Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài
lượt xem 8
download
Sáng kiến nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm khắc phục thực trạng tìm ra nguyên nhân hạn chế, đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế, giúp giáo viên dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động trò chơi từ đó trẻ được phát triển toàn diện về ngôn ngữ cho trẻ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM ĐƯỜNG TRƯỜNG MẦM NON SÙNG PHÀI THUYẾT MINH SÁNG KIẾN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Mầm non Sùng Phài huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu.
- I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài”. 2. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Năm sinh: 07/ 09/ 1983 Nơi thường trú: Tổ 25 Phường Đông Phong – Thành phố Lai Châu Tỉnh Lai Châu. Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non. Chức vụ công tác: Giáo viên. Nơi làm việc: Trường mầm non Sùng Phài Điện thoại: 0963092666 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn mầm non. 4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 01 tháng 9 năm 2015 đến ngày 25 tháng 03 năm 2016 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường mầm non Sùng Phài. Địa chỉ: Xã Sùng Phài huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu. Điện thoại: 02313751768 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Như chúng ta đã biết đối tượng trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng có đặc điểm tâm sinh lí đặc thù là khả năng tập trung chú ý, ghi nhớ
- có chủ định ngắn, nếu khoảng thời gian cần tập trung cho một hoạt động kéo dài sẽ làm cho trẻ mệt mỏi, kém thích thú với hoạt động đó dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao. Trẻ thích được tham gia các trò chơi và việc trẻ chơi trò chơi cũng giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với kiến thức hơn. Trong khi đó, các trò chơi dân gian của Việt Nam thường mang tính ước lượng và thời gian chơi thường phụ thuộc vào hứng thú của chính người chơi, đặc biệt là những lời ca trong trò chơi dân gian thường giản dị, mang tính vần điệu, dễ thuộc, dễ nhớ, các vận động trong trò chơi dân gian thường gần gũi với đời sống hàng ngày. Những ưu điểm lớn đó của trò chơi dân gian giúp trẻ dễ dàng tiếp cận, hiểu và thích được chơi trò chơi. Ví dụ với trò chơi “ Dung dăng dung dẻ: Các bạn tham gia chơi nắm tay nhau vừa đi vừa đung đưa tay ra phía trước rồi ra sau theo nhịp bài đồng dao: “Dung dăng dung dẻ Cho dê đi học Dắt trẻ đi chơi Cho cóc ở nhà Đến ngõ nhà trời Cho gà bới bếp Lạy cậu lậy mợ Xì xà xì xụp Cho cháu về quê Ngồi thụp xuống đây” Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi đứng dậy vừa đi vừa đọc đồng dao tiếp, trò chơi lại tiếp tục. Trẻ có thể dừng chơi trò chơi ở lần chơi mà trẻ muốn. Ngoài ra, sau khi tổ chức cho trẻ chơi một số trò chơi đơn giản tôi nhận thấy trẻ tập trung chú ý, hoạt động tích cực hơn, trẻ hay đọc nhẩm những lời ca của trò chơi, thích thú với những lời ca đó. Bước đầu tôi dần khẳng định được: Việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian không những giúp trẻ phát triển về thể chất, trí tuệ mà còn là một công cụ hữu ích giúp trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số được tăng cường về tiếng Việt, khắc phục hạn chế về ngôn ngữ phổ thông của trẻ. Năm h ọc 2015 – 2016, đượ c sự phân công củ a Ban giám hiệu nhà tr ườ ng, tôi nhận nhi ệm v ụ gi ảng d ạy l ớp ghép 2, 3, 4, 5 tu ổi B ản Trung
- Chải t ừ tháng 9 năm 2015. Qua th ực t ế gi ảng d ạy và chăm sóc trẻ tạ i nhóm lớp tôi nh ận th ấy: Học sinh trong nhóm lớ p chi ếm 100% là con em đồ ng bào dân tộc thi ểu s ố lứa tuổi c ủa tr ẻ không đồ ng đề u; tr ẻ r ụt rè, nhút nhát và vốn ngôn ngữ ph ổ thông còn hạn ch ế nhi ều. Tr ẻ th ườ ng đượ c h ọc ti ếng m ẹ đẻ trướ c khi làm quen với ngôn ngữ phổ thông nên đã t ạo ra nh ững l ỗi phát âm cho tr ẻ trong giao ti ếp b ằng ngôn ngữ phổ thông, tr ẻ nói ng ọng, không tròn vành, rõ chữ. Là m ột giáo viên mầm non, tôi luôn mong mu ốn tìm các bi ện pháp để khắ c phục y ếu điể m về ngôn ng ữ phổ thông cho tr ẻ và qua quá trình tr ải nghi ệm th ực t ế tôi nhậ n thấy vi ệc tổ ch ức các trò chơ i dân gian cho tr ẻ là cách làm có hiệ u quả cao và thu hút đượ c tr ẻ. Vì vậ y tôi lự a ch ọn sáng ki ến kinh nghi ệm: “Một số bi ện pháp phát tri ển ngôn ngữ cho tr ẻ thông qua ho ạt độ ng trò ch ơi dân gian l ớp m ẫu giáo ghép b ản Trung Ch ải tr ư ờng m ầm non Sùng Phài”. Sáng kiến nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm khắc phục thực trạng tìm ra nguyên nhân hạn chế, đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế, giúp giáo viên dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động trò chơi từ đó trẻ được phát triển toàn diện về ngôn ngữ cho trẻ. 2. Phạm vi triển khai thực hiện: 28 trẻ ghép 4 dộ tuổi ( 2,3,4,5 tuổi) lớp mẫu giáo lớn bản Trung Chải Trường mầm non Sùng Phài. 3. Mô tả sáng kiến: a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Về cơ sở vật chất: phòng học, sân chơi tương đối đảm bảo, sạch sẽ, thoáng mát. Tỷ lệ chuyên cần đạt 88 % trở lên. Về giáo viên: Giáo viên có trình độ chuyên môn trên chu ẩn, có 10 năm kinh nghi ệm chăm sóc, giáo d ục tr ẻ nên cũng nắm b ắt đượ c tâm
- sinh lí của tr ẻ, nắm vững ch ươ ng trình giáo dụ c m ầm non. Luôn có tinh thần tự h ọc h ỏi đồ ng nghiệp để nâng cao chuyên môn nghiệ p vụ, đạ t danh hi ệu giáo viên dạy gi ỏi c ấp tỉnh. Về trẻ: Đa số trẻ thụ động khả năng ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, nhiều trẻ chưa biết tiếng phổ thông, có trẻ biết tiếng phổ thông nhưng còn nói ngọng nhiều, chưa mạnh dạn tự tin thi tham gia các hoạt động tập thể và giao tiếp với mọi người xung quanh. 100% trẻ là người dân tộc Mông do đó tôi đã tiến hành khảo sát 28 trẻ tại lớp như sau: Thời điểm khảo sát: Tháng 9/2015 Nội dung Tổng số Đạt chưa đạt học sinh TS % TS % Trẻ chưa biết tiếng phổ thông 28 23 82, 5 17,9 1 Biết sử dụng tiếng phổ thông 28 15 53 13 47 Sử dụng tốt tiếng phổ thông 28 8 28, 20 71,4 6 Trẻ nói ngọng 28 0 0 28 100 Trẻ mạnh dạn tham gia hoạt 28 8 28, 20 71,4 động tập thể 6 Về phụ huynh: Chưa phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc giáo dục trẻ nhiều khi còn cho trẻ nghỉ học tự do. Đại đa số các bậc phụ huynh trong bản đều giao tiếp với con em bằng tiếng địa phương. Qua các giải pháp mà tôi đã thực hiện những năm học trước và kết quả khảo sát học sinh đầu năm chúng tôi nhận thấy những ưu điểm và cần khắc phục những hạn chế của giải pháp cũ như sau: Giải pháp 1: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh và tổ chức đoàn viên tại thôn bản Ưu điểm: Đã có sự nhận thức đưa con em đi học thường xuyên, đúng giờ.
- Hạn chế: Phụ huynh học sinh đại đa số đều còn khó khăn, thường xuyên đi làm nương rẫy ở xa, trẻ thường tự đi học, các cháu trong độ tuổi đi học của các cấp học tự chăm sóc nhau nên việc trao đổi thông tin hai chiều cũng như phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp cho trẻ chơi. + Ưu điểm: Ngay từ đầu năm học được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu, chuyên môn nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch lựa chọn được các trò chơi dân gian. Bản thân tôi đã có 10 năm kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ nên cũng nắm bắt được tâm sinh lí của trẻ. + Hạn chế: Khi thực hiện xây dựng kế hoạch tôi chưa chú ý trong việc lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp với chủ đề và xây dựng kế hoạch cụ thể theo từng chủ đề để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giải pháp 3: Chuẩn bị chu đáo đồ dùng, lời ca, sân chơi trước khi tổ chức cho trẻ chơi + Ưu điểm: Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành và trực tiếp là Phòng Giáo Dục và Đào Tạo, Ban giám hiệu nhà trường, lớp học được trang bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. + Hạn chế: Một số đồ dùng chưa đảm bảo, sân chơi còn hơi nhỏ. * Phân tích các giải pháp trước khi thực hiện sáng kiến Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh và tổ chức đoàn viên tại thôn bản: Được Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn đã chỉ đạo tôi đã truyên truyền phối kết hợp với phụ huynh và các tổ chức đoàn viên tại thôn bản về việc tăng cường phát triển ngôn ngữ cho trẻ, phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Xong một số phụ huynh ngay bản thân họ cũng không sử dụng thành thạo tiếng phổ thông. Nên hiệu quả chưa cao.
- Xây dựng kế hoạch lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp cho trẻ chơi: Giáo viên đã quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch xong lựa chọn trò chơi còn chưa phong phú chưa phù hợp với chủ đề. Chuẩn bị chu đáo trước khi tổ chức cho trẻ chơi: Lớp học được trang bị cơ sở tương đối đầy đủ. Giáo viên đã quan tâm đến việc làm đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho trò chơi song đồ dùng còn chưa phong phú, chưa đảm bảo về chất lượng nên đã phần nào ảnh hưởng đến việc tổ chức trò chơi cho trẻ. Từ thực tế đó tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn hoạt động tổ chức thường xuyên các trò chơi dân gian bằng những biện pháp mới nhằm thu hút sự chú ý và khích lệ trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động, giúp trẻ có cơ hội giao lưu, giao tiếp với bạn bè nhiều hơn, xóa đi khoảng cách về ngôn ngữ giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và hơn thế nữa là tạo tiền đề tốt về ngôn ngữ để trẻ tìm hiểu, tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất giúp trẻ phát triển một cách toàn diện và những thay đổi trong tổ chức trò chơi dân gian sẽ giúp cải thiện nâng cao đáng kể vốn ngôn ngữ phổ thông của trẻ. b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: * Tính mới: Trẻ chủ động tham gia các hoạt động phát triển ngôn ngữ, trẻ biết tiếng phổ thông, nhiều trẻ sử dụng thành thạo tiếng phổ thông, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp và tham gia các hoạt động tập thể. Giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, linh hoạt lựa chọn, tổ chức các trò chơi dân gian và xây dựng kế hoạch phù hợp. Trẻ được tham gia các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc dân tộc Mông. * Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch, lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp cho trẻ chơi
- Phát triển ngôn ngữ có thể nói là lĩnh vực quan trọng nhất trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, vì vậy để cung cấp vốn từ, rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi ưu tiên lựa chọn xây dựng kế hoạch cụ thể từng chủ đề các trò chơi có lời ca: Chủ đề bản thân tôi lựa chọn trò chơi “tập tầm vông, chi chi chành chành, nu na nu nống”. Chủ đề gia đình: Tôi lựa chọn trò chơi “Dung dăng dung dẻ”. Chủ đề nghề nghiệp tôi lựa chọn trò chơi “rồng rắn lên mây”. Chủ đề Thực vật và mùa xuân tôi lựa chọn trò chơi “trồng nụ trồng hoa, Ném còn, ném pao”. Chủ đề động vật tôi lựa chọn trò chơi “thả đỉa ba ba” Chủ đề Nước và hiện tượng tự nhiên tôi lựa chọn trò chơi “trốn tìm, kéo co” Những trò chơi có lời ca vừa tạo cơ hội cho trẻ được đọc, được chơi vừa tạo cho trẻ niềm vui thích với những câu chuyện ngộ nghĩnh có trong lời ca mà trẻ đọc như: Rồng rắn lên mây Có cây lúc lắc Hỏi thăm thấy thuốc Có nhà hay không? Thầy trả lời, thầy thuốc không có nhà, trẻ lại tiếp tục đọc lần 2,3. Sau khi trẻ đọc lần 3 kết thúc đến câu cuối, thầy thuốc nói “ Có tôi xin khúc đầu”. Mẹ con rồng rắn trả lời: “ Khúc đầu cùng xẩu, cùng xương”. Thầy thuốc: Cho tôi xin khúc giữa: Khúc giữa không ăn được Thầy thuốc: Cho tôi xin khúc đuôi: Tha hồ mà đuổi Trẻ làm thầy thuốc rất thích thú khi được đuổi bạn, các trẻ làm mẹ con rồng rắn cũng sôi nổi ngăn và tránh bị thầy thuốc bắt. Thông qua trò chơi Rồng rắn trẻ được đọc lời ca đối thoại cùng bạn qua đó trẻ được làm quen với nhiều từ mới, từ đó vốn từ của trẻ cũng được tăng nhanh thông qua giao tiếp trong khi chơi.
- Do đặc điểm của trẻ mầm non là dễ nhớ mau quên nên tôi lựa chọn các trò có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ chơi, dễ nhớ. Ví dụ trò chơi thả đỉa ba ba, kéo co, trốn tìm... Bên cạnh đó chọn trò chơi cho trẻ chơi phù hợp với khả năng của trẻ: Đảm bảo trẻ ở cả 4 lứa tuổi đều có thể chơi được. Trong quá trình chơi tôi cũng luôn luôn khuyến khích, động viên trẻ cùng tham gia, khám phá những trò chơi dân gian, có thể trẻ 2 3 tuổi chưa thể chơi khéo léo và phản ứng nhanh như trẻ 4 5 tuổi, 5 6 tuổi nhưng khi được cùng tham gia trò chơi với các bạn lớn hơn sẽ tạo động lực hối thúc trẻ tích cực tham gia hoạt động và trong quá trình chơi, trẻ không chỉ học được cách chơi từ sự hướng dẫn của giáo viên mà trẻ còn học hỏi được từ chính những bạn lớn hơn trong lớp. * Giải pháp 2: Chuẩn bị chu đáo đồ dùng, sân chơi, lời ca trước khi tổ chức cho trẻ chơi Trước khi tổ chức cho trẻ chơi đầu tiên tôi chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ, đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, lời ca, sân chơi phù hợp với từng trò chơi. Ví dụ: Với trò chơi Rồng rắn lên mây cô chuẩn bị lời ca, sân chơi rộng. Trò chơi kéo co cô cần chuẩn bị dây kéo to, chắc chắn nhưng đảm bảo không gây đau cho trẻ khi chơi “Kéo co”, có thể lựa chọn dây vải bện hoặc dây thừng to và cứng. Hoặc với trò chơi “ Ném còn” (Dân tộc Thái) thì lại cần chuẩn bị cây nêu, quả còn, rổ đựng còn, phấn vẽ vạch mức. Còn với trò chơi “Ném Pao” ( Dân tộc Mông) thì chỉ cần những quả Pao xinh xắn và khoảng sân chơi bằng phẳng cho trẻ là đủ... Địa điểm chơi cũng rất quan trọng, không gian tổ chức thoải mái thì trẻ mới có thể chơi một cách thoải mái và hết mình. Tùy thuộc vào từng trò chơi, hình thức, thời gian tổ chức chơi sẽ tôi lựa chon địa điểm chơi sao cho phù hợp. Ví dụ: Với những trò chơi động, mang tính tập trung như: Rồng rắn lên mây, kéo co, thả đỉa ba ba…số lượng trẻ chơi trong mỗi lượt chơi nhiều thì
- lựa chọn tốt nhất là sân chơi ngoài trời. Với những trò chơi mang tính chất tĩnh, trẻ chơi theo nhóm nhỏ như: Chi chi chành chành, kéo cưa lừa xẻ…thì có thể cho trẻ chơi ngay trong lớp hoặc chơi ngoài sân chơi đều được.Với trò chơi “Dung dăng dung dẻ” trẻ có thể chơi mọi lúc, mọi nơi. Khi thời tiết nắng ráo có thể cho trẻ chơi ở sân chơi ngoài trời, khi trời mưa rét có thể tổ chức cho trẻ chơi ngay trong lớp học. Nhưng yếu tố đầu tiên tôi luôn quan tâm là địa điểm chơi được lựa chọn cho trẻ chơi luôn phải đảm bảo an toàn đối với trẻ, đảm bảo về vệ sinh. Để tổ chức cho trẻ chơi trò chơi thật tốt tôi trước khi tổ chức trò chơi tôi tổ chức cho trẻ làm quen, học thuộc lời ca của trò chơi trong các hoạt động như. Giờ đón, trả trẻ, hoạt động ngoài trời… Ngoài cách dạy trẻ làm quen với lời ca theo hình thức truyền khẩu, để tác động giúp trẻ thêm hứng thu khi đọc lời ca và tập trung chú ý, mau thuộc lời ca, tôi còn tổ chức cho trẻ thi đọc nối dưới hình thức luân phiên nhóm hoặc cá nhân. Ví dụ: Chia 28 trẻ thành 5 nhóm làm quen với lời ca của trò chơi “ Chi chi chành chành”; Cô giới thiệu lời ca cho trẻ làm quen, khi trong lớp chỉ còn một vài trẻ chưa thuộc tôi cho trẻ thi đọc nối giữa 5 nhóm, cứ nhóm đầu tiên đọc câu trước (Chi chi chành chành) thì nhóm thứ 2 đọc câu tiếp theo (Cái đanh thổi lửa) lần lượt cho đến hết lời ca của trò chơi. Hoặc khó hơn: Tôi tổ chức cho trẻ thi đọc nối nhưng theo hiệu lệnh mời; Không phải đọc nối lời ca tuần tự từ nhóm này đến nhóm khác mà trẻ phải quan sát, khi cô hoặc nhóm bạn đọc 1 câu của lời ca, cô đưa tay mời hướng về nhóm nào thì nhóm đó phải đọc câu tiếp theo… (Cô đọc: Chi chi chành chành, kết hợp đưa tay mời về phía nhóm 1 thì trẻ nhóm 1 đọc: Cái đanh thổi lửa. Cô lại chuyển hiệu lệnh mời về nhóm 5 thì nhóm lại đọc tiếp: Dắt dế đi tìm. Cứ như vậy, nhóm trẻ được mời thì đọc đúng câu ca nối tiếp, các nhóm còn lại vừa đọc nhẩm vừa lắng nghe, quan sát để phát hiện lượt đọc của nhóm mình để đọc cho đúng câu ca. Khi cho trẻ thi đọc hình thức cá nhân cũng vậy. Chỉ thay đổi là số trẻ trực tiếp tham gia là những cá nhân cụ thể. Các bạn còn lại là người lắng nghe và
- kiểm tra.Việc tổ chức cho trẻ làm quen với lời ca theo hình thức như vậy sẽ khiến trẻ thêm hào hứng và khi đã tham gia vào hoạt động thì lúc nào trong đầu trẻ cùng tư duy về lời ca, lúc nào miệng trẻ cũng nhẩm và chỉ chờ tới lượt nhóm hoặc bản thân mình để được đọc lên lời ca đúng. * Giải pháp 3: Thực hành trải nghiệm qua việc tổ chức trò chơi. Trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian tôi cũng luôn chú ý bao quát trẻ không chỉ để phát hiện, giúp đỡ trẻ khi trẻ cảm thấy khó khăn, vướng mắc với cách chơi của trò chơi mà còn phát hiện được những lỗi phát âm của trẻ khi đọc lời ca và sửa cho trẻ kịp thời, tăng cường tiếng Việt cho trẻ khi trẻ chơi các trò chơi có nhiều âm vực khó. VD: Trò chơi: Rồng rắn lên mây, khi tổ chức chơi trong quá trình đọc lời ca, trẻ thường ngọng “r” với “nh” như từ “rắn” trẻ đọc thành “nhắn” tôi đã tăng cường sửa cho trẻ, nói cho trẻ hiểu là từ “Rắn” chứ không phải “nhắn” tôi đã phát âm lại từ “Rắn” nhiều lần và dạy trẻ phát âm cho đúng, và tôi động viên khuyến khích những trẻ lớn phát âm đúng dạy những trẻ còn ngọng. Bên cạnh đó tôi cũng luôn tạo điều kiện và khuyến khích trẻ chơi các trò chơi, rèn các kĩ năng vận động cho trẻ và gợi ý cho các trẻ lớn vừa chơi vừa giúp đỡ các em nhỏ hơn; trong quá trình quan sát thực tế trẻ chơi, tôi nhận thấy: Các cháu 4 5 tuổi rất thích được dạy cho các em nhỏ hơn cách chơi trò chơi, cách đọc lời ca của trò chơi cho đúng và ngược lại các cháu nhỏ cũng rất thích các anh chị hướng dẫn thêm cho mình trong khi chơi, trẻ cũng thích được đọc lời ca dưới hình thức thi đọc nối luân phiên. VD: Sau khi đã được cô giáo hướng trò chơi “Nu na nu nống” vào các buổi chơi trước, trong các giờ chơi tự do của trẻ tôi thấy các cháu 4 5 tuổi thường vừa chơi vừa để ý lắng nghe các em nhỏ đọc lời ca trong khi chơi và nhắc em “Không phải đánh trống cất cờ, phải nói là đánh trống phất cờ” rồi với từ “phất” đó các anh chị còn ra sức phát âm lại cho các em nghe và nhắc em nói đúng mới thôi, sau đó cả nhóm trẻ cùng tươi vui phấn khởi hẳn ra vì
- những điều chúng vừa làm được, có những tình huống trẻ còn khúc khích cười với nhau như không hề có khoảng cách nào… Trong quá trình hướng dẫn và tổ chức cho trẻ chơi tôi cũng sử dụng từ trong tiếng địa phương để giải thích các từ có nghĩa nhằm giúp trẻ dễ nhớ, dễ hiểu hơn các câu ca, các từ khó trong lời ca của trò chơi khi cần thiết nhưng không quá lạm dụng. Không sử dụng tiếng địa phương để dạy hay giao tiếp thường xuyên với trẻ mà chỉ dùng để giải nghĩa cho trẻ dễ hiểu hơn nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động. * Giải pháp 4: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh và tổ chức đoàn viên tại thôn bản Đối với cấp học mầm non công tác phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội là một nhiệm vụ thiết thực, tạo được sự thống nhất giữa nhà trường và cha mẹ về nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức chăm sóc và giáo dục trẻ. Trong các buổi họp bản và họp phụ huynh, tôi đã tổ chức tuyên truyền tới các bậc phụ huynh và tổ chức đoàn của bản về nhiệm vụ giáo dục trọng tâm của năm học 2015 2016, đặc biệt là nội dung tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Được sự quan tâm và phối kết hợp của các bậc phụ huynh có điều kiện về thời gian cũng như sự nhiệt tình hỗ trợ của các đoàn viên thanh niên trong bản, Tuyên truyền phụ huynh vận động gia đình chơi, giao tiếp cùng trẻ khi ở nhà. Tạo góc tuyên truyền bằng tranh ảnh các trò chơi dân gian. kết quả hoạt động của trẻ đã được nâng lên đáng kể. 4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại Qua thời gian từ ngày 01 Tháng 09 năm 2015 đến ngày 25 tháng 03 năm 2016 Với sự tìm tòi, nghiên cứu của bản thân, khi thực hiện SKKN “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mẫu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài”.Tôi đạt được một số kết quả sau:
- 4.1.Hiệu quả kinh tế Nguyên vật liệu sử dụng trong sáng kiến tận dụng được từ nguyên vật liệu sẵn có tại bản mang lại hiệu quả kinh tế cao, không quá tốn kém, mất nhiều thời gian để chuẩn bị và lựa chọn trong tổ chức cho trẻ chơi. 4.2. Quan hệ về mặt xã hội * Giá trị đối với môi trường: Giúp trẻ biết trân trọng cái đẹp, biết bảovệ nét văn hóa truyền thống của dân tộc Mông. * Giá trị đối với lĩnh vực an toàn lao động: Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. * Giá trị khác: Giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, linh hoạt lựa chọn, tổ chức các trò chơi dân gian và xây dựng kế hoạch để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Sau mỗi chủ đề giáo viên có sự sáng tạo hơn kích thích trí tò mò và hứng thú của trẻ để tham gia trò chơi cùng cô. Trẻ chủ động tham gia các hoạt động phát triển ngôn ngữ, trẻ biết tiếng phổ thông, nhiều trẻ sử dụng thành thạo tiếng phổ thông, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp và tham gia các hoạt động tập thể. Đối với phụ huynh đã có chuyển biến trong nhận thức vể giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đã phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục trẻ như đưa trẻ đi học thường xuyên… và chủ động giao tiếp với trẻ bằng tiếng phổ thông. Sau khi áp dụng những giải pháp mới trong hoạt động tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian, hiệu quả giáo dục trẻ thu được như sau: Trước khi thực Sau khi thực hiện hiện SK Sk TS Đạt Chưa Đạt Chưa Diễn giải Nội dung tr đạt đạt kết quả ẻ TS % TS % TS % TS % Trẻ chưa biết 28 tiếng phổ thông. Tăng 17, 9 23 82,1 5 17,9 28 100 0 0 %
- Biết sử dụng Tăng tiếng phổ thông 17,9% 15 53 13 47 20 71,4 8 28,6 Sử dụng tốt tiếng 8 28,6 20 71,4 19 68 9 32 Tăng phổ thông 39,3% Trẻ nói ngọng 0 0 28 100 22 79 6 21 Giảm 79% Trẻ mạnh dạn Tăng trong hoạt động 8 28,6 20 71,4 19 68 9 32 39,3% tập thể 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Với sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động trò chơi dân gian lớp mâu giáo ghép bản Trung Chải trường mầm non Sùng Phài” mà tôi đã đã áp dụng trong phạm vi tại lớp đạt kết quả cao, Tôi nhận thấy sáng kiến kinh nghiệm cũng có thể áp dụng đại trà cho các lớp, các trường có con em đồng bào các dân tộc thiểu số tại các đơn vị khác trong toàn huyện và trong toàn tỉnh. 6. Các thông tin cần được bảo mật: Không. 7. Kiến nghị, đề xuất: Không. a) Về danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến: Không b) Kiến nghị khác: * Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Cấp phát các tài liệu cho giáo viên tham khảo để phục vụ cho chuyên môn hiệu quả hơn. * Đối với ban giám hiệu Tham mưu với Phòng GD&ĐT, UBND xã về kinh phí tu sửa cơ sở vật chất, bổ xung thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Ban Giám hiệu cần có sự chỉ đạo cụ thể, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá kế hoạch rút kinh nghiệm cho giáo viên.
- 8. Tài liệu kèm: Không. Trên đây là nội dung, hiệu quả của tác giả do chính tôi thực hiện không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Hồng Hạnh XN CỦA HỘI ĐỒNG TĐKT HUYỆN
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 191 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 99 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 161 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 113 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 98 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn