intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non" được hoàn thành với các biện pháp như: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kĩ năng cơ bản cho bản thân để đảm bảo an toàn cho trẻ; Thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ; Đảm bảo an toàn cho trẻ và lồng ghép giáo dục trẻ nhận biết, phòng tránh một số nguy cơ không an toàn mọi lúc mọi nơi;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYÊN THANH TRÌ TRƯỜNG MẦM NON A XÃ NGŨ HIỆP *************** “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO TRẺ NHÀ TRẺ TRONG TRƯỜNG MẦM NON” Lĩnh vực: Giáo dục nhà trẻ Cấp học : Mầm non Tác giả: Đặng Thị Kim Ngân Đơn vị công tác: Trường mầm non A Ngũ Hiệp Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC 2020 – 2021
  2. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do lựa chọn đề tài: Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Thật đúng là như vậy, trẻ em giống như chiếc búp non mới mọc, mềm yếu và dễ bị tổn thương nhất, cần được sự che chở, bao bọc của người lớn. Đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ, trẻ còn chưa hoàn thiện cả về tâm và sinh lý thì việc đảm bảo an toàn cho trẻ càng là vấn đề quan trọng được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo an toàn cho trẻ thì người lớn phải luôn luôn giám sát trẻ trong mọi hoạt động, ngăn ngừa mọi nguy hiểm tiềm ẩn trong môi trường xung quanh trẻ, ngăn ngừa những hành vi không phù hợp xảy ra giữa các trẻ. Tôi nhận thấy trẻ nhà trẻ là những trẻ dễ có nguy cơ xảy ra tai nạn nhất. Vì trẻ mới đi học, mới làm quen với môi trường mới bạn mới. Nhiều trẻ chưa biết xúc ăn hoặc ăn uống khó khăn, có trẻ còn bú bình; nhiều trẻ ăn thì ói, nôn chớ, nhiều trẻ không tự đi vệ sinh được, khả năng tự phục vụ cho bản thân còn kém nên trẻ khó hoà nhập với bạn bè, giờ ngủ không ngủ làm ảnh hưởng đến sinh hoạt chung của nhóm lớp. Một số trẻ hiếu động, không tuân thủ các nội qui của lớp học và bạn bè…Đi nhà trẻ hay mẫu giáo lần đầu là một thử thách rất lớn. Rời nhà, xa bố mẹ suốt ngày, vào một môi trường mới, với những cách sống mới lạ, với nhiều người lạ, bạn lạ, trẻ có cảm giác sâu sắc không được đảm bảo an toàn nữa, thường mất hết năng nổ, co mình lại. Vì vậy đặt địa vị mình là một người phụ huynh khi gửi con đến lớp tôi hiểu rằng phụ huynh mong muốn nhất là con mình sẽ được bảo đảm an toàn tuyệt đối khi đến lớp cả về tinh thần lẫn thể chất, sau đó mới là tham gia vào các hoạt động để phát triển toàn diện. Đáng buồn thay khi mà thực tế hiện nay vẫn còn tình trạng trẻ bị tai nạn thương tích, bị bạo hành, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng ngay tại trường mầm non. Tuy rằng đó chỉ là những con số rất ít những con sâu làm rầu nồi canh và đa phần xảy ra tại các cơ sở mầm non tư thục nhưng vẫn làm giảm lòng tin của phụ huynh khi đưa con gửi đến trường. Có thể kể đến gần đây nhất là vụ cháu bé bị mất ngay trong ngày đầu đến trường tại nhóm lớp tư thục ở Quỳnh Đô và một số vụ khác được đăng tải trên báo đài. Trước tình hình đó là một giáo viên mầm non, tôi luôn băn khoăn, trăn trở phải làm gì, bằng những cách nào để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ ở trường mầm non? 1
  3. Từ những lí do trên, năm học 2020 - 2021 tôi đã nghiên cứu tài liệu và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non”. 2. Thời gian nghiên cứu: Tôi thực hiện đề tài này từ tháng 9 nắm 2020 đến tháng 4 năm 2021. 3. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp để đảm bảo an toàn cho trẻ 24-36 tháng. 4. Phạm vi nghiên cứu: Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng lớp nhà trẻ D1- Trường mầm non A Ngũ Hiệp nơi tôi được công tác năm học 2020- 2021. 5. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu thực hiện tôi đã sử dụng đan xen phối hợp nhiều phương pháp như nghiên cứu lí luận, khảo sát, đàm thoại, quan sát, thống kê toán học. 2
  4. PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận Phòng tránh tai nạn thương tích là một trong những kỹ năng sống vô cùng quan trọng và cần thiết đối với trẻ ở mọi lứa tuổi. Nó giúp trẻ nhận ra những mối nguy hiểm trong tình huống cụ thể, đồng thời nhận thức được việc nên làm và không nên làm phù hợp với hoàn cảnh để giúp bản thân mình an toàn. Đối với trẻ nhà trẻ thì khả năng nhận ra nguy hiểm và phòng tránh nguy hiểm là gần như không có vì vậy vai trò của người giáo viên càng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho trẻ. Để bảo đảm an toàn và phòng tránh các tai nạn thương tích có thể xảy ra cho trẻ thì trước hết chúng ta cần tìm hiểu tai nạn là gì? Tai nạn là một sự việc xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn, do một tác nhân bên ngoài gây nên các tổn thương, thương tích cho cơ thể về thể chất hay tâm hồn của nạn nhân. Đảm bảo an toàn cho trẻ là phòng tránh tai nạn thương tích, phòng tránh tối thiểu những nguy cơ, nguyên nhân dẫn tới tai nạn thương tích, làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của con người. Để đảm bảo an toàn cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải thực sự hiểu trẻ, phải có những phương pháp dạy sao cho trẻ dễ hiểu, dễ tiếp thu, có như vậy mới giúp trẻ dễ khắc sâu trong tâm trí, định hình cho mình những phản ứng phù hợp với mọi tình huống xảy ra hàng ngày. II. Cơ sở thực tiễn Trong năm học này tôi được phân công giảng dạy lớp 24-36 tháng. Sau khi xác định đề tài tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng của lớp mình và nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau: 1. Thuận lợi * Cơ sở vật chất- Trang thiết bị: - Bếp ăn của trường luôn được công nhận bếp ăn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. - Nhà trường đã lắp đặt hệ thống camera đảm bảo an ninh an toàn khi trẻ đến trường. - Nhà trường vẫn thường xuyên thay mới trang thiết bị, đồ dung, đồ chơi. * Giáo viên: - Luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo dục đào tạo huyện Thanh Trì, Ban giám hiệu trường về phòng chống tai nạn thương tích trẻ em. - Ban giám hiệu nhà trường luôn luôn kiểm tra giám sát mọi hoạt động của nhà trường. 3
  5. - Bản thân luôn yêu nghề, mến trẻ và được phụ huynh tin yêu, nhiệt tình ủng hộ, yên tâm gửi con cho đến lớp. *Phụ huynh và trẻ: - Hầu hết trẻ đều là những trẻ được sinh đầu năm. - Trẻ ngoan, có nề nếp, mạnh dạn tự tin khi tham gia các hoạt động. 2. Khó khăn: *Cơ sở vật chất- Trang thiết bị: - Nhà trường vẫn được sửa chữa thường xuyên tuy nhiên do thời tiết và khí hậu thì tường trường học vẫn có chỗ bong tróc sơn, xi măng, gây nguy hiểm cho trẻ nhỏ. - Bàn chưa đồng bộ sao cho phù hợp với độ tuổi trẻ nhà trẻ. * Giáo viên: - Kỹ năng xử lí tình huống còn hạn chế. - Chưa được đào tạo chuyên sâu về phòng chống tai nạn thương tích. * Phụ huynh và học sinh: - Trẻ đến nhập học rải rác, không cùng lúc nên còn khó khăn cho giáo viên thực hiện. - Sức đề kháng của trẻ ở lứa tuổi này còn yếu nên hay bị ốm vặt dẫn tới việc nghỉ học liên tục, khi đó việc rèn trẻ, dạy trẻ càng trở nên khó khăn hơn. - Khả năng giao tiếp của trẻ còn hạn chế nên gặp khó khăn trong việc giáo viên hiểu nhu cầu của trẻ khi ở lớp. - Một số phụ huynh còn lơ là và chưa chú trọng trong việc đảm bảo an toàn cho trẻ, phó mặc trẻ cho ông bà. 3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện Sau khi điều tra tình hình thực tế và tổng hợp số liệu theo 2 tiêu chí đạt và chưa đạt tôi nhận thấy kết quả như sau: Tổng số điều tra: 35 trẻ đạt 100% Khảo sát thực tế 100% trẻ từ đầu năm với tổng số 35 trẻ Tiêu chí Đầu năm Đạt Chưa đạt STT Nội dung Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ % % Trẻ nhận biết và tránh một số nguy 1 cơ không an toàn, hành động nguy 10/35 29 25/35 71 hiểm (leo trèo, sờ vào ổ điện…) 2 Trẻ phân biệt hành vi đúng-sai về an toàn 12/35 34 23/35 66 4
  6. Trẻ biết sử dụng đồ dùng, đồ 3 chơi trong lớp đảm bảo an toàn 13/35 37 22/35 63 Trẻ có ý thức trong khi học và 10/35 29 25/35 71 4 thói quen tốt để đảm bảo an toàn Từ kết quả khảo sát trên, tôi đi sâu nghiên cứu tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất trong việc đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ như sau: III.CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN Để đảm bảo an toàn 100% cho trẻ nhà trẻ khi đi lớp, theo tôi cần đảm bảo an toàn cho trẻ về các mặt: an toàn về thể lực, sức khỏe, an toàn về tâm lí và an toàn về tính mạng. Để đảm bảo an toàn về thể lực, sức khỏe cho trẻ, tôi phối hợp với gia đình và nhà trường chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đầy đủ, vệ sinh cá nhân và phòng tránh bệnh tật cho trẻ. Chất lượng nuôi dưỡng của trường mầm non A Ngũ Hiệp luôn được Ban giám hiệu quan tâm và những đợt kiểm tra bếp ăn đều được các cấp lãnh đạo xếp loại tốt. Đây là một điều kiện thuận lợi để tôi và các giáo viên trong lớp thực hiện tốt việc đảm bảo an toàn về thể lực và sức khỏe cho trẻ. Hàng ngày, tôi chú ý dỗ trẻ ăn hết xuất trong các giờ ăn, luôn thực hiện tốt chế độ vệ sinh cá nhân và phòng tránh bệnh tật cho trẻ theo đúng qui chế nuôi dạy trẻ mầm non. Thực hiện nghiêm túc việc khám sức khỏe và cân đo định kì, theo dõi biểu đồ tăng trưởng của trẻ và có can thiệp kịp thời với những trẻ thừa cân hoặc suy dinh dưỡng. Còn để đảm bảo an toàn về mặt tâm lí và an toàn về mặt tính mạng cho trẻ, tôi thực hiện các biện pháp cụ thể như sau: 1. Biện pháp 1: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kĩ năng cơ bản cho bản thân để đảm bảo an toàn cho trẻ Giáo viên là người trực tiếp chăm sóc trẻ khi ở lớp, vì vậy việc tự học bồi dưỡng kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là rất quan trọng. Hơn ai hết giáo viên, phải là người nắm vững những kiến thức, kỹ năng cơ bản về phòng, tránh và xử lý các tình huống khi tai nạn xảy ra. Nếu không được bồi dưỡng thường xuyên thì không thể có kiến thức và khó xử trí được các tình huống khi tai nạn xảy ra với trẻ. Ngoài việc tham gia đầy đủ vào các buổi tập huấn do nhà trường và phòng giáo dục tổ chức giáo viên còn cần tự nghiên cứu, tìm tòi qua sách, báo, đài, internet,... về cách phòng, chống tai nạn, thương tích cho phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và tình hình thực tế ở địa phương. Tổ chức và tham 5
