Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo
lượt xem 1
download
Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo” với mục đích xây dựng được những hoạt động làm quen văn học thật sôi nổi, không nhàm chán và được trẻ tham gia tích cực nhất.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Tên đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo” 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Cơ sở lý luận: Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người, thông qua ngôn ngữ con người có thể giao lưu để hiểu nhau và trao đổi những thông tin cần thiết. Đối với trẻ, ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập vào thế giới xung quanh, là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách. Với trẻ 3 - 4 tuổi, vốn từ của trẻ tương đối phong phú về số lượng cũng như từ loại. Tư duy của trẻ phát triển hơn, có nội dung hơn. Trẻ biết phát biểu những nhận định của mình, trẻ kể lại được những chuyện mà trẻ trong thấy, nghe được. Trẻ có thể kể theo tranh, đồ chơi hoặc đồ vật mặc dù phần lớn còn bắt trước giọng kể của người lớn. Thông qua các tác phẩm văn học như truyện kể, thơ ca, hò, vè, câu đố, tục ngữ, ca dao…. Trẻ đã thực sự bị lôi cuốn vào các hoạt động khác một cách tích cực, có hiệu quả. Qua đó giáo viên có nhiều thuận lợi để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc một giờ dạy hay không chỉ dừng lại ở chỗ trẻ hiểu được điều gì? Trẻ có hứng thú lắng nghe hay không? Mà người giáo viên mầm non cần phải giúp trẻ biết thể hiện những suy nghĩ của mình, giúp trẻ nhập vai cùng nhân vật, sống cùng nhân vật, đặc biệt trẻ biết sử dụng ngôn ngữ của mình để đánh giá nhân vật, trò chuyện, đàm thoại, biết diễn đạt nguyện vọng sự hiểu biết của mình một cách mạch lạc. Trẻ biết kể lại câu chuyện theo tranh, đồ chơi, kể chuyện sáng tạo, biết kể trình tự diễn cảm, rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng, nói lắp 1.2. Cơ sở thực tiễn: Ở trường mầm non có rất nhiều môn học giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách và các kỹ năng sống cho trẻ, nó là tiền đề giúp trẻ nhận thức và khám phá về thế giới xung quanh. Mỗi hoạt động chăm sóc giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, được tổ chức theo một hệ thống thống nhất. Cung cấp kiến thức, kỹ năng có tính đồng nhất xuyên xuốt trong các độ tuổi từ nhà trẻ cho đến cuối độ tuổi mẫu giáo. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một trong những hoạt động ở trường mầm non được trẻ yêu thích. Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là loại hình nghệ thuật, đặ biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi đầu thơ ấu, trẻ đã được nghe những lời thơ “ầu ơ” đầy yêu thương qua lời ru của bà của mẹ. Đó chính là trẻ đã được đến với tác phẩm văn học, đó cũng là cánh cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ. Đặc biệt văn học có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ, phát triển tai nghe và cảm xúc cho trẻ, là phương tiện dẫn dắt trẻ đến với thế giới xung quanh Trong tác phẩm văn học như: ca dao, tục ngữ, thơ, câu chuyện, đều nói về con người với nhiều tấm gương mẫu mực cho trẻ học tập.Thông qua các tác phẩm văn học làm phương tiện giáo dục trẻ tình yêu con người với con người, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu bạn bè người thân thiết, biết được việc làm tốt, yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác. Phê phán những việc làm xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà ngoan ngoãn. Từ đó ta có thể thấy văn học là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng cho trẻ thơ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, trí tưởng tượng, sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết
- 2 trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó …bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 tuổi, vốn từ ngôn ngữ của trẻ đang phát triển mạnh mẽ. Vì vậy cần thiết phải quan tâm phát triển để đạt được kết quả mong đợi về phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi Vì vậy từ những băn khoăn nêu trên tôi đã nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo”. Dựa vào đó để giúp trẻ hoạt động một cách hứng thú, đồng thời tôi mong rằng từ những sáng kiến nhỏ này có thể góp phần vào việc hướng dẫn trẻ hoạt động một cách tích cực và đạt được hiệu quả hơn trong năm học 2022 – 2023 này. 2. Mục đích nghiên cứu: Tôi nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo” với mục đích xây dựng được những hoạt động làm quen văn học thật sôi nổi, không nhàm chán và được trẻ tham gia tích cực nhất. 3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ lứa tuổi mầm non, lớp mẫu giáo nhỡ 3 – 4 tuổi. Số lượng là 28 trẻ. 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm: - Trẻ 3-4 tuổi trường mầm non - Số lượng là 28 trẻ 5. Phương pháp nghiên cứu: * Nhóm thu thập xử lý thông tin lý thuyết - Tìm tài liệu - Phân tích tổng quát hóa cơ sở lý luận - Phương pháp thực nghiệm khảo sát * Nhóm thu nhập xứ lý thông tin thực tiễn - Phương pháp lấy trẻ làm trung tâm - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp trao đổi, trò chuyện. - Phương pháp thực hành - Phương pháp phối hợp 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu - Đề tài được thực hiện tại lớp 3- 4 tuổi trường mầm non Thuần Mỹ - Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 9/2022 đến tháng 4/2023 PHẦN II :NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Những nội dung lý luận liên quan đề tài. Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong phú, đa dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình thức ...một cách linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng của hoạt động học theo nội dung của chủ đề. Trong đó hoạt động làm quen văn học chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Làm quen văn học nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ, phát triển trí tưởng tượng, phát triển nhân cách, phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội, phát triển thẩm mỹ cho trẻ; chuẩn bị cho trẻ vào học ở lớp một. Trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học từ rất sớm: Từ khi lọt lòng mẹ trẻ đã được nghe những câu ru thấm đợm tình người. Lớn hơn một chút trẻ được sống trong thế giới kỳ diệu của những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích..., những ước mơ của trẻ cứ thế chắp cánh bay xa... Thông qua hoạt động cho trẻ làm quen văn 2
- 3 học, giúp trẻ có được vốn hiểu biết, vốn từ nhất định và tạo cho trẻ tâm thế vững vàng khi bước vào lớp một. Mặt khác, để phù hợp với nhu cầu ngày càng đi lên của xã hội, hòa nhập với xu thế phát triển giáo dục trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng với chương trình tiểu học thì giáo dục mầm non càng cần phải nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục theo hướng giáo dục mầm non, xóa bỏ phương thức dạy học cũ rập khuôn, thụ động, chú trọng phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ có cơ hội được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm... trên khả năng và vốn hiểu biết của trẻ. Trên cơ sở đó Bộ Giáo dục và đào tạo - Vụ Giáo dục mầm non đã có chủ trương thực hiện chương giáo dục mầm non, đặc biệt là chỉ đạo thực hiện chuyên đề nâng cao chất lượng làm quen văn học ở trường mầm non.Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ. Trẻ 3 – 4 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có ý trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển.Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học.Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện sáng tạo, trẻ phải tự nghĩ ra một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc logic được thể hiện trong hình nói tương ứng (lời nói kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan).Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng tổng hợp, kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quả trình nhận thức có hệ thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài “ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo” nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay Qua thực tế giảng dậy, kết quả học tập của trẻ không cao, trẻ thường tham gia vào hoạt động làm quen văn học một cách thụ động chưa phát huy hết khả năng, sự sáng tạo và không tham gia tích cực hoạt động. Tôi thấy trẻ biết kể chuyện sáng tạo còn rất thấp. Vì vậy tôi thường xuyên chú trọng tổ chức hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo theo các chủ điểm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 2. Thực trạng 2.1. Đặc điểm đặc trưng của nhà trường - Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng Giáo dục và sự quan tâm tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường về cơ sở vật chất cũng như điều kiện đứng lớp đối với bản thân. - Được cung cấp nhiều đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho hoạt động làm quen văn học (Đồ dùng, đồ chơi theo thông tư 02 của bộ giáo dục) - Được tham gia các buổi chuyên đề do phòng và nhà trường tổ chức. 2.2. Thuận lợi Trẻ ở cùng một độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều chính vì vậy việc dạy trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi. Giáo viên chuẩn bị đầy đủ giáo án, đồ dùng phục vụ cho tiết dạy, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy và học.
- 4 2.3. Khó khăn: - Số trẻ trong lớp quá đông, trong đó có 40% trẻ mới đi học chưa có nề nếp học tập cũng nhu kiến thức của trẻ còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho chuyên đề hoạt động làm quen văn học còn thiếu và chưa được chú trọng đúng mức - Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị sự dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn ít. - Phụ huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hỗ trợ đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ. - Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chưa tích hợp được nhiều môn học khác và tự sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình. 2.4. Số liệu điều tra trước khi thực hiện : Năm học 2022 – 2023.Tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo 3 tuổi trường mầm non Thuần Mỹ Tổng số trẻ: 28 trẻ + Số trẻ trai: 12 trẻ + Số trẻ gái: 16 trẻ Từ những khó khăn trên dẫn đến hiệu quả của việc dạy đạt kết quả chưa cao vì dạy còn dập khuôn máy móc điều kiện để trẻ được hoạt động trong giờ học còn rất ít không phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ. Vì thế, kết quả khảo sát thực tế khi chưa thực hiện đề tài cho trẻ kết quả của các cháu rất thấp. Cụ thể: * Bảng kết quả khảo sát trước khi thực hiện: STT Nội dung Tổng số Kết quả đánh giá Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ đạt chưa đạt % 1 Trẻ biết chưa kể chuyện sáng 28 12 42 16 57 tạo do vốn từ của trẻ còn ít, ngôn ngữ nói chưa mạch lạc. 2 Trẻ phát âm dõ dàng và diễn đạt 28 10 35 18 64 đủ câu, đủ ý 3 Trẻ hứng thú tham gia hoạt 28 20 71 8 28 động Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra biện một số biện pháp giúp trẻ hứng thú kể chuyện sáng tạo. 3. Những biện pháp chủ yếu của đề tài: 3.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo. 3.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. 4
- 5 3.3. Biện pháp 3: Kể diễn cảm kết hợp với đồ dùng trực quan 3.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể của nhân vật 3.5. Biện pháp 5: Đặt câu hỏi phù hợp khi dạy trẻ 3.6. Biện pháp 6: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể truyện sáng tạo 3.7. Biện pháp 7: Tuyên truyền kể chuyện sáng tạo kết hợp với phụ huynh 4. Biện pháp thực hiện từng phần: 4.1.Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết cho chương trình đổi mới. Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao.Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào môi trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh in chữ to, tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có bánh xe, rối có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt rời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình. Điều đặc biệt hơn nữa tôi suy nghĩ và làm ra các loại rối tay cho trẻ hoạt động. Thực tế tôi nhận thấy đồ dùng làm bằng rối tay hầu như ở các lớp không có cho trẻ hoạt động, qua nghiên cứu tìm tòi tôi đã vận dụng làm từ các quả bóng, chổi rơm, đĩa nhựa đồ chơi … để làm mặt con rối sau đó dùng vải bọc lên móc làm váy, thân tay để khi trẻ sử dụng không bị thô và cứng. Các khuôn mặt có thể thay đổi tùy theo nội dung, nhận vật của câu chuyện trẻ kể.Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng loại về đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo. Bên cạnh đó trong hoạt động ngoài trời tôi còn tận dụng những bức tranh tường ở trong tường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau kể chuyện về các con vật đó … hình thức này đã giúp trẻ có nhiều ý tưởng sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt. Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc vô cùng quan trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi cô giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngộ nghĩnh,đáng yêu,đồng thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên nhận xét của mình về đồ dùng đó. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng. 4.2. Biện pháp 2: Lựa chọn những câu chuyện phù hợp có nội dung hấp dẫn sinh động để dạy trẻ kể chuyện sáng tạo Do đặc điểm của trẻ mầm non là trẻ thích những cái mới lạ, hấp dẫn, ngộ nghĩnh vì thế nếu cô giáo chỉ kể cho trẻ nghe những câu truyện trong chương trình mà trẻ đã được nghe nhiều lần là điều thật nhàm chán do đó để đáp ứng với phương pháp đổi
- 6 mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ ngày nay đồng thời giúp trẻ hứng thú nghe cô kể truyện tôi đã nghiên cứu, sưu tầm rất nhiều câu truyện ở ngoài chương trình có nội dung hấp dẫn sinh động phù hợp với trẻ và phù hợp với chủ đề VD: - Trong chủ điểm bản thân tôi chọn một số câu chuyện sau: Cậu bé mũi dài; Bé Minh Quân dũng cảm; Gấu con đau răng ... Chủ điểm thế giới động vật tôi chọn một số câu chuyện sau: “Chú rùa thông minh”, “ Sói xám và nai nhỏ”, “ Thỏ nâu mưu trí ”, “ Rùa con tìm nhà ”... Ngoài việc lựa chọn những câu truyện phù hợp với chủ đề tôi còn chú ý đến sự hấp dẫn của cốt truyện. Những truyện gây hứng thú cho trẻ là những truyện có nội dung hay, các nhân vật gần gũi trẻ và có nhiều lời thoại. VD: Với truyện “Thỏ con ăn gì” trẻ gặp được những nhân vật gần gũi như gà trống, mèo, thỏ con, dê con. Với truyện “Tại sao vịt kêu cạc cạc” Trẻ lại được gặp vịt, gà trống hoa, chị ngan. Với những nhân vật gần gũi đó nhờ có văn học đã thổi hồn vào các con vật đó với đầy đủ tính cách, tình cảm của con người giúp trẻ gần gũi hơn. Trẻ không chỉ được gặp những con vật gần gũi mà còn rất hứng thú với lời thoại trong truyện. VD: Truyện “Chú rùa thông minh” Trẻ rất thích thú với lời thoại của các vai Cáo, Rùa: “ôi anh cáo ơi! Tôi cũng đang muốn được lên trời chơi đây. Anh mà cho tôi lên trời thì tôi thích lắm.” Hoặc với truyện “Chú thỏ tinh khôn.” Trẻ cũng rất thích thú với lời thoại của cá Sấu với Thỏ. “Anh cá Sấu ơi! Anh mà kêu hu hu thì tôi chẳng sợ đâu .Nếu anh kêu ha ha thì tôi sợ chết khiếp đi được.” Và trẻ bắt chiếc tiếng cười của cá Sấu. Với những câu chuyện như trên đã thực sự lôi cuốn được trẻ, gây cho trẻ hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện. Điều qua trọng trong việc sưu tầm chuyện để kể cho trẻ nghe là những câu chuyện đó phải ngắn gọn, có tính giáo dục thiết thực với trẻ. VD: Những câu chuyện “Lợn con lười tắm”, “Gấu con bị sâu răng” Ngoài việc kể cho trẻ nghe thì tôi còn giáo dục cho trẻ biết giữ vệ sinh cho bản thân mình.Tắm rửa sạch sẽ và giữ vệ sinh răng miệng. Vì vậy việc lựa chọn những câu chuyện phù hợp, có nội dung sinh động hấp dẫn trẻ là việc làm quan trọng của cô khi kể chuyện cho trẻ nghe, nó góp phần không nhỏ vào việc tạo hứng thú cho trẻ để trẻ kể chuyện sáng tạo 4.3. Biện pháp 3: Kể diễn cảm kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan. Ở trường mầm non, trẻ tiếp nhận văn học gián tiếp thông qua lời kể của cô. Chính vì thế lời kể của cô không hay, không diễn cảm, không gây được hứng thúcho trẻ thì sẽ không lôi cuốn được sự chú ý của trẻ. Như chúng ta đã biết ở mỗi câu chuyện kể đều có một nội dung phản ánh khác nhau, có các nhân vật khác nhau. Vì vậy cô giáo phải thuộc truyện, nắm vững nội dung truyện qua đó xác định đúng tính cách, tâm trạng của từng nhân vật để thể hiện đúng ngữ điệu của nhân vật đó thông qua ngôn ngữ, ánh mắt, cử chỉ điệu bộ của cô. Hình ảnh 1: Trẻ lắng nghe cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ của nhân vật trong truyện VD: Cũng với nhân vật chó sói trong truyện “Cô bé quàng khăn đỏ”và chó sói trong chuyện “Dê con nhanh trí ” giọng của chó sói phải nhẹ nhàng, ngon ngọt để đánh lừa cô bé và dê con. Còn chó sói trong truyện “ Chú dê đen” lại to đanh, hung hăng hoặc Với Truyện “ Chú rùa thông minh.” Khi cáo nhìn thấy ếch xanh nó lẩm bẩm “Chà chà ta có một bữa điểm tâm thật là ngon đây.” Tôi thể hiện giọng như đang thì thầm. Còn khi cáo đối thoại với rùa. “À thì ra là 1 con rùa nhãi nhép hoặc ta 6
- 7 mà không ăn thịt được mi.” Giọng cáo lúc đấy phải to và tỏ vẻ tức giận. Giọng của rùa lại bình tĩnh hóm hỉnh pha chút sợ sệt, giả vờ để đánh lừa cáo. VD: Truyện “Chú thỏ tinh khôn.” Mặc dù Thỏ đang ở trong miệng Cá Sấu nhưng giọng Thỏ vẫn bình tĩnh, không run rẩy vì Thỏ đang tìm kế để lừa Cá Sấu. Còn giọng Cá Sấu to, đắc thắng, sung sướng vì Cá Sấu sắp ăn thịt được Thỏ. Với đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ ở độ tuổi này thì trong giờ kể chuyện cô giáo chỉ chú ý đến giọng kể thôi chưa đủ mà cô giáo phải biết kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan khéo léo để thu hút sự chú ý của trẻ. Thật vậy đồ dùng trực quan là một trong những phương tiện để truyền thụ kiến thức đến với trẻ, khi nghe kể chuyện kết hợp với việc được quan sát tranh, xem múa rối. Trẻ như được bước vào thế giới sống động của các nhân vật đó. Chính vì vậy trẻ rất thích thú, nhưng đồ dùng trực quan để phục vụ giờ kể chuyện có rất nhiều loại. Tuy nhiên trong 1 giờ dậy tôi phải biết lựa chọn đồ dùng sao cho hợp lý để góp phần làm tăng tính hấp dẫn của truyện. VD: Với truyện “Chú Rùa thông minh.” Tôi chọn tranh truyện động và sa bàn để kể. Với tranh truyện động khi kể đến đâu nhân vật cần di chuyển đến đó theo đúng nội dung truyện. VD: Khi đến đoạn Cáo “Rón rén” tôi di chuyển nhân vật cáo từ từ, nhẹ nhàng. Khi đến đoạn ếch nhảy xuống ao hoặc cáo lao xuống ao tôi di chuyển nhân vật ếch, cáo nhanh hơn. Hay với đoạn chú rùa rụt đầu vào trong mai thì tôi cũng nhẹ nhàng kéo dần dần đầu rùa vào sâu trong mai. Khi đến đoạn Rùa cắn vào đuôi Cáo tôi điều khiển cho nhân vật cáo nhẩy lên như là bị đau thật hoặc đoạn Cáo lao về phía ếch Xanh và Rùa. Tôi cho nhân vật Cáo nhảy xuống nước, nước bắn lên tung tóe. Chính với cách sử dụng như vậy đã làm tăng tính hấp dẫn của truyện, trẻ rất chú ý nghe cô kể chuyện.Với việc thể hiện giọng kể diện cảm kết hợp với việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động tôi nhận thấy các cháu rất hứng thú say mê với câu chuyện cô kể và chính nhờ sự say mê đó đã giúp trẻ rất nhiều trong việc hiểu nội dung truyện khắc sâu bài học ngôn ngữ nghệ thuật, phát triển tư duy tình cảm ở trẻ. Hình ảnh 2: Trẻ kể truyện sáng tạo theo nhóm kết hợp với đồ dùng trực quan 4.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể của nhân vật Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập chuyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Ví dụ: Gà con xinh đẹp đáng yêu, sói già gian ác, bà tiên ông bụt thì tốt bụng, còn phù thuỷ thì độc ác. Bên cạnh đó tôi còn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng
- 8 cố và khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ. Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng trực quan : +Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại. + Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh. Hình ảnh 3: Trẻ kể truyện theo tranh truyện + Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ. + Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo nhân vật sử dụng. Hình ảnh 4 : Trẻ kể truyện bằng sa bàn rối Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể chuyện sáng tạo, chủ đề “thế giới động vật” như sau: * Bước 1: Hát bài “Gà trống méo con và cún con”. Hỏi trẻ trong bài hát có những con vật gì. * Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên câu chuyện). * Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dùng trực quan mà trẻ thích. Cô gợi mở ý tưởng cho trẻ bằng cách mượn một con vật mà trẻ đã chọn và kể ngắn gọn vài câu để trẻ biết cách kể chuyện sáng tạo. * Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ dánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dùng trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét. Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp ngôn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “ mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay sử dụng”. Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo. +Câu chuyện “Con lợn nhựa của tôi” với đồ dùng là một con lợn nhựa được 1 trẻ thể hiện như sau: + Chủ nhật tớ được về thăm bà ngoại. Ở nhà bà tớ nuôi rất nhiều lợn, các con lợn rất to và ăn rất nhiều rau với cám. Thấy tớ thích con lợn đó bà tớ liền mua cho tớ một con lợn, nhưng đó là con lợn nhựa. Con lợn nhựa của tớ nó chẳng ăn được gì mà nó chỉ giúp tớ cất tiền. Đến tết ai mừng tuổi là tớ cho vào con lợn nhựa này để gửi mẹ mau quần áo. Tớ rất yêu quý con lợn nhựa này của tớ. + Câu chuyện “ Bác voi tốt bụng” với đồ dùng từ con gà, con vịt,con voi từ sản phẩm vẽ của trẻ bồi bìa cứng và làm rối tay, câu chuyện được 3 trẻ thể hiện như sau: + Bạn vịt bầu ơi có đồ chơi với tớ và gà trống không? + Ừ hôm nay trời đẹp chúng mình cùng đi chơi nhé. + Chúng mình đến vườn hoa kia chơi !ở đó có nhiều đồ chơi thích lắm. + Hai bạn gà, vịt mải chơi đến khi trời tối không biết đường về nữa, cả hai cùng khóc hu hu … + Lúc đó bác voi xuất hiện và nói đừng khóc nữa lên đây bác đưa về. + Hai bạn cùng trèo lên lưng bác voi đưa về, từ đó hai bạn không giám đi chơi xa. Ở câu chuyện này ba trẻ sử dụng rối rất tốt. Các cháu đã biết kết hợp với nhau sử dụng các nhân vật phù hợp ăn khớp với lời kể. Ngôn ngữ của trẻ được thể hiện một 8
- 9 cách tự nhiên và phong phú. Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp tôi đa số trẻ đã kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình mà không cần sự gợi ý của cô.Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng thành thạo đồ dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng trực quan ở các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu ngắt, nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ bắt trước giọng kể diễn cảm của cô, trẻ có thể hiểu được một từ dùng với đồ vật này lại có thể vào các đồ vật khác nữa. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ 4.5. Biện pháp 5: Đặt câu hỏi phù hợp khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Việc gợi mở cho trẻ bằng những câu hỏi là vô cùng quan trọn giúp người giáo viên khai thác được hiểu hiết của trẻ, vì vậy sử dụng những câu hỏi phù hợp với trẻ là vô cùng quan trọng. Có hai dạng câu hỏi chính: Câu hỏi đóng và câu hỏi mở: + Câu hỏi đóng: để đánh giá ở mức độ ghi nhớ thông tin, đòi hỏi tư duy rất ít (thường dùng trong phần giới thiệu bài hoặc kết luận). + Câu hỏi mở: là câu hỏi có nhiều đáp án đòi hỏi tư duy nhiều (thường dùng trong phần giới thiệu và phát triển bài). Để tạo ra các câu hỏi tốt giáo viên cần lưu ý khi đặt câu hỏi: Phải chú ý đến mục đích của câu hỏi: hỏi để làm gì? Để hướng dẫn, gợi mở hay để kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu, hỏi cái gì? Câu hỏi phải phù hợp với trình độ, khả năng để trẻ có thể trả lời được và cố gắng để trả lời. Câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Phân bổ câu hỏi cho tất cả các đối tượng trẻ: trẻ nhút nhát đến trẻ tích cực. Nên dành thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi và sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ (ánh mắt, cười, gật đầu, vỗ tay…) để khuyến khích, khen ngợi trẻ. Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi để học. Để có được câu hỏi tốt giáo viên có thể làm như sau: + Đặt ít câu hỏi hơn, nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy nghĩ, không hỏi tràn lan + Dành thời gian để trẻ suy nghĩ trả lời. + Không nên vội đánh giá, hãy động viên, khuyến khích để nhận được câu trả lời tốt hơn từ trẻ. + Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi. + Trân trọng câu hỏi và câu trả lời của trẻ. Ví dụ một số câu hỏi mở: Con nghĩ thế nào? Theo con các nhân vật này đã từng xuất hiện trong câu chuyện gì? Làm sao con biết? Tại sao con lại nghĩ như vậy? Nếu… thì sao? Nếu không… thì sao? Theo con thì điều gì / cái gì sẽ xảy ra tiếp theo? Câu hỏi tốt thường là câu hỏi mở và có câu trả lời mở, đòi hỏi sự tư duy, tạo được một điều mới mẻ, ví dụ những câu hỏi như: Câu hỏi về so sánh: Hai hành động/ hai nhân vật/ hai bức tranh này giống nhau ở chỗ nào? Câu hỏi về đánh giá: Hành động nào tốt hơn? Vì sao? Bức ảnh nào đẹp hơn? Vì sao? Nhân vật nào xấu? Vì sao? Câu hỏi hạn chế tư duy của trẻ: là những câu hỏi không khuyến khích trẻ nỗ lực suy nghĩ học tập, ngược lại còn làm cản trở hoạt động trí tuệ. Đó là những câu hỏi có dạng: Những câu hỏi quá phức tạp, quá lớn, trừu tượng khiến trẻ không thể trả lời được ví dụ: “Gió là gì?” “Tại sao có gió?” “Mưa là gì?” “Ngày hôm qua là gì?” Những câu hỏi đóng và hẹp: “Đây là cái gì?”, “Kia là cái gì?”, “Cái này màu gì”, “Hai bức tranh này có giống nhau không?”, “Con có thích không?”
- 10 Tôi nhận thấy trẻ hào hứng hơn sau mỗi giờ học, có thêm sự hứng thú cho bản thân mỗi đứa trẻ, từ đó tính sáng tạo cao hơn, khả năng tư duy, óc tưởng tượng của trẻ phong phú hơn 4.6. Biện pháp 6: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe,nhưng biết tích hợp các môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò cơi xen lẫn. Ví dụ: Bài thơ “ Thỏ bông bị ốm” , “ Ong và bướm”, “ Cá vàng bơi”…hoặc cho trẻ đọc thuộc các câu đố về con chó, con mèo, con lợn,con cá, con gà…hay một số bài đồng dao, ca dao “ Về chim”, “ Đi cầu đi quán”… Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Thương con mèo”, “ Một con vịt”, “ Đố biết con gì”, “ trời nắng trời mưa”…giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện. Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở trạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ… Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lúa tuổi này tâm lay của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Vì vậy vào giờ đón trẻ tôi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ. Đây lag hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và học tập ở cô và bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn. Cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất. 4.7. Biện pháp 7: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh. Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ của trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình. Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng. Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhặt những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo họa mi, vải vun, len vụn, các vỏ hộp, mút xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh. Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Thông qua hoạt động này tôi đã tuyên truyền kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ đến phụ huynh, đặc biệt là tuyên truyền thực hiện hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo trong năm học này. 10
- 11 5. Kết quả thực hiện a. Đối với giáo viên Tôi thấy tự tin hơn, tôi đã biết cách tổ chức hoạt động theo từng chủ đề, dẫn dắt trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong suốt tiết học đạt kết quả cao. Tôi đã sáng tạo hơn khi tổ chức các hoạt động cho trẻ học mà chơi, tôi thấy rất hiệu quả trẻ đã hứng thú hơn nhiều và không còn thụ động nữa. b. Đối với phụ huynh -Phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc dạỵ trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. -Đóng góp nhiều phế liệu để tạo góc văn học cho lớp. c. Đối với trẻ. Trẻ đã hứng thú hơn khi tham gia hoạt động thể hiện ở bảng số liệu có đối chiếu như sau. * Số liệu khảo sát sau khi thực hiện: Sau khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo”. Tôi đã thu được một số kết quả như sau: TS Kết Kết quả cuối năm trẻ quả đầu Nội năm STT dung SL Tỷ SL Tỷ SL Tỷ SL Tỷ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ đạt % chưa % đạt % chưa % đạt đạt 1 Trẻ chưa biết kể chuyện sáng tạo do vốn từ còn ít, 28 12 42 16 57 22 78,5 6 21,4 ngôn ngữ nói chưa mạch lạc 2 Trẻ phát âm rõ ràng và diễn đạt 28 10 35 18 64 26 92,8 2 7,2 đủ ý, đủ câu 3 Trẻ hào hứng tham gia hoạt 28 20 71 8 28 28 100 0 0 động *Nhận xét kết quả qua bảng so sánh trên Sau kết quả đối chiếu, so sánh trước và sau khi thực hiện đề tài thì đây là một thành công lớn của đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo”. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận chung: Để giúp trẻ hứng thú với hoạt động tạo hình trong quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế tôi rút ra một số bài hoặc kinh nghiệm như sau: + Cô giáo phải luôn trau dồi kiến thức để tạo cho mình khối lượng kiến thức phong phú đa dạng nhằm cung cấp cho trẻ.
- 12 + Qua quá trình áp dụng bản thân tôi thấy rằng không phải hình thức, nội dung nào cũng phù hợp và được áp dụng. Cần tận dụng những thời điểm phù hợp lôi cuốn sự hứng thú của trẻ, lôi cuốn trí tò mò của trẻ, để tạo cho trẻ tâm lý thoải mái cho trẻ hoạt động. + Thường xuyên trao đổi cùng đồng nghiệp để học hỏi những kinh nghiệm, phương pháp giảng dậy tốt nhất cho trẻ. + Tận dụng mọi nguồn nguyên liệ từ thiên nhiên tạo ra thêm những đồ dùng đẹp mắt, có ích cho cuộc sống để từ đó giáo dục cho trẻ tính tiết kiệm, tính sáng tạo từ những vật dụng thiên nhiên. + Tạo môi trường mở cho trẻ hướng trẻ lại gần môi trường thiên nhiên, tạo môi trường mở giúp trẻ phát triển hết khả năng tư duy, sáng tạo của trẻ, kích thích trí tò mò thích khám phá của trẻ. + Cô cần phải luôn chủ động, chuẩn bị chu đáo bài giảng trước khi dậy trẻ, cần lựa chọn linh hoạt ứng dụng những trò chơi hay, hấp dẫn vào tiết học để thu hút trẻ lại gần với hoạt động. + Cô cần có thêm những biện pháp riêng với những trẻ chưa thực sự thích thú với các hoạt động tập thể, chưa thích ứng với môi trường thiên nhiên như cháu còn sợ bẩn, không thích lao động, thích ngồi xem ti vi mà không thích vận động… Khi có những biện pháp riêng dành cho trẻ cô sẽ thu hút trẻ lại với cô với các bạn cùng tham gia hoạt động. Qua một thời gian cho các cháu hoạt động và tham gia theo các phương pháp trên tôi nhận thấy các cháu trở nên nhanh nhẹn, linh hoạt, thông minh, sáng tạo, tích cực và chủ động hơn trong mọi hoạt động tìm tòi khám phá của mình. Các cháu đã chủ động đưa ra những câu hỏi lý thú có tính suy luận cho cô, cho bạn trả lời. Trẻ đã rất hào hứng và thích thú khi được tham gia hoạt động tạo hình. Trẻ đã chủ động tham gia tích cực khám phá tìm tòi thế giới xung quanh mình thông qua hoạt động tạo hình. Hơn nữa trẻ con vận dụng được những kiến thức mới thu thập được thông qua quá trình hoạt động tạo hình với thế giới xung quanh vào các môn học khác, vào chính cuộc sống sinh hoạt của trẻ. Trẻ tạo ra được những sản phẩm có lợi cho cuộc sống và luôn có ý thức tiết kiệm, tận dụng đò vật bỏ đi để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh đó ngôn ngữ của trẻ trỏ nên mạch lạc hơn, trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp, thói quen tự lao động phục vụ trở nên tốt hơn. Không những thế cò hình thành cho trẻ hành vi cư xử văn minh như giúp đỡ cô, bạn bè. Tăng cường khả năng phối hợp, nhường nhịn lẫn nhau ở trẻ. Và đặc biệt là hình thành cho trẻ được tình yêu với môi trường thiên nhiên, biết tận dụng những đồ vật không còn sử dụng được vào các trò chơi hoạt động của mình, từ đó hình thành cho trẻ ý thức tiết kiệm, hạn chế sử dụng nguồn điện, nguồn nước tại nơi mình sinh sống. Từ đó còn hình thành cho trẻ ý thức giữ gìn vệ sinh sạch sẽ nơi công cộng, trẻ biết chăm sóc và bảo vệ môi trường sống của chính mình. 2. Những khuyến nghị sau quá trình thực hiện đề tài. Để thực hiện tốt chuyên đề mà ngành học mầm non đã triển khai nói chung và chuyên đề “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hạt động kể chuyện sáng tạo” nói riêng, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau. * Với phòng giáo dục và đào tạo - Tổ chức tập huấn các chuyên đề phát triển ngôn ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin để giáo viên được tham gia học hỏi, rèn luyện cho bản thân. * Với nhà trường - Tham mưu với các cấp lãnh đạo đầu tư thêm cơ sở vật chất cho các lớp 12
- 13 - Tạo điều kiện cho giáo viên để dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Trên đây là một số biện pháp nhằm “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo”. Tôi rất mong được sự góp ý, nhận xét của các cấp để bản sáng kiến của tôi được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn. Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình tự viết không sao chép nội dung của người khác. Tôi xin chân thành cảm ơn! PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO *TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo dục học mầm non (tập 1.2) Đào Thanh Âm – NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 1997 2. Tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ ca, câu đố, truyện theo chủ đề trẻ 3 – 4 tuổi. Lê Thu Hương (chủ biên) – NXB Giáo Dục Việt Nam – 2011 3. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non. Nguyễn Thị Ánh Tuyết – NXB Giáo Dục – 1994
- 14 PHẦN V: MINH CHỨNG Hình ảnh 1: Trẻ lắng nghe cách cô thể hiện cử chỉ,điệu bộ của nhân vật trong truyện 14
- 15 Hình ảnh 2: Trẻ kể truyện sáng tạo theo nhóm: kết hợp rối và sa bàn
- 16 Hình ảnh 3: Trẻ kể truyện theo tranh truyện Hình ảnh 4 :Trẻ kể truyện với sa bàn rối truyện 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1794 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 24 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 24 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 44 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 13 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 8 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn