intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi tại Trường mầm non Sơn Thủy

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

62
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp của tôi trẻ chưa được mạnh dạn tự tin, khả năng tự phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa đoàn kết, hợp tác trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3- 4 tuổi có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm một số biện pháp giáo dục cho trẻ!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi tại Trường mầm non Sơn Thủy

  1. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 3­4 TUỔI.                                                                                                                                              
  2. Sơn Thủy, ngày 12 tháng 12 năm 2018 CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 3­4 TUỔI          Họ và tên: Nguyễn Thị Chút Chức vụ:   Giáo viên            Đơn vị: Trường mầm non Sơn Thủy                                      
  3.                                                    Sơn Thủy, tháng 12 năm 2018 I. PHẦN MỞ ĐẦU  1.1. Lý do chọn đề tài:          Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ  em là trách nhiệm của xã hội, của nhà   trường và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo dục và phát triển kỹ năng sống cho trẻ  ngay từ  lứa tuổi mầm non thông qua các hoạt động học cũng như  hoạt động chơi,  giao lưu của trẻ  hàng  ngày  ở  trường, trong gia đình giữ  vai trò vô cùng quan trọng   trong sự  phát triển về  mọi mặt cho trẻ như: Thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể  lực và  lao động. Thông qua các hoạt động hàng ngày như hoạt động học tập mang tính nghệ  thuật, giúp trẻ  hoàn thiện hơn nhân cách cũng như  kỹ  năng  sống của mình ngay từ  lứa tuổi mầm non. Trong xã hội hiện nay, giáo dục kỹ  năng sống đã trở  thành một  nhu cầu thiết yếu. Bởi sự bùng nổ của thông tin, với những suy thoái về đạo đức, với  những đua đòi của thế hệ trẻ, cùng với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt   trái của xã hội, với muôn ngàn cạm bẫy … giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại   tác động, tốt có, xấu có, thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố  tích   cực và tiêu cực, luôn bị  đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương  đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực từ gia đình và xã hội. Việc   giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần  đào tạo “ Con người mới với đầy đủ các mặt: Đức, trí, thể, mỹ. Như Bác Hồ đã từng   nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây­ Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Sở dĩ Bác nói  
  4. như vậy là để khẳng định một lần nữa với chúng ta rằng  việc giáo dục trẻ để trẻ trở  thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.   Giáo  dục kỹ năng sống  trẻ lứa tuổi mầm non cũng vô cùng quan trọng, bởi vì lứa tuổi này  đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ  có kiến thức về  kỹ  năng sống thì trẻ  sẽ  biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố  mẹ  như  thế  nào, biết  cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế  nào cho đúng. Ngay  ở  lứa tuổi mầm non trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế  nào là  đúng, thế  nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo dục kỹ  năng  sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho  trẻ  giúp trẻ  thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế  còn giúp  cho trẻ  biết cách giao tiếp và  ứng xử  trong cuộc sống hàng ngày, trẻ  biết cách phối  hợp với các bạn chơi trong nhóm.     Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải dạy trẻ những gì cao siêu vượt  quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ  trải nghiệm những hoạt động hàng   ngày của một xã hội thu nhỏ  như: Làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp trong   cuộc sống, xoay quanh bản thân, gia đình, và môi trường xã hội, những người lạ  không quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái trong đời sống xã   hội, biết cách đối phó với những tình huống bất thường phát sinh hay không bị  mất   bình tĩnh trước những nguy cơ đột ngột,.. trẻ cần được học và rèn luyện ngay từ nhỏ,   từ  những bản năng tự  nhiên như  việc học ăn, học nói, học đi, đứng, ngủ  nghỉ,.. đến   việc học để  có kiến thức và nhận thức về  bản chất của cuộc sống, tôn trọng môi  trường sống, môi trường thiên nhiên xung quanh ta, và giao tiếp,  ứng xử  trung thực,  khôn ngoan, lịch sự với mọi người. Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp của tôi trẻ chưa được mạnh dạn tự tin,   khả  năng tự  phục vụ  kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ  chưa đoàn kết, hợp   tác trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3­ 4 tuổi   có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi  
  5. luôn đặt ra cho tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã chọn đề tài:” Một số biện   pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi”  để nghiên cứu.  * Điểm mới của đề tài.   Xuất phát từ  vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ  năng sống”  đối với trẻ, tôi   thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ  là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý  nghĩa. Nhưng làm thế nào để  giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  một cách có hiệu quả?   Điều này quả không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.     Với đề  tài này tôi biết đã được nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, nhưng với tôi  đề tài này nó có những điểm mới: Tôi dành sự quan tâm và hình thành ở trẻ những kỹ  năng sống như: Giáo dục kỹ  năng sống sẽ  bắt đầu từ  “động tác”, những hành vi lễ  giáo của trẻ. Ví như với bản thân, trẻ biết tên mình, vị trí của mình ở trường, ở nhà,  biết cách đi, đứng ngồi lịch sự, yêu thương quí mến những người thân. Rồi biết thưa   gửi, vâng dạ, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật. Giúp trẻ  có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm,  giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi   khả năng tư duy sáng tạo của trẻ.  1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:  Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh   vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang   dạy lớp 3­4 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế  mạnh của trẻ  trong phạm vi  trường mầm non. Vì thế  phạm vi đề  tài của tôi áp dụng cho trẻ  3­4 tuổi  ở  trường  mầm non. II. PHẦN NỘI DUNG   2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp.  Trong qua trinh rèn k ́ ̀ ỹ năng sống cho trẻ tôi đa găp nh ̃ ̣ ững thuân l ̣ ợi va kho khăn ̀ ́   sau:  Thuận lợi :
  6.         Bản thân tôi được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường về  bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ  năng sư  phạm và cung cấp đầy đủ  các trang  thiết bị, đồ dùng đồ  chơi, nhất là hoạt động “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp,  an toàn và hiệu quả”, đây chinh la ho ́ ̀ ạt động để giáo viên rèn luyện kỹ năng ứng xử  hợp lý với các tình huống trong cuộc sống cho trẻ, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh  hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ  sức khỏe, kỹ  năng phòng,   chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ  năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Trương hoc n ̀ ̣ ơi tôi công tac la ngôi tr ́ ̀ ương đ ̀ ược xây khang trang sạch sẽ  nên   ̣ ợi trong viêc th thuân l ̣ ực hiên nôi dung xây d ̣ ̣ ựng môi trương giao duc sach đep, an toan ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ̀  cho tre. ̉ Khó khăn: ̀ ́ ́ ậc cha me tre luôn nong vôi trong viêc day con; do đó, khi tr Vê phia cac b ̣ ̉ ́ ̣ ̣ ̣ ẻ  về  nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái   quá! Đông th ̀ ơi lai chiêu chuông, cung ph ̀ ̣ ̀ ̣ ụng con cai khiên tre không co ky năng t ́ ́ ̉ ́ ̃ ự   ̣ ̣ ỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đên con mình ăn, u phuc vu, ch ́ ống nói năng như thế  ̉ nao, tre có bi ̀ ết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao   chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? ́ ơi giao viên. Đôi v ́ ́ Giao viên ch ́ ưa hiêu nhiêu vê n ̉ ̀ ̀ ội dung phai day tre l ̉ ̣ ̉ ưa tuôi mâm non nh ́ ̉ ̀ ững kỹ  ́ ơ ban nao, ch năng sông c ̉ ̀ ưa biêt vân dung t ́ ̣ ̣ ừ những kê hoach đinh h ́ ̣ ̣ ướng chung để rèn  luyện kỹ năng sống cho tre mâm non. ̉ ̀   Đa sô giao viên l ́ ́ ơn tuôi co nhiêu kinh nghiêm nh ́ ̉ ́ ̀ ̣ ưng viêc đ ̣ ổi mới phương pháp   giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức  vươn lên, rèn luyện khả năng tự  học của học sinh con găp nhiêu kho khăn; giao viên ̀ ̣ ̀ ́ ́   ̉ ̉ ́ ơn, năng đông, sang tao nh tre tuôi it h ̣ ́ ̣ ưng lai kho trong công tac bôi d ̣ ́ ́ ̀ ưỡng do nhân ̣   thưc vê nghê ch ́ ̀ ̀ ưa sâu săc.  ́
  7. Từ nhưng thuân l ̃ ̣ ợi  va kho khăn trong qua trinh th ̀ ́ ́ ̀ ực hiên, tôi  ̣ đa suy nghi, ̃ ̃  nghiên cưu tai liêu đê tao điêu kiên thuân l ́ ̀ ̣ ̉ ̣ ̀ ̣ ̣ ợi giup cha me day tre mâm non cac ky năng ́ ̣ ̣ ̉ ̀ ́ ̃   sông qua đ ́ ề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ mâm non k ̀ ỹ năng sống ”  *  Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:  Số trẻ  TT Khả năng Đạt KS 1 + Mạnh dạn tự tinh 18/34 53% 2  +Kỹ năng hợp tác 10/34 29% 3 +Phát âm rõ lời 16/34 47% 4 +Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 20/34 59% 5 +Lễ phép 16/34 47% 6 +Kỹ năng vệ sinh 20/34 59% 7 +Kỹ năng thích khám phá học hỏi 18/34 53% 8 +Kỹ năng tự kiểm soát bản thân 16/34 47% ­ Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có   biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và   yếu còn ở mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã   suy nghĩ  trăn trở  làm thế  nào để  có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện   nâng cao hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 3­4 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao. 2.2. Các giải pháp  2.2.1: Lập kế  hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để  phát triển các kỹ   năng sống. Tổ  chức các hoạt động cho trẻ  luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ  đạo   trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 3­4 tuổi, khả năng tập   trung chú ý và ghi nhớ có chủ  định rất kém. Trẻ  nhanh nhớ  nhưng cũng nhanh quên.   Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được cũng cố  bằng cách luyện tập thường   xuyên thì chúng sẽ  dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế  hoạch cho trẻ  luyện tập  thường xuyên thì các kỹ  năng đó sẽ  thành kỹ  xảo, phát triển bền vững và không bị  lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế  hoạch cụ  thể, được tiến hành  thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.
  8. Ví dụ  : Hàng tuần vào sáng thứ  2, tôi thường tổ  chức hoạt động trò chuyện  cùng trẻ  khoảng 10 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ  năng  giao tiếp cho trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết  dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay   trao đổi cùng cô về chủ đề đang học. Cuối tuần cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay   nhất sẽ đựơc nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa , một   bức tranh vẽ một con vật hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được   thay đổi theo từng chủ  đề). Kết quả, trẻ  lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò  chuyện đầu tuần. Trẻ đã có thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt   rất mạnh dạn tự tin khi kể “chuyện của mình” cho bạn nghe.  Trong giờ  hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ  ôn bài cũ hoặc làm  quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 10 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập   thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:  Chiều thứ  2, tôi thường tổ  chức cho trẻ  thực hành các kỹ  năng chăm sóc bản   thân như rửa tay, lấy nước uống, cho đồ  vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một trò   chơi khác nhau.  Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo   hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với   trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10   đến 1, khi nghe hết giờ  phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả  và tặng quà.   Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ  dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng   tuần đầu tôi dạy trẻ  cách mặc áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc  áo có khuy cài và những tuần sau là áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ  thực hiện rất vụng   về lúng túng nhưng do luyện tập thường xuyên và có kế  hoạch nên các thao tác của  trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi   đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.  Chiều thứ  4, tôi tổ  chức cho trẻ  xem băng đĩa hoặc tranh  ảnh có kèm những  câu chuyện về  các hành vi  ứng xử  đúng sai giữa con người với con người, giữa con  
  9. người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử  phù hợp với xung quanh. Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây  ồn, khi xếp ghế  ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ  của mình, khi ngồi ăn  ghế  phải xếp sát bàn, khi ra về  phải xếp ghế  vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải   xếp kẹp đôi, tổ  chim non xếp ngăn trên của giá dép, tổ  hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ  thỏ  con xếp ngăn dưới… Nhờ  được tham gia và nhắc nhở  thường xuyên nên ý thức   của trẻ trong việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt. Chiều thứ 6, tôi tổ  chức cho trẻ sắp xếp lại đồ  dùng đồ  chơi ở  các góc nhằm   phát triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu,  tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như  vậy? Cách sắp xếp   như  thế  nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ  tự  xếp mỗi   góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt  động này, các kỹ năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc   nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường   xuyên như vậy, các mối quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng   cố, bên cạnh đó đồ  dùng đồ  chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và   rất khoa học.Với biện pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện   một cách chính xác. 2.2.2:  Xac đinh nhiêm vu c ́ ̣ ̣ ̣ ơ ban trong viêc day tre ky năng sông ̉ ̣ ̣ ̉ ̃ ́  Giáo viên có thể làm được gì đê day ky năng sông cho tre? ̉ ̣ ̃ ́ ̉ ­ Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích   sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giao viên c ́ ần phải biêt khai thac phat huy năng khiêu, ́ ́ ́ ́   ̣ ở môi tre. Vì m tiêm năng sang tao  ̀ ́ ̃ ̉ ỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục  trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. ­ Giáo viên cần thường xuyên tổ  chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo  dục trẻ môt cách thich h ̣ ́ ợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều  các lĩnh vực: thể  chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm­ xã hội và thẩm mỹ. Phát huy 
  10. tính tích cực của trẻ, giúp trẻ  hứng thú, chủ  động khám phá tim tòi, biết vận dụng  vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.  ­ Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn   khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biêt l ́ ắng  nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ  khác nhau,  giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới.   Điều này liên quan tới  việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh,  cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn   bị  cho trẻ  sự  tự  tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để  chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.  ­ Thường xuyên liên hệ  với phụ  huynh để  kịp thời nắm tình hình cua tr ̉ ẻ, trao   đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn   bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. ̣ ̉ ́ ̣           2.2.3: Cu thê hoa nôi dung c ủa những kỹ năng cơ bản ma giao viên cân day ̀ ́ ̀ ̣   tre:̉ + Ky năng s ̃ ống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát   triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả  về  cá nhân cũng như  trong mối quan hệ  với những người khác. Kỹ  năng sống này   giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.  + Ky năng sông h ̃ ́ ợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ  học   cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này.   Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.  ̣ ̉ + Ky năng thích tò mò, ham hoc hoi, kh ̃ ả  năng thấu hiểu: Đây la m ̀ ột trong  những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ  vào giai đoạn này là sự  khát khao được   học, sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của  trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư  liệu  mang tính chất khác lạ  thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ  có thể  đoán  trước được. 
  11. + Ky năng giao ti ̃ ếp: cần day tre bi ̣ ̉ ết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của  mình cho người khác hiểu, trẻ  cần cảm nhận được vị  trí, kiến thức của mình trong  thế giới xung quanh nó.  Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yêú   khi so với tất cả các kỹ  năng khác như  đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học.  Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở  nên dễ dàng học và sẽ  sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố  cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.  Ví dụ:  Giờ  đón trẻ  tôi trò chuyện cùng trẻ  về  cách giao tiếp để  tự  bảo vệ  mình: Nếu lạc đường con sẽ tìm đến ai để hỏi? con hỏi như thế nào? Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào? Hay có khách đến lớp các con phải làm gì?... Ngoai ra,  ̀ ở  trường mầm non giao viên cân d ́ ̀ ạy trẻ  nghi thức văn hóa trong ăn   uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay   sạch sẽ  trước khi ăn, chỉ  ăn uống tại bàn ăn, biêt cách s ́ ử  dụng những đồ  dùng, vật  dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ  nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn   sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn   dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. 2.2.4 : Giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  mọi lúc mọi nơi. Phát triển các kỹ   năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà   trường. Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của   trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng  sống cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Để  việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế  độ  giờ  giấc   trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố  giáo dục có tác  dụng thúc đẩy mạnh mẽ  phẩm chất cá nhân, khả  năng tuân thủ  yêu cầu của người 
  12. lớn và khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể  của từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp. Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ  ( Biết   lễ phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ  bản thân và chấp hành quy định của lớp.  Ví dụ: Tôi dạy trẻ  biết cất cặp vào giá, biết xếp dép lên giá, đi vệ  sinh đúng  nơi quy định…..) Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích  hợp có hiệu quả  nội dung giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ  vào nội dung   của từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.  Ví dụ: Qua việc trò chuyện quan sát Cầu trượt. Trẻ  nhận biết được một số  nguyên nhân gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ  gây ngã. Các kỹ  năng tôi dạy trẻ đó là: ­ Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin. ­ Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt bé cần làm gì?( Vịn hai tay vào 2  thành của cầu trượt, rồi đẩy người cho trượt xuống. Nếu bạn nào trượt nhanh bị ngã   thì thì bạn chơi cùng nhanh chóng đở bạn dậy hoặc chạy đến gọi cô …)  ­ Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không trượt  quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Cầu trượt, vịn chắc thanh cầu trượt…) Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số  bộ  phận trên cơ  thể, tôi dạy   trẻ kỹ năng sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ  gìn, bảo vệ các bộ  phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng  thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như  muốn nói phải giơ tay, chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung   chú ý nghe cô…Chính vì thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng   nghe, tuân thủ theo sự hướng dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời  câu hỏi cô   đưa ra. ­Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau.
  13.   Ví dụ: Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi,   chơi mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi  ở các góc thì các kỹ  năng sống đựơc trẻ  tiếp thu một cách dễ  dàng nhất. Hoạt động chủ  đạo của trẻ  mầm non đó là hoạt  động vui chơi, “Học mà chơi, chơi mà học”. Trong quá trình vui chơi trẻ  được thể  hiện mình. Đồng thời vui chơi cũng giúp trẻ  được ôn luyện, củng cố  những kiến   thức đã được học của trẻ  giúp trẻ  ghi nhớ  lâu nhất những gì trẻ  tiếp thu được. Khi  nội dung chơi lành mạnh hình thành cho trẻ có thái độ tích cực đối với hiện thực, có   tinh thần trách nhiệm với người khác, có lòng thương người…Thông qua chơi hình  thành những hành vi xã hội,  hình thành những phẩm chất đạo đức quý giá và đúng  đắn. Xuất phát từ đặc điểm trên của trẻ tôi nhận thấy trong quá trình hướng dẫn trẻ  chơi, thông qua trò chơi người giáo viên tác động lên mọi mặt của cá nhân trẻ và đặc  biệt là hành vi lễ giáo của trẻ. Do vậy không thể cho trẻ chơi tự do mà cô giáo hướng   dẫn trẻ chơi để kịp thời uốn nắn những hành vi chưa tốt của trẻ. Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng  giao tiếp ( giao tiếp giữa mẹ  với con, trẻ  biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ  năng   chăm sóc ( biết lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học   được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi  chơi xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định. Không chỉ  ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở  tất cả các  góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.  Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp  tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ  chơi   của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.   Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục   vụ  qua đó hình thành  ở  trẻ  một số  kỹ  năng sử  dụng đồ  dùng ăn, uống đúng cách và   hành vi văn hoá văn minh  như: ­ Cách dùng ca, cốc, bát, thìa. ­ Cách rót nước, chia thức ăn. ­ Chuẩn bị  bàn ghế cho bữa ăn (gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…)
  14. ­ Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống ( Trẻ biết mời  cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành   vi văn hoá như  không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời   lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…) Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy  định, biết lau chùi chân trước khi lên sạp, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang   ngủ. Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  vào các hoạt động   khác trong ngày như  ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng việc tạo  tình huống có vấn đề để  trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố  các  kỹ  năng của mình.  Tóm lại, cần giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính  liên tục để  mỗi kỹ  năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ  trở  thành thói quen,  thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích   hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây   tâm lý nặng nề  cho trẻ  khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi   nhận xét đánh giá các kỹ năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện  pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả. Nội dung phong trao“ Xây d ̀ ựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn và hiệu  quả”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao  một cách thiết thực, khuyến khích sự  tham gia chủ  động, tự  giác của học sinh. Tổ  chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với   lứa tuổi của học sinh. ̀ ơi dân gian; sáng tác bai hat, điêu mua thê loai dân ca cho tr ­ Lam đô ch ̀ ̀ ́ ̣ ́ ̉ ̣ ẻ ở lứa  tuổi mầm non.  ­ Tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi   giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Đưa ca dao hò khoan Lệ  Thuỷ vào chương trình giáo dục trẻ.
  15. ­ Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt  động ngoài trời, trẻ  được xem các câu chuyện cổ  tích,  hỏi đáp về  nội dung các câu  chuyện.   ­ Tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với  lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để  có sự  tham gia hoạt động  đa dạng và phong phú của cha me tre em, các t ̣ ̉ ổ chức, lực lượng xa hôi, cá nhân trong ̃ ̣   việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giao duc long yêu n ́ ̣ ̀ ước cho tre.̉ ­Tổ  chức hoat đông nghê thuât cho tre, tô ch ̣ ̣ ̣ ̣ ̉ ̉ ưc hoat đông phat triên t ́ ̣ ̣ ́ ̉ ư  duy để  phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ. ­ Tổ chức văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội dung, hình thức biểu diễn  nhằm huy động sự tham gia của cha me tre em, các t ̣ ̉ ổ chức, lực lượng xa hôi, cá nhân ̃ ̣   trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giao duc long yêu n ́ ̣ ̀ ước cho tre và qua đó ̉   tuyên truyền về hiệu quả giáo dục mầm non  Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ hai tổ chức cho toàn trường tập thể dục buổi sáng   qua những các nền nhạc, qua đó giúp trẻ phát triển kỹ năng vận động và  giao duc tr ́ ̣ ẻ  long yêu quê h ̀ ương, đât n ́ ước.  2.2. 5:  Tuyên truyên cac bâc cha me cach day tre k ̀ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̉ ỹ năng sông c ́ ơ bản.  Trước hết, giáo viên, phụ  huynh phải là tấm gương cho trẻ  noi theo, luôn gương   mẫu, yêu thương, tôn trọng và đối xử  công bằng với trẻ, tạo điều kiện tốt nhất để  trẻ được vui chơi, học tập với môi trường an toàn, thân thiện. Cô giáo và cha mẹ cần thống nhất phương pháp để giáo dục trẻ như vậy trẻ mới học  và áp dụng được các kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày. Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho rằng con   mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như  nghĩ rằng trẻ  mẫu giáo vẫn  được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Những trên thực tế, không  phải lúc nào cha mẹ  cũng  ở  bên con khi có tình huống xấu. Cô giáo phối hợp cùng  phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ thể,  
  16. giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan   tâm thái quá đến cơ  thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân.  Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi  luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường.   Việc dạy kỹ  năng sống cho trẻ  không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả  một quá trình. Các kỹ  năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì mới   bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa   đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.   Trẻ  được tiếp thu các kỹ  năng thông qua gia đình một cách tự  nhiên, nhẹ  nhàng mà  lại hiệu quả cao. Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc  phụ huynh nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao  trong học tập cũng như  trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế  nào để  có thể  giúp trẻ  phát huy được khả  năng tiềm  ẩn? Làm thế  nào để  trẻ  có  những kỹ  năng sống tốt nhất thì nhiều phụ  huynh còn lúng túng trong vấn đề  này.   Trên thực tế  nhiều phụ  huynh chưa có kiến thức về  kỹ  năng sống, không biết kỹ  năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ  đâu, dạy trẻ  những gì?  Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ  huynh để  họ  hiểu tầm quan  trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế  nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền đến các bậc phụ  huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền, thông qua   việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay   thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể: Thông  qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh   cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng phụ  huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động..           Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh. Đây là nơi trao đổi thông tin với  phụ  huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ  đề  tôi có đánh máy nội dung giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp. .
  17. Thông qua các buổi hợp phụ  huynh, tôi cũng đã chủ  động lồng ghép nội dung giáo   dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh.          Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham   gia vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Giáo viên mời cha mẹ  tham gia vào các  buổi trao đổi, tọa đàm, tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh học sinh và dự  một   số hoạt động học của trẻ ở lớp.   Tăng cương kê cho tre nghe cac câu chuyên cô tich qua đo ren luyên đao đ ̀ ̉ ̉ ́ ̣ ̉ ́ ́ ̀ ̣ ̣ ức cho  trẻ, giúp trẻ hoan thiên minh, biêt đoc sach, day tre yêu th ̀ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ̣ ̉ ương ban be, yêu th ̣ ̀ ương con  ngươi. Tao h ̀ ̣ ưng thu cho tre nho qua các truyên băng tranh tuy theo l ́ ́ ̉ ̉ ̣ ̀ ̀ ưa tuôi, g ́ ̉ ợi mở  tinh to mo, ham h ́ ̀ ̀ ọc hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ  nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự  đọc được lúc đó việc đọc  sách trở thành là niềm vui có giá trị và có y nghia h ́ ̃ ơn giúp trẻ phát triển sự ham hiêu ̉   ̉ ́ ủa trẻ.  biêt, tim toi phat triên nhân cach c ́ ̀ ̀ ́ Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng   người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó. Ví dụ: như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ  thì cô giáo, cha  mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh   để  tạo thành một bộ  sưu tập tranh vẽ  của chính trẻ  hoặc triển lãm tranh của trẻ   ở  góc nhỏ trong nhà. Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách  sử  dụng các đồ  dùng ăn uống; hơn nữa trẻ  sẽ  được dạy cách sử  dụng các đồ  dung   đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ  học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.  Cụ  thể: Trẻ  được làm quen với những đồ  dùng, vật dụng khác nhau, (bộ  đồ  bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt   ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội  vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm  ấm, những cuộc trao đổi nhẹ  nhàng, dễ 
  18. chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự  phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.  2.2. 6: Thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống.  Tôi thực hiện kế hoạch giáo dục, kê hoach đanh gia tre b ́ ̣ ́ ́ ̉ ằng việc bảng đánh   giá trẻ, quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan   hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ,  thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ  tuổi. Cũng từ biện pháp này, giáo viên sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để  đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ  vì trẻ con rất khác nhau và giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống.  Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa  phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị  các bảng thông tin dành cho phụ huynh , các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi   dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở  con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ  những  vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các  bậc cha mẹ  có thể  ghi chép những yêu cầu, đề  nghị, thông tin cần trao đổi với giáo  viên.  Nhằm tạo môi trường đọc sách cho con trẻ, tôi đã trang bị, đóng các kệ  sách   thư viện tại góc học tập, trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư  viện trường mầm non”; “tủ  sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ  thơ”; “những con vật  đáng yêu”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm trẻ.   Khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe.  ̣ ̉ Tham gia hôi thao“ Tr ương hoc thân thiên, an toàn và hi ̀ ̣ ̣ ệu quả” khi nhà trường  tổ chức. Đây cũng là cơ hội giúp tôi đúc rút kinh nghiệm mà tôi đang nghiên cứu, khai  thác để đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm.     ̣ ế hoạch, phổ biến những thông tin hỏi đáp trong việc thực hiện xây dựng  Lâp k phong trào“ Trương hoc xanh, s ̀ ̣ ạch, đẹp, an toàn và hiệu quả”; lập phương án triển   khai đến giáo viên, nhân viên vê công tac đ ̀ ́ ảm bảo an toàn cho tre, xây d ̉ ựng các tiêu 
  19. chí đánh giá và thực hiên cam kêt đam bao an toan cho tre gi ̣ ́ ̉ ̉ ̀ ̉ ữa Hiệu trưởng và giáo  viên, nhân viên nhằm giúp đội ngũ có định hướng thực hiện kế hoạch cụ thể và đạt  kết quả. Trang trí sân trường các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương   mẫu như: “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính  hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các   trẻ giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là  điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.  *KẾT QUẢ   Từ  những cố  gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự  đồng  thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự  ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ  đã giúp  tôi đạt được một số  kết quả  trong việc dạy trẻ  mâm non các k ̀ ỹ  năng sống cơ  bản   thể hiện ở các kết quả sau: ­ Kết quả trên trẻ: ̉ ều được cha mẹ  tao moi điêu kiên khuy ­ 100% tre đ ̣ ̣ ̀ ̣ ến khích khơi dậy tình tò  ̉ ́ ưởng tượng, năng đông, manh dan, t mò, phat triên tri t ́ ̣ ̣ ̣ ự  tin, 100% tre  3­4 tu ̉ ổi được   ̣ ̉ ̉ ̣ ̣ ở trương phô thông hi ren luyên kha năng săn sang hoc tâp  ̀ ̀ ̀ ̉ ệu quả ngày càng cao. ­ 100% trẻ co thoi quen lao đông t ́ ́ ̣ ự phuc vu, đ ̣ ̣ ược rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ  năng nhận thức; ky năng vân đ ̃ ̣ ộng thô, vân đông tinh thông qua cac hoat đông hang ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̀   ngay trong cu ̀ ộc sống của trẻ;  ̉ ược rèn luyện ky năng xã h ­ 100% tre đ ̃ ội; ky năng v ̃ ề  cảm xúc, giao tiếp;  chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hanh tre em  ̀ ̉ ở trường cũng như ở  gia đình. ̉ ược giao duc, chăm soc nuôi d ­ 100 % tre đ ́ ̣ ́ ương tôt, đ ̃ ́ ược bảo vệ  sức khỏe,   được bao đam an toan, phong bênh, đ ̉ ̉ ̀ ̀ ̣ ược theo doi cân đo băng biêu đô phat triên. ̃ ̀ ̉ ̀ ́ ̉        ­ Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đat t ̣ ừ 97% trở lên và ít gặp khó khăn  khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự  chuẩn bị 
  20. khăn ăn, chén, tô, muỗng ….trong các giờ  ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn  ăn, tự xếp gối trươc va sau khi ngu ...  ́ ̀ ̉ Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng  sống tôi đã thu được kết quả sau: * Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau: Số   trẻ  Số trẻ KS  TT Khả năng KS   đầu  Đạt Đạt Nữa kỳ năm 1 + Mạnh dạn tự tinh 18/34 53% 25/34 74% 2 +Kỹ năng hợp tác 10/34 29% 23/34 68% 3 +Phát âm rõ lời 16/34 47% 23/34 68% +Kỹ  năng tự  lập, tự  phục  4 20/34 59% 25/34 74% vụ 5 +Lễ phép 16/34 47% 20/34 59% 6 +Kỹ năng vệ sinh 20/34 59% 25/34 74% +Kỹ   năng   thích   khám   phá  7 18/34 53% 25/34 74% học hỏi +Kỹ năng tự kiểm soát bản  8 16/34 47% 25/34 74% thân     Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ  có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc   sống tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ  trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì   vậy có thể  kết luận rằng với những biện pháp thông thường rập khuôn, máy móc  như thực trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết  vận dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc   dạy trẻ các kỹ năng sống sẽ được nâng lên rõ rệt. ­Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:  ­ Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong  việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua  bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan; 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2