Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường Mầm non Yên Thọ
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp nâng cao chất lượng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường Mầm non Yên Thọ" nhằm tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5-6 tuổi đạt hiệu quả cao tại trường Mầm non Yên Thọ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường Mầm non Yên Thọ
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LỒNG GHÉP TÍCH HỢP NỘI DUNG GIÁO DỤC DINH DƯỠNG VÀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CHO TRẺ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TẠI LỚP MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON YÊN THỌ Người thực hiện: Lê Thị Lan Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Yên Thọ SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HOÁ NĂM 2022
- 2
- MỤC LỤC 2.4. Hiệu quả đạt được...........................................................................................................17
- 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Lúc sinh thời Bác Hồ đã nói: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. Đó là thông điệp mà tất cả mọi người phải quan tâm. “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ vào công lao học tập của các cháu” [1]. Trẻ em những mầm non tương lai của đất nước, đất nước có giàu mạnh, phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ thật tốt ngay từ khi trẻ còn ở độ tuổi mầm non là vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã biết con là vốn quý của xã hội, nhân tố con người sẽ quyết định mọi thắng lợi. Bởi vậy Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước[2]. Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ, là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách con người mới, xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng thời trang bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học và là hành trang theo suốt quá trình phát triển của trẻ [2].Vì vậy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non là rất quan trọng và cần thiết. Trong những năm gần đây Đảng và nhà nước rất quan tâm đến GD&ĐT. Nghị quyết TW II Khoá VIII của Đảng đã khẳng định: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển". “Mục tiêu của Giáo dục mầm non là chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ vì trẻ là hạnh phúc của gia đình là tương lai 3] của đất nước, là lớp người kế tục và xây dựng đất nước ” . Như vậy, có thể nói: Đảng, Chính Phủ và Nhà nước ta đã và đang rất quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ em và xem việc nâng cao sức khoẻ cho trẻ em là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển con người. Chính vì vậy, trong những năm qua bậc học mầm non đã tổ chức tập huấn rất nhiều lớp chuyên đề về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng bảo vệ sức khoẻ cho trẻ. Có thể nói rằng, sức khỏe thể chất của trẻ là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển con người mới của Đảng ta. Quá trình chăm sóc nuôi dưỡng tốt, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ phát triển hài hòa cân đối toàn diện cơ thể trẻ. Nhưng muốn có được những chủ nhân tương lai của đất nước khỏe mạnh, cần quan tâm tới việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ngay từ khi các cháu còn nhỏ tuổi. Trẻ em ở lứa tuổi Mầm non đang thời kỳ phát triển mạnh, các cơ quan đang hoàn thiện dần, mặt khác trẻ chưa chủ động, chưa ý thức đầy đủ về vấn đề chăm sóc bản thân. Sự lớn lên của trẻ phụ thuộc vào việc chăm sóc của người lớn. Vì vậy, những người chăm sóc trẻ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên trong trường mầm
- 2 non phải có những kiến thức cơ bản về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Nếu trẻ không được chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và phát triển thể lực. Sức khỏe là vốn quý của con người. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng sức khoẻ, vì con người có sức khoẻ thì công tác sẽ tốt, trẻ có khoẻ thì học hành mới tốt, bố mẹ mới yên tâm gửi các cháu để làm việc. Trường học mà đặc biệt là trường mầm non cần có một môi trường an toàn, trẻ học tập, vui chơi mà không có các nguy cơ xảy ra tai nạn, nơi đó trẻ khoẻ mạnh, sức đề kháng cao giúp trẻ phòng tránh được mọi bệnh tật. Song trong thực tế công tác này chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng trẻ đau ốm và mắc một số bệnh như: (viêm đường hô hấp, các bệnh truyền nhiễm, sâu răng và một số bệnh khác…) vẫn còn nhiều, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở hai thể nhẹ cân và thấp còi chưa được cải thiện nhiều. Với xu thế phát triển của xã hội hiện nay, sức khỏe sự an toàn của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố từ chủ quan đến khách quan, dịch bệnh chân tay, miệng, viêm não... đặc biệt dịch covid-19 đã bùng phát trên phạm vi toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe con người và kinh tế, xã hội của đất nước. Chính vì vậy việc tăng cường sức khỏe, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Ngoài yếu tố di truyền, chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc, đòi hỏi mỗi người cần có kiến thức, hành vi tự bảo vệ sức khỏe cho mình. Những kiến thức trên cần được học từ tuổi mầm non, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Mặt khác, phần lớn phụ huynh vẫn chưa thực sự quan tâm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ, chưa tìm hiểu kiến thức nuôi dạy con cái, nên kiến thức về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ còn nhiều hạn chế. Với tầm quan trọng của việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn cho trẻ mầm non, bản thân tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp, thủ thuật trong quá trình giáo dục trẻ, lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động dinh dưỡng, sức khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm mọi lúc mọi nơi một cách tích cực, đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy năm học này tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường Mầm non Yên Thọ”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nhằm tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5-6 tuổi đạt hiệu quả cao tại trường Mầm non Yên Thọ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5-6 tuổi đạt hiệu quả cao tại trường mầm non Yên Thọ năm học 2021-2022 1.4. Phương pháp nghiên cứu
- 3 Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp khảo sát- đánh giá. - Phương pháp điều tra. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, sự phát triển của trẻ thời kỳ này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, có vai trò quyết định, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển về sau, xuyên suốt cả một đời người. Ở lứa tuổi này, cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện dần. Vì thế cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc và mất cân đối. Do vậy trẻ chỉ có thể phát triển tốt nếu như được chăm sóc một cách hợp lý. Bên cạnh đó sức khỏe của trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chế độ dinh dưỡng, phòng bệnh, di truyền, môi trường.. trong đó dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của trẻ em. Trong thời đại của nền văn minh trí tuệ Giáo dục Mầm non đang có những chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới chung của ngành giáo dục. Dưới ánh sáng của Nghị quyết về công tác cải cách giáo dục Điều lệ trường mầm non cũng đã nêu lên nhiệm vụ hàng đầu trong 4 nhiệm vụ của trường mầm non, vì vậy việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhằm phát triển cân đối hài hòa, nhằm chống đỡ bệnh tật. Vì thế nếu chúng ta chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh không tốt về cá nhân trẻ, môi trường trong và ngoài lớp đều gây cho trẻ ốm đau, bệnh tật, dẫn đến sự phát triển về thể chất bị kìm hãm, các quá trình tâm sinh lý đang trên đà hình thành và phát triển cũng không thể nào phát triển trên một cơ thể gầy còm, ốm yếu. Mặt khác, năm học 2021-2022 nên lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ trong các hoạt động hàng ngày là việc làm vô cùng quan trọng vì sức khỏe vốn là quý, qua đây tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt cả về thể lực và trí tuệ sau này. Vì vậy nếu trẻ được chăm sóc, ăn uống đầy đủ, ngủ đủ giấc, được tham gia các hoạt động học tập, vui chơi phù hợp thì trẻ sẽ phát triển toàn diện nhân cách trẻ. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.2.1. Thuận lợi * Đối với nhà trường: Là trường chuẩn Quốc gia, tổ chức nuôi bán trú 100% tại trường nên có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ và thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đạt hiệu quả.
- 4 Được sự quan tâm của Đảng Ủy, UBND Xã Yên Thọ, Trường Mầm non Yên Thọ được xây dựng bếp ăn một chiều đảm bảo theo đúng yêu cầu của ngành giáo dục. Với sự quản lý tham mưu, chỉ đạo chặt chẽ của BGH nhà trường đã vận động được sự ủng hộ của các ban ngành, đoàn thể, hội cha mẹ học sinh trong việc đầu tư về cơ sở vật chất, trong thiết bị phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ tương đối đầy đủ. Trường có khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ có hệ thống cống rãnh hợp vệ sinh, có nguồn nước sạch phục vụ cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. * Đối với bản thân: Năm học 202-2022 tôi được phân công đứng lớp mẫu giáo 5-6 tuổi. Với kinh nghiệm chủ nhiệm cùng một độ tuổi và trực tiếp chăm sóc nuôi dạy trẻ, đây là điều kiện tốt để tôi tìm tòi ra những giải pháp hay dạy trẻ một cách phù hợp và hiệu quả hơn. Đặc biệt là những kinh nghiệm để lồng ghép nội dung dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. * Đối với trẻ: Trẻ cùng độ tuổi, đa số các cháu đều nhận biết và gọi tên các loại thực phẩm sẵn có ở địa phương. Các cháu có một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống và vệ sinh cá nhân. * Đối với phụ huynh: Luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết hợp giữa gia đình trẻ và cô giáo đạt hiệu quả cao. 2.2.2. Khó khăn * Đối với nhà trường: Trường còn thiếu một số trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ như: Xe đẩy thực phẩm, thức ăn lên các nhóm, lớp. * Đối với trẻ: Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên sự hiểu biết về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế. Những món ăn trẻ được tiếp xúc còn ít, nhiều trẻ còn chưa biết mình thích ăn món gì nhất. Sự hiểu biết về ăn uống đúng cách để có lợi cho sức khoẻ và phòng tránh bệnh tật còn nhiều hạn chế. * Đối với phụ huynh: Một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến sức khoẻ của trẻ để trẻ ăn, ngủ, vệ sinh tuỳ thích, mất vệ sinh. Từ đó dẫn đến số trẻ suy dinh dưỡng còn nhiều và mắc một số bệnh tật như: Sâu răng, Còi xương, Ngoài da, Đau mắt, Tiêu chảy, Hô hấp... 2.2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành tổng hợp kết quả cân đo, khám sức khỏe trẻ lần 1 và khảo sát về nhận biết dinh dưỡng giúp con người khỏe mạnh, chống đỡ được các loại bệnh tật cũng như hiểu biết về vệ sinh của Trẻ trong lớp. Kết quả cho thấy: Tổng số trẻ 28: * Kết quả cân đo, chấm biểu đồ: Kết quả cân nặng Kết quả đo chiều cao Tổn Kênh cao Kênh Tỷ g Số Kênh Tỷ Tỷ hơn tuổi Kênh Tỷ lệ Kênh Tỷ SDD Dưới lệ Trẻ BT lệ % -2 Và -3 lệ% trên +2 và % BT % TC lệ % +3
- 5 28 26 93,0 2 7,1 0 0 26 93,0 2 7,1 * Kết quả khám sức khỏe: Tổn Kết quả Khám bệnh g Tỷ Tỷ Còi Hô Tỷ Ỉa Đau Tỷ Sâu Tỷ lệ Nhiễm TL Ngoài Tỷ lệ Số lệ giun lệ xươn hấp lệ% chảy mắt lệ% răng % % Da % Trẻ % % g 28 0 0 0 0 2 7,1 3 10,1 0 0 1 3,5 * Kết quả khảo sát trên trẻ như sau: Kết quả trên trẻ TT Nội dung khảo sát Tổng số Đạt Tỷ lệ% Chưa đạt Tỷ lệ% Trẻ biết gọi tên các loại 1 28 15 53,6 13 46,4 thực phẩm đơn giản Phân loại nhận biết 2 phân biệt được 4 nhóm 28 12 42,8 16 57,2 thực phẩm thông thường Trẻ biết ăn nhiều loại 3 28 14 50,0 14 50,0 thực phẩm khác nhau Biết hoạt động chế biến 4 các món ăn đơn giản 28 13 46,4 15 53,6 hợp vệ sinh Trẻ biết sử dụng dụng 5 cụ ăn uống đơn giản, có 28 16 57,2 12 42,8 thói quen vệ sinh Có thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống, 6 28 14 50,0 14 50,0 có thói quen vệ sinh cá nhân Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp: - Tỷ lệ trẻ đạt: chưa cao; Chưa đạt: Còn nhiều Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện hơn. 2.3. Các giải pháp thực hiện 2.3.1. Giải pháp 1. Tuyên truyền, phối hợp các tổ chức xã hội, phụ huynh trong công tác phòng chống dịch bệnh cho trẻ *Tăng cường sức khỏe cho học sinh. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại cuộc họp với các bộ, ngành về hướng dẫn phòng, chống dịch viêm đường hô hấp cấp covid-19 trong trường học. Đối với trẻ em mầm non, giáo viên, cha mẹ học sinh có trách nhiệm đo nhiệt độ, sát khuẩn vệ sinh tay cho học sinh, súc miệng, họng bằng nước muối
- 6 hoặc nước súc miệng thường xuyên. Giữ ấm cơ thể, tập thể dục, ăn chín, uống chín, đảm bảo chế độ ăn uống đầy đủ dinh dưỡng. Hạn chế tiếp xúc với các vật nuôi, động vật hoang dã. Nếu có sốt hoặc ho, khó thở, báo với cha mẹ, cha mẹ chủ động cho trẻ nghỉ học và theo dõi sức khỏe tại nhà; nếu cần, đưa đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn, điều trị. Cha mẹ cho học sinh ở nhà nếu học sinh đang trong thời gian cách ly tại nhà theo yêu cầu của cơ quan y tế. *Đảm bảo vệ sinh thực phẩm và nơi rửa tay có xà phòng Trẻ đến lớp đảm bảo đủ nước uống hợp vệ sinh và mỗi học sinh có một cốc nước dùng riêng, được vệ sinh sạch sẽ. Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong nhà trường, mỗi học sinh có một khăn riêng và giặt sạch khăn với xà phòng sau mỗi ngày học. Sau giờ học, giờ ăn, chơi, trước và sau khi đi vệ sinh đảm bảo nơi rửa tay có xà phòng và nước sạch; đảm bảo nhà vệ sinh sạch sẽ; đảm bảo có đủ xà phòng, dung dịch khử khuẩn, các trang thiết bị phục vụ vệ sinh trường học. Giáo viên thường thông khí tại lớp học bằng cách mở cửa ra vào và cửa sổ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trong và ngoài lớp học. Vứt bỏ khăn giấy che mũi, miệng vào thùng rác và rửa sạch tay. Bỏ rác đúng nơi quy định. Tránh đưa tay lên mắt, mũi, miệng để tránh lây nhiễm bệnh. Không dùng chung các đồ dùng cá nhân như cốc, chai nước, khăn tay, gối, chăn… 2.3.2. Giải pháp 2. Tuyên truyền, phối hợp phụ huynh chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh ao toàn thực phẩm. Hàng năm vào dịp đầu năm học trường tôi tổ chức buổi họp phụ huynh riêng của mỗi lớp tận dụng cơ hội này tôi đã tuyên truyền tầm quan trọng của dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với trẻ để phụ huynh cùng nghe và hiểu được như: Muốn có một cơ thể khỏe mạnh cần ăn uống hợp lý và được chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Trẻ em ở lứa tuổi này cơ thể đang phát triển mạnh nhu cầu dinh dưỡng rất lớn, nếu thiếu ăn trẻ em sẽ là đối tượng đầu tiên chịu hậu quả về các bệnh về dinh dưỡng… Dinh dưỡng là cơ sở của sức khỏe, ăn uống theo đúng yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực và trí tuệ phát triển tốt, trẻ em mạnh khỏe học giỏi thông minh phát triển toàn diện theo 5 lĩnh vực: Đức, Trí, Lao, Thể, Mỹ. Từ việc hiểu được tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với con em mình tôi đã cho phụ huynh biết được thực trạng thiếu thốn cơ sở vật chất phục vụ cho chăm sóc giáo dục dinh dưỡng của trường để phụ huynh biết và phối hợp cùng nhà trường đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ đảm bảo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Ý kiến đóng góp của tôi đã được Ban giám hiệu và toàn trường thống nhất cao và đưa vào nội dung hội nghị phụ huynh toàn trường đầu năm học. Được Phụ huynh nhất trí 100% và tham gia hưởng ứng rất cao. 2.3.3. Giải pháp 3 Xây dựng môi trường giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm phong phú phù hợp với chủ đề * Xây dựng môi trường trong lớp:
- 7 Môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ, nó thúc đẩy và có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển đến tất cả các mặt của trẻ. Với đặc điểm của trẻ mầm non là học mà chơi, chơi mà học chính vì vậy môi trường trong lớp là nơi để trẻ trải nghiệm, khám phá thế giới xung quanh thông qua các góc chơi của môi trường giáo dục. Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh cùng tham gia làm đồ dùng đồ chơi trang trí lớp, nhằm giúp trẻ tích cực khám phá tìm tòi phục vụ trong quá trình học tập của trẻ thông qua 6 góc chơi trong lớp. Trong lớp tôi đã trang trí làm nổi bật góc “Bé tập làm nội trợ” đây là góc hoạt động xuyên suốt cả năm và hoạt động mọi lúc mọi cho trẻ. Với nhiều nội dung phong phú gắn liền với từng chủ đề thực hiện. Ở góc này, tôi đã cùng phụ huynh mua sắm những đồ chơi bằng nhựa và đồ chơi tự làm như bộ nấu ăn: xong, nồi, bát thìa, bộ đồ chơi những loại rau, quả, các nhóm thực phẩm phục vụ cho việc chơi cũng như việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ. Bên cạnh đó trẻ còn được thực hiện các quy trình thông qua các góc mở. Ở góc xây dựng - lắp ghép tôi đã chuẩn bị những đồ dùng đồ chơi cho trẻ xây dựng những trang trại, những vườn rau sạch phù hợp với từng chủ đề trong năm học. Ở góc khám phá khoa học - thiên nhiên tôi cho trẻ quan sát sự nảy mầm của hạt. Đồng thời giáo dục trẻ biết gieo hạt, hạt nảy mầm thành cây và cây được lớn lên như thế nào? Từ đó trẻ được quan sát, khám phá trải nghiệm và hiểu được lợi ích của cây. Tại góc bác sĩ tôi đã chuẩn bị cho trẻ bộ đồ khám sức khỏe để trẻ hoạt động, qua đó tuyên truyền giáo dục cho trẻ cách phòng tránh bệnh tật, bảo vệ sức khỏe cho mình cũng như mọi người xung quanh. Ở góc thư viện cùng với phụ huynh tôi đã sưu tầm được những tranh ảnh, họa báo về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ xem, quan sát, để từ đó giúp trẻ tiếp thu kiến thức về dinh dưỡng được tốt hơn. Trong góc bán hàng tôi cũng đã chuẩn bị những đồ dùng đồ chơi như: các loại thực phẩm, các loại rau quả, để trẻ được thực hành vai chơi của mình. Tất cả những đồ dùng đồ, đồ chế biến dinh dưỡng tôi đều sắp xếp ở các góc chơi một cách khoa học để giúp trẻ dễ thấy, dễ lấy, và dễ cất. * Xây dựng môi trường ngoài lớp: - Góc tuyên truyền với phụ huynh: Ở góc này tôi đã xây dựng góc trao đổi phụ huynh để phụ huynh biết về sức khỏe phát triển của trẻ theo giai đoạn có kế hoạch chăm sóc dinh dưỡng phù hợp: Với các nội dung sau: + Biết nội dung chương trình hoạt động trong ngày của trẻ, biết nhu cầu dinh dưỡng của trẻ 4 tuổi. Biết khẩu phần ăn như thế nào là đầy đủ và hợp lý… + Biết giá trị dinh dưỡng của các loại thực phẩm thông thường có ở địa phương. Biết được 10 lời khuyên vàng của tổ chức y tế thế giới WHO. + Biết được những điều cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm. Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Thế giới thực vật” và chủ đề “Thế giới động vật” tôi tuyên truyền với các bậc phụ huynh cho trẻ được làm quen với các loại rau củ quả tại gia đình. Hay còn phô tô sưu tầm các bài thơ, bài hát, câu chuyện có nội
- 8 dung về dinh dưỡng và sức khỏe để các bậc phụ huynh cho trẻ học tại nhà như: Câu chuyện Hai anh em, Cây khế, Sự tích quả dưa hấu, Sự tích Bánh chưng, bánh giày, Thơ bắp cải, đồng giao Bác bầu, bác bí...; Bài thơ Nàng tiên ốc, Tìm ổ, Rong và cá...; Bài hát tôm, cá, cua thi tài, Năm ngón tay ngoan, Tập đếm, Tập rửa mặt, Mời bạn ăn...Cứ như vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh nhất. Kết quả: Qua việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh giúp phụ huynh hiểu rõ về vai trò quan trọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, đồng thời phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình quan tâm đến vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. - Môi trường bên ngoài giáo dục trẻ: Ở đây nếu tháng nào thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm thì tôi chuyển lô tô, tranh ảnh sách báo những hình ảnh về nội dung chuyên đề này. Bên cạnh đó tôi đã lên kế hoạch 1 tháng/1 lần tổ chức các hoạt động học có lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm dưới nhiều hình thức câu đố, trò chơi, thơ truyện,…giúp trẻ hứng thú tham gia học tập tốt. Mời phụ huynh đến tham gia, từ đó phụ huynh nắm được kiến thức cũng như kỹ năng cùng phối hợp với Cô giáo giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn phẩm cho trẻ đạt kết quả tốt. Trong năm học với khu vực vườn rau của Bé: Được nhà trường đã phân công mỗi nhóm lớp/một luống. Tôi đã cùng với các Bác Phụ huynh của lớp trồng mùa nào rau đấy, gồm các loại rau: Muống, Đay, Tầm tơi, Cải bắp, cải thìa, rau ngót….. để trẻ cùng cô hàng ngày tưới, chăm sóc. Đặc biệt là trẻ biết được đây là nguồn rau sạch, an toàn, biết được phải lao động vất vả mới có rau ăn, được tìm hiểu về tác dụng của các loại rau đối với cơ thể con người…. Kết quả: Qua việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh giúp phụ huynh hiểu rõ về vai trò quan trọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, đồng thời phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình quan tâm đến vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ.
- 9 Hình ảnh: Góc tuyên truyền của lớp. Tôi đã xây dựng môi trường trong lớp và ngoài lớp theo các chủ đề, xuyên suốt cả năm học trong đó có kế thừa đồ dùng đồ chơi của chủ đề trước sang chủ đề sau. Đặc biệt là xây dựng môi trường giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền cho phụ huynh hiểu để cùng với cô giáo dạy trẻ nhận biết giá trị của các chất dinh dưỡng và giữ được vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong các đợt nhà trường tổ chức chấm điểm trang trí lớp và xây dựng môi trường giáo dục lớp tôi đều xếp loại tốt. 2.3.4. Giải pháp 4. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày ở mọi lúc mọi nơi * Trong giờ đón, trả trẻ - Tôi trò chuyện với trẻ về các loại thực phẩm mà trẻ biết tác dụng của thực phẩm đó đối với sức khoẻ con người phù hợp với chủ đề, giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung. Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới thực vật ” tôi trò chuyện với trẻ về các loại rau, quả như tên gọi, đặc điểm, là thực phẩm chứa nhiều chất vitamin, chất khoáng, ăn các loại rau quả giúp cho cơ thể tăng sức đề kháng, phòng chống bệnh tật. Trước khi ăn phải làm sạch, gọt rửa các loại thực phẩm, rửa tay, rửa các dụng cụ chế biến. - Tôi cho trẻ làm quen với đồ dùng, đồ chơi mới, từ đó giới thiệu thêm một số thực phẩm mới cho trẻ biết về tên gọi các chất có trong các loại thực phẩm đó giúp trẻ có thêm kiến thức về các loại thực phẩm mà địa phương không có. Ví dụ: ở chủ đề “Thế giới động vật” tôi cho trẻ làm quen với đồ chơi mới do bản thân tôi tự làm về các loại cá nước lợ, nước mặn mà ở địa phương tôi không có như cá chim, cá thu, cá hồi... Sau đó tôi giới thiệu về tên gọi của từng loại cá và cho trẻ biết các loại cá này sống ở biển và vùng gần biển nên ở địa phương không có các loại cá này là thực phẩm chứa nhiều chất đạm... Ngoài ra tôi còn cho trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết và để trẻ tự kể mình thích ăn món gì nhất, qua đó tôi cũng tranh thủ giới thiệu thêm các món ăn khác để góp phần làm tăng vốn hiểu biết phong phú về các món ăn cho trẻ. * Lồng ghép nội dung GDDD và VSATTP thông qua các HĐ có chủ định Tổ chức các giờ hoạt động có chủ định là hoạt động chủ đạo để giúp tôi lồng ghép, tích hợp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ một cách tốt nhất. Bởi vậy, căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động mà tôi tiến hành lồng ghép phù hợp như sau: - Với hoạt động khám phá khoa học, khám phá xã hội Đây là hoạt động chính giúp trẻ tiếp thu những kiến thức cơ bản về các loại thực phẩm, các chất dinh dưỡng - sức khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm. Thông qua các hoạt động cho trẻ khám phá về các loại rau, củ, quả các loại, các con vật nuôi trong gia đình. Tôi dạy trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm, tên gọi các món ăn chế biến từ các loại thực phẩm ấy và giúp trẻ biết được nguồn gốc các loại thực phẩm các chất có trong các thực phẩm ấy. Ví dụ: cho trẻ quan sát “Quả Cam”. Tôi chuẩn bị cho trẻ quan sát gọi tên các loại quả, màu sắc của các loại quả, giáo dục trẻ ăn quả cung cấp cho ta nhiều
- 10 vitamin, giáo dục vệ sinh cho trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch gọt vỏ bỏ hạt, sau khi ăn phải bỏ vỏ hạt vào thùng rác. Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về các con vật nuôi trong gia đình cụ thể là con gà mái trẻ biết được gà mái đẻ ra trứng, trứng là thực phẩm có nhiều chất đạm ăn trứng giúp cơ thể trẻ nhanh lớn. Qua đó động viên những trẻ chưa thích ăn trứng để trẻ tự giác ăn, đồng thời giáo dục những trẻ thích ăn trứng gà ăn ở mức độ vừa phải nếu ăn trứng gà hàng ngày sẽ bị mắc bệnh không tốt cho sức khoẻ. Trứng có thể chế biến thành các món ăn: Trứng rán, trứng luộc, trứng đúc thịt, trứng có thể dùng nấu canh cà chua. Tôi cũng cho trẻ biết một số loại thực phẩm giàu các chất dinh dưỡng như: đạm, chất béo, chất bột đường, chất vitamin và muối khoáng tôi củng cố kiến thức dưới dạng trò chơi . Ví dụ: Trò chơi vận chuyển lương thực về kho. Tôi chia các cháu ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm sẽ vận chuyển thực phẩm về kho theo yêu cầu của cô. Các nhóm chất này đã được trộn lộn nhau, rổ của tổ nào cũng đủ 4 nhóm nhưng Trẻ chỉ được chọn 1 nhóm chất qui định của Tổ mình. + Nhóm 1: Vận chuyển thực phẩm giàu chất đạm. + Nhóm 2: Vận chuyển thực phẩm giàu chất béo. + Nhóm 3 : Vận chuyển thực phẩm giàu chất tinh bột và đường. + Nhóm 4: Vận chuyển thực phẩm giàu chất vitamin và muối khoáng. - Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học: Như chúng ta đã biết văn học là tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ của văn học là ngôn ngữ biểu cảm lôi cuốn người nghe, các tác phẩm văn học có các tình huống hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Chính vì vậy những hoạt động làm quen nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm một cách nhẹ nhàng và thoải mái từ đó trẻ lĩnh hội nhanh những kiến thức mà cô truyền thụ. Ví dụ: Khi dạy bài thơ "Hạt gạo làng ta" nếu lồng dinh dưỡng bằng cách: sau khi đọc bài thơ cô hỏi: Gạo dùng để làm gì ? Gạo được chế biến thành
- 11 những món ăn gì? Gạo cung cấp chất gì? Tôi thiết nghĩ giáo dục dinh dưỡng lúc này là không hợp lí, tuy nói lồng ghép ở mọi lúc mọi nơi nhưng phải lồng ghép ở từng hoàn cảnh sao cho ý nghĩa của nó không sai lệch. Để lồng ghép phù hợp tôi đã đưa giáo dục dinh dưỡng vào phần giới thiệu bài hát: “Hạt gạo làng ta” sau khi cho trẻ nghe xong tôi hỏi bằng câu hỏi mở. + Bài hát nói về gì? + Các con có nhận xét gì về hạt Gạo? Từ đó hướng lái để trẻ biết gạo giàu chất bột đường cung cấp năng lượng giúp cơ thể khỏe mạnh, gạo còn được chế biến ra nhiều món ăn khác nhau. Giáo dục trẻ biết nông dân làm một nắng hai sương vất vả mới làm nên hạt gạo nên phải biết ơn Bác Nông dân và quí trọng hạt Gạo. Rồi sau đó tôi cho trẻ quan sát một số loại gạo như: Gạo nếp, gạo tẻ …..rồi sau đó dẫn trẻ vào bài. Ví dụ: Khi cho trẻ học bài thơ” Bắp cải xanh”. Đến phần củng cố tôi cho trẻ đóng các vai về rau, củ, quả để tự giới thiệu về mình như: Tôi là “Bắp cải ” tôi mang trong mình rất nhiều vitamin và muối khoáng, các bạn có thể chế biến tôi thành nhiều loại thức ăn khác nhau như : Xào, luộc, nấu lẩu cũng rất ngon và tôi luôn hết mình phục vụ các bạn. Hay “Tôi là cà rốt ” da dẻ hồng hào dáng hình nhỏ nhắn nhưng tôi lại cung cấp rất nhiều vitamin A giúp cho mắt các bạn sáng hơn, sau đó tôi mới dẫn dắt đến với bài mới, làm như vậy các hoạt động học sẻ trở nên sinh động hơn và hấp dẫn hơn nhiều. - Với hoạt động tạo hình: Thông qua hoạt động tạo hình tôi cũng khéo léo lồng ghép giáo dục dinh dưỡng: Giúp trẻ biết thêm về các thực phẩm, tên thực phẩm, đặc điểm thực phẩm các chất có trong thực phẩm đó. Trẻ được trực tiếp tham gia hoạt động như vẽ, nặn, cắt, xé dán từ đó giúp trẻ nhớ lâu các loại thực phẩm đó. Ví dụ: với hoạt động vẽ: Cho trẻ quan sát tranh mẫu “Quả Cam”. Tôi cho trẻ gọi tên các loại quả, màu sắc, đặc điểm, hình dáng của các loại quả, giáo dục trẻ ăn quả cung cấp cho ta nhiều vitamin, giáo dục vệ sinh cho trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch gọt vỏ bỏ hạt, sau khi ăn phải bỏ vỏ hạt vào thùng rác khi rửa quả phải biết tiết kiệm nước để tiết kiệm năng lượng. - Thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng Ví dụ: Làm quen với Toán: Cho trẻ nhận biết số 5 chủ đề thế giới động vật tôi sử dụng các nhóm đồ vật gồm 5 con thỏ và 5 củ cà rốt để trẻ nhận biết và lập số 5 sau đó tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng bằng cách: trò chuyện với trẻ thỏ rất thích ăn cà rốt vì ăn cà rốt cung cấp chất VTM giúp gia dẻ hồng hào, khỏe mạnh... Các con có thích ăn cà rốt không? Ăn cà rốt cung cấp chất gì?... Cứ như vậy tôi nhẹ nhàng lồng ghép tích hợp giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động trẻ đạt hiệu quả rất cao, trẻ nhận biết tốt và thích khám phá. - Thông qua hoạt động Âm nhạc Ví dụ: Dạy hát bài “Quả gì ” tôi khéo léo lồng ghép giáo dục trẻ để trẻ
- 12 được biết có rất nhiều loại quả khác nhau, trẻ kể tên các loại quả có trong bài hát và giáo dục cho trẻ biết trong các loại quả chứa nhiều vitamin và chất khoáng khi ăn thì phải rửa sạch gọt vỏ, bỏ hạt. * Hoạt động ngoài trời: Tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời cũng có ý nghĩa rất quan trọng trẻ được trực tiếp thăm quan, dạo chơi ngoài trời, cho trẻ quan sát thực tế là rất cần thiết giúp trẻ ghi nhớ có chủ định. Ví dụ1: Trong giờ hoạt động ngoài trời Tôi tổ chức cho trẻ đi quan sát trang trại chăn nuôi của Bác nông dân gần trường. Đưa ra các tình huống cũng như câu hỏi mở như: - Các con có nhận xét gì về trang trại của Bác Nông dân: Rất sạch đẹp, nuôi rất nhiều các con vật: Gà, Vịt, Ngan, Bò, lợn… - Các con có nhận xét gì về trang trại của Bác Nông dân: Rất sạch đẹp, nuôi rất nhiều các con vật: Gà, Vịt, Ngan, Bò, lợn… - Ích lợi của các con vật này như thế nào? Các con vật lớn lên sẽ đẻ con, đẻ trứng, cung cấp nhiều chất đạm bổ dưỡng cho cơ thể. Ví dụ 2: Quan sát vườn rau trẻ được gọi tên các loại rau, quan sát đặc điểm của các loại rau,… Biết rau là loại thực phẩm cung cấp chất vitamin và muối khoáng cho cơ thể. Hình ảnh: Bé chăm sóc vườn rau sạch Ví dụ 3: Cho trẻ quan sát vườn ngô của bác nông dân. Tôi cùng trẻ quan sát và nhẹ nhàng hỏi trẻ những câu hỏi gợi mở như: - Các con có biết đây là vườn cây gì? (Cây ngô) - Lợi ích của bắp ngô là gì? Cung cấp chất bột đường cho cơ thể con người. Qua việc cho trẻ quan sát ngoài trời tôi đã giúp trẻ biết được công việc của các bác nông dân là vất vả, một nắng hai sương mới có thể làm ra những sản phẩm lương thực, thực phẩm cho chúng ta ăn hàng ngày, từ đó giúp trẻ yêu quý Bác nông dân và những sản phẩm làm ra của các Bác. Việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi, tạo điều kiện để trẻ tiếp thu và phản ánh những hiểu biết của mình về dinh dưỡng là hoạt động hết sức quan trọng. Trẻ được tiếp xúc với các đồ vật đồ chơi, qua trò chơi tạo điều kiện để trẻ
- 13 tự học hỏi nhau, thể hiện sự hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Qua các trò chơi tôi tạo điều kiện để trẻ vui chơi với đồ chơi, khi trẻ gọi tên các thực phẩm, trẻ học cách chế biến món ăn và trẻ được thực hiện các thao tác chế biến món ăn, cách chế biến thực phẩm và vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cá nhân và vệ sinh chung. * Với hoạt động góc - Tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm thực tế giúp trẻ có cơ hội thực hành rèn luyện kỹ năng vệ sinh cá nhân và vệ sinh chung Để trẻ thực hành trên sản phẩm thực tế được tốt trước hết phải hướng dẫn trẻ cụ thể, cách đong đếm, cách vệ sinh, sử dụng một số đồ dùng, dụng cụ nấu ăn và pha chế thức uống như dao, thìa, cốc, chén… Ví dụ: Trước và sau khi cho trẻ chế biến các món ăn tôi thường tập cho trẻ thói quen vệ sinh dụng cụ nấu, dao thớt, bát thìa, bát thìa được lau rửa sạch sẽ. Tôi đặt ra câu hỏi mở: - Trước và sau khi chế biến chúng ta cần làm những công việc gì? Lau rửa sạch dụng cụ nấu, dụng cụ sơ chế, chế biến. - Vì sao phải làm như vậy? Để đảm bảo vệ sinh, tránh vi khuẩn xâm nhập vào thức ăn, đồ uống sẽ rất mất vệ sinh và gây đau bụng. Sau đó, hướng dẫn trẻ thực hành từng bước trên sản phẩm. Dạy trẻ biết sử dụng đồ dùng phục vụ việc ăn uống, tạo ra một số món ăn, nước uống đơn giản: như pha nước chanh, vắt nước cam… Sau mỗi món ăn được hình thành tôi hỏi trẻ món ăn này cung cấp chất gì? Cung cấp chất vi ta min và muối khoáng. Hình thành ở trẻ thói quen ăn uống tốt, thích thú với các món ăn do mình tạo ra và giúp trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, lao động tự phục vụ ở trẻ, hình thành kĩ năng sống cơ bản của trẻ. - Thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ” ở góc đóng vai. Qua hoạt động “Tập làm đầu bếp” trẻ được thực hành, học tập một cách tích cực các bài học về dinh dưỡng như cách ăn, cách chọn thức ăn giàu dinh dưỡng. Động viên khuyến khích, huy động sự tham gia của các bậc cha mẹ trong việc tổ chức cho trẻ thực hiện các nội dung “Tập làm nội trợ” như: Đóng góp các thực phẩm để trẻ thực hành (Rau, củ, quả, tiền….) thu thập các tài liệu, tranh ảnh có liên quan; tham gia “Triển lãm” tranh “Bé tập làm nội trợ”; tham gia tổ chức liên hoan sinh nhật, lễ, tết với trẻ; trò chuyện hướng dẫn trẻ thực hành “Tập làm nội trợ” qua các trò chơi. Ví dụ: Trẻ chơi đóng vai ở ở chủ đề: "Gia đình”. Tổ chức bữa tiệc mừng sinh nhật con gái. Trẻ đóng vai mẹ và con đi chợ. Trẻ biết tạo tình hình chơi như người mẹ nói chuyện với con: Để nấu món canh rau ngót chúng ta phải lựa chọn rau tươi, lá to và không bị sâu, mua thêm ít xương ống cho ngọt nước….rồi trẻ nói lên món canh rau ngót cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng đặc biệt là vitami A và muối khoáng….. Đối với những trẻ không thích món ăn các món ăn khác nhau mà chỉ nhất nhất một món ăn, qua chơi sẽ kích thích trẻ muốn ăn và ăn hết xuất và muốn ăn.
- 14 Như vậy vấn đề khẩu phần ăn của trẻ sẽ được cải thiện, tình trạng trẻ suy dinh dưỡng sẽ giảm hơn. Hình ảnh: Bé tập làm nội trợ ở góc đóng vai - Việc tổ chức cho trẻ hoạt động góc với tất cả các góc mở giúp trẻ được trải nghiệm hoạt động của người lớn, trẻ được làm thí nghiệm, từ đó giúp trẻ hiểu biết thêm về dinh dưỡng. - Qua hoạt động góc: Trẻ gọi tên các thực phẩm, biết đặc điểm của các loại thực phẩm, trẻ tự học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biết cách tạo ra những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vi văn minh. Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ mua hàng, muốn mua loại thực phẩm gì thì hỏi người bán hàng “Bác ơi, bác có bán trứng không?” Người bán hàng nhớ đặc điểm của trứng mà lấy bán cho người mua hàng. Từ đó giúp trẻ biết tên và nhớ loại thực phẩm. Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vai con hỏi trẻ đóng vai mẹ “Mẹ ơi, mẹ nấu món gì đấy?” Mẹ trả lời “Mẹ nấu món trứng rán”. Từ đó giúp trẻ biết trứng được chế biến thành nhiều các món ăn khác nhau. Cũng ở góc phân vai trẻ được trực tiếp chơi với những dụng cụ nấu ăn bằng đồ chơi và biết cách thao tác các dụng cụ khi chế biến thực phẩm. Ví dụ: Muốn nấu món cá kho thì phải làm thịt cá, đánh vẩy, bỏ ruột, cho gia vị vào kho... Ở góc xây dựng giúp trẻ biết cách tạo ra thực phẩm tự trồng rau quả, nuôi các con vật qua trò chơi xây dựng vườn rau, quả, khu chuồng trại...ở góc thiên nhiên trẻ lại được trực tiếp trồng và chăm sóc rau quả, chăm sóc các con vật
- 15 nuôi, ở góc học tập, góc nghệ thuật trẻ được chơi lô tô, được ra những bức tranh, được đọc thơ, ca dao, đồng dao, vè... về các loại thực phẩm. Từ đó giúp trẻ nhớ thêm về các loại thực phẩm, biết các loại thực phẩm được làm ra từ 4 nhóm, trẻ biết thêm được tầm quan trọng của các chất đối với sự phát triển của trẻ. Việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở hoạt động góc có hiệu quả vô cùng to lớn để lại ấn tượng cho trẻ rất tốt. * Thời điểm cho trẻ ăn. Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào các hoạt động trên việc giáo dục dinh dưỡng ở giờ ăn cũng rất quan trọng và rất thiết thực đối với trẻ. Ở giờ ăn: tôi đã trò chuyện trao đổi vời trẻ về bữa ăn hàng ngày như: Hàng ngày trước khi ăn chúng ta phải làm gì? (phải rửa tay) vì sao phải rửa tay?...Trẻ học cách tự phục vụ bản thân, lấy ghế, bát, thìa...trẻ còn giúp nhau kê bàn ghế, biết vệ sinh cá nhân trước khi ăn, biết chào mời người khác trước khi ăn, khi ăn trẻ biết giữ vệ sinh chung và những hành vi văn hóa khác... Vào giờ chia ăn tôi tranh thủ giới thiệu các món ăn cho trẻ và thành phần các món ăn chứa nhiều chất gì? Tác dụng của chất đó đối với cơ thể của trẻ, động viên trẻ ăn món đó tập ăn dần, lúc đầu ăn ít sau đó ăn đủ... Ví dụ: Tôi giới thiệu: Các con ơi! Hôm nay, các cô dinh dưỡng nấu cho các con ăn món “Cá súp cà chua” ăn cá chứa nhiều chất đạm giúp cơ thể các con nhanh lớn, thông minh, học giỏi vì vậy các con nên ăn cá nhé. Hình ảnh: Giờ ăn trưa của lớp * Hoạt động chiều Trong hoạt động chiều, khi trò chuyện với trẻ ở giờ trả trẻ tôi hỏi trẻ hôm nay các con được ăn những món gì? Cung cấp chất gì? Để trẻ nhớ được tên món ăn và chất dinh dưỡng mà món ăn đó cung cấp. Đồng thời tôi cho trẻ quan sát tranh các loại rau củ quả, các con vật, chơi các trò chơi phân loại các chất dinh dưỡng theo 4 nhóm bằng lô tô, đồ chơi bằng nhựa... Khi chiều mát tôi cùng trẻ ra nhổ cỏ, tưới cho luống rau của lớp đã được Trường phân công. Vừa làm cô vừa cùng trẻ đàm thoại để trẻ hiểu được rau tự
- 16 trồng sẽ cung cấp thực phẩm sạch, an toàn phục vụ cho bữa ăn của các con trong trường. Và hỏi trẻ vì sao phải ăn rau? (Vì rau cung cấp chất Vitamin và muối khoáng, giúp da dẻ hồng hào thân hình khỏe mạnh, chóng lớn....) Kết quả: Trẻ lớp tôi thể lực được nâng lên, nhận biết, phân biệt thành thạo 4 nhóm chất dinh dưỡng và biết được lợi ích của các chất dinh dưỡng đối với cơ thể con người. Biết sử dụng thành thạo, và vệ sinh các dụng cụ ăn uống trước và sau khi chế biến. Thực hành được các thao tác, quy trình chế biến một số món ăn đơn giản. Có thói quen vệ sinh tốt trong ăn uống cũng như vệ sinh cá nhân… 2.3.5. Giải pháp 5. Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ vào các hoạt động trên tôi luôn tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn, có tính thẩm mỹ cao có đầy đủ số lượng và có nhiều chủng loại để trẻ được học, được trực tiếp hoạt động với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nhớ lâu và hiểu thêm về những thực phẩm có trong cuộc sống của chúng ta. Ví dụ 1: Ở chủ đề “Thế giới động vật” tôi dùng lá xoài khô, bẹ ngô, đĩa CD, làm những con cá sống ngoài biển, như cá thu, cá chim, làm những con vật, ở địa phương không có để cho trẻ được làm quen. Từ đó tôi củng cố kiến thức cho trẻ bằng sự luyến lái gợi ý như: Thịt Lợn, Thịt Gà, Cá, Tôm thì cung cấp chất gì? Có tác dụng gì đối với cơ thể chúng ta? Để đảm bảo vệ sinh thì chúng ta phải làm gì? (Cung cấp chất đạm, chất béo, giúp cho cơ thể chúng ta nguồn năng lượng để phát triển khỏe mạnh cân đối, trước khi ăn phải làm sạch nấu chín và không ăn thực phẩm ôi thiu….) Ví dụ 2: Tôi đã dùng xốp màu vàng, màu xanh và hộp nhựa để làm quả dứa và trẻ được chơi, được trực tiếp hoạt động. Ví dụ 3: Làm vườn rau bắp cải từ xốp màu xanh và vỏ thạch. - Tôi dùng các loại giấy màu phù hợp để bồi thành hình các loại quả cho trẻ học và chơi như quả xoài, quả cam, quả na, quả đu đủ, quả khế….. - Ngoài ra tôi cũng đã dùng các loại phế liệu sẵn có ở địa phương để cắt tạo ra những con vật, những loại quả… phục vụ cho các hoạt đông học tập, hoạt động chơi và trưng bày tại môi trường xung quanh lớp đẹp, hấp dẫn, phù hợp với chủ đề như: Vườn rau, bộ ấm chén, lợn con, đàn vịt… Tôi còn cắt tỉa các hộp nước rửa bát, ống luồng tạo thành hình thư một đàn lợn 10 con có kích thước khác nhau dùng để trồng và gieo các loại hạt cho trẻ quan sát khám phá sự nảy mầm và lớn lên của cây. Kết quả: Trong năm học qua tôi đã làm được 10 bộ đồ chơi về chất đạm, 10 bộ đồ chơi chất béo, 10 bộ đồ chơi về chất bột đường, 10 bộ đồ chơi về chất vi ta min và muối khoáng… Tôi cũng đã làm được 15 bộ đồ chơi nấu ăn để phục vụ cho việc học và chơi của trẻ. 2.3.6. Giải pháp 6.Thực hiện tốt công tác phối hợp với nhà trường, trạm y tế xã khám sức khỏe và cân đo theo định kỳ ghi chép, đánh giá trên biểu đồ tăng trưởng của trẻ
- 17 Cùng với nhà trường thực hiện tốt công tác phối hợp tốt với cơ sở y tế trong công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác phòng chống duy dinh dưỡng và vệ sinh phòng bệnh cho trẻ và đặc biệt trong tình hình dịch covit-19 đang diễn ra phức tạp. Theo quy định của phòng giáo dục là tổ chức cân đo, khám sức khỏe cho trẻ theo gia đoạn. Ngoài quy định trên, vào những thời điểm chuyển giao mùa nên trẻ hay mắc các bệnh như thủy đậu, quai bị, đau mắt đỏ chân tay miệng… tôi tham mưu với ban giám hiệu khám thêm để phát hiện kịp thời và có biện pháp can thiệp nhằm tránh những triệu chứng xấu, ảnh hưởng đến sức khỏe và có chế độ dinh dưỡng phù hợp cho trẻ. Hình ảnh: Bé được nhân viên y tế khám sức khỏe tại lớp Việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ phải đảm bảo đúng 10 nguyên tắc vàng trpong ăn uống Kết quả: Trong năm học 2021-2022, lớp tôi có 28 cháu được cân, đo, khám sức khỏe theo định kỳ. Ngoài ra còn được tiêm các mũi như: Sởi, rubenla vào tháng 12 trong chiến dịch chuẩn bị tiêm phòng vacxin covit cho trẻ, tiêm chủng ở các trường học. Trẻ bị mắc các bệnh như: Ỉa chảy, Đau mắt không còn. Trẻ mắc các bệnh như: Sâu răng, thấp còi giảm hơn nhiều so với đầu năm học. 2.4. Hiệu quả đạt được * Về phía trẻ: Bằng những biện pháp và hình thức trên, kết quả giáo dục dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ lớp tôi có những chuyển biến đáng kể, sức khỏe của trẻ tăng lên rõ rệt. Tôi tiến hành cân, đo chấm biểu đồ lần 2 vào cuối tháng 3: Kết quả cân đo Tổng Kết quả cân nặng Kết quả đo chiều cao số Kênh K cao hơn Kênh Kênh Tỷ lệ SDD Tỷ lệ Tỷ Kênh Tỷ Tỷ lệ trẻ BT % Dưới -2 % tuổi trên +2 lệ% BT lệ % Thấp % và +3 còi Và -3 28 28 100 0 0 0 0 28 100 0 0 * Kết quả khám sức khỏe cuối năm. Tổn Kết quả Khám bệnh g Hô Tỷ Ỉa Tỷ Đau Tỷ Sâu Tỷ Nhiễm Tỷ Ngoài Tỷ Còi Tỷ Số hấp lệ% chảy lệ mắt lệ% răng lệ% giun lệ Da lệ xương lệ % % % %
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 191 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 113 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn