intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu đưa ra kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hiệu quả nhất; Giúp trẻ có những kỹ năng sống cơ bản qua các hoạt động học, giờ ăn, hoạt động trò chơi và các kỹ năng tự phục vụ của trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non

  1. MỤC LỤC Nội dung Trang THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề 3. Thực trạng của vấn đề. 3.1. Đánh giá thực trạng 3.1.1. Thuận lợi. 3.1.2. Khó khăn. 3.3. Khảo sát thực trạng. 4. Các biện pháp thực hiện 4.1. Xây dựng kế hoạch và xác định loại kỹ năng phù hợp với độ tuổi 24-36 tháng để dạy trẻ. 4.2. Dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. 4.3. Giáo dục kỹ năng sống mọi lúc mọi nơi. 4.4 Phối hợp với cha mẹ và cộng đồng. 5. Kết quả đạt được 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị ĐẶT VẤN ĐỀ Uốn cây từ thuở còn non Dạy con từ thuở hãy còn thơ ngây Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát
  2. triển nhân cách, nếu trẻ em được sống trong một môi trường giáo dục tốt thì trẻ sẽ có những đức tính tốt, do đó cần giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ ngay từ khi trẻ học nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi. Vậy kỹ năng sống là gì? Kỹ năng sống là kỹ năng cần có trong cuộc sống hàng ngày, cần có cho những hành vi lành mạnh cho phép bạn đối mặt với thử thách hàng ngày. Để bước đầu trang giúp trẻ có kỹ năng như: Tự phục vụ, biết đoàn kết với bạn bè... cho trẻ một cách có hiệu quả nhất? Về phía các bậc cha mẹ trẻ, số đông gia đình chiều chuộng con cái, phần lớn bố mẹ đi làm nên chưa có nhiều thời gian bên trẻ, gửi ông bà chăm sóc nên kỹ năng sống của trẻ còn hạn chế, trẻ hay làm theo ý mình, ỷ nại, không có kỹ năng tự phục vụ. Trên thực tế có rất nhiều trẻ còn đang thiếu kỹ năng sống như: Không biết tự bảo vệ và chăm sóc bản thân…trẻ thụ động và luôn tìm kiếm sự giúp đỡ từ người lớn. Cha mẹ không chú ý đến con mình ăn uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không?, trẻ chưa biết hành vi của mình là đúng hay sai, làm những gì con thích, chiều con từ nhỏ nên nhiều lúc vô tình làm trẻ thiếu kỹ năng sống cơ bản. Năm học 2021-2022 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm lớp 24- 36 tháng tuổi. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng sống vào các sinh hoạt thường ngày giúp trẻ có thói quen tốt ngay từ nhỏ. Ở độ tuổi này trẻ bước đầu được làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, kỹ năng tự phục vụ, khả năng thích nghi và thích khám phá thế giới xung quanh. Chính vì thế tôi đã chọn đề “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non.” làm đề tài nghiên cứu đưa ra kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hiệu quả nhất. 2.Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến. * Điều kiện. - Phòng học thoáng, đủ trang thiết bị đảm bảo đủ diện tích, đồ dùng, trang thiết bị đủ theo quy định.
  3. - Giáo viên nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ, luôn tích cực trong công việc chăm sóc giáo dục trẻ, năng lực chuyên môn tốt, thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. -Được sự quan tâm giúp đỡ của nhà trường, bạn bè đồng nghiệp. - Được sự đồng thuận, ủng hộ của phụ huynh nhóm lớp. *Thời gian áp dụng - Từ tháng 9/2021 – tháng 2/2022 * Đối tượng áp dụng Trẻ 24 - 36 tháng tuổi do tôi phụ trách. 3. Nội dung sáng kiến. * Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến Rèn kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ từ rất sớm giúp trẻ có những kỹ năng tự lập ban đầu, thông qua các bài tập, làm mẫu chuẩn của cô giáo, trẻ học được các kỹ năng cần thiết như tự cất ba lô, tự xúc cơm…Tạo niềm tin tới cha mẹ. * Khả năng áp dụng của sáng kiến: Với sáng kiến “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 24 - 36 tháng ở trường Mầm non” tôi đưa ra có khả năng áp dụng và triển khai tới nhiều lớp học ở lứa tuổi 24 - 36 tháng trong toàn huyện. * Lợi ích thiết thực của sáng kiến: Sau khi áp dụng sáng kiến tôi nhận thấy: - Trẻ trong lớp tôi đã có tinh thần thoải mái, vui vẻ, trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn, mạnh dạn tự tin khi thực hiện một số kỹ năng sống đơn giản. - Giáo viên có thêm kinh nghiệm trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm non. - Phụ huynh phấn khởi, tin tưởng khi đưa con đến lớp, nhờ đó mà tỷ lệ huy động trẻ ra lớp tăng lên đáng kể. 4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến Sau khi sáng kiến này được áp dụng vào lớp tôi thì tôi thấy đa phần trẻ thích nghi với trường lớp mầm non, trẻ năng động, sáng tạo, khám phá, giải quyết công việc một cách hứng thú, hợp lý, tự giác tham gia các hoạt động,
  4. có kỹ năng và cảm xúc của trẻ phát triển tốt. 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến. *Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường tổ chức các buổi thảo luận giáo kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ. Cần tạo điều kiện cho giáo viên được đi thăm quan học tập ở các đơn vị bạn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. *Đối với phòng giáo dục: Đối với Phòng giáo dục tổ chức các lớp chuyên đề về giáo kỹ năng sống cho trẻ cho giáo viên được tham gia nâng cao chất lượng chuyên môn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Cung cấp thêm các tài liệu có liên quan về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ như: Các loại sách, báo, băng đĩa, hình ảnh ... tạo điều kiện thuận lợi trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tổ chức chia sẻ những sáng kiến kinh nghiệm hay, những giải pháp mới về kỹ năng sống cho giáo viên học tập.
  5. MÔ TẢ SÁNG KIẾN. 1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến: Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Lâu nay, chúng ta thường quan niệm: Rèn dạy kỹ năng sống chủ yếu chỉ dành cho người lớn. Nhưng đối với trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng, dạy kỹ năng sống ban đầu cho trẻ ở trường mầm non là rất quan trọng trong việc hình thành thói quen và nhân cách của bé sau này. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ và kỹ năng thích hợp. Chính trường mầm non và gia đình là môi trường rèn luyện tốt nhất, giáo viên mầm non và cha mẹ là những người hướng dẫn tốt nhất cho trẻ. Đối với trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi nói riêng khả năng tiếp thu, nhận thức của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ dễ nhớ mau quên và hay hành động theo ý muốn. Vì vậy để dạy những kỹ năng sống cho trẻ chỉ là những bước đầu giúp trẻ các kỹ năng như: Biết về bản thân mình, mạnh dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân, biết hợp tác chơi với các bạn, kỹ năng thích nghi với môi trường, với cuộc sống thế giới xung quanh cho trẻ thì cô giáo chính là người giữ vai trò và nhiệm vụ quan trọng, lồng ghép các hoạt động để truyền thụ các kỹ năng cho trẻ. Thực tế thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói leo, trả lời không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...Hay ỷ nại vào người lớn, cô giáo giúp đỡ. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục hiện nay. 1.1 Mục đích nghiên cứu: Mục đích của biện pháp tôi muốn phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ giai đoạn 24 – 36 tháng đồng
  6. thời cũng để phụ huynh hiểu được kế hoạch giáo dục của các cô tại nhóm lớp từ đó phụ huynh sẽ tích cực hơn trong việc giáo dục trẻ tại nhà. Giúp trẻ có những kỹ năng sống cơ bản qua các hoạt động học, giờ ăn, hoạt động trò chơi và các kỹ năng tự phục vụ của trẻ. Tìm ra các giải pháp phù hợp giúp cho trẻ tiếp thu tốt hơn, trẻ có nề nếp hơn và mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động kỹ năng sống cho trẻ theo yêu cầu của cô. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại lớp Nhà trẻ A Trường mầm non ............. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Nhóm phương pháp trực quan. - Phương pháp điều tra thực trạng. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp quan sát. 2.Cơ sở lý luận của vấn đề: Hiện nay ở trong các gia đình trẻ em được quá chiều chuộng, đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ không có kỹ năng tự phục vụ bản thân mình. Và việc bố mẹ quá lạm dụng khi cho trẻ sử dụng các thiết bị điện tử dẫn đến trẻ ít có cơ hội tiếp xúc với mọi người xung quanh, chính vì thế mà khả năng giao tiếp và thích nghi với cuộc sống của trẻ còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Bản thân tôi là một giáo viên đã chăm sóc và giáo dục trẻ tại độ tuổi nhà trẻ, trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ tôi luôn chú trọng đến việc hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong sinh hoạt hàng ngày như: Tập cho trẻ tự phục vụ (xúc cơm, uống nước; mặc quần áo, đi dép, vệ sinh, cởi quần áo khi bị bẩn, ướt; Lấy gối đi ngủ; Tập một số thao tác đơn giản trong rửa tay, rửa mặt; Chính điều đó làm tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để hình thành cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ bản thân đơn giản mà lại hiệu quả, nhằm giúp trẻ phát 2
