Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn Làm quen văn học tại trường Mầm non Hoa Hồng
lượt xem 5
download
Sáng kiến kinh nghiệm được nghiên cứu giúp giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới đưa vào bài dạy và biết lựa chọn phương pháp giảng dạy, sáng tạo một cách phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách trọn vẹn. Bồi dưỡng giáo viên thường xuyên và biết đổi mới những phương pháp dạy học theo hướng mới và bổ sung các phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài dạy theo từng chủ đề chủ điểm khác nhau.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn Làm quen văn học tại trường Mầm non Hoa Hồng
- UBND HUYỆN KRÔNG ANA TRƯỜNG MẦM NON HOA HỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN KHỐI CHỒI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN LÀM QUEN VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA HỒNG Lĩnh vực : Chuyên môn Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Đơn vị : Trường Mầm non Hoa Hồng 1
- MỤC LỤC Phần thứ nhất: Mở đầu I. Đặt vấn đề:...................................................................................................3 1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................3 2. Đối tượng nghiên cứu:...................................................................................4 3. Phạm vi nghiên cứu:.......................................................................................4 II. Mục đích ( mục tiêu) nghiên cứu:.............................................................4 Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lí luận của vấn đề:...........................................................................5 II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:................................................................6 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:..............................8 IV. Tính mới của giải pháp:………………....................................................19 V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:....................................................21 Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị I. Kết luận:........................................................................................................23 II. Kiến nghị:.....................................................................................................24 2
- Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, và chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người cho xã hội tương lai, vì đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, ở cái thời điểm ấy tất cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu học ăn, học nói, học ngủ, học chơi.... Mục đích của giáo dục chính là tạo nên những con người mới, con người phát triển toàn diện và hoàn thiện về nhân cách đạo đức, trí tuệ. Cho nên giáo dục mầm non đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Đến trường Mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà còn được giáo dục. Trách nhiệm nặng nề và cao cả ấy tất cả thuộc về cô giáo mầm non, chính giáo viên là người giúp trẻ làm quen với nhiều lĩnh vực khác nhau: Lĩnh vực phát triển nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ. Tuy nhiên để trẻ thực hiện tốt các lĩnh vực khác thì ngôn ngữ của trẻ phải rõ ràng, rành mạch. Lĩnh vực phát triển nào cũng chiếm một vị trí quan trọng nhất định cho sự phát triển toàn diện của trẻ, tuy nhiên làm quen văn học là một môn học được trẻ mầm non rất yêu thích, hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng như: Lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, con người… lòng kính trọng yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như: ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh chị em,... Thông qua hoạt động này trẻ tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm. Thông qua sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ thể hiện được bài thơ diễn cảm, kể lại chuyện sáng tạo phù hợp với các nhân vật trong câu chuyện một cách trọn vẹn. Thông qua văn học giúp trẻ nhận biết được thế giới xung quanh và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Thực tế ở trường Mầm non Hoa Hồng, qua những lần thao giảng, dự giờ, tôi nhận thấy khả năng cảm thụ văn học, ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ đọc thơ chưa diễn cảm, kể chuyện chưa hay, tham gia đóng kịch chưa mạnh dạn, cách thể hiện vai diễn chưa lôi cuốn, kết quả trẻ đạt tương đối thấp so với yêu cầu đề ra. Giáo viên thì chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch cho trẻ, nếu có thì chủ yếu là trong tiết học, còn trong các giờ chơi, các buổi sinh hoạt thì hầu như chưa có. Chưa thực sự đầu tư vào công tác soạn giảng trẻ và áp dụng công nghệ thông tin vào trong các tiết dạy còn hạn chế. Chưa có sự chuẩn bị tốt về các 3
- đồ dùng, dụng cụ cho trẻ tham gia đóng kịch làm cho hoạt động đóng kịch, biểu diễn không thu hút được sự chú ý của trẻ. Sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao. Xuất phát từ những yêu cầu cụ thể của văn học, cho nên dạy trẻ làm quen với văn học không thể thiếu trong chương trình giáo dục trẻ, và vai trò của cô giáo trong quá trình tổ chức là rất quan trọng để truyền đạt đến trẻ một cách hứng thú. Hầu hết giáo viên dạy lớp lá thì có sự đầu tư hơn ở các lớp dưới, giáo viên dạy lố 45 tuổi chưa chú trọng, chưa thật sự quan tâm đầu tư vào các tiết dạy cho trẻ làm quen với văn học. Chính vì thế để tổ chức hoạt động làm quen văn học cho trẻ 45 tuổi đạt được những hiệu quả tốt nhất, nên trong quá trình hoạt động chuyên môn tôi nghiên cứu, tìm ra “Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Hồng”. Đề tài đã được tôi tiến hành nghiên cứu trong 2 năm, nhưng các biện pháp đưa ra trong sáng kiến kinh nghiệm trước chưa mang lại hiệu quả như mong muốn nên tôi tiếp tục lựa chọn để đưa ra cá biện pháp, giải pháp thiết thực và mang lại hiệu quả cao hơn. 2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nhằm nâng cao chất lượng môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Hồng. 3. Phạm vi nghiên cứu Khuôn khổ nghiên cứu : Một số biện pháp bồi dưỡng giáo viên khối chồi nâng cao chất lượng môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Hồng. Đối tượng khảo sát : Giáo viên khối chồi và trẻ 45 tuổi trường mầm non Hoa Hồng. Thời gian : Bắt đầu từ tháng 09 năm 2017 đến tháng 05 năm 2019. II. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu Giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiều biện pháp, giải pháp hay trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen văn học tại lớp mình chủ nhiệm. Giúp giáo viên xây dựng các kế hoạch giáo dục linh hoạt, sáng tạo để nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục môn làm quen văn học . Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát triển khả năng nghe, nói, hiểu ngôn ngữ và hình ảnh nội dung thông qua tác phẩm văn học, đồng thời phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ. Rèn kỹ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ 4 5 tuổi ở các lớp đạt hiệu quả ngày càng cao. Giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới đưa vào bài dạy và biết lựa 4
- chọn phương pháp giảng dạy, sáng tạo một cách phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách trọn vẹn. Bồi dưỡng giáo viên thường xuyên và biết đổi mới những phương pháp dạy học theo hướng mới và bổ sung các phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài dạy theo từng chủ đề chủ điểm khác nhau. Nhiệm vụ của đề tài: Qua đề tài nghiên cứu, giúp cho giáo viên có định hướng phù hợp trong việc xây dựng kế hoạch giảng dạy và lựa chọn phương pháp hoạt động làm quen với văn học có hiệu quả, sát với thực tế phù hợp với tình hình địa phương, tình hình trường, lớp đang công tác. ̉ ̣ ́ ể tạo được sự hứng thú, Giúp giáo viên tim ra cac giai phap, biên phap đ ̀ ́ ́ sáng tạo cho trẻ trong môn làm quen văn học. Giúp trẻ khả năng đọc rõ lời, thể hiện sự khéo léo và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. Nói năng lưu loát, biết sử dụng từ chính xác khi giao tiếp. Góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ...Từ đó trẻ hứng thú khi kê chuyên, ̉ ̣ ̣ ơ. đoc th Giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp của môi trường sống xung quanh trẻ, hình thành cho trẻ kĩ năng tiếp nhận tác phẩm văn học và thể hiện lại tác phẩm văn học một cách sáng tạo. Vận dụng đề tài nghiên cứu này sẽ giúp giáo viên không còn thiếu tự tin trong việc đổi mới cách dạy, cách truyền tải kiến thức cho trẻ, cũng như cách vận dụng linh hoạt các biện pháp, phương pháp để có kết quả tốt nhất trong quá trình hình thành và phát triển tốt ngôn ngữ cho trẻ và biết sử dụng những thiết bị, đồ dùng giảng dạy phù hợp để trẻ trãi nghiệp một cách tốt nhất. II. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận của vấn đề Mục tiêu chiến lược phát triển của Giáo dục mầm non từ nay đến 2020 đã đưa ra quan điểm xác định vị trí của giáo dục mầm non đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách thông qua hệ thống giáo dục quốc dân tạo tiền đề để phổ cập giáo dục tiểu học. Đội ngũ giáo viên trong trường mầm non là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục mầm non, là yếu tố chính quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. Cô giáo là người truyền thụ những tri thức khoa học, sự hiểu biết của môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội đến với trẻ. Hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, chiếm hầu hết thời gian của năm học và khối lượng công việc của giáo viên có tầm quan trọng rất lớn trong nhà trường; quyết định phần lớn chất lượng chuyên môn ở nhà trường là bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên để đáp ứng nhu 5
- cầu cần thiết cho hoạt động học tập của trẻ trong xã hội hiện đại đầy năng động và sáng tạo. Trong trường mầm non môn làm quen văn học là một môn nghệ thuật ngôn từ, phản ánh đầy đủ hiện thực khách quan bao la rộng lớn xung quanh trẻ. Điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên cần phải cố gắng rất nhiều để nắm bắt tích lũy kinh nghiệm chuyên môn thì mới thực hiện hoạt động dạy và học một cách tốt nhất. Văn học giúp cho trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ mà ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của trẻ. Dạy trẻ làm quen văn học giúp trẻ biết yêu quý cái đẹp, yêu quê hương, đất nước, con người. Trẻ em không có điều kiện để tiếp xúc nhiều với cuộc sống một cách trực tiếp do đó kinh nghiệm sống của các em còn ít, trong khi đó văn học là một loại hình nghệ thuật miêu tả sao chép lại hiện thực cuộc sống thu nhỏ của trẻ. Khi trẻ em tiếp xúc với văn học đó cũng là lúc trẻ đến với cuộc sống một cách gián tiếp là lúc trẻ bắt đầu tư duy, trí tưởng tượng sức sáng tạo của trẻ được khởi động và phát triển ngay từ nhứng năm đầu đời ở trường mầm non. Để những tác phẩm văn học nghệ thuật tác động sâu sắc và gây ấn tượng mạnh mẽ đến trẻ, làm cho trẻ hứng thú, thì việc chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi đến lớp của giáo viên là rất quan trọng và cần thiết. Giáo viên cần phân tích và xác định nội dung tư tưởng của tác phẩm, đây là nhiệm vụ của người giáo viên mầm non giáo dục trẻ qua tính cách các nhân vật trong câu chuyện, bài thơ và xác định các hình thức đọc, kể diễn cảm, tìm tòi các phương pháp dạy học hay nhất, làm sao giúp trẻ nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng kể, ngữ điệu, giọng điệu, lời nói của các nhân vật, từ đó giúp trẻ nhận ra ngôn ngữ, ngữ điệu của các nhân vật. Từ đó giúp trẻ mẫu giáo phát triển ngôn ngữ một cách hệ thống. Vì vậy cần chú trọng phát triển toàn diện về ngôn ngữ cho trẻ và văn học chính là phương tiện giúp trẻ hình thành khả năng phát triển ngôn ngữ, văn học đưa trẻ đến với những cái đẹp trong ngôn ngữ, phát huy được tính tích cực và làm giàu vốn từ cho trẻ.Vì vậy là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn của trường mầm non Hoa Hồng tôi nhận thấy được tầm quan trọng trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non, thấy được vai trò và nhiệm vụ của người giáo viên trong việc phát triển những mầm non tương lai của đất nước. Tôi đề ra kế hoạch cần phải làm tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong nhà trường nói chung và bồi dưỡng nâng cao chất lượng môn làm quen văn học nói riêng. II.Thực trạng vấn đề Ưu điểm: Đa số giáo viên nắm vững nội dung, phương pháp và chương trình dạy của từng lứa tuổi. Một số giáo viên đã nắm bắt kịp chương trình giáo dục mầm non mới. Các giáo viên đã trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy cho đồng nghiệp, giáo viên đã biết cách lồng ghép môn làm quen văn học vào các môn học khác một cách hợp lý. Một số giáo viên đã cho trẻ làm quen văn học 6
- ở mọi lúc mọi nơi bằng nhiều hình thức khác nhau. Trẻ biết kể chuyện, đọc thơ theo hướng dẫn của cô giáo. Hạn chế: Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tiết dạy. Chưa thể hiện được nhu cầu dạy học lấy trẻ làm trung tâm, cô chỉ là người hướng dẫn. Giáo viên chưa biết tận dụng được đồ dùng đồ chơi sẵn có để tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen văn học dẫn đến hiệu quả chưa cao. Chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho môn làm quen văn học chưa phong phú, đa dạng để thu hút sự chú ý của trẻ, chưa thực sự chú ý phát huy tính tích cực ở trẻ. Chưa tạo môi trường hoạt động văn học cho trẻ .Việc sử dụng công nghệ thông tin vào bài giảng còn hạn chế, nếu có thì còn sơ sài, chưa có sự đầu tư. Giáo viên chưa có sự sáng tạo trong chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bảng sân khấu, không tạo ra được kịch tính, sự kiện, sự biến. Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên cảm nhận các tác phẩm văn học thơ chuyện còn hạn chế. Chưa khai thác môi trường xung quanh ngay trong lớp để vận dụng hoặc giáo dục cho trẻ . Các thủ thuật đọc kể, chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ vào tiết học. Một số cháu đến lớp còn sử dụng tiếng địa phương, nói ngọng, nói lắp.. và một số cháu là người đồng bào dân tộc thiểu số mới ra lớp lần đầu nên còn hạn chế kỹ năng nghe, đọc, nói ...nên trẻ vẫn còn bỡ ngỡ chưa mạnh dạn trong khi cảm nhận và thể hiện các tác phẩm văn học, khả năng giao tiếp còn nhút nhát, tiếp cận tiếng Việt còn hạn chế. Tổng số giáo viên toàn trường là 15 giáo viên, trong đó số giáo viên dạy khối chồi là 6 giáo viên. * Kết quả giao viên đã đ ́ ạt được: Kêt qua ́ ̉ NÔI DUNG ̣ Đạt Chưa đạt Số GV Tỉ lệ % Số GV Tỉ lệ % Xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp, 3/6 50 3/6 50 linh hoạt, sáng tạo. Các phương tiện dạy học hấp dẫn. Sử 4/6 66 2/6 14 dụng đồ dùng đẹp, khoa học, sáng tạo. Xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ 4/6 66 2/6 14 phong phú, hấp dẫn kích thích trẻ hoạt động. 7
- Khai thác các phương tiện dạy học, 3/6 50 3/6 50 ĐDĐC có hiệu quả. * Kết quả trẻ đã đạt được : NÔI DUNG ̣ KẾT QUẢ Trẻ đạt % Trẻ chưa đạt % Trẻ hứng thú trong tiết làm quen văn 36% 64% học. Khả năng đọc, kể diễn cảm. 40% 60% Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. 42% 58% Kỹ năng kể chuyện sáng tạo. 35% 65% Nguyên nhân chủ quan: Trình độ nắm bắt của mỗi giáo viên chưa có sự đồng đều . Giáo viên chưa chủ động linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ làm quen văn học, các hoạt động chưa có sự nhịp nhàng, còn áp đặt. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào trong các tiết dạy làm quen văn học còn hạn chế. Qua việc tổ chức dự giờ, thao giảng bản thân tôi nhận thấy rằng giáo viên chưa mạnh dạn trong việc đổi mới, cũng như chưa có sự linh hoạt, sáng tạo dẫn đến các tiết học vẫn còn rập khuôn máy móc, cứng nhắc. Vì vậy chưa phát huy hết khả năng của trẻ trong quá trình hoạt động làm quen văn học, môt sô giao viên con h ̣ ́ ́ ̀ ạn chế vê ki năng tô ch ̀ ̃ ̉ ức cac hoat đông lung tung ́ ̣ ̣ ́ ́ khi xử lý tình huống. Giáo viên trong quá trình lên lớp nói nhiều chưa phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ. Giáo viên còn sử dụng giáo cụ trực quan chưa phù hợp, chưa khoa học nên chưa thực sự cuôn hut tre trong các ́ ́ ̉ hoạt động kể chuyện dẫn đến tiết dạy chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân khách quan: Trường hiện tại có 3 điểm, các điểm trường cách nhau khá xa. Cơ sở vật chất hầu như chưa đảm bảo cho chương trình giáo dục mầm non hiện ̣ ̣ ̣ ̣ nay; đô dung dung cu phuc vu cho các ho ̀ ̀ ạt động làm quen văn học chưa thật sự đầy đủ. Hầu hết khi biểu diễn các tác phẩm văn học còn thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm thanh, cảnh trí, trang phục… làm cho hoạt động đóng kịch, biểu diễn không thu hút được sự chú ý của trẻ. Đô dung, đ ̀ ̀ ồ chơi phục vụ cho hoạt động con đ ̀ ơn điêu, màu s ̣ ắc chưa hấp dẫn nên không cuôn hut tre trong ́ ́ ̉ các hoạt động làm quen văn học. 8
- Hai phân hiệu buôn K62 và phân hiệu buôn Cuê đa số học sinh là con em đồng bào dân tộc Êđê khả năng nhận thức của trẻ không đồng đều, trẻ phát âm và nói tiếng Việt chưa rõ trẻ còn rụt rè, nhút nhát. Bên cạnh đó vẫn có một số gia đình do hoàn cảnh quá khó khăn, phải lo cho cuộc sống hằng ngày nên còn thiếu sự chăm sóc và giáo dục của cả bố lẫn mẹ nên ngôn ngữ của nhiều cháu vẫn chưa phát triển hết, một số cha mẹ học sinh nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện các kĩ năng cần thiết để chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một chưa cao, ngại giao tiếp phát âm tiếng Việt. Vì vậy nên tôi thấy cần phải nghiên cứu tìm ra được các giải pháp, biện pháp để khắc phục những tồn tại trong quá trình giảng dạy của giáo viên nhằm đạt được kết quả tốt hơn, làm cho trẻ hứng thú, chú ý vào các hoạt động làm quen văn học hơn trước. Từ đó bản thân tôi nhận thấy cần phải có định hướng giúp giáo viên thay đổi các biện pháp giảng dạy trước đây như đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học, chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, dạy trẻ đóng kịch. Qua những việc làm đó đã có những bước đầu góp phần cho sự thành công trong công tác dạy trẻ làm quen với các tác phẩm văn học và trẻ đã có thể nắm được nội dung và thể hiện được một số tác phẩm văn học quen thuộc và kể diễn cảm một số câu chuyện gần gũi với trẻ. Hướng tới thực hiện chuyên đề giáo dục“ Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm” nên bản thân tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những biện pháp, phương tiện dạy học phù hợp nhằm hướng dẫn giáo viên xây dựng môi trường học tập phong phú, sáng tạo trong và ngoài lớp học bằng nhiều nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương, qua đó trẻ sẽ được vui chơi, trải nghiệm và học tập trong chính môi trường đó. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Đây là một chuyên đề lớn, không kém phần quan trọng trong chương trình Giáo dục mầm non, nên khi thực hiện chuyên đề giáo viên nghiên cứu kĩ càng tài liệu biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân tự tin độc lập sáng tạo hình thành tư duy khả năng ghi nhớ có chủ đích. Giúp giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục sát với tình hình của lớp, nắm vững kiến thức chuyên môn. Biết vận dụng các phương pháp, nội dung phù hợp theo từng chủ đề của các tác phẩm văn học. Giáo viên có khả năng phân tích nội dung, nghệ thuật ngôn từ của từng tác phẩm để truyền thụ kiến thức cho trẻ chính xác, và sống động nhất. Khai thác, sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học một cách khoa học và có hiệu quả . Xây dựng môi trường văn học ở lớp phải hấp dẫn, thu hút trẻ tìm hiểu. 9
- Đưa các giải pháp, biện pháp, cách thức tổ chức cho trẻ hoạt động sao cho đạt hiệu quả nhất, vừa duy trì được hứng thú của trẻ vừa giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ hình thành và phát triển khả năng ghi nhớ và biểu diễn lại các tác phẩm văn học. Thông qua các môn học khác giáo viên hướng dẫn trẻ nhận thức rõ ràng, chính xác ngôn ngữ và khả năng cảm thụ văn học thông qua các bài thơ, câu chuyện được lồng ghép trong các tiết học. Giup tr ́ ẻ tham gia vào các hoạt động tích cực hơn. Trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, khám phá được thế giới xung quanh. Việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen văn học không đơn thuần là đọc một bài thơ, kể một câu chuyện mà ở đó giáo viên truyền tải cho trẻ những hiểu biết về cuộc sống muôn màu, với nhiều màu sắc thú vị, qua đó trẻ cảm nhận những tình cảm yêu thương, ghét, sợ …. , từng bước cung cấp cho trẻ những khái niệm mới và kinh nghiệm sống sau này. * Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn đầu năm cho giáo viên khối chồi. Biện pháp 1 : Xây dựng kế hoạch chuyên môn Kết hợp với tổ khối l ập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn ngay từ đầu năm học, cụ thể theo năm học, từng tháng, học kỳ, chủ đề, từng thời điểm một cách phù hợp tạo điều kiện cho giáo viên tham gia. Xây dựng kế hoạch tổ chức các buổi chuyên đề, hội giảng, thao giảng nhằm giúp giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao trình độ chuyên môn. Các giáo viên tham gia giảng dạy và dự giờ chéo lẫn nhau. Hướng dẫn tổ khối lập kế hoạch họp chuyên môn trong tổ và họp đánh giá sau mỗi tiết dạy để rút kinh nghiệm, trao đổi, thảo luận về mục tiêu, nội dung, phương pháp của môn làm quen văn học để các giáo viên trong khối nắm vững hơn về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động làm quen văn học cho trẻ sinh động hơn, và giúp trẻ hứng thú trong giờ học . Biện pháp 2: Tập huấn chuyên môn đầu năm Lựa chọn những giáo viên cốt cán, tham gia học hỏi tiếp cận về cái mới, có kinh nghiệm, có khả năng truyền đạt và xử lý tình huống sư phạm một cách linh hoạt, sáng tạo… đi tập huấn các buổi chuyên đề do phòng giáo dục hoặc cụm chuyên môn tổ chức, dự giờ học tập kinh nghiệm ở các trường bạn trong tỉnh, huyện để học tập rút kinh nghiệm và tiếp thu những vấn đề mới và về triển khai lại trong tổ để cùng nhau học hỏi. Bên cạnh đó để nắm được khả năng giảng dạy giáo viên và khả năng cảm thụ văn học của trẻ. Vào đầu năm học, tôi lập kế hoạch khảo sát, từ đó phân loại trình độ năng lực của từng giáo viên và sự tiếp thu của từng trẻ để có biện pháp bồi dưỡng phù hợp qua việc khảo sát chất lượng đầu năm. 10
- Có kế hoạch dự giờ, chuyên đề thao giảng tiết dạy mẫu cụ thể cho giáo viên có cơ hội được học hỏi lẫn nhau. Lên kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi chủ yếu là làm rối, mô hình để sử dụng cho các tiết học như : Thơ, kể chuyện, đồng dao, ca dao...sẽ giúp giáo viên sáng tạo hơn, đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng, giúp tiết học có hiệu quả, không gây nhàm chán cho trẻ. * Giải pháp 2: Phát huy vai trò chỉ đạo của tổ trưởng chuyên môn Biện pháp 1: Chỉ đạo tổ chuyên môn điều hành tổ chức, hoạt động của tổ theo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình môn học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và kế hoạch năm học của nhà trường; Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong tổ; Đánh giá, xếp loại và đề xuất khen thưởng, kỉ luật giáo viên thuộc tổ mình quản lý. Chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng Kế hoạch giáo dục bám sát nội dung của từng chủ đề, đưa ra các dự kiến về đề tài của các môn học đặc biệt là môn làm quen văn học cho từng chủ đề trong năm học, hướng dẫn giáo viên dự kiến đồ dùng dạy học cần phải chuẩn bị cho từng môn học . Xây dựng Kế hoạch cụ thể dạy chuyên đề, thao giảng, dự giờ, thường xuyên lên các tiết mẫu cho giáo viên tham gia dự giờ học tập. Biện pháp 2: Xây dựng Kế hoạch cụ thể về sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học phong phú, đa dạng, mang tính mở, kích thích trẻ tham gia hoạt động; Hướng dẫn xây dựng và quản lý việc kế hoạch cá nhân, soạn giảng của tổ viên (kế hoạch cá nhân dạy chuyên đề, thao giảng; soạn giáo án theo phân phối chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng và chương trình khung theo từng độ tuổi, thảo luận các bài soạn khó; viết sáng kiến kinh nghiệm về nâng cao chất lượng dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá,...) Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên trong tổ, giáo viên mới tuyển dụng (đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới kiểm tra, đánh giá; dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng; sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học, ứng dụng CNTT trong dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá). Dự giờ giáo viên trong tổ theo quy định (4 tiết/giáo viên/năm học); Các hoạt động khác (đánh giá, xếp loại giáo viên; đề xuất khen thưởng, kỉ luật giáo viên...). Việc này đỏi hỏi tổ trưởng chuyên môn phải nắm thật rõ về tổ viên của mình về ưu điểm hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy được phân công. * Giải pháp 3: Hướng dẫn giáo viên dùng các thủ thuật trong giờ học Biện pháp 1: Dẫn dắt vào tiết học 11
- Trẻ mầm non việc học của trẻ thông qua các trò chơi, qua các trò chơi mang hình thức học giúp trẻ dễ tiếp thu và hứng thú tham gia vào hoạt động hơn. Giáo viên hiểu được tâm lí của trẻ để lựa chọn những phương pháp tổ chức thích hợp, sáng tạo, linh hoạt. Ở mỗi tiết dạy giáo viên phải biết sử dụng các thủ thuật, hình thức tổ chức khác nhau, gây cho trẻ sự mới lạ. Đặt những câu hỏi cho trẻ phải mang tính chất mở để trẻ được phát huy khả năng tư duy từ đó trẻ tích cực tham gia hoạt động. Qua đó trẻ được khẳng định bản thân, trẻ mạnh dạn trong giao tiếp. Mở đầu vào câu chuyện, bài thơ giáo viên cần phải có thủ thuật dẫn dắt thu hút sự chú ý trẻ để trẻ tập trung vào nội dung mà giáo viên muốn truyền đạt cho trẻ. Ví dụ : Câu chuyện “ Qủa bầu tiên” giáo viên đưa quả bầu ra và đố trẻ quả bầu này có trong câu chuyện nào và sau đó cô dẫn dắt : Để biết được đó có phải là quả bầu bình thường không ? cô mời các bạn lắng nghe câu chuyện “Qủa bầu tiên” nhé ! Bằng cách thủ thuật khác nhau giáo viên có thể lựa chọn cách vào bài hay, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ vào bài dạy. Khi lên một tiết dạy trẻ kể chuyện, đọc thơ việc đầu tiên là giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học, đẹp, phong phú, đa dạng và đặc biệt là phải có sự mới lạ. Ví dụ như: mô hình đa chiều, rối tay, sân khấu, phù hợp theo nội dung bài thơ, câu chuyện, giọng kể nhẹ nhàng, truyền cảm gây sự lôi cuốn của trẻ. Bên cạnh đó giáo viên luôn chú ý đến mức độ nhận thức trẻ lớp mình, từ đó sử dụng hệ thống câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp phù hợp với khả năng trẻ lớp mình nhằm phát triển tính tích cực ở trẻ. Khi đàm thoại với trẻ về bài thơ, câu chuyện hệ thống câu hỏi phải có tính logic, phải thực hiện từ dễ đến khó, từ câu hỏi đơn giản dến phức tạp, giúp trẻ nhớ được tên bài thơ, câu chuyện tên tác giả, hiểu nội dung bài thơ và qua đó trẻ rút ra bài học gì. Từ đó trẻ biết được các nhân vật tốt xấu, nhân vật đại diện cho cái xấu, nhân vật nào đại diện cho chính nghĩa. Mục đích chính của việc đàm thoại là giúp trẻ hiểu sâu nội dung bài thơ, câu chuyện, giúp trẻ nhớ lâu hơn, phát triển tư duy, trí tưởng tượng phong phú cho trẻ. Ví dụ: Khi đàm thoại nội dung câu chuyện, bài thơ giáo viên tổ chức thành nhiều hình thức khác nhau như trò chơi “ ô của bí ẩn” cho trẻ chọn ô cửa và trả lời câu hỏi, sau mỗi câu trả lời, cô tặng quà cho đội có nhiều câu trả lời đúng nhất, tuyên dương khích lệ trẻ kịp thời… Khi cho trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chuẩn bị tranh ảnh đẹp mắt, hoặc có thể chuẩn bị rối tay theo nhân vật để trẻ kể chuyện sáng tạo theo tranh hoặc rối theo sự lựa chọn của trẻ. Ví dụ: Đề tài truyện “Chú dê đen”. Giáo viên chuẩn bị hình ảnh, video câu chuyện, rối tay theo nhân vật, chó sói, dê đen, dê trắng, trẻ có thể kể chuyện sáng tạo với tranh hoặc rối hoặc mô hình theo sở thích của trẻ. phải đảm bảo để trẻ có một không khí thoải mái tự tin để trẻ phát huy hết khả 12
- năng sáng tạo và óc tư duy của mình, cô có thể trợ giúp bằng những gợi ý khi trẻ lúng túng. Để phát huy hết khả năng sáng tạo của trẻ giáo viên khuyến khích để trẻ mạnh dạn đặt tên sáng tạo cho câu chuyện. Gợi ý để trẻ đặt tên phù hợp với nội dung của câu chuyện, khi tự mình đặt cho câu chuyện ấy một cái tên mới là trẻ đã biết tư duy, từ đó làm giàu thêm vốn từ và phát triển được ngôn ngữ cho trẻ. Cô khuyến khích, tuyên dương để trẻ mạnh dạn phát huy được tính tích cực của trẻ. Trẻ cảm nhận tác phẩm văn học có sâu sắc hay không, điều quan trọng nhất là ở cách truyền đạt kiến thức của giáo viên đối với trẻ. Vì vậy giáo viên phải nhập tâm vào tác phẩm văn học khi đó cô giáo mới truyền đạt kiến thức cho trẻ dầy đủ, chính xác và trọn vẹn. Qua đó trẻ sẽ cảm nhận tác phẩm văn học sâu sắc, trẻ nhập vào các vai chơi, các nhân vật trong thơ truyện và thể hiện một cách sinh động, mà các kỹ năng đó muốn trẻ có được thì giáo viên phải thường xuyên luyện tập cho trẻ, không những luyện tập trong tiết dạy mà còn ở mọi lúc mọi nơi. Thường xuyên cho trẻ tham gia trải nghiệm để trẻ thể hiện một cách sinh động, ngôn ngữ của trẻ mạch lạc, phong phú, nhập vai trong các trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, giáo viên cần tập cho trẻ phương pháp quan sát, mô phỏng, tái tạo bằng cách nhắc lại, bắt chước. Rối tay câu chuyện ‘ Nhổ củ cải” Ví dụ: Để tổ chức hoạt động chung làm quen tác phẩm văn học truyện “Nhổ củ cải” giáo viên cho trẻ thể hiện điệu bộ vận động của con chó con, mèo con, chuột nhắt. Cho trẻ lặp đi lặp lại những câu đối thoại. Cô có thể hỏi “ ông già đã gọi bà già như thế nào ?” “ bà già đã gọi cháu gái như thế nào?” cô cho vài trẻ thể hiện như vậy để trong tác phẩm nào trẻ cũng có cơ hội được tham gia dù ít hay nhiều. 13
- Sau khi trẻ hiểu được nội dung câu chuyện, bài thơ thì giáo viên cho trẻ tham gia đóng vai để từ đó trẻ biết nhận xét các nhân vật. Giáo viên là người hướng dẫn trẻ vào vai chơi, trẻ được chọn vai chơi theo ý thích. Giáo viên cho trẻ được phát biểu cảm nghĩ của bản thân khi nhận vai chơi. Chuẩn bị bối cảnh , trang phục cho trẻ đóng kịch là điều rất quan trọng, vì nó sẽ giúp trẻ hứng thú và thích tham gia hoạt động hơn. Thể hiện ngôn ngữ của nhân vật giúp trẻ được trãi nghiệm với những ngôn từ muôn màu, muôn sắc. Trẻ sẽ biết cách chọn lọc những lời hay, ý đẹp trong quá trình giao tiếp của mình. Kết thúc hoạt động giáo viên cho trẻ chơi một trò chơi nhẹ có nội dung phù hợp với nội dung bài thơ, câu chuyện đang học, để tránh sự nhàm chán những trò chơi cũng phải luôn đổi mới, sáng tạo mới có thể thu hút được trẻ tích cực tham gia. Khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với văn học diều quan trọng nhất là giáo viên phải luôn đổi mới hình thức tổ chức, các hình thức không nên đề trùng lập sẽ dễ gây cho trẻ sự nhàm chán. Giáo viên luôn động viên và là người hỗ trợ đắc lực cho trẻ trong hoạt động đóng vai, tạo cho trẻ cảm giác an toàn khi thể hiện ngôn ngữ trước đám đông. Cách dẫn dắt giữa các hoạt động phải linh hoạt, nhẹ nhàng, tự nhiên không áp đặt, gò bó trẻ. Và điều đặc biệt quan trọng là giáo viên phải thân thiện gần gũi trẻ, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái. Kết thúc hoạt động giáo viên cũng cố nội dung bài học bằng các trò chơi sôi động phù hợp với nội dung. Giáo viên phải nhận xét, tuyên dương, động viên trẻ kịp thời, khi trẻ đọc hay, kể chuyện diễm cảm, đóng kịch giỏi. Lưu ý là giáo viên tuyệt đối không chê trẻ, mà phải động viên trẻ bằng các hình thức khác nhau. Tìm cách giúp trẻ yếu hoạt động tốt hơn. Ví dụ: Khi trẻ đọc thơ, kể chuyện chưa diển cảm, chưa đúng nhịp, đọc còn ngọng…thì giáo viên cần quan tâm chú ý giúp trẻ đó luyện tập nhiều hơn, động viên trẻ cố gắng để đọc, kể được tốt như các bạn khác. Khi đọc một bài thơ, kể câu chuyện để chuẩn bị dạy cho trẻ, giáo viên phải hiểu được nội dung, xác định được thể loại thơ, truyện, xác định được nhịp đọc, phải hiểu được tác giả sử dụng nghệ thuật gì? ( so sánh, nhân cách hóa…) Biết được nọi dung bài thơ, câu chuyên nhắn gửi điều gì ? Ví dụ : Bài Thơ : “Em vẽ” Em vẽ Con gà trống Mào đỏ tươi …………… Em Vẽ Nhiều mái trường 14
- Tươi đỏ mái. Với nghệ thuật so sánh tác giả đã vẽ lên trước mắt ta con gà trống, con mèo lười, thật sống động, một con gà mới chỉ được nghe thôi chưa được nhìn, được ngắm mà đã cảm nhận được vẽ đẹp rực rỡ của con gà. Biện pháp 2: Phân tích giọng đọc, kể Để giúp trẻ làm quen với các tác phẩm văn học một cách hứng thú, trước khi dạy tôi hướng dẫn giáo viên nghiên cứu kỹ tác phẩm: phân tích giọng đọc, tập kể diễn cảm để giúp trẻ hiểu được nội dung bài học, giúp trẻ nhìn thấy được các hình tượng nhân vật, khung cảnh, các tình tiết và biết cách đánh giá chúng đúng đắn. Bằng cách đó, trẻ cảm thụ được âm điệu trong ngôn ngữ của thơ ca, chuyện kể.Vì vậy trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, hay các tiết dự giờ trên lớp tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên về các thủ thuật lên lớp, các kỹ năng đọc kể, giọng điệu, ngữ điệu âm thanh để có giọng đọc kể phù hợp. VD: Truyện “ Tích chu” cô giáo cần phải kể bằng giọng êm nhẹ, vừa phải Giọng của bà ấm áp tình cảm, hơi yếu Giọng tích chu hoảng hốt, có tính chất hối lỗi Giọng bà tiên ấm áp, dịu hiền. Giọng của người dẫn chuyện phải nhẹ nhàng, cuốn hút người nghe. VD: kể cho trẻ nghe chuyện “ Nhổ củ cải” Trước khi kể giáo viên đọc kĩ tác phẩm, phân tích giọng của từng nhân vật trong chuyện: Giọng ông già gọi bà già như thế nào!.( giọng chậm rãi, ồm ồm) Giọng bà già gọi cháu gái như thế nào!. Giọng cháu gái nhí nhảnh, hồn nhiên…khi chó con gọi mèo con như thế nào…. Sau khi giáo viên kể cho trẻ nghe chuyện, trẻ thuộc và biết kể lại được câu chuyện diễn cảm, biết thể hiện giọng của từng nhân vật. Biết đóng kịch thể hiện tốt vai của mình. Ví dụ: Bài thơ : “ Bé làm bao nhiêu nghề” Khi đọc giọng điệu câu thơ phải nhẹ nhàng, có cao độ lên xuống nhịp nhàng, có điểm nhấn mạnh theo từng câu thơ. Bé làm bao nhiêu nghề ( giọng ngang) Bé chơi làm thợ nề ( giọng xuống) Xây nên bao nhà cửa ( giọng cao)….. Cô giáo hướng dẫn trẻ đọc thơ diễn đạt, biểu cảm giúp trẻ thích thú hơn và dễ cảm nhận âm điệu, nội dung thể hiện qua bài thơ. 15
- * Giải pháp 4: Hướng dẫn giáo viên xây dựng môi trường văn học, làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, mang tính mở nhằm lôi cuốn trẻ vào tiết dạy. Biện pháp 1: Hướng dẫn giáo viên làm mô hình, rối Cũng như các hoạt động khác trong giáo dục mầm non việc cho trẻ làm quen với văn học luôn luôn phải có sự song song giữa nội dung bài thơ, câu chuyện với hình ảnh minh họa trực quan. Nhằm thu hút sự chú ý của trẻ tăng thêm sức hấp dẫn của câu chuyện bài thơ, giúp trẻ cảm nhận tốt tác phẩm văn học, giờ học đạt kết quả cao. Với tình hình thực tế của nhà trường, tôi thấy việc tạo môi trường cho trẻ làm quen văn học góp phần hình thành ở trẻ khả năng yêu thích cái đẹp ở xung quanh là việc làm hết sức quan trọng và tạo ra môi trường làm quen văn học. Chính vì vậy vào đầu năm học tôi kết hợp với tổ khối đã tiến hành đi kiểm tra việc trang trí của các lớp để xem các lớp trang trí có phù hợp hay không, có nổi bật chủ đề hay không và điều quan trọng là có đẹp và bắt mắt trẻ hay không. Khi kiểm tra các lớp tôi hướng dẫn giáo viên nên giành riêng một khoảng trống có diện tích vừa phải, vừa tầm với trẻ nơi dễ gây sự chú ý của trẻ. Hướng dẫn giáo viên trang trí góc văn học theo nội dung câu chuyện “ Thỏ con đi học ” giáo viên trang trí bằng các nhân vật trong chuyện như thỏ con, thầy giáo hươu, và các bạn....và trang trí thêm cảnh vật xung quanh. Xây dựng môi trường văn học không chỉ trong lớp mà còn ngoài lớp học. Môi trường văn học đa dạng , phong phú sẽ giúp trẻ phát huy khả năng tư duy, sáng tạo. Hiện nay theo chương trình giáo dục mầm non mới áp dụng quan điểm giáo dục “ Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm”, trẻ được học thông qua trãi nghiệm, trẻ được khám phá tìm hiểu, giao tiếp tương tác với bạn bè. Ở góc nghệ thuật giáo viên trưng bày về các loại rối về các nhân vật trong tác phẩm văn học như: Rối tay, rối que, mô hình đa chiều… kết hợp trong giờ hoạt động góc, giáo viên hướng dẫn trẻ cách sử dụng rối, mô hình đa chiều. Được điều khiển các nhân vật theo diễn biến nội dung truyện làm cho trẻ rất thích thú và nhập vai rất tốt vào các tác phẩm văn học. Biện pháp này đã đưa văn học đến gần với trẻ hơn, văn học trở nên gần gũi. Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể nhớ được toàn bộ câu chuyện hoặc thuộc bài thơ liền, vì ở lứa tuổi này trẻ rất dễ nhớ mà mau quên. Hướng dẫn, khuyến khích động viên giáo viên xây dựng môi trường văn học, làm đồ dùng dạy học bằng : Vật thật, mô hình, đạo cụ, trang phục, sân khấu, con rối ( rối tay, rối dẹt, rối que, mô hình đa chiều…). Sau đây là sản phẩm làm đồ dùng dạy học của cô giáo Đặng Thị Diễm Quyên. 16
- Mô hình thế giới động vật Sau khi được tôi hướng dẫn, giáo viên đã tìm tòi học hỏi từ bạn bè đồng nghiệp, tham khảo các trang mạng tạo ra nhiều sản phẩm sử dụng trong các tiết học theo chủ đề. Ví dụ : Chủ đề thế giới động vật, sử dụng cho thơ, truyện theo chủ đề. Qua đó khơi gợi cho trẻ sự thích thú khi được đọc thơ, kể chuyện qua các mô hình, bài thơ : “ Hươu sao” có thể sử dụng mô hình để tạo sự chú ý, thích thú cho trẻ khi được đọc thơ và quan sát hình ảnh minh họa. Ví dụ : Câu chuyện “ Chú dê đen” thì trẻ sẽ thích thú hơn khi cô vừa kể vừa có mô hình khu rừng nơi có chú dê đen, dê trắng và chó sói ở, giúp trẻ hình dung được nơi ở của các con vật sống trong rừng thông qua việc kể chuyện. Mô hình đa chiều câu chuyện “ Nhổ củ cải” Biện pháp 2: Hướng dẫn làm mô hình đa chiều 17
- Để trẻ yêu thích các tác phẩm văn học, hứng thú tham gia vào các hoạt động làm quen văn học giáo viên cần hướng dẫn và khuyến khích trẻ tự tạo hình những nhân vật trong bài thơ, câu chuyện rồi dùng chính những sản phẩm trẻ làm được để dạy trẻ đọc thơ, dạy trẻ kể chuyện, phương pháp này không những giúp trẻ phấn khởi tham gia vào tiết học với những đồ dùng do chính mình tạo ra mà khi tự tay tạo hình những nhân vật trong câu chuyện trẻ hiểu thêm về tính cách nhân vật, dành tình cảm yêu thích những tác phẩm văn học. VD: Bài thơ “Ngày mùng tám tháng ba”, giáo viên vẽ tranh, trẻ giúp cô tô màu bức tranh. Những trẻ khéo tay có thể giúp cô vẽ thêm hoa, thêm lá hướng dẫn trẻ tô màu phù hợp và vẽ thêm chim, bướm.... Hoặc giáo viên vẽ trên bìa cứng, trẻ giúp cô cắt những bông hoa ... Sau đó cô và trẻ cùng làm tranh động cho bài thơ “Ngày mùng tám tháng ba”. Hay một số bài thơ ở chủ đề “ Hiện tượng thiên nhiên” như bài thơ: Sao và trăng, truyện hạt nước tí xíu, thơ Biển của bé, truyện mây và gió. Hướng dẫn giáo viên cho trẻ và cô cùng làm các mô hình theo hình thức trò chơi “ chiếc nón kì diệu” để trẻ được ôn lại các bài thơ một cách hứng thú hơn. Để tiết dạy thật sự hấp dẫn và lôi cuốn được trẻ thì việc chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo là việc không thể thiếu, đồ dùng phải đẹp mắt, mới mẻ, sáng tạo mới thu hút được trẻ. Hướng dẫn giáo viên sưu tầm những nguyên vật liệu mới, tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có như: vải vụn, lõi giấy vệ sinh, báo cũ, rơm khô, đĩa CD cũ, lon bia, hũ nhựa… để tạo ra những đồ dùng phong phú phục vụ cho tiết dạy: VD: Chuẩn bị đồ dùng cho câu chuyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” dùng bao tay củ để làm rối nhân vật, rồi dùng những nguyên vật liệu như bìa cứng, báo cũ, cỏ khô, hột hạt… làm mô hình kết hợp diễn rối khi kể chuyện cho trẻ nghe. Có thể gắn bánh xe và buộc dây để rối có thể di chuyển theo mô hình… Để giúp trẻ có hứng thú khi tham gia hoạt động làm quen văn học, việc cần thiết ở mỗi giáo viên là phải tạo môi trường văn học xung quanh trẻ, giúp trẻ được sống trong môi trường văn học. Để từ đó thường xuyên tiếp cận với các tác phẩm văn học, dần dần hình thành nhu cầu văn học ở trẻ. Ở lớp giáo viên nên chọn góc phòng thoáng, đủ ánh sáng để làm góc văn học cho trẻ, ở đây được trang bị rất nhiều sách về văn học, góc văn học được trang trí đẹp mắt với những tác phẩm văn học do cô và trẻ tự làm. Ví dụ: Giáo viên sưu tầm một số truyện tranh có hình ảnh đẹp và nội dung về văn học như (Chú dê đen, nhổ củ cải, Bác gấu đen…) một số tác phẩm văn học do cô và trẻ cùng làm như (ước mơ của Hưu sao; Cáo, Thỏ và Gà trống …), bằng hình thức trẻ vẽ theo tưởng tượng về nội dung, hoặc giúp cô tô màu tranh đã vẽ sau đó đóng thành sách. Với các bài thơ trong chương 18
- trình học trong chủ đề, cô viết lên bìa lịch và kết hợp một số hình ảnh sưu tầm hoặc là tranh cô tự vẽ. Tất cả sản phẩm do cô, trẻ tạo ra hoặc huy động đều trưng bày ở góc văn học. Những tác phẩm đơn giản do giáo viên và trẻ cùng làm tuy chưa mang tính thẩm mỹ cao nhưng nó thật sự đem lại hiệu quả rất lớn giúp trẻ ghi nhớ những nhân vật trong tác phẩm văn học, đặc điểm của những nhân vật…, yêu thích những sản phẩm do mình làm ra từ đó thích đọc thơ, kể chuyện và tham gia đóng kịch mà tranh, rối minh họa cho bài thơ, câu chuyện đó chính là những sản phẩm của trẻ. * Giải pháp 5: Hướng dẫn giáo viên cho trẻ làm quen văn học thông qua các môn học khác. Biện pháp 1:Hoạt động mọi lúc, mọi nơi Trong mọi giờ học khác đều có thể tích hợp môn làm quen văn học có thể là những bài thơ, đồng dao, câu chuyện đã học hoặc chưa được học, để gây được hứng thú cho trẻ trong các giờ học, văn học luôn là sự lựa chọn mang lại hiệu quả cao. Một bài thơ, ca dao, một câu chuyện nhỏ… đều có thể gây được hứng thú giúp trẻ bước vào tiết học một cách nhẹ nhàng hơn. Ngoài câu chuyện bài thơ được quy định trong chương trình, tôi đã hướng dẫn chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt việc lồng ghép văn học với các môn học khác sao cho phù hợp với chủ đề, chủ điểm. Ví dụ: Khi trẻ tham quan cô cho trẻ đọc bài thơ : Đàn kiến, trẻ vừa đi vừa đọc giúp trẻ nhanh thuộc và dể hiểu nội dung của bài thơ, đàn kiến xếp hàng ngay ngắn, đi thẳng hàng qua đó giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ví dụ: Khi trẻ ăn cơm: Cô giáo cho trẻ đọc bài thơ khi ngồi vào bàn ăn, bài thơ “ Giờ ăn”. Trẻ đọc bài thơ và thông qua bài thơ trẻ rèn được nề nếp trong giờ ăn, ngồi vào bàn, cách cầm thìa, xúc cơm không làm rơi vãi… Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có thể tiến hành ở mọi lúc mọi nơi khi đi dạo, tham quan, hay trong các hoạt động khác ở trường của trẻ… Vào những giờ hoạt động ngoài trời giáo viên có thể cho trẻ đọc một số bài thơ, câu chuyện có liên quan đến hiện tượng thời tiết, hiện tượng thiên nhiên để qua đó trẻ được thực nghiệm và dễ dàng cảm nhận được nội dung của câu chuyện, bài thơ. Ví dụ: Vào mùa hè cho trẻ quan sát bầu trời, giáo viên có thể cho trẻ đọc bài thơ “ông mặt trời”, “ Nắng mùa hè” qua đó cho trẻ biết về nắng nóng của mùa hè và lồng ghép giáo dục trẻ đi học đội mũ, nón. Hoặc là giờ vệ sinh rửa tay của trẻ, giáo viên có thể cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay sạch sẽ” giúp trẻ chú ý hơn trong việc thực hiện vệ sinh cá nhân hàng ngày. 19
- Giờ hoạt động vui chơi giáo viên cho trẻ xem truyện tranh, tập kể chuyện sáng tạo, cho trẻ đọc thơ kết hợp từ và hình ảnh. Trong giờ ngủ trưa, trước giờ đi ngủ giáo viên rèn cho trẻ thói quan đọc bài thơ “ Đi ngủ” hoặc bài thơ “ Ngủ” qua đó trẻ hiêu và có ý thức trong giờ ngủ trưa. Hay ngay trong lúc chờ bàn ăn, giáo viên sưu tầm một số bài thơ cho trẻ đọc nhằm giáo dục về vệ sinh ăn uống cho trẻ. Để gây được hứng thú cho trẻ trong khi trò chuyện có thể kết hợp cho trẻ xem tranh, hình ảnh trên máy tính, hoặc những đoạn video có nội dung phù hợp nhằm để trẻ hứng thú, phát huy tính tích cực của bản thân từ đó phát triển ngôn ngữ. Trong lúc trò chuyện cô đã cung cấp cho trẻ nhiều vốn từ giúp trẻ hiểu nghĩa của câu, nói trọn câu, diễn đạt mạch lạc. Không những trẻ còn tìm hiểu về thế giới xung quanh làm quen với kiến thức mới, giúp trẻ bước vào tiết học một cách dễ dàng. Vì vậy trong lúc trò chuyện với trẻ giáo viên phải nói rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, đủ nghĩa giúp trẻ học nói tốt hơn. Qua thời gian thực hiện của giáo viên tôi nhận thấy các cháu mạnh dạn hồn nhiên hơn trước, rất thích trò chuyện với người lớn. Đặc biệt có một vốn từ rất đáng kể. Biện pháp 2: Thông qua hoạt động có chủ đích Trong hoạt động chung ở các tiết học việc tích hợp môn làm quen văn học cho trẻ là rất cần thiết, giúp trẻ đỡ nhàm chán Trong quá trình trẻ học toán giáo viên có thể sử dụng câu chuyện dẫn dắt trẻ vào hoạt động, từ đó trẻ sẽ hứng thú với tiết học toán và cũng cố được kiến thức câu chuyện mà trẻ được học. Ví dụ: Dạy trẻ Làm quen với toán Chủ đề “Thế giới thực vật – Tết và mùa xuân”. Đề tài: Đếm đến 5, nhận biết các nhóm có số lượng 5, nhận biết chữ số 5. Tích hợp câu chuyện “Nhổ củ cải”, sau khi ôn kiến thức cũ thay vì chuẩn bị sẵn đồ dùng trong rổ cho trẻ, giáo viên kể cho trẻ nghe câu chuyện “Nhổ củ cải” rồi vận động trẻ cùng giúp cô nhổ cũ cải, trẻ cùng cô nhổ đủ 5 cũ cải bỏ vào rổ của mình sau mỗi lần nhổ kết hợp đếm. Câu chuyện đã giúp tiết học trở nên nhẹ nhàng và sinh động hơn. Giờ học: Khám phá khoa học Chủ đề " Một số loại rau". Giáo viên trò chuyện với trẻ về một số loại rau. Trong giờ học tôi hướng dẫn giáo viên nên giáo dục trẻ biết lợi ích của một số loại rau, và dinh dưỡng mà rau cung cấp cho con người. Hình thành cho trẻ về kinh nghiệm sống, giúp cho các giờ học sinh động, hấp dẫn tránh sự nhàm chán vào giờ học giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng. Ví dụ: giờ tạo hình đề tài vẽ theo ý thích, giáo viên có thể gợi ý bằng cách cho trẻ đọc bài thơ “ em vẽ” của nhà thơ Hoàng Thanh Hà… Ví dụ: Môn âm nhạc: Dạy bài hát “Cháu yêu bà” 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 192 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 114 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn