intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3 - 4 tuổi mới đến lớp

Chia sẻ: Mai Đình Thanh Minh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:18

123
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài "Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3 - 4 tuổi mới đến lớp" này là nhằm tìm ra những giải pháp chung nhất và hiệu quả nhất trong việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Đồng thời tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn trong quá trình công tác ở đơn vị. Mời thầy cô và các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3 - 4 tuổi mới đến lớp

  1. 1 PHỤ LỤC Mục Nội dung Trang 1 Lời giới thiệu: 1  2 Tên sáng kiến: 1 3 Tên tác giả: 1 4 Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: 1­ 2 5 Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 2 6 Ngày sáng kiến được áp dụng: 2 7 Mô tả bản chất của sáng kiến: 2 7.1 Nội dung của sáng kiến: 2 7.1.1 Cơ sở lý luận: 2­3 7.1.2 Cơ sở thực tiễn: 3­4 7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến:   4­13 8 Những thông thông tin cần được bảo mật( nếu có): 13 9 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 13­14 10 Đánh giá lợi ích thu được: 14 10.1 Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tác giả: 14­15 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do  10.2 15­16 áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử  11 16 hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
  2. 2 BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Bác Hồ đã từng nói: Hiền dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên. Trẻ em như tờ giấy trắng khi có sự dạy dỗ, quan tâm của người lớn thì  tờ giấy trắng đó sẽ xuất hiện những dòng chữ đầu tiên. Vì vậy, đức tính của mỗi một con người đâu phải từ  khi sinh ra đã là  người tốt, người ngoan hiền hay tự ý thức được những điều hay lẽ phải trong  cuộc sống. Mà ngay từ ban đầu phải rèn luyện khi vẫn là một đứa trẻ, để sau  này mỗi đứa trẻ sẽ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Việc rèn luyện nề  nếp, thói quen ban đầu cho giúp cho trẻ lĩnh hội được bước đầu về giáo dục   nhân cách và phát triển về mọi mặt luôn là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Muốn  thực hiện được nhiệm vụ  to lớn này, thì giữa gia đình và nhà trường phải là   nhịp cầu nối khăng khít. Cho nên, những điều trẻ  được tiếp nhận  ở  độ  tuổi  này đều có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của  trẻ sau này. Trẻ 3 ­ 4 tuổi đang ở giữa độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo nên việc rèn nề  nếp thói quen cho trẻ là khâu quan trọng nhất. Vì vậy, việc rèn luyện nề nếp  thói quen cho trẻ chính là một trong những bước hình thành và phát triển nhân   cách cho trẻ  ở trường mầm non là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.  Việc rèn luyện nề  nếp thói quen cho trẻ  3­4 tuổi sẽ  là cái kiềng vững chắc   làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này. Bản thân tôi nhận thức được rằng: Giáo dục là một nhiệm vụ  quan   trọng và cần thiết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ  to lớn này thì gia đình   cũng là một môi trường tốt để  giúp nhà giáo dục đưa một đưa trẻ  tiến đến  hoàn thành nhân cách một cách hoàn hảo nhất. Cô giáo là người mẹ  thứ  hai  của trẻ  cho nên bằng các phương pháp, kinh nghiệm của bản thân mình để  hình thành và rèn cho các cháu một số  nề  nếp và thói quen cho trẻ  để  trẻ  bước đầu có những đức tính tốt sau này trở thành người công dân tốt. Vì vậy,  mà tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3 – 4   tuổi mới đến lớp.  2. Tên sáng kiến:  ­ Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3 ­ 4 tuổi mới đến lớp. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hằng ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Mầm Non Tân Cương. ­ Số điện thoại: ************
  3. 3 ­ Email: ******************** 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  ­ Họ tên: Nguyễn Thị Thu Hằng ­ Chức vụ: Giáo viên ­ Lớp: 3 tuổi b. Trường mầm non Tân Cương.  5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Áp dụng trực tiếp ở trẻ 3 ­ 4 tuổi vào hoạt động giáo dục trẻ hằng  ngày tại trường mầm non, được thực hiện tại lớp 3 tuổi b. Trường mầm non  Tân Cương ­  Huyện Vĩnh Tường ­  Tỉnh Vĩnh phúc. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 9 năm 2019. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Nội dung của sáng kiến:  7.1.1. Cơ sở lý luận: Trẻ 3 ­ 4 tuổi là giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách trẻ, các mặt  phát triển của trẻ hòa quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch  rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài. Bởi vậy,   muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ từ những ngày đầu trẻ bước vào lớp  cô giáo phải là người để  trẻ  cảm thấy mình được chấp nhận, an toàn, được   yêu mến và là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hòa nhập. Quan hệ  của cô giáo với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương.  Trẻ cần phải có tri thức ban đầu về tất cả mọi lĩnh vực, trẻ không chỉ có  kiến thức sơ  đẳng mà còn học được những điều đơn giản về  cách sống và  cách làm người: Tôi nhận thấy việc “Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ” rất  cần thiết đó chính là năng lực và phẩm chất mang tính nề  tảng, những kỹ  năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi đậy và phát triển tối đa những  khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học  ở các cấp học tiếp theo và cho   việc học tập suốt đời của trẻ. ­ Quá trình giáo dục rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 3 ­ 4 tuổi là một  việc vô cùng cần cần thiết. Thông qua các hoạt động hàng ngày của trẻ, trẻ  đã nhận thức được việc làm của mình, những hành vi  ứng xử  của mình với  bạn, với cô giáo và với mọi người xung quanh. Qua việc rèn nề  nếp, thói   quen hàng ngày cho trẻ nhằm tạo cho giáo viên có ý thức thói quen rèn luyện  nề nếp cho trẻ, có thái độ kỹ năng và hành vi tốt trong việc rèn luyện nề nếp   cho trẻ.  Để   thực   hiện   nghiên   cứu   đề   tài   này,   tôi   tiến   hành   dựa   trên   một   số  phương pháp sau:           ­  Nhóm phương pháp quan sát:           Lập kế hoạch và tổ  chức cho trẻ tri giác trực tiếp sự  vật, hiện tượng   xung quanh một cách có mục đích, trong một thời gian nhất định quan sát giúp   trẻ  nhận biết được những thuộc tính bên ngoài của sự  vật hiện tượng, phát 
  4. 4 triển khả  năng nhạy cảm, dễ  dàng phát hiện sự  thay đổi khác nhau giống  nhau của sự vật hiện tượng xung quanh. ­  Nhóm phương pháp dùng lời nói: (Trò chuyện, kể  chuyện, đọc thơ,   giải thích…): Nhằm khuyến khích trẻ  tiếp xúc với đồ  vật và giao tiếp với  người xung quanh. Để trẻ bộc lộ ý muốn, chia sẻ những cảm xúc với người   khác bằng lời nói và hành động nhất định. ­ Nhóm phương pháp thực hành trải nghiệm:  Để trẻ trực tiếp tham gia  vào các hoạt động hàng ngày, tìm hiểu khám phát thế giới xung quanh. Khi trẻ  được va chạm vào các tình huống diễn ra xung quanh trẻ  trong cuộc sống   thường ngày, trẻ dễ dàng thể hiện cảm xúc, để  có những kỹ  năng xử  lý tình  huống phù hợp và nó giúp trẻ  nhận những điểm mạnh, điểm yếu của bản   thân trẻ. Thực hành, trải nghiệm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. ­  Nhóm phương pháp trực quan ­ minh họa: Sử dụng trực quan như đồ  vật, đồ  chơi, tranh  ảnh, hành động mẫu (Lời nói và cử  chỉ) cho trẻ  quan sát,  nói và làm theo, rèn luyện sự nhạy cảm của các giác quan (Nhìn, nghe, ngửi,  sờ  mó, nếm…). Nhóm phương pháp trực quan này giúp trẻ  thấy được thế  giới xung quanh có sự  liên hệ  chặt chẽ  với việc phát triển nhận thức và tư  duy. ­ Phương pháp thống kê, sử  lý số  liệu:  Thống kê, sử  lý số  liệu trong  bảng khảo sát trước và sau khi áp dụng biện pháp.  7.1.2. Cơ sở thực tiễn: * Thuận lợi: ­ Trường mầm non Tân Cương luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm  chỉ  đạo cùng với sự  lãnh đạo trực tiếp của Ban giám hiệu nhà trường, luôn  tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt, bên cạnh đó là đội ngũ đồng nghiệp có  trình độ, chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc ­ giáo dục   trẻ.  ­ Cơ  sở  vật chất để  phục vụ  cho mọi hoạt động cần thiết của trẻ   ở  trường/lớp khang trang, sạch sẽ và đầy đủ. ­ Bản thân tôi luôn nhiệt tình có năng lực chuyên môn và trình độ  sư  phạm trên chuẩn, được tham gia đầy đủ các chuyên đề về đổi mới của ngành   học mầm non, trong đó có chuyên đề  lễ  giáo, chuyên đề  về  vệ  sinh dinh  dưỡng… * Khó khăn: ­ Trẻ 3­4 tuổi còn nhỏ  nên trẻ  dễ  bị  tổn thương về  mặt tâm lý. Vì trẻ  chưa quen việc xa bố  mẹ, gia đình... nên khi mới nhận lớp, nhận trường trẻ  thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận  sự  giúp đỡ của các cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, hoặc   không tham gia vào mọi hoạt động… có thể  trẻ  dường như  không hoà nhập  vào tập thể.
  5. 5 ­ Một số trẻ đến lớp chưa biết chào hỏi cô, chưa biết tự cất đồ dùng cá  nhân đúng nơi quy định, chơi xong thản nhiên bỏ  đồ  chơi bừa bãi, thờ   ơ  và   không quan tâm đến nội quy của lớp. ­ Một số  phụ  huynh không đồng nhất với việc cô giáo đưa trẻ  vào nề  nếp không giống với sinh hoạt ở nhà của trẻ là được nuông chiều, được tự do   muốn gì được nấy và chưa hiểu được tầm quan trọng của giáo dục nề  nếp,  thói quen cho trẻ. * Bảng khảo sát trong rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ  trẻ đầu năm   học: Tổng số trẻ trong lớp: 20 cháu.   Số trẻ đầu năm 20         Nội dung  STT Tỷ lệ  thực nghiệm S ố trẻ % 1 Trẻ đi học đều. 15/20 75 % 1 2 Trẻ tự giác và có thói quen chào hỏi. 13/20 65 % 2 3 Trẻ không mang quà đến lớp. 11/20 55 % 3 4 Trẻ có thói quen cất đồ dùng đồ chơi. 10/20 50 % 4 5 Trẻ có nề nếp trong giờ ăn. 12/20 60 % 5 6 Trẻ có nề nếp trong giờ ngủ. 11/20 55 % 6 7 Trẻ có nề nếp trong học tập.  13/20 65 % 7 8 Trẻ có thói quen vệ sinh. 12/20 60% 8 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:   Để  đưa chất lượng về  việc rèn luyện nề  nếp, thói quen cho trẻ  đạt  hiệu quả cao. Cô giáo phải tạo được cho trẻ sự gần gũi, thân thiết, an toàn và  là người bạn của trẻ  để  trẻ  có thể  hòa nhập vào môi trường lớp học. Hơn  nữa cô giáo phải biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ để từ  đó trẻ sẽ  cởi mở,  gần gũi, nghe lời cô giáo một cách thoải mái, vui vẻ. Vì thế trẻ có những hiểu  biết về kiến thức nhất định, các kỹ  năng ban đầu đồng thời đó là hành trang  
  6. 6 ban đầu cho trẻ hình thành nhân cách để trẻ vững vàng tự tin hơn trong tương   lai. Để làm được điều đó người giáo viên phải chú trọng và không ngừng đổi  mới việc rèn nề  nếp thói quen cho trẻ. Từ  đó, tôi đã áp dụng một số  biện  pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 3­4 tuổi tại nhóm lớp tôi phụ trách như sau: Biện pháp 1: Tìm hiểu và phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ   để có biện pháp thích hợp: Việc nâng cao trình độ  chuyên môn nhanh chóng đưa trẻ  vào chương  trình chăm sóc giáo dục là vấn đề trọng tâm. Tôi xác định bản thân mình phải   nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ   đặc điểm riêng của từng trẻ để lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng cho  trẻ theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng trẻ một cách hợp lý: ­ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn. ­ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình. ­ Trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, ngồi cạnh   cô giáo, để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn. Cô động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt  khi thấy trẻ  ngoan hơn. Cô thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ  cách đi,  đứng, xưng hô, cách trả  lời cô khi cần thiết... bằng những hình thức trên tôi  đã dần ổn định đưa trẻ vào nề nếp thói quen trong mọi hoạt động, ở  mọi lúc  mọi nơi. Đồng thời, làm nảy sinh sự  say mê hứng thú trong việc rèn nề  nếp   thói quen cho trẻ đạt kết quả cao hơn. Cô bên trẻ để sắp xếp chỗ ngồi cho trẻ, ngồi cạnh trẻ.  Biện pháp 2: Dành tình cảm yêu thương đến với trẻ: Trẻ mới đến lớp còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà... cô có thể bế trẻ vào  lòng động viên, dỗ dành để trẻ cảm thấy yên tâm, an toàn khi ở bên cô. Chơi   cùng trẻ để trẻ tập trung vào các đồ chơi hay cho trẻ chơi các trò chơi sôi nổi   giúp trẻ quên đi nỗi nhớ nhà. 
  7. 7 Cô chơi cùng trẻ bằng nhiều hình thức Tình cảm của cô đối với trẻ  giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như  quan hệ  mẹ  con. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ  tạo nên không khí cởi   mở, có hứng thú cô có thể  sử  dụng nghệ thuật của mình để  thu hút lôi cuốn   trẻ  vào các hoạt động một cách dễ  dàng. Vì vậy việc rèn luyện bằng tình  cảm của cô đối với trẻ  là tầm quan trọng  ở  trẻ, trẻ  thích nói nhẹ, thích âu  yếm ,thích gần gủi và thương yêu trẻ, cô phải trao dồi tình cảm của mình với   trẻ để trẻ có điểm tựa và tự tin vào các hoạt động trong ngày được tốt hơn. Là cô giáo mầm non đòi hỏi sự  linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, sáng tạo  để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu hứng thú phù hợp với trẻ. Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thông qua các hoạt động   trong ngày và mọi lúc mọi nơi.  Khi trẻ đến lớp trẻ được thực hiện rất nhiều các hoạt động: Giờ ăn, giờ  ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón và giờ  trả  trẻ. Trong sinh hoạt hàng  ngày đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với trẻ ở độ tuổi này  việc đưa trẻ  vào nề  nếp thói quen không phải là dễ  dàng.  Trẻ  còn rất bé,  chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho  tôi. Muốn tạo cho trẻ  có được thói quen thường xuyên tôi phải luôn nhẹ  nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ trong từng hoạt động. Do đó,  việc rèn luyện nề  nếp thói quen của trẻ  trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi  nơi mang lại hiệu quả cao hơn, trẻ ngoan và nề nếp hơn.  Qua giờ đón trẻ: Trong giờ đón trẻ  cô nhắc nhở  đến lớp biết chào cô,  chào bạn, chào ông bà, bố  mẹ. Cô hướng dẫn trẻ  cất đồ  dùng cá nhân của   mình vào đúng nơi quy định. Như vậy, cô đã rèn được cho trẻ thói quen ngăn   nắp, gọn gàng.
  8. 8 Trẻ chào cô trước khi vào lớp Ví dụ:  Thông qua các bài hát như: “Bé ngoan”, “Lời chào buổi sáng”;  Các bài thơ: “Chào”, “Miệng xinh”; Truyện: “Vệ sinh buổi sáng”…cô dạy trẻ  phải biết chào hỏi lễ phép khi ở nhà cũng như khi ra ngoài đường. Qua giờ  thể  dục sáng: Cô giáo dục trẻ  nề  nếp xếp hàng ngay ngắn,   không nói chuyện ồn ào khi xếp hàng, không chen nhau xô đẩy. Từ đó, trẻ có   ý thức hơn trong học tập. Qua các hoạt động giáo dục:  Giáo viên rèn nề  nếp học tập cho trẻ  như  ngoan ngoãn, ngồi ngay ngắn, chú ý lắng nghe cô giáo giảng bài, không  đùa nghịch nói chuyện trong giờ học. Trẻ 3­4 tuổi còn nhỏ có lúc chưa ý thức   được hành động của mình giáo viên cần nhắc nhở  trẻ  phải biết xin phép cô  mỗi khi ra ra ngoài hay có nhu cầu cá nhân, không tự ý chạy ra ngoài chơi. Cô dạy trẻ qua giờ học: Khám phá môi trường xung quanh. Qua hoạt động vui chơi: Khi tổ chức cho trẻ chơi cô luôn bao quát trẻ  để  giúp đỡ  trẻ  khi trẻ  cần, luôn động viên khuyến khích chơi và nhắc trẻ  không quăng ném đồ chơi. Trong giờ trẻ chơi cô rèn cho trẻ thói quen biết giữ  gìn không quăng ném đồ  chơi, biết chơi cùng bạn, khi chơi xong biết cất đồ 
  9. 9 chơi vào nơi quy định. Trong khi trẻ chơi cô luôn nhắc nhở trẻ biết chơi cùng  nhau, đoàn kết trong khi chơi, không tranh dành đồ chơi của bạn. Ví dụ: Qua bài thơ như:        “Giờ chơi hết rồi,   Nào các bạn ơi!   Ta cùng cất dọn,   Đồ dùng đồ chơi   Vào nơi quy định.” Trẻ chơi trò chơi: Kéo co.           Giáo viên luôn thay đổi và lựa chọn các hình thức tổ chức chơi phù hợp   với điều kiện của lớp và nhận thức của trẻ và đặc biệt phải phù hợp với tâm  lý của từng trẻ. Qua giờ  ăn: Cô hướng dẫn trẻ  biết rửa mặt rửa tay trước và sau khi  ăn. Lấy ghế  ngồi vào bàn ăn, khi cô chia cơm phải biết xin cô, trước khi ăn  biết mời cô, mời bạn; Ngồi ăn ngay ngắn, không nói chuyện, đùa nghịch,  không làm rơi vãi cơm ra bàn, biết nhặt cơm rơi để  vào khay; Khi ho phải   quay mặt ra ngoài và che miệng; Ăn xong biết cất bát, cất ghế đúng nơi quy   định.
  10. 10 Giờ ăn Giờ ngủ: Rèn cho trẻ thói quen đến giờ đi ngủ như trẻ tự lấy gối, đến  đúng vị trí của mình, như không quay ngang quay ngửa, nằm ngủ đúng tư thế  khi ngủ  ngủ  ngoan, ngủ  đủ  giấc, không nói chuyện và không chêu chọc bạn   trong khi ngủ.  Giờ ngủ. Cô có thể dạy nề nếp cho trẻ qua bài thơ: Giờ ngủ: Vào giường đi ngủ Không nghịch đồ chơi Không gọi bạn ơi Không cười khúc khích Không ai tinh nghịch Giơ chân, giơ tay Phải nằm cho ngay Mắt thì nhắm lại.” Thói quen vệ sinh và phục vụ:  Đối với trẻ 3­4 tuổi trẻ còn rất nhỏ trẻ chưa có ý thức trong hoạt động  vệ sinh. Nếu không rèn các thói quen vệ sinh: Biết gìn giữ vệ sinh cá nhân, vệ  sinh chung, nhu cầu vệ sinh khi bị bẩn, nhu cầu đi vệ  sinh (đại, tiểu tiện)…   của trẻ thì trẻ sẽ không ý thức được việc làm và hành động của mình là đúng  hay sai.
  11. 11     ­ Rèn trẻ nề nếp thói quen vệ sinh đúng nơi quy định, bỏ rác vào thùng   rác, rửa tay khi tay bẩn, rửa tay trước khi ăn cơm, rửa tay sau khi đi vệ  sinh,   biết lấy khăn lau mặt khi mặt bị bẩn.    Trẻ thực hiện vệ sinh đúng nơi quy định. Ví dụ: Sau khi trẻ ăn quà sáng hay uống sữa sẽ có giấy bóng, vỏ  hộp  sữa để  giữ  gìn vệ  sinh trong ngoài lớp cô nhắc trẻ  bỏ  vào thùng rác không  ném bừa bãi ra sân cũng như ra lớp. Như vậy, trẻ có ý thức hơn trong việc giữ  gìn vệ sinh trường, lớp. Thông qua hoạt động vệ  sinh cô cũng đã hình thành, rèn luyện cho trẻ  một số thói quen vệ sinh mà trẻ thực hiện trong chế độ  sinh hoạt hằng ngày ở  lớp. Thông qua các hoạt động nêu gương trong ngày: ­ Trẻ  3 ­ 4 tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ  phát triển mạnh, trẻ  còn bé hay tò mò thích bắt chước, tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng,  khen, chê đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của   trẻ, nhưng không nên khen quá đáng mà chê trách chung chung, nên tôi thường   khen những gương tốt để trẻ bắt chước. Ví dụ 1: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu  tóc gọn gàng, sạch đẹp, biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè thông qua   các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể  giúp trẻ  có   thói quen nề nếp tốt hơn cô không nên chê trẻ  trước tập thể lớp mà nên gần   gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài  
  12. 12 cháu hay nhõng nhẽo không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ.  Tôi dựa vào lúc có điều kiện, trong giờ  hoạt động nào đó mà trẻ  có thể  học   tập, bắt chước, tôi đã tranh thủ cơ hội đó để thay đổi trẻ bằng mọi hình thức.  ­ Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần, được  cô tạo điều kiện giúp đỡ, do được rèn luyện mà trẻ  đã thực sự hoà nhập vào  nề nếp, thói quen của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin.          Ví dụ 2: Trong giờ nêu gương cuối tuần cô nêu gương những bạn ngoan   ngoãn, vâng lời biết chào hỏi lễ  phép trước lớp. Trẻ  được nêu gương trước  lớp sẽ cảm thấy tự hào và vinh dự. Từ đó trẻ sẽ có động lực để cố gắng hơn.   Còn những trẻ  bị cô giáo nhắc nhở  trước lớp sẽ  cảm thấy xấu hổ trước các  bạn và lần sau trẻ sẽ cố gắng để được cô giáo tuyên dương trước lớp giống  bạn.  Biện pháp 4: Giáo viên là tấm gương sáng về  nề  nếp cho trẻ  noi   theo Với truyền thống “Tôn sư  trọng đạo” của dân tộc ta, người giáo viên  luôn được coi là một hình tượng mẫu mực, là người dạy học trò tri thức và   nhân cách.  Vì vậy, cô giáo cần là một tấm gương sáng về  đạo đức, cho trẻ  noi  theo. Khi đến lớp cô giáo là người luôn bên cạnh và chăm sóc trẻ chính vì thế  mà cô giáo có ảnh hưởng rất lớn đến việc rèn nề nếp và hình thành nhân cách   cho trẻ. Ở tuổi này trẻ phát triển ngôn ngữ còn yếu, đến lớp trẻ thường sống  thiên về  tình cảm nên rất cần sự  âu yếm, nhẹ  nhàng của cô nhất là những  ngày đầu trẻ  mới nhận lớp, cô phải làm sao để  trẻ  có thể  cảm nhận được   nguồn hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến có thể  coi   là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối  với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con.  Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ  tạo nên không khí cởi mở, quên  mình là người lớn để  thực sự  là người bạn của trẻ. Khi trẻ  có cảm tình, có  hứng thú cô có thể sử dụng nghệ thuật của mình để  thu hút lôi cuốn trẻ  vào  các hoạt động một cách dễ dàng.  Khi đến lớp cô cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định; Khi đón trả trẻ  ân cần chào hỏi phụ  huynh, chào trẻ; Sắp xếp đồ  dùng đồ  chơi hợp lý, gọn   gàng, ngăn nắp; Bỏ rác đúng nơi quy định...Tất cả những lời nói, cử chỉ, việc   làm của cô giáo đều ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ.
  13. 13 Cô đón trẻ vào lớp Cô sắp xếp đồ dùng học tập, ghế ngồi gọn gàng Đặc điểm của trẻ là rất hay bắt trước, có thể bắt chước cái xấu, cái tốt  nhưng cũng có thể là bắt chước cái đúng, cái sai. Vì vậy, tôi luôn ý thức được   bản thân và có trách nhiệm cao trong việc vệ sinh cho trẻ hàng ngày, giữ gìn  vệ sinh môi trường trong lớp và ngoài lớp. Như vậy, cô giáo sẽ là tấm gương   cho trẻ noi theo.  Biện pháp 5: Giáo dục phù hợp với trẻ hiếu động, không chịu nghe   lời Đối với những trẻ  hiếu động, nghịch ngợm đòi hỏi giáo viên phải có  biện pháp giáo dục phù hợp và linh hoạt để  sử  lý các tình huống khác nhau  trong quá trình rèn trẻ vào nề nếp. Cô giáo có thể giao việc cho trẻ làm và khen gợi trẻ để trẻ làm tốt hoặc   giao cho một nhóm trẻ  trưởng quản lý, nhắc nhở  các bạn trong nhóm thực  hiện theo nề nếp của lớp hay các yêu cầu cô đưa ra. Từ đó, trẻ  sẽ  tự  ý thức   thực hiện theo quyết định để  làm gương cho bạn khác và nhận lời khen gợi  từ cô giáo. Một số trường hợp có thể áp dụng cách “Chặn đầu trước và khen”. Ví  dụ: “Bạn An hôm nay đi học, sẽ rất ngoan vì bạn biết nghe lời và hứa với cô 
  14. 14 là bạn: Không khóc nhè, học thật giỏi, ăn thật ngoan để  cuối tuần bạn còn  nhận phiếu bé ngoan”. Như vậy, trẻ sẽ thực hiện lời hứa và ngoan hơn. Biện pháp 6: Thường xuyên phối hợp với gia đình để  làm tốt công   tác rèn nề nếp cho trẻ.          Cô giáo cần trao đổi trực tiếp với phụ huynh để cùng nắm bắt được tình  hình của trẻ ở trường lớp và phối hợp trong việc giáo dục trẻ. ­ Với đặc điểm “Chóng nhớ mau quên” của trẻ nên để hình thành được  thói quen nề  nếp thì đòi hỏi gia đình và giáo viên phải thường xuyên phối  hợp. Vì vậy, để  thực hiện tốt việc rèn luyện nề  nếp, thói quen ban đầu cho  trẻ  thì các bậc phụ  huynh giữ  một vai trò rất quan trọng nên tôi đã tuyên   truyền với các bậc phụ  huynh về  sự  cần thiết của việc rèn luyện cho trẻ   ở  lứa tuổi này. Từ đó, phụ  huynh cùng phối hợp với giáo viên để  nắm bắt đặc  điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên nhân để  có biện pháp thích hợp kịp thời   uốn nắn trẻ. Đồng thời, trao đổi với cha mẹ trẻ để rèn luyện thêm cho trẻ khi  ở gia đình.  ­ Vận động phụ  huynh cùng sưu tầm tranh  ảnh, những bài thơ, câu   chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ  dùng   đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Tôi trao đổi với phụ huynh thông qua các hình thức: Qua giờ đón trả trẻ: Cô hướng dẫn cho trẻ cất đồ  dùng cá nhân đúng  nơi quy định, biết chào cô, chào mẹ, chào các bạn… Trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định Trong các buổi họp phụ huynh: Tôi trao đổi với gia đình về thói quen  ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân và nề nếp hằng ngày của trẻ ở lớp và ở nhà. Những   việc trẻ đã làm được và chưa làm được như: Trẻ tự  xúc ăn cơm, tự  lấy gối,   cất gối, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định.
  15. 15             Bảng tuyên truyền của lớp: Tích cực sưu tầm tranh truyện, sách báo  hình ảnh có nội dung về lễ giáo, đồng thời lên kế hoạch cụ thể từng tháng và   giới thiệu với phụ  huynh, để  phụ  huynh quan tâm phối kết hợp trong việc  giáo dục lễ giáo cho trẻ ở nhà, tạo môi trường giáo dục đồng bộ. Giáo viên trao đổi với phụ huynh qua bảng tuyên truyền  Thông qua Zalo nhóm: Nhóm chat Zalo giữa giáo viên và phụ huynh là  nơi cập nhật tình hình lớp, chia sẻ những kiến thức, giúp đỡ  nhau trong việc  rèn nề nếp thói quen, mọi sinh hoạt hàng ngày của trẻ  ở nhà. Từ  đó, cô giáo  đưa ra những lời khuyên hữu ích trong việc giáo dục rèn nề  nếp cho trẻ một   cách khoa học. Rèn nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi  nơi hàng ngày đối với trẻ mầm non là vô cùng quan trọng. Đó là nền tảng để  trẻ phát triển nhân cách và trí tuệ. 8. Những thông tin cần được bảo mật( nếu có): Không  9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:  * Điều kiện đối với giáo viên: ­ Bản thân giáo viên có trình độ  trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ,   luôn học tập, bồi dưỡng và tự  rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo  đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ  sư  phạm, là tấm gương trong tập thể  nhà trường, được cha mẹ trẻ và cộng đồng tin yêu tín nhiệm. ­ Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. ­ Làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho dạy và học.  ­ Sử  dụng đồ  chơi trong giảng dạy một cách khoa học, hợp lý thu hút   sự hứng thú của trẻ. ­ Khảo sát để  nắm rõ tình hình về  cơ  sở  vật chất, trình độ  nhận thức  của trẻ, đặc điểm tâm lý của trẻ.
  16. 16 ­ Rèn trẻ ở mọi lúc mọi nơi phải có tính lâu dài để  hình thành kỹ năng  cho trẻ. * Điều kiện về kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ. * Điều kiện về tài liệu. ­ Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình 3­4 tuổi. ­ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non. ­ Một số  tài liệu khác liên quan đến rèn nề  nếp thói quen cho trẻ  3­4   tuổi. * Điều kiện về trẻ. * Điều kiện về phụ huynh học sinh. * Điều kiện về môi trường hoạt động. * Điều kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị. ­ Đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, phục vụ cho công tác  chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. ­ Căn cứ vào khả năng phát triển nhận thức của trẻ. ­ Căn cứ vào các hoạt động của cô và trẻ trong trường MN Tân Cương. 10. Đánh giá lợi ích thu được: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng   sáng kiến theo ý kiến của tác giả: ­ Đối với bản thân:  Trải qua nhiều năm là giáo viên trong trường mầm non. Tôi mạnh dạn   đưa ra những biện pháp nêu trên được áp dụng trong trường mầm non Tân  Cương. Tôi thấy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ  trong đó kỹ  năng rèn nề  nếp thói quen cho trẻ được nâng lên rõ rệt. Thông qua việc áp dụng các biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ tôi  thấy mình đã thấm nhuần và hình thành thói quen kỹ  năng rèn luyện nề  nếp  thói quen. Yêu trẻ nhiều hơn, yêu nghề nhiều hơn. ­ Đối với đồng nghiệp:  Được trao đổi học tập, áp dụng biện pháp tích cực nhất để hướng dẫn  trẻ vào nề nếp thói quen của lớp học cũng như ở nhà.  ­ Đối với trẻ:  100 % số trẻ gọn gàng, sạch đẹp, trẻ đã  thực sự hòa nhập vào nề nếp,   nội quy của tập thể  lớp một cách thoải mái, dễ  dàng, tự  tin hơn trong giao   tiếp với cô và các bạn trong lớp, với mọi người xung quanh. Bằng tấm lòng tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề mến trẻ cùng với  sự  nỗ  lực nghiên cứu không ngừng học hỏi của bản thân tôi đã áp dụng các  giải pháp nêu trên đối với trẻ lớp mẫu giáo 3 tuổi b do tôi chủ  nhiệm và kết  quả đúng như tôi mong đợi. Sau khi, đưa ra và áp dụng các giải pháp trên, trẻ  đã tiến bộ  rõ rệt hơn so với kết quả  khảo sát đầu năm.  Điều này được thể  hiện ở bảng sau:
  17. 17 Bảng so sánh kết quả  trong việc rèn luyện nề  nếp thói quen cho   trẻ cuối năm.       Tổng số trẻ trong lớp: 20 cháu   Đầu    Cuối        Nội  năm năm    So   sánh dung    Số   trẻ:  Số   trẻ:  STT thực  20  20   nghiệm Số Tỷ Số Tỷ Tỷ lệ trẻ lệ % trẻ lệ % %tăng Trẻ đi học đều.   1 15/20 75% 20/20 100% 25% Trẻ tự giác và có thói quen    2 13/20 65% 20/20 100% 35% chào hỏi. Trẻ không mang quà đến    3 11/20 55% 20/20 100% 45% lớp. Trẻ có thói quen cất đồ    4 10/20 50% 20/20 100% 50% dùng đồ chơi. Trẻ có nề nếp trong giờ ăn.   5 12/20 60% 20/20 100% 40% Trẻ có nề nếp trong giờ    6 11/20 55% 20/20 100% 45% ngủ. Trẻ có nề nếp trong học    7 13/20 65% 20/20 100% 35% tập.  Trẻ có thói quen vệ sinh.   8 12/20 60% 20/20 100% 40%  Sau khi thực hiện với các biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ thông minh,   linh hoạt hứng thú hơn, trẻ  tích cực và chủ  động tham gia các hoạt động so   với đầu năm học nề  nếp thói quen của trẻ  của trẻ  đạt kết quả  tốt hơn, trẻ  mạnh dạn hơn, kỹ năng giao tiếp tốt hơn  và ý thức tập thể của trẻ được nâng  cao rất nhiều so với bảng khảo sát đầu năm. Trẻ  có nề  nếp thói quen trong   các hoạt động học và các hoạt động trong ngày đã giúp trẻ đạt được các mục  tiêu giáo dục của độ tuổi 3 ­ 4 tuổi. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp   dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Ứng dụng sáng kiến đã được nghiên cứu và áp dụng vào hoạt động  hàng ngày của trẻ  mẫu giáo bé 3 ­ 4 tuổi. Trường Mầm non Tân Cương:   ­ Tính mới, tính sáng tạo: Sáng kiến mang tính khả thi cao, có tính mới   tính sáng tạo, mang lại lợi ích thiết thực trong nhà trường.
  18. 18   ­ Khả năng áp dụng, nhân rộng:  Ứng dụng sáng kiến có khả năng áp  dụng, phổ biến rộng rãi trong huyện. ­ Khả năng mang lại lợi ích thiết thực: Sau khi áp dụng sáng kiến vào  thực tế tại đơn vị đã cho thấy khả năng áp dụng đạt hiệu quả cao.          11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc  áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Số  Phạm vi/Lĩnh vực Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ TT áp dụng sáng kiến 1 Nguyễn Thị Thu Hằng Trường mầm  Phụ trách: Một số biện pháp  non Tân  rèn nề nếp, thói quen cho  Cương trẻ 3­4 tuổi mới đến lớp. 2 Học sinh lớp 3 tuổi b Trường mầm  Một số biện pháp rèn nề  non Tân  nếp, thói quen cho trẻ 3­4  Cương tuổi mới đến lớp. 3 Nguyễn Thị Huệ Trường mầm   Một số biện pháp rèn nề  non Tân  nếp, thói quen cho trẻ 3­4  Cương tuổi mới đến lớp mới đến  lớp. 4 Đặng Thúy Anh Trường mầm   Một số biện pháp rèn nề  non Tân  nếp, thói quen cho trẻ 3­4  Cương tuổi mới đến lớp. 5 Phụ huynh học sinh Trường mầm   Một số biện pháp rèn nề  non Tân  nếp, thói quen cho trẻ 3­4  Cương tuổi mới đến lớp.             Trên đây là toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi với mong   muốn là làm sao cho trẻ  có được nề nếp thói quen tốt. Tôi đã đầu tư  nghiên  cứu ngay từ  lớp học của mình về  tình cảm của trẻ, trí tuệ  của trẻ  và khả  năng hoạt động của trẻ, phương pháp tôi sử dụng chính là trò chuyện tạo sự  gần gũi thân mật với trẻ. Để  từ  đó bản thân tôi rút ra được kinh nghiệm sâu  sắc hơn khi thực hiện việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ mầm non nói chung   và trẻ 3­4 tuổi nói riêng. Tôi xin trân trọng cảm ơn!         Tân Phú, ngày    tháng     năm 2021 Tân Phú, ngày    tháng   năm 2021 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) Hoàng Thị Tường Linh    Nguyễn Thị Thu Hằng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2