  7. gia các cuộc thi tìm hiểu về cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ. Thực hiện nghiêm túc và có chất lượng về nội dung giáo dục phòng, tránh tai nạn, thương tích đã được Bộ quy định tại chương trình các môn học. Cần chú trọng việc trang bị kiến thức và hình thành kỹ năng phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ. Giáo viên phải được tập huấn kiến thức và kĩ năng về phòng và xử trí ban đầu một số tai nạn thường gặp như sặc, bỏng, gãy xương... Khi trẻ bị tai nạn phải bình tĩnh xử trí sơ cứu ban đầu tại chỗ, đồng thời báo cho cha mẹ và y tế nơi gần nhất để cấp cứu kịp thời cho trẻ. Bản thân tôi đã tự sưu tầm những sách báo có liên quan đến phòng chống tai nạn thương tích ở trẻ nhỏ như: - Sách: “15 bí kíp giúp tớ an toàn: Cẩm nang phòng tránh tai nạn thương tích” (tái bản 2019)- Nhà xuất bản Kim Đồng- tác giả Nguyễn Hương Linh, Dương Thuỳ Ly - Sách: Phòng ngừa tai nạn thương tích trong gia đình- Nhà xuất bản trẻ- tác giả Phạm Văn Nhân - Báo cáo thế giới về phòng chống thương tích ở trẻ em- WHO 2008 - Bài tuyên truyền phòng chống tai nạn thương tích trong trường mầm non Nguồn: http://mnsonca.longbien.edu.vn - Bài viết "Phòng chống tai nạn thương tích trong trường học" trên trang web của cục quản lí môi trường y tế- Bộ y tế. Tác giả: Đỗ Văn Thành - Cách phòng chống các loại hình tai nạn thương tích- trang điện tử hội y học dự phòng Việt Nam. Nguồn: http:// www.impe-qn.org.vn (Hình ảnh 1: Giáo viên tham gia buổi tập huấn phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ) * Giả định tình huống tai nạn: Cháu bị gãy xương cánh tay - Cách xử trí: Để cánh tay sát thân mình, cẳng tay vuông góc với cánh tay (tư thế co). Nhẹ nhàng đặt băng ở dưới cánh tay của trẻ, đặt điểm ở dưới khuỷu tay. Cho đầu trên của băng vòng qua sau gáy của trẻ, chừa một đoạn ngắn để buộc lại ở khoảng xương đòn ở bên bị thương. Đầu trên của băng vòng qua cổ, buộc đầu băng ở khoảng xương đòn. Cẩn thận đưa đầu dưới của băng lên, sao cho băng nâng đỡ cánh tay đúng mức, buộc cố định nút thắt hay nút bướm. Để nâng đỡ thêm có thể dùng một băng tam giác khác gấp làm ba quấn quanh cánh tay, tránh chỗ bị gãy, để cố định cánh tay. - Sau khi đã sơ cứu cho trẻ xong giáo viên cần báo cho gia đình đồng thời đưa trẻ đến bệnh viện để điều trị. * Giả định trẻ bị hóc (sặc) dị vật đường thở 6
  8. - Dấu hiệu: Trẻ đang ăn, uống hoặc chơi đột ngột ho sặc sụa, thở rít, mặt đỏ, chảy nước mắt; Ngoài ra, trẻ khó thở dội, mặt môi tím tái có thể ngừng thở - Đề phòng dị vật đường thở: Không cho trẻ cầm các đồ chơi quá nhỏ có thể cho vào miệng, mũi. Giáo dục trẻ khi ăn không đùa nghịch hoặc nói chuyện. Không ép trẻ ăn khi trẻ đang khóc. - Trong quá trình xử lý cô cần nhẹ nhàng, trấn an tinh thần để bé không ngọ nguậy có thể gây tổn thương vùng họng. * Tình huống trẻ bị vật sắc nhọn đâm: - Cách phòng tránh: Cất giữ, để trên cao vật dụng sắc nhọn xa tầm với của trẻ; loại bỏ các vật sắc nhọn bằng kim loại, mảnh thủy tinh, gốm, sắt, khỏi nơi vui chơi của trẻ. Cần chỉ dẫn cho trẻ thấy được sự nguy hiểm khi sử dụng hoặc chơi đùa bên cạnh các đồ vật sắc nhọn. Người lớn nên dạy trẻ không chơi các trò nguy hiểm như trèo cây, đấu kiếm, không nên bắt chước người lớn làm công việc có nguy cơ gây thương tích khi không có sự giám sát của người lớn như: gọt hoa quả, thái thịt, khâu vá... - Cô sơ cứu xử lý vết thương do trẻ chạy nhảy bị vật sắc nhọn đâm vào - Cách xử trí: Khi trẻ bị thương tích, nếu vết thương có đất cát, dị vật bẩn có thể dùng nước sạch rửa nhẹ nhàng; sau đó, nên bôi cồn y tế 70 xung quanh vết thương, không được dội cồn trực tiếp vào vết thương vì sẽ gây xót hoặc có thể đẩy các dị vật như đất, cát vào sâu hơn. Nếu vết rách nhỏ, nên dùng băng dính y tế che vết thương để tránh nhiễm trùng. Nếu vết rách rộng và chảy nhiều máu, cần tiến hành băng cầm máu nhanh cho trẻ. Khi băng cầm máu cho trẻ, không được xối rửa, kỳ cọ hay dùng dụng cụ để lấy dị vật ra, nhất là khi vết thương xuyên vào bụng, vào ngực, nách, đùi và mắt. Nếu dị vật quá dài gây khó khăn cho việc di chuyển nạn nhân thì cần dùng phương tiện cắt bớt dị vật sau đó chuyển trẻ tới cơ sở y tế gần nhất. Trên đường di chuyển, người sơ cứu cũng có thể cho trẻ dùng thuốc giảm đau. * Giả định tình huống trẻ bị động vật cắn: - Cách phòng động vật cắn: Không cho trẻ đến gần hoặc trêu chó mèo lạ, không để trẻ chơi gần bụi rậm để đề phòng rắn cắn, ong đốt. Không cho phép trẻ hôn vào miệng thú nuôi và dạy trẻ không được cho tay vào miệng sau khi chạm thú nuôi. - Chăm sóc sức khỏe thú nuôi nhà bạn và thường xuyên đưa chúng đến bác sĩ thú y để kiểm tra, đồng thời giữ cho chúng sạch sẽ, không có ve, bọ chét. - Cách xử trí: Việc cần làm ngay là phải rửa sạch vết thương bằng nước sạch và xà phòng, sau đó phủ lên vết thương miếng vải sạch hoặc băng gạc. Nếu vết 7
  9. thương bị chảy máu, hãy ấn và giữ chặt vết thương trong 5 phút hoặc cho đến khi cầm máu. - Nếu vết thương làm rách da trẻ, bạn cần gọi ngay cho bác sĩ để xác định xem liệu trẻ đã được tiêm phòng uốn ván hay chưa, hoặc những nguy cơ về phơi nhiễm với bệnh dại, hoặc cần đưa trẻ đến phòng khám ngay. Nếu không có gì nguy hiểm, bạn nên bắt hoặc nhốt con vật đã cắn trẻ lại. Bạn không được giết con vật đó mà gọi cảnh sát đến giúp bạn xử lý nó. Nếu động vật đã bị giết, hãy gọi cho nhân viên kiểm soát vật nuôi địa phương (MI) hoặc bác sĩ thú y để tìm cách lây mẫu xét nghiệm kiểm tra dại. Nếu trẻ bị rắn cắn, cần đưa trẻ đến ngay trung tâm cấp cứu gần nhất nếu bạn không biết rõ loại rắn đã cắn trẻ, hoặc không biết nó có phải rắn độc hay không. Bạn nên giữ cho trẻ nghỉ ngơi tại chỗ và không được chườm đá lên vết cắn. Dùng nẹp, nẹp nhẹ vào chỗ bị thương của trẻ và giữ cố định ở vị trí nằm ngang với tim hoặc ở phía dưới tim. Nếu bạn đẽ giết con rắn, hãy cẩn thận đặt nó vào cái túi hoặc hộp và mang nó đến trung tâm cấp cứu để xác định loại rắn. *Giả định trẻ bị chảy máu cam: Khi trẻ bị chảy máu mũi, điều quan trọng cô giáo cần phải bình tĩnh vì lúc đó trẻ sợ hãi, khóc lóc càng khiến máu chảy ra nhiều. Cô giáo có thể hạn chế máu mũi chảy bằng cách để trẻ ngồi dậy, đầu hơi cúi về phía trước, không nên ngả người về phía sau giúp trẻ khỏi nuốt máu mũi vào cổ. - Nếu trẻ đã lớn nên bảo trẻ thở bằng miệng, sau đó dùng tay kẹp chặt 2 bên cánh mũi, ngay đoạn dưới xương sụn mũi trong vòng 5-10 phút. Máu mũi vẫn chảy tiếp có nghĩa là bạn bóp cánh mũi của trẻ chưa đúng chỗ, cần phải bóp lại một lần nữa. - Nếu máu tiếp tục chảy quá 15 phút hoặc khi thấy trẻ đã nuốt quá nhiều máu chảy xuống họng, phải lập tức đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. Kết quả đạt được: Từ những buổi tập huấn rất hữu ích và những tài liệu mà nhà trường cung cấp, cũng như các tài liệu bản thân tự sưu tầm, bản thân tôi đã tự nâng cao được kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích và biết cách xử lý kịp thời các tai nạn không may xảy đến với trẻ. 2. Biện pháp 2: Thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ. Một trong những khái niệm về đồ chơi, thì đồ chơi là một trong những đồ dùng không thể thiếu đối với trẻ nhỏ, đồ chơi cần cho trẻ được ví như cơm ăn nước uống hàng ngày của trẻ. Nếu trong một ngày ở lớp trẻ hoạt động mà không có đồ chơi thì coi như hoạt động đó không thành công, qua đó nói nên tầm quan trọng của đồ chơi là rất cần thiết cho trẻ. Thời gian trẻ được tiếp xúc 8
  10. với đồ chơi trong một ngày là rất nhiều, chính vì vậy, phải thường xuyên loại bỏ những đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ. Theo quy định của nhà trường, giáo viên phải thường xuyên vệ sinh đồ dùng, đồ chơi hàng ngày, hàng tuần để đảm bảo vệ sinh phòng chống dịch bệnh và loại bỏ những đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ. Những đồ chơi đã bị hư hỏng trở nên sắc nhọn rất nguy hiểm. Cơ thể trẻ còn rất non yếu, làn da mỏng manh của trẻ rất dễ bị trầy xước vì thế khi chơi dễ gây ra nguy hiểm cho trẻ như đứt tay, xước da. Vật sắc nhọn làm nguy hiểm đến mắt cũng như chảy máu cơ thể trẻ. (Hình ảnh 2: giáo viên vệ sinh đồ dùng đồ chơi) Những đồ chơi nhỏ như hột hạt ở các góc khi trẻ chơi cô cần chú ý quan sát tránh để trẻ đưa vào miệng, khi chơi xong cô cần cất dọn cẩn thận không để trẻ tự ý lấy chơi. Giáo viên luôn cố gắng sáng tạo ra những loại đồ chơi mới phù hợp với lứa tuổi mà vẫn đảm bảo tính khoa học của hoạt động. Với những đồ chơi hiện nay đa phần là đồ chơi xuất xứ từ Trung Quốc, với nhiều chất liệu độc hại như chì, các chất gây rối loạn nội tiết, gây ung thư... một số là loại nhựa giòn dễ vỡ gây nguy hiểm vì vậy khi chọn lựa đồ chơi cho trẻ giáo viên cần lưu ý chọn cho trẻ đồ chơi có xuất xứ rõ ràng, các thông số về kỹ thuật cũng như chất liệu tạo thành được nhà sản xuất ghi đầy đủ, rõ ràng trên bao bì sản phẩm đảm bảo an toàn cho trẻ khi chơi. Song song với việc loại bỏ đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm tôi luôn cẩn trọng với đồ dùng của cô như: dao, kéo, thước kẻ, súng bắn nếnkhi dùng song phải cất gọn đúng nơi quy định, cất cao khỏi tầm với của trẻ. Thường xuyên kiểm tra lớp, sân chơi để phát hiện các đồ dùng, đồ chơi trong lớp, đồ chơi ngoài trời có nguy cơ gây tai nạn thương tích cho trẻ, có biện pháp loại bỏ, sửa chữa xử lý kịp thời. Tìm tòi, sáng tạo ra những loại đồ chơi mới phù hợp với lứa tuổi mà vẫn đảm bảo tính khoa học của hoạt động. (Hình ảnh 3: Trẻ hoạt động với những đồ dùng tự tạo do cô làm) Cô loại bỏ đồ dung đồ chơi cũ, hỏng không đảm bảo an toàn cho trẻ. Báo ngay với Ban giám hiệu nếu trong lớp có đồ dùng, đồ chơi bị hỏng để thay thế đồ dùng đồ chơi mới ngay đảm bảo an toàn và có đồ chơi cho trẻ. Việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm hàng ngày là việc dễ làm và đơn giản giúp phòng tránh tai nạn thương tích và dị vật đường thở cho trẻ. Kết quả đạt được: Nhờ việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng đồ chơi nguy hiểm giờ đây đồ dùng đồ chơi lớp tôi luôn đảm bảo được an toàn cho trẻ, lớp 9
  11. không có trường hợp nào bị tai nạn do bị hóc, sặc, trầy xước da,.. do đồ chơi hư hỏng. 3. Biện pháp 3: Đảm bảo an toàn cho trẻ và lồng ghép giáo dục trẻ nhận biết, phòng tránh một số nguy cơ không an toàn mọi lúc mọi nơi: Tôi cùng các giáo viên khác thực hiện khẩu hiệu: “Trẻ ở đâu, cô phải ở đó”. Luôn luôn để mắt đến trẻ mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động vì ở tuổi mầm non trẻ hiếu động và luôn muốn khám phá mọi đồ vật xung quanh bằng tất cả khả năng của mình: Mắt nhìn, tay sờ và ngậm vào miệng để nếm thử... Vì thế mà trẻ thường mắc phải các tai nạn về đường hô hấp do hít và nuốt phải các dị vật. Hàng ngày, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ trong lớp, tôi luôn lưu ý các hoạt động như: * Giờ đón, trả trẻ: Khi đón trẻ, tôi chú ý trao đổi với phụ huynh để biết về tình hình sức khỏe của trẻ. Trẻ có sức khỏe bình thường mới được nhận vào lớp. Nếu cháu ốm mà phụ huynh vẫn muốn gửi thì tôi hỏi rõ cách chăm sóc, nếu có thuốc phải gửi nhân viên y tế và xin chữ ký của phụ huynh. Đồng thời tôi kiểm tra xem túi quần, túi áo trẻ để đảm bảo trẻ không mang đến lớp những đồ dễ gây ra tai nạn như: kim băng, ngòi bút, hòn bi, hột, hạt nhỏ,… Nhắc phụ huynh không đeo đồ trang sức đắt tiền cho trẻ, không cho trẻ mặc quần áo có đính hạt cườm hoặc dây buộc tóc có đính hạt. Khi trả trẻ, tôi lưu ý không trả trẻ cho người lạ hoặc trẻ em dưới 10 tuổi chưa đủ trách nhiệm và khả năng bảo vệ trẻ. Trường hợp phụ huynh nhờ người lạ đón, phải liên lạc báo trước với cô giáo tại lớp, khi trao trẻ, tôi cho người đó kí vào sổ nhật kí nhóm lớp, ghi rõ giờ đón, họ tên người đón, quan hệ với phụ huynh học sinh và số điện thoại. Phản ánh rõ cho phụ huynh tình hình của trẻ khi có những bất thường xảy ra cho trẻ trong ngày ở lớp để phụ huynh tiếp tục chăm sóc ở nhà. Nếu gia đình đến đón quá muộn, giáo viên trong lớp phân công cô ở lại trả trẻ chu đáo. * Hoạt động học: Thường ít gây ra tai nạn nhưng đối với các hoạt động sử dụng đất nặn cần chú ý không để trẻ nghịch đất nặn nhét vào tai, mũi của nhau rất nguy hiểm. Không sử dụng các loại chai, lọ đựng thuốc, đựng màu độc hại làm đồ chơi cho trẻ. Giáo viên luôn lồng ghép, tích hợp giáo dục về an toàn cho trẻ trong mọi chủ đề, lồng ghép nội dung phòng tránh tai nạn thương tích vào chương trình giáo dục. 10
  12. Cho trẻ làm quen với những biển cấm, biển báo nguy hiểm, cảnh báo những đồ vật gây nguy hiểm và những nơi nguy hiểm trẻ không được đến gần (Hình ảnh 4: Tranh phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ em). VD: Chủ đề Gia đình: lồng ghép các câu hỏi: “những đồ dùng nào trong gia đình có thể gây nguy hiểm trẻ không được đến gần” (các đồ dùng sử dụng điện, phích đựng nước nóng, dao, kéo...) Chủ đề Giao thông: biển báo giao thông đơn giản, đèn tín hiệu, khi tham gia giao thông các bé cũng phải nhớ đội mũ bảo hiểm.... Chủ đề Trường mầm non: khi chơi đồ chơi phải như thế nào, nếu đưa vào miệng sẽ bị làm sao... Chủ đề Thực vật: Giáo dục trẻ không được leo trèo lên cành cây sẽ bị ngã rất nguy hiểm. * Hoạt động góc: (Hình ảnh 5: Cô bao quát và chơi cùng trẻ) Trẻ nhà trẻ chơi cạnh nhau là chính. Vì vậy, tôi và các giáo viên khác luôn phân công nhau mỗi giáo viên giám sát một góc chơi và chơi cùng với trẻ. Phải có đủ đồ chơi cho mỗi trẻ, tránh trường hợp trẻ tranh giành đồ chơi của nhau, dẫn đến trẻ cấu cắn nhau, đánh bạn. Chuẩn bị dư các đồ chơi để trẻ thay đổi góc chơi mà không lấy đồ chơi của trẻ khác. Đồng thời, hạn chế các hành vi không an toàn của trẻ như: chạy xung quanh lớp, xô đẩy nhau, sử dụng không an toàn các vật liệu. Tôi dùng cách loại trừ các hành vi không an toàn của trẻ trước khi nó xảy ra, bằng cách sắp xếp một môi trường hợp lý sao cho trẻ không thể chạy lung tung trong lớp. Đồng thời làm đổi hướng các hành vi không an toàn của trẻ. Nói cách khác là gây sự chú ý của trẻ đến một việc khác. Ví dụ: trẻ đang chạy lung tung trong lớp, cô bảo trẻ hãy đến góc xếp hình, có mấy khối rất đẹp để xếp ô tô mà chưa ai xếp, con xếp thử xem…Việc tạo cho trẻ một thách thức mới thường làm chuyển các hành vi không an toàn sang hành vi an toàn hơn. Mặt khác, nhắc nhở trẻ không được cho đồ vật vào tai, mũi, miệng, không ngậm, cắn đồ chơi. * Hoạt động ngoài trời: Trong giờ chơi vì ở ngoài trời, trẻ rất ham chơi nên có thể gặp các tai nạn như: Chấn thương phần mềm, rách da, gãy xương...nguyên nhân thường do trẻ đùa nghịch, xô đẩy nhau, dùng que làm kiếm nghịch, đấu kiếm, chọc vào nhau và trẻ có thể vô tình chọc vào mắt gây chấn thương. Ngoài ra, trẻ còn chơi đùa cầm gạch, sỏi, đá ném nhau hoặc chạy nhảy va vào các bậc thềm gây chấn thương. Vì vậy trước khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời cô chú ý đếm trẻ, kiểm 11
  13. tra khu vực sân trẻ quan sát có chủ đích. Giao hẹn sân chơi quy định, phải đảm bảo đó là nơi thoáng mát... Không để trẻ chơi gần các bụi rậm, nơi có tổ ong, tổ kiến để đề phòng rắn cắn, ong đốt, kiến cắn. Loại bỏ các vật sắc nhọn bằng kim loại, mảnh thủy tinh, gốm, sắt, đá, sỏi...khỏi nơi vui chơi của trẻ, vì vậy cô phải luôn bao quát ở bên trẻ để đảm bảo trẻ vui chơi mà vẫn an toàn. Cô kịp thời giải thích ngay cho trẻ về sự nguy hiểm của các vật nhọn khi chơi, đùa nghịch hay sinh hoạt để trẻ có thể ghi nhớ ngay và cẩn thận hơn khi chơi. Ở thang leo, xích đu, cầu trượt cần đặt các miếng thảm gai để khi trẻ tiếp đất được an toàn, không bị trầy xước khi va vào nền bê tông. * Hoạt động ăn: (Hình ảnh 6: Cô bao quát trẻ ăn) Vào giờ ăn trẻ rất hiếu động háu ăn vì thế khi thức ăn mang từ nhà bếp lên còn đang còn nóng cô cần để nguội bớt rồi mới chia về bàn cho trẻ. Kiểm tra thức ăn trước khi cho trẻ ăn, uống. Tránh cho trẻ ăn thức ăn, nước uống còn quá nóng. Không ép trẻ ăn, uống khi trẻ đang khóc, trẻ vừa ăn, vừa cười đùa hoặc khi trẻ đang khóc mà cô cố ép trẻ ăn, uống đều rất dễ gây sặc cho trẻ. Vì thế cô phải để trẻ ăn trong tâm trạng thật thoải mái, không cố ép trẻ Khi ăn cần cho trẻ ăn ở tư thế ngồi, nhắc trẻ ăn từ từ, nhai kỹ. Giáo dục trẻ khi ăn không được vừa ăn, vừa đùa nghịch, nói chuyện dễ bị xặc, nghẹn. Dị vật đường ăn thường gặp là hóc xương, nghẹn nên tôi đã trao đổi phối hợp với tổ nuôi, chế biến những món ăn mềm, xay nhỏ, phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ. Khi cho trẻ ăn các quả tráng miệng nên chon các loại quả không có hạt, nếu có hạt cần chú ý bóc bỏ hạt trước khi đưa lên lớp. Thận trọng khi cho trẻ uống thuốc, đặc biệt là các thuốc dạng viên * Hoạt đông giờ ngủ: Khi trẻ chuẩn bị lên giường giáo viên chú ý xem trẻ còn ngậm thức ăn trong miệng không, kiểm tra tay, túi quần áo xem có vật nhỏ lạ, các loại hạt, kẹo cứng, đồ chơi trên người trẻ tránh trường hợp khi ngủ trẻ trêu ghẹo nhét vào miệng, mũi, tai. Để dị vật rơi vào đường thở gây ngạt thở. Phòng ngủ phải được thông thoáng tránh trường hợp khi trẻ ngủ trẻ hít phải khí độc từ các nguồn gây ô nhiễm không rất dễ bị ngộ độc. Giáo viên luôn bao quát trẻ không để trẻ ngủ lâu trong tư thế nắm sấp xuống đệm, úp mặt xuống gối sẽ thiếu dưỡng khí gây ngạt thở * Giờ chơi tự do trong lớp: 12
  14. Khi chơi trong lớp, trẻ có thể gặp các tai nạn như dị vật mũi, tai do trẻ tự nhét đồ chơi (hạt cườm, con xúc sắc, các loại hạt quả, đất nặn...) vào mũi, tai mình hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Trẻ hay ngậm hoặc chọc đồ chơi vào mồm gây rách niêm mạc miệng, hít vào gây dị vật đường thở, nuốt vào gây dị vật đường ăn. Vì vậy cô không cho trẻ cầm các đồ chơi quá nhỏ, tránh trường hợp trẻ cho vào miệng mũi. Trẻ chơi tự do trong nhóm, giáo viên không cho trẻ chạy, xô đẩy nhau tránh va vào thành bàn, cạnh ghế, mép tủ...có thể gây chấn thương Không nên để trẻ một mình vào nơi chứa nước kể cả xô chậu nước, khi dùng xong giáo viên cần đổ hết nước, úp xô, chậu, đảm bảo các xô, thùng không chứa nước trong nhà vệ sinh. Giám sát khi trẻ đi vệ sinh, khi trẻ chơi gần khu vực có chứa nguồn nước. Kết quả đạt được: Bằng việc thường xuyên giám sát, ở gần trẻ tôi đã loại bỏ được hết những tai nạn có thể xảy ra. Đồng thời trẻ lớp tôi đã nhận biết được một số nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân và biết cách phòng tránh. 4. Biện pháp 4: Sưu tầm, sáng tác các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục trẻ nhận biết và phòng tránh các nguy cơ không an toàn Các bài thơ, truyện, bài hát có tác dụng rất hiệu quả trong việc giáo dục trẻ nói chung và trong trường hợp này cũng không ngoại lệ. Thông qua những bài thơ, truyện, bài hát nhẹ nhàng và tình cảm, trẻ sẽ học về an toàn một cách tự giác, không bị một sức ép hay mệnh lệnh nào bắt buộc. Ví dụ: Phòng tránh trẻ cấu cắn nhau, tôi đã sáng tác bài thơ: “Miệng xinh” Miệng xinh Cái miệng cháu bé xinh Để hát với để chào Chớ có cắn bạn nào Trông chẳng xinh chẳng yêu Phòng tránh trẻ leo trèo, tôi sáng tác bài thơ “Bé ơi nhớ lấy”: Bé ơi nhớ lấy Cầu thang là để bé đi Lan can bảo vệ bé đi an toàn. Trong lớp có ghế, có bàn Bé ngồi cho đúng ấy là bé ngoan. Bé chớ có trèo lan can Sẽ nguy hiểm lắm kẻo mà ngã đau. Chúng mình hãy nhớ bảo nhau Nghe lời cô giáo mọi người đều vui. 13
  15. Để giáo dục hành vi an toàn, vệ sinh cho trẻ, tôi đã sưu tầm các bài thơ: Đi đứng Khi đi em bước nhẹ nhàng Không làm xô ghế động bàn mới ngoan Ra vào em nhớ nhẹ chân Không như lúc ở ngoài sân nô đùa Nhắc nhau mình hãy thi đua Xứng danh là bé cả tuần đều ngoan (Trường mầm non Thành Công – Hà Nội) Giữ nụ cười xinh Răng em mới thật là ngoan Nó không cắn bạn chỉ toàn cười thôi Khi cười hé nở đôi môi Xinh tươi để lộ cả mười cái răng (Anh Đào) Đừng mút tay Bé Hoa mới lạ kì thay Sao lại quen thói mút tay luôn mồm Móng tay có lắm vi trùng Dễ gây đau ốm, bé đừng mút tay (Trường mầm non Đống Đa – Hà Nội ) Để dạy trẻ nhận biết và phòng tránh một số vật dụng nguy hiểm, tôi đã sưu tầm các bài hát “Phích nước nóng”, “Mẹ ơi cô bảo”. Kết quả đạt được: Bằng việc vận dụng các bài thơ, bài hát sưu tầm trên vào trong quá trình giảng dạy, tôi đã giáo dục những hành vi an toàn cho trẻ. Từ đó, giúp trẻ nhận biết và tránh được một số nguy cơ không an toàn cho bản thân trẻ. 5. Biện pháp 5: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh cùng đảm bảo an toàn cho trẻ Ngoài công tác tuyên truyền trên loa đài, khẩu hiệu, tranh áp phích, tờ rơi…về công tác phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ thì công tác tuyên truyền với phụ huynh học sinh là một trong những biện pháp quan trọng. Cần nhắc nhở và tuyên truyền cho phụ huynh thực hiện các biện pháp an toàn cho trẻ, để phòng tránh những tai nạn cho trẻ có thể xảy ra tại gia đình, trên đường đến trường hoặc đón trẻ từ trường về nhà. Tuyệt đối không để trẻ nhỏ đi đón nhau. 14
  16. Vì đa phần phụ huynh rất bận, nên giáo viên thường tranh thủ trao đổi vào giờ đón trả trẻ về cách phòng tránh tai nạn thương tích tại nhà như khuyến khích phụ huynh dán những cảnh báo nguy hiểm ở ổ điện, để những vật dụng gây nguy hiểm lên cao, đúng nơi quy định nhất là các loại dao kéo, phích nước, các loại thuốc…thường xuyên loại bỏ những đồ chơi gây nguy hiểm ở nhà, kiểm tra quần áo trước khi mặc cho trẻ tránh trường hợp có côn trùng bám vào khi phơi lại mặc cho trẻ khiến trẻ ngứa ngáy khó chịu. Giếng nước, bể nước phải xây cao thành và các dụng cụ chứa nước như chum, vại... cần có nắp đậy chắc chắn hoặc khóa cẩn thận. Không bao giờ được để trẻ một mình ở dưới nước hoặc gần nơi nguy hiểm. Nếu gia đình nào có điều kiện nên dạy trẻ tập bơi sớm để phòng tránh đuối nước. Nhắc phụ huynh cẩn thận khi cho trẻ ăn các loại quả có hạt, các loại thạch, kẹo cứng…Điều quan trọng nhất là phải luôn giám sát trẻ để chắc chắn rằng con mình luôn được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Tuy nhiên để việc cung cấp kiến thức được hiệu quả, dễ nhớ nên tôi làm tờ thông báo về một số cách phòng tránh tai nạn thương tích đơn giản ở góc tuyên truyền. Ở đó dán những hình ảnh đẹp, dễ bắt mắt nên được phụ huynh lưu tâm đọc hằng ngày. (Hình ảnh 7: Tờ thông báo bằng hình ảnh ở góc tuyên truyền về một số cách phòng tránh tai nạn) Công tác tuyên truyền phòng tránh tai nạn thương tích với phụ huynh là việc vừa dễ lại vừa khó, dễ vì đây là công việc hàng ngày của giáo viên, khó ở đây là giáo viên phải có những lời nói thuyết phục, biết chọn lọc những nội dung tuyên truyền thiết thực, thu hút được phụ huynh để phụ huynh dễ hiểu và dễ thực hiện. (Hình ảnh 8: cô trao đổi với phụ huynh về việc đảm bảo an toàn cho trẻ) Kết quả đạt được: Biện pháp tuyên truyền kết hợp với phụ huynh tại lớp giúp giáo viên và phụ huynh hiểu nhau hơn, từ đó giúp giáo viên thuận lợi trong việc giáo dục trẻ tránh những nơi nguy hiểm, không an toàn với trẻ. Và cũng yên tâm hơn trong công tác phòng tránh tai nạn tại nhà vì phụ huynh đã có kiến thức về cách phòng tránh tai nạn và họ biết điều gì mình nên làm... Giáo viên phối hợp với phụ huynh là việc làm rất cần thiết tạo cho trẻ một môi trường an toàn về sức khỏe, tâm lí và thân thể IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Sau một năm nghiên cứu tìm tòi, triển khai áp dụng các biện pháp vào việc đảm bảo an toàn cho trẻ. Tôi đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm bổ ích và thu được kết quả rất khả quan như sau: 15
  17. 1. Đối với giáo viên: - Bản thân tôi được trau dồi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ, đặc biệt nhận thức sâu hơn về việc đảm bảo an toàn cho trẻ. Tôi hiểu thêm về đặc điểm tính cách và hoàn cảnh sống của từng trẻ trong lớp để có các biện pháp phù hợp trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. - Xây dựng môi trường lớp học an toàn và không có sự cố nào về thương tích, giáo viên đã biết cách xử trí một số trường hợp nguy hiểm xảy ra ở trẻ. - Sưu tầm được nhiều bài thơ, câu chuyện, trò chơi mới để đưa vào giáo dục trẻ. - Phụ huynh ngày càng tin yêu hơn và yên tâm gửi con đến lớp. 2. Đối với trẻ: Sau khi tiến hành nghiên cứu và áp dụng đề tài “Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non ”, tôi nhận thấy trẻ ở lớp tôi đã được đảm bảo an toàn 100%. - Trẻ đã nhận biết và tránh được một số hành động nguy hiểm - Trẻ đã có nhận thức đúng, sai về an toàn - Trẻ đã biết cách sử dụng đồ dùng đồ chơi một cách an toàn. Điều này cho thấy rằng áp dụng các biện pháp tôi đề ra là rất phù hợp với trẻ. 3. Đối với phụ huynh - Vì làm tốt công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh như vậy nên phụ huynh rất yên tâm tin tưởng khi gửi con và phụ huynh rất đồng tình ủng hộ giáo viên trên lớp với phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ ở trường cũng như ở lớp. - Phụ huynh đã có kiến thức về cách phòng chống tai nạn thương tích và rất tích cực trong việc phối hợp cùng giáo viên đẩm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ mọi lúc mọi nơi. - Phụ huynh có ý thức hơn trong công tác đảm bảo an toàn cho con em mình. 16
  18. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Sau khi đã thực hiện áp dụng các giải pháp tại lớp tôi phụ trách tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt thể hiện trên trẻ. Cụ thể như sau: * Kết quả trên trẻ Số liệu có so sánh đối chứng Kết quả khảo sát số liệu cuối năm của lớp D1 với tổng số 35 trẻ Tiêu chí Đầu năm Cuối năm Đạt Tỷ Chưa Tỷ Đạt Tỷ Chưa Tỷ lệ đạt lệ lệ đạt lệ Nội dung % % % % 1. Trẻ nhận biết và tránh một số nguy cơ 10/35 29 25/35 71 32/35 91 3/35 9 không an toàn, hành động nguy hiểm (leo trèo, sờ vào ổ điện...) 2. Trẻ phân biệt hành vi đúng - sai 12/35 34 23/35 66 31/35 89 4/35 11 về an toàn 3. Trẻ biết sử dụng đồ dùng, đồ chơi 13/35 37 22/35 63 23/35 91 3/35 9 trong lớp đảm bảo an toàn 4. Trẻ có ý thức 10/35 29 25/35 71 31/35 89 4/35 11 trong khi học và thói quen tốt để đảm bảo an toàn Để đảm bảo an toàn cho trẻ là một việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng hàng ngày đối với tất cả mọi người trong gia đình và trong xa hội. Bản thân tôi là một giáo viên mầm non và cũng được coi như người mẹ thứ 2 của trẻ mầm non, vì tôi luôn tìm tòi tạo ra một môi trường vui chơi học tập đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Tôi luôn xác định đây là nhiệm vụ to lớn phải khắc phục mọi khó khăn chuẩn bị cho trẻ về không gian, môi trường, đồ dùng, đồ chơi đủ cho trẻ hoạt động hàng ngày mà vẫn đảm bảo tính khoa học của hoạt động và an toàn tuyệt đối với trẻ. Qua việc thực hiện những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã thỏa mãn với thế giới xung quanh trẻ, qua đó không có sự 17
  19. nguy hiểm đối với trẻ. Những nguy hiểm mà trong khả năng của trẻ có thể phòng tránh qua những bài dạy của cô mà trẻ đã đúc kết và tiếp thu được. II. KHUYẾN NGHỊ 1. Đối với nhà trường - Trang bị tranh, ảnh, pa nô áp phích khổ lớn về các hành vi đảm bảo an toàn cho trẻ, các cách sơ cứu khi có trường hợp khẩn cấp. - Đồng bộ bàn sao cho phù hợp với độ tuổi. 2. Đối với phòng giáo dục -Thường xuyên tổ chức các tiết dạy chuyên đề cho giáo viên bồi dưỡng chuyên môn để chị em giáo viên có cơ hội học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn. - Tổ chức lớp tập huấn nâng cao kiến thức về phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ. Trên đây là đề tài “Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ nhà trẻ trong trường mầm non” của cá nhân tôi. Rất mong được sự nhận xét, góp ý của hội đồng khoa học các cấp để đề tài được hoàn thiện hơn, ứng dụng hiệu quả hơn Xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Hà Nội, ngày tháng năm 2021 Tôi cam kết đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Đặng Thị Kim Ngân MỤC LỤC 18
  20. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………….1 1. Lý do chọn đề tài:........................................................................................... 1 2. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................2 3. Phạm vi nghiên cứu:...................................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu:.............................................................................. 2 5. Thời gian thực hiện.........................................................................................2 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.....................................................................3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................................3 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:.....................................................................................3 1.Thuận lợi:…………………………………………………………………….3 2. Khó khăn:…………………………………………………………………....4 3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện………………………………………….4 III. CÁC BIỆN PHÁP:…………………………………………………………5 1.Biện pháp 1: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kĩ năng cơ bản cho bản thân để đảm bảo an toàn cho trẻ…………………………………………...5 2. Biện pháp 2: Thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm cho trẻ………………………………………………………………………………8 3. Biện pháp 3: Đảm bảo an toàn cho trẻ và lồng ghép giáo dục trẻ nhận biết, phòng tránh một số nguy cơ không an toàn mọi lúc mọi nơi…………………10 4. Biện pháp 4: Sưu tầm, sáng tác các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục trẻ nhận biết và phòng tránh các nguy cơ không an toàn……………………..13 5. 5. Biện pháp 5: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh cùng đảm bảo an toàn cho trẻ……………………………………………………………………14 IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM……………………….15 1. Về phía giáo viên :…………………………………………………………15 2. Về phía trẻ :…………….……………………………………… …………16 3. Về phía phụ huynh:……………………………… ……………………….16 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ…………………………….....17 1. Kết luận:……………………………………………………………………17 2. Khuyến nghị:……………………………………………………………….18 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2