Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói độ tuổi 24 – 36 tháng
lượt xem 1
download
Sáng kiến "Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói độ tuổi 24 – 36 tháng" được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp trẻ chuyển các từ vựng, từ đơn, cụm từ có 2 – 3 từ có nghĩa lên câu đơn giản; Giúp trẻ biết cách vận dụng các câu đã được học vào đúng tình huống; Phát triển khả năng tự tư duy chuyển đổi các từ vựng theo tình huống một cách linh hoạt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói độ tuổi 24 – 36 tháng
- ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ TRƯỜNG MẦM NON THUẦN MỸ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói độ tuổi 24 – 36 tháng. Họ và tên : Trần Thị Thu Phương Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác : Trường mầm non Thuần Mỹ Năm học: 2022 – 2023
- MỤC LỤC Số STT Nội dung trang Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1 Lý do chọn đề tài 1 1.1 Cơ sở lý luận 1 1.2 Cơ sở thực tiễn 2 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 3 4 Đối tượng khảo sát thực nghiệm 3 5 Phương pháp nghiên cứu 3 6 Phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện đề tài 3 NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT Phần II. 4 VẪN ĐỀ 1 Cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề 4 2 Khảo sát thực trạng 5 2.1 Thuận lợi 5 2.1 Khó khăn 6 3 Số liệu điều tra trước khi thực hiện 7 4 Các biện pháp thực hiện 7 5 Các biện pháp thưc hiện từng phần 7 5.1. Biện Học tập nâng cao trình độ chuyên môn 7 pháp 1 5.2. Biện Cung cấp vốn từ thông qua các hoạt động ở trường 8 pháp 2 Mầm non 5.3. Biện Xây dựng các bài tập luyện khẩu hình và âm ngữ cho 12 pháp 3 trẻ 5.4. Biện Phối kết hợp với phụ huynh 15 pháp 4 6 Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm 16 Phần III KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 18 1 Kết luận 19 2 Đề xuất và khiến nghị 19
- 3
- 1 Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận Theo chương trình Giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số: 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Môi trường giáo dục mầm non mang đến cho trẻ những hiểu biết đầu tiên và những trải nghiệm về thế giới xung quanh. Nhưng để trẻ lĩnh hội được tri thức đó thì đòi hỏi trẻ phải có vốn từ ngữ phong phú. Trong mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục trẻ độ tuổi nhà trẻ là nhằm làm cho trẻ phát triển toàn diện trên 4 lĩnh vực, trong đó lĩnh vực phát triển ngôn ngữ là lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với trẻ độ tuổi nhà trẻ. Quá trình trưởng thành của đứa trẻ bên cạnh thể chất là trí thức, đó là công cụ để trẻ phát triển tư duy mà trí thức chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập và vui chơi là những hoạt động chủ yếu của trường mầm non. Chính vì vậy trên con đường giáo dục thì giáo dục mầm non đã đặc biệt được coi trọng. Sự phát triển của trẻ lứa tuổi 24-36 tháng phụ thuộc rất nhiều vào sự định hướng của giáo viên, cũng như của gia đình và toàn xã hội. Khi trẻ đến trường mầm non thì giáo viên giữ vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục trẻ, giúp trẻ hình thành, nuôi dưỡng và phát triển các giác quan cho trẻ đặc biệt là khả năng tập trung lắng nghe và phát âm, cung cấp vốn từ cho trẻ. Do đó, việc cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói trong trường mầm non là việc làm vô cùng cần thiết. Sự tự tin, cách ứng xử của trẻ, thể hiện mong muốn
- 2 nhu cầu bản thân, có sự tương tác với mọi người và hiểu biết của chúng về thế giới xung quanh phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng môi trường giáo dục mầm non và mối quan hệ tương hỗ giữa giáo viên và trẻ. Ví dụ: Trẻ khát nước muốn có nhu cầu uống nước trẻ biết nói “uống nước” hay khi ăn trẻ thấy thức ăn nóng trẻ sẽ bảo “nóng”. 1.2. Cơ sở thực tiễn Như chúng ta cũng đã biết sự phát triển của công nghệ 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh đặc biệt là phụ huynh ở vùng nông thôn không có thời gian bên các con nhiều vì phải lo cho cơm, áo, gạo, tiền, không thường xuyên trò chuyện giao lưu với trẻ mà thường để trẻ tự chơi một mình hoặc chơi điện thoại, ti vi, ipad. Trẻ chỉ được tương tác một chiều mà không có sự phản hồi lại, dẫn đến trẻ tự kỉ, chậm nói, không biết trả lời, loạn ngôn. Điều này làm chậm sự phát triển cả về nhận thức lẫn tình cảm của trẻ. Ngôn ngữ diễn đạt và ngôn ngữ tiếp nhận của trẻ đều kém, đặc biệt là ngôn ngữ diễn đạt: Trẻ nói ngọng, nói lắp, nói khó, nói giọng mũi, mất khả năng nói, không nói được. Khả năng giao tiếp, phát âm của trẻ là một trong những điều rất quan trọng mà trẻ cần phải học. Điều đó giúp trẻ hiểu người nói và thể hiện được sự giao lưu, tương tác lại với người nói và người nghe. Đưa ra được những câu hỏi và câu trả lời phù hợp với hoạt cảnh. Việc cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói là hết sức quan trọng. Để nói được tốt, trẻ cần phải có vốn từ ngữ phong phú. Với tầm quan trọng như vậy nên tôi đã lựa chọn và nghiên cứu: “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói độ tuổi 24 – 36 tháng”. 2. Mục đích nghiên cứu Giúp trẻ chuyển các từ vựng, từ đơn, cụm từ có 2 – 3 từ có nghĩa lên câu đơn giản. Giúp trẻ biết cách vận dụng các câu đã được học vào đúng tình huống. Phát triển khả năng tự tư duy chuyển đổi các từ vựng theo tình huống một cách linh hoạt.
- 3 Chủ động đưa ra yêu câu với người khác. Đặt một vài câu hỏi đơn giản mức độ thấp: ở đâu? đâu rồi? ai vậy? Tạo cho trẻ tính tự tin giao tiếp. Giúp cho phụ huynh hiểu được sự quan trọng của việc cho trẻ được khám phá trải nghiệm những khả năng tiềm ẩn của bản thân mỗi đứa trẻ, khả năng giao lưu, vốn từ ngữ của mỗi trẻ sự tương tác của trẻ với những người xung quanh. 3. Đối tượng nghiên cứu - Trẻ độ tuổi nhà trẻ (24 – 36 tháng tuổi).. 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm - Đối tượng khảo sát thực nghiệm: Trẻ 24-36 tháng tuổi chậm nói trong trường mầm non. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp lý luận - Phương pháp quan sát - Phương pháp phân tích - Phương pháp so sánh. - Phương pháp đàm thoại - Phương pháp tổng hợp 6. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện tại lớp nhà trẻ D2 lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi trường mầm non tôi đang công tác. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2023 đến tháng 4 năm 2024.
- 4 Phần II NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề Ngày nay, tình trạng trẻ chậm nói, vốn từ ngữ ít, trẻ có giọng nói to hoặc nhẹ nhàng một cách không bình thường hay cau mày hoặc rướn người lên phía trước khi nghe người khác nói, sử dụng ngôn ngữ sai ngữ pháp so với lứa tuổi, bỏ sót một số âm khi nói và thay vào đó là một số âm khác, phát âm sai một số từ “con vịt” trẻ phát âm thành “con tịt” còn rất nhiều hạn chế trong việc phát âm. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non là cực kỳ quan trọng, ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ có nhận thức và giao tiếp tốt. Góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Khi trẻ có ngôn ngữ phát triển tốt thì sẽ dễ dàng hơn trong việc giao tiếp với các bạn, nghe hiểu và làm theo yêu cầu của cô, của người lớn đồng thời trẻ có thể nói lên được nhu cầu của trẻ. Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta gọi là giai đoạn tiền ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, do đó mà trẻ được tác động mạnh mẽ về ngôn ngữ từ phía môi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngôn ngữ của trẻ có điều kiện phát triển nhanh. Nhưng trong thực tế môi trường gia đình: ông, bà., bố, mẹ...hay môi trường xã hội: cô giáo còn ít quan tâm đến việc phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói nên nhìn chung vốn từ của trẻ còn rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, từ những lý luận trên tôi nhận thấy việc phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói là vô cùng quan trọng vì vậy khi phụ trách nhóm lớp 24-36 tháng tuổi, hàng ngày tôi chăm sóc giáo dục trẻ tôi thấy cần phát triển vốn từ để vốn từ của trẻ ngày càng phát triển phong phú, mở rộng vốn hiểu biết và giúp trẻ phát triển toàn diện hơn.
- 5 2. Khảo sát thực trạng Năm học 2022-2023 tôi được sự phân công giảng dạy lớp 24-36 tháng với tổng số trẻ là 15 trẻ. Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ bản thân tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: 2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm sát sao của Ban Giám Hiệu nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề phát triển ngôn ngữ và tạo môi trường ngôn ngữ cung cấp vốn từ vựng cơ bản cho trẻ để nâng cao trình độ cho giáo viên. Nhà trường chỉ đạo các nhóm lớp xây dựng môi trường lớp học lấy trẻ làm trung tâm, đổi mới phương pháp dạy trẻ học và phân các nhóm lớp theo đúng độ tuổi, nên rất thuận lợi trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Đội ngũ cán bộ giáo viên luôn đoàn kết, yêu nghề, nhiệt huyết, giúp đỡ nhau trong công việc, có trình độ chuyên môn 100% đạt chuẩn và trên chuẩn. Hiệu trưởng và hiệu phó chuyên môn nhà trường luôn tích cực học hỏi các phương pháp giáo dục tiên tiến và định hướng, đổi mới, truyền đạt lại cho giáo viên, nhiệt tình giúp đỡ và là người nắm bắt tâm tư nguyện vọng của giáo viên để truyền cảm hứng nguồn năng lượng tích cực cho giáo viên. Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức. Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng phục vụ cho việc cung cấp và phát triển vốn từ cho trẻ. Trình độ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Bản thân tôi là giáo viên trẻ, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề, nhiệt tình, luôn tận tâm chăm sóc giáo dục trẻ, có trình độ chuyên môn,có khả năng nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý trẻ, tạo được môi trường lớp phong phú, hấp dẫn giúp trẻ hoạt động tích cực. Nhà trường trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy phù hợp với độ tuổi, đảm bảo an toàn, phòng học thoáng mát, sạch sẽ, đủ ánh sáng.