  7. triển tính nhanh nhẹn, tự tin, tự chủ trong mọi tình huống. Tôi cho rằng, khi áp dụng biện pháp hình thành kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi, trẻ sẽ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể, trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn, chủ động, tự giác và làm chủ trong mọi tình huống, góp phần hoàn thiện nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” đưa ra để áp dụng trong việc hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đều thiết thực, phù hợp với khả năng, nhận thức của trẻ. 3.Thực trạng: 3.1 Thuận lợi: - Luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường. Thường xuyên được tham gia các lớp kiến tập, chuyên đề do Phòng giáo dục tổ chức. - Giáo viên tại nhóm lớp đều có chuyên môn tốt, yêu nghề, kỹ năng giao tiếp tốt. Có khả năng tổ chức chuyên đề kỹ năng sống. - Trẻ ở lớp đa số trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn. Không có trẻ khuyết tật. Một số trẻ có kỹ năng biết tự phục vụ bản thân tốt. - Các bậc phụ huynh quan tâm đến các hoạt động của trẻ trong trường mầm non. Một số phụ huynh thường xuyên trao đổi với giáo viên trực tiếp cũng như qua tin nhắn zalo, facebook,... để trao đổi về kỹ năng của trẻ những lúc trẻ ở nhà. 3.2 Khó khăn: - Giáo viên Chưa tổ chức độc lập nhiều hoạt động giáo dục kỹ năng sống, thường lồng ghép vào hoạt động khác. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ là việc làm khó. Trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi, khả năng phát âm của trẻ còn kém. Một số trẻ còn bé, lần đầu đến lớp, nhút nhát, kỹ năng hạn chế, chưa nghe lời cô. Một số trẻ nói chưa rõ câu, chưa hiểu lời người lớn nói, nên rất khó tiếp nhận kiến thức để đạt mục tiêu. 3
  8. Kiến thức về kỹ năng sống của trẻ còn nghèo nàn, trẻ còn quá nhỏ chưa đến trường lớp bao giờ, khả năng tiếp thu kiến thức hạn chế, trẻ đi học không thường xuyên ảnh hưởng rất nhiều đến việc giáo dục kỹ năng cho trẻ. - Đa số phụ huynh còn chiều chuộng trẻ. Chưa hiểu tầm quan trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, chỉ nghĩ trẻ nhỏ được chơi. 3.3 Khảo sát thực trạng: Trước khi áp dụng các giải pháp của đề tài "Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” Tôi tiến hành khảo sát tình hình của trẻ như sau: KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM TT Nội dung khảo sát Tổng số Trước khi áp học sinh dụng Đạt Tỉ lệ % 1 Kỹ năng tự phục vụ bản thân. 7/15 47 2 Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 5/15 33 3 Kỹ năng mạnh dạn tự tin 6/15 40 15 4 Kỹ năng hợp tác 7/15 47 Kết quả khảo sát trẻ cho thấy kỹ năng sống của trẻ đạt thấp, vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau: 4. Các biện pháp thực hiện: 4.1 Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch và xác định loại kỹ năng sống phù hợp với độ tuổi 24 – 36 tháng để dạy trẻ. Nhiều người đặt ra câu hỏi “ Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng có quá sớm, liệu bản thân trẻ có thực hiện được không?” Chẳng có gì là sớm vì xung quanh trẻ có rất rất nhiều kỹ năng cần thiết. Tôi lựa chọn xác định được kỹ năng sống cơ bản với lứa tuổi của 24-36 tháng tuổi phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Tôi tự học, tự bồi dưỡng các tài liệu liên quan giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 24-36 tháng tuổi. Tôi xây dựng lồng ghép cụ thể như sau: * Về mặt kỹ năng của trẻ + Kỹ năng tự phục vụ như: Trẻ biết cất đồ dùng gọn gàng đúng nơi quy 4
  9. định như: Cặp, dép, ghế ngồi...Biết lấy cốc, khăn để dùng. + Kỹ năng ăn uống, vệ sinh cá nhân như: Biết tự xúc cơm ăn, ăn hết suất khi ăn cơm không làm rơi vãi, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định. + Kỹ năng chào hỏi, giao tiếp: Chào hỏi cô, bố mẹ, các bạn khi đi học và khi ra về. Biết lắng nghe cô nói và trả lời câu hỏi của cô khi được hỏi. Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người. * Về mặt nhận thức: - Trẻ thích tò mò và ham hiểu biết, thích khám phá thế giới xung quanh . - Trẻ biết được việc mình vừa làm sai, làm cô giáo và bạn không vui. - Trẻ nhận biết được tên tuổi của mình, kể về các thành viên trong gia đình và địa chỉ gia đình, biết được tên những người xung quanh khi được hỏi đến. * Về mặt hợp tác: - Trẻ biết đoàn kết, hợp tác, nhường nhịn và quan tâm nhau trong khi chơi. - Trẻ có thái độ cư xử đúng mực với bạn và mọi người xung quanh. Sau khi xác định được kỹ năng của trẻ tôi căn cứ vào tình hình thực tế của trường, vào điều kiện cơ sỏ vật chất, tôi đã xây dựng kế hoạch trọng tâm cho từng tháng việc thực hiện kỹ năng sống cho trẻ để lồng ghép vào nội dung giáo dục trẻ như sau: 5
  10. TT Tháng Nội dung Phương pháp Ghi thực hiện thực hiện chú 1 Tháng - Rèn nề nếp ngồi học cho trẻ. - Làm mẫu, thực 9&tháng - Dạy trẻ kỹ năng cất dép đúng hành 10 nơi quy định. - Làm mẫu, thực - Dạy trẻ cách cầm thìa xúc hành cơm ăn. - Trải nghiệm và - Dạy trẻ đi vệ sinh đúng nơi thực hành quy định. - Thực hành -Dạy trẻ chào hỏi lễ phép 2 Tháng 11 - Dạy trẻ cất đồ dùng đồ chơi - Làm mẫu, thực & Tháng đúng nơi quy định. hành 12 - Kỹ năng đeo, cất ba lô - Làm mẫu, thực - Bê ghế về tổ, về bàn, cất ghế. hành - Bé lấy nước uống 3. Tháng 01 - Hướng dẫn trẻ chơi hoà đồng - Trò chuyện & Tháng với bạn. - Tương tác, thực 02 - Dạy trẻ trả lời những câu hỏi hành đầy đủ khi được hỏi. - Làm mẫu, thực - Dạy trẻ kỹ năng đi tất. hành 4. Tháng 3 - Kể những mẫu chuyện kỹ - Phương pháp đến Tháng năng sống của các bạn nhỏ dùng lời 5 - Giúp trẻ thực hiện những -Thực hành, trải công việc đơn giản. nghiệm Như vậy sau một thời gian nghiên cứu, tôi đã xây dựng được kế hoạch phù hợp các nội dung phù hợp với độ tuổi 24-36 tháng từ dễ đến khó, bổ sung đầy đủ vào ngân hàng nội dung của lớp. 4.2.Biện pháp 2: Rèn kỹ năng sống thông qua tiết học kỹ năng. Theo TS Trần Bội Lan, chuyên gia tư vấn đào tạo, Trung tâm ABS TPHCM cho biết: “Ở các nước trên thế giới, giáo dục kỹ năng sống được đưa 6
  11. vào chương trình giảng dạy và là một môn học”. Các chuyên gia cho rằng: nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em hết sức đơn giản và gần gũi với trẻ. Vì thế tôi đã đưa vào mỗi tháng 1 tiết dạy hoạt động giáo dục kỹ năng sống cụ thể để trẻ được thực hành, trải nghiệm tốt các kỹ năng, hứng thú tham gia vào hoạt động, mỗi tháng tôi dạy một hoạt động học kỹ năng sống thay vào hoạt động nhận biết tập nói. * Thông qua hoạt động kỹ năng sống: VD1: Hoạt động dạy trẻ kỹ năng cầm bát, cầm thìa. Tôi thực hiện như sau. Hoạt động 1: Ổn định tổ chức - Cô cho trẻ hát bài “ Mời bạn ăn”, + Và khi ăn các con cần có gì? Cái gì đựng cơm, cái gì để xúc cơm *Hoạt động 2: Rèn kỹ năng cầm bát, cầm thìa xúc ăn - Cô mời 2 bạn lên ngồi xúc ăn và cho cả lớp quan sát. - Các con thấy các bạn đang làm gì đó? - Khi cầm thìa xúc ăn thì phải cầm bằng tay nào? -> Khi cầm thìa xúc ăn thì các con phải cầm thìa bằng tay phải và cầm thìa bằng 3 ngón tay, cầm ở giữa thìa không cầm sát cán thìa... * Thực hành, trải nghiệm -Cô giới thiệu cho trẻ biết ở trên bàn cô đã chuẩn bị bát thìa cho các con tập xúc ăn. Cô cho từng nhóm xúc ăn và mời nhóm còn lại nhận xét xem các bạn đã cầm thìa đúng tay phải để xúc ăn chưa - Cô cho cả lớp xúc ăn, cô nhận xét chung cả lớp. *Hoạt động 3: Kết thúc. - Các con vừa được cô dạy các con biết làm gì? GD trẻ biết xúc ăn gọn gàng, ăn hết suất và giữ gìn bát, thìa. Thức ăn rơi nhặt vào đĩa và lau tay vào khăn. 7
  12. Hình ảnh tiết học kỹ năng cầm bát, thìa VD 2: Giáo án: Đề tài: Dạy trẻ biết chào hỏi lễ phép 1. Ổn định tổ chức - Cho trẻ hát bài “Lời chào buổi sáng” - Các con ơi! Sáng nay ai đưa các con đến trường? + Sáng đi học các con chào ai? Đến lớp chào ai? - Hôm nay cô và các con sẽ tập làm những bé ngoan, bé lễ phép nhé. 2. Phương pháp hình thức tổ chức * Hoạt động 1: Cách chào hỏi lễ phép - Cho trẻ xem vi deo. Chị bạn Bảo đi đâu? - Trước khi đi học chị đã làm gì? - Bạn Bảo đi đâu về? Bạn đã chào ai? - Các con ơi thế sáng ra trước khi đi học thì các con chào ai? - Gọi 1 – 2 trẻ. * Các con cùng quan sát lên màn hình xem các bạn làm gì nhé. - Cho trẻ xem video - Khi cô giáo vào lớp các bạn làm gì? - Khi ngồi trong lớp các bạn ngồi như thế nào? - Các con đi học tới lớp chúng mình chào ai? ( Cho 2-3 trẻ chào) - Khi chào thì các con khoanh tay, đầu hơi cúi và mặt tươi cười. 8
  13. * Hoạt động 2: Dạy trẻ cách chào hỏi + Dạy trẻ cách chào hỏi người lớn! - Cô giới thiệu các cô giáo dự giờ lớp. + Cho trẻ quay lại khoanh tay chào. (Các con khoanh tay trước ngực, đầu hơi cúi, miệng cười tươi, giọng nói phải to, rõ ràng) - Vậy khi gia đình mình có khách thì con chào như thế nào? - Khi đi học về các con chào ai? - Gặp ban bè chào như nào? Cho trẻ cùng chào hỏi nhau. * Hoạt động 3: Trẻ thực hành. Cô tạo tình huống cho trẻ chào. Cô đội mũ mặc áo bác sĩ. + Các bạn ơi! Các bạn có biết tôi là ai không? À tôi là cô bác sĩ đấy. + Cô chào, 1 – 2 trẻ cho trẻ chào lại. + Bác sỹ đến tặng lớp mình khẩu trang đấy - Cô cho 1 trẻ lên nhận quà ( Cho trẻ cảm ơn) => Để trở thành một em bé ngoan, được mọi người yêu quý thì khi gặp mọi người các con phải biết chào hỏi lịch sự, lễ phép, và phải biết yêu thương giúp đỡ bạn bè, biết cảm ơn khi được nhận quà, biết xin lỗi khi mình mắc lỗi nhé! 3. Kết thúc tiết học: Cô nhận xét tuyên dương trẻ, cho trẻ ra chơi. Hình ảnh: Giờ học chào hỏi lễ phép Như vậy với các tiết học kỹ năng sống, hầu hết trẻ lớp tôi được thực hành, trải nghiệm, hứng thú học. Từ đó vốn từ của trẻ được mở rộng, rõ từ, đủ câu. Các tiết học được chụp ảnh và gửi vào nhóm lớp, tạo niềm tin tới phụ huynh. 4.3. Biện pháp 3: Dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động sinh hoạt một ngày của trẻ. Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ cô giáo có thể sử dụng những hoạt động giáo dục như: Hoạt động vui chơi, hoạt động học, hoạt động ngoài trời, giờ đón, trả trẻ, giờ ăn. Hoạt động chiều. Tại mọi thời điểm tôi luôn giáo dục lồng ghép kỹ năng sống cho trẻ vì trẻ nhà trẻ còn nhỏ, mau quên. Vì thế qua biện pháp này trẻ được luyện tập củng cố và ghi nhớ tốt hơn. 9
  14. * Giáo dục kỹ năng cho trẻ thông qua giờ đón, trả trẻ Tôi đã giáo dục trẻ kỹ biết sắp xếp đúng nơi quy định, khi đến lớp xếp dép lên giá dép, mang đồ dùng vào tủ của mình... Những ngày đầu đi học khi được cô giáo hướng dẫn trẻ cất dép lên giá để cho gọn gàng, ngăn nắp hàng ngày và từ đó hình thành cho trẻ thói quên nên trẻ đã tự giác cất dép như thế nào cho đúng quy định khi bước chân vào lớp. VD : Dạy trẻ biết cất dép lên giá. Trẻ thực hành kỹ năng theo các bước sau Bước 1: Trẻ ngồi xuống ghế Bước 2: Dùng tay cởi giày, dép Bước 3: Xếp dép đúng chiều phải trái Bước 4: Cầm dép bằng 1 tay đặt lên giá Hình ảnh: Trẻ cất cất dép lên giá Thông qua dạo chơi ngoài trời Đối với nhà trẻ hoạt động dạo chơi ngoài trời là hoạt động nhằm giúp trẻ được tiếp xúc và trải nghiệm với môi trường, gần gũi với thiên nhiên, hình thành phát triển kỹ năng xã hội giao tiếp phát triển tư duy, trí tuệ thể chất. Ví dụ: Khi dạo chơi ở sân trường có lá dụng, vỏ sữa tôi cùng trẻ nhặt lá dụng vào thùng rác. Qua đó giáo dục trẻ bỏ rác đúng nơi quy định 10
  15. Hình ảnh bé nhặt rác vào thùng rác * Thông qua hoạt động chơi thao tác vai: VD: Ở trò chơi bế em, qua cách đóng vai thì trẻ học được các kỹ năng như giao tiếp, ứng xử, biết cách xưng hô, thể hiện tình cảm, biết quan tâm đến mọi người như khám bệnh, nấu ăn, bế em, ru em ngủ, cất đồ chơi đúng nơi quy định...Trẻ được nhập vai học làm giống như người lớn thông qua các khu vực chơi. Bế em, bán hàng, nấu ăn, khu vực vận động, hoạt động với đồ vật, kỹ năng sống ... đều cung cấp cho trẻ những kỹ năng sống. 11
  16. Trẻ chơi thao tác vai Ví dụ: Ở góc vận động giáo viên tổ chức chơi trò chơi lăn bóng cho bạn, ... giúp trẻ có kỹ năng chơi và sống với nhau gắn bó đoàn kết với bạn và mọi người xung quanh. Hình ảnh: Trẻ chơi lăn bóng Qua hoạt động vui chơi tôi còn dạy cho trẻ những thói quen tốt: Đó là chơi trẻ tự cất đồ chơi vào đúng nơi quy định. Ban đầu tôi dướng dẫn trẻ theo các bước, về sau trẻ thành thói quen, tư cất đồ chơi của mình dưới sự giúp đỡ của cô giáo. 12
  17. Hình ảnh bé cất đồ chơi * Thông qua các hoạt động học: Hoạt động thơ, truyện, thể dục, nhận biết tập nói, tạo hình. Mỗi hoạt động tôi đều lồng ghép giáo dục kỹ năng sống hợp lý. - Đối với hoạt động tạo hình: Rèn trẻ kỹ năng cầm bút, kỹ năng ngồi ngay ngắn. Cô giáo có thể cho trẻ di màu, dán, lắp ghép, ...bằng những nguyên vật liệu như: hoa lá, vải vụn, vỏ hộp sữa, cát tông...tạo ra sản phẩm mẫu dưới sự giúp đỡ của cô. Rèn kỹ năng qua giờ học tạo hình. - Đối với hoạt động thơ, truyện: Tôi tạo hứng thú kể cho trẻ những câu chuyện hay, thực tế, câu chuyện cổ tích, câu chuyện về tinh thần 13
