intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:34

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra các biện pháp giáo dục trẻ mẫu giáo lớn biết cách tự bảo vệ bản thân mình khi gặp các trường hợp kẻ xấu muốn tiếp cận xâm hại mình. Giúp trẻ hình thành kỹ năng sống. Bản thân giáo viên tích lũy được kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ biết cách tư bảo vệ bản thân khi bị người khác xâm hại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại

  1.          ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI    TRƯỜNG MẦM NON ĐẠI KIM                 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM                 Đề tài:       MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TRẺ 5­6 TUỔI BIẾT TỰ  BẢO VỆ BẢN THÂN  KHI BỊ NGƯỜI KHÁC  TIẾP CẬN XÂM HẠI Lĩnh vực/Môn: Giáo dục mầm non Cấp học: Mầm non Tên tác giả: Nguyễn Lan Hương Đơn vị công tác: Trường mầm non Đại Kim Chức vụ: Giáo viên
  2. NĂM HỌC 2019 ­ 2020
  3. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Trẻ em luôn là niềm hy vọng, là tương lai của đất nước, là nền móng   cho một thế  hệ  tương lai vững chắc. Xã hội hiện đại như  con dao hai lưỡi,  mặc dù nó khiến cuộc sống của con người ngày càng phát triển nhưng song   hành với cuộc sống phát triển hiện đại ấy chính là những hiểm nguy luôn rình   rập bởi sự  cạnh tranh của con người và sự  suy thoái về  đạo đức. Họ  cạnh  tranh cả  về  vật chất và lương tâm, có rất nhiều người không từ  bất cứ  một   công việc, một thủ đoạn, để kiếm tiền, để làm giàu, để đạt mục đích ích kỷ  của bản thân. Và “sự  việc” mà có thể  nói là đang vô cùng nóng, được tất cả  mọi người đặc biệt các bậc phụ  huynh đều quan tâm và lo lắng cho trẻ  đó  chính là “bắt cóc”, “xâm hại”. Theo thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (Bộ LĐTBXH) số trẻ  bị  xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,2% và số  trẻ  em bỏ  học, sống lang   thang, bị xâm hại tình dục chiếm 11,6%. Bên cạnh đó theo báo cáo của 63 tỉnh,  thành phố  cho  thấy,  trung  bình mỗi năm,  cả  nước xảy  ra  2.000  vụ  xâm  hại  tình  dục,  năm  sau thường cao hơn năm trước.  tính 4 năm (2015 ­ 2018) và 6  tháng đầu năm 2019, toàn quốc xảy ra 7.829 vụ xâm hại trẻ em, với 7.767 trẻ  em bị xâm hại. Tại Hà Nội, từ năm 2015 đến hết tháng 6/2019, có 365 vụ xâm  hại trẻ  em với 313 trẻ  em bị  xâm hại, trong đó, xâm hại tình dục 199 vụ  (chiếm 54,5%) với 220 trẻ. Trẻ  nhỏ  rất ngây thơ, trong sáng lợi dụng những đặc điểm này những  kẻ  xấu luôn muốn tiếp cận với trẻ  nhỏ. Đặc biệt, trẻ  mầm non trong giai  đoạn từ  5 ­ 6 tuổi là giai đoạn mà trẻ  dễ  gặp phải những nguy hiểm khi bị  người lạ tiếp cận xâm hại. Bởi ở giai đoạn này, trẻ  bắt đầu thích khám phá,  thích được vui chơi, thích được trò chuyện với mọi người nhưng lại chưa có  những kỹ năng cơ bản ban đầu để bảo vệ chính bản thân mình. Nhiều bố mẹ  trẻ  lại có quan điểm đó là sẽ  luôn có mặt, hay không để  con một mình tại   những nơi có thể  bị  người khác tiếp cận  mà  không  lường  đến  rằng  có  quá  nhiều địa điểm trẻ có mặt đều có thể bị người khác lợi dụng nhằm tiếp cận  xâm  hại.  Thậm  chí  còn  số  ít  phụ  huynh  cho  rằng  dạy trẻ  những điều đó là  chưa cần thiết hoặc yêu cầu, cấm trẻ không ở một mình. Vì thế ngày nay trẻ  em phải học những kỹ năng sống cần thiết, phải học cách làm sao để biết tự  bảo vệ  bản thân mình khỏi trường hợp nguy hiểm mà những con người vô  nhân tính trong cuộc sống hiện đại phức tạp tạo nên. Là một giáo viên mầm non với 5 năm công tác, tôi nhận thấy cần phải   đưa ra một số  nội dung giáo dục trẻ  biết tự  bảo vệ  bản thân khi có người  tiếp cận xâm hại. Chính vì thế tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Một số biện  
  4. pháp giáo dục trẻ 5 ­ 6 tuổi biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp   cận xâm hại”.
  5. II. Mục đích nghiên cứu ­ Chỉ ra các biện pháp giáo dục trẻ mẫu giáo lớn biết cách tự bảo vệ  bản thân mình khi gặp các trường hợp kẻ xấu muốn tiếp cận xâm hại mình. ­ Giúp trẻ hình thành kỹ năng sống. ­ Bản thân giáo viên tích lũy được kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ  biết cách tư bảo vệ bản thân khi bị người khác xâm hại. III. Đối tượng nghiên cứu ­ Trẻ mẫu giáo lớn 5 ­ 6 tuổi tại lớp IV. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp xây dưng giả thiết ­ Phương pháp quan sát ­ Phương pháp so sánh ­ Phương pháp trải nghiệm V. Phạm vi nghiên cứu ­ Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động giáo dục trẻ 5 ­ 6 tuổi  biết tự bảo vệ bản thân khi có người khác tiếp cận xâm hại trong năm học  2019 ­2020.
  6. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận Chúng ta cần hiểu vấn đề: “Người tiếp cận xâm hại” là ai? Đó chính là  những người trẻ không quen biết, còn với những người trẻ quen nhưng cũng  tiếp cận với trẻ vì mục đích xấu trẻ phải làm gì? Theo số liệu của bộ công  an, 92% người xâm hại tình dục trẻ em là hàng xóm, họ hàng, thầy giáo,  ông, bố đẻ, bố dượng.Vậy khi có người tiếp cận bản thân trẻ với mục đích  xấu trẻ cần phải biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm  hoặc trẻ biết cách phản ứng, hành động, xử lý nhanh và đúng nhằm bảo vệ  chính bản thân mình, giúp mình nhanh chóng thoát khỏi nguy hiểm hoặc ít  nhất là làm giảm bớt sự nguy hiểm đối với bản thân mình. Trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ giai đoạn 5 ­ 6 tuổi, độ  tuổi trẻ rất muốn   làm chủ hành động của mình, đồng thời  đây cũng là độ tuổi mà nhu cầu được  tự  do trong giao tiếp xã hội của trẻ  rất mạnh mẽ, với mỗi một người bạn  mới với một câu chuyện mới hay một món quà nhỏ như là một chiếc kẹo đã   có thể đem đến cho trẻ niềm vui, sự hứng thú và cả lòng tin tưởng. Đã có rất  nhiều những tình huống nguy hiểm xảy ra nếu trẻ không biết phòng tránh cho  chính bản thân trẻ. Theo tôi một số  tình huống hiện nay các bậc phụ  huynh  hay quan tâm hơn đó là: Khi có người lạ tới đón trẻ tại trường mầm non, khi   có người tiếp cận trẻ tại các địa điểm công cộng, khi có “khách” tới nhà trong   lúc trẻ   ở nhà một mình, khi bị xâm hại tình dục, khi bị bắt cóc. Vấn đề giáo  dục trẻ có những kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm  hại đang là một trong những kỹ năng sống không những được ngành giáo dục  mầm non chú trọng mà nó còn được cả xã hội quan tâm theo dõi. Trẻ càng có  kỹ  năng sống tốt bao nhiêu trẻ  càng không gập nguy hiểm bấy nhiêu, vì thế  việc dạy trẻ  các kỹ  năng sống rất cần thiết cho trẻ   ở  trường mầm non nói   chung. II. Thực trạng vấn đề 1. Đặc điểm chung: ­ Trường  mầm   non   Đại   Kim  có   3   điểm   trường   với   tổng   số  19  lớp.  Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, tận tâm, nhiệt huyết với nghề. ­ Trường có khu khu vui chơi phát triển vận động với nhiều đồ  chơi đa   dạng. Tại khu chơi vận động  cơ  sở  Đại Từ  có mái che, đồ  dùng đồ  chơi  ngoài trời phong phú, nhiều chủng loại.  ­ Trang thiết bị đầy đủ, đảm bảo môi trường, không gian rộng rãi cho trẻ  trải nghiệm, lĩnh hội những kỹ năng, kiến thức thực tế.
  7. 2. Thuận lợi: ­ Ban giám hiệu, tổ chuyên môn nhà trường luôn tạo mọi điều kiện cũng  như thường xuyên chỉ đạo, thăm lớp để rút kinh nghiệm.
  8. ­ Với đề tài giáo dục trẻ biết bảo vệ bản thân khi có người tiếp cận xâm  hại đa số  giáo viên đều cho rằng rất cần thiết thực nên cùng phối hợp, cùng   trau dồi nâng cao kỹ  năng, kinh nghiệm cho chính bản thân và cho công tác   giáo dục trẻ. ­ Năm học 2019  ­ 2020, tôi được nhà trường phân công phụ  trách lớp  mẫu giáo lớn A4 với tổng số học sinh là 45 cháu, trong đó có 24 nam, 21 nữ. ­ Lớp có 2 giáo viên đều có trình độ đại học, trong đó có 1 giáo viên lâu  năm, dày dặn kinh nghiệm. ­ Bên cạnh đó, tôi luôn nhận được sự ủng hộ và lòng tin của các bậc phụ  huynh. 3. Khó khăn: ­ Khả năng nhận thức, hợp tác giữa các nhóm trẻ không đồng đều. ­ Các hình thức tổ  chức trong quá trình giáo dục trẻ  kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân khi có người tiếp cận xâm hại còn nghèo nàn và đơn điệu. ­ Tài liệu hướng dẫn giáo dục trẻ  kỹ  năng biết tự  bảo vệ  bản thân khi   có người tiếp cận, xâm hại còn hạn chế. ­ Ngoài ra, nếp sống gia đình và những thói quen cũ của học sinh cũng là  một khó khăn lớn trong việc thực hiện, đa số các bậc phụ huynh chỉ quan tâm  đến việc học chữ, học số, các hoạt động khác không được phụ  huynh chú  trọng, nâng cao. Ngoài ra vấn đề  trẻ  bị  người tiếp cận, xâm hại đa phần   nhiều phụ huynh còn chủ quan, ngại ngùng né tránh và không quan tâm đến.        4. Khảo sát thực trạng:        Để tiến hành khảo sát kiểm tra những kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân   của trẻ  tại lớp tôi đã xây dựng phiếu điều tra “Những kỹ  năng trẻ  có trong   các tình huống cụ thể khi bị người khác tiếp cận xâm hại” và phát về gia đình  trẻ để cha, mẹ hỏi và kiểm tra, đánh giá kỹ năng xử lý tình huống trẻ cần có.  Bên  cạnh  đó  tôi phối  hợp  cùng  với  đồng  nghiệp  tại  lớp,  chia  lớp  thành  2  nhóm, mỗi cô sẽ phụ trách một nhóm nhằm kiểm tra, đánh giá những kỹ năng  mà trẻ đã qua việc tạo tình huống để trẻ thực hành. Từ đó, tôi đánh giá trẻ đã   có những kỹ năng gì và cần phải học thêm những kỹ năng gì và vận dụng kỹ  năng đó ra sao.         Kết quả tổng hợp đầu năm học trên tổng số 45 trẻ như sau:
  9. ( Trường hợp không đánh giá (­)) Tình huống Khi có  Khi có  Khi   có  Khi bị  Khi bị  cụ thể người  người  “khách”  xâm  bắt  lạ tới  tiếp cận  tới   nhà  hại tình  cóc    Kỹ năng đón  tại địa  lúc   trẻ  dục xử lý trẻ cần có tại  điểm  ở   nhà  trườn công cộng một g mình ­   Biết nói “không” với  20/45  15/45  13/45  người lạ. ­ ­ (44%) (33%) (29%) ­ Biết gọi và làm theo sự 15/45 13/45  11/45  10/45  chỉ dẫn của người đáng tin  (33%) (29%) ­ (24%) (22%) cậy ­ Biết số điện thoại của  16/45  14/45  14/45  15/45  13/45  bố mẹ hoặc số khẩn cấp  (36%) (31%) (31%) (33%) (25%) như 113; 114; 115. ­ Biết kể lại toàn bộ sự  21/45 19/45 16/45 12/45 10/45 việc (47%) (42%) (36%) (27%) (22%) với bố mẹ. ­ Biết đặc điểm giới tính,  13/45  một   số   bộ   phận   nhạy  (29%) cảm trên cơ  thể và không  ­ ­ ­ ­ cho người khác chạm vào
  10. ­ Biết giữ bình tĩnh, không 15/45 14/45 13/45 12/45 9/45 hoảng hốt. (33%) (31%) (29%) (27%) (20%) ­ Biết một số cách phản  14/45  12/45  11/45  ứng, động tác tự vệ để  ­ (31%) ­ (27%) (24%) thoát khỏi nguy hiểm. ­ Không mở  cửa cho bất  kỳ ai khi ở nhà một mình,  15/45  lịch sự từ chối và hẹn họ,  ­ ­ (33%) ­ ­ nhắn   lại  hoặc  lúc  khác  đến  gặp bố mẹ. Thông qua biện pháp này tôi nhận thấy chỉ  số  ít trẻ  lớp tôi biết được  những  kỹ  năng  cơ  bản  để  tự  bảo  vệ  bản  thân  mình  khi  có  người  tiếp  cận  xâm hại (khoảng 30% trẻ, cao nhất có  47% trẻ) nhưng  đó chỉ  là đối với  những tình huống khá đơn giản, còn đối với nhiều tình huống khác rất nhiều  trẻ  chưa nắm được những kỹ  năng cơ  bản (khoảng 60% ­ 75% trẻ), một số  trẻ lớp tôi khi mới chỉ nói đến bị bắt cóc đã tỏ thái độ rất sợ hãi và không biết  phải làm gì để bản thân
  11. thoát khỏi nguy hiểm hay nhiều trẻ  không biết những kiến thức cơ  bản về  giới tính, về những hành vi, những cách phản kháng trong tình huống bị xâm   hại tình dục,...Tôi nhận thấy  thông qua việc  khảo  sát  sơ bộ này tôi đã tổng  hợp được những kỹ  năng đã có của trẻ  lớp tôi trong quá trình xử  lý các tình  huống cụ thể có thể xảy ra trong trường hợp bị người khác tiếp cận xâm hại.   Từ  đó, tôi có phương hướng tiếp tục thực hiện các biện pháp tác động cần   thiết nhằm nâng cao nhận thức cũng như kỹnăng của trẻ trong các tình huống. III. Các biện pháp 1. Biện pháp  1:  Lựa chọn và lồng ghép các nội dung giáo dục kĩ   năngkhi bị người khác biết cận xâm hại Bên cạnh các tình huống đưa ra ở trên thì tôi cũng đã nghiên cứu và xây  dựng nội dung giáo dục lồng ghép vào từng tháng xuyên suốt trong một năm  học. Tháng Nội dung giáo dục Yêu cầu ­ Bé  làm  gì  khi  có  người  lạ  ­ Trẻ  biết nói không khi có người  đến đón? lạ đến đón về. 9 ­ Bé làm  gì  khi  thấy  bạn  tự  ý  ­ Trẻ  biết  không  được  tự  ý  ra  khỏi  ra lớp, khỏi trường, lớp. một mình ra khỏi trường. ­ Gia đình yêu thương của bé. ­ Dạy   trẻ   biết   địa   chỉ,   họ   tên,   số  điện thoại của bố mẹ và người thân  trong gia đình mình. ­ Có   người   lạ   đề   nghị   mở  ­ Trẻ  biết  trả  lời  “không”  khi  có  cửa khi có một mình ở nhà. người không quen đến gõ cửa. ­ Bé lớn lên như thế nào? ­ Trẻ biết các bộ phận trên cơ thể,  biết giới tính của mình, những ai có  thể chạm vào cơ thể bé. 10 ­ Những   vùng   “nhạy   cảm”  ­ Trẻ   biết   không   để   người   khác  trên cơ thể bé cần biết. chạm vào những vùng nhạy cảm. ­ Luật bàn tay. ­ Dạy trẻ thuộc lòng “luật bàn tay”:  ôm hôn đối với ông bà, cha mẹ, anh  chị   em   ruột;   nắm   tay   với   thầy   cô, 
  12. bạn bè,  họ  hàng;  bắt  tay  với  người  đã từng gặp; vẫy tay chào người lạ;  và  xua  tay với người cố  tình đụng  chạm con  mà con không muốn. ­ Bé có thể nhờ sự giúp đỡ từ ­ Trẻ  biết nhờ đến sự  trợ giúp  của  ai? chú công an khi đi lạc đường… 11 ­ Ngoài số  điện thoại của bố  mẹ,  trẻ   cũng   nên   biết   một   vài   số   điện  thoại khẩn cấp tại Việt Nam là: Số  113: Lực lượng cảnh sát phản  ứng nhanh. Số  114: Số  khẩn chữa cháy hay khi  cần cứu hộ cứu nạn Số 115: Cấp cứu y tế. ­ Biết kêu cứu và chạy khỏi  ­ Trẻ biết tạo sự chú ý, kêu gọi sự  12 nơi, người nguy hiểm. giúp   đỡ   của   mọi   người   khi   gặp  nguy  hiểm,   biết   một   số   kỹ   năng  phản kháng  và chạy khỏi nơi nguy hiểm. ­ Khi  đi  chơi  bé  cần  nhớ  ­ Luôn nắm chặt tay bố mẹ, người  những gì? lớn. Không đi theo hoặc nhận quà từ  người lạ. 1 ­ Những địa điểm công cộng  ­ Trẻ   biết   một   số   địa   điểm   công  bé cần biết. cộng có thể  chạy đến, hoặc nhờ  sự  giúp đỡ khi gặp nguy hiểm. ­ Bé có nên ra vỉa hè chơi? ­ Trẻ  không tự  ý ra đường chơi khi  2 không có người lớn đi cùng. Nhận biết nguy cơ bị bắt cóc. ­ Bé nhớ những gì nào? ­   Dạy   trẻ   nhớ,   kể   lại,   tóm   tắt  3 những đặc điểm cơ  bản, những chi  tiết quan trọng, tóm tắt được các sự  việc đặc biệt đã diễn ra.
  13. ­ Bé làm gì khi bị lạc? ­   Trẻ   biết   dừng   lại,   đứng   yên   và  nhìn   xung   quanh,   nếu   không   thấy  4 bố  hoặc mẹ, quay lại và đi thẳng  tìm đến những người có mặc đồng  phục, đeo bảng tên (chú công an, bảo vệ...). ­   An   toàn   và   lịch   sự   trong­  Ngoài việc  có thể  tự giác vệ sinh  phòng tắm. các nhân trẻ  biết ai có thể  giúp trẻ,  5 có thể được chạm vào cơ thể trẻ. ­ Trẻ  biết  tự  mình  giữ  an  toàn  khi  tắ m như chốt cửa.
  14.         2. Biện pháp 2: Tạo tình huống cụ thể có nguy cơ cao để trẻ tham   gia giải quyết Bản thân tôi luôn xác định muốn giáo dục cho trẻ mẫu giáo lớn có kỹ  năng biết tự bảo vệ bản thân khi bị người khác tiếp cận xâm hại thì việc  làm  đầu  tiên  là chính tôi phải nắm chắc về  kiến thức cũng như  kĩ năng  thực   hành.   Tôi   đã   tham   khảo   sách   báo,   tìm   tòi   nghiên   cứu   các   tài   liệu   chuyên môn hay tham khảo qua tài liệu về kiến thức cơ bản và kỹ năng xử  lý tự  bảo vệ  bản thân khi bị  người khác tiếp cận xâm hại đồng thời trực  tiếp tham gia các buổi tập huấn thực tế  cũng như  trao đổi với tổ  chuyên   môn và các giáo viên khác có đề tài nghiên cứu tương tự về mục đích của   mình để từ đó xác định được các tình huống cụ thể.           Sau khi nghiên cứu, trao đổi tôi nhận thấy có rất nhiều địa điểm, thời   gian mà trẻ dễ bị tiếp cận, xâm hại, thậm chí là nơi mà chúng ta cho là an  toàn nhất, đó chính là nhà, hay trường học. Vì thế, trẻ  cần phải được học  kỹ  năng xử  lý, giải quyết để  đảm bảo rằng chính bản thân mình được an   toàn hay ít nhất là giảm nhẹ đi những hậu quả  của những sự  việc đó. Có  một số tình huống cụ thể đã và đang diễn ra rất nhiều lần trong trường hợp   trẻ  bị  người khác tiếp cận xâm hại. Những tình huống đó rất “khẩn cấp”   mà ngay lúc đó đòi hỏi bản thân trẻ phải nhanh chóng xử lý nhằm thoát khỏi  sự  đe  dọa nguy  hiểm  và  bản thân được  an toàn, hoặc làm giảm bớt đi sự  nguy hiểm với bản thân mình. Sau đây chính là một số tình huống cụ thể mà sau khi nghiên cứu tôi  nhận thấy trẻ cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức, kỹ năng cơ  bản để có thể thoát khỏi nguy hiểm, giúp bản thân được an toàn.  Tình huống cụ thể Thời gian dễ xảy ra Địa điểm có thể xảy ra 1.Khi có người lạ tới ­ Giờ trả trẻ và thời điểm ­ Trường mầm non trường đón trẻ. khác khi trẻ chơi 2. Khi có người tiếp ­ Thời điểm cha mẹ  ­ Công viên, khu vui chơi cận trẻ tại các địa  không chú ý tới trẻ. công cộng, siêu thị, bể  điểm công cộng. ­ Thời điểm đông người. bơi,... 3. Khi bị bắt cóc. ­ Lúc trẻ ở 1 mình hay bố ­ Bất cứ nơi đâu. mẹ trẻ không chú ý tới  trẻ
  15. 4. Khi có người lạ ­ Lúc trẻ ở nhà một mình. ­ Tại chính nhà trẻ. hoặc quen tới nhà.  Các tình huống cụ thể và các trường hợp có thể xảy ra, cách giải  quyết ( Phụ lục)
  16. Song  song  với  việc  tìm hiểu nghiên cứu  các  tình huống cụ  thể có  thể  xảy ra trong trường hợp trẻ bị người khác tiếp cận xâm hại và những kỹ năng   cần có để  xử lý những tình huống đó, tôi tiến hành khảo sát sơ bộ những kỹ  năng mà trẻ lớp tôi đã có trong từng tình huống cụ thể của trường hợp khi có   người tiếp cận xâm hại trẻ. Với giáo viên mà nói thì giáo viên chỉ cần truyền đạt, lồng ghép những  kiến thức,  kỹ  năng  sống  này  trong  các  hoạt  động  trong  tháng  để  trẻ  có  thể  hình dung ra và biết cách phòng trừ nếu xẩy ra với chính trẻ. Ví dụ: Khi người lạ  cho kẹo, rủ  đi chơi, trẻ  sẽ  làm gì, sẽ  vận dụng  những kiến thức, kỹ năng  ấy như  thế  nào, sẽ  sử  dụng kỹ  năng nào trước và  kỹ năng nào sau để giải quyết được vấn đề. Đối với tình huống này đòi hỏi bản thân giáo viên vừa phải kiên trì lại  vừa khéo léo, tế nhị để không những trẻ có thể tiếp thu hết những kiến thức,   kỹ  năng mà trẻ  còn thấy được tầm quan trọng của đặc điểm giới tính của  chính bản thân trẻ. Từ  đó ngay  ở  độ  tuổi mầm non trẻ  hình hình nên một   “bản năng” để  có thể  bảo vệ  chính mình trong trường hợp nguy hiểm nhạy   cảm này. Ngoài ra tôi còn cung  cấp  thêm  các  kỹ  năng  cần  thiết  trong  tình  huống này để trò chuyện, giáo dục trẻ đó là: Dạy trẻ  không tự  tiện đụng chạm cơ  thể  người khác:  Bên cạnh việc  dạy trẻ        không để  người khác đụng chạm vào cơ  thể, Tôi nhận thấy cần  dạy trẻ tôn trọng cơ thể người khác. Việc này sẽ tránh cho trẻ bị tò mò về cơ  thể người khác, dẫn đến nguy cơ bị lợi dụng và xâm hại.          Dạy trẻ cách chạy thật nhanh hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác: Để  đề phòng trường hợp không may trẻ bị tấn công, tôi kết hợp cùng bố mẹ trẻ,  mọi người xung quanh để  đưa ra các giả  thiết và hướng dẫn trẻ  cách chạy  trốn như có thể dạy trẻ tìm cơ hội lúc kẻ xấu sơ  hở để chạy thật nhanh hoặc  la hét thật lớn cầu cứu người xung quanh. Ngoài ra, tôi cũng dạy cho trẻ ghi   nhớ  số  điện thoại của bố  mẹ  hoặc bất kì người thân nào trong gia đình để  trẻ có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.    Dạy trẻ biết tỏ thái độ dứt khoát khi người khác chạm vào vùng nhạy  cảm: Dạy trẻ tỏ thái độ  dứt khoát khi có người cố  ý đụng chạm vào cơ  thể  con, nhất là các vùng nhạy cảm. Nhấn mạnh việc không ai có quyền đụng  chạm vào những vùng nhạy cảm của con khi chưa được sự cho phép của con,   kể cả  là ông, bố, những người thân thiết. Nếu ai đó cố tình đụng chạm, ôm  ấp, vuốt ve mà con không thích, hãy đẩy tay ra và tỏ  thái độ  không hài lòng,  sau đó hét thật to để yêu cầu họ tránh xa ra.
  17.          Dạy trẻ về “Luật  bàn tay”: Tôi đã sưu tầm và nhận thấy, có một bài  học rất hay và phù hợp với trẻ lứa tuổi 5 ­ 6 tuổi. Đó là “ Luật bàn tay” và tôi   đã dạy trẻ học thuộc lòng “luật bàn tay” : ôm hôn đối với ông bà, cha mẹ, anh  chị em ruột; nắm tay với thầy cô, bạn bè, họ hàng; bắt tay với người đã từng  gặp; vẫy tay chào người lạ; và xua tay với người cố tình đụng chạm con mà  con không muốn.          Luôn nhắc nhở trẻ cần phải ngay lập tức nói cho bố mẹ biết khi bị   ai   đó cố  tình đụng chạm  cơ thể: Tôi luôn nhắc cho trẻ nhớ  rằng:  khi bị  ai đó  đụng chạm vào cơ  thể trẻ, trẻ  đã phản  ứng lại bằng thái độ  gay gắt nhưng   họ  cố  tình làm và sau đó còn đe dọa trẻ  không được nói với ai thì nhất định  phải nói cho bố mẹ biết để bố mẹ có biện pháp bảo vệ trẻ.  Thông qua biện pháp này tôi đã có kết quả  tốt cho việc nghiên cứu để  xây dựng ra được 4 tình huống cụ thể mà nguy cơ xảy ra là khá cao. Trong tất  cả 4 tình huống, toàn bộ trẻ lớp tôi đã được thực thành trải nghiệm và các con   đều xử  lý tình huống theo trường hợp 2 là nhiều. Các tình huống này đã tạo   cho trẻ  sự  hứng  thú,  sự  mạnh  dạn  tự  tin,  sự  linh  hoạt  khi  áp  dụng  những  nhận thức, kỹ năng trẻ đã học vào nhằm xử  lý các tình huống. Không những  vậy thông qua các tháng tôi lồng ghép đưa các nội dung giáo dục trẻ để trẻ có   kiến thức phòng tránh khi bị xâm hại.          Ảnh minh họa 1: Hình ảnh cô đang giáo dục trẻ kỹ năng bảo vệ  bản   thân khi có người khác tiếp cận xâm hại lồng ghép vào giờ hoạt động chiều.   (Phụ lục)         * Tổ  chức cho trẻ  thực hành kỹ  năng xử  lý khi bị  người khác tiếp  cận  tại địa điểm công cộng ( Trường mầm non vào giờ trả trẻ) và khi trẻ   bị xâm hại tình dục: Theo tôi, việc trẻ  mầm non giai đoạn 5 ­ 6 tuổi được thực hành, trải  nghiệm trên thực tế những gì được học rất cần thiết  và mang tính quyết định.  Thông qua thực hành trải nghiệm trẻ sẽ ghi nhớ tốt hơn và trẻ sẽ hình thành  các kỹ năng sống cần thiết cho chính trẻ. Để thực hiện tốt các tình huống thì tôi xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà  trường cũng như với các bậc phụ huynh đưa ra tình huống  bị người khác tiếp  cận xâm hại ngay tại trường mầm non. Kết quả là thông qua tình huống cô và  trẻ  đã tự tin hơn, đã nắm chắc chắn hơn những kiến thức và kỹ năng phản  ứng, xử lý khi bị tiếp cận. 100% trẻ lớp tôi đã có kỹ năng biết bảo vệ bản  thân khi bị người khác tiếp cận như  không nhận đồ  từ  người lạ, không tiếp   xúc nhanh chóng tìm người tin cậy tới giúp đỡ, và tìm người thân của mình…
  18.          Ảnh minh họa 2: Trẻ chơi tự do sau khi được đón về và có người lạ tiếp  cận      Ảnh minh họa 3: Trẻ nhanh chóng xua tay từ chối chạy về với người thân   (Phụ lục)         Bên cạnh đó, ngoài tình huống bị người khác tiếp cận xâm hại tại các địa   điểm công cộng, tôi nhận thấy tình huống trẻ bị xâm hại tình dục đang là một  vấn đề vô cùng nóng. Do đó, gia đình, nhà trường cần tăng cường cảnh giác,  giám sát trẻ để không xảy ra trường hợp đáng tiếc đối với con em mình. Đồng  thời, bố mẹ và cô giáo nên trang bị những kỹ năng, kiến thức cần thiết để trẻ  tự  bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm hại tình dục. Nhiều người cho rằng ở  độ tuổi mầm non việc giáo dục cho trẻ những kỹ năng về xâm hại tình dục là  quá sớm. Riêng với cá nhân tôi lại không cho là như thế, ngay từ khi trẻ lên 3   tuổi, trẻ đã bắt đầu có khả năng nhận thức về cơ thể cũng như biết cách thể  hiện cảm xúc, thái độ  của mình. Lúc này, trẻ  đã có thể  bắt đầu học kỹ  năng  cơ  bản nhất để  tự  bảo vệ  mình trước nguy cơ  bị  xâm hại bằng cách tỏ  thái   độ  dứt khoát khi có người cố  ý đụng chạm vào cơ  thể  con, nhất là các vùng   nhạy cảm. Hiện nay vẫn có rất nhiều bậc phụ  huynh còn né tránh, ngại   ngùng khi nhắc đến vấn đề  này, đây cũng là vô hình chung khiến trẻ  mất đi  kỹ  năng, kiến thức đáng lẽ  ra nó giúp trẻ  bảo vệ  chính  bản thân mình khỏi  những tôi ác của kẻ tha hóa. Vì thế với tình huống này tôi cũng mạnh dạn xác  định cho trẻ thực hành. Đây là một tình huống tế nhị vì thế  để thực hiện được tình huống này,  đầu tiên tôi đã phải xin ý kiến của bản thân trẻ  và gia đình trẻ  đóng vai trải  nghiệm diễn tập. Sau khi được sự  cho phép, tôi đã xây dựng lên tình huống   như  sau: khi trẻ đang chơi trong ngõ gần trường mầm non, có một chú hàng   xóm gần nhà trẻ  đến cạnh, hỏi han và lôi kéo trẻ  tới cuối ngõ chỗ  vắng   người, sau đó có những hành động như ôm ấp trẻ. Cô mời các nhóm tới 1 địa  diểm khác gần đó để  quan sát để  xem cách xử lý tình huống của bạn bị xâm   hại như  thế  nào. Để  thực hiện tốt trải nghiệm này thì bản thân tôi và phụ  huynh, chú bảo vệ cùng tham gia. Tôi và trẻ lớp tôi đã đứng quan sát theo dõi   hành vi, thái độ của trẻ thì tôi thấy trẻ đã biết phản ứng rất mạnh mẽ, sau khi  nhanh chóng thoát khỏi người đàn ông kia, trẻ đã chạy ngay ra đường chỗ có  người và chạy về tới nhà và tường thuật lại toàn bộ sự việc cho mẹ trẻ nghe.  Qua đó tôi nhận thấy trẻ đã nhớ những bài học mà tôi đã truyền thụ cho trẻ.  Từ  đó, tôi tiếp tục giáo dục những trẻ  còn lại trong lớp qua cách xử lý của 
  19. bạn hoặc hỏi  những  trẻ  còn  lại  xem  cách xử  lý  của bạn  như  vậy  đã đúng  chưa?            Ảnh minh họa 4: Cô tổ chức cho trẻ đi quan sát, trải nghiệm  tình huống.             Ảnh minh họa 5: Tình huống trẻ đứng chơi 1 mình.           Ảnh minh họa 6: Người lạ tiếp cận trẻ và cho trẻ kẹo, trẻ có nguy cơ  bị xâm hại Ảnh minh họa 7: Trẻ phản kháng chạy và kêu cứu. (Phụ lục)           3. Biện pháp 3: Phối kết hợp với phụ huynh của lớp để  giáo dục   trẻ  kỹ  năng bảo vệ  bản thân khi có người khác tiếp cận xâm hại  ở  mọi   lúc mọi nơi: Trẻ  em phần lớn thời gian là  ở  trường, nhưng cũng không ít thời gian   của trẻ   ở  nhà bên cha mẹ  (đó là thời gian trẻ  về  nhà sau giờ  học, thời gian   buổi sáng trước  khi  trẻ  đi  lớp,  những  ngày  nghỉ  cuối  tuần,  lễ  tết…).  Việc  giáo dục trẻ biết tự bảo vệ bản thân trong khi có người tiếp cận xâm hại lại  cần được rèn luyện thường xuyên, liên tục và ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là  trong hoàn cảnh thực tế. Vì thế, tôi nhận thấy việc tuyên truyền, phối hợp   với phụ huynh dạy trẻ  ở nhà để  để  trẻ  có thêm kỹ  năng là rất cần thiết. Để  giáo dục tốt các con thì giáo viên và phụ  huynh luôn phải là song đôi đi cùng  nhau để giúp các con tiếp thu tốt nhất. Đầu tiên tôi giúp phụ huynh có kiến thức cơ bản, có sự rèn luyện đúng  đắn về kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi ngoài trường học.  Qua đó, bản thân tôi đã phối hợp cùng gia đình rèn luyện và uốn nắn trẻ, giúp   trẻ thuần thục và chính xác hơn trong các động tác, cách xử lý. Bảng tuyên truyền của trường là không thể  thiếu của mỗi nhà trường  vì ở đó là thông tin của nhà trường với gia đình. Tại bảng tuyên truyền này có  tất cả các thông tin cần đưa đến với phụ như từ những thông tin chuyên môn,  các thông tin công khai tài chính đến các tin tức, hay những kỹ năng trẻ cần có  để bảo vệ bản thân trong các trường hợp nguy hiểm. Tại bảng tin nhà trường   cũng đưa các nội dung thông tin về  sự  nguy hiểm khi trẻ  bị  người khác tiếp  cận xâm  hại  và các nội  dung  trong  bảng  biểu  còn  được  thay  đổi  thường  xuyên.  Những  nội  dung  tuyên truyền  ở  đây rất thực tế  vì nó phản ánh các  hoạt động, kỹ  năng bảo vệ  bản thân khi có người tiếp cận xâm hại nên rất  được phụ huynh chú ý mỗi khi đón trả trẻ. Bảng còn dành riêng một vài ô nhỏ  để  mang đến những thông tin về  một số  câu chuyện, tai nạn đáng tiếc vừa   xảy ra trong thời điểm đó để  phụ  huynh nâng cao ý thức cũng như  thấy  rõ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2