intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi người dân tộc Bru Vân Kiều

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi người dân tộc Bru Vân Kiều" nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về chất lượng chăm sóc vệ sinh cho trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi người dân tộc Bru Vân Kiều

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: ĐỀ TÀI: "MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC VỆ SINH CÁ NHÂN CHO  TRẺ 3­4 TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC BRU­VÂN KIỀU"                1
  2. Quảng Bình, tháng 1 năm 2013 CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI "MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC VỆ SINH CÁ NHÂN CHO TRẺ 3­4 TUỔI  DÂN TỘC BRU­VÂN KIỀU".                                        Họ và tên: Đỗ Thị Hòa                                        Chức vụ: Giáo viên                                        Đơn vị công tác: Trường Mầm non Kim Thủy. 2
  3.       Quảng Bình, tháng 1 năm 2013 Phần I. PHẦN MỞ ĐẦU. 1.1. Lý do chọn đề tài:        ̉ ̀ ̉ Tre em la chu nhân tương lai cua đât n ̉ ́ ươc, la thê hê tiêp b ́ ̀ ́ ̣ ́ ước cha anh để  xây dựng va bao vê Tô Quôc.  ̀ ̉ ̣ ̉ ́ Lúc sinh thời, Bac Hô ́ ̀  rất quan tâm các cháu Thiếu Niên, Nhi đồng. Bác  mong muốn các cháu chăm ngoan, học giỏi nối tiếp truyền thông của ông cha  xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc Việt nam giàu đẹp. Bac rât m ́ ́ ực thương yêu trẻ  em. Bác dành muôn vàn thình thương yêu đối với các em Bấc nói: "Sữa để  em  thơ lụa tặng già".  Ngay nay ̀ ̉ , Đang va  ̀ ươc ta cung rât quan tâm đên thê hê tre, đa danh ̀Nha n ́ ̃ ́ ́ ́ ̣ ̉ ̃ ̀   ̉ cho tre em  sự  quan tâm đặc biệt, tạo mọi điều kiện cho trẻ  được đến trường,  được hưởng các quyên l ̀ ợi về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.       Như chúng ta đã biết nhân cách con người là kết quả tổng hòa của nhiều   nhân tố, nhân cách con người được hình thành là nhờ một phần của giáo dục.  Giáo dục có vai trò quan trọng, thông qua giáo dục nhằm giúp con người  nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chỉ có giáo dục mới hình  thành đội ngũ lao động có trí thức, có năng lực, có sáng tạo, có phẩm chất chính  trị, đạo đức cách mạng. Đối với lứa tuổi mầm non giáo dục có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp   cho trẻ  cường tráng về  thể  chất, phong phú về  tinh thần, phát triển cao về  trí  tuệ; là cơ  sở  đầu tiên để  hình thành nhân cách con người mới, là tiền đề  để  chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đi học.  3
  4. Ngoài việc giáo dục trẻ  phát triển thể  chất, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm  mỹ, tình cảm xã hội thì công tác giáo dục vệ sinh được xem là nhiệm vụ  quan  trọng hàng đầu. Trẻ  có khỏe mạnh thì mới ham học hỏi, tích cực, hứng thú  tham gia các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục; tiếp thu kiến thức, kỹ  năng giáo dục nhờ  đó phát triển nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm tốt và  ngược lại nếu trẻ gầy gộc, chậm lớn, thường xuyên đau ốm, bệnh tật thì không   tích cực tham gia các hoạt động chăm sóc, giáo dục điều đó đồng nghĩa với việc  chậm phát triển về nhận thức, tư duy, ngôn ngữ, tình cảm xã hội....  "Sức khỏe là vàng", nếu trẻ  không được chăm sóc tốt thường xuyên đau  ốm, bệnh tật thì không những  ảnh hưởng đến kinh tế  gia đình mà còn để  lại  gánh nặng cho xã hội. Giáo dục vệ  sinh cá nhân đối với trẻ  là nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu,  phải thực hiện thường xuyên, liên tục, kết hợp chặt chẽ  giữa gia  đình­ nhà  trường và xã hội có như thể mới đem kết quả tốt.  Giáo dục vệ  sinh cá nhân cho trẻ  bao gồm từ  việc hình thành kiến thức  giúp trẻ  nắm chắc các thao tác, quy trình rửa tay, lau mặt, ... đến tự  giác thực   hiện các hoạt động vệ sinh và để trở thành thói quen tốt. Đối với trẻ mẫu giáo 3­4 tuổi dạy vệ sinh cho trẻ bắt đầu từ những hoạt  động đơn giản nhưng vô cùng quan trọng và cần thiết đó là: dạy trẻ biết rửa tay  bằng xà phòng dưới vòi nước; lau mặt, chải răng; không được dùng tay quệt  mũi, không ngồi lê dưới đất làm bẩn quần áo, biết đi đại tiểu tiện đúng nơi qui   định, biết giữ  gìn quần áo, chân tay sạch sẽ, gọn gàng ... biết giữ  gìn vệ  sinh   môi trường trong lớp cũng như ở nhà luôn sạch sẽ. Song việc giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ là nhiệm vụ không mấy dễ dàng,   nhiệm vụ  này thực hiện tốt hay không phụ  thuộc rất nhiều yếu tố: khả  năng  của trẻ, năng lực và tâm huyết của đội ngũ giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất,   đồ  dùng dụng cụ  vệ  sinh và sự  phối kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa nhà  trường với gia đình trẻ. 4
  5. Đối với trẻ  mẫu giáo từ  3­4T đây là thời kỳ  tâm sinh lý trẻ  phát triển  mạnh nhất. Song cơ  thể trẻ non nớt, nhạy cảm, sức đề  kháng yếu. Nếu chăm  sóc, nuôi dưỡng và giáo dục không chu đáo sẻ  kìm hãm sự  phát triển của trẻ,  làm cho trẻ thường xuyên mắc các bệnh tật, ốm đau.  Trẻ người dân tộc BRu­Vân Kiều khi mới đến trường mọi thứ đều xa lạ  chưa quen cô, quen bạn, chưa hiểu được ngôn ngữ Tiếng Việt... chưa quen với  chế  độ  sinh hoạt của lớp;   tránh né bạn, không chấp nhận sự  giúp đỡ  của cô  giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, không chịu tham gia vào mọi   hoạt động của lớp nói chúng và giáo dục vệ sinh nói riêng.  Mặt khác, trẻ 3­4 tuổi do không học từ nhà trẻ nên khả năng nghe, nói và   hiểu Tiếng Việt còn hạn chế trẻ chỉ nói tiếng địa phương nên mọi yêu cầu của  trẻ  giáo viên cũng không hiểu và đáp  ứng được, do đó trẻ  chưa gần gủi, thân  thiện với giáo viên và ngược lại mọi yêu cầu của giáo viên trẻ  không hiểu,  không thực hiện được.  Chất lượng cuộc sống trong gia đình trẻ còn thiếu thốn nên tỷ lệ suy dinh   dưỡng cả thể thấp còi và cân nặng rất cao Đối với phụ  huynh dân tộc Vân Kiều họ  quen với tập tục sinh hoạt của  mình, cam chịu cái nghèo, cái thiếu; việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại còn  hạn chế; khả năng, nhận thức và điều kiện cuộc sống gia đình còn nhiều thiếu  thốn: nhà  ở  chưa khang trang, sạch sẽ, kín đáo; đồ  dùng vệ  sinh chưa trang bị  đầy đủ; công trình vệ  sinh chưa xây dựng kiên cố; việc quan tâm chăm sóc vệ  sinh cũng như sức khỏe cho trẻ chưa được cha mẹ trẻ chăm lo đúng mức; điện,   nước phục vụ sinh hoạt chưa đầy đủ... Trong  các  năm   gần   đây   bệnh  "tay,   chân,   miệng",   dịch   cúm   AH5N1,  H1N1... xảy ra  ở nước ta, nhiều  ở  địa phương đã lây lan thành dịch; đối tượng  dễ mắc phải là trẻ nhỏ. Nguyên nhân xảy ra là do công tác vệ sinh cá nhân, vệ  sinh môi trường không sạch sẽ. Để  phòng chống các bệnh "Tay, chân, miệng"  và dịch cúm Bộ  Y tế  đã khuyến cáo và tăng cường chỉ  đạo thực hiện các biện  5
  6. pháp phòng chống dịch bệnh trong toàn xã hội trong đó đặc biệt chú ý ở bậc học  Mầm non. Vì vậy, trường mầm non và đội ngũ giáo viên là người đóng vai trò quan  trọng và quyết định chất lượng, hiệu quả  công tác chăm sóc, giáo dục vệ  sinh   cá nhân cho trẻ. Làm thế nào để giáo dục vệ sinh cá nhân và hình thành nề nếp thói quen  vệ sinh cho trẻ là vấn đề tôi luôn băn khoăn, trăn trở.  Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết đó tôi đã suy nghĩ, tìm tòi  “Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3­ 4 tuổi người dân tộc Bru  Vân Kiều" làm Sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.  Đề tài "Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3­ 4 tuổi" chắc  cũng có nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu nhưng họ là người đang công tác tại  các vùng thuận lợi, trong lớp chủ  yếu trẻ người Kinh nên các nhiệm vụ, biện  pháp thực hiện của họ không thể áp dụng phù hợp đối với đơn vị vùng có nhiều   trẻ người đồng bào thiểu số. Vì vậy, năm học này, tôi đã mạnh dạn thực hiện   đề tài này với mong muốn đóng góp được một số  biện pháp hữu hiệu giúp chị  em đồng nghiệp có thể vận dụng có hiệu quả tại vùng đồng bào dân tộc, vùng  núi, vùng sâu, vùng xa. * Điểm mới của đề tài là thực hiện một số giải pháp:  Hướng dẫn cho trẻ nắm vững quy trình lau mặt, rửa tay; Giáo dục trẻ vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày Tổ chức cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ; Phối hợp với phụ huynh chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Đề  tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế  về  chất lượng chăm sóc vệ  sinh cho trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến: Đề tài "Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3­ 4 tuổi người  dân tộc Bru­Vân Kiều" có thể áp dụng cho giáo viên tại trường tôi đang công tác  và có khả năng áp dụng trong các đơn vị thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi  biên giới và đây là đề tài thuộc lĩnh vực chăm sóc vệ sinh cho trẻ mẫu giáo 3­4  tuổi.  6
  7. * Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây: Phần I. Phần mở đầu: Phần II. Nội dung Phần III. Kết luận Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất   mong quý đọc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ  quản lý, lãnh   đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.  Phần II  NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu: Khi bước vào thực hiện đề  tài này bản thân tôi gặp một số  thuận lợi và   khó khăn sau:          Thuận lợi:          Bản thân tôi có nhiều năm công tác tại trường nên am hiểu tình hình của  địa phương, nhà trường, phụ  huynh và trẻ  trong lớp. Hiểu được một số  phong  tục  tập  quán  của  người   dân  nơi  đây, hiểu  và  nói  được  một số   câu,  từ   địa  phương. Trình độ  chuyên môn đạt chuẩn hiện đang học Đại học sư  phạm mầm  non nhờ đó kiến thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ luôn được xếp loại Tốt;  lập trường tư tưởng chính trị kiên định, vững vàng; có ý thức chấp hành tốt chủ  trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phẩm chất đạo đức tốt,   7
  8. yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác, luôn được phụ huynh, đồng nghiệp  và nhân dân tín nhiệm.  Được tham gia đầy đủ các đợt bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, các lớp   tập huấn về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ; dự các tiết dạy của đồng nghiệp; được  ban giám hiệu nhà trường thường xuyên dự giờ và góp ý giúp đỡ.  Ngoài ra, tôi luôn tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu, học hỏi đồng nghiệp nên  để  trích lũy thêm kinh nghiệm về chuyên môn và có kiến thức về  giáo dục vệ  sinh cá nhân trẻ.      Trong năm học này nhà trường đã phân công cho tôi dạy lớp mẫu giáo bé  trong lớp có 19 cháu trong đó 11 cháu dân tộc Vân Kiều tỷ lệ 58%, 8 cháu dân   tộc Kinh tỷ lệ: 42%; được dạy tại khu vực tổ chức cho trẻ ăn bán trú nên cũng   rất thuận lợi trong việc giáo dục và rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ. Điều kiện cơ  sở  vật chất của nhà trường thuận lợi hơn so với các khu   vực khác: phòng học khang trang, sạch sẽ, có điện và nước giếng để  phục vụ  sinh hoạt của trẻ. Được trang cấp đầy đủ đồ dùng, dụng cụ vệ sinh. Hội phụ  huynh đã có chuyển biến về  nhận thức, quan tâm chăm lo cho   các cháu. Tuy vậy, thực hiện đề tài này tôi gặp nhiều khó khăn sau đây:   Khó khăn:           Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thì nguồn nước đóng  vai trò hết sức quan trọng, không những thế  nguồn nước cũng  ảnh hưởng đến  sức khỏe của con người. Nếu nguồn nước sạch thì sẽ  cho ta một sức khỏe tốt   và ngược lại nguồn nước bẩn thì sẽ  gây ra nhiều bệnh tật. Có nguồn nước   sạch phục vụ  sinh hoạt cho người dân  ở  vùng thuận lợi thì không khó nhưng  đối với vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn thì nguồn nước vô cùng khan hiếm.   Hầu hết người dân ở đây sử  dụng nước suối để  phục vụ  sinh hoạt hằng ngày  nên hạn chế  đến chất lượng cuộc sống và công tác vệ  sinh cho trẻ. Dẫn đến   ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, sinh ra nhiều bệnh tật như: bệnh ngoài da,  tiêu chảy, viêm đường hô hấp....  8
  9. Kinh tế  của người dân còn nhiều thiếu thốn, chật vật, phong tục tập  quán của người dân còn lạc hậu. Một số  trẻ  tiêm chủng không đầy đủ, đúng  lịch, khám bệnh không đúng định kỳ, chữa bệnh không kịp thời.  Nhà  ở  của phụ  huynh chưa xây dựng kiên cố, chủ  yếu  ở  nhà sàn, công  trình vệ sinh chưa có, các dụng cụ phục vụ sinh hoạt gia đình chưa đầy đủ, đồ  dùng phục vụ vệ sinh chưa quan tâm đúng mức. Phụ  huynh hầu như  không mấy khi lau nhà, hướng dẫn trẻ  đánh răng,  chải đầu, soi gương, lau mặt, rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước; quần áo trẻ  không được thay giặt thường xuyên; ít dành tiền để  mua áo quần, dày dép cho  con; đa số trẻ mặc đi mặc lại những bộ quần áo đã cũ hoặc do cô giáo mang từ  miền xuôi mang lên.  Trình độ  dân trí thấp, phụ  huynh chưa hiểu rõ tầm quan trọng của việc  học tập của con em mình; chưa có kiến thức về chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng  và giáo dục trẻ. Bố  mẹ trẻ không mấy khi quan tâm tới mọi sinh hoạt thường   ngày của con mình.  Đa số cháu đều thuộc con em dân tộc Vân Kiều nên ít có điều kiện chăm   sóc vệ sinh chu đáo. Trẻ chưa có ý thức trong việc vệ sinh cá nhân cũng như vệ  sinh  môi trường.  Khả năng tiếp thu, ghi nhớ của trẻ hạn chế rất nhiều so với những cháu   cùng tuổi dân tộc Kinh.  Đa số trẻ chưa nắm được thao tác, quy trình một số hoạt động vệ sinh cá   nhân, chưa có ý thực đi vệ  sinh chưa đúng nơi quy định; chưa biết là một số  công việc tự phục vụ. Trẻ đến trường chưa được sạch sẽ, gọn gàng, ăn mặc chưa phù hợp theo  mùa, mùa đông cháu mặc quần áo chưa được đủ ấm do đó ảnh hưởng rất nhiều  đến sức khỏe, nhiều trẻ bị bệnh viêm đường hô hấp, sổ  mũi; một số  trẻ  viêm   đường hô hấp kéo dài hàng tháng vẫn không hết. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi đang ở mức cao (37%). 9
  10. Cơ  sở  vật chất của nhà trường tuy có đủ  phòng học, điện nước hơn các  khu vực khác nhưng so với yêu cầu thì còn nhiều hạn chế: chưa có phòng vệ  sinh khép kín, đủ bồn cầu và khu vệ sinh dành riêng cho bé trai, bé gái theo quy   định; Nguồn nước không đủ phục vụ sinh hoạt của trẻ nhất là về mùa hè. Nhà trường chỉ  có khu vệ  sinh dùng chung cho các nhóm lớp trong khu   vực nên đến giờ  vệ  sinh cháu tập trung nhiều dẫn đến không trật tự, nền nếp   và giáo viên khó trực tiếp quán xuyến, hướng dẫn cho trẻ được mỗi khi trẻ  tự  đi vệ sinh. * Điều tra thực tiễn:  Nội dung Tổng  Kết quả Đạt Không đạt số trẻ SL % SL % Kỹ năng lau mặt 19 13 68 6 32 Ký năng rữa tay 19 15 79 4 21 Kỹ năng tự phục vụ 19 14 74 5 26 Số trẻ SDD thể thấp còi 19 14 74 5 26 Số trẻ SDD thể cân nặng 19 17 89 2 10,5 Bệnh ngoài da 19 15 79 4 21 Kết quả trên cho thấy:  Mặc dù còn nhiều khó khăn và với kết quả điền tra thực tiễn còn rất hạn   chế song với tinh thần, trách nhiệm và lương tâm của người nhà giáo tôi đã tìm  tòi suy nghĩ và thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao công tác giáo dục vệ  sinh cá nhân cho trẻ. Sau đây là một số giải pháp cơ bản:  2.2. Các giải pháp:   Giải pháp 1: Dạy trẻ nắm vững quy trình thực hiện thao tác vệ sinh.     Đối với trẻ  Mầm non muốn thực hiện vệ  sinh cá nhân  được tốt trước  hết phải dạy trẻ nắm được quy trình, các bước vệ sinh. Đầu năm học trẻ  mới đến trường chưa quen với chế  độ  sinh hoạt của  lớp, chưa tích cực tham gia các hoạt động chăm sóc vệ  sinh, trong lúc đó các  10
  11. hoạt động vệ  sinh như  lau mặt, rửa tay.... cần phải thực hiện nghiêm túc. Vì   vậy, để giúp trẻ nắm được quy trình và thao tác vệ sinh lau mặt, rửa tay... tôi đã   sưu tầm một số Clip về hoạt động lau mặt, rửa tay rồi trình chiếu cho trẻ xem.   Sau khi trẻ quan sát cô gợi hỏi trẻ: Các con đã xem được những gì? Các bạn đã  làm gì? Làm như thế nào?...     Quy trình rửa tay, lau mặt theo gợi ý hướng dẫn trong chương trình giáo  dục mầm non yêu cầu giáo viên phải nắm chắc để  hướng dẫn cho trẻ. Đồng  thời do khả năng phát triển về ngôn ngữ, nhận thức của trẻ người dân tộc Vân  Kiều còn hạn chế  nên khi hướng dẫn cho trẻ  giáo viên cần nói ngắn gọn, dễ  hiểu, lời nói kết hợp với thao tác linh hoạt, chính xác. Ví dụ:  Quy trình rửa tay  theo hướng dẫn trong chương trình giáo dục  được thực hiện qua 6 bước.   Bước 1: Đầu tiên cô mở vòi nước nhẹ, úp 2 lòng bàn tay vào nhau và để  dưới vòi nước chảy, sau đó cô xoa đều xà bông vào 2 lòng bàn tay, chà xát 2  lòng bàn tay vào nhau để tạo bọt.  Bước 2: Dùng ngón tay của bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón   tay của bàn tay kia và ngược lại. Bước 3: Dùng lòng bàn tay chà  xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại. Bước 4:  Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào các kẽ  giữa các  ngón tay của bàn tay kia và ngược lại. Bước 5: Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này cọ vào lòng bàn tay kia  bằng cách xoay đi xoay lại.   Bước 6: Cô để tay dưới vòi nước xát nhẹ 2 lòng bàn tay vào nhau, rửa từ  mu bàn tay đến các ngón tay và rửa cho sạch xà phòng.  Đối với trẻ ở lớp tôi đã hướng dẫn quy trình này như sau: Bước 1: Cô đặt 2 lòng bàn tay dưới vòi nước sau đó, lấy xà bông xoa đều  rồi chà xát để tạo bọt. 11
  12. Bước 2: Cô dùng bàn tay này xoay lần lượt hết các ngón của bàn tay kia  rồi đổi tay. Bước 3: Cô dùng bàn tay này chà sát chéo lên mu của bàn tay kia rồi đổi  bên. Bước 4: Cô dùng các ngón của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của  bàn tay kia rồi đổi tay.   Bước 5: Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này xoay đi xoay lại vào  lòng của bàn tay kia rồi đổi tay. Bước 6: Cô để tay dưới vòi nước rửa sạch xà phòng, rủa từ mu bàn tay  đến lòng bàn tay và các ngón tay. *  Quy trình lau mặt  theo hướng dẫn của chương trình  hiện qua 6 bước  sau: Bước 1: Cô trải khăn vào lòng bàn tay, dùng ngón trỏ và ngón cái của bàn  tay phải lau từng mắt một, lần lượt lau từ mép trên của mắt rồi đến mép dưới  của mắt, lau từ hóc mắt đến đuôi mắt. Bước 2: Cô dịch khăn để lau mũi, lau từ trên mũi xuống 2 lỗ mũi rồi dịch  khăn. Bước 3: Cô lau miệng, cô lau mép trên của miệng và mép dưới của  miệng và gấp khăn. Bước 4: Đặt dọc khăn lên lòng bàn tay cô lau trán và má phải cô gấp  khăn. Bước 5:  Cô lau trán và má trái và gấp khăn. Bước 6: Cuối cùng cô lau cằm và cổ, bỏ khăn vào chậu. Ở lớp tôi đã hướng dẫn cho trẻ như sau:         Bước 1: Cô trải khăn ở tay rồi dùng ngón trỏ, ngón cái lau từ mép trên rồi  đến mép dưới của mắt, lau từ  hóc mắt đến đuôi mắt rồi chuyển sang lau mắt  khác. Bước 2: Cô dịch khăn để lau từ trên mũi xuống 2 lỗ mũi. Bước 3: Cô dịch khăn lau mép trên, mép dưới của miệng. 12
  13. Bước 4:  Gấp khăn đặt dọc lên lòng bàn tay rồi lau trán, má bên trái. Bước 5:  Gấp khăn đặt dọc lên lòng bàn tay rồi lau trán, má bên phải. Bước 6: Cuối cùng lau cằm, cổ và bỏ khăn vào chậu.  Nhờ cách hướng dẫn ngắn gọn này mà trẻ dễ nhớ, dễ hiểu và thực hiện   tốt hơn rất nhiều so với cách hướng dẫn ban đầu. Đồng thời khi trẻ thực hành   lau cô vừa hướng dẫn trẻ  vừa khuyến khích trẻ  nhắc đi nhắc lại nên giúp trẻ  nắm chắc quy trình thao tác. Giải pháp 2: Giáo dục trẻ vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày.     Cơ thể trẻ còn non yếu, rất dễ bị các yếu tố của môi trường tác động làm  ảnh hưởng tới sức khỏe. Vì vậy, để  đảm bảo sức khỏe cho trẻ trước giờ đón  trẻ tôi đến sớm 30 phút mở cửa thông thoáng quét dọn nhà cửa sạch sẽ, lau nhà   bằng khăn ẩm, lớp học thoáng mát không ẩm ướt, xung quanh lớp không có vật   sắc nhọn, các thiết bị điện nước phải đảm bảo an toàn, phòng vệ sinh sắp xếp   gọn gàng luôn khô ráo, phối kết hợp với phụ huynh mua dép cho trẻ đi trong lớp  và trong nhà vệ sinh. Đồ dùng cá nhân phải dùng riêng và có ký hiệu rõ ràng.       Trẻ  thực hiện vệ  sinh được tốt thì đầu tiên trẻ  phải nhớ  đúng ký hiệu   của mình, để  giúp trẻ  nhớ  ký hiệu của mình thì tôi tập cho trẻ  nhận biết ký  hiệu với nhiều hình thức khác nhau: Khi lấy đồ dùng, dụng cụ cho trẻ như:  vỡ,  dép, cốc ca uống nước, khăn lau mặt… tôi hỏi trẻ về ký hiệu của mình.  Ví dụ: Vỡ con có ký hiệu gì? Nếu trẻ nhầm tôi nhắc lại cho trẻ nhớ. Quá  trình tập cho trẻ nhiều lần, lặp đi lặp lại thường xuyên sẽ giúp trẻ nhớ ký hiệu  của mình. Khi trẻ  lấy đúng đồ  dùng thì trẻ  mới  hướng dẫn trẻ  thực hiện vệ  sinh, nếu trẻ  không nhận biết được đồ  dùng của mình mà dùng nhầm đồ  dùng  của bạn khác thì nguy cơ lây lan các bệnh về mắt, răng miệng rất nguy hiểm.  Việc dạy cho trẻ nhận biết ký hiệu đã khó nhưng việc dạy trẻ thực hiện  vệ  sinh lại càng khó khăn, vất vả hơn. Với hoạt động rửa tay bằng xà phòng  đối với trẻ 3­4 tuổi thì rất khó, ở lứa tuổi này khi rửa tay trẻ chỉ biết  thích đùa  nghịch với nước, trẻ chưa biết tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng và  các thời điểm cần rửa tay như  phải rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ  sinh,  13
  14. khi tay bẩn...Nên trước hết tôi trò chuyện với trẻ qua nhiều hình thúc như  cho  trẻ đọc thơ hoặc hát. Ví dụ: Tổ chức cho trẻ rửa tay trước khi ăn tôi cho trẻ đọc bài thơ  "Nhớ lời cô dạy”                Đến giờ ăn                Khi tay bẩn                 Phải rửa tay                Với xà phòng                Bé ghi lòng Lời cô dạy. Tôi đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời:  Ví dụ: Vì sao trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn các con phải rửa  tay?  (rửa để  cho tay thơm tho, sạch sẽ, mọi người yêu mến  và  không  mắc  bệnh…).  Vì sao các con phải rửa tay với xà phòng? (Rửa tay với xà phòng để  rửa sạch   hết vi khuẩn, phòng tránh được các bệnh…). Cô hướng dẫn trẻ rửa tay đúng quy trình 6 bước. Khi trẻ rửa tay xong đến  lấy khăn và chọn khăn đúng ký hiệu của mình để lau mặt. Trước khi lau mặt  cô  hỏi trẻ tại sao phải lau mặt? (Lau mặt cho sạch sẽ được mọi người yêu mến,  cho mặt thơm tho, xinh hơn, không bị bệnh...). Lúc nào  phải  lau mặt?  (Lau mặt trước và sau khi ngủ, ăn, đi ra ngoài  đường, khi mặt bẩn... ). Cô cần hướng dẫn trẻ  lau mặt đúng trình tự  theo 6   bước.      Trong giờ ăn:  Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”                                                    Đến giờ ăn cơm                                                    Vào bàn bạn nhé                                                    Nào thìa, bát, đĩa                                                    Xúc cho gọn gàng                                                    Chớ có vội vàng 14
  15.                                                    Cơm rơi, cơm vãi.     Tôi cũng đặt những câu hỏi để  trẻ  trả  lời, từ  đó trẻ  sẽ  nhớ  trong giờ  ăn  phải như thế nào? Cô nhắc lại, hướng dẫn trẻ ngồi ngay ngắn, cầm thìa đúng  tay, ăn chậm, nhai từ  tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội ;  không ngậm  thức ăn lâu trong miệng, không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại tự  do,  không được làm rơi vải thức ăn, khi cơm rơi biết nhặt bỏ vào đĩa riêng, ăn hết  suất.          Với những giải pháp này các cháu thực sự rất tiến bộ. Phần lớn các cháu  khi vệ sinh đã nhớ  được lần lượt các thao tác và từng bước vệ  sinh  rửa tay và  lau mặt. Giải pháp 3: Dạy trẻ làm một số công việc tự phục vụ: "Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình" đó là phương châm của  nền giáo dục nước ta. Trẻ biết tự làm một số công việc tự phục vụ vừa hình thành và rèn luyện  tính tích cực, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát khi tham gia các hoạt động, vừa   hình thành được thói quen tốt trong sinh hoạt. Do đó dạy cho trẻ  biết làm một  số công việc tự phục vụ là nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên. Hàng ngày, trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục giáo viên cần hướng  dẫn cho làm một số công việc: Hướng dẫn trẻ  nhặt rác để  vào thùng theo quy định, không vứt rác bừa  bãi. Trước khi ăn có thể cử một số trẻ nhanh nhẹn, khỏe mạnh tham gia dọn   bàn ăn cùng cô như: để thêm dĩa đựng cơm rơi, khăn ẩm, đưa thìa cho các bạn.  Sau khi trẻ  ăn xong hướng dẫn trẻ  phải lau mặt, uống nước súc miệng, uống  nước phải từ tốn, không làm đổ nước ra ngoài, khi uống nước phải lấy cốc ca  đúng ký hiệu của mình, không rót nước quá nhiều, không được thò tay vào bình  nước. Khi ăn, uống nước xong để đồ dùng vào nơi quy định.  Đi đại tiểu tiện đúng nơi quy định, đi xong biết dội nước sạch sẽ. Khi có  nhu cầu đi vệ sinh cần đi ngay.  15
  16. Đến giờ đón trẻ tôi cho trẻ tự mặc dép trong nền nhà. Khi đón trẻ vào lớp  hướng dẫn trẻ mặc thêm hoặc tự cởi bớt quần áo; tự cởi dày hoặc đeo dép, tự  cất mũ nón vào nơi quy định....   Giáo dục trẻ có ý thức giữ  gìn vệ  sinh chung: vào mùa hè không đi dép  trong nhà, về mùa đông thì không đi dép trong nhà ra ngoài sân; không khạc nhổ  lung tung, khi ho phải biết che miệng.  Giáo dục trẻ biết bảo vệ trường lớp luôn luôn sạch sẽ: tham gia làm vệ  sinh trong sân trường, nhặt lá cây để  vào nơi quy định, sau khi hoạt động giáo  dục xong cần biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngay ngắn vào giá góc...  Trẻ miền núi thường không được sự  quan tâm của bố  mẹ nên trước khi  đến lớp trẻ cần chủ  động yêu cầu bố  mẹ  thay quần áo, rửa tay chân, lau mặt  mũi sạch sẽ. Trước giờ  trả  trẻ cô tổ  chức cho trẻ lau mặt, rửa chân tay, cô chải tóc,  sửa sang lại quần áo cho trẻ.... Trong lớp số trẻ người Kinh và một số trẻ dân tộc Vân Kiều có kiến thức  kỹ  năng tốt tôi đã phân công kèm cặp những cháu yếu. bằng cách khi tổ  chức  cho trẻ  rửa tay, lau mặt tôi đã phân công các cháu này đứng gần các cháu yếu,   phát hiện những thao tác của bạn chưa đúng, những hành vi chưa tốt thì nhắc  nhỡ hoặc trao đổi cùng cô để kết hợp giúp bạn thao tác tốt hơn.     Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh giáo dục vệ  sinh cho trẻ  khi  ở   nhà:     Để  việc chăm sóc, giáo dục vệ  sinh trẻ  đem lại hiệu quả  cao, công tác  phối hợp với phụ huynh đóng vai trò hết sức quan trọng. Qua những lúc đón trả  trẻ, những buổi họp phụ huynh, tôi đã tuyên truyền với phụ huynh về  tầm quan  trọng  của  công tác  vệ  sinh. Thông qua các buổi họp tôi đã hướng dẫn phụ  huynh thường xuyên tổ chức cho trẻ rửa tay bằng xà phòng, lau mặt, tắm, giặt,  gội đầu nhằm phòng tránh bệnh tật.  Tranh thủ  thời gian tôi đã tìm về  nhà một số  phụ  huynh hướng dẫn cho  họ về  cách rửa tay, lau mặt thực hiện trình tự   theo 6 bước, các thời điểm để  16
  17. thực hiện lau mặt, rửa tay, tắm gội. giặt quần áo cho trẻ để phụ huynh nắm rõ  và có kiến thức tổ  chức cho trẻ  khi  ở  nhà. Phổ  biến những bệnh thường gặp   đối với trẻ, những dịch bệnh thường hay xảy ra giúp phụ huynh biết thực hiện   vệ  sinh cá nhân, vệ  sinh môi trường sạch sẽ  để  phòng tránh các bệnh truyền  nhiễm cho trẻ  từ  đó việc phối hợp giữa phụ  huynh và cô có sự  thống nhất từ  nhà đến trường. Tuyên truyền với phụ huynh thông qua góc tuyên truyền của lớp: Để  lôi cuốn sự  chú ý của phụ  huynh thì nội dung góc tuyên truyền phải  thiết thực,  phong phú, phải thay đổi thường xuyên. Do trình độ  học vấn của  phụ huynh ở đây chưa cao nên các nội dung tuyên truyền được đánh máy vi tính,  viết bằng cở chữ to (16­18) giúp phụ  huynh dễ đọc kết hợp với tranh ảnh hấp  dẫn, đẹp; hình ảnh ngộ nghĩnh….gây sự chú ý cho phụ huynh        Vào những lúc đón và trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về những vấn đề  mà trẻ  còn hạn chế: Trẻ  không có thói quen rửa tay sau khi đi vệ  sinh, khi tay  bẩn, rửa mặt không đúng quy trình, chưa mạnh dạn trao đổi với cô khi có nhu  cầu đi vệ sinh ….  Nhắc nhỡ  phụ  huynh hàng ngày vệ  sinh cho trẻ  sạch sẽ khi  ở  nhà cũng  như  khi đưa trẻ đến trường; thường xuyên thay và giặt áo quần cho trẻ, không  nên cho trẻ  mặc áo quần bẩn,  ẩm  ướt, thường xuyên phơi nắng đồ  dùng và  quần áo của trẻ để tránh bệnh tật. Hàng ngày, phải tắm gội cho trẻ, nhất là về  mùa hè, mùa đông có nước  ấm để  cho trẻ  dùng . Hằng tuần nên cắt móng tay,  móng chân cho trẻ.     Trên cơ thể của trẻ bộ phận răng miệng cũng rất quan trọng, răng miệng  cũng  ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.  Hầu hết các cháu dân tộc đều không  được đánh răng chính vì thế tuyên truyền với phụ huynh tập cho trẻ đánh răng   hằng ngày nhất là vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng trước khi ngủ dậy. Ngoài việc đánh răng phụ  huynh có thể  cho trẻ  ngậm nước muối loãng  giúp sát khuẩn miệng và vệ sinh tai, mũi họng .... 17
  18. Hướng dẫn phụ huynh tham gia công tác vệ sinh môi trường, nhà cửa, đồ  dùng sinh hoạt hằng ngày nhằm tránh dịch bệnh có thể xảy ra.  Đưa trẻ tiêm chủng mở rộng đầy đủ và đúng lịch theo quy định của y tế. Ngoài việc hướng dẫn và tuyên truyền về công tác vệ  sinh chăm sóc sức   khỏe, phòng chống bệnh tật cho trẻ tôi còn chia sẻ  với gia đình trẻ  về  cách tổ  chức cuộc sống gia đình, hướng dẫn cho phụ  huynh biết cần mua một số  vật   dụng cần thiết phục vụ công tác vệ sinh như: xô, chậu, xà phòng, nước xả, dầu  gội đầu...; mua một số đồ dùng phục vụ sinh hoạt gia đình như: soong, nồi, bát,  thìa,  chăn  màn, chiếu,  dày  dép, quần  áo...; biết  quan tâm,  thường  xuyên trò  chuyện với trẻ, nắm được đặc điểm tính cách, khả năng và nhu cầu của trẻ để  từ đó phối hợp với giáo viên chăm sóc, nuôi dạy cho tốt.  Nhờ  áp dụng các giải pháp trên đến nay lớp tôi đã có kết quả đáng phấn   khởi. Kết quả đạt được:  Nội dung Tổng  Kết quả Đạt Không đạt số trẻ SL % SL % Kỹ năng lau mặt 19 16 84 3 16 Ký năng rữa tay 19 17 89 2 10,5 Kỹ năng tự phục vụ 19 17 89 2 10,5 Số trẻ SDD thể thấp còi 19 16 84 3 16 Số trẻ SDD thể cân nặng 19 18 95 1 5,3 Bệnh ngoài da 19 17 89 2 10,5   Phần III. Phần  kết luận: Giáo dục vệ  sinh cho trẻ  là nhiệm vụ  rất cần thiết đối với  mọi người  đặc biệt ngành học Mầm non. Thông qua giáo dục vệ  sinh giúp trẻ  phát triển   toàn diện  về  thể  chất, nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm và hình thành  những hành vi văn minh, phát triển nhân cách con người mới cho trẻ.      18
  19.     Trong cuộc sống hằng ngày việc giữ  gìn vệ  sinh thân thể  cho trẻ  không  những chỉ dừng lại  ở mức chấp hành những yêu cầu, quy định về giáo dục vệ  sinh, mà còn thể hiện mối quan hệ, tình cảm giữa con người với con người. Bởi  thông qua  việc thực hiện các  hoạt động và thao tác  vệ  sinh  mà thể  hiện tính  nhân văn sâu sắc, tình người cao cả; Những thói quen tốt, những hành vi văn  minh cô giáo trang bị từ hôm nay sẻ là hành trang theo trẻ trong suốt cuộc đời. Bằng cử  chỉ  hành động nhẹ  nhàng mỗi khi cô giáo thực hiện các hoạt  động  vệ  sinh trẻ  sẻ  cảm nhận được tình cảm, sự  yêu thương vô vàn của cô  giáo dành cho nó, nó càng tự tin hơn, yên tâm hơn khi mỗi ngày bên cô giáo. Giữ  gìn vệ  sinh cơ  thể  sạch sẽ  giúp trẻ  luôn có thể  lực  khỏe mạnh, có  sức chống đở bệnh tật, hạn chế suy dinh dưỡng. Trẻ khỏe mạnh, ít ốm đau là  niềm vui, nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình và toàn xã hội.  Tuy nhiên,  muốn trẻ  luôn giữ  gìn vệ  sinh cơ  thể  sạch sẽ  thì người lớn  đặc biệt là cô giáo và bố  mẹ  là người cần  hướng dẫn cho trẻ  nắm vững kỹ  năng, kiến thức khoa học và thực hiện đúng quy trình, thao tác thành thạo, nắm  được các thời điểm cần thực hiện vệ sinh cá nhân cho mình. Dạy cho trẻ  có ý  thức và nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ  sinh cá nhân. Rèn  luyện cho trẻ ý thức tự làm một số hoạt động phục vụ và tự bảo vệ mình.      Giáo dục vệ sinh cho trẻ ở trường sẽ giúp phụ huynh nâng cao nhận thức  về  tầm quan trọng của giáo dục mầm non, có ý thức trách nhiệm đối với trẻ,  quan tâm chăm sóc và vệ sinh cho con em mình sạch sẽ. Tôn trọng, cảm thông  với công việc của giáo viên, từ  đó nâng cao trách nhiệm đối với nhà trường và  giáo viên. Công việc hàng ngày của giáo viên mầm non tuy không nặng nhọc nhưng  vô cùng vất vả. Ngoài việc tổ  chức các hoạt động giáo dục, hoạt động chăm  sóc vệ sinh cũng chiếm một thời lượng công việc khá lớn, một số hoạt động có  thời điểm rõ ràng như  lau mặt, rửa tay trước khi ăn nhưng có nhiều hoạt động  xen lẫn với các hoạt động khác và xảy ra bất ngờ ngoài mong muốn nên người   giáo viên phải biết sắp xếp các hoạt động một cách khoa học, hợp lý, xử lý các  19
  20. tình huống một cách kịp thời; có đôi mắt tinh tường để quan sát tất cả các cháu   trong lớp, có đầu óc phán đoán nhanh, có tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát; có sự  phối hợp với các giáo viên khác một cách linh hoạt có như  thế  mới hoàn thành   tốt nhiệm vụ.  3.2. Những kiến nghị, đề xuất Đề  nghị  lãnh đạo ngành và cán bộ  quản lý giáo dục mầm non tiếp tục  góp ý chân thành vào bản Sáng kiến kinh nghiệm; tạo điều kiện để bản thân tôi  được học hỏi thêm chị  em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều   kinh nghiệm góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và  giáo dục trẻ. Với sự nổ lực của bản thân nên đã đạt được kết quả  ban đầu song Sáng  kiến kinh nghiệm này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính  mong sự  đóng góp ý kiến giúp đỡ  của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học của   Nhà   trường   và   Hội   đồng   khoa   học   của   ngành   để   cho   bản   Sáng   kiến   kinh  nghiệm này được hoàn thiện hơn, không những có khả  năng áp dụng trong   phạm vi toàn trường và còn vươn đến các đơn vị mầm non thuộc vùng núi, vùng  sâu, vùng xa, nơi biên giới./.                                                                                         20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2