  18. đoàn kết, tình cảm bạn bè, bé đi học không khóc nhè, bé là bé ngoan, bé vui đến trường, bé biết vâng lời yêu quý tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình, tính trung thực như câu chuyện "Thỏ ngoan, đôi bạn tốt, vịt con nói dối, con yêu mẹ lắm...." Hình ảnh : Truyện “ Thỏ ngoan” VD. Thơ: Bạn mới: Qua bài thơ giáo dục trẻ biết đoàn kết với bạn bè, không tranh giành đồ chơi - Đối với hoạt động nhận biết: VD: Nhận biết quả cam: Giáo dục biết uống nước cam có lợi cho sức khỏe. Biết pha nước cam cùng cô. * Thông qua hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân: Trẻ có thể học tự mình lấy ghế ngồi vào bàn, tự cầm thìa xúc cơm ăn gọn gàng, ăn xong trẻ biết xếp ghế của mình đúng nơi quy định. 14
  19. Hình ảnh trẻ cất ghế Trước khi ngủ trẻ biết xếp dép gọn gàng, mỗi trẻ biết cầm gối của mình để vào đúng vị trí, giáo dục trẻ ý thức tự phục vụ, nề nếp thói quen hàng ngày. Hình ảnh: giờ ăn của trẻ Trong tháng đầu tiên của năm học tôi hướng dẫn nhắc nhở trẻ cách rửa tay, lau mặt, chỉ cách xếp gối, xếp ghế...tôi duy trì thực hiện liên tục trong một tháng đầu, tháng thứ hai, từ tháng thứ 3 của năm học trẻ không cần sự giúp đỡ. Trẻ tự làm được các kỹ năng theo yêu cầu của cô. Như vậy việc lồng ghép tích hợp hiệu quả giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động và thời điểm khác trong ngày giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, có thói quen tự phục vụ tốt. 4.4. Biện pháp 4. Làm mẫu và khích lệ trẻ thực hiện tốt các kỹ năng sống đơn giản, quen thuộc. - Làm mẫu: Dạy trẻ kỹ năng bằng hành động. Khi quan sát người lớn làm, trẻ sẽ biết làm gì, làm như thế nào: Ví dụ dạy trẻ cất dọn đồ chơi, chuẩn bị bàn ăn, mặc quần áo; tôi làm mẫu cho trẻ quan sát trước sau đó lần lượt thực hiện các kỹ năng. Để trẻ có được các kỷ năng hằng ngày phụ huynh phải tạo cơ hội cho trẻ được tập luyện. Dạy trẻ từng bước một: Đối với trẻ nhà trẻ chúng ta phải kiên trì, dạy 15
  20. kỹ năng cho trẻ bằng cách chia nhỏ các nhiệm vụ. Khi trẻ đã học được bước đầu tiên rồi dạy trẻ bước tiếp theo. Chỉ chuyển sang bước tiếp theo khi trẻ có thể thức hiện bước trước một cách thuần thục không cần sự trợ giúp. Tiếp tục cho đến khi trẻ hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ. Khi trẻ học một kỹ năng tự phục vụ mới cô giáo có thế cầm tay và hướng dẫn cho trẻ các động tác. Không giúp đỡ nữa khi trẻ bắt đầu phải hình dung ra mình phải làm như thế nào nhưng hãy tiếp tục chỉ dẫn trẻ bằng lời, sau đó chỉ cần ra hiệu khi trẻ làm chủ được kỹ năng. * Cô giáo luôn làm gương cho trẻ. VD: Giờ đón, trả trẻ: Khi trẻ đến lớp không chào cô, chào bạn, chào mẹ. Cô làm mẫu: Con chào cô ạ! Con chào bố ạ!Con chào mẹ ạ! (Khoanh tay trước ngực, đầu hơi cúi, miệng cười tươi, nói phải to, rõ ràng) Hình ảnh bé học chào cô Trẻ em thì chỉ thích được khen ngợi vì thế khi trẻ ngoan, tôi thường xuyên khen trẻ và động viên khích lệ những trẻ chưa có kỹ năng tốt để lần sau cố gắng. Chúng ta không ép trẻ phải làm những cái mà người lớn muốn mà dạy, trẻ ý thức được những gì cần làm và thực hiện đúng cách. Chỉ như vậy những kỹ năng của trẻ được hình thành và theo trẻ đến suốt cuộc đời. 4.5. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh nâng 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2