intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng ở trường Mầm non trên địa bàn huyện Bình Xuyên – Tỉnh Vĩnh Phúc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

86
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến đưa ra các giải pháp để giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ bản thân, đồng thời tạo ra môi trường giáo dục giúp trẻ hình thành những thói quen tốt trong sinh hoạt thường ngày, trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh. Bản thân giáo viên và đồng nghiệp có thêm kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ trải nghiệm cuộc sống, biết cách xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động. kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng ở trường Mầm non trên địa bàn huyện Bình Xuyên – Tỉnh Vĩnh Phúc

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN  ­ Tên sáng kiến: Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ  cho trẻ nhà trẻ  24­ 36 tháng ở trường Mầm non trên địa bàn huyện  Bình Xuyên – Tỉnh Vĩnh Phúc. ­ Tác giả: Chu Thị Dung ­ Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiện Kế ­ Huyện Bình Xuyên –  Tỉnh Vĩnh Phúc ­ Chức vụ: Giáo Viên. ­ Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm. Thiện Kế, năm 2019
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên a) Tác giả sáng kiến: Chu Thị Dung ­ Ngày tháng năm sinh:  22/12/1985                          Nam, nữ: Nữ. ­ Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiện Kế. ­ Chức danh: Giáo Viên ­ Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non. ­ Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến : Không. b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  Chu Thị Dung. c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả  bản chất của sáng kiến;  các thông tin cần được bảo mật (nếu có): ­ Tên sáng kiến: Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ  nhà trẻ  24­ 36 tháng ở trường Mầm non trên địa bàn huyện Bình Xuyên – Tỉnh   Vĩnh Phúc. ­ Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng  ở  các trường Mầm Non trên toàn huyện Bình Xuyên trong lĩnh  vực giáo dục kỹ năng ở các trường Mầm Non. ­ Mô tả sáng kiến: + Về nội dung của sáng kiến:  Sáng kiến đưa ra các giải pháp để giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ  bản thân, đồng thời tạo ra môi trường giáo dục giúp trẻ  hình thành những thói  quen tốt trong sinh hoạt thường ngày, trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với  bản thân và những người xung quanh. Bản thân giáo viên và đồng nghiệp có  thêm kinh nghiệm trong việc tổ  chức các hoạt động cho trẻ  trải nghiệm cuộc   sống, biết cách xây dựng môi trường  cho trẻ  hoạt động. kỹ  năng tổ  chức các  hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ Một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 –   36 tháng tuổi trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Phúc. Giải pháp 1: Tìm hiểu về thực trạng  Để  nắm bắt được khả  năng tự  phục vụ  của trẻ  tới đâu thì ngay từ  đầu  năm học tôi đã khảo sát khả  năng tự  phục vụ  của tất cả  các trẻ  trong lớp và   khảo sát đều kiện cơ sở vật chất để đưa ra giải pháp giúp trẻ hình thành những   kỹ năng tự phục vụ cho phù hợp cụ thể như sau: * Về học sinh. STT Nội dung Số lượng  Kết quả  Ghi chú
  3. học sinh khảo sát Đ ạt Tỉ lệ Chưa  Tỉ lệ % đ ạt % 1 ­ Thói quen vệ  sinh (Nói với  người lớn khi có nhu cầu ăn,  15 5 33 10 67 ngủ,   vệ   sinh….   Đi   vệ   sinh  đúng nơi qui định ) 2 ­   Thói   quen   trong   ăn   uống  (Tự xúc cơm ăn, tự lấy nước  15 6 40 9 60 uống..) 3 ­   Tự   cất   đồ   dùng   cá   nhân  15 5 33 10 76 (Cất ba lô, cất dép..) 4 ­ Tự cởi, tháo dép.. 15 3 20 12 80 5 ­ Lấy ghế, bê ghế  ngồi vào  bàn và cất ghế đúng nơi quy  15 7 47 8 53 định. * Về cơ sở vật chất  ­  Có tương đối đủ đồ dùng cho cô và trẻ hoạt động.   ­ Nhà trường trang bị  khá đầy đủ  đồ  dùng như: giá dép, tủ  đồ  dùng cá  nhân cho trẻ, tủ đựng cốc, cốc inoc, thùng có vòi cho trẻ rửa tay dưới vòi nước   chảy, giá dép vvv… ­  Có ti vi đầu đĩa , nhà trường có bộ máy chiếu, máy tính. ­ Có nhà vệ sinh riêng cho trẻ. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch hình thành kỹ năng cho trẻ phù hợp  với độ tuổi theo từng tháng. Xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm học là kim chỉ nam cho sự phấn đấu  để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ năm học vì nó gắn liền giữa khoa hoạc với   thực tiễn. Căn cứ  vào nhiệm vụ  năm học phòng giáo dục và kế  hoạch của nhà  trường, căn cứ vào kết quả đạt được và những mặt tồn tại trong quá trình chăm  sóc, giáo dục trẻ, căn cứ  vào tình hình thực tế trẻ   ở  lớp về nhận thức của trẻ,   về kỹ năng của từng trẻ và điều kiện cơ sở vật chất của lớp mình phụ trách, từ  đó xây dựng kế hoạch rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ của lớp sao cho phù hợp   với sự phát triển của trẻ.  Tháng 9+ tháng 10: Do trẻ mới đi học nên tôi đã lựa chọn những kỹ năng   đơn giản, dễ  thực hiện và cũng là nhu cầu tất yếu của trẻ  để  đưa vào hình   thành và rèn luyện tạo cho trẻ thành thói quen dần dần trở thành kỹ năng, để trẻ  tự phục vụ không cần sự giúp đỡ của người lớn như là kỹ năng đi vệ sinh đúng  nơi quy định, cách đi dép, cởi dép, cất lên giá, bê ghế  ngồi vào bàn, cách cầm 
  4. thìa .... Đồng thời khi đưa ra các nội dung thì cũng có biện pháp để dạy trẻ thực  hiện các nội dung đó cho phù hợp với kỹ năng của từng trẻ.     Ví dụ: Kỹ năng tập ngồi bô khi có nhu cầu:  Thường xuyên hỏi trẻ  về nhu cầu vệ sinh hoặc cứ 2 tiếng lại cho trẻ đi   vệ sinh 1 lần cũng như khi cho trẻ đi cô vừa làm vừa nói cho trẻ cách tụt quần,   cách ngồi bô sao cho không bị  ngã, đứng lên sao cho không bị  đổ  bô…. Hướng   dẫn tận tình,cởi mở  …. Ví dụ: Kỹ năng tập cầm thìa xúc ăn.  ­ Việc tập cho trẻ tự xúc ăn là rất cần thiết bởi đa số  trẻ  ở gia đình đều  được ông bà bố  mẹ bón cho trẻ nên trẻ chưa có kĩ năng tự  xúc ăn. Cô cần bao   quát tìm hiểu từng trẻ và có biện pháp riêng. Với những trẻ chưa biết xúc ăn, cô   hướng dẫn trẻ  cách cầm thìa và tập cho trẻ  tự  xúc ăn. Cách cầm bát, thìa khi   xúc ăn để cơm không rơi vãi, xúc thìa vơi, gọn miếng. Sang tháng 11 + tháng 12: Do trẻ đã quen với môi trường  ở  trường mầm   non trẻ  bắt đầu hòa đồng với các bạn với cô giáo, trẻ  đã tích cực hơn với các   hoạt động  ở  trường nên kỹ  năng tôi đưa vào kế  hoạch là kỹ  năng: Tự  cất, lấy   ba lô; kỹ  năng cất và lấy đồ  dùng đúng nơi quy định, rèn trẻ  biết tự  lấy cốc  uống nước; tự lấy, cất gối khi đi ngủ … Ví dụ: Rèn trẻ biết tự cất ba lô vào ngăn tủ của mình. Cho trẻ nhận biết ba lô và ký hiệu ngăn tủ của mình yêu cầu trẻ cất ba lô   vào đúng ngăn tủ của mình và đóng cánh tủ lại… Tháng 1 + tháng 2:  Dạy trẻ biết cách cầm thìa xúc hạt;  Rèn kĩ năng cởi,  mặc quần áo, đi tất, đi giày; Tiếp tục rèn kĩ năng tự xúc ăn cho trẻ. Tháng 3 + tháng 4+ Tháng 5: Lúc này trẻ đã có được 1 số kỹ năng tự phục vụ  những việc đơn giản, để chuẩn bị cho trẻ chuyển sang lớp lớn hơn tôi đưa lựa  chọn các kỹ năng khó hơn  để dạy trẻ: Làm quen một số thao tác đơn giản khi  lau mặt; Dạy trẻ biết cách cài khuy áo; Tập nói với người lớn khi có nhu cầu  ăn, ngủ, vệ sinh… Ví dụ: Làm quen một số thao tác đơn giản khi lau mặt Việc rèn kĩ năng đòi hỏi phải thường xuyên và liên tục vì vậy cô phải   tiếp tục cho trẻ thực hành kĩ năng bằng cách;Cô lồng ghép vào các giờ học hoặc   tổ chức riêng vào buổi chiều. Cô hỏi trẻ cach làm rồi làm mẫu củng cố và giải   thích cho trẻ cách thực hiện, hướng dẫn từng trẻ khi trẻ chưa biết làm.Cô nhắc   trẻ  tự  lấy khăn và rửa mặt theo quy trình các bước rửa mặt, kết hợp giáo dục   trẻ rửa mặt khi mặt bẩn, sau khi ăn để mặt sạch sẽ. Nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ. Giải pháp 3:  Xây dựng tiết dạy hình thành một số  kỹ  năng tự  phục  vụ cho trẻ. Kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng là những kỹ năng mới trẻ  chưa được học, với những tiết dạy này tôi thường có kế  hoạch tổ  chức vào 
  5. hoạt động chiều, kỹ năng đã học tôi cho trẻ củng cố qua các hoạt động khác và  mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ: Khi dạy trẻ cách sử dụng thìa: ­ Xác định mục đích: Rèn trẻ  cách sử  dụng thìa từ  đó để  trẻ  được trải  nghiệm trong thực tế mỗi bữa cơm  ở nhà trẻ có thói quen tự xúc cơm ăn, đồng  thời giúp cho đôi tay của trẻ khéo léo hơn hoạt bát hơn khi tham gia vào các hoạt   động. ­ Ổn định gây hứng thú: Cho trẻ hát cùng cô bài hát “Đồ dùng nhà bé”. + Hỏi trẻ nhà con có những đồ dùng gì sử dụng khi ăn? (Bát, thìa…) + Cô giới thiệu thêm đĩa,đũa. ­ Vào bài:  Cho 1 trẻ lên thực hành cầm thìa. ­ Cho trẻ xem video cảnh gia đình đang ăn cơm, bạn nhỏ đang cầm thìa  xúc  cơm ăn. Hỏi trẻ cả nhà đang làm gì? Bạn đang làm gì? Tay cầm thìa các con đâu   giơ lên cho cô xem. ­ Cô thực hiện mẫu cách sử dụng thìa  + Lần 1:  Không giải thích. + Cô đặt trên bàn 2 cái bát, 1 cái bát to, 1 cái bát nhỏ, hoặc 2 bát bằng nhau   trong 2 cái bát có 1cái bát có 2 thìa và hạt bằng len … + Lần 2: Cô giải thích cách sử  dụng: Cô cầm thìa bằng tay phải, luồn 4  ngón tay ở dưới cán thìa, ngón cái giữ ở trên cán thìa, xúc hạt từ bát nhỏ sang bát  to, cứ như vậy cô xúc hết số hạt trong bát nhỏ sang bát to và ngược lại. ­ Cho trẻ cầm thìa xúc trên không. Nhắc nhở trẻ cầm thìa bằng tay phải,   cầm 1/3 cán thìa. ­ Trẻ thực hiện: Tôi cho trẻ ngồi theo 3 nhóm, mỗi nhóm 5 trẻ và 1 bộ đồ  dùng, giáo viên hướng dẫn lần lượt từng trẻ thực hiện xúc hạt vào bát hạt bằng  len, bằng gỗ, bằng nhựa. ­ Nhận xét sau khi trẻ chơi. Lưu ý: Khi trẻ thực hiện cần liệt kê các bước mà trẻ gặp khó khăn. Phân  tích những khó khăn trẻ gặp phải của từng thao tác và giới thiệu lại các kĩ thuật   cần có để thực hiện đúng thao tác đó. Ví dụ: Xúc đồ từ giữa bát chứ không phải   gạt đồ từ mép bát xuống giữa bát. Cách làm này làm cho việc xúc bằng thìa dễ  dàng hơn. ­ Chuẩn bị  đồ  dùng, thiết bị: chọn đồ  dùng phù hợp với trẻ. Ví dụ: Chọn  thìa vừa với tay của trẻ, chọn bát có thành trơn và miệng khum vào + Ví dụ: Khi dạy trẻ tập đi giầy, cởi giầy, cất lên giá. Ổn định lớp: Cô tập trung trẻ  ngồi bên cô, cô sáng tác một đoạn truyện  ngắn kể về lợi ích của đôi dép. Câu truyện có tên “Giày và dép”: Cô có 2 rối tay   và 1 giá dép tự  tạo: Rối giày và dép, và 1 bác giá dép. Câu truyện kể  là “trong 
  6. ngôi   nhà   lọ   có   2   anh   em   sống   chung   với   nhau...giày   và   dép   tranh   luận   với  nhau...bác giá dép nói giầy và dép đều quan trọng như nhau...giày và dép không  bao giờ cãi nhau nữa và luôn là bạn thân thiết của các con”. ­ Cho trẻ xem 1 đoạn video cách lấy dép, đi dép, cởi dép, cất dép lên giá. ­ Giày và dép là đồ dùng để làm gì? Đi xong các con cất ở đâu? ­ Giới thiệu bài dạy: Cách đi giày, cởi giầy và cất lên giá. ­ Cô thực hiện mẫu lần 1: không giải thích. + Lần 2 cô vừa thực hiện vừa giải thích: chú ý mũi dép để  quay ra phía  ngoài. ­ Cho 1 trẻ lên thực hiện. ­ Cho nhóm trẻ lên thực hiện. ­ Cả lớp thực hiện mỗi trẻ 1 đôi dép, trẻ  đi dép cởi dép và từng nhóm trẻ  lên cất dép. Kết thúc: Hát minh họa bài hát “Đôi dép xinh” => Giáo dục trẻ. * Tương tự với các kỹ  năng khác giáo viên lựa chọn phương pháp và hình  thức tổ chức khác nhau tạo hứng thú cho trẻ và cho trẻ được trải nghiệm. ­ Qua tiết dạy tôi thấy trẻ rất hứng thú và tích cực tham gia hoạt động cùng   cô, cùng bạn trong nhóm lớp và đạt được mục tiêu đề ra. Giải pháp 4: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động. ­ Vai trò của giáo viên trong giáo dục kỹ  năng tự  phục vụ  cho trẻ  nhà trẻ  rất lớn, đó là tạo ra cho trẻ một không gian đủ  rộng, dành cho trẻ một khoảng  thời gian nhất định để  giúp trẻ  thỏa mãn nhu cầu được làm, khẳng định bản   thân. Vai trò tiếp theo của giáo viên là chuẩn bị  đồ  dùng, đồ  chơi như  tủ, giá ,   kệ, đồ chơi.... vừa tầm với và khả năng di chuyển của trẻ. Các tủ, giá, kệ  cần   được đặt  ở một vị trí nhất định tránh làm phân tán sự  tập chung chú ý của trẻ,  các đồ  dùng trong sinh hoạt cần được bổ  sung đủ  số  lượng cho trẻ  trong các   hoạt động an toàn và thẩm mỹ  với màu sắc tươi sáng, trang nhã, sắp xếp gọn  gàng ngăn lắp,sạch sẽ để thu hút trẻ đến với các hoạt động.  ­ Đối với góc rèn kỹ năng tôi sưu tập bộ ảnh chụp được trang trí trên mảng   tường, bổ  sung thêm một số  đồ  dùng để  dạy trẻ  như: Bát thìa, hột hạt, thùng   đựng rác bằng hộp nhựa, giá dép nhựa, dép tự  tạo, ghế  cho trẻ  ngồi đúng kích  cỡ, giá dép được bổ sung ký hiệu cho từng trẻ. ­ Tạo môi trường có tính giáo dục cho trẻ   ở  góc xem truyện tranh, góc lễ  giáo. Ví dụ: Sáng tác truyện “Bé nói lời hay, bé làm việc tốt” Câu chuyện có nội dung giáo dục lễ  giáo cho trẻ xem.....Cô đàm thoại với  trẻ về nội dung trong một bức tranh, đặt câu hỏi cho trẻ trả lời: Bạn nhỏ đang  
  7. khoanh tay chào ai? Bạn làm được những việc gì? (Bê ghế, cất ghế, cất dép, tự  lấy nước uống....) Trẻ xem sách, quan sát những hình ảnh trẻ tự  nhìn thấy việc làm và hành  vi của bạn nhỏ trong tranh trẻ phân biệt được việc làm tốt để học tập. Trên giá dép của trẻ tôi đã sưu tập ảnh các đồ vật, con vật gần gũi với trẻ  để gắn trên giá dép làm ký hiệu cho trẻ khi cất, lấy đúng dép của mình. Tất cả những đồ  dùng ở  các góc tôi đều sắp xếp gọn gàng ngăn lắp, lau  sạch sẽ. Không những thế tôi còn chú ý vị trí để  giá dép, giá úp cốc dễ lấy, dễ  cất để  trẻ  dễ  dàng thực hiện. Lớp có thùng đựng rác để  khi thấy rác trẻ  biết  nhặt bỏ  vào thùng tạo điều kiện cho trẻ  có thói quen tốt ngay từ  nhỏ  cứ  như  vậy tạo cho trẻ có kỹ năng trong giai đoạn, lứa tuổi sau. Giải pháp 5. Rèn kỹ  năng tự  phục vụ  cho trẻ   ở  mọi lúc, mọi nơi và   các hoạt động khác với các hình thức khác nhau. ­ Đối với trẻ mầm non đặc biệt lứa tuổi từ 24 – 36 tháng trẻ thường hoạt  động theo thói quen bản năng, vì vậy vai trò của người lớn hết sức quan trọng ta   phải theo sát trẻ mọi lúc, mọi nơi trong hoạt động và đưa ra biện pháp giáo dục  tích cực và hiệu quả  nhất. Trẻ nhỏ  hay nhớ lại hay quên, do đó để  hình thành   thói quen tốt về  giáo dục kỹ  năng tự  phục vụ  đơn giản cho trẻ, thì giáo viên   luôn luôn cho trẻ trải nghiệm ở các hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi, điều chỉnh  nhận xét và uốn nắn kịp thời. * Hoạt động trò chuyện: Qua thực tế  giảng dạy tôi thấy nội dung rèn  trẻ  thói quen hành vi đạo đức tốt nhất là trong hoạt động dạy trẻ  kể  truyện.   Thông qua lời văn hay, tình tiết hấp dẫn mỗi câu truyện đều chứa đựng một nội  dung mà hàm trong đó nhằm để  giáo dục kỹ  năng tự  phục vụ  cho trẻ  qua đó  lồng ghép giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ. Ví dụ: Câu chuyện “Bé làm được việc gì” Tôi sưu tầm sáng tác kể cho trẻ  nghe: Chuyện kể về gia đình bạn Bi, một hôm mẹ bạn Bi ốm, bạn Bi ở nhà với   mẹ, khi mẹ khát nước nói: Bi lấy cho mẹ xin cốc nước. Bé Bi nhanh nhảu đáp –   Dạ  và lấy nước cho mẹ, Bi đưa nước cho mẹ  bằng 2 tay và nói. Con mời mẹ  uống nước. Mẹ  Bi tươi cười xoa đầu Bi và khen Bi ngoan quá. Sau đó bạn Bi  cất cốc vào đúng nơi qui định. Qua nội dung câu chuyện tôi cho trẻ  nhận xét về  hành động của bạn Bi  thông qua đó tôi giáo dục trẻ  nói năng biết thưa gửi, nghe lời người khác, đưa  cho người lớn biết đưa bằng 2 tay. Từ đó rèn trẻ kỹ năng  “Tập lấy nước uống” dần dần cho trẻ khéo léo tự  lấy nước uống khi thấy mình khát và biết cất cốc vào tủ đúng quy định. Ví dụ: Khi dạy trẻ trong giờ học phát triển vận động Như chúng ta biết, thực tế trẻ biết làm được một số việc tự phục vụ đơn  giản nhưng để rèn trẻ luôn có thói quen thì phải trải qua một quá trình được rèn   luyện trải nghiệm, từ  đó trẻ  mới hình thành nề  nếp thói quen mà người lớn 
  8. không cần phải nhắc, thông qua các hoạt động hàng ngày trẻ được trải nghiệm,   trẻ có thói quen nề nếp tốt. Tre biết lấy đồ dùng để tập bài tập phát triển chung   trẻ tập xong biết cất vào rổ. Trẻ biết xếp hàng chờ đến lượt khi chơi tập, vận   động đi trong đường hẹp có mang vật trên tay  ở  bài vận động này tôi sử  dụng  đồ  dùng tự  tạo để  dạy trẻ, hấp dẫn đối với trẻ, trẻ  rất thích và hứng thú tập   nhưng trẻ vẫn thực hiện tốt “Kỹ năng chờ đến lượt”. Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động chiều. Cô kể cho trẻ nghe chuyện “Cháu chào ông ạ”. Tôi dùng tranh truyện để  dạy trẻ. Trẻ nhìn thấy hình ảnh bạn “Gà con”, “Chim bạc má”, “Bạn cóc vàng”  khoanh tay chào ông. Qua hình  ảnh đó cô cho trẻ  đóng vai thể  hiện hành động   nhân vật: Trẻ bắt trước hành động khoanh tay chào ông. Qua lời kể và hành động khoanh tay chào của trẻ giúp trẻ hình thành thói  quen lễ  phép với mọi người và trẻ  vận dụng vào thực tế. Đến lớp trẻ  biết   khoanh tay chào cô, về  nhà biết khoanh tay chào ông, chào bà, dần dần hình  thành cho trẻ thói quen đến lớp trẻ biết khoanh tay chào cô giáo và về nhà biết   chào mọi người. * Trong các giờ  đón – Trả  trẻ: Đây là thời gian cho giáo viên vừa trao  đổi với phụ huynh vừa quan sát trẻ, uốn nắn cho trẻ có thói quen từ đó giúp phụ  huynh cùng giáo dục cho trẻ thêm ở nhà để rèn trẻ thói quen lấy dép, đi dép, cất   dep lên giá gọn gàng đúng qui định,đúng ký hiệu của mình. Ví dụ: Giờ  đón trẻ: Tôi giáo dục trẻ  cất dép đúng nơi quy định rồi vào   lớp, đây cũng là lúc cô uốn nắn các con cách cởi dép, cất dép lên giá theo đúng  ký hiệu của mình, dần dần trẻ  nhớ  ký hiệu của mình và tự  cất đúng chỗ  gọn  gàng ngay ngắn. Tôi thường xuyên để  ý nhìn thấy cháu Long khi đến lớp hay  quên không cất dép mà đi dép vào trong lớp. Có những lần mẹ cất dép hộ  con.  Tôi nhẹ nhàng gọi cháu lại và nói: Long ơi! Cô đố Long các bạn cất dép ở đâu?  Bằng câu hỏi nhẹ  nhàng như  vậy Long đã nhận ra lỗi và nhanh nhẹn   chạy ra cất dép vào giá sau mới vào lớp, tôi nhắc trẻ khi cất dép quay mũi dép ra   phía ngoài cho đẹp, 2 ­3 lần như vậy sẽ tạo cho trẻ được thói quen để dép đúng   nơi qui định. Trên giá dép đều có ký hiệu và tên trẻ để trẻ để đúng ký hiệu của  mình và có tên trẻ để phụ huynh biết ký hiệu của con mình là gì. Và tôi tiếp tục cho trẻ  làm quen với cách tự  cất ba lô vào ngăn tủ  của  mình rồi vào lớp, qua việc làm trên tôi thấy trẻ khéo léo hơn, tự tin không quấy   lũng mẹ nữa. * Giờ hoạt động ngoài trời. Tôi cho trẻ quan sát lá vàng rơi.Tôi nhặt lá và nói con cùng nhặt lá với cô   để cho vào thùng rác nào.Trẻ làm theo tôi và tôi tiếp tục hỏi trẻ khi lá vàng rơi   con nhặt lá để vào đâu? Trẻ trả lời “Con để vào thùng rác ạ”. Bằng hành động  như  vậy nhiều lần tạo cho trẻ có thói quen nề  nếp, thói quen biết nhặt rác để  vào thùng lồng ghép giáo dục hành vi bảo vệ môi trường.
  9. Tăng cường cho trẻ  được hoạt động  ở  ngoài sân trường cũng góp phần  không nhỏ  để hình thành thói quen nề nếp phục vụ cho bản thân một cách tích  cực, không những thế còn tạo cho trẻ được giao lưu với nhau, tiếp xúc với thiên  nhiên giúp trẻ khỏe mạnh vui khi đến trường lớp. Ví dụ:Trẻ vui chơi hoạt động ngoài trời :  Khi tổ chức tôi thường đan xen các trò chơi dân gian tạo cho trẻ được giao  lưu tiếp xúc gần gũi với nhau, trẻ chơi một cách thoải mái đoàn kết thân nhau  hơn, từ đó trẻ có thái độ hành vi ứng xử tốt với bạn trong lớp. * Trong giờ hoạt động chiều tôi tiếp tục tổ chức rèn trẻ  nề nếp thói   quen rửa mặt rửa tay cho trẻ: Rèn trẻ có thói quen vệ sinh cá nhân, biết rửa tay, gữi gìn quần áo sạch sẽ.   Trong khi rửa tay, mặt cho trẻ cô trò chuyện giáo dục để  trẻ  hiểu. Rèn trẻ  thói  quen vệ sinh trước khi ăn, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh. Trẻ được rèn trẻ qua  các ngày, tuần tháng và cuối năm học dần dần trẻ có thói quen nề  nếp vệ  sinh  cá nhân sạch sẽ và có kỹ năng tự phục vụ một số công việc đơn giản phù hợp   với trẻ.rèn trẻ biết xếp hàng chờ đến lượt, biết tự lau tay sau khi rửa.. Đến giai đoạn cuối độ tuổi nhà trẻ tôi cho trẻ làm quen với các thao tác rửa  tay, qua đó tôi rèn trẻ nề nếp thói quen biết xếp hàng chờ đến lượt và biết cất  dép đúng nơi quy định. *Chuẩn bị trước giờ ăn:  Vào đầu năm trẻ  chưa biết cách bê ghế, chưa có thói quen tự  bê ghế  vào   bàn ngồi ăn mà thường cô phải lấy hộ trẻ, nhưng qua một thời gian tôi áp dụng   vào thực tế cho trẻ tự bê ghế vào bàn, cứ như vậy hàng ngày trẻ đã có thói quen  rất tốt, qua nhiều lần trẻ  có nề  nếp tự  bê ghế  vào bàn ngồi ăn mà giáo viên  không cần phải làm hộ  trẻ. Qua việc làm này tôi thấy trẻ  rất thích được làm   công việc tự phục vụ cho mình, trẻ tự tin hơn,mạnh dạn, khéo léo hơn trong các   hoạt động khác. Trong giờ  ăn cô thường xuyên nhắc nhở  trẻ  khi ăn không nói chuyện, khi   ho biết dùng tay che miệng, ăn hết xuất, nhai kỹ gọn miệng, biết nhặt cơm rơi   vào đĩa, lau tay bằng khăn  ẩm, ăn xong để  bát thìa đúng nơi quy định. Biết bê  ghế cất đúng nơi và tập lau miệng, lấy nước uống sau khi ăn. Cứ  như  vậy qua các hoạt động tôi uốn nắn giáo dục rèn kỹ  năng tự  phục  vụ  cho và trẻ thói quen hành vi tốt trẻ rất thích và phấn khởi làm một số công   việc tự phục vụ , tạo cho trẻ hình thành phát triển kỹ năng sống trong giai đoạn  sau. Giải pháp 6: Phối kết hợp với phụ  huynh trong việc chăm sóc giáo  dục trẻ  Thời gian trẻ đến lớp với cô nhiều xong còn hơn một nửa thời gian trẻ  ở  nhà với ông bà cha mẹ. Chính vì vậy việc phối hợp với phụ huynh để  rèn một   số kỹ năng tự phục vụ và thói quen hành vi đạo đức cho trẻ là việc làm hết sức 
  10. quan trọng vì sự  phối hợp giưa gia đình và nhà trường có mối quan hệ  hỗ  trợ  lẫn nhau. Ngay từ  đầu buổi họp phụ  huynh đầu năm tôi đã đưa ra yêu cầu chỉ  tiêu  cần đạt đối với trẻ  nhà trẻ  24­36 tháng cho phụ  huynh nắm bắt về  cân nặng  chiều cao, những kiến thức cơ bản trẻ đạt được và một số kỹ năng tự phục vụ  đối với trẻ 24­36 tháng.   Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kết quả học tập thái độ hành vi  và  một số  kỹ  năng tự  phục vụ  của từng trẻ đến phụ  huynh trong các giờ  đón   trả trẻ. Với trẻ có biểu hiện tốt về hành vi thói quen như cháu: Bình, Bảo ..để phụ  huynh động viên trẻ  phát huy thói quen tốt cho trẻ . Lớp tôi có cháu Long, Thịnh, Giang.. chưa biết tự cất dép đúng quy định mà  mẹ hay làm hộ con vì vậy vào buổi chiều trả trẻ hoặc giờ đón tôi phối hợp với   phụ huynh uốn nắn trẻ cùng giáo viên giúp trẻ có thói quen kỹ năng tự phục vụ  tốt hơn.   Trong lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền cập nhật các nội dung giáo dục   hành vi tốt qua hình ảnh nội dung bài thơ, câu chuyện và một số  nội dung mời  phụ  huynh tham gia chương trình học của trẻ  để  phụ  huynh biết cùng cô giáo  dục trẻ thêm. Mời phụ huynh tham dự các tiết học của trẻ. + Về khả năng áp dụng của sáng kiến:  Do sáng kiến kinh nghiệm đã đưa ra được một số  giải pháp hình thành kỹ  năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ phù hợp với tình hình thực tế của lớp, của nhà  trường và của địa phương. Giải quyết được vấn đề  tồn tại trong quá trình hình  thành, rèn luyện kỹ năng tự  phục vụ cho trẻ. Vì vậy, đã thu hút được trẻ  tham   gia vào hoạt động, đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non  theo kịp sự phát triển của xã hội.  ­  Lợi ích thiết thực:  Trước khi thực hiện đề tài này tôi thấy trẻ khoảng 90 % chưa có kĩ năng  tự phục vụ, các công việc hầu như giáo viên phải giúp trẻ trực tiếp. Qua việc áp dụng các giải pháp trên vào hoạt động sinh hoạt hàng ngày,  tôi thấy trẻ đã có kĩ năng tự phục vụ đạt trên 80%. Trẻ đã biết tự xúc ăn, ăn gọn   gàng, biết tự rửa tay bằng xà phòng sạch sẽ, biết lấy khăn và rửa mặt khi mặt   bẩn, biết tự  lấy cất gối, ngủ đúng giờ, biết cất xếp ghế  gọn gàng, đi vệ  sinh  đúng nơi quy định theo nhu cầu. Các hoạt động giáo dục kĩ năng tự phục vụ này cũng có thể dùng cho trẻ  lớp lớn hơn nhằm củng cố và rèn luyện thường xuyên cho trẻ. Sáng kiến kinh nghiệm có thể  áp dụng đại trà trong các cơ  sở  giáo dục  mầm non nói chung và trong các trường Mầm non trên địa bàn huyện Bình   Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đều rất hiệu quả.
  11. Các hình thức tổ  chức rèn luyện kĩ năng tự  phục vụ  này rất phù hợp để  các cơ  sở  giáo dục mầm non và các cô giáo mầm non tham khảo, giúp trẻ  của  lớp, của trường mình có các kĩ năng cơ bản và phát triển tốt nhất. Tuy nhiên, do   thời gian nghiên cứu có hạn, trẻ  còn nhỏ  nên tôi chưa thiết kế  được nhiều các  hoạt   động  và các  hoạt   động  còn  ở   mức  đơn giản, rất mong  các  bạn  đồng  nghiệp tham khảo và cho ý kiến đóng góp để  đề  tài của tôi được hoàn thiện   hơn. ­ Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng   giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau: + So sánh lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng sáng kiến. Một là: Kết quả trên học sinh Do sáng kiến kinh nghiệm đã đưa ra được một số  giải pháp hình thành kỹ  năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ phù hợp với tình hình thực tế của lớp, của nhà  trường và của địa phương. Giải quyết được vấn đề  tồn tại trong quá trình hình  thành, rèn luyện kỹ năng tự  phục vụ cho trẻ. Vì vậy, đã thu hút được trẻ  tham   gia vào hoạt động, đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non  theo kịp sự phát triển của xã hội.  Trước khi thực hiện đề tài này tôi thấy trẻ khoảng 90 % chưa có kĩ năng tự  phục vụ, các công việc hầu như giáo viên phải giúp trẻ trực tiếp. Qua một năm cho trẻ rèn luyện kỹ năng tự phục vụ theo giải pháp trên tôi  nhận thấy trẻ trở nên thông minh nhanh nhẹn rõ rệt, cháu tích cực và chủ động  trong mọi hoạt động tìm tòi và khám phá thế  giới xung quanh, có nề  nếp thói  quen hành vi đạo đức tốt, có kỹ năng tự phục vụ đơn giản phù hợp theo độ tuổi  đạt được mục tiêu đề ra.  Bên cạnh đó ngôn ngữ  trẻ trở  nên mạch lạc hơn, trẻ  mạnh dạn và tự  tin   hơn trong giao tiếp rất nhiều, thói quen lao động tự  phục vụ   ở  trẻ  tốt hơn.  Không những thế ở trẻ còn hình thành những phẩm chất tốt như khả năng phối  hợp hoạt động tốt với các bạn, khả  năng tự  kiềm chế, nhường nhịn bạn, biết   chơi cùng bạn và giúp đỡ  bạn. Đó là niềm vui không chỉ  dành cho các bậc cha  mẹ mà còn là niền vui lớn của cô giáo mầm non, của những người làm công tác   giáo dục. *So sánh một số kết quả trước và sau khi áp dụng: TT Nội  Trư Sau  So sánh dun ớc  khi  g  khi  áp  khả áp  dụn o sát dụn g g
  12. Giả SL Đ ạt % CĐ % Đạt % CĐ % Tăng m 1 ­   Thói   quen   vệ  sinh   (Nói   với  người lớn khi có  nhu cầu ăn, ngủ,  vệ  sinh…. Đi vệ  15 5 33 10 67 14 93 1 7 60 0 sinh đúng nơi qui  định ) 2 ­ Thói quen trong  ăn uống (Tự  xúc  15 6 40 9 60 13 87 2 13 47    0 cơm   ăn,   tự   lấy  nước uống..) 3 ­ Tự cất đồ dùng  cá   nhân   (Cất   ba  15 5 33 10 76 14 93 1 7 60   0 lô, cất dép..) 4 ­   Tự   cởi,   tháo  15 3 20 12 80 13 87 1 13 67   0 dép.. 5 ­   Lấy   ghế,   bê  ghế   ngồi   vào  15 7 47 8 53 15 100 0 0 53    0 bàn   và   cất   ghế  đúng   nơi   quy  định. Từ   những   kết   quả  nêu  trên  cho   thấy   rằng   tỷ   lệ   trẻ   có   thói   quen   vệ  sinh,thói quen trong ăn uống, thói quen trong việc tự phục vụ   tăng lên đáng kể.  Như vậy, Giáo dục  kĩ năng tự phục vụ cho trẻ ở trường Mầm Non là việc làm  hết sức quan trọng vì nó sẽ  giúp cho trẻ  hình thành nhân cách, phẩm chất đạo  đức và tính tự lập sau này đồng thời  hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân   cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Hai là: Về  giáo viên. ­ Bản thân tôi ngày càng hoàn thiện hơn về kỹ năng tổ chức các hoạt động  chăm sóc giáo dục trẻ.Tiết kiệm được thời gian, thay đổi được lề lối làm việc,   mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy.  ­ Nắm chắc nội dung, phương pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. ­ Có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động và truyền tải thông   tin tới trẻ. ­ Có ý thức trách nhiệm trong công việc.    ­ Giáo viên học hỏi được một số  biện pháp hình thành và rèn luyện kỹ  năng tự phục vụ cho trẻ.
  13. Ba là: Về phụ huynh học sinh. ­ Phụ  huynh yên tâm gửi con  ở  trường mà không cần phải mất thêm chi   phí để cho trẻ tham gia các lớp học kỹ năng sống ở các trung tâm thiếu nhi… + Lợi ích kinh tế: Sau khi áp dụng các giải pháp trên đã thu được một số lợi ích kinh tế như: ­ Giảm được số tiền mua vật liệu làm đồ dùng đồ chơi. ­ Giảm được thời gian cô phải trực tiếp giảng dạy mà qua các cách tổ  chức trên thì trẻ được tự mình khám phá tìm hiểu ghi nhớ. ­ Giảm áp lực qua việc học cho trẻ bởi trẻ học theo cách “học mà chơi,  chơi bằng học” + Số tiền làm lợi: ­ Giảm được số  tiền đi học thêm, giảm được số  tiền phải đi lại do chi  phí cho xăng xe…. bởi: Qua việc áp dụng  giải pháp trên thì trẻ  đã hình thành được kỹ  năng tự  phục vụ ngay ở trên lớp và được phụ huynh phối hợp rèn luyện thêm ở nhà.  VD: Chi phí cho 1 lớp học kỹ năng sống là 100.000đ/ trẻ/tháng, mà lớp tôi   có 15 học sinh . Vây 15 học sinh x 100.000đ = 1.500.000đ/tháng. + Mang lại hiệu quả kinh tế:  Sáng kiến kinh nghiệm đã giảm chi phí về đầu tư cơ sở vật chất – trang   thiết bị đồng thời vẫn nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ, làm cho tre dần   dần hình thành được những thói quen, kỹ năng tự phục vụ bản thân.  + Mang lại lợi ích xã hội:   Giúp cho trẻ hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức và tính tự lập sau  này. Lao động tự phục vụ bản thân là một trong những kỹ năng quan trọng thúc  đẩy trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Đây là cơ hội giúp trẻ thông minh và  trưởng thành hơn trong cuộc sống.  ­ Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không d) Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến;  ­  Về cơ sở vật chất ­ trang thiết bị: Có đủ cơ sở vật chất ­ trang thiết bị ­  Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ hoạt động.  ­ Có kế hoạch thực hiện phù hợp với độ tuổi, phù hợp theo chủ đề.  ­ Tìm tòi đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn tạo sự thu hút đối với trẻ. ­ Nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề, cụ thể, rõ ràng. ­ Biết kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú cho trẻ, khen chê  đúng mức, động viên khích lệ kịp thời.
  14. ­ Về giáo viên: Có kiến thức về giáo dục Mầm non, biết giải quyết hợp lý  các tình huống sư phạm, có trình độ chuyên môn, yêu nghề, mến trẻ. ­ Học sinh: Học sinh có sức khỏe tốt, đi học chuyên cần.  ­ Phụ huynh học sinh: Luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh, nhờ  phụ  huynh hỗ trợ đồ  dùng, đồ  chơi để  hoạt động của cô và trẻ  ngày càng hấp  dẫn, phong phú hơn. đ) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ  quan,   tổ  chức nào hoặc những người tham gia tổ  chức áp dụng sáng kiến lần   đầu (nếu có);  Đề tài giáo dục kỹ năng sống và đặc biệt là lĩnh vực rèn luyện kỹ năng tự  phục vụ  cho trẻ  luôn luôn đồng hành với mọi hoạt động sống của con người,  của trẻ  nên sáng kiến có thể áp dụng trong tất cả các lĩnh vực giáo dục và trong  một số lĩnh vực khác cũng rất hiệu quả. Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng tại các trường, lớp mầm non trên   địa bàn huyện Bình xuyên và tỉnh Vĩnh Phúc. Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận   sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự  thật, không xâm phạm quyền sở  hữu trí tuệ  của người khác và hoàn toàn chịu  trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.   Thiện Kế,  ngày 28 tháng 01 năm 2019 NGƯỜI VIẾT ĐƠN         (Ký và ghi rõ họ tên)                                                                                   Chu Thị Dung
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2