tích cực thì hoạt động gây hứng thú vào bài là vô cùng quan trọng. Tùy thuộc từng nội dung bài dạy trong từng chủ đề mà tôi lựa chọn cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Vì vậy tôi phải xác định được mục đích, yêu cầu của bài dạy, tôi luôn nghiên cứu kĩ giáo án thì mới vận dụng các phương pháp, biện pháp giảng dạy tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, vui vẻ, kích thích trẻ thích tham gia vào hoạt động của cô. khi dạy trẻ hoạt động nhận biết tôi đã áp dụng một số hình thức gây hứng thú như sau: - Gây hứng thú qua bàn ánh sáng: Ví dụ: Khi dạy trẻ nhận biết “con cá, con cua” chủ đề "Những con vật đáng yêu" tôi đã vào bài bằng cách cho trẻ xem hình ảnh các con vật qua bàn ánh sáng sau đó cho trẻ tạo dáng các con vật sống dưới nước, hỏi trẻ một số câu hỏi về đặc điểm của chúng. Qua đó giúp trẻ nhớ lại tên con vật, đặc điểm nổi bật của con vật đã được làm quen ở mọi lúc mọi nơi, từ đó kích thích trẻ tích cực hào hứng tham gia vào giờ học mà không nhàm chán. - Gây hứng thú qua đồ dùng vật thật: Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết “Củ cà rốt, quả cà chua” chủ đề “ các loại củ quả” tôi cho trẻ chơi trò chơi “đoán tên” và cho trẻ nêu cảm nhận của mình khi được cầm, sờ vào các loại củ quả từ đó cô giáo dẫn dắt vào bài nhẹ nhàng hơn, thu hút tính cực của trẻ tham gia vào giờ học tốt hơn. - Gây hứng thú qua các bài hát hoặc ca dao đồng dao, câu đố:
  5. Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết “Trang phục mùa hè của bé” chủ đề “Mùa hè của bé” tôi có thể dùng bài hát “ Mùa hè đến”. Sau khi trẻ hát xong tôi gợi hỏi trẻ tên bài hát, trò chuyện về nội dung bài hát và dẫn dắt trẻ vào bài. Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết “Những người thân yêu của bé” chủ đề “Mẹ và những người thân yêu của bé” tôi đã sử dụng bài đồng dao “Công cha như núi thái sơn” để dẫn dắt vào bài... Ví dụ: Trong chủ đề: "Những con vật đáng yêu" tôi sử dụng các câu đố để thay đổi hình thức vào bài như: Con gì tai thính mắt tinh Nấp trong bóng tối ngồi rình chuột qua? (Con mèo) Qua cách dạy như vậy tôi thấy rằng: Việc gây hứng thú cho trẻ trong mỗi đầu giờ học là rất quan trọng, bởi vì khi trẻ đã có hứng thú ngay từ đầu thì giờ học sẽ rất sôi nổi thu hút lôi cuốn trẻ, cháu tập trung học tập tốt hơn trong những phần sau. b. Sử dụng câu hỏi gợi mở theo hứng thú say mê của trẻ Khi cho trẻ quan sát, cô không nên nói ngay tên gọi, đặc điểm của đối tượng mà nên đặt thành câu hỏi ngắn gọn, chính xác để hướng sự chú ý của trẻ và phát huy tính chủ động tích cực của trẻ. Tư thế nét mặt, ánh mắt, cử chỉ điệu bộ…của cô để tăng thêm sức biểu cảm cho lời nói, những cử chỉ đơn giản chân thực có nội dung sâu sắc sẽ tăng thêm sức diễn đạt những hiểu biết của trẻ cho đề tài. Vì thế khi dạy trẻ nhận biết tôi rất chú ý đến điều này. Các câu hỏi gợi mở giúp trẻ hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn về đối tượng, từ đó trẻ mới có thể nhận xét bằng cảm nhận thực sự của trẻ và thể hiện sắc thái phù hợp với đối tượng. Câu hỏi phải dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ, tăng dần mức độ từ dễ đến khó và hướng vào việc giúp trẻ cảm nhận được những đặc điểm nổi bật của đối tượng. Ví dụ: Nhận biết “củ cà rốt” + Đây là củ gì? + Củ cà rốt có màu gì? + Cà rốt có đặc điểm gì? c. Thiết kế trò chơi ôn luyện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trò chơi chiếm một vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục ở trường mầm non. Đối với việc dạy nói cho trẻ thì điều này lại càng rõ. Có nhiều trò chơi có thể sử dụng được vào mục đích dạy nói cho trẻ. Đó là các trò chơi luyện phát âm, luyện thở ngôn ngữ, phát triển vốn từ, nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. Sử dụng trò chơi để phát triển vốn từ tạo cho trẻ một trạng thái học nói tự nhiên, là con đường nhanh nhất để trẻ bắt chước, tập nói và ghi nhớ lâu những từ ngữ mới được học. Đây cũng chính là bước kết thúc của tiết dạy trẻ nhận biết vì vậy để kết
  6. thúc một cách nhẹ nhàng hiệu quả mà không máy móc nặng nề tôi đã sử các hình thức khác nhau như: Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động nhận biết tập nói: “Con vật bé yêu” tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Bắt chước tiêng kêu của các con vật” Cô nói Trẻ kêu Con chó gâu gâu Con vịt cạp cạp Con gà trống ò ó o Con gà mái cục cục cục tác Ví dụ: Dạy trẻ nhận biết “ Con thỏ” tôi đã sử dụng trò chơi: Tìm thức ăn cho các con vật hay trò chơi: “nói đúng tìm nhanh”… Ví dụ: Nhận biết “ Tàu hỏa” tôi kết thúc bằng bài hát: “Đoàn tàu nhỏ xíu” và tìm về đúng nhà ga qua đó trẻ được vận động và hát đi dạo chơi tiết học kết thúc một cách nhẹ nhàng mà trẻ không nhàm chán. Từ những phương pháp cơ bản đó tôi thấy trẻ tiếp thu rất tốt về ngôn ngữ và kiến thức của bài dạy. Giải pháp 3. Tạo môi trường nhận biết ở mọi lúc mọi nơi. a. Tạo môi trường trong lớp học Tôi luôn suy nghĩ để tạo ra ở quanh trẻ một môi trường với nhiều hình ảnh bắt mắt nhất là ở các góc chơi của trẻ (Ví dụ: trang trí phù hợp với từng chủ đề) và gợi mở đối với trẻ. Để lớp học lôi cuốn trẻ tôi đã trang trí những hình ảnh ngộ nghĩnh, màu sắc sinh động, bố trí sắp xếp các góc hợp lý: Góc hoạt động cần yên tĩnh xa góc ồn ào, có góc bên trong và góc bên ngoài lớp học, tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương làm những đồ dùng, đồ chơi tự tạo phù hợp với từng chủ đề cho từng góc. Đối với bộ môn Nhận biết tập nói tôi tận dụng hầu hết các không gian trong góc chơi bởi trẻ hoàn toàn có thể lĩnh hội được kiến thức của bộ môn thông qua các hoạt động khác tại các góc hoạt động. Nhất là có kế hoạch đề xuất để tìm biện pháp sao cho tốt nhất trong quá trình dạy cũng như hoạt động với đồ vật của trẻ. Tôi thường xuyên thiết kế, bổ sung thay đổi đồ dùng và trang trí các góc trong lớp học. Tôi trang trí và thay đổi đồ dùng phù hợp với chủ đề mới và theo từng chủ đề nhánh để cung cấp thêm hình ảnh phong phú cũng như khung cảnh lớp luôn mới với trẻ, trẻ được nói đúng, nói đủ câu và nhất là khi trẻ thấy được tranh ảnh này trẻ Được phát triển vốn từ ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ: Khi trang trí lớp theo chủ đề "Những con vật đáng yêu" tôi trang trí các góc các bảng biểu trong lớp bằng những hình ảnh sinh động về những con vật để thu hút sự chú ý tư duy của trẻ.
  7. b. Tạo môi trường ngoài lớp học Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Trường tôi đã tập trung xây dựng môi trường giáo dục ngoài lớp học an toàn, đẹp, hấp dẫn trẻ. Môi trường ngoài lớp học(Khu vui chơi ngoài trời, khu phát triển vận động, góc thư viện) là nơi tạo cơ hội cho trẻ được khám phá, tìm tòi, trải nghiệm, phát triển khả năng sáng tạo. Các khu vực chơi của trẻ ngoài lớp học phải được thiết kế thẩm mĩ, an toàn, thân thiện với trẻ. Đồ dùng, đồ chơi tại các khu vực được để gọn gàng, trong tầm tay trẻ, an toàn khi sử dụng và luôn được thay đổi để kích thích trẻ tham gia hoạt động. Ngoài ra có thể tận dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để trẻ khám phá, đặc biệt là nguồn nguyên liệu tự nhiên và phế liệu. Trường mầm non là môi trường thuận lợi để hình thành các kỹ năng xã hội cho trẻ: Đảm bảo môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, ấm cúng, cởi mở giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường xung quanh. Quan hệ giữa cô và trẻ, người lớn với trẻ phải thể hiện tình cảm yêu thương, thái độ tôn trọng, tin tưởng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của mình. Tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp và thể hiện sự quan tâm của mình đối với mọi người, đối với sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của cô giáo và người lớn phải luôn mẫu mực để trẻ noi theo. Mối quan hệ giữa trẻ với trẻ là quan hệ bạn bè cùng học cùng chơi, đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, đồng cảm, học hỏi lẫn nhau. Giáo viên cần nhạy cảm để tận dụng các mối quan hệ giữa trẻ với trẻ để giáo dục trẻ và có sự thống nhất giữa trường mầm non, gia đình và cộng đồng xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Ví dụ: Gắn ảnh của trẻ ở những nơi để đồ dùng cá nhân như: giá để dép, tủ đồ dùng cá nhân…. Qua đó, giúp rèn trẻ theo nề nếp của lớp biết cất đồ đúng nơi qui định và nhận biết được mình, các các bạn trong lớp. Ví dụ: Tổ chức các hoạt động vui chơi ngoài trời cho trẻ như: cuộc thi kể về chủ đề, tập đóng vai nhân vật, bắt chước hành động của con vật … Bên cạnh đó, cô có thể tạo môi trường bằng cách đưa hình ảnh trong những chủ đề thể hiện trên các mảng tường. Thông qua đó, trẻ có thể nêu lên ý kiến của mình về chủ đề hay các con vật trong các câu chuyện… kết hợp thảo luận cùng cô và các bạn, giúp kích thích khả năng tư duy sáng tạo và phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên, gần gũi. III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng các giải pháp trên để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt qua hoạt động nhận biết cho trẻ 24 – 36 tháng tôi đã thu được những kết quả sau:
  8. 1.Đối với giáo viên: Bản thân có thêm kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động dạy trẻ làm quen và học tốt môn nhận biết tập nói cho trẻ, mạnh dạn, tự tin và sáng tạo khi dạy trẻ, lồng ghép các hình thức để phát triển vốn từ cho trẻ vào mọi hoạt động một cách khoa học để trẻ vừa học lại vừa được chơi. 2. Đối với trẻ: Hứng thú tích cực tham gia vào các giờ học, có tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể trong khi học. Trẻ mạnh dạn, năng động, tự tin và hồn nhiên trong giao tiếp với cô và bạn trong lớp. 3. Đối với phụ huynh: Phụ huynh dần hiểu được tầm quan trọng của việc dạy trẻ nhận biết tập nói từ đó phối hợp với giáo viên rèn cho trẻ được tốt hơn. Cha mẹ người thân cố gắng phát âm đúng, không nên bắt trước những từ trẻ nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay những từ trẻ nói cho trẻ bắt chước được cho đúng. IV. KẾT LUẬN Qua các biện pháp trên, giờ học nhận biết của trẻ trở nên sinh động, thoải mái, trẻ học hứng thú và tích cực hơn. Cô và trẻ gần gũi nhau hơn, trẻ mạnh dạn, linh hoạt và nhanh nhẹn hơn. Việc giúp trẻ học tốt và hứng thú môn nhận biết tập nói là điều mà giáo viên nào cũng mong đạt được. Vì vậy cần tận dụng các phương pháp, biện pháp, lồng ghép các bộ môn khác sao cho phù hợp và gây được hứng thú với trẻ. Cần cố gắng trao đổi, học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp cũng như của người đi trước và không ngừng luyện tập các bộ môn. Giáo viên cần gần gũi để phát hiện sự sáng tạo của trẻ, khen ngợi , động viên sửa sai kịp thời và tạo môi trường học tốt cho trẻ. Ngôn ngữ có ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện cơ thể trẻ. Trước hết nhận biết tập nói được coi là khả năng tốt nhất để phát triển ngôn . Nội dung nhận biết tập nói cho trẻ mầm non nói trên được thực hiện thông qua giờ hoạt động chính ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy, tôi đã áp dụng và có hiệu quả ở lớp mình nhằm hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, đó là sự phát triển về ngôn ngữ, thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực trong
  9. mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện, vì trẻ em hôm nay là thế giới của ngày mai. Trên đây là một số giải pháp tôi đã áp dụng tại nhóm lớp mình và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những khiếm khuyết rất mong hội đồng khoa học xem xét, nhận xét rút kinh nghiệm cho tôi để đề tài sáng kiến của tôi đạt hiệu quả cao hơn nữa. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 2 tháng 11 năm 2022 NGƯỜI THUYẾT TRÌNH Nguyễn Thị Hà
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2