intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

44
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non”, để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn cho trẻ đồng thời rà soát lại những việc đã làm tốt, những việc làm chưa tốt, nhằm đúc kết kinh nghiệm để việc thực hiện công tác này được tốt hơn trong thời gian tiếp theo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non

  1. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập­ Tự do­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO TRẺ  TRONG TRƯỜNG MẦM NON” 1   
  2. Quảng Bình, tháng 12 năm 2016 2   
  3. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập­ Tự do­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO TRẺ  TRONG TRƯỜNG MẦM NON” Họ và Tên:  Nguyễn Thị Minh Loan Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thuỷ 3   
  4. Phần I PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Tai nạn thương tích là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử  vong và gây ra những biến chứng trầm trọng cho trẻ. Vì vậy việc bảo đảm an  toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ  là nhiệm vụ  vô cùng quan trọng  trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ thơ.  Đứa trẻ sinh ra khoẻ mạnh, bình thường là niềm vui, hạnh phúc không chỉ  của gia đình, mà là niềm vui của xã hội. Đảm bảo an toàn cho trẻ  là một trong   những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng không chỉ từng gia đình mà còn là nhiệm vụ  hàng đầu tại các cơ sở giáo dục mầm non. Với ý nghĩa đó ngày 15/4/2010, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã ký  ban hành Thông tư số 13/2010/TT­BGDĐT quy định về xây dựng trường học an   toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích trong cơ sở giáo dục mầm non.  Thông tư  này quy định về xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích  trong cơ sở giáo dục mầm non, bao gồm: Các tiêu chuẩn, nội dung xây dựng, hồ  sơ thủ tục công nhận và tổ chức thực hiện. Thông tư này được áp dụng đối với   nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, trường mẫu giáo, trường mầm non trên khắp  các địa bàn cả nước. Trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích là trường học mà  các yếu tố nguy cơ gây tai nạn, thương tích cho trẻ được phòng, chống và giảm  tối đa hoặc loại bỏ. Toàn bộ trẻ em trong nhà trường được chăm sóc, nuôi dạy   trong một môi trường xanh ­ sạch đẹp và an toàn.  Tai nạn là sự kiện xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn, do tác nhân bên ngoài gây   nên thương tích cho cơ  thể. Thương tích là tổn thương thực thể  của cơ  thể  do   phải chịu tác động đột ngột ngoài khả năng chịu đựng của cơ thể  hoặc rối loạn   chức năng do thiếu yếu tố cần thiết cho sự sống như không khí, nước, nhiệt độ  phù hợp... Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn thương tích thường gặp ở trẻ mầm non: + Các tai nạn do ngã: Chủ yếu do trơn trượt, vấp ngã do đường đi mấp  mô và thường xảy ra ở nơi vui chơi. + Đuối nước: Do trẻ bị ngã vào xô ­ chậu có nước, một số lớp, sân chơi   của trẻ gần ao, hồ, suối không có tường bao quanh cũng là nguyên nhân dẫn tới  trẻ bị đuối nước… + Các tai nạn do ngộ độc: Chủ yếu do ngộ độc thực phẩm, ăn phải quả   độc, thức ăn có dược phẩm độc hại, do uống nhầm thuốc… + Tai nạn do vật sắc nhọn: Thường xảy ra  ở  nơi vui chơi do trẻ  đùa  nghịch xô đẩy nhau, dùng que làm kiếm nghịch, đấu kiếm... Trẻ  vô tình  chọc  4   
  5. vào mắt gây chấn thương mắt rất nguy hiểm. Trẻ  có thể  cầm gạch, sỏi ném  đùa   nhau,   va   vào   các   bậc   thềm   gây   rách   da,   chấn   thương   phần   mềm,   gẫy   xương. + Tai nạn gây ngạt đường thở: Do trẻ tự nhét đồ chơi vào mũi, tai mình  hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Các vật trẻ có thể nhét vào mũi, tai là hạt cườm,  con xúc xắc, các loại hạt, quả, thậm chí có trường hợp trẻ còn nhét cả đất nặn  vào tai. Trẻ  ngậm đồ  chơi vào miệng hoặc hít vào gây dị  vật đường thở, nuốt   vào gây dị vật đường ăn… + Tai nạn thương tích do động vật, côn trùng cắn (chó, rắn, ong… ):  Trong đó chủ yếu  do súc vật cắn và thường xảy ra ở nơi vui chơi, một số ít xảy ra  ở gia đình. + Tai nạn do bỏng: Chủ yếu do trẻ sau khi chơi, khát nước ­ uống nhầm   vào nước nóng, khi ăn, uống, trẻ cũng có thể bị bỏng do thức ăn (canh, cháo, súp  ….)  mang từ nhà bếp lên còn đang rất nóng, nếu  không chú ý mà  ăn, uống ngay  sẽ gây bỏng cho trẻ. Có trường hợp trẻ bị bỏng do cháy, hoả hoạn … +  Tai nạn giao thông: Đối với trẻ mầm non các tai nạn thương tích chủ  yếu do trẻ được đèo bằng xe đạp và bằng xe máy. + Tai nạn điện giật: Chủ yếu do trẻ tay còn ướt, trẻ chạm vào công tắc  điện, bật tắt đèn, nghịch  ổ  cắm, bật tắt lung tung, hoặc nghịch các đồ  điện,  chọc tay, chọc dao, chọc bút...cắm vào ổ cắm. Xuất phát từ những nguyên nhân nêu trên và trên cơ  sở  thực tiễn công tác  chăm sóc giáo dục trẻ trong thời gian qua trường nên bản thân tôi đã lựa chọn đề  tài: “Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non ”, để  nâng cao nhận thức về  tầm quan trọng của công tác đảm bảo an toàn cho trẻ  đồng thời rà soát lại những việc đã làm tốt, những việc làm chưa tốt, nhằm đúc  kết kinh nghiệm để việc thực hiện công tác này được tốt hơn trong thời gian tiếp  theo.  * Điểm mới của đề tài là thực hiện một số giải pháp:  Giáo dục an toàn cho trẻ thông qua một số hình ảnh trực quan. Giáo dục phòng tránh tai nạn thương tích thông qua các hoạt động trong ngày. Phối hợp với phụ huynh chăm sóc, đảm bảo an toàn cho trẻ. Đề tài nhằm giải quyết tình trạng đảm bảo an toàn cho trẻ, góp phần nâng  cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp: Đề tài "Một số biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non"   có thể áp dụng cho giáo viên tại trường tôi đang công tác và có khả năng áp dụng   cho tất cả các trường mầm non trong toàn huyện và toàn tỉnh.  5   
  6.          * Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây: Phần I. Phần mở đầu Phần II. Nội dung Phần III. Kết luận Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất   mong quý đọc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lý, lãnh đạo  ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.  Phần II NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của  vấn đề  mà đề  tài, sáng kiến, giải pháp cần giải  quyết: Khi bước vào thực hiện đề tài này bản thân tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn   sau: 1. Thuận lợi: Bản thân tôi có nhiều năm công tác tại trường nên am hiểu tình hình của  địa phương, nhà trường, phụ  huynh và trẻ  trong lớp. Hiểu được một số  phong  tục   tập   quán   của   người   dân   nơi   đây,  hiểu   và   nói  được   một  số   câu,   từ   địa  phương. Trình độ  chuyên môn đạt Đại học sư  phạm mầm non nhờ  đó kiến thức,  năng lực chuyên môn nghiệp vụ  luôn được xếp loại Tốt; lập trường tư  tưởng   chính trị kiên định, vững vàng; có ý thức chấp hành tốt chủ trương đường lối của  Đảng, pháp luật của Nhà nước; phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt  tình trong công tác, luôn được phụ huynh, đồng nghiệp và nhân dân tín nhiệm.  Được tham gia đầy đủ các đợt bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, các lớp   tập huấn về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.  Ngoài ra, tôi luôn tự  tìm tòi nghiên cứu tài liệu, học hỏi đồng nghiệp để  tích lũy thêm kinh nghiệm về  chuyên môn và có kiến thức về  phòng tránh tai  nạn thương tích đảm bảo an toàn cho trẻ.          Được sự phân công chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, năm học 2016­  2017 tôi được giao nhiệm vụ lớp mẫu giáo 4­5 tuổi. Số trẻ trong lớp đa số là trẻ  con em dân tộc Vân Kiều nên tôi luôn nhận được sự  quan tâm, giúp đỡ  tận tình  cũng như sự chỉ đạo sát sao về mọi mặt của ban giám hiệu cũng như chị em đồng   nghiệp.          Cơ sở vật chất, trang thiết bị lớp học đảm bảo đầy đủ  và thuận tiện cho   việc thực hiện đề tài này.                  Trẻ  trong lớp mạnh dạn, tự tin, tích cực hứng thú khám phá mọi hoạt  động. 6   
  7. Nhà trường đã phổ biến đến tận giáo viên các văn bản quy phạm pháp luật, các  văn bản chỉ đạo về công tác đảm bảo an toàn cho trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non. Giáo viên đã chú trọng xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện với   những trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi  tự làm từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương  phù hợp độ tuổi, thường xuyên được kiểm tra, bảo dưỡng đảm bảo an toàn cho trẻ  khi tham gia các hoạt động tại lớp. Giáo viên chú trọng đổi mới phương pháp tổ chức  các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, phát huy tính tích cực của trẻ, không gây áp lực   đối với trẻ. Nhà trường đã chỉ đạo nhân viên Y tế triển khai thực hiện công tác chăm  sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh và kiểm tra chất lượng vệ  sinh an toàn  thực phẩm tại bếp ăn bán trú, tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ tại trường. Nhà trường  thực hiện hợp đồng thực phẩm với những đơn vị  cung ứng thực phẩm an toàn,  thực phẩm sạch, có nguồn gốc rõ ràng. Các bếp ăn được bố trí theo nguyên tắc  một chiều, đảm bảo chế  độ  kiểm thực 3 bước và lưu mẫu thức ăn theo đúng  quy định. Trong thời gian qua chưa xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm. Công tác bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ về công tác   đảm bảo an toàn được ban giám hiệu thường xuyên quan tâm. Nội dung chăm  sóc nuôi dưỡng, kỹ  năng xử  lý các tình huống sơ  cấp cứu, phòng tránh tai nạn   thương tích, phòng tránh một số bệnh thường gặp đối với trẻ, đảm bảo an toàn  vệ  sinh thực phẩm... được đưa vào chương trình bồi dưỡng thường xuyên, tập  huấn chuyên đề hàng năm, hàng thàng trong nhà trường.         Tuy vậy, thực hiện đề tài này tôi gặp một số khó khăn sau đây:            2. Khó khăn: Một số đồ dùng chưa đảm bảo đúng quy định như nha vê sinh ch ̀ ̣ ật chội, thiết   kế không phù với trẻ... nên tiềm ẩn nhiều nhiều nguy cơ gây mất an toàn đối với   trẻ. Sân chơi chưa đảm bảo an toàn, đồ chơi ngoài trời chưa đầy đủ vì vậy mỗi  khi cho trẻ dạo chơi, hoạt động ngoài trời tiềm ẩn nhiều nguy cơ không an toàn   cho trẻ. Một số phụ huynh chưa thường xuyên trao đổi thông tin của trẻ cho giáo   viên chủ  nhiệm. Chưa ý thức được việc tạo môi trường an toàn cho trẻ  hoạt  động ở nhà cũng như ở trường. Trẻ trong lớp có 16 trẻ nhưng có đến 65% là trẻ nam, số trẻ nữ chỉ chiếm   có  35%. Số  trẻ  nam có tính rất hiếu động, thích chạy nhảy, leo trèo đặc biệt   mỗi khi được tiếp xúc với đồ dùng đồ chơi hay một số trang thiết bị ngoài trời. Đa số trẻ   ở  đây đều sống gần suối mà cha mẹ thường xuyên đi làm trên   nương rẩy nên việc an toàn cho trẻ trong thời gian ở nhà khó lường trước được.          Công tác chăm sóc giáo dục phòng chống tai nạn thương tích, vệ sinh cho trẻ  chưa được phụ huynh quan tâm đúng mức. Nhiều phụ huynh còn sơ sài trong việc   7   
  8. lắp đặt các thiết bị điện, bếp nấu. Đa số  các gia đình sử  dụng bếp củi, sử dụng   nguồn nước suối, phần lớn các gia đình đều ở nhà sàn nên leo trèo bậc thang trẻ dễ  bị ngã.   Đa số khả năng nhận thức của các bậc phụ huynh còn hạn chế nên chưa  hình thành và rèn luyện thói quen vệ sinh an toàn cho trẻ trong thời gian ở nhà.         Đầu năm tôi đã tổ chức khảo sát chất lượng, kết quả như sau: STT Nội dung khảo sát đầu năm SL Tỉ lệ (%) 1 Trẻ đem quà, bánh đến lớp. 16/18 Chiếm tỉ lệ  89 % Trẻ  không đội mũ bảo hiểm  khi  2 14/18 Chiếm tỉ lệ  76,9% tham gia giao thông. Trẻ bị té, ngã trong lúc vui chơi  ở  3 07/18 Chiếm tỉ lệ  39% nhà  Trẻ   bị   tiêu   chảy,   do   ăn   uống   ở  4 02/18 Chiếm tỉ lệ  11% nhà. Trẻ  không biết rửa tay trước khi   5 ăn, sau khi chơi, sau khi đi vệ sinh  13/18 Chiếm tỉ lệ  72% và đưa tay chân vào miệng...  Tai nạn thương tích do động vật,  6 côn   trùng   cắn, tai   nạn   gây   ngạt  03/18 Chiếm tỉ lệ  17% đường thở, do bỏng, điện giật…           Từ những thực tế còn tồn tại nêu trên, để làm tốt công tác phòng chống tai  nạn thương tích  ở  trường lớp Mầm non nhằm giảm thiểu sự  rủi ro cho trẻ và   làm tăng khả năng an toàn cho trẻ khi đến lớp đến trường hay ở  nhà. Tôi đã áp   dụng các giải pháp như sau: 2.2.  Nội dung đề tài, sáng kiến, giải pháp:   Biện pháp 1: Tuyên truyền với phụ huynh về giáo dục an toàn bằng  hình ảnh trực quan.        Việc tuyên truyền giáo dục phòng chống tai nạn thương tích ở trường lớp   Mầm non bằng hình ảnh trực quan là không thể thiếu. Hầu như trường lớp nào  cũng thực hiện, nhưng việc xác định nội dung giáo dục cho phù hợp với khả  năng, nhận thức của trẻ, tình hình thực tế  của địa phương để  qua đó đảm bảo  an toàn cho trẻ từ nhà đến trường đó mới là điều quan trọng, cốt lõi.        Năm học này, tôi đã thực hiện một số  nội dung tuyên truyền giáo dục   đảm bảo an toàn, phòng chống dịch bênh và tai nạn thương tích cho trẻ như sau:        * Tuyên truyền Phòng chóng dịch Chân ­ tay ­ miệng  Khi có các Công văn về phòng chống dịch bệnh bệnh tay, chân, miệng Tôi  đã tiích cực tuyên truyền với phụ  huynh thường xuyên hướng dẫn trẻ  rửa tay   8   
  9. bằng xà phòng dưới vòi nước sạch vào các thời điểm: trước khi ăn, sau khi ăn,  khi tay bẩn, sau khi chơi, sau khi đi vệ sinh...  Vệ sinh nhà cửa thường xuyên sạch sẽ hàng ngày, mỗi tuần khử khuẩn đồ  dùng, đồ chơi, bàn ghế; quần áo của trẻ giặt sạch, phơi nắng; xử lý tốt đồ dùng,  rác thải, chất thải, nước thải trong sinh hoạt...  Giáo dục trẻ  không mút tay vào miệng, không ngậm đồ  chơi, khi có trẻ  mắc bệnh cần cách ly và cho trẻ đi khám và điều trị bệnh kịp thời. Một số nội dung tuyên truyền về phòng chống bệnh tay chân miệng. Khi có thông tin dịch cúm gia cầm tôi đã tuyên truyền cho các bậc phụ  huynh nếu có dịch xảy ra phải chôn đúng quy định, không được làm thịt cho trẻ  ăn, không cho trẻ  nô đùa gần chuồng trại. Thường xuyên vệ  sinh chuồng trại   khử khuẩn đúng quy định. Nếu có dịch bùng phát phải kịp thời báo cáo với chính  quyền địa phương để có biện pháp dập dịch kịp thời. 9   
  10. Một số nội dung tuyên truyền về phòng chống dịch cúm gia cầm Khi có dịch tiêu chảy cấp: Tuyên truyền cho bậc phụ huynh phải ăn chín,  uống nước đun sôi để nguội, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau mỗi lần  đi tiểu, đại tiện.  Cấm không cho trẻ ăn quả xanh, uống nước lã…  10   
  11. Một số nội dung tuyên truyền về phòng chống dịch tiêu chảy cấp. Thường xuyên thực hiện việc phòng chống dịch bệnh như  vệ  sinh hằng  ngày và khử khuẩn hàng tuần thông qua các hoạt động như: Giáo viên trong lớp  cùng trẻ  tổ  chức luân phiên lau chùi lớp học, nhà vệ  sinh, đồ  dùng đồ  chơi, ca   cốc uống nước sạch sẽ, bên cạnh đó giáo viên luôn theo dõi, kiểm tra các trường  hợp trẻ có biểu hiện bệnh, yêu cầu gia đình chuyển ngay đến Trạm y tế để kịp  thời chữa trị, tránh lây lan dịch bệnh. Trong lớp tôi thường xuyên tổ  chức trang trí, thay đổi tranh tuyên truyền   về vệ sinh dinh dưỡng.  Tổ chức việc lồng ghép giáo dục sức khỏe vào các họat động của trẻ, tạo   điều kiện cho trẻ  khỏe mạnh, nâng cao nhận thức trong việc tự  chăm sóc sức   khỏe, đảm bảo an toàn cho trẻ, giáo dục trẻ  biết điều gì nguy hiểm cho bản   thân, điều gì nên làm để chăm sóc sức khỏe, đảm bảo an toàn cho chính bản thân  mình, từng bước nâng cao kỹ năng sống cho trẻ trong cộng đồng. 11   
  12. Hướng dẫn trẻ khi bơi phải có phao bơi và phải mặc áo phao           Hình ảnh tuyên truyền phòng tránh bệnh Ebola. Thường  xuyên  đổi  mới  nội  dung, hình thức  tuyên truyền  về  kiến  thức   truyền thông đến phụ  huynh về  dịch bệnh, ngộ  độc thực phẩm, phòng tai nạn  thương tích cho cha mẹ trẻ và cộng đồng: tờ rơi, bảng tin, trong các buổi họp phụ  huynh của lớp….          * Tuyên truyền  hưởng ứng tháng an toàn giao thông Giờ hoạt động ngoài trời vào các buổi sáng hay buổi chiều hằng tuần tôi tổ  chức cho trẻ tập vẽ một số biển báo hiệu giao thông đường bộ đơn giản như vẽ  tín hiệu đèn xanh­ đèn đỏ. Trò chuyện cùng trẻ về hành động đúng, sai khi tham gia  giao thông đường bộ, cho trẻ chơi một số  trò chơi liên quan đến việc chấp hành  luật giao thông như chơi trò chơi " Tín hiệu, Ôtô vào bến, ô tô và chim sẽ..." nhằm  giúp trẻ  và phụ  huynh cũng như  bản thân hưởng  ứng tham gia tốt tháng an toàn  giao thông và đặc biệt là trẻ biết chấp hành luật lệ an toàn khi tham gia giao thông. 12   
  13. Hướng dẫn phụ huynh đội mũ bảo hiểm cho trẻ khi tham gia giao thông Đồng thời, đối với những giờ  hoạt động ngoài trời ,tôi vừa tổ  chức trò  chơi cho trẻ vừa hướng dẫn trẻ cách chơi với những đồ  chơi thiết bị ngoài trời   sao cho đúng cách, nhằm làm giảm thiểu tối đa các tai nạn có thể xảy ra với trẻ.  Ví dụ: Cô giáo nhắc nhở  trẻ  chơi cùng nhau, không tranh dành xô đẩy  bạn, khi chơi phải biết nhường nhịn bạn...                          Hướng dẫn trẻ chơi với đồ chơi ngoài trời đúng cách. 13   
  14. Biện  pháp 2:  Phối hợp với phụ  huynh đảm bảo an toàn cho trẻ  tại  trường. 2.1. Giáo dục các hoạt động trong trường mầm non đến với cha mẹ  trẻ            Tổ  chức các buổi họp phụ  huynh để  lồng  ghép  nội dung phổ  biến các  kiến thức liên quan đến an toàn cho trẻ. Cụ thể tôi đã tuyên truyền phổ biến các  kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ, phòng chống tai nạn thương tích, vệ sinh an   toàn thực phẩm, nuôi dạy con theo khoa học...Đồng thời tổ chức huy động phụ  huynh cung cấp một số  nguyên vật liệu phế  thải, hay đồ  dùng hỏng đã qua sử  dụng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi, đồ vật trang trí để làm cho môi trường học  tập trong lớp thêm phong phú, hấp dẫn phục vụ cho việc học của trẻ.          Ngoài ra, để việc chăm sóc giáo dục an toàn cho trẻ  đạt kết quả  cao, tôi   cũng đã tiến hành trao đổi, thảo luận với phụ huynh, với giáo viên dạy cùng lớp   về phương pháp, biện pháp chăm sóc giáo dục an toàn các cháu. Trong các buổi  thảo luận này bản thân tôi trực tiếp hướng dẫn, giúp cho cha mẹ trẻ nắm được  từng nội dung kế  hoạch của nhà trường, lớp về  trường học an toàn, phòng  chống tai nạn thương tích  để ở nhà phụ huynh giúp trẻ duy trì thói quen đó. Hướng dẫn trẻ cách rửa tay đúng quy trình.         Qua những lần họp với phụ huynh, tôi còn đưa ra các chỉ tiêu từng tháng,   từng quí. Từ đó tôi đã vận động phụ  huynh đi họp đông đủ, đúng giờ quy định.  Sau mỗi lần họp phụ huynh tôi đều tổ chức đánh giá khích lệ tinh thần hăng say  của phụ huynh để họ phấn khởi. 14   
  15. 2.2. Giáo dục tích hợp đảm bảo an toàn cho trẻ trong các hoạt động  ở trường, lớp mầm non.  Đảm bảo an toàn mọi lúc mọi nơi cho trẻ  trong các hoạt động ở  trường,  lớp, tôi thường xuyên kiểm tra và bảo dưỡng đồ dùng đồ chơi, vệ sinh sạch đẹp,  thông thoáng. Tạo môi trường phù hợp, gần gũi với trẻ từ ở lớp học, nhà vệ sinh,  bếp, đến môi trường xung quanh: đồ dùng, đồ chơi tự tạo, trang trí lớp và các góc  sắp xếp theo từng chủ đề. Thực hiện nghiêm túc quy chế  nuôi dạy trẻ  trong đó  quan tâm công tác chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng và phòng chống dịch bệnh.   Chúng tôi đã thực hiện theo dõi sức khoẻ của trẻ từ khi trẻ đến lớp đến khi trả  trẻ. Khi chuyển mùa, khí hậu thay đổi phải chú ý để có biện pháp phòng. Ghi sổ  nhật ký sức khoẻ của trẻ hàng ngày, có diễn biến đặc biệt kịp thời thông báo cho   phụ huynh và có biện pháp giáo dục phù hợp.  Nắm chắc đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phân chia nhóm để có biện pháp   giáo dục trẻ phù hợp.  Ví dụ: Những trẻ có tính hiếu động, tích chạy nhảy, leo trèo giáo viên cần  quan sát, chú ý tới từng hành vi, cử chỉ, hành động của trẻ. Cho trẻ chơi những trò   chơi có tính tĩnh như các trò chơi học tập.  Những trẻ chậm chạp, nhút nhát cô cần gần gủi, thường xuyên trò chuyện,  giao tiếp với trẻ, tổ chức các trò chơi có tính vận động nhiều hơn như  Trò chơi   dân gian, trò chơi vận động. Trong các tiết hoạt động học, hoạt động ngoài trời, sinh hoạt chiều… giáo  viên cần chú ý tính vừa sức cho trẻ. Tổ chức cho trẻ chơi phải đảm bảo thời gian,  cường độ, tốc độ; không để trẻ chơi quá sức; chen lấn, xô đẩy, tranh giành đồ chơi   lẫn nhau. Phối hợp với y tế tổ chức khám sức khoẻ định kỳ  cho trẻ 2 lần/năm học,  qua đó nắm được các cháu mắc bệnh, sau khi khám sức khoẻ, nếu cháu mắc  bệnh thì phải nhắc nhở, hướng dẫn phụ huynh cho trẻ đi điều trị  sớm. Thường  xuyên theo dõi sự phát triển của trẻ để kịp thời phát hiện trẻ suy dinh dưỡng, béo   phì… Tổ chức cân đo, theo dõi sức khoẻ của trẻ bằng biểu đồ. Sau mỗi làn cân  đo cần ghi nhật ký đầy đủ, những trẻ  suy dinh dưỡng cần thông báo cho phụ  huynh để có biện pháp chăm sóc chu đáo hơn; mặt khác tại lớp cô cũng quan tâm  đến việc ăn uống của trẻ, nhắc nhỡ, động viên trẻ ăn hết suất.  Thường xuyên cọ rửa nền nhà, hành lang bằng xà phòng và nước lau rửa   sàn nhà hàng ngày. Phòng ăn, ngủ, học, chơi đảm bảo thông gió thoáng khí đủ  ánh sáng, đảm bảo yên tĩnh.  Biện pháp 3: Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm Ngoài những biện pháp qui định trong chương trình, nhà trường đã quan   tâm chăm lo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Đầu năm học ký hợp đồng cam   15   
  16. kết mua thực phẩm sạch với các cơ  sở  có uy tín. Đồng thời phân công cán bộ,  giáo viên, nhân viên thường xuyên kiểm tra việc mua thực phẩm; Chỉ  đạo cô  nuôi mua thức phẩm tươi, ngon đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ. Thực hiện quy trình bếp một chiều, hợp vệ sinh. Các dụng cụ  chế  biến   sống và chín phải riêng biệt. Bảo quản thức ăn nước uống cho trẻ an toàn. Thực hiện lưu mẫu thức ăn 24/24giờ Diệt khuẩn, diệt côn trùng, diệt chuột: Nhằm mục đích đề  phòng bệnh   lây lan rộng phải diệt khuẩn hàng ngày ngăn chặn bệnh truyền nhiễm nảy sinh.   Đặc biệt xử  lý khử  khuẩn môi trường nước, sử  lý phân, rác thực hiện các quy  tắc về vệ sinh cá nhân. Khi có chiến dịch phun thuốc diệt khuẩn chúng tôi tham mưu với nhà trường   đề xuất với trạm y tế phun vào ngày cuối tuần để không độc hại với trẻ. Thường xuyên kiểm tra định kỳ  các hệ  thống điện, bếp ga, khu vực vệ  sinh và cống rãnh thoát nước một tháng một lần, đồng thời cho khơi, nạo vét  cống, hố ga, đường thoát nước… Biện pháp 4: Tổ chức các ngày lễ, ngày hội  Việc tổ chức tốt ngày hội ngày lễ  là một trong những hình thức tốt nhất   để tuyên truyền giáo dục an toàn cho trẻ. Nhà trường đã phối hợp với phụ  huynh tổ  chức tốt các hội thi như: An   toàn giao thông, Gia đình và dinh dưỡng trẻ thơ, câu lạc bộ gia đình, câu lạc bộ  hò khoan Lệ  Thuỷ….Thông qua các hội thi chuyển tải đến phụ  huynh những  nội dung đảm bảo an toàn cho trẻ  đầy đủ  và thiết thực nhất, đồng thời phụ  huynh được học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm tốt nhất. Để tổ chức ngày hội ngày lễ thành công, giáo viên cần lựa chọn nội dung để  chia sẻ thiết thực, sinh động, có hiệu quả tốt. Ví dụ: Hội thi: An toàn giao thông: giáo dục trẻ  chấp hành luật lệ  an toàn  giao thông; phụ huynh phải nhớ thực hiện 5 không và 5 phải; trẻ biết được một số  phương tiện và luật lệ an toàn khi tham gia giao thông.  Hội thi Gia đình và dinh dưỡng trẻ thơ: Trẻ nắm được các nhóm thực phẩm  giàu chất dinh dưỡng; phụ huynh có thêm kiến thức về chế biến và đảm bảo an  toàn vệ sinh thực phẩm cho trẻ.   2.3. Kết quả đạt được: Nhờ  làm tốt công tác giáo dục phòng chống tai nạn thương tích đã góp   phần vào việc đảm bảo an toàn cho sự  phát triển của trẻ. Các bậc phụ  huynh   nắm rõ nội dung phòng chống tai nạn thương tích trong các hoạt động trong   trường, lớp mầm non. Trẻ nắm được những hành vi đúng, sai trong việc phòng   16   
  17. chống tai nạn thương tích, biết được những nguy cơ cần tránh để không xảy ra  tai nạn. * Đối với trẻ: 100% trẻ đảm bảo an toàn không có tai nạn thương tích xảy ra trong thời   gian ở lớp cũng như ở nhà. 100% trẻ không đem quà, bánh đến lớp. 100% trẻ đội mũ bảo hiểm  khi tham gia giao thông. 100% trẻ không bị té, ngã trong lúc vui chơi ở nhà. 100% trẻ không bị tiêu chảy, do ăn uống ở nhà. 100% trẻ biết rửa tay trước khi ăn, sau khi chơi, sau khi đi vệ sinh. 100% trẻ  không bị  tai nạn thương tích do động vật, côn trùng cắn, tai nạn  gây ngạt đường thở, do bỏng, điện giật… * Đối với phụ huynh:  100% phụ huynh không mua quà, bánh cho trẻ đem đến trường. 100% phụ huynh đưa, đón trẻ đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông.  100% phụ huynh chấp hành nội quy quy chế của nhà trường đưa đón trẻ  đúng giờ quy định. 100% phụ huynh biết chăm sóc con ở gia đình để trẻ không bị tiêu chảy, do ăn   uống. 100% phụ huynh biết giáo dục con rửa tay trước khi ăn, sau khi chơi, sau   khi đi vệ sinh. 100% phụ huynh biết chăm sóc bảo vệ con không để con bị tai nạn thương  tích do động vật, côn trùng cắn, tai nạn gây ngạt đường thở, do bỏng, điện giật…          Như vậy so sánh với kết quả  khảo sát đầu năm học, những tồn tại và hạn  chế đã giảm một cách rỏ rệt.            * Đối với giáo viên: Qua việc áp dụng tốt đề tài này, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ,  tích luỹ thêm những kiến thức, kỹ năng mới nhằm giúp trẻ trong lớp được chăm   sóc chu đáo từ  bữa ăn đến giấc ngủ, đến các giờ  học, giờ  chơi. Đây mới chỉ  là  những kết quả  ban đầu góp phần nhỏ  của mình vào chất lượng chăm sóc, nuôi  dưỡng, giáo dục trẻ.  Trong  thời gian  tiếp theo, tôi cần cố  gắng học hỏi nhiều   hơn nữa để  cùng với nhà trường, chị  em đồng nghiệp đưa công tác đảm bảo an  toàn cho trẻ ngày một vững chắc và đưa chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo  dục trẻ trong nhà trường ngày một phát triển đi lên. Phần III. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa, phạm vi ứng dụng của đề tài, sáng kiến, giải pháp. 17   
  18. Để đạt được các kết quả tốt trong công tác giáo dục  phòng chống tai nạn  thương tích, từ  kết quả  từ  thực tế  có thể  khẳng định các biện pháp mà tôi đã   xây dựng bước đầu thể hiện tính khả  thi. Nhà trường­ gia đình­ xã hội có trách  nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ và tạo mọi điều kiện để  giúp trẻ  lớn   lên và phát triển về mọi mặt.  Đảm bảo an toàn giúp trẻ  có sức khỏe tốt để  tham gia các hoạt động  hứng thú, tích cực tìm tòi, khám phá. Trẻ  lĩnh hội được nhiều kiến thức, vận  dụng những kiến thức  ở  trường mầm non vào trong thực tiễn đời sống hằng  ngày. Bản thân mỗi một giáo viên cần lên kế hoạch và biện pháp cụ thể để thực   hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho trẻ. Đồng thời kế hoạch này phải được   thông qua hội cha mẹ học sinh, để các bậc phụ huynh nắm rõ và tích cực phối hợp  thực hiện, nhờ đó sẽ có hiệu quả đạt được tốt hơn. Lớp học cần có các biện pháp phòng, chống tai nạn thương tích như tuyên  truyền, giáo dục can thiệp, khắc phục, giảm thiểu   thấp nhất  nguy cơ  gây tai  nạn thương tích cho trẻ. Truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức về  xây dựng trường học an   toàn, phòng, chống tai nạn thương tích bằng nhiều hình thức như  tờ  rơi, băng  rôn, áp phích, khẩu hiệu... Huy động sự tham gia của các thành viên trong nhà trường, phụ huynh của   trẻ và cộng đồng, phát hiện và báo cáo kịp thời các nguy cơ gây tai nạn, thương   tích, để có các biện pháp phòng, chống tai nạn, thương tích tại trường.  Học hỏi và nâng cao năng lực cho bản thân về các nội dung phòng, chống   tai nạn thương tích cho trẻ trong trường MN. Nội dung tuyên truyền cho các bậc phụ  huynh cần bám sát thực tế, phù  hợp tình hình của trường, lớp, của địa phương. Đặc biệt nội dung tuyên truyền  phòng chống tai nạn thương tích trong trường, lớp mầm non cho trẻ cần phải   phù hợp, linh hoạt, kịp thời, có sổ theo dõi ghi chép cụ thể. Lựa chọn  nội dung  tuyên truyền phù hợp, hình thức tuyên truyền đa dạng,  phong phú, hấp dẫn  giúp phụ huynh nắm kiến thức nhẹ nhàng, vui tươi  đem lại kết  quả tốt . 3.2. Những kiến nghị đề xuất. Trên đây là một số  kinh nghiệm trong công tác giáo dục phòng chống tai  nạn thương tích cho trẻ  trong trường mầm non. Tôi mong nhận được sự  quan  tâm chia sẻ của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để đề tài có hiệu quả  hơn. Thông qua đề tài này, tôi xin có một số kiến nghị như sau: Nhà trường  đảm bảo đầy đủ  các điều kiện về  cơ  sở  vật chất đáp  ứng  nhu cầu công tác chăm sóc và giáo dục trẻ  đối với từng nhóm/lớp  (sân chơi có  đủ đồ chơi ngoài trời, khuôn viên xây dựng kiên cố…).  18   
  19. Tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng sơ cấp cứu  để nâng cao trình độ. Giáo viên Cần thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về  kiến thức truyền thông đến phụ huynh về dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm, phòng   ngừa  tai nạn thương tích trẻ  cho cha mẹ  và cộng đồng như  phát tờ  rơi, tuyên  truyền qua bảng những điều cha mẹ cần biết, trong các buổi họp…. Đối với tổ dinh dưỡng:   Cần tiếp tục đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, thực hiện các quy trình  sơ chế, chế biến, lưu mẫu thực phẩm hàng ngày theo quy định.  Trên đây là một vài kinh nghiệm về công tác tuyên truyền phòng chống tai  nạn thương tích cho các bậc cho cha mẹ trong trường Mầm non, được áp dụng  và đạt hiệu quả tại lớp tôi. Với sự nổ lực của bản thân nên đã đạt được kết quả  ban đầu song Sáng kiến kinh nghiệm này cũng không tránh khỏi những hạn chế,   thiếu sót kính mong đóng góp ý kiến giúp đỡ  của đồng nghiệp, Hội đồng khoa  học của Nhà trường và Hội đồng khoa học của ngành để  cho bản Sáng kiến   kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn. Bản sáng kiến không những có khả năng  áp dụng trong phạm vi toàn trường và còn áp dụng cho tất cả các trường mầm  non trong toàn huyện và toàn tỉnh./.                                                                       Kim Thủy, ngày 19 tháng 12 năm 2016                                                                                       Người viết                                                                                 Nguyễn Thị Minh Loan 19   
  20. Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ....................................................................................................................................               20   
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2