- 6 2.2. Khó khăn: Khả năng nhận thức của các trẻ không đồng đều có 1 số trẻ nói vẫn chưa thạo, ngôn từ chưa phong phú nên gây khó khăn cho các con trong việc thể hiện ý muốn của mình đối với cô giáo. Nhiều gia đình bố mẹ đi làm cả ngày, con cái ở với ông bà cho trẻ vem tivi, điện thoại nhiều nên trẻ không được giao lưu tương tác với thế giới xung quanh và các bạn cùng độ tuổi. Phụ huynh phân lớn là nông dân nên chưa chú trọng tới việc tập nói của trẻ, để mặc con mình phát triển tự nhiên. Bên cạnh đó có những phụ huynh cho con đi học muộn, đi học không đều họ quan niệm rằng với độ tuổi này thì việc học tập của trẻ là chưa cần thiết. Khi trẻ 24 – 36 tháng nhưng vẫn chưa nói được từ đôi hoặc trẻ đã nói được nhưng sau đó mất dần ngôn ngữ. Trẻ không tập trung chú ý, không chấp nhận giao tiếp, không kết bạn, sợ chỗ lạ, người lạ, vật lạ, nhút nhát, rụt rè, thiếu tự tin. Vốn từ ngữ ở trẻ rất nghèo nàn. Trẻ thường phát âm không đúng, không phân biệt những âm gần nhau như t/đ, b/m. Giọng nói của trẻ không bình thường, khó nghe, hay nói giọng mũi, nói ngọng, giọng cao, giọng yếu, giọng khàn. Độ tuổi nhà trẻ tình trạng sức khỏe, sức đề kháng của trẻ kém hay ốm đặc biệt là sức khỏe liên quan đến vấn đề hô hấp, các bệnh về Tai – Mũi – Họng khi thời tiết thay đổi làm ảnh hưởng đến quá trình học tập và khả năng luyện âm. Phụ huynh còn thiếu phối kết hợp với cô như: Khi giáo viên trao đổi tình hình của trẻ về cho phụ huynh để phụ huynh trao đổi với trẻ về những gì cô dặn trên lớp nhưng hầu hết phụ huynh không làm. Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã nghiên cứu và thấy mình phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ chậm nói.
- 7 3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện Bảng: Kết quả khảo sát đầu năm học 2022-2023 trên tổng số 15 trẻ Đạt Chưa đạt Nội dung khảo sát Tỉ lệ Tỉ lệ Số lượng Số lượng (%) (%) Khả năng tập trung chú ý của trẻ 5/15 33,3 10/15 66,7 Khả năng phát âm, vốn từ, ngữ 4/15 26,7 11/15 73,3 pháp của trẻ Trẻ nhút nhát, rụt rè, thiếu tự tin, 5/15 33,3 10/15 66,7 không giao tiếp với người lạ Trẻ thích nói 6/15 40 9/15 60 4. Các biện pháp thưc hiện. Biện pháp 1: Học tập nâng cao trình độ chuyên môn Biện pháp 2 : Cung cấp vốn từ thông qua hoạt động ở trường mầm non Biện pháp 3 : Xây dựng các bài tập luyện khẩu hình và âm ngữ cho trẻ Biện pháp 4 : Phối kết hợp với phụ huynh 5. Biện pháp thực hiện từng phần 5.1. Biện pháp 1: Học tập nâng cao trình độ chuyên môn Đối với người giáo viên thì hình ảnh của giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp và trong tâm hồn trẻ, vì nó sẽ góp phần hình thành những biểu tượng nhân cách ban đầu cho trẻ. Vì vậy việc đầu tiên là phải nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, tự trau dồi kiến thức, tìm tòi học hỏi. Rèn cách phát âm chuẩn là yếu tố quan trọng nhất. Tích cực chủ động tham gia đầy đủ các buổi thăm quan dự giờ và bồi dưỡng chuyên môn do PGD&ĐT tổ chức, thường xuyên cập nhật nắm bắt kịp thời chương trình giáo dục trên trang website của Phòng Giáo Dục. Nhà trường luôn quan tâm sát sao đến mong muốn nguyện vọng của giáo viên tạo điều kiện cho tôi tham gia tập huấn, sinh hoạt chuyên môn trong khối, đó là nơi giáo viên gắn bó giúp đỡ nhau, cùng nhau giải quyết những khó khăn mà mình đang vướng. Tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động dạy học, học tập trong và ngoài nhà trường để giáo viên bổ sung kiến thức, kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhằm nâng cao phẩm chất
- 8 năng lực sư phạm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Tôi luôn chú ý, tìm tòi tích lũy thêm kiến thức trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói, đồng thời tôi cũng học hỏi các đồng nghiệp qua các buổi tổ chức hoạt động và tìm hiểu qua các loại sách báo để có kế hoạch hướng dẫn theo năng lực của trẻ. Bản thân tôi cũng có nhiều cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện. Tôi chủ động xây dựng bài giảng của mình có sáng tạo để gây hứng thú, cung cấp được nhiều vốn từ cho trẻ. Đồng thời phải tự trau dồi cho mình những kiến thức về trình độ nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng giao tiếp, ngữ điệu, âm điệu khi nói chuyện với trẻ, kỹ năng xử lý tình huống, phương pháp truyền đạt kiến thức cho trẻ. Tôi đã chủ động học tập, tìm tòi thêm các phương pháp giáo dục tiên tiến như stem/steam, Montessori …với những bài tập phù hợp với độ tuổi, khả năng của trẻ lớp tôi Kết quả: Qua một quá trình tôi đã tự học, tự nghiên cứu, cũng như tham gia các buổi bồi dưỡng chuyên môn thì trước tiên tôi đã nắm bắt được những trẻ nào ở lớp chậm nói vốn từ ít. Từ đó tôi đã đưa ra các biện pháp để cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói qua các hoạt động ở trường. 5.2. Biện pháp 2: Cung cấp vốn từ thông qua hoạt động ở trường Mầm non Thông qua giờ đón – trả trẻ: Khi trẻ đến lớp, khi phụ huynh đến đón trẻ tôi chủ động chào phụ huynh, chào trẻ rõ ràng mạch lạc để trẻ nghe được lời cô chào, nếu trẻ chưa chào tôi chủ động hướng dẫn trẻ chào cô, chào bố mẹ. Ví dụ: “Con chào cô ạ” dần dần tạo thói quen chào hỏi cho trẻ, vừa rèn lễ giáo vừa giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói. Khi trẻ cất dép ba lô tôi cùng giao tiếp tương tác với trẻ để trẻ tiếp nhận thêm nhiều vốn từ như “cất dép” “cất balo”… Để hiểu trẻ hơn nắm bắt tốt tâm sinh lý của trẻ tôi còn trò chuyện thật nhiều với trẻ về bản thân trẻ, về sở thích của trẻ thông qua hoạt động điểm danh. Tôi thường trò chuyện cùng trẻ về gia đình, trường học và sở thích của trẻ để giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp, nói được lên những suy nghĩ của
- 9 trẻ một phần để rèn luyện kỹ năng phát âm cho trẻ. Tôi hướng dẫn cho trẻ nói về tên, tuổi, trường, lớp, tên cô giáo ở lớp và nói lên sở thích của mình cho cô và các bạn cùng nghe, khi trẻ gặp khó khăn về vốn từ tôi sẽ gợi mở cho trẻ từ đầu tiên hoặc nói chậm từng từ để trẻ nhắc lại. Khi nghe trẻ giới thiệu xong tôi và cả lớp cùng nói “chào bạn A”. Đặc biệt tôi không quên khen trẻ khi trẻ nói xong và luôn nói lời cảm ơn tới các bạn ngồi dưới đã chú ý lắng nghe bạn giới thiệu. Đối với những trẻ chưa biết nói thì tôi sẽ gọi tên trẻ, khi trẻ nghe được tôi gọi đến tên của mình thì tôi lại gần định hướng cho trẻ đựng dậy khoanh tay và nói với trẻ “ạ” lặp đi lặp lại nhiều lần, nhiều ngày để trẻ bắt chước âm thanh đó. Thông qua hoạt động học - Giờ làm quen với tác phẩm văn học Tiết làm quen với tác phẩm văn học được trẻ yêu thích và rất hấp dẫn đối với trẻ vì vậy kể chuyện là một cách thức giáo dục rất lý thú có khả năng phát triển vốn từ rất tốt cho trẻ, khi vào giờ học cô gây hứng thú bằng nhiều cách khác nhau, cô dùng thủ thuật hoặc câu hỏi để gợi mở, hỏi trẻ nhiều, kích thích trẻ nói. Khi kể cho trẻ nghe cô sử dụng nhiều hình thức khác nhau: Bằng tranh, sa bàn, rối, mô hình, vật thật…những hình thức này giúp trẻ hứng thú hiểu nội dung nhớ tên truyện lâu hơn, qua đó phát triển vốn từ cho trẻ nhiều hơn. Qua các nội dung của bài thơ, câu chuyện cô đưa ra những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, yêu cầu trẻ nói đủ câu, diễn đạt rõ lời tự tin khi trả lời cô. Và các bài thơ, các bài ca dao, đồng giao gần gũi nhất với trẻ tôi cũng đưa vào cùng trẻ đọc lặp đi lặp lại nhiều lần, mọi lúc mọi nơi kết hợp với các động tác minh họa là cơ hội tuyệt vời cho trẻ phát triển kĩ năng nghe và nói ở trẻ. Trong giờ kể chuyện tôi luôn dùng các biểu cảm khác nhau, giọng kể lúc trầm lúc bổng, nhấn mạnh vào các âm tiết, hóa thân vào nhân vật trong chuyện để thu hút sự chú ý của trẻ. Thường xuyên đọc các bài thơ, các bài ca dao, đồng dao gần gũi nhất với trẻ tôi cũng đưa vào cùng trẻ đọc lặp đi lặp lại nhiều lần, mọi lúc mọi nơi kết hợp với ngôn ngữ hình thể là cơ hội tuyệt vời cho trẻ phát triển kĩ năng nghe và nói ở trẻ.
- 10 Ví dụ: Trong câu chuyện “ Quả trứng” tôi chỉ đọc đoạn “ lợn con chạy đến, nó ngắm nghía quả trứng rồi bảo:…” lợn con bảo gì? Tôi để trẻ nói theo suy nghĩ của mình. Có trẻ nói lợn nói “éc, éc, éc”, “ụt à ụt ịt”, hoặc “trứng, trứng, trứng”… Ví dụ: Trong câu chuyện “Ba chú lợn nhỏ” tôi cho trẻ tam gia đóng vai các nhân vật, thể hiện các gọng điệu nhân vật như: giọng hổ hung giữ “Nếu ngươi không mở cửa ta sẽ thổi đổ nhà” Giọg lợn đen, lợn trắng, lợn hồng sợ hãi. - Nhận biết tập nói Trong giờ học nhận biết tập nói tôi cố gắng phát âm rõ ngắn gọn, xúc tích, tông giọng vừa đủ để trẻ nghe và tiếp thu vốn từ được hiệu quả nhất và cho trẻ phát âm lại bằng nhiều hình thức khác nhau như: Phát âm cả lớp, tổ, nhóm, cá nhân lặp đi lặp lại nhiều lần và sửa sai cho trẻ. Ví dụ: Chủ đề thực vật: Các loại quả. Tôi hỏi trẻ: Đây là quả gì? Trẻ: Quả dưa hấu ạ. Tôi: Quả dưa hấu có màu gì? Trẻ: Màu xanh ạ. - Họat động âm nhạc Hoạt động âm nhạc trẻ được bộc lộ hết khả năng của mình và phát triển cả về ngôn ngữ lẫn khả năng tập trung chú ý mỗi khi dạy trẻ hát hay vận động theo nhạc tôi đều cố gắng hát rõ lời thể hiện sắc thái tình cảm của bài hát và giới thiệu nội dung cho trẻ thật ngắc gọn, xúc tích, hấp dẫn để thu hút sự tập trung lắng nghe của trẻ. Và cho trẻ hát dưới nhiều hình thức khác nhau như: hát theo tổ, nhóm, cá nhân, cả lớp cùng hát đồng thời tôi cũng luôn khuyến khích trẻ biểu lộ cảm xúc, động tác minh họa, sử dụng kèm các dụng cụ âm nhạc nhằm phát triển tai nghe, tăng sự hấp dẫn thu hút sự chú ý cho trẻ. Thông qua hoạt động ngoài trời
- 11 Vui chơi ngoài trời nhưng lại cung cấp được rất nhiều kiến thức cho trẻ. Với những giờ hoạt động ngoài trời tôi thường tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian thông qua các bài đồng dao để giúp trẻ có thêm kiến thức về vốn từ ngữ như: trò chơi “Rồng rắn lên mây”. Trong lúc đọc các từ “rồng, rắn”, “lúc lắc...” các cháu phải uốn lưỡi vì có các chữ “l, r” qua đó trẻ sẽ phát âm chuẩn hơn. Trẻ mầm non rất dễ bị nhầm cách phát âm chữ “l” và “n” nên tôi đã tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi có sử dụng nhiều chữ “l,n” và những câu đố, câu thơ bắt đầu hoặc kết thúc của câu bằng chữ cái trẻ đang được làm quen. Ví dụ: Trò chơi “nu na, nu nống”, “nhảy lò cò”… Trong hoạt động này tôi vừa quan sát trẻ chơi vừa hướng dẫn trẻ tham gia các hoạt động và chuẩn bị các nội dung cho trẻ quan sát, những từ những câu cần dạy trẻ, những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời. Ví dụ như: Cho trẻ quan sát các loài hoa. Tôi chuẩn bị cho một vị trí có nhiều loại hoa khác nhau cho trẻ quan sát, giới thiệu cho trẻ biết tên của loại hoa đó. Rồi hỏi trẻ: Đây là hoa gì? (Hoa hồng, cúc…) Hoa hồng có màu gì? (Đỏ, vàng, trắng…) Đây là bộ phận gì của cây hoa hồng? (Lá, thân, cành…) Việc cho trẻ được quan sát trực tiếp hiện tượng sự vật xung quanh và đàm thoại về chúng giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên từ đó giúp cho vốn từ của trẻ được phong phú, đa dạng . Thông qua hoạt động góc Hoạt động góc là hoạt động được trẻ đón nhận một cách hứng thú và tích cực nhất, bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ và để trẻ có thể ghi nhớ tên góc, nội quy góc chơi đồng thời kích thích sự phát triển của ngôn ngữ và tính tập trung thì trước khi bước vào hoạt động tôi cho trẻ kể tên các góc chơi, quan sát đồ dùng của từng góc và cho trẻ được lựa chọn góc chơi trẻ yêu thích. Ở bé xem tranh truyện trẻ cùng nhau lựa chọn những cuốn truyện, tranh, ảnh để khám phá cung cấp thêm vốn từ cho mình, bên cạnh đó trẻ còn được cùng nhau tương tác để tăng khả năng giao tiếp. Ví dụ: Góc bé bế em. Tôi cho trẻ nhập vai làm mẹ thể hiện tình cảm của
- 12 mình đối với búp bê, trẻ được chăm búp bê ăn, ru búp bê ngủ bắt chước những lờ cô và mẹ nói ở nhà. Và biết hát ru “ à ơi” cho em bé ngủ. Khi trẻ được nhập vai giúp trẻ có thêm vố từ phong phú. Thông qua các hoạt động khác như Trong giờ ăn: Ngay từ những buổi học đầu tiên tôi đã hướng dẫn trẻ biết đọc thơ trước khi ăn, tôi cũng giới thiệu các món ăn để trẻ nhắc lại và hướng dẫn trẻ biết nói lời mời cô và các bạn trước khi ăn. Ví dụ như: Trong thời gian chờ bạn đồng nghiệp đi lấy cơm. Tôi cùng trẻ đọc bài thơ: Giờ ăn cơm. “Đến giờ ăn cơm/ Vào bàn bạn nhé/ Nào thìa bát đĩa/ Xúc cho gọn gàng/ Chớ có vội vàng/ Cơm rơi cơm vãi.” Điều đó được tôi làm lặp đi lặp lại hằng ngày trước mỗi bữa ăn. Không chỉ giúp trẻ biết được nội quy trong giờ ăn mà còn giúp trẻ hiểu được nghĩa của các từ trong câu, nói và thực hiện theo. Trong giờ ngủ: Trước mỗi giờ đi ngủ tôi thường cho trẻ nghe những bản nhạc nhẹ nhàng, du dương hay kể chuyện cho trẻ nghe, để trẻ chơi một trò chơi dân gian, đọc thơ, hát. Nhằm giúp trẻ học được những từ mới, diễn đạt hay hơn và nhờ nghe nhiều trẻ cũng sẽ phát âm rõ ràng hơn. Ví dụ: Tôi cùng với trẻ ngồi bên nhau chơi trò chơi “Nu na nu nống”, “ chi chi chành chành”. Kết quả: Thông qua tất cả các hoạt động ở trường Mầm non một ngày, các hoạt động được lặp đi lặp lại hàng ngày và nhiều lần đã giúp cho trẻ chậm nói ở lớp tôi cải thiện rõ hơn. Trẻ có nhiều cơ hội được giao tiếp với cô với bạn, đặc biệt trẻ được đón nhận vốn từ ngữ vô cùng phong phú, củng cố những từ ngữ trẻ đã biết, tiếp nhận được những từ ngữ mới thông qua các oạt động ở trường. 5.3. Biện pháp 3 : Xây dựng các bài tập luyện khẩu hình và âm ngữ cho trẻ Để giúp cho trẻ có vốn từ phong phú và phát âm chuẩn thì việc luyện tập khẩu hình và âm ngữ cho trẻ là rất quan trọng từ đó tôi đã nghiêm cứu và tìm ra những bài tập giúp trẻ có khẩu hình và âm ngữ tốt trong việc giao tiếp. Tập cơ hàm: Để nói được trước tiên cơ hàm của trẻ phải hoạt động đúng
- 13 cách, có chủ đích. Ví dụ: Tập cập răng: Dạy trẻ biết cách cập răng (nhấc hai hàm răng cập vào nhau) Giáo viên ngồi đối diện với trẻ rồi làm mẫu, yêu cầu trẻ nhìn vào cô để bắt chước cùng làm hoặc làm trước gương để trẻ nhìn và làm theo. Ví dụ: Đẩy hàm dưới qua lại hai bên: Yêu cầu trẻ há miệng rồi từ từ đưa hàm dưới qua hai bên. Làm thật chậm rồi nhanh dần để trẻ chú ý và làm theo. Ví dụ: Cắn môi dưới: Hàm trên cắn nhẹ vào môi dưới rồi nhanh chóng bật môi dưới ra khỏi hàm răng giống như khi phát âm “v”. Tập cơ môi: Môi cần phải được chuyển động đúng cách để bật được âm chuẩn, tránh trường hợp nói ngọng, nói không rõ từ. Ví dụ: Tập chu môi: Giáo viên luôn làm mẫu cho trẻ trước. Dạy trẻ cách chu môi lên như khi phát âm “u” hoặc “su su”, máy bay kêu “vù vù” Giáo viên có thể làm máy bay giấy hoặc đồ chơi đảm bảo luôn có đồ vật, tranh ảnh để trẻ có cơ hội tương tác. Ví dụ: Tập tròn môi. Có trẻ nói không rõ từ do không biết làm tròn môi, môi lúc nào cũng chỉ trong một trạng thái “rộng vành”. Vì vậy cần dạy trẻ cách làm tròn môi như âm “o” hoặc làm con gà gáy “ò ó o” để trẻ làm theo và bật âm ra. Ví dụ: Tập mím môi. Dạy trẻ mím môi vào tờ giấy, thìa…rồi mở môi để tờ giấy, thìa rơi xuống hoặc cho trẻ hút, thổi ống nước để trẻ thích thú học theo hoặc làm động tác gọi gà “bập bập”. Ví dụ: Tập phồng má dạy trẻ tập phồng má để lấy hơi, căng bụng đẩy hơi phồng má rồi thở ra nhẹ nhàng. Tập cơ lưỡi: Khi lưỡi hoạt động tốt thì trẻ mới có thể nói tốt. Ví dụ: Tập thò – thụt lưỡi. Giáo viên ngồi trước trẻ rồi làm động tác thò thụt lưỡi từ chậm đến nhanh dần. có thể “dụ” trẻ bằng cách thò lưỡi ra sau đó đặt lên lưỡi trẻ thứ mà trẻ thích để trẻ học theo và thụt lưỡi lại. Ví dụ: Tập đá lưỡi sang hai bên. Giáo viên cho các trẻ thò lưỡi ra và đá lưỡi sang hai bên từ chậm đến nhanh. Ví dụ: Liếm môi trên dưới. Giáo viên có thể bôi ngọt hoặc cái gì đó dính
- 14 lên hai môi để trẻ dùng lưỡi liếm môi. Nhằm giúp cho lưỡi trẻ có sự đàn hồi uốn lưỡi khi phát âm “l, n”. Tăng cường hơi thở, áp dụng các bài tập về phổi như thổi giấy, thổi bong bóng, thổi còi, phà hơi thở vào chiếc gương, thổi chong chóng… Dạy trẻ phát âm đơn giản: Dạy trẻ bắt đầu từ 5 nguyên âm o, e, a, u, i kết hợp khẩu hình và âm để trẻ dễ bật âm hơn. Âm o: Tròn môi, âm e: Lưỡi đè nhẹ lên phần trong môi trên, âm u: Chu môi, âm a: Há rộng miệng. Khi tương tác với trẻ giáo viên tạo tình huống để phát ra các âm thanh quen thuộc giúp trẻ có cơ hội bật được âm nhanh hơn như đưa tay lên miệng “oa oa”,“lêu lêu”,”ê ê”… Bắt đầu các âm dễ với trẻ như “và, vi vu, bơ, mơ, bà, ba…”. Từ tình hình thực tế khả năng của trẻ tôi đã xây dựng một số bài tập luyện khẩu hình và phát âm phù hợp với trẻ như sau: (Có thể áp dụng trong việc dạy trẻ tại lớp, tại nhà và mọi lúc mọi nơi) Tháng Tên bài tập - Phát âm “Aaa”, “Bababa”. - Há miệng ra. - Nhận biết con cá và bà, 9 nói từ “cá/ bà”. - Nghe bài hát cháu yêu bà, cá vàng bơi 10 - Nói tên mình. - Thổi nến, thổi giấy. - Thè lưỡi ra. – Màu sắc - Chào, tạm biệt. - Phát âm “ạ, a – ao”/ “táo”. - Mím môi 11 - Nói tên người thân (Đây là ai? “Ông, bà, bố, mẹ”…) - Bắt chước khuân mặt và âm thanh (Âm Aaaa, Uuuu, Maamaa, Bbbb) - Nói câu hai từ. - Cho – xin. - Trò chơi có – không 12 - Chạm răng vào nhau. - Tròn môi. - Con vật 1 - Hát. - Kể tên các con vật, đồ vật. - Thổi còi. - Chu môi - Bắt chước tiếng của các con vật( ò ó o, gầm, gâu gâu, ụt ịt, bò…) 2 - Cười (ha ha, hô hô, hi hi, hí hí…). - Nói câu ba từ - Bắt chước tiếng của các đồ vật(tinh tinh, keng, bíp bíp…) 3 - Để lưỡi lên đầu răng. - Uống nước và “húp sụp” - Để đầu răng ra ngoài môi dưới. - Đẩy ô tô và nói “dìn” 4 - Đặt điện thoại kêu lên tai và nói “a lo” - Đá lưỡi sang hai bên. - Đập búa và nói “bùm bụp”. - Nói tên, tuổi của 5 mình.- Luyện nguyên âm o, a, e, i, u Kết quả: Sau một thời gian luyện tập cùng trẻ thường xuyên và lặp đi lặp
- 15 lại liên tục tôi nhận thấy âm ngữ của trẻ đã có sự tiến bộ, khả năng phát âm các từ, câu rõ ràng, trẻ đã bật được hơi, âm khi nói, khẩu hình của trẻ linh hoạt hơn và trẻ cũng ah dạn tự tin hơn trong mọi hoạt động. 5.4. Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh Để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở trường và đặc biệt là việc cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói bởi không phải phụ huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó. Tuyên truyền vận động phụ huynh dành thời gian trò chuyện cùng trẻ, khi trò chuyện với trẻ cần nói rõ ràng, mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe rõ, phát âm đúng để trẻ bắt trước. Bên cạnh đó tôi chia sẻ với phụ huynh 9 phút quan trọng nhất trong một ngày cha mẹ nên dành thời gian cho trẻ để tăng sự tương tác giao tiếp củng cố vốn từ cho trẻ với bố mẹ tại nhà: Ba phút đầu tiên sau khi thức dậy: Không giục giã, quát tháo, dành cho con khởi đầu ngày mới thật hoàn hảo bằng những điều âu yếm, nhẹ nhàng, lời câu yêu thương “ chào buổi sáng, bình minh…” Ba phút sau khi trẻ đi học về: Hỏi trẻ những câu hỏi mở và hướng dẫn trẻ cách sử dụng những từ chỉ cảm xúc để diễn đạt trạng thái suy nghĩ của mình tạo cho trẻ cơ hội nhớ và nói được ra hoạt động ở lớp . Ví dụ: Bố mẹ có thể hỏi và trả lời cùng con một số câu hỏi sau: + Cô giáo con tên là gì? + Lớp con có bạn gì? (Phúc, Ánh, Hiếu, Thu…) + Trưa nay con ăn gì? (Cá, thịt, trứng, cơm, cháo…) Ba phút trước khi ngủ: Tạo ra thói quen mỗi tối như cùng con đọc sách, kể chuyện, hát, xoa lưng…để trẻ có cảm giác ngủ ngon, luyện khả năng phát âm thông qua hình ảnh và có sự tương tác tình cảm giữa người thân với trẻ. Ví dụ: Bố mẹ kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe kết hợp hình ảnh minh họa, khi đến nhân vật nào thì chỉ và cho trẻ nhắc lại tên nhân vật đó.
- 16 Đầu năm học tôi đã tạo group zalo các phụ huynh lớp để tiện trao đổi các thông tin tình hình của con, gửi các hình ảnh hoạt động của trẻ ở lớp để phụ huynh nắm bắt được kịp thời, chủ động gửi chương trình học, bài thơ, câu chuyện để phụ huynh cùng phối kết hợp dạy con ở nhà. Tôi thường xuyên tâm sự, động viên phụ huynh khi dạy trẻ chậm nói đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, cha mẹ phải hết sức kiên trì, không nên có tâm trạng nôn nóng quá vì sự tiến bộ của trẻ cần phải có thời gian. Qua đây tôi muốn gửi gắm thông điệp đến quý phụ huynh có trẻ chậm nói rằng “Chúng ta nên tránh những suy nghĩ tiêu cực bất lợi đối với trẻ chậm nói mà cần có thái độ lạc quan, chủ động để giúp đỡ con phát triển hết tiềm năng. Tương lai chứa chan hi vọng và hơn nữa ước mơ có thể thành khi con được cha mẹ, trường học giúp đỡ”. Kết quả: Nhiều phụ huynh gọi điện trao đổi và chia sẻ với tôi rằng: ”Cô Hậu ơi con Ngọc Ánh sau một thời gian mẹ luyện tập cùng con và trò chuyện với con thì con đã nói được nhiều hơn, bên cạnh đó con cũng đã thuộc được một số bài thơ, bài hát”....Tôi cảm thấy rất là vui, vui vì những biện pháp của tôi có hiệu quả và được phụ huynh tin tưởng và đã áp dụng cho con, để con có được nhận thức và kỹ năng. Bên cạnh đó phụ huynh đã hiểu được tầm quan trọng của việc cung cấp vốn từ cho trẻ ở lứa tuổi 24 – 36 tháng là rất cần thiết. Bố mẹ đã hiểu con hơn, dành thời gian vui chơi học tập cùng con. 6. Kết quả đạt được của sáng kiến kinh nghiệm * Đối với bản thân Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện những biện pháp nêu trên, tôi thấy mình tự tin hơn, nhiều sáng tạo, có kinh nghiệm hơn trong quá trình giảng dạy đồng thời tôi cũng đã trang bị cho mình được rất nhiều kinh nghiệm trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ được phong phú và hiệu quả hơn. Tôi đã biết kết hợp đan xen, lồng ghép tích hợp các hoạt động khác, hình thức giảng dạy phong phú. Biết tận dụng cái mới lạ vào các hoạt động để các cháu hứng thú hơn. Môi trường lớp thì có nhiều định hướng mở cho trẻ hơn, phong phú và hấp
- 17 dẫn, lôi cuốn sự tò mò, ham học hỏi của trẻ. Bảng so sánh kết quả đầu năm và cuối năm Đầu năm Cuối năm Nội dung khảo sát Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Số Số Số Số % % % % trẻ trẻ trẻ trẻ Khả năng tập trung chú ý của 5 33,3 10 66,7 13 86,7 2 13,3 trẻ Khả năng phát âm, vốn từ ngữ 4 26,7 11 73,3 12 80 3 20 pháp của trẻ. Trẻ nhút nhát, rụt rè thiếu tư tin, không giao tiếp với người 5 33,3 10 66,7 12 80 3 20 lạ Trể thích nói 6 40 9 60 13 86,7 2 13,3 * Đối với học sinh Trẻ hứng thú tham gia hoạt động cùng cô và các bạn. Các cháu trong lớp mạnh dạn, năng động, tự tin trong các hoạt động, thích đến lớp hơn. Đặc biệt về mặt ngôn ngữ của trẻ phát triển một cách đáng kể trẻ đã nói tròn câu, phát âm đúng, vốn từ của trẻ phong phú. Trẻ đã biết nói ra nhu cầu của mình với mọi người. Trẻ đã dần có sự tương tác với các bạn cùng độ tuổi, người lớn. * Đối với phụ huynh Về phía phụ huynh cũng dần hiểu ra được phương pháp học tập của chương trình giáo dục trẻ độ tuổi nhà trẻ tuy đơn giản nhưng lại mang nhiều hiệu quả tích cực và đã phối hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ chậm nói. Phụ huynh cũng dành nhiều thời gian để trò chuyện, tạo các tình huống để kích thích khả năng nghe và nói cho con, thường xuyên trao đổi với giáo viên về các hoạt động trên lớp để về nhà cùng con ôn lại những gì cô đã dạy. Phụ huynh cũng nhận thấy được sự phát triển ngôn ngữ và khả năng tập trung của con từ đầu năm học đến cuối năm học có sự tiến bộ rõ rệt.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1800 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 25 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 27 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 49 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 33 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 57 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 32 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 29 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 10 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 21 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn