intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ 5 - 6 tuổi

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non được hoàn thành với một số biện pháp như: Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng; Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục; Giáo dục thói quen hành vi văn minh thông qua các hoạt động tập thể, các ngày lễ hội, lao động, trực nhật;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ 5 - 6 tuổi

  1. ĐỀ  TÀI: MỘT SỐ  BIỆN PHÁP GIÁO DỤC THÓI QUEN HÀNH VI VĂN  MINH CHO TRẺ 5­6 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON.                                                                        I. PHẦN MỞ ĐẦU           1. Lý do chọn đề tài. Ngày nay, cùng với sự  phát triển và đi lên của xã hội, mỗi chúng ta  được sống trong môi trường văn minh, hiện đại hơn, nhưng kéo theo đó cũng   có nhiều vấn đề  nảy sinh làm ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống xã hội. Một  trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là đạo đức học đường của một   bộ phận học sinh đang bị xuống cấp, dẫn đến tình trạng bạo lực học đường,   những vụ án nghiêm trọng, những hành vi gian lận ở nhiều góc độ…   xảy ra  ngày càng phổ biến. Đây là những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân cách  đạo đức con người. Điều này không những gây hoang mang cho dư  luận xã  hội mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về  lối sống đạo đức, nhân cách   của giới trẻ ngày nay. Sự xuống cấp của đạo đức có nhiều nguyên nhân, trách   nhiệm thuộc về  nhiều ngành, nhưng trước hết trách nhiệm đó là của nhà  trường ­ nơi giáo dục đạo đức, hành vi văn minh cho trẻ  từ  khi đến trường   mầm non đến lúc bước chân vào đời. Ngay từ lứa tuổi mầm non, đặc biệt ở tuổi mẫu giáo, trẻ đã hình thành   nền móng đầu tiên của nhân cách con người; sự  phát triển đạo đức sau này   của trẻ đều ghi rõ dấu ấn của thời thơ ấu. Các hành vi văn minh của trẻ được   người lớn hướng dẫn và kiểm soát, dần dần trở  thành khuôn phép, chuẩn  mực bên trong giúp trẻ có thái độ và việc làm phù hợp với lứa tuổi.       Đối với các cháu ở lứa tuổi mẫu giáo cần phải hình thành cho trẻ một số  thói quen hành vi văn minh như: mạnh dạn trong giao tiếp; biết chào hỏi, cảm   ơn ­ xin lỗi; rèn luyện tính tự  lập, tự  phục vụ, lao động, trực nhật; biết yêu   thương, giúp đỡ ông ­ bà, bố ­ mẹ, cô giáo và mọi người xung quanh; có được  một số thói quen hành vi văn minh trong vệ sinh, ăn uống, học tập, vui chơi... 1
  2.        Nội dung giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ thì rất phong phú,   đa dạng. Nhưng trong thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng các hoạt động  ở  trường mầm non được lặp đi lặp lại hàng ngày, đây là điều kiện thuận lợi để  giáo viên giúp trẻ hình thành những thói quen hành vi văn minh                     Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan hệ trong   gia đình, cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi. Đạo đức quy định  hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội nói chung; là  những nguyên tắc phải tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá   nhân với xã hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ  chính trị  và kinh tế  xã hội   nhất định.   Nhà trường là cơ sở giáo dục có định hướng của xã hội với thế hệ trẻ.   Bên cạnh gia đình, nhà trường là một tác nhân giáo dục tích cực giúp trẻ  trưởng thành, cung cấp cho trẻ những kiến thức, kỹ năng, sự  phát triển toàn  diện về nhân cách. Việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, quan tâm tới nhu cầu  và hứng thú của trẻ, hướng dẫn dạy dỗ phù hợp với khoa học giáo dục, dựa   trên sự phát triển của từng trẻ sẽ đem lại những kết quả giáo dục tích cực.            Với tầm quan trọng trên cũng như qua quá trình thực hiện bản thân tôi  đã đúc rút được một số kinh nghiệm trong việc giáo dục hành vi văn minh cho  trẻ  và tôi đã mạnh dạn chọn đề  tài "Một số  biện pháp giáo dục thói quen   hành vi văn minh cho trẻ  5 ­ 6 tuổi"    làm sáng kiến kinh nghiệm cho bản  thân. Với hy vọng những việc làm của chúng tôi sẽ  góp phần vào sự  hình  thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.          2. Phạm vi áp dụng của đề tài ; Đề tài “ Một số  biện pháp giáo dục thói   quen hành vi văn minh cho trẻ 5­6 tuổi” được áp dụng rộng rãi trong trường  mầm non                                   II. NỘI DUNG           1.Thực trạng           Trường mầm non nơi tôi giảng dạy là một trường vùng giữa của huyện  Lệ  Thủy, dân số  đông, phụ  huynh chủ  yếu làm nghề  nông nghiệp. Các cơ  2
  3. quan, điểm công cộng đóng trên địa bàn nhiều, nên các thói quen hành vi văn  hóa của trẻ bị tác động bên ngoài rất lớn.         Trong những năm qua bản thân tôi được Phòng giáo dục, nhà trường tập  huấn về cách lồng ghép chuyên đề  giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ, xây dựng  các tiết dạy mẫu, cung cấp tranh  ảnh, băng đĩa cho giáo viên nghiên cứu...   song thói quen hành vi văn minh của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế.           Năm học 2014­2015 nhà trường phân tôi dạy lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi  với số lượng 32 cháu, trong quá trình thực hiện bản thân tôi gặp phải một số  thận lợi và khó khăn sau:         1.1 Thuận lợi.          Nhà trường có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên xây dựng lồng ghép nội   dung giáo dục hành vi văn minh cho trẻ đến tận cán bộ giáo viên.                   Lớp   đủ   đồ   dùng   đồ   chơi   trang   thiết   bị   tối   thiểu   theo   thông   tư  02/2010/TTBGD ĐT   ngày 11/2/2010 của Bộ  Giáo dục và đào tạo để  thực   hiện chương trình giáo dục Mầm non.         Giáo viên có trình độ Đại học được tập huấn về nội dung lồng ghép giáo  dục hành vi văn minh cho trẻ.          Đa số trẻ qua lớp mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ. Tỷ lệ trẻ đi học thường  xuyên thuận tiện cho việc giáo dục hành vi văn minh cho trẻ.          Nhận thức của phụ huynh ngày càng cao, luôn quan tâm đến con cái.         1.2. Khó khăn.            Giáo viên chưa có sự  đầu tư trong các hoạt động lồng ghép giáo dục   thói quen hành vi văn minh cho trẻ.           Phần lớn các kĩ năng tự phục vụ cho bản thân như  cách dọn đồ  chơi,  cỡi giày dép, quần áo, xưng hô với bạn, với người lớn còn nhiều hạn chế.   Trong giao tiếp thiếu tự tin, nói rụt rè, nói trống không, chưa biết nói lời cảm  ơn, xin lỗi.           Một số phụ huynh quá nuông chiều con cái, một số chưa quan tâm đến   các thói quen hành vi văn minh cho trẻ. 3
  4.          2.3. Điều tra thực tiễn:  Vào đầu năm học sau khi quan sát qua các hoạt động của trẻ và thông   qua các hệ  thống câu hỏi thông thường. Chúng tôi thấy các thói quen hành vi  văn minh của trẻ đạt được  như sau:  ­ 40% Trẻ tự tin mạnh dạn, có tính tự lập. ­ 70% Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép, biết nói lời cảm ơn ­ xin lỗi.  ­ 50%  Trẻ có ý thức trong việc thu dọn đồ dùng, đồ  chơi sau khi tham  gia các hoạt động, biết giúp đỡ cô giáo và các bạn những công việc phù hợp. ­ 60% trẻ có thói quen văn minh trong ăn uống.  => Xuất phát từ tình hình thực tế của lớp, bản thân tôi đã thực hiện một   số biện pháp sau nhằm giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ:            2. Biện pháp           2.1. Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua hoạt động chăm   sóc nuôi dưỡng. Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố  then chốt quyết định tạo nên tài  năng và tính cách của mỗi con người. Sự nuôi dạy con trẻ sát nhất là gia đình,   tiếp đến là làng xóm và xã hội. Nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc  còn nằm trong bụng mẹ  cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại. Lứa   tuổi  ấu thơ  là giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của  trẻ. Nhân cách mặc dù chưa được thể  hiện rỏ  ràng nhưng thông qua hành vi  bắt chước hành động của người lớn, trẻ  em bắt đầu thu nhận tất cả  các  tương tác nhân – sinh – quan để hình thành nhân cách của mình. Đo đó trong  quá trình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ giáo viên cần:           * Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt hằng ngày: Chế độ sinh hoạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trẻ mầm non.   Nó là phương tiện giáo dục nói chung và là phương tiện giáo dục thói quen   hành vi văn minh cho trẻ nói riêng. Chế  độ  sinh hoạt tạo cho trẻ có một thói  quen thực hiện giờ  nào việc nấy và giúp trẻ  dễ  dàng chuyển từ  hoạt động  4
  5. này sang hoạt động khác. Để  thực hiện được điều đó, đòi hỏi cô giáo phải   thực hiện nghiêm túc các hoạt động theo chế độ sinh hoạt. Ví dụ:  Sau khi trẻ  tham gia hoạt động góc xong, trẻ  biết cất dọn đồ  chơi vào nơi quy định, sau đó ra xếp hàng rửa tay – lau mặt, chuẩn bị vào giờ  ăn. Hoặc sau khi ngủ  dậy trẻ biết vệ sinh cá nhân, rửa mặt sạch sẽ  tỉnh táo  để ăn quà xế...  Tuy nhiên, chúng ta không nên cứng nhắc, gò bó đối với trẻ  mà phải   tạo điều kiện cho trẻ  luyện tập thoải mái, nhẹ  nhàng, thực hành thông qua  các nội dung trong ngày từ  đó giúp trẻ  chủ  động tích cực khi thực hiện các   hoạt động. Tạo cho trẻ có thói quen hành vi văn minh một cách tự nhiên.  * Giáo dục hành vi văn minh thông qua công tác vệ sinh trẻ: Bản thân  tôi luôn chú ý rèn luyện cho trẻ qua các thời điểm vệ sinh trong ngày (các thao  tác rửa tay ­ lau mặt trước và sau khi ăn; sau khi đi vệ sinh; sau khi chơi bẩn;   sau khi ngủ dậy. Ý thức tiết kiệm nước, không xô đẩy, chen lấn bạn). Ví dụ: Trước giờ  ăn tôi thường nói “Đã đến giờ  vệ  sinh, cô cháu mình cùng  rửa tay, lau mặt nhé” trẻ  chủ  động đứng thành 3 tổ  3 hàng dọc ngay ngắn và  đọc bài thơ  "Lời cô dặn". Đọc bài thơ xong từng tổ lần lượt vào rửa tay, trẻ  biết rửa tay bằng xà phòng đúng quy trình, trẻ  thực hiện trật tự  không đùa  nghịch, không xô đẩy lẫn nhau. Tiếp đến trẻ chọn khăn đúng ký hiệu của mình  và thực hiện đúng quy trình lau mặt. Lau mặt xong trẻ biết lấy ghế ngồi vào   tổ, đúng chỗ của mình. Tổ trực nhật giúp cô dọn dẹp đồ dùng, dụng cụ sau khi   vệ sinh vào nơi quy định. * Thông qua giờ ăn trưa: Việc ăn uống không những đáp ứng nhu cầu  dinh dưỡng của cơ thể mà còn có khía cạnh về đạo đức, thẩm mỹ, hành vi văn  minh trên bàn ăn thể hiện sự tôn trọng mọi người xung quanh và người phục   vụ. Trong những giờ  ăn trưa, tôi giáo dục cho trẻ  có những thói quen hành vi  văn minh trong ăn uống (trước khi ăn phải mời cô, mời bạn, 01 tay giữ bát, 01   5
  6. tay cầm thìa xúc cơm, biết ăn từ  tốn, nhai kỹ, ăn hết bát  thứ nhất lên xin bát  thứ hai, biết ăn hết suất, hiểu được tác dụng của các món ăn...).          + Ví dụ: Đến giờ ăn tôi chuẩn bị mỗi bàn 2 cái dĩa, môt dĩa đựng cơm rơi,   một dĩa đựng khăn  ẩm lau tay. Trẻ biết khi cơm rơi nhặt bỏ  ở dĩa và lau tay   vào khăn. Khi cô giáo chia cơm và thức ăn, tổ trực nhật lên bưng cơm cho các   bạn, trước khi ăn trẻ biết mời cô, mời các bạn cùng ăn cơm “ Chúng cháu mời   cô ăn cơm! Mời các bạn ăn cơm!". Trong khi ăn tập cho trẻ có thói quen hành  vi văn minh không được nói chuyện, không cười đùa, ăn chậm, nhai kỷ, nếu có   hắt hơi hoặc ho thì dùng tay che miệng lại và quay người sang phía sau. Khi lên  xin bát thứ 2 trẻ biết đứng thành hàng dọc trật tự ai lên trước đứng trước, ai lên  sau đứng sau. Khi xin cơm trẻ biết đưa bát cho cô bằng 2 tay và nói lời cảm ơn  sau khi nhận cơm. Mặt khác trong giờ  ăn, tôi phân công chỗ  ngồi cho trẻ phù   hợp, với 1 bàn có 6 bạn. Ví dụ hôm nay trong bàn có bạn vắng trẻ biết hỏi cô,  hỏi bạn vì sao bạn vắng. Đó cũng chính là sự  quan tâm lẫn nhau giữa các trẻ  trong lớp.            *Thông qua giờ ngũ: Trong giờ ngủ tôi thường tập cho trẻ có thói quen  đi ngủ  phải nằm đúng chỗ  của mình, ngủ  đúng giờ, tạo cho trẻ  thói quen đã  nằm là ngủ ngay, không được nói chuyện riêng, nằm đúng tư thế (có thể thay  đổi tư thế ngửa, nghiêng). Khi ngủ không được kéo chăn trùm kín đầu, không  được nằm sấp, úp mặt vào gối, không được nằm cả  người lên gối. Khi có   nhu cầu đi vệ  sinh phải xin cô và đi nhẹ  nhàng không làm  ảnh hưởng đến  giấc ngủ của bạn. Với cách hướng dẫn cụ thể, tận tình và được thực hiện có  nề nếp thường xuyên như vậy đã giúp cho trẻ có được thói quen tốt khi ngủ.   Hầu hết trẻ  ngủ  đẩy giấc, đúng giờ. Thông qua giờ  ngủ, chúng tôi còn tập  luyện và hình thành cho trẻ kỹ năng tự phục vụ (trực nhật theo tổ), trẻ chưa   có thể nhắc sạp nhưng đã biết giúp cô trải chiếu, sắp xếp gối và lấy chăn cho  bạn. Sau khi ngủ dậy biết giúp cô thu dọn đồ dùng. Cô giáo nhắc nhỡ trẻ về  nhà phải tự thu xếp đồ dùng trước và sau khi ngủ để được bố mẹ khen ngợi. 6
  7.         2.2 . Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo  dục. * Thông qua các hoạt động khám phá tự  nhiên và xã hội: Giáo dục  thói quen hành vi văn minh thông qua các hoạt động học có nhiều  ưu thế  nhằm hình thành cho trẻ  những thói quen, hành vi có văn hoá, tôn trọng tập  thể, chờ  đến lượt, giữ  gìn trật tự  trong giờ  học.Thông qua các hoạt động  khám phá tự nhiên và xã hội. Ngoài việc cung cấp kiến thức ­ kỹ năng cho trẻ  phù hợp với yêu cầu bài dạy, tôi đã dành thời gian để trẻ tự liên hệ và nói lên  cảm xúc của mình. +   Ví dụ: Cho trẻ  làm quen với “Bác nông dân”, trẻ  biết được công  việc vất vả  của bác để  làm ra sản phẩm giúp mọi người có được cái ăn, từ  đó trẻ  có ý thức hơn trong việc ăn hết suất, không lãng phí các thực phẩm,  kính trọng và yêu quý bác nông dân. * Thông qua các hoạt động phát triển ngôn ngữ (thơ và chuyện).           Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua các bài thơ  ca: Thơ ca là   tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh vẽ đẹp của tiếng mẹ  đẻ, là sản phẩm, trí   tuệ và tình cảm của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Biết bao điều của cuộc sống  được diễn đạt một cách uyển chuyển, giàu nhạc điệu vần điệu với những  hình tượng lung linh trong những bài ca dao, những vần thơ hay làm nảy sinh  ở  con người những tình cảm đẹp đẽ, những  ước mơ  trong sáng. Thông qua  các bài thơ, câu chuyện. Cô giáo còn giúp trẻ  hiểu được nội dung của tác  phẩm văn học, mỗi câu chuyện, bài thơ  đều có nội dung giáo dục khác nhau.  Cũng chính qua các nhân vật trong bài thơ  và câu chuyện đã giúp trẻ  có được  tấm lòng nhân ái, ý thức giúp đỡ  mọi người xung quanh, yêu thương em nhỏ,   lễ phép và vâng lời người lớn.            + Ví dụ: Qua câu chuyện “Ba cô gái” trẻ phần nào ý thức được khi bố  mẹ bị ốm trẻ phải biết hỏi han, động viên, rót nước, lấy khăn......Chúng tôi đã   biết khai thác trẻ bằng cách dành thời gian để  trẻ  nói về  những công việc đã  7
  8. làm. Qua nhân vật “chị  cả, chị  hai” cô giáo hỏi trẻ  có khi nào con làm những  việc làm mẹ  buồn chưa? để  trẻ  tự  nói lên sự  thật về  bản thân. Chính sự  nói  thật đó đã giúp trẻ  mạnh dạn tự  đánh giá về  mình, về  bạn, tập cho trẻ  tính  trung thực. Tôi đã chú ý động viên, khích lệ, gợi mở  giúp trẻ  tự  tin giải bày  cảm xúc.            * Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ thông qua hoạt động âm nhạc:             Âm nhạc là một loại hình nghệ  thuật gắn bó hết sức mật thiết với   cuộc sống của mỗi người kể từ khi lọt lòng mẹ đến khi từ giã cỏi đời. Theo  quan sát của nhiều người thì hầu như  đứa trẻ  nào củng  ưa thích âm nhạc.   Quả thật âm nhạc như một món ăn tinh thần đối với trẻ em. Những giai điệu  trầm bổng những tiết tấu nhịp nhàng đưa trẻ em vào thế giới cái đẹp. Đối với  giáo dục mầm non, những khúc ca nhỏ nhắn, gọn gàng nhưng lại có tác động   mạnh mẽ đến tâm hồn trẻ thơ, như bài: “Mẹ  yêu không nào” của nhạc sĩ Lê  Xuân Thọ. Lời ca mọc mạc, giản dị  dễ  thương, mà cũng dễ  nhớ, đó là lời   nhắc nhỡ của người lớn bằng giai điệu âu yếm, nhẹ nhàng đối với một em bé  nhỏ. Khi trẻ hát thuộc bài hát giáo viên đưa ra một số câu hỏi như: Bài hát nói  về ai? Khi đi thì như thế nào? Khi về như thế nào? Hoặc bài: Con chim vành  khuyên của nhạc sĩ Hoàng vân, bài hát có tính giáo dục hành vi văn minh trong   giao tiếp rất gần gũi với trẻ  như  gọi dạ, bảo vâng. Chim gặp bác chào mào   chào Bác, chim gặp cô sơn ca chào cô....Thông qua bài hát trẻ có thể tiếp nhận  những cái hay cái đẹp một cách dễ  dàng. Đây chính là phương tiện kỳ  diệu,   rất thích hợp với việc giáo dục đạo đức ­ thẫm mĩ là thành phần cơ bản hình   thành nên hệ thống hành vi văn minh của trẻ nhỏ.            Bên cạnh các hoạt động học, giáo viên đã chú ý lồng ghép giáo dục và   hình thành các hành vi văn minh cho trẻ thông qua các hoạt động khác như: hoạt  động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động chiều.           * Thông qua hoạt động vui chơi:   Đối với trẻ nhỏ nhất là trẻ mẫu giáo, trò chơi thường gây hứng thú và say mê  nhất, vì trò chơi tác động mạnh mẽ đến đời sống tình cảm của các cháu. Cũng  8
  9. như nghệ thật, chơi là người bạn đồng hành của tuổi thơ, chơi là cuộc sống của  trẻ, không chơi trẻ không thể phát triển được.  Hầu hết các trò chơi đều có tác  động đến trẻ nhiều mặt ( Thể chất, trí tuệ, đạo đức , thẫm mỹ). Nhưng trong   việc giáo dục đạo đức, hình thành hành vi văn hóa cho trẻ thì loại trò chơi đóng  vai theo chủ đề là trò chơi có hiệu quả nhất. Bỡi vì trò chơi đóng vai theo chủ  đề là hoạt động có chủ đạo đối với trẻ mẫu giáo. Thông qua các trò chơi đóng  vai theo chủ đề như: bán hàng, cô giáo, khám bệnh, nấu ăn... trẻ được thỏa sức   sắm vai, được làm người lớn và thể  hiện vai chơi của mình qua giao tiếp, cử  chỉ, thái độ với mọi người xung quanh. Đúng là một xã hội thu nhỏ đối với các  cháu. Cũng có thể là trẻ học được từ bố mẹ, qua xem ti vi, phim ảnh, qua cuộc   sống xung quanh, nhưng vai trò của cô giáo vẫn là quan trọng nhất. Chúng tôi  quan sát và hướng dẫn kịp thời khi trẻ lúng túng, cung cấp thêm nội dung và các   kỹ năng chơi cho trẻ.  + Ví dụ: Qua trò chơi “khám bệnh”. Bác sĩ biết thăm hỏi bệnh nhân ân  cần, xưng hô, cô, chú, bác, cháu đau chỗ   ở  nào? Bác đã ăn những thứ  gì? Đi   ngoài nắng bác có đội mũ không? Biết khuyên bảo bệnh nhân uống thuốc đầy  đủ. Ăn nhiều hoa quả. Nghỉ  ngơi  ở  nhà; sau khi uống hết thuốc phải đến  kiểm tra lại.....cô Y tá phát thuốc biết dặn bệnh nhân uống ngày mấy lần,  bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn đối với cô y tá, bác sĩ. Qua trò chơi “bán hàng” Người bán hàng phải biết chào, mời, hỏi khách:  Cô, chú mua gì ạ? Người mua: Bao nhiêu tiền một cân cá vậy cô? Người bán  hàng phải nói được giá tiền, sau khi nhận tiền phải biết cảm  ơn, thừa tiền   phải gửi lại... Chính qua các hoạt động như  vậy đã giúp trẻ  phát triển ngôn ngữ  và có  được những quy tắc  ứng xử  phù hợp. Trẻ  tự  tin, mạnh dạn hơn trong giao   tiếp với bạn bè và người lớn xung quanh. 2.3 Giáo dục thói quen hành vi văn minh thông qua các hoạt động tập   thể, các ngày lễ hội, lao động, trực nhật.   9
  10. * Vào các ngày lễ hội: Thông qua chủ  đề  hàng tuần của chương trình học đã phản ánh những   sự  kiện xung quanh bé như: 20/11 là ngày lễ  của các cô giáo, 22/12 là ngày  thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Tết Nguyên đán, 8/3 là ngày hội của   các bà, các mẹ và các bạn gái.... Từ ý nghĩa của những ngày lễ lớn đó, chúng  tôi đã tổ chức trò chuyện, cho trẻ xem hình ảnh, biểu diễn văn nghệ phù hợp  với chủ đề, nhằm giúp trẻ có được những kiến thức sơ đẳng về ý nghĩa của   các ngày lễ lớn, từ đó có ý thức thái độ phù hợp. Ví dụ: trẻ biết lập thành tích  để  chúc mừng bà, mẹ  nhân ngày mồng 8/3; chúc mừng cô giáo nhân ngày  20/11.    Mặt khác các ngày lễ hội ở trường mầm non như: ngày hội đến trường   của bé, tết Trung thu, tết Thiếu nhi 1/6...Việc tổ  chức các ngày lễ  hội  ở  trường mầm non có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Thông qua lễ  hội giúp cho trẻ  xâm nhập vào cuộc sống xã hội trong những thời điểm có ý nghĩa quan trọng,   để giáo dục truyền thống và mang lại niềm vui, niềm tự hào cho trẻ, làm giàu   cho tâm hồn trẻ thơ những tình cảm đẹp đẽ, không khí vui vẽ tưng bừng của   ngày hội, ngày lễ làm thay đổi không khí của những ngày học tập, tạo cho trẻ  cảm xúc mới mẽ, thêm yêu gắn bó với trường, với lớp, với cô giáo, với bạn  bè của mình. Tất cả  những cảm xúc, sự  hào hứng đã được các bé thể  hiện  bằng các tiết mục văn nghệ đặc sắc. Bé vui sướng phấn khởi khi được biểu  diễn cho ông, bà, bố, mẹ cùng xem.  + Ví dụ: Sắp đến ngày khai giảng năm học mới, được nhà trường phân  công cho lớp tập các tiết mục văn nghệ, tất cả  trẻ  đều rất phấn khởi tập   luyện cùng cô giáo và háo hức chờ đón ngày đứng trên sân khấu để biểu diển,   được cô giáo trang điểm, được mặc áo quần đẹp, được nhận quà.... Tất cả  những cái đó tạo cho trẻ  có thêm động lực muốn đến lớp, đến trường, khả  năng biểu diễn, tự tin... * Trong lao động ­ trực nhật: 10
  11.    Đối với trẻ mẫu giáo lớn (5 ­ 6 tuổi), trong trường các cháu đã là đàn  anh, đàn chị. Trẻ  đã biết nhận thức và thể  hiện cái tôi của mình. Thông qua   các hoạt động trực nhật và lao động tại lớp, tại sân trường. Trước khi thực   hiện chúng tôi phân chia trẻ  theo từng nhóm, phân công nhóm trưởng, nhóm  phó và giao nhiệm vụ  cho trẻ. Ví dụ: nhóm 1 do bạn Vũ làm nhóm trưởng,  bạn Nhi làm nhóm phó, các bạn sẽ  dọn dẹp, sắp xếp và lau chùi  ở  góc xây   dựng; tương tự  các nhóm khác cũng vậy. Trong khi trẻ  thực hiện cô giáo là  người bao quát, nhắc nhỡ, giúp đỡ và động viên tinh thần làm việc của các bé.   Từ ý thức thi đua với nhau giữa các nhóm và thi đua giữa các bạn trong cùng   một nhóm, trẻ có thể tự đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân  và của bạn bè từ đó có ý thức phấn đấu vươn lên để có kết quả tốt như bạn. 2.4 Làm tốt công tác phối hợp với phụ  huynh ­ cộng  đồng xã hội   trong việc giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ. Công tác phối hợp với phụ huynh về thực hiện nhiệm vụ chăm sóc ­ giáo   dục trẻ là việc làm thường xuyên, thiết thực. Thực tế cho thấy giáo viên nào  làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh thì chất lượng của trẻ trong lớp đạt  kết quả cao. Việc giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ  lại càng phải  cần công tác phối hợp. Qua các thời điểm đón, trả  trẻ, các cuộc họp phụ  huynh đầu năm, giữa năm, cuối năm hoặc những buổi truyền thông tôi luôn  phổ  biến và tuyên truyền cách nuôi dạy con theo khoa học và việc giúp trẻ  duy trì các thói quen hành vi văn minh ở lớp lúc về nhà.  Ví dụ: Phụ huynh giành thời gian chăm sóc con cái như nhắc nhỡ trẻ vệ  sinh thân thể  (rửa tay ­ lau mặt ­ đánh răng) vào các thời điểm cần thiết để  hình thành ở trẻ thói quen; trước và sau các bữa ăn, giấc ngủ  phụ  huynh cần   động viên trẻ  tự  phục vụ  và có thể  giúp mẹ  những việc làm phù hợp nhằm   hình thành cho trẻ biết chia sẽ công việc với người lớn. Phụ huynh phải luôn  mẫu mực trong giao tiếp  ở  nhà để  trẻ  noi theo. Đồng thời chú ý sửa sai kịp   11
  12. thời cho trẻ những thiếu sót trong chào ­ hỏi, cảm ơn ­ xin lỗi, trong giao tiếp   với bạn bố và mọi người xung quanh. Tôi luôn trao đổi với phụ  huynh qua các giờ  đón, trả  trẻ  như: thông báo  cho gia đình biết tình hình của trẻ ở lớp và qua gia đình có thể nắm được các   hành vi của trẻ ở nhà.  Ví dụ: Phụ  huynh bạn Hải Anh trao đổi với cô giáo là cháu đi học về  không chịu thưa ông, bà, ba, mẹ.....hoặc phụ huynh cháu Ly Na trao đổi với cô   giáo về  nhà bố, mẹ  cho gì cũng không nói lời cảm  ơn. Một số  phụ  huynh   phấn khởi trao đổi với cô giáo về  sự  tiến bộ  của trẻ  (biết rửa tay trước khi   ăn, khi tay bẩn; ngủ  dậy biết thu dọn chăn, gối gọn gàng; trước khi ăn biết  mời ông bà, bố mẹ, biết chơi với em để mẹ nấu ăn; ai cho quà biết lấy bằng  2 tay và cảm ơn; khi ông bà, bố mẹ ốm biết hỏi han và động viên)... Qua ý kiến trao đổi của phụ huynh, tôi sẽ có biện pháp để giáo dục trẻ.   Những trẻ  có hành vi chưa đúng, chúng tôi không chỉ  trích hoặc phê bình mà  thông qua các hoạt động học, trò chơi để  giúp trẻ  thực hiện tốt hơn. Còn  những trẻ  có hành vi tốt, chúng tôi khen ngợi giữa lớp để  các bạn cùng học  tập.  2.5. Làm gương và khích lệ. Trẻ mầm non rất hay bắt chước người lớn. chính vì vậy giáo viên và cha   mẹ   luôn   giữ   chuẩn   mực   trong   giao   tiếp.   Trong   khi   trò   chuyện   với   đồng  nghiệp phải thận trọng, không được nói tục, nói to. Xưng hô nhẹ  nhàng có  văn hóa, không được cải nhau trước mặt trẻ. Luôn chú ý trò chuyện  ứng xử  với trẻ, không to tiếng quát nạt; xưng hô nhẹ  nhàng khiêm tốn, lịch sự  trong  giao tiếp với phụ huynh học sinh; khi ai hỏi phải chú ý lắng nghe, trả  lời rỏ  ràng, đủ ý để làm gương cho trẻ noi theo. Khi trẻ chưa ngoan cần nhắc nhở trẻ nhẹ nhàng, không nói nặng lời trẻ  sẽ  sợ  hải. Tuy nhiên cần có thái độ  dứt khoát khi trẻ  tỏ  ra không lễ  phép.   Chẳng hạn khi trẻ đến lớp không chào cô, không chào các bạn, cô nên nhắc  nhở trẻ nhẹ nhàng. “ Con chào cô và các bạn đi”. 12
  13. Trong việc giáo dục hành vi văn minh  cho trẻ  người lớn, cô giáo  cần   biết khen chê trẻ  đúng lúc và đúng mức. Khi trẻ  thể hiện được một hành vi   văn hóa đẹp cần phải khên ngay bằng những lời biểu dương, hay món quà   nhỏ  mang ý nghĩa tinh thần, nhằm khuyến khích và củng cố  những hành vi   văn hóa đó. Ngược lại khi trẻ  tỏ  ra những cái chưa tốt trong hành vi, người   lớn cần có thái độ chê trách, không đồng tình, làm cho trẻ biết như vậy là hư,   không ai yêu. Tùy theo từng đối tượng trẻ để giáo viên có biện pháp giáo dục  phù hợp. Ví dụ: Những trẻ nhút nhát hoặc cá biệt, đến lớp không chào cô giáo, cô  phải nhẹ  nhàng trao đổi với trẻ, nhắc nhỡ  trẻ chào cô chào bạn.  Khi trẻ  lễ  phép ngoan ngoãn, vâng lời thì cô nên tuyên dương trẻ trước tập thể lớp, như  vậy tạo động lực cho trẻ ngoan ngoãn hơn. Chúng tôi luôn tổ chức vào các buổi cuối giờ, cuối ngày cho trẻ nhận xét  lẫn nhau giữa các bạn trong lớp, bạn nào ngoan, bạn nào không ngoan lý do vì  sao ngoan, vì sao không ngoan.   Ngoài ra tôi luôn thay đổi các hình thức để  trẻ  nhận xét đúng sai như  đưa ra một số câu hỏi? Khi có người lớn đến nhà mình chơi các con phải làm  gi?. Hoặc khi đi học về trong nhà có khách các con có chào khách không?  Từ  đó giúp trẻ hình thành kỹ năng trong giao tiếp. 3. Kết quả đạt được: 3.1 Đối với giáo viên. ­ Biết cách xây dựng lồng ghép nội dung giáo dục thói quen hành vi văn   minh cho trẻ. ­ Linh hoạt trong việc lồng ghép   nội dung giáo dục phù hợp với từng  đối tượng trẻ. ­ Bản thân tôi có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong việc giáo dục  thói quen hành vi văn minh cho trẻ.  Được nhà trường và phụ huynh tín nhiệm cao. 3.2 Đối với trẻ. 13
  14.         ­ 90% Trẻ tự tin mạnh dạn, có tính tự lập.         ­ 100% Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép, biết nói lời cảm ơn ­ xin lỗi.          ­ 95%  Trẻ có ý thức trong việc thu dọn đồ dùng, đồ  chơi sau khi tham   gia các hoạt động, biết giúp đỡ cô giáo và các bạn những công việc phù hợp.         ­ 100% trẻ có thói quen văn minh trong ăn uống.  3.3.  Đối với phụ huynh. Phụ  huynh nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc giáo dục thói  quen hành vi văn minh cho trẻ. ­ Các bậc phụ huynh có ý thức, trách nhiệm hơn trong việc phối hợp với  nhà trường, cô giáo về  các hoạt động chăm sóc ­ giáo dục trẻ  nói chung và   giáo dục hành vi văn minh cho trẻ nói riêng.                                   III. KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của đề tài sáng kiến. Việc giáo dục hành vi văn minh cho trẻ  nên bắt đầu từ  khi trẻ  còn nhỏ,   ngay từ tuổi mầm non. Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ giúp trẻ tự lập, tự  tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống. có lối sống đẹp, biết cư xữ đúng mức  với mọi người xung qunh, quan tâm đến vệ  sinh cá nhân và nơi công cộng,  yêu cái đẹp, khát khao vươn tới cái đẹp chân chính, ghét cái xấu xa trong quan   hệ gữi người với người, thể hiện sự hiểu biết, sự phong phú của tâm hồn… Có thể khẳng định rằng lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ  phát triển đặc biệt, tất   cả  những gì trẻ  đạt được đều là cơ  sỡ  cho sự  phát triển nhân cách sau này.  Những hành vi văn hóa được hình thành  ở  tuổi này chính là nền tảng cho cả  hệ  thống hành vi của con người khi trưởng thành mà vai trò giáo dục của  người lớn là không thể thiếu được. Để trẻ có được một số  hành vi văn minh trong cuộc sống, giáo viên cần  tạo cơ  hội để  trẻ  được tương tác với bạn bè, người lớn được trải nghiệm,  thực hành và luyện tập thường xuyên  ở  trường cũng như  gia đình thông qua  14
  15. các hoạt động phong phú và đa dạng như học tập, vui chơi, lao động, sáng tạo  nghệ thuật. Từ thực tế cho thấy để  trẻ có được thói quen hành vi văn minh tốt, giáo  viên cần nhận thức đúng tầm quan trọng của việc giáo dục hành vi văn minh   cho trẻ, phải là người gương mẫu trong mọi phương diện để trẻ noi theo.            Phải biết lựa chọn lòng ghép các nội dung giáo dục hành vi văn minh   cho trẻ thông qua hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng một cách phù hợp.          Thông qua các hoạt động giáo dục trong các lĩnh vực như: Lĩnh vực ngôn  ngữ, lĩnh vực thẫm mỹ, lĩnh vực phát triển nhận thức... một cách linh hoạt,  nhẹ nhàng với những nội dung gần gữi trẻ.           Giáo dục thói quen hành vi văn minh thông qua các hoạt động tập thể,  các ngày lễ hội, lao động, trực nhật...  Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh ­ cộng đồng xã hội trong việc  giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ.   Trên đây là một số  kinh nghiệm đã triển khai trực hiện  ở  lớp tôi tuy  không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong Hội đồng khoa học các cấp và   chị em đồng nghiệp tham gia góp ý cho đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn để  góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.  15
  16. Liên Thủy, ngày 25 tháng 5 năm  2015                                                           Người viết sáng kiến kinh nghiệm                                                                         Lê Thi Hóa XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG  KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG                                16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1