Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện
lượt xem 6
download
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non "Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện" được thực hiện nhằm giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện; giúp trẻ có khả năng ghi nhớ có chủ định; rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ; giúp giáo viên và phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện
- 1 A. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.”. Việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ - viên gạch đầu tiên của nền móng giáo dục mầm non là cả một quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi phải kiên trì, cô giáo, bố mẹ là người gương mẫu để trẻ noi theo. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. “Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy”, cũng là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực giúp trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp xã hội. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết được các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết. Nhưng cho đến nay mặc dù đã áp dụng rất nhiều hình thức và phương pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhưng vẫn chưa đem lại kết quả như mong muốn. Nguyên nhân là do giáo dục ngôn ngữ chưa có sự phối kết hợp đồng bộ, thống nhất giữa ba nhân tố: Gia đình- Nhà trường- Cô giáo. Cho nên năm học này tôi đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm tìm ra: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện”. Giúp trẻ phát âm tròn vành, rõ tiếng, biết thể hiện tình cảm của mình với mọi người xung quanh. Biết yêu quý con người, yêu thiên nhiên và những con vật nuôi trong gia đình. Từ đó trẻ được phát triển toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mĩ và Lao động. 2. Cơ sở thực tiễn. Năm học 2021-2022 là một năm học đặc biệt khó khăn, trước tình hình diễn biến phúc tạp của đại dịch Covid 19 xảy ra khắp mọi nơi. Thực hiện đúng chỉ đạo của thủ tướng chính phủ về việc không tụ tập đông người để ngăn chặn dịch bệnh không lây lan rộng đến cộng đồng vì vậy học sinh không thể đến trường việc học của trẻ bị gián đoạn. Vượt lên trên những khó khăn do tình hình dịch bệnh Covid-19, ngành Giáo dục đã triển khai nhiều phương án chuẩn bị cho năm học mới 2021-2022, với quyết tâm dù “Tạm ngừng đến trường nhưng
- 2 không ngừng học” ngành giáo duc đã triển khai phương án dạy học trực tuyến. Các cơ sở giáo dục mầm non đã lựa chọn và hướng dẫn cha mẹ tổ chức cho trẻ những hoạt động giáo dục phù hợp với điều kiện tại nhà. Qua quá trình thực tế bản thân tôi đã nhận thấy việc phối hợp với phụ huynh dạy trẻ phát triển ngôn ngữ tại nhà ngay ở lứa tuổi nhà trẻ là rất quan trọng và cần thiết, chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện. - Giúp trẻ có khả năng ghi nhớ có chủ định. - Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Giúp giáo viên và phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện”. IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT VÀ THỰC NGHIỆM Trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại lớp D3 trong trường mầm non tôi đang công tác. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp dùng lời nói. Phương pháp làm mẫu. Phương pháp quan sát. Phương pháp thực hành. Phương pháp kiểm tra, đánh giá. Phương pháp động viên, khuyến khích. VI. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU Đề tài được thực hiện tại lớp nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi D3 trường mầm non nơi tôi đang công tác. Thời gian thực hiện từ tháng 09 năm 2021 đến tháng 04 năm 2022. Củng cố và thực hiện trong những năm học tiếp theo.
- 3 B. PHẦN THỨ HAI NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Thực tế cho chúng ta thấy rằng những biểu hiện về thái độ tình cảm suy nghĩ của con người khi tiếp xúc với một tác phẩm văn học rất đa dạng và phong phú. Như những vui buồn khi đọc tác phẩm văn học dẫn đến những biểu hiện khóc cười của người đọc. Từ đó cho ta thấy rằng nghệ thuật của tác phẩm văn học đã có một sức mạnh kỳ diệu. Nhưng đối với trẻ nhỏ vấn đề cảm nhận mỗi câu chuyện, mỗi bài thơ rất hạn chế. Thế nhưng trẻ rất thích được nghe người lớn kể chuyện, thích đọc thơ hoặc những bài đồng dao, ca dao phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Mục đích của việc cho trẻ làm quen văn học thông qua hoạt động kể chuyện là giúp trẻ hình thành và phát triển về lĩnh vực ngôn ngữ. Là phương tiện hình thành đạo đức cho trẻ, giáo dục trẻ biết yêu cái thiện, ghét cái ác một cách rõ ràng. Thông qua hoạt động kể chuyện còn hình thành cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, tình yêu thương con người rộng lớn. Giúp trẻ hình thành và phát triển thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể đó là tính tổ chức kỹ luật, tự chủ, mạnh dạn trước mọi người. Hoạt động kể chuyện còn là phương tiện nâng cao khả năng trí tuệ, giúp trẻ phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng, củng cố kiến thức của trẻ qua học tập vui chơi trong cuộc sống. Mặc dù ở lứa tuổi 24-36 tháng còn nhỏ nhưng rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi sự vật hiện tượng xung quanh. Chính vì vậy mỗi giáo viên khi tổ chức hoạt động cần chú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó là phương tiện hàng đầu bởi ngôn ngữ là phương tiện để tiếp thu kiến thức dễ dàng và hiệu quả. Để giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ thì mỗi giáo viên ngoài việc nắm vững chương trình phải biết cách tổ chức các hoạt động linh hoạt, sáng tạo và tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động tích cực. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Đặc điểm tình hình Qua khảo sát và thực nghiệm khi nghiên cứu đề tài tại nhóm trẻ 24- 36 tháng D3. Với tổng số là 20 cháu, trong đó có 8 cháu nữ và 12 cháu nam. Tôi nhận thấy lớp có những thuận lợi và khó khăn sau: *Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Phòng Giáo Dục Đào Tạo Huyện Ba Vì đã tổ chức tập huấn và bồi dưỡng nhiều chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng chuyên
- 4 môn cho giáo viên như: công nghệ thông tin thiết kế bài giảng trên vanva, capcut, fimora 9.... để phục vụ cho việc thiết kế video cho trẻ hoạt động phát triển ngôn ngữ. - Được sự quan tâm, giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng phương pháp dạy học tích cực giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non đặc biệt ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện. - Lớp học có đầy đủ trang thiết bị dạy và học theo thông tư 02. - Sức khoẻ trẻ phát triển tương đối tốt: 90% trẻ phát triển bình thường. - Trẻ được học đúng độ tuổi quy định. - Số lượng: 20 trẻ do 2 giáo viên phụ trách. - Một số trẻ có khả năng nhận thức, ghi nhớ và chú ý lắng nghe tốt. - Bản thân luôn nhiệt tình với công việc, luôn yêu nghề mến trẻ, được phụ huynh và đồng nghiệp tin yêu quý mến. - Bản thân luôn tự trau dồi kiến thức, ham học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. - Đa số phụ huynh quan tâm ủng hộ cùng kết hợp với cô giáo trao đổi những vướng mắc của con em mình để cùng nhau tháo gỡ, giúp trẻ đạt được kết quả tốt nhất. * Khó khăn: - Do tình hình dịch bệnh diễn ra căng thẳng và kéo dài trẻ phải tạm ngừng đến trường để phòng chống dịch bệnh trẻ và cô ít có cơ hội được giao tiếp nên trẻ còn lạ cô. - Những câu chuyện đối với trẻ còn mới lạ, trẻ mới được làm quen. - Trẻ còn chưa hứng thú với việc học thông qua hoạt động kể chuyện. - Khả năng nghi nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ dẽ nhớ nhưng lại chóng quên. - Trẻ ở lứa tuổi này ngôn ngữ đang phát triển, nhiều trẻ còn nói ngọng, nói chưa hết câu và phát âm chưa chuẩn. - Trẻ chưa phát huy được tính tích cực của mình trong hoạt động. Kết quả trả bài của học sinh sau những hoạt động còn thấp. - Từ các tình trạng trên dẫn đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa đạt yêu cầu, chưa đáp ứng được phương pháp dạy học hiện nay là: Lấy trẻ làm trung tâm “Học mà chơi, chơi mà học”.
- 5 2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện Trước những thuận lợi và khó khăn của lớp mình, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng trên trẻ ngay từ đầu năm học, được thể hiện ở bảng như sau: Bảng 1: Khảo sát thực trạng đầu năm (Số lượng: 20 trẻ) Kết quả Trẻ đạt Trẻ chưa đạt Nội dung Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Trẻ hứng thú với hoạt động. 3 15 % 17 85 % Khả năng tập chung chú ý và ghi 4 20 % 16 80 % nhớ của trẻ. Khả năng thể hiện cảm xúc của trẻ 3 15 % 17 85 % khi được lắng nghe câu truyện. Trẻ nhớ đươc tên câu chuyện, tên 4 20 % 16 80 % các nhân vât trong truyện. Trẻ bắt chước được một vài hành động đơn giản của các nhân vật có 4 20 % 16 80 % trong câu truyện. Từ bảng khảo sát của trẻ tôi đã tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên như sau: * Đối với giáo viên: - Nghệ thuật giảng dạy, truyền tải của giáo viên theo chương trình giáo dục mầm non mới còn hạn chế. - Giáo viên chưa nghiên cứu kỹ tài liệu, hình thức tổ chức hoạt động chưa linh hoạt, sáng tạo, cách tổ chức hoạt động chưa phù hợp để gây hứng thú cho trẻ vào bài học. - Đồ dùng minh họa cho trẻ còn ít, chưa mang tính thẩm mỹ nên chưa kích thích được sự tập trung chú ý của trẻ. - Cô chưa nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. - Sự phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh còn hạn chế. * Đối với phụ huynh: - Phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ nên chưa có nhiều kiến thức, kinh nghiệm dạy trẻ tại nhà.
- 6 - Thu nhập đời sống kinh tế của phụ huynh còn thấp, phụ huynh chưa quan tâm đến việc học cũng như mua các trang thiết bị để phục vụ việc học tập trực tuyến như: máy tính, ipad, điện thoại thông minh,.... Để khắc phục được những tình trạng tồn tại đó, tôi đã chủ động tìm kiếm tài liệu nghên cứu và học tập. Qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm ra được một số biện pháp “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện”. Tôi hy vọng những việc mình đang làm sẽ góp một phần nhỏ bé vào hệ thống lý luận và phương pháp giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non 24-36 tháng tuổi. III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Qua quá trình nghiên cứu, tham khảo các tài liệu có liên quan đến việc nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng và thực trạng của trẻ tại lớp. Tôi đã lựa chọn và sử dụng các biện pháp sau: 1. Biện pháp thứ nhất: Chủ động nghiên cứu chương trình, lập kế hoạch giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo đúng độ tuổi. Để đáp ứng được yêu cầu về giáo dục, thực hiện nhiệm vụ năm học, hiểu được giá trị nghệ thuật của văn học dành cho lứa tuổi mầm non. Đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24-36 tháng. Bản thân tôi luôn tự nghiên cứu tài liệu học hỏi thêm đồng nghiệp, dự giờ các tiết dạy mẫu, dạy chuyên đề do nhà trường tổ chức để kịp thời nắm bắt được phương pháp dạy học mới, tích hợp các nội dung giáo dục theo chủ đề, xây dựng kế hoạch giáo dục phối hợp tố với phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua họa động làm quen với văn học phù hợp với thời gian trẻ tạm ngừng đến trường để phòng tránh sự lây hiễm của dịch bệnh covid- 19. Để giờ dạy thêm sinh động và lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào hoạt động tôi luôn suy nghĩ tìm cách xây dựng chủ đề, các tiết dạy khác nhau nhưng gần gũi với trẻ, phù hợp với nội dung bài học và yêu cầu của bài dạy. Ví dụ: Chủ đề bài dạy: Khu vườn tuổi thơ, vườn cổ tích, kể chuyện cùng bé.... Để tổ chức giờ dạy kể chuyện có hiệu quả, đảm bảo phù hợp với nội dung câu chuyện, kết hợp với sự sáng tạo trong giảng dạy, cô trò chuyện, giảng giải hoặc sử dụng tranh ảnh, bài hát, đồ dùng trực quan để giới thiệu câu chuyện, dẫn dắt trẻ bằng các thủ thuật nhằm mục đích tạo cho trẻ sự tập trung, chú ý vào bài dạy.
- 7 Xây dựng kế hoạch giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tên hoạt Nội dung phối kết hợp Tháng Kết quả đạt được động với phụ huynh - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Gấu tác trả bài tỉ lệ đạt con” rồi gửi vào zalo 15/20 trẻ chiếm Kể chuyện: 9 nhóm lớp. 75%. Gấu con... - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ tên câu huynh hướng dẫn trẻ học chuyện. bài qua zalo cô gửi - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Chiếc tác trả bài tỉ lệ đạt Kể chuyện: xích đu màu đỏ” rồi gửi 15/20 trẻ chiếm 10 Chiếc xích đu vào zalo nhóm lớp. 75%. màu đỏ.... - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ tên câu huynh hướng dẫn trẻ học chuyện, hiểu nội bài qua zalo cô gửi trẻ dung câu chuyện - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Em bé tác trả bài tỉ lệ đạt dũng cảm” rồi gửi vào zalo 16/20 trẻ chiếm Kể chuyện: nhóm lớp. 80%. 11 Em bé dũng - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ các tình cảm.... huynh hướng dẫn trẻ học tiết đơn giản có bài qua zalo cô gửi trong câu chuyện, hiểu nội dung câu chuyện. - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Đôi bạn tác trả bài tỉ lệ đạt nhỏ” rồi gửi vào zalo 16/20 trẻ chiếm nhóm lớp. 80%. Kể chuyện: 12 - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ bắt chiếc được Đôi bạn nhỏ.... huynh hướng dẫn trẻ học một số hành động bài qua zalo cô gửi. đơn giản của các nhân vật có trong câu chuyện. 1 Kể chuyện: - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương
- 8 video, bài giảng: “Cây táo” tác trả bài tỉ lệ đạt rồi gửi vào zalo nhóm lớp. 17/20 trẻ chiếm - Giáo viên kính phiền phụ 85%. huynh hướng dẫn trẻ học - Trẻ mô tả được Cây táo.... bài qua zalo cô gửi. hình dáng, màu sắc của quả táo. Kể được tên các nhân vật có trong câu chuyện - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Chiếc áo tác trả bài tỉ lệ đạt mùa xuân” rồi gửi vào zalo 18/20 trẻ chiếm Kể chuyện: nhóm lớp. 90%. 2 Chiếc áo mùa - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ các tình xuân... huynh hướng dẫn trẻ học tiết đơn giản có bài qua zalo cô gửi trong câu chuyện, hiểu nội dung câu chuyện. - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Thỏ con tác trả bài tỉ lệ đạt không vâng lời” rồi gửi 19/20 trẻ chiếm Kể chuyện: vào zalo nhóm lớp. 95%. Thỏ con 3 - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ bắt chiếc được không vâng huynh hướng dẫn trẻ học một số hành động lời bài qua zalo cô gửi đơn giản của các nhân vật có trong câu chuyện. - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Chuyến tác trả bài tỉ lệ đạt Kể chuyện: du lịch của gà trống choai” 19/20 trẻ chiếm Chuyến du rồi gửi vào zalo nhóm lớp. 95%. 4 lịch của gà - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ các tình trống choai.... huynh hướng dẫn trẻ học tiết trong câu bài qua zalo cô gửi chuyện, hiểu nội dung câu chuyện.
- 9 - Giáo viên xây dựng - Trẻ tích cực, tương video, bài giảng: “Chia tác trả bài tỉ lệ đạt ngọt sẻ bùi” rồi gửi vào 20/20 trẻ chiếm Kể chuyện: zalo nhóm lớp. 100%. 5 Chia ngọt sẻ - Giáo viên kính phiền phụ - Trẻ nhớ các tình bùi.... huynh hướng dẫn trẻ học tiết trong câu bài qua zalo cô gửi chuyện, hiểu nội dung câu chuyện. Qua việc chủ động nghiên cứu chương trình, lập kế hoạch giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo đúng độ tuổi giúp tôi nắm vững mục tiêu và chương trình giáo dục để lựa chọn ra những nội dung phù hợp với trẻ. 2. Biện pháp thứ hai: Cải tiến và nâng cao chất lượng làm đồ dùng, đồ chơi tạo môi trường cho trẻ hoạt động Với đặc điểm tâm lý trẻ 24-36 tháng tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế, vì vậy đồ dùng giảng dạy minh hoạ là một trong những yếu tố không thể thiếu được. Từ việc nghiên cứu chương trình soạn bài tôi xây dựng kế hoạch làm đồ dùng- đồ chơi. Phối hợp với phụ huynh ủng hộ các nguyên vật liệu như chai, lọ, hộp, nhựa, bìa cacstong .... và tận dụng một số phế liệu để làm đồ dùng- đồ chơi. - Mục đích: Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thì việc sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng- đồ chơi và sắp xếp môi trường hoạt động hợp lý phục vụ cho giờ kể chuyện là không thể thiếu. Chính vì vậy, tôi đã không ngừng sưu tầm, sáng tạo làm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động kể chuyện. - Nội dung và cách thức thực hiện: + Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn như: sách báo, lịch cũ, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. + Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi, tôi cho các cháu vào hoạt động chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng kể chuyện.
- 10 + Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trẻ yêu thích. Ví dụ: Tôi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những cục bông, miếng xốp và những mảnh dạ để thành những con rối rất đẹp phục vụ cho các câu chuyện mà tôi kể cho trẻ như: Truyện “Đôi bạn nhỏ” dùng (Rối gà, rối vịt); Truyện “Thỏ con không vâng lời” dùng (Rối gấu, rối thỏ mẹ, thỏ con); Truyện “Cá và chim” dùng (Rối cá, rối chim).... + Khi kể chuyện tôi dùng những tranh, ảnh sáng tạo nhiều màu sắc để gây hứng thú cho trẻ xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi. + Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: lá cây, thanh tre, vỏ các loại hạt, bìa cứng, gỗ, hộp xốp ... để làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích. Ví dụ: Từ bìa cứng, xốp làm những con vật ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc để thu hút trẻ. Như khi kể truyện “Đôi bạn nhỏ” để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một sân khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ. Đồ dùng, đồ chơi tự tạo phải đảm bảo bền đẹp, mang tính sáng tạo, giáo dục và có tính thẩm mỹ. Với những đồ dùng sáng tạo phù hợp với nội dung bài dạy đã gây được hứng thú cho trẻ tham gia hoạt động. Để làm được những đồ dùng đồ chơi đỏi hỏi phải có con mắt thẩm mỹ và có óc sáng tạo. Vì vậy tôi phải học hỏi và kết hợp cùng đồng nghiệp khéo tay, có kinh nghiệm để làm tốt đồ dùng, đồ chơi sáng tạo sống động, ngộ nghĩnh lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động sôi nổi, hào hứng hơn. Năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch bệnh trẻ phải tạm ngừng đến trường để phòng tránh dịch bệnh. Với phương châm: “Tạm ngừng đến trường nhưng không ngừng học”, ” ngành giáo dục đã triển khai phương án dạy học trực tuyến. Từ đó tôi đã xây dựng kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi rồi gửi qua zalo nhóm lớp nhằm mục đích hướng dẫn phụ huynh tìm kiếm các nguyên vật liệu làm đồ dùng- dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động kể chuyện của trẻ. Ví dụ: Trong câu chuyện “Đôi bạn nhỏ” tôi đã hướng dẫn phụ huynh tìm kiếm các nguyên vật liệu dễ kiếm như những mảnh vải, mảnh dạ và bông để tạo hình cho nhân vật nhân vật rối gà và rối vịt... Sau đó cha mẹ và trẻ cùng hóa thân vào những nhân vật có trong câu chuyện để kẻ lại câu chuyện cho trẻ nghe. Đàm thoại với trẻ một cách tự nhiên khiến trẻ vô cùng thích thú, không những
- 11 vậy tôi còn gửi những tài liệu hướng dẫn cách làm các nhân vật ngộ nghĩnh, tạo hìn đồ dùng cho trẻ bằng phế liệu (Con gà, con chim, hộp đựng bút khủng long, con hươu.... làm đồ dùng trang trí góc học tập tại nhà cho trẻ. Qua đây tôi thấy việc làm đồ dùng- đồ chơi tự tạo cho trẻ tham gia và hoạt động là việc làm rất cần thiết qua đó tạo ra môi trường hoạt động tự nhiên ngay trong không gian gia đình trẻ với các nhân vật hoạt hình 3D sáng tạo từ phế liệu vô cùng đáng yêu có trong các câu truyện mà trẻ đã được nghe thông qua video,bài giảng cô gửi trên nhóm zalo giúp trẻ hứng thú hơn trong mọi hoạt động. 3. Biện pháp thứ ba: rèn luyện kỹ năng của bản thân thông qua hoạt động kể chuyện. Trước đây những tiết hoạt động kể chuyện của tôi chưa đạt kết quả được như ý vì rất nhiều lí do như: trẻ không tập chung chú ý, trẻ không hứng thú với giờ dạy... Để giờ dạy thêm sinh động có chất lượng, lôi cuốn được sự chú ý của trẻ 24-36 tháng thì nghệ thuật giảng dạy của cô giáo là yếu tố quyết định. Cô phải nhẹ nhàng, linh hoạt gần gũi trẻ, giao lưu được tình cảm giữa cô và trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái vui tươi, tích cực chủ động tham gia hoạt động cùng cô. Cử chỉ, điệu bộ, dáng đi, giọng nói của người giáo viên cũng góp phần vào sự thành công của giờ học. Một giọng nói truyền cảm khiến cho trẻ dễ lắng nghe. Cử chỉ, điệu bộ nhẹ nhàng, thân thiện giúp trẻ gần gũi và mạnh dạn hơn. Vì vậy, tôi luôn cố gắng điều chỉnh bản thân mình bằng cách: Đứng trước gương để sửa dáng đi, cử chỉ, nét mặt; ghi âm để sửa giọng nói. Bên cách đó, tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và nhờ sự giúp đỡ của cấp trên. Thế nên, tôi rất tự tin khi dạy trẻ các hoạt động làm quen với văn học thông qua hoạt động kể chuyện. * Mục đích: Thông qua hoạt động kể chuyện mở rộng sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh, trẻ biết yêu cái thiện, ghét cái ác một cách rõ ràng, hình thành cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, tình yêu thương con người, ca ngợi những hành vi đẹp, phê phán những thói hư tật xấu. Để có giờ kể chuyện hay tôi luôn giành thời gian tìm hiểu nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện để tìm ra giọng kể phù hợp và đặt ra được hệ thống câu hỏi kích thích sự hứng thú hoạt động của trẻ. * Nội dung và cách thức thực hiện: Chuẩn bị. + Nghiên cứu kỹ nội dung, tính cách nhân vật. + Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm.
- 12 + Tập luyện và kể thử. ● Nghiên cứu kỹ nội dung, tính cách nhân vật. - Trước khi kể cho trẻ nghe câu chuyện gì. Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ kể cho trẻ nghe. Khi cô đã hiểu được tính cách của từng nhân vật trong từng câu chuyện thì khi cô kể chuyện sẽ làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn. Ví dụ: Trong câu chuyện “Thỏ con không vâng lời”, tính cách của thỏ con: Ham chơi không vâng lời mẹ. *Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm. Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thì giáo viên cần phải tìm ngữ điệu cho từng nhân vật trong câu chuyện đó phù hợp để khi kể câu chuyện đó được diễn cảm hơn. Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú vịt xám” + Giọng người dẫn chuyện: Đầm ấm, nhẹ nhàng + Giọng của vịt mẹ: Nhẹ nhàng, dịu dàng + Giọng của vịt con: Sợ hãi + Giọng con cáo: Gian ác ● Tập luyện và kể thử. Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách, ngữ điệu của các nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ kể thì cô cần tập luyện và kể thử nhiều lần trước khi kể chuyện cho trẻ nghe. Thông qua việc kể thử, kể lại nhiều lần cô sẽ diễn đạt và thể hiện tính cách của các nhân vật một cách rõ nét hơn. * Khi kể. - Khi kể, kể lưu loát bằng giọng cao thấp quấn hút trẻ vào bài. Ví dụ: Khi kể câu chuyện “Đôi bạn nhỏ” giọng người dẫn chuyện chậm và ấm hơn so với các nhân vật trong truyện. + Giọng của gà con: sợ hãi, hốt hoảng + Giọng của vịt con: nhanh nhẹn + Giọng của cáo: Gian ác - Cô kể kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện: Khi cô kể xong câu chuyện lần 1 để trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện cô đặt câu hỏi đàm thoại kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện. Ví dụ: Trong câu chuyện “Đôi bạn nhỏ” cô cần có hệ thống câu hỏi như sau: - Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? - Trong câu chuyện có những ai? - Bạn gà, bạn vịt rủ nhau đi đâu?
- 13 - Bạn vịt xuống ao làm gì? - Còn bạn gà con kiếm ăn ở đâu? - Con gì đã xuất hiện đuổi bắt gà con? - Bạn gà sợ quá kêu như thế nào? - Cô và các con cùng bắt trước tiếng gà con nào? - Khi nghe gà con kêu cứu bạn vịt đã làm gì? - Bạn vịt gọi bạn như thế nào? - Cô và các con cùng bắt trước tiếng vịt con nào? - Bạn vịt cõng bạn gà đi đâu? - Con cáo có bắt được gà con không? - Bạn gà vịt vui sướng hát như thế nào? - Động viên trẻ làm động tác theo cô, tập kể lại câu chuyện cùng cô. Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Cô khuyến khích trẻ làm động tác và tập kể lại câu chuyện cùng cô. Ví dụ: trẻ làm động tác bơi giống vịt con trong câu chuyện: “Đôi bạn nhỏ” Thông qua hoạt động kể chuyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tư duy, trí nhớ, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ tập kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về câu chuyện bằng chính ngôn ngữ của trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Qua đây ta thấy việc rèn luyện kỹ năng sư phạm của bản thân thông qua hoạt động kể chuyện đã đem lại hiệu quả tốt. Nó không chỉ gây hứng thú cho trẻ mà còn kích thích trí tưởng tượng, óc quan sát của trẻ phát triển mạnh mẽ. 4. Biện pháp thứ tư: Tích cực tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh về tầm quan trọng của việc giáo duc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Mục đích: Giúp phụ huynh hiểu rõ kiến thức về việc phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện, từ đó tạo sự thống nhất giữa nhà trường, giáo viên và phụ huynh trong việc rèn trẻ. - Nội dung và cách thức thực hiện: + Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh biết và phối kết hợp với giáo viên rèn thêm cho trẻ ở nhà. + Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách, những lọ nhựa, quần áo cũ, vải vụn ... + Tôi trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc
- 14 độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, cha mẹ người thân phải cố gắng phát âm đúng cho trẻ bắt chước. + Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác. + Tuyên truyền dưới hình thức: bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung và hình thức phù hợp với chủ đề. Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật, tết và mùa xuân, bảng tuyên truyền có những hình ảnh về tết và mùa xuân, câu thơ, câu truyện, bài hát, đồng dao ... + Tuyên truyền bằng truyền thanh, hình ảnh có nội dung theo chủ đề, những câu truyện hay, hấp dẫn và đa dạng. + Tuyên truyền góc chơi đặc biệt: góc học tập, thường thay đổi tranh ảnh để lôi cuốn trẻ, giáo viên, phụ huynh tích cực giao lưu, trao đổi với trẻ trong khi kể chuyện, đọc truyện, trò truyện giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Để nâng cao nhận thức cho các bậc phụ huynh về hoạt động kể chuyện, ngay từ lứa tuổi nhà trẻ tôi mời phụ huynh đến dự giờ tiết dạy và tuyên truyền, vận động phụ huynh quan tâm, chăm sóc trẻ ngay từ góc độ gia đình. Vận động phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động. Vận động phụ huynh cùng có kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ, tạo mọi điều kiện để trẻ được hoạt động, học tập, vui chơi và được quan tâm, chăm sóc giáo dục. Năm học này, trong điều kiện tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, thời gian các cháu phải tạm nghỉ học ở nhà để tránh dịch. Tôi đã lập nhóm zalo của lớp để nắm bắt tình hình sức khỏe của trẻ, việc phòng - chống dịch bệnh của gia đình, cũng như trao đổi với phụ huynh về đặc điểm, tính cách, khả năng của trẻ. Tôi đã xây dựng kế hoạch phối hợp hướng dẫn phụ huynh chăm sóc, giáo dục trẻ tại nhà: Gửi các nội dung tuyên truyền để phụ huynh thực hiện, sưu tầm các video, clip về các hoạt động chăm sóc sức khỏe và giáo dục như: kể chuyện cho trẻ nghe, hướng dẫn trẻ đọc thơ, hát, chơi trò chơi, luyện phát âm, nhận biết tập nói… Khi trẻ đi học trở lại, chúng tôi vừa ổn định nề nếp vừa tích cực ôn luyện những nội dung bố mẹ hướng dẫn tại nhà, vừa điều chỉnh kế hoạch để thực hiện tại lớp cho phù hợp…Từ đó phối hợp tốt để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ hằng ngày. Hầu hết, phụ huynh đã chủ động trao đổi với giáo viên về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại nhà. Như vậy việc phối kết hợp với phụ huynh đã góp phần giúp tôi tạo được sự hứng thú tích cực vào hoạt động kể chuyện của trẻ.
- 15 5. Biện pháp thứ năm: Linh hoạt đổi mới hình thức khi dạy trẻ trực tiếp và gián tiếp. - Mục đích: Để tránh sự nhàm chán cho trẻ, tôi luôn thay đổi hình thức giới thiệu bài để gây được sự hứng thú của trẻ trong hoạt động Trước đây do chưa thấy được tầm quan trọng của việc gây hứng thú cho trẻ khi vào tiết học nên tôi thường vào bài một cách đơn điệu, lặp đi lặp lại một hình thức đơn giản, chưa gây được sự chú ý của trẻ. Ví dụ: Hôm nay cô sẽ kể cho các con nghe câu chuyện: “Đôi bạn nhỏ” , “Cây táo” … Qua quá trình nghiên cứu và học hỏi đồng nghiệp, tôi đã nhận thấy rằng việc vào bài sao cho phong phú, gây được hứng thú cho trẻ là vô cùng quan trọng. Bởi nó sẽ tạo được nguồn cảm hứng đầu tiên, giúp trẻ say mê, hứng thú với hoạt động trong tiết dạy - Nội dung và cách thức thực hiện: + Tùy thuộc và nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn các cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Tôi có thể dùng rối, tranh, ảnh, bài hát, câu đố, mô hình.... ● Sử dụng mô hình: Ví dụ: Trong chủ đề “Thực vật” tên bài dạy là kể chuyện “Cây táo” Tôi sẽ sử dụng mô hình vườn cây ăn quả để gây hứng thú và dẫn dắt trẻ vào bài. ● Sử dụng bài hát: Còn khi ở chủ đề “Động vật”, tên bài dạy kể chuyện “Cá và chim” Tôi sẽ cho trẻ hát bài “Cá vàng bơi” để gây hứng thú cho trẻ. ● Sử dụng câu đố: Sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ dẫn dắt trẻ vào câu truyện cũng là cách tôi thường làm, để kích thích sự tò mò, suy nghĩ của trẻ. Ví dụ: Ở chủ đề “Động vật”, tên bài dạy là “Vịt con lông vàng” tôi đọc câu đố để cho trẻ đoán tên con vật. (Con gì kêu vít, vít Theo mẹ ra bờ ao Chẳng khác mẹ tí nào Cũng lạch bà lạch bạch) ● Sử dụng búp bê, rối: Tôi đã sử dụng búp bê, rối để gây hứng thú cho trẻ và trẻ lớp tôi đã rất thích. Ví dụ: Ở chủ đề “Động vật”, tên bài dạy kể truyện “Đôi bạn nhỏ” tôi đã sử dụng rối gà và rối vịt
- 16 ● Sử dụng các hình ảnh động trên máy chiếu: Ngày nay trình độ khoa học phát triển, việc sử dụng các phương tiện hiện đại như: Ti vi, đầu đĩa, vi tính, màn chiếu, đàn, đài vào trong tiết dạy phù hợp là rất cần thiết vì nó gây được sự hứng thú đối với trẻ. Tôi lựa chọn các video có hình ảnh các con rối hoạt hình có hình ảnh động ngộ nghĩnh, tôi lồng tiếng các nhân vật phù hợp với nội dung câu chuyện để đưa vào trong bài dạy. Hơn nữa qua đó trẻ mới có điều kiện tiếp thu cái mới lạ; trẻ được nhìn hình ảnh sống động mà ngoài đời trẻ chưa được nhìn thấy. Ví dụ: Cho trẻ xem hình ảnh về các con vật áp dụng cho một số tiết dạy như câu chuyện: dê đen và dê trắng, thỏ con không vâng lời.... - Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ, tôi cho trẻ quan sát video về các con vật có trong câu chuyện. Sau đó cô và trẻ cùng trò chuyện dẫn dắt trẻ vào bài học. Từ đó tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu cho đến cuối, từ đó hiệu quả chất lượng giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Ví dụ: Trong chủ đề “Động vật”, tên bài dạy kể truyện “Cá và chim” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ đi thăm quan vườn bách thú với những hình ảnh động của các con vật trên máy chiếu. Năm học 2021-2022 là năm học đầy khó khăn và thách thức đối với ngành giáo dục. Để thực hiện phương án dạy học qua hình thức trực tuyến. Tôi đã xây dựng kế hoạch và quay video rồi gửi vào zalo nhóm lớp kết hợp phụ huynh giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Xây dựng video câu truyện: “ Đôi bạn nhỏ” + Để trẻ hứng thú vào bài học tôi đã thay đổi hình thức vào bài bằng cách: Xây dựng hoạt cảnh: “Vào một ngày nắng đẹp trời đôi bạn gà con và vịt con rủ nhau đi kiếm ăn....” + Để thu hút trẻ vào nội dung câu truyện tôi sử dụng nhân vật hoạt hình có hình ảnh động ngộ nghĩnh là chú thỏ xám để cùng dẫn chương trình với tôi. + Để tiết dạy phong phú, không nhàm chán tôi đã sử dụng các kỹ thuật cắt ghép, chỉnh sửa video, lồng tiếng, thu âm trên các phần mềm đã được tập huấn như: camtasia, canca, fimola 9..... Thông qua việc thiết kế video gửi đến trẻ để có thể thu hút sự chú ý của trẻ tôi đã lựa chọn các video có hình ảnh các con vật hoạt hình có hình ảnh động ngộ nghĩnh sau đó lồng tiếng các nhân vật cho phù hợp với câu truyện hướng trẻ vào bài học. Như vậy tôi thấy rằng để trẻ hứng thú với hoạt động kể chuyện không phải là ngày một ngày hai mà cần có biện pháp thực hiện thường xuyên, liên tục và
- 17 phụ thuộc vào tình hình của lớp lựa chọn những biện pháp phù hợp. Từ đó tôi đã thu được kết quả đáng mừng trên trẻ. IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Qua quá trình thực hiện đề tài bằng các biện pháp trên với trẻ 24-36 tháng tại Trường mầm non nơi tôi công tác. Cuối năm học kết quả đạt được như sau: Bảng 2: So sánh kết quả đầu năm - cuối năm ( Số lượng: 20 trẻ) Kết quả Đầu năm Cuối năm Nội dung Trẻ chưa Trẻ chưa Trẻ đạt Trẻ đạt đạt đạt SL % SL % SL % SL % Trẻ hứng thú với 3 15 % 17 75 % 19 95% 1 5% hoạt động Khả năng tập chung chú ý và ghi nhớ của 4 20 % 16 80 % 18 90% 2 10% trẻ. Khả năng thể hiện cảm xúc của trẻ khi 3 15 % 17 75% 17 85% 3 15% đươc lắng nghe câu truyện Trẻ nhớ đươc tên câu chuyện, tên các nhân 4 20% 16 80% 18 90% 2 10% vât trong truyện Trẻ bắt chước được một vài hành động đơn giản của nhân 4 20% 16 80% 19 95% 1 5% vật có trong câu truyện Qua quá trình thực hiện đề tài, từ những kiến thức được trang bị, cũng như chủ động nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự hợp tác của giáo viên trong lớp, những nỗ lực rèn luyện cho trẻ của cô giáo trong lớp và với sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. Tôi thấy thấy các cháu lớp tôi cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt: * Đối với trẻ: - Trẻ có vốn từ phong phú, phát âm tròn vành, rõ tiếng - Trẻ tập trung chú ý, hứng thú với hoạt động của cô
- 18 - Trẻ có khả năng thể hiện cảm xúc khi được lắng nghe câu chuyện, trẻ nhớ được tên câu chuyện, tên các nhân vật trong chuyện. - Trẻ bắt chước được một vài hành động đơn giản của nhân vật có trong câu chuyện. - Trẻ tích cực tương tác qua video bài giảng cô gửi trên nhóm zalo. * Đối với giáo viên: - Cô giáo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện. - Biết cách xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ và tích hợp vào các chủ đề khoa học hơn biết lựa chọn những nội dung phù hợp với trẻ, luôn chú ý đến từng cá nhân trẻ để có biện pháp riêng cho từng cá nhân trẻ, chú trọng đến việc phát triển của từng cá nhân, không cào bằng, không so sánh, luôn tôn trọng ý muốn của trẻ, đối xử công bằng với trẻ. - Có kinh nghiệm và sáng tạo hơn trong công việc tổ chức các nội dung dạy Trẻ kể chuyện nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ - Giáo viên tích cực hướng dẫn, kể chuyện cho trẻ ở mọi thời điểm, mọi lúc, mọi nơi. - Xây dựng hệ thống các video bài giảng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện từ đó đóng góp cho thư viện bài giảng điện tử của trường, của phòng nhiều video, bài giảng hay và phong phú. - Giáo viên đã biết tìm ra những điểm yếu của trẻ để từ đó tìm ra các phương pháp phù hợp nhất để dạy cho trẻ. - Bản thân được trau dồi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các hoạt động được phụ huynh và các đồng nghiệp tin tưởng quý mến. * Đối với phụ huynh: - Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện chủ động hướng dẫn trẻ học bài qua video, bài giảng cô gửi trên zalo nhóm lớp. - Luôn tích cực tham gia vào các hoạt động của các con ở trường, lớp. Thường xuyên phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. - Phụ huynh đã hiểu và quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động kể chuyện. Từ đó phụ huynh đã có những ủng hộ và đóng góp thiết thực để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. Với tấm lòng yêu nghề, mến trẻ tôi luôn cố gắng nghiên cứu để tìm ra nhiều biện pháp hay hơn nữa để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện.
- 19 Nhờ áp dụng các biện pháp nêu trong đề tài nên trong cuộc thi thiết kế video bài giảng để phối hợp với phụ huynh giáo dục trẻ tại nhà tôi đạt giải nhất cấp trường, giải nhì cấp Huyện. Điều đó cho thấy các biện pháp nêu trong đề tài là hoàn toàn khả thi và thiết thực có thể triển khai áp dụng đối với tất cả các trường mầm non trên địa bàn Huyện Ba Vì. Để đạt được kết quả cao thì chúng ta nên áp dụng đầy đủ 05 biện pháp, không nên áp dụng riêng lẻ từng biện pháp một. C. PHẦN THỨ BA KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ SƯ PHẠM I. KẾT LUẬN Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn luyện ngôn ngữ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên và phụ huynh phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục mọi khó khăn để tìm ra những giải pháp hữu ích giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt qua đó góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước. Qua quá trình thực hiện đề tài trên, tôi đã rút ra được một số kết luận như sau: - Trẻ độ tuổi 24- 36 tháng khi nghe kể chuyện rất mau quên, không ghi nhớ lâu , nên tôi phải tìm hiểu và đưa ra những biện pháp phát triển ngôn ngữ cho phù hợp với nhận thức của từng trẻ - Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giờ kể chuyện giáo viên cần đầu tư về thời gian thường xuyên học tập bằng nhiều hình thức như: Nghiên cứu, tham khảo các tài liệu chuyên ngành, để lựa chọn nội dung truyện kể hay, chuẩn bị được nhiều đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn trẻ. Cô cần xác định được giọng kể phù hợp để gây hứng thú cho trẻ, dạy trẻ kể đi kể lại nhiều lần giúp trẻ thực sự in dấu trong lòng trẻ đảm bảo cho trẻ được phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện hơn. - Thường xuyên khuyến khích, động viên trẻ kịp thời khi trẻ hứng thú với hoạt động, trẻ nhớ tên câu truyện, tên các nhân vật trong chuyện..... thì trẻ sẽ cảm thấy tự tin và vui vẻ hơn. - Những câu chuyện trẻ học thuộc sẽ bền vững hơn nếu được tập luyện thường xuyên, chính vì vậy người lớn cần phải thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ được thực hiện, được trải nghiệm. - Người lớn cần dành nhiều thời gian cho trẻ, gần gũi trẻ nhiều hơn, kiên trì nhẫn lại trong quá trình giáo dục trẻ. - Không nên tạo áp lực cho trẻ, cần tôn trọng ý thích của trẻ, không la mắng, dọa nạt, hạ thấp trẻ.
- 20 - Hướng dẫn và chỉ bảo ngay khi giao nhiệm vụ cho trẻ. - Cần chỉ dẫn, giải thích, hay gợi ý khi trẻ gặp khó khăn. - Cha mẹ trẻ không nên bao bọc trẻ thái quá làm trẻ yếu đuối. - Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh. - Có làm được những việc như vậy thì sẽ giúp trẻ lĩnh hội được nhiều ngôn ngữ đa dạng và phong phú hơn từ đó góp phần vào việc phát triển tính tự lập, tính chủ động, sáng tạo cho trẻ. II. NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ Để đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện.” đạt được kết quả cao hơn nữa trong những năm học tiếp theo, tôi có một số khuyến nghị sau: 1. Về phía nhà trường - Tiếp tục bồi dưỡng chuyên đề đổi mới về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động làm quen với văn học thông qua hoạt động kể chuyện theo từng độ tuổi cho giáo viên qua các buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ. - Tổ chức các hội thi giáo viên giỏi về các hoạt động làm quen với văn học. - Tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan, học tập kinh nghiệm của các trường bạn, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ đóng góp ý kiến để giáo viên được học hỏi và rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy. - Xây dựng kho thông tin tư liệu điện tử về các bài giảng mẫu về các hoạt động làm quen với văn học thông qua hoạt động kể chuyện. 2. Về phía phòng GD&ĐT Huyện - Tiếp tục tổ chức các buổi tập huấn bồi dưỡng về hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện tới toàn thể giáo viên mầm non theo từng độ tuổi. Trên đây là “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện” của tôi. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do tôi tự viết, không sao chép nội dung của người khác. Tản Viên, ngày 15 tháng 4 năm 2022 Người viết Nguyễn Hương Mai
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 192 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 114 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn