intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A thông qua các hoạt động ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

15
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A thông qua các hoạt động ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa" nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ, giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt để thích ứng với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A thông qua các hoạt động ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24 - 36 THÁNG TUỔI A THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG Ở TRƯỜNG MẦM NON HẢI LONG, HUYỆN NHƯ THANH, TỈNH THANH HÓA Họ và tên: Trương Thị Hồng Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hải Long SKKN thuộc môn: Chuyên môn THANH HÓA NĂM 2022
  2. MỤC LỤC MỤC LỤC.................................................................................................................................. 2 1. MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1 1.1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................... 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM................................................................................2 2.1. Cơ sở lý luận.......................................................................................................................2 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến...............................................................3 2.2.1. Thuận lợi:........................................................................................................................ 3 2.2.2. Khó khăn: ....................................................................................................................... 4 2.2.3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học.....................................................................4 2.3. Các giải pháp thực hiện......................................................................................................5 2.3.1. Giải pháp1: Đa dạng các hình thức đón trẻ nhằm giúp trẻ nhanh thích nghi với trường, lớp học từ đó hình thành một số nề nếp thói quen tốt cho trẻ trong giao tiếp như: Chào hỏi, xưng hô với cô, với các bạn và với những người xung quanh.. .................................................5 2.3.2. Giải pháp 2: Tạo môi trường lớp học thu hút sự chú ý và sưu tầm đồ dùng đồ chơi kích thích trẻ tham gia hoạt động qua đó hình thành và rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ. ..........8 2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho trẻ nhiều hoạt động phong phú ở trường lớp theo chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ nhằm hình thành, rèn luyện một số nề nếp thói quen. .........................10 2.3.3.1. Tổ chức các hoạt động chơi tập, vui chơi thông qua đó để hình thành rèn luyện một số nề nếp thói quen cho trẻ như: Chú ý lắng nghe, giơ tay khi muốn nói, ngồi đúng bàn ghế của mình, sử dụng đúng các đồ dùng đồ chơi.......................................................................... 10 2.4. Kết quả đạt được.............................................................................................................. 18 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ......................................................................................................19 3.1. Kết luận............................................................................................................................ 19 3.2 Kiến nghị........................................................................................................................... 20 3. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới.................1
  3. 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người có ích, những con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Đảng ta là giáo dục mầm non phải làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, con người biết lao động làm chủ tập thể, đó chính là yếu tố phát triển toàn diện nhân cách trẻ mầm non. [1] Xuất phát từ mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cụ thể với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1.[2] Trẻ mầm non đặc biệt trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn đầu tiên của việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Trong khi đó cơ thể trẻ còn non nớt, tâm sinh lý phát triển mạnh, dẫn đến việc trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý và thể chất [3]. Vì vậy muốn hình thành cho trẻ nề nếp thói quen ngay từ ngày đầu tiên đến trường không phải là chuyện đơn giản. Chính vì vậy cô giáo mầm non phải làm thế nào để giúp trẻ cảm nhận được tình thương yêu và sự an toàn khi trẻ đến trường, lớp. Việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và rất cần thiết, thời kỳ này trẻ bắt đầu xa bố mẹ, xa người thân đến một môi trường hoàn toàn mới lạ. Chính vì vậy cô giáo phải có biện pháp giáo dục để đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay buổi ban đầu, nhằm giúp trẻ dần dần bắt nhịp vào môi trường mới, trẻ luôn cảm thấy vui, thoải mái, an toàn khi tới trường, lớp mầm non. Việc đưa trẻ vào nề nếp thói quen ban đầu rất khó khăn, vì trẻ bắt đầu rời xa bố mẹ, xa người thân đến môi trường mới lạ hoàn toàn, nên khi mới đến trường, lớp trẻ thường sợ hãi, mọi thứ xung quanh đều lạ lẫm đối với trẻ, trẻ né tránh bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, không tham gia vào mọi hoạt động, dường như không hoà nhập vào tập thể, đặc biệt trong tình hình hiện nay dịch bệnh covit 19 diễn biến phức tạp, một số phụ huynh thường xuyên cho con nghĩ học, rồi trẻ bị mắc covit nên cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ khi trẻ trở lại trường học. Là cô giáo trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ làm thế nào để giúp trẻ quen với cô giáo, quen với bạn bè và nhanh chóng có nề nếp thói quen bước vào học tập cùng cô và các bạn. Hiểu được tầm quan trọng đó tôi rất băn khoăn, suy nghĩ và tôi đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A thông qua các hoạt động ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa" với mong muốn trẻ có nề nếp thói quen tốt, thích nghi với môi trường giáo dục ở trường lớp mầm non đặc biệt là với nhóm trẻ nhà trẻ.
  4. 2 1.2. Mục đích nghiên cứu. Nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ, giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt để thích ứng với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Một số giải pháp nhằm rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A thông qua các hoạt động ở trường mầm non Hải Long, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng các phương pháp sau: * Phương pháp nghiên cứu lý luận: + Phương pháp đọc tài liệu + Phương pháp phân tích tổng hợp Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra + Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn + Phương pháp trực quan minh họa + Phương pháp thực nghiệm sư phạm + Phương pháp thống kê + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài . 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý trẻ nhà trẻ đang trên đà phát triển với tốc độ nhanh, cơ thể trẻ còn yếu ớt, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể chưa hoàn thiện. Sự phát triển tâm lý và sinh lý có mối quan hệ mật thiết và thống nhất chặt chẽ. Trong khi đó nhu cầu cảm giác vận động, nhu cầu giao tiếp với người lớn, nhu cầu xúc cảm, tình cảm và nhu cầu tiếp xúc với đồ vật của trẻ rất mạnh. Như vậy người lớn có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em (sự phát triển của trẻ em phụ thuộc rất nhiều vào người lớn). [1] Chính vì vậy cô giáo mầm non phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, nắm được đặc điểm về thể chất, tâm lý của trẻ cũng như thói quen, hành vi đạo đức mà trẻ đã có... Từ đó lựa chọn những biện pháp tác động sư phạm phù hợp, nhằm giúp trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm thẩm mĩ và thích ứng với cuộc sống, với môi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non.[2] Hoạt động của trẻ ở trường mầm non được phát triển từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và có mục đích, có kế hoạch. Cô giáo có vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục trẻ, phương pháp giáo dục của cô giáo mầm non phải phù hợp với nhu cầu phát triển, nhận thức, hứng thú của trẻ, tạo cho trẻ có cảm
  5. 3 giác thoải mái, hứng thú và an toàn. Vì thế nghệ thuật của cô giáo mầm non là biết hoà nhập vào thế giới của trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ, cô giáo phải biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí vui tươi với thái độ cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ vào hoạt động, có như thế trẻ mới dễ dàng nghe theo sự hướng dẫn của cô. Thông qua hoạt động giáo dục trẻ có những hiểu biết nhất định, có đủ điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển tốt nhân cách cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ bước vào học lớp tiếp theo tốt hơn. Chính vì vậy việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ mầm non phải được quan tâm chú trọng thường xuyên. Cô giáo mầm non không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sự phạm, đổi mới phương pháp giáo dục, thường xuyên tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để có biện pháp giáo dục cho phù hợp. Nề nếp thói quen không phải ngẫu nhiên hay trẻ đến trường học một vài ngày là có. Mà thói quen đó là cả một quá trình rèn luyện mới hình thành được. Chính vì vậy bản thân tôi cần phải kiên trì, chịu khó và có nhiều thủ thuật, phương pháp để giáo dục, lôi cuốn trẻ vào hoạt động một cách nề nếp. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến Năm học 2021 - 2022 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi A, với tổng số 25 cháu trong đó có 15 cháu nam và 10 cháu nữ. Đa số trẻ là con em địa phương và chưa qua nhà trẻ, bước đầu tách rời bố mẹ nên khi mới đến lớp trẻ chưa quen cô và các bạn để hoà nhập ngay vào tập thể. Vì vậy mà việc đưa các trẻ vào nề nếp ngay buổi ban đầu là rất quan trọng và cần thiết. Bước đầu thực hiện tôi gặp thuận lợi và khó khăn sau: 2.2.1. Thuận lợi: * Đối với nhà trường: Trường mầm non Hải Long đạt chuẩn Quốc gia mức độ II nên về cơ sở vật chất nhà trường, các trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và rèn luyện nề nếp cho trẻ nói riêng tương đối đầy đủ. *Đối với giáo viên: Bản thân được tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề do phòng giáo dục tổ chức, nhiệt tình, yêu nghề và có nhiều năm liên tục phụ trách nhóm trẻ, nên cũng có một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, cũng như việc hình thành nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ tạo được niềm tin với nhà trường và phụ huynh. *Đối với trẻ: Đa số trẻ đi học đúng độ tuổi, sức khỏe bình thường, khả năng nhận thức của trẻ về nề nếp thói quen đồng đều *Đối với phụ huynh: Cha mẹ trẻ nhiệt tình phối hợp với trường lớp trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nói riêng như: Quan tâm đến trẻ và luôn luôn đưa trẻ đi học đều, đúng giờ, cũng như tham gia đầy đủ các hoạt động, các khoản ủng hộ cho nhà trường và lớp đầy đủ.
  6. 4 2.2.2. Khó khăn: *Đối với trẻ: - Đa số trẻ đầu năm chỉ nói được 1 đến 2 từ đơn giản như: Ạ, vâng, bố, mẹ, bà, cô…hay khi dạy trẻ đọc thơ thì trẻ chỉ đọc được từ cuối cùng. Có những trẻ là lần đầu tiên trẻ đến môi trường mới nên các trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin nên khó khăn cho trẻ giao tiếp hàng ngày. - Nhiều trẻ theo thói quen ở nhà không có tổ chức kỉ luật, đến lớp không chào hỏi ai mặc dù trẻ đó được cha mẹ và cô giáo nhắc nhở. Mỗi sáng đến lớp phụ huynh hay mang theo quà bánh, ngoài việc khiến trẻ em ăn uống không theo giờ quy định mà còn làm cho lớp học mất vệ sinh, vì trẻ không bỏ rác đúng nơi quy định. - Do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biết phức tạp, trẻ nhỏ chưa được tiêm phòng vacxin nên một số phụ huynh cho con nghỉ học, khi các cháu đi học trở lại, ngày đầu tiên cháu khóc nhiều, không có nề nếp thói quen tốt trong sinh hoạt ảnh hưởng đến các bạn cùng lớp và cô phải mất nhiều thời gian để dỗ dành và giáo dục lại những nề nếp thói quen cho trẻ mà trước đó đã được cô giáo dục cho trẻ nhưng trẻ đã quên trong thời gian nghỉ học. *Đối với phụ huynh: Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng trong việc giáo dục nề nếp cho con em mình ở tuổi mầm non, nên thường phó mặc cho giáo viên ở trường không quan tâm đến nề nếp thói quen của trẻ. Đa số phụ huynh ở lớp tôi đều làm nghề buôn bán, công nhân, nông nghiệp nên đi cả ngày, họ thường ít có thời gian bên con, trò chuyện với con, chỉ bảo cho con những nề nếp thói quen tốt, xấu. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ. 2.2.3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học. Từ thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tôi hiểu được vai trò và tầm quan trọng của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Bước vào đầu năm học tôi tiến hành khảo sát với kết quả như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 9/2021) Đạt Chưa đạt Số TT Nội Dung Số Số trẻ Tỷ lệ % Tỷ lệ % trẻ trẻ 1 Nề nếp thói quen trong giao tiếp như: Chào hỏi, xưng hô với cô, với bạn, 25 5 20% 20 80% và với những người xung quanh. 2 Nề nếp thói quen trong học tập, vui chơi như: Trẻ biết chú ý lắng nghe, giơ 25 6 24% 19 76% tay khi muốn nói, ngồi đúng ghế của mình….
  7. 5 3 Nề nếp thói quen trong lao động tự phục vụ: tự đi ngồi vào bàn, tự cất ba lô 25 5 20% 20 80% đúng nơi quy định, tự đi dép, tự đi rửa tay khi tay bẩn… Với kết quả chất lượng qua khảo sát trên tôi thấy kết quả chưa cao, trẻ chưa có thói quen nề nếp cụ thể như sau: Trẻ nề nếp thói quen trong học tập, vui chơi như: Trẻ biết chú ý lắng nghe, giơ tay khi muốn nói, ngồi đúng ghế của mình….mới chỉ đạt 24 % và trẻ Nề nếp thói quen trong lao động tự phục vụ: tự đi ngồi vào bàn, tự cất ba lô đúng nơi quy định, tự đi dép…chỉ đạt 20 %, trẻ có Nề nếp thói quen trong giao tiếp như: Chào hỏi, xưng hô với cô, với bạn, và với những người xung quanh của trẻ chỉ đạ 20%t.Từ kết quả trên tôi suy nghĩ và tìm ra một số giải pháp sau: 2.3. Các giải pháp thực hiện 2.3.1. Giải pháp1: Đa dạng các hình thức đón trẻ nhằm giúp trẻ nhanh thích nghi với trường, lớp học từ đó hình thành một số nề nếp thói quen tốt cho trẻ trong giao tiếp như: Chào hỏi, xưng hô với cô, với các bạn và với những người xung quanh.. Ngay ở những ngày đầu tiên khi mới bước vào trường mầm non trẻ không chỉ được tham gia vào các hoạt động vui chơi và học tập, bên cạnh đó là các hoạt động rèn luyện và trải nghiệm. Trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ thì việc giáo dục nề nếp thói quen cho trẻ là một việc vô cùng quan trọng. Vì những thói quen tốt sẽ giúp cho cơ thể trẻ phát triển tốt hơn, khỏe mạnh hơn, hình thành những thói quen cơ bản để giúp trẻ trở thành những công dân hoàn thiện trong tương lai. Có thể nói giờ đón trẻ là khoảng thời gian mà cô giáo hình thành cho trẻ thói quen, hành vi văn minh một cách nhanh nhất. Đa số trẻ lớp tôi năm nay là năm đầu tiên đi học, lạ trường, lạ lớp, lạ cô, lạ bạn...trẻ chưa có một thói quen nào. Những ngày đầu trẻ tỏ ra rất rụt rè, đến lớp chưa biết chào cô, chào người thân. Đa dạng các hình thức đón trẻ để tạo cho trẻ hứng thú hơn, qua đó rèn nề nếp và thói quen cho trẻ tốt hơn . a. Đa dạng các kiểu chào khi trẻ tới lớp. Như vậy việc rèn nề nếp cho trẻ thông qua giờ đón trẻ là rất cần thiết khi trẻ đến lớp tôi có thể chủ động chào trẻ, chào phụ huynh và nhắc trẻ chào. Khi nghe thấy cô giáo chào mình và nhắc mình chào, trẻ nhận thấy mình cũng phải chào lại cô giáo. Có những trẻ những lần đầu còn rụt rè, nhút nhát chưa chịu chào cô giáo nhưng sau vài lần kiên trì trẻ đã biết chào cô, chào người thân khi đến lớp. Mỗi khi trẻ chào cô, chào người thân tôi đều khích lệ trẻ. Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ đến thì tôi chủ động chào trẻ, chào phụ huynh và nhắc trẻ chào: "Bạn Tuệ Lâm chào cô và chào bố đi nào!". Khi nghe thấy cô giáo chào mình và nhắc mình chào, trẻ nhận thấy mình cũng phải chào lại cô giáo. Mặt khác mỗi khi trẻ chào cô, chào người thân tôi đều khích lệ trẻ: "Tuệ Lâm giỏi quá, ngoan quá!". Từ đó trẻ thấy việc làm của mình được mọi
  8. 6 người khen ngợi trẻ sẽ tích cực hơn và dần dần "chào hỏi" đã trở thành thói quen của trẻ. Để thu hút, gây hứng thú cho trẻ biết “chào hỏi” thì ngay từ đầu năm học tôi đã làm các hình ảnh kí hiệu chào được trang trí bắt mắt ngay cửa lớp ở góc đón trẻ. Với mỗi kí hiệu là một kiểu chào khác nhau để cho trẻ được lựa chọn. Khi tới lớp trẻ có thể chọn một trong các kí hiệu để chào cô và chào người thân. Ngoài ra tôi cho trẻ tự chọn màn chào hỏi bằng cách tự mình lựa chọn các kí hiệu mà tôi trang trí ở góc đón trẻ theo cảm xúc và được trẻ đáp lại bằng những hành động, để mỗi ngày đến trường là một ngày vui, không khí tươi vui mỗi buổi sáng. Thông qua đó trẻ hình thành nề nếp thói quen một cách hiệu quả nhất. Ví dụ: Khi trẻ chọn trái tim thì cô và cháu chào nhau bằng cách ôm nhau, nếu trẻ chọn bàn tay thì cô cháu chào nhau bằng cách đập tay với nhau, hay trẻ chọn nắm tay thì cô cháu chào nhau bằng cách cô cháu mình cùng chạm tay nhau. Có thể nói với trẻ mới đi học thì có những trẻ chưa thể nhận biết để thực hiện được ngay hoặc còn rụt rè. Có những trẻ mạnh dạn như: Minh Đức, Minh Khang, Tuấn Đạt… thì chọn ngay biểu tưởng và thực hiện chào cùng cô; nhưng cũng có một số trẻ như: Tuệ Lâm, Gia Bảo… còn rụt rè, lưỡng lự mãi. Bên cạnh đó có một số mạnh dạn hơn thì mỗi ngày lựa chọn một cách thức chào hỏi khác nhau như: Hải Đăng, Diệp Chi, Quang Thắng,….. Nhưng cũng có trẻ ngày nào cũng chỉ chọn đi chọn lại một biểu tượng cố định theo sở thích như trẻ: Thanh Doanh, Tuấn Kiệt,… Đây là một cách chào hỏi rất mới mẻ, thân thiện và cho trẻ cảm hứng đầu giờ sáng đi học. Việc vào lớp vui vẻ, phấn chấn có thể giúp con tiếp thu các kiến thức, hoạt động tốt hơn. Qua việc sử dụng hình ảnh các kí hiệu chào vào việc chào hỏi trong giờ đón trẻ, tôi thấy trẻ trong lớp rất hứng thú và tích cực đi học, trẻ đi học chuyên cần hơn, ngoan hơn và đặc biệt nề nếp thói quen của trẻ ngày càng tốt hơn. Trẻ biết được khi tới lớp phải chào cô giáo, chào người thân một cách vui vẻ và không cần phải nhắc nhở. Song song với các kiểu chào bằng các biểu tượng, tôi tiếp tục thay đổi sang hình thức khác để tránh nhàm chán như nhảy một điệu nhảy, hát một bài hát, một bài thơ,… về chào trước khi vào lớp. Ngoài các bài thơ, bài hát quen thuộc của lứa tuổi tôi còn sáng tác thêm các bài thơ, các lời bài hát mới để thay đổi giúp trẻ hứng thú và tích cực hơn. Ví dụ: Trước khi vào lớp trẻ đọc một bài thơ mà cô sáng tác về lời chào sau đó vào lớp: Lời chào Sáng em đến lớp Cô cười thật tươi Con chào cô giáo Con chào mẹ yêu Con đi vào lớp Chơi thật là vui Hay bài thơ: Đi học
  9. 7 Đi học Em đi học Với cô giáo Với bạn yêu Nhiều đồ chơi Chơi thích quá Hay từ những bài đồng giao cũ tôi cũng có thể sáng tác ra những lời mới phù hợp với trẻ giúp trẻ hứng thú hơn khi đến lớp như trò chơi: Dung dăng dung dẻ, nu na nu nống, thả đỉa ba ba, chi chi chành chành… Với trò chơi dân gian “ Dung dăng dung dẻ” truước khi vào lớp tôi cho trẻ đọc như sau: Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đi đến trường rồi Con chào cô ạ Con chào mẹ yêu Chiều mẹ đón nhé. Hay trò chơi dân gian “ Thả đỉa ba ba” tôi lại cho trẻ chơi như sau: Thả đỉa ba ba Mẹ đưa em ra Lớp học nhà trẻ Khoanh tay chào cô Và chào các bạn Cùng nhau đoàn kết Chơi thật là vui. Mục đích của các trò chơi dân gian này tôi không chỉ muốn hình thành nề nếp thói quen cho trẻ mà khi trẻ đến lớp trẻ biết chào cô và chào các bạn, biết chơi cùng các bạn qua đó trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. Chính vì vậy, việc làm mới các kiểu chào từ các bài thơ do cô sáng tác và làm mới các trò chơi dân gian từ nền của các bài đồng dao cũ nhằm giúp trẻ thích nghi với trường, lớp học từ đó hình thành nề nếp thói quen. Với việc thay đổi các hình thức chào trong giờ đón trẻ tạo cho trẻ hứng thú hơn, tạo bầu không khí vui vẻ ấm cúng khi trẻ tới lớp nhà trẻ đặc biệt qua đó rèn nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn để trẻ đi học không còn khóc. b. Lồng ghép một số trò chơi vận động vào giờ đón trẻ. Như chúng ta đã biết, trò chơi vận động là một loại hình luôn thu hút trẻ hứng thú tham gia bởi qua đó trẻ được vận động, được vui chơi, được thể hiện khả năng của chính mình. Trò chơi vận động vừa là hình thức vui chơi, nghỉ ngơi tích cực vừa là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện. Nó không chỉ thỏa mãn nhu cầu vận động của trẻ mà nó góp phần nâng cao nhận thức, phát triển các giác quan và tăng cường thể lực, giúp trẻ phát huy tính tích cực, tinh thần tập thể biết chia sẻ với bạn bè, có lòng dũng cảm, tính kiên trì và kỷ luật tốt. Mà nó còn giúp trẻ góp phần nâng cao nhận thức, giúp trẻ phát triển ngôn
  10. 8 ngữ và trí tưởng tượng. Không những thế nó còn giúp trẻ trở về trạng thái cân bằng, tăng cường lực sống đem lại sự vui vẻ, thoải mái cho trẻ. Chính vì thế nên tôi đã đưa một số trò chơi vận động vào hoạt động đón trẻ nhằm tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ đến trường và chuẩn bị tâm thế cho các hoạt động khác trong ngày. Ví dụ: Ngay từ đầu năm tôi đã trang trí hàng lang trước lớp với các trò chơi vận động. Tôi thay đổi các trò chơi, cũng như hình ảnh cho phù hợp với từng chủ đề. Ở chủ đề: Bé và các bạn tôi sẽ trang trí hành lang với các bằng các bàn chân ngộ nghĩnh thành trò chơi vận động: Đi ngang bước dồn. Hay ở chủ đề: Đồ chơi của bé tôi trang trí các hình học với những màu sắc khác nhau tạo thành trò chơi vận động đi trong đường hẹp. Bằng việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động, đã giúp trẻ được thỏa mãn nhu cầu vui chơi, khi trẻ chơi trẻ rất thoải mái, tự tin và tự nhiên. Còn với những trẻ nhút nhát hòa đồng hơn với các bạn trong lớp, do đó trò chơi thu hút số lượng trẻ tham gia nhiều hơn, rèn cho trẻ có tính tập thể cao trong các hoạt động. Đồng thời kích thích sự ham thích đi học ở trẻ giúp trẻ thích nghi với trường, lớp học từ đó hình thành nề nếp cho trẻ. Qua việc áp dụng giải pháp: Đa dạng các hình thức đón trẻ nhằm giúp trẻ thích nghi với trường, lớp học từ đó hình thành nề nếp cho trẻ tôi thấy trẻ trong lớp hứng thú, tích cực hơn, không còn tình trạng trẻ nhút nhát, khóc khi tới lớp. Không những thế trẻ còn ham thích đi học, đến lớp biết chào cô và các bạn bước đầu trẻ đã đi vào nề nếp thói quen của lớp. 2.3.2. Giải pháp 2: Tạo môi trường lớp học thu hút sự chú ý và sưu tầm đồ dùng đồ chơi kích thích trẻ tham gia hoạt động qua đó hình thành và rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ. a. Tạo nên môi trường lớp học để thu hút sự chú ý của trẻ. Xây dựng môi trường giáo dục để thu hút sự chú ý trẻ nhà trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng có ý nghĩa đối với sự phát triển của trẻ. Môi trường giáo dục tạo cho trẻ cảm thấy thích thú, vui tươi ấm áp và an toàn đối với trẻ. Môi trường giáo dục là những hình ảnh, những đồ chơi mới lạ, hấp dẫn để lôi cuốn trẻ vào hoạt động một cách tích cực hơn. Môi trường đó phải đảm bảo an toàn về thể chất và tâm lý cho trẻ, nó vừa có tác dụng giáo dục, vừa có tính thẩm mỹ và phải được xây dựng xuyên suốt trong quá trình học. Vì vậy tôi xác định trong lớp học không thể thiếu những góc chơi của bé, để lớp học thêm lôi cuốn trẻ tôi phải tạo nên một môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh, những người bạn thân yêu... Trường lớp có đẹp, đồ chơi nhiều, cô tổ chức nhiều trò chơi thú vị, nhiều hoạt động hấp dấn thì trẻ sẽ chăm chỉ, hứng thú đến trường, lớp. Lâu nay ở lớp tôi thường trang trí với các mảng, các loại dạ màu, xốp màu với màu sắc rất sặc sỡ, đôi khi làm lóa mắt của trẻ, hình ảnh còn mang tính áp đặt, bố trí góc chơi chưa phù hợp, khai thác hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì vậy tôi đã dùng những lá cây, vỏ cây khô, vỏ ngao, vỏ lạc, hoa thông, rơm dạ, mùn cưa... để trang trí làm giảm màu sắc trang trí, làm cho hình ảnh trang trí hài
  11. 9 hòa hấp dẫn hơn. Các góc chơi được bố trí phù hợp với động và tĩnh, hình ảnh trang trí phù hợp với trẻ và mang tính giáo dục cao. Ví dụ: Ở mảng chủ đề tôi trang trí mảng theo từng chủ đề khác nhau như: Ở chủ đề Những cây rau quả bổ dưỡng và những bông hoa đẹp tôi cùng trẻ tạo hình cây dừa rồi dùng vỏ ngao để làm thân cây dừa, để chủ đề thêm sinh động tôi trang trí thêm các hình ảnh các con vật bằng vải vụn, các loại xốp màu, cây xanh,… để góc chủ đề sinh động hơn. Hay ở chủ đề: “Cây và những bông hoa đẹp” tôi thay đổi mảng bằng cách trang trí bông hoa bằng hại bí để tạo hứng thú cho trẻ Còn với chủ đề Những con vật đáng yêu tôi lại thay vào đó tôi trang trí một con thỏ làm tranh chủ đề. Sau đó cùng trẻ lấy hến làm viền. Thông qua đó trẻ rất thích thú và gây sự tò mò của trẻ từ đó trẻ thêm yêu trường, yêu lớp, nề nếp dần dần tốt lên. Môi trường lớp học phong phú sẽ tạo cho trẻ cảm hứng thích đến trường lớp hơn, những mảng tường trang trí gây sự tò mò cho trẻ, những hình ảnh về con vật ngộ nghĩnh đáng yêu, màu sắc hài hòa với trẻ để góp phần giáo dục trẻ tốt hơn. Qua việc sử dụng tạo môi trường lớp học để thu hút sự chú ý của trẻ sẽ giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích cực. Đồng thời cách làm này sẽ tạo cho trẻ có những hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. b. Chuẩn bị và sưu tầm đồ dùng, đồ chơi tự tạo để kích thích trẻ tham gia hoạt động. Trong tất cả các hoạt động nói chung, thì việc rèn nề nếp qua việc chuẩn bị và sưu tầm đồ dùng, đồ chơi tự tạo để kích thích trẻ tham gia hoạt động đóng vai trò cũng rất quan trọng, nhằm góp phần nâng cao hứng thú và sự tự tin cho trẻ khi tham gia hoạt động cùng cô. Chính vì vậy muốn đưa chất lượng của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn bản thân tôi đã không ngừng cho việc sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm đồ dùng đồ chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ tuổi. Đồ dùng đồ chơi sắp xếp gọn gàng vừa tầm với trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động. Đồng thời việc chuẩn bị và sưu tầm đa dạng các đồ dùng, đồ chơi sẽ tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ. Qua đó mà nề nếp của trẻ sẽ ngày một tốt hơn. Ví dụ: Từ những chiếc mẹt bỏ đi thì tôi có thể sơn những màu khác nhau và tạo hình cho phù hợp với câu chuyện. Tiếp đó tôi dùng giấy dạ hoặc các nguyên vật liệu khác để tạo hình các con vật, cây, hoa… theo nội dung câu chuyện và dán một số hình ảnh lên mẹt (hình ảnh rời), tôi sẽ dán bằng xốp dính có thể lấy ra và dán vào dễ dàng và từ đó tôi có thể áp dụng vào kể chuyện như câu chuyện Thỏ con không vâng lời, Cây táo, Cháu chào ông ạ!… Hay chủ đề: Ngày tết và mùa xuân, thì từ những ống chỉ của thợ may, những hộp bánh hình vuông tôi có thể lấy giấy xanh lá cây bọc lại để tôi làm thành những cái giò, bánh chưng cùng trẻ chuẩn bị cho ngày tết cổ truyền. Qua
  12. 10 đây tôi muốn trẻ hiểu thêm về tết cổ truyền của người việt Nam ta trong ngày tết không thể thiếu được đó là bánh chưng và giò. Với chủ đề: Những con vật đáng yêu. Từ những cuộn len tôi có thể làm ra những con gà con, trong quá trình làm tôi vừa làm, vừa hướng trẻ cùng làm với cô. Với những con gà đã làm được tôi có thể cho trẻ hoạt động quan sát con gà, chơi các trò chơi. Chính vì cùng được làm với cô để tạo ra các đồ dùng đồ chơi nên trẻ khi vào hoạt động rất tích cực và chất lượng của hoạt động đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Không những thế, với những đồ chơi cô và trẻ tự làm đã được cô và trẻ trưng bày ở lớp học, khi trẻ đi học đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà... tôi có thể bế cháu lại những đồ chơi tôi tự tạo ra để trẻ tập trung vào những đồ chơi đó mà quên đi nổi nhớ nhà bằng cách tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào những đồ dùng tự tạo và hỏi trẻ: Cái gì đây? Cái này dùng để làm gì? Còn cái gì đây?... tý nữa cô cháu mình cùng nhau làm ra những đồ chơi này nhé. Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi tự tạo trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích hợp, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. Như vậy việc chuẩn bị và sưu tầm đồ dùng, đồ chơi để kích thích trẻ tham gia hoạt động trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó chính là yếu tố rèn nề nếp thói quen cho trẻ góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. 2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho trẻ nhiều hoạt động phong phú ở trường lớp theo chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ nhằm hình thành, rèn luyện một số nề nếp thói quen. 2.3.3.1. Tổ chức các hoạt động chơi tập, vui chơi thông qua đó để hình thành rèn luyện một số nề nếp thói quen cho trẻ như: Chú ý lắng nghe, giơ tay khi muốn nói, ngồi đúng bàn ghế của mình, sử dụng đúng các đồ dùng đồ chơi. a.Tổ chức hoạt động chơi tập có chủ định: Trẻ mầm non thường là nhanh nhớ, chóng quên. Chính vì vậy nếu như thói quen hàng ngày của trẻ mà không được thường xuyên rèn luyện nhắc nhở thì hiệu quả sẽ không cao.Trong khi đó trẻ nhà trẻ thường đi học không thường xuyên nếu trẻ nghỉ học một vài ngày đến khi đi học trẻ lại khóc nhè, không thực hiện được các nề nếp như các bạn, đây là một thử thách lớn cho cô giáo. Vì vậy tôi cần phải kiên trì chịu khó để uốn nắn, rèn luyện trẻ vào nề nếp thói quen qua hoạt động chơi tập có chủ định nhằm giúp trẻ biết tập trung trước cô, biết về chỗ ngồi học, di chuyển hình thức ngồi, đứng học theo yêu cầu của cô, biết chú ý lắng nghe cô nói và trả lời được những câu hỏi đơn giản của cô, muốn trả lời phải giơ tay thì mới có kết quả cao. Ví dụ: Ở chủ đề: “Mẹ và những người thân yêu trong gia đình bé”. Khi cô giáo kể câu chuyện: “Cháu chào ông ạ” cho trẻ nghe, trẻ ngồi chú ý lắng nghe cô kể chuyện và biết giơ tay để trả lời các câu hỏi mà cô đã đưa ra. Qua đó cô muốn giáo dục trẻ biết khoanh tay chào khi gặp người và khi đến lớp các con sẽ
  13. 11 chào cô và các bạn, trẻ ngồi học ngay ngắn, trả lời đủ câu rõ lời, khi nào cần hỏi, cần nói gì thì cháu phải giơ tay. Ví dụ: Ở chủ đề “Những con vật đáng yêu”. Khi cho trẻ vận động “ Bò trong đường hẹp” cô giáo đã chuẩn bị mô hình nhà Thỏ để cho trẻ hứng thú khi tham gia. Qua đó tôi muốn rèn nề nếp thói quen cho trẻ tính mạnh dạn tự tin, biết chời đợi đến lượt của mình. Ví dụ: Khi cho trẻ tham gia hoạt động âm nhạc thì trong mỗi chủ đề thì tôi có thể lựa chọn những bài hát khác nhau khi cho trẻ hát và nghe hát. Với chủ đề “ Mẹ và những người thân yêu trong gia đình bé” thì tôi chọn cho trẻ các bài hát như bài “Con chào bố ạ; Cháu yêu bà; cả nhà thương nhau…”, qua đây tôi muốn giáo dục cho trẻ trước và sau khi đi học về biết chào hỏi người lớn, đi học không khóc nhè để bố mẹ yên tâm đi làm, biết chờ đợi đến lượt mình để được biểu diễn. Ví dụ: Đối với hoạt động tạo hình tôi muốn giáo dục trẻ ngồi học ngay ngắn, thẳng lưng đầu không cúi sát xuống bàn qua đó tôi muốn rèn luyện cho trẻ tính kiên nhẫn để hoàn thành sản phẩm của mình trước khi cô báo hết giờ. Hình ảnh trẻ ngồi học tạo hình Bằng các các hoạt động chơi tập có chủ định để tôi giáo dục rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ với nhiều hình thức giáo dục, tạo tình huống, rèn luyện nhắc nhở để trẻ luyện tập thực hành thường xuyên và được lặp đi lặp lại nhiều lần nhằm giúp trẻ có được nề nếp thói quen tốt khi đến trường lớp mầm non. b. Tổ chức hoạt động vui chơi. Hoạt động vui chơi là một phần không thể thiếu được trong chế độ sinh hoạt một ngày. Qua hoạt động vui chơi thì việc rèn nề nếp mang lại hiệu quả cao. Nhưng làm cách nào thông qua hoạt động vui chơi giáo dục nề nếp cho trẻ? *Với hoạt động chơi ở các khu vực: Trước tiên tôi cho trẻ được quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn góc chơi của mình, chứ không phải cô giáo ép trẻ phải chơi ở khu vực này, trẻ khác phải chơi ở khu vực khác. Trẻ thực hiện một cách tự giác và cho trẻ
  14. 12 được nói ra những bất đồng hoặc ý kiến riêng của trẻ như: Kể cả khi trẻ gây ra lỗi gì đó, hoặc đang chơi ở khu vực này chạy tới khu vực khác khi thấy bạn chơi một đồ chơi mới và đẹp. Hãy cho trẻ cơ hội giải thích lý do, việc của tôi sau đó là phân tích nhẹ nhàng cho trẻ hiểu để trẻ chấp nhận mà vẫn vui vẻ. Trẻ rất muốn được tự do hoạt động mà không muốn ai nhắc nhở, nhưng trẻ chơi theo cách riêng của trẻ, có trẻ hiếu động chơi xong là phá hay không đạt đến mục đích chơi. Chính vì vậy để trẻ thực hiện các quy định, nguyên tắc là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi phải kiên trì hướng dẫn thật nhẹ nhàng, rõ ràng, cụ thể, không nên nóng vội và đặc việt là phải tham gia chơi cùng trẻ. Ví dụ: Trẻ đang chơi xếp hàng rào cho vườn rau, nhưng có những trẻ cứ muốn đưa hàng rào đi chỗ khác không cho bạn xây. Tôi nhập vai chơi cùng trẻ, Tôi nói: “Các bác xây hàng rào xong chưa?, vườn rau muốn được tươi tốt không bị gà chui vào ăn thì các bác phải xây kín nhé, nếu hở ra là gà chui vào ăn đấy”. Khi đó trẻ sẽ tự thấy cô nói là đúng và mau chóng xây kín hàng rào mà không cần suy nghĩ. Hình ảnh trẻ chơi ở các góc chơi Tập và chỉ cho trẻ biết được tên gọi từng khu vực chơi, mỗi khu vực có đồ dùng, đồ chơi và cách chơi riêng, từ đó trẻ sẽ tự lựa chọn theo ý thích của trẻ, cô nên khuyến khích trẻ thay đổi các khu vực chơi để tránh sự nhàm chán, và khi chơi với bạn không tranh dành đồ chơi của bạn, không lấy đồ chơi góc này bỏ vào khu vực khác... *Ở hoạt động chơi ngoài trời: Như chúng ta đã biết, một lợi ích quan trọng của hoạt động chơi ngoài trời là tăng cường kĩ năng giao tiếp của trẻ. Trẻ sẽ được tiếp xúc, làm quen, trò chuyện, trao đổi với các bạn trong lớp, từ đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Ngoài ra, trẻ sẽ dễ dàng thích nghi, hòa nhập khi đến các môi trường khác. Đặc biệt trong giai đoạn bé đi nhà trẻ là giai đoạn phát triển quan trọng trong cuộc đời của trẻ. Ở giai đoạn này, trẻ hình thành, phát triển giao tiếp xã
  15. 13 hội, phát triển về mặt tư duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác thông qua đó hình thành nề nếp, thói quen cho trẻ. Hình ảnh trẻ chơi vận động và chơi tự do ngoài sân trường Như vậy, thông qua hoạt động vui chơi giúp trẻ vui vẻ, tự tin và hứng thú Qua đó giáo dục trẻ biết đoàn kết, nhường nhịn và giúp đỡ bạn trong khi vui chơi. Có ý thức giữ gìn, bảo quản, không đập phá hay tranh giành đồ chơi của bạn, sau khi chơi xong cần cất đồ chơi vào đúng nơi qui định. 2.3.3.2. Rèn thói quen tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt độngăn, ngủ của trẻ tai trường. Việc đưa trẻ vào nề nếp thói quen để đạt hiệu quả cao thì bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo ở sách báo những tài liệu có nội dung rèn nề nếp thói quen cho trẻ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Xong để trẻ thực hiện được các quy định, nề nếp của lớp là một điều hết sức khó khăn đòi hỏi bản thân tôi phải kiên trì, hướng dẫn thật nhẹ nhàng, thật rõ ràng và cụ thể cho trẻ: a. Rèn luyện thói quen tự phục vụ qua giờ ăn trưa: Việc ăn uống không những đáp ứng nhu cầu về năng lượng của cơ thể mà còn là khía cạnh của đạo đức, thẩm mỹ, hành vi văn minh trên bàn ăn thể hiện sự tôn trọng đối với mọi người xung quanh. Giờ ăn là hoạt động cần tới kỹ năng tự phục vụ của trẻ nhiều nhất. Đây là hoạt động để cô hình thành và rèn luyện các kỹ năng cho trẻ một cách tốt nhất. Ngoài ra, tôi giáo dục trẻ trong khi ăn các con không được dùng tay bốc thức ăn, làm đổ vãi thức ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng. Hướng dẫn cho trẻ từ cách cầm thìa xúc cơm, xúc cháo ăn, xúc thìa vừa phải để không làm rơi vãi. Trước khi ăn trẻ biết chào mời cô giáo, các bạn, ăn hết xuất, hết cơm biết nói cháu xin cô bát cơm...
  16. 14 Hình ảnh trẻ ngồi vào bàn ăn và tự xúc ăn Khi trẻ ngồi vào bàn ăn, tôi nhắc trẻ không nghịch, không chạy lung tung, ngồi ngăn ngắn, vòng tay lên bàn. Đến giờ chia cơm, trẻ chưa ăn vội mà phải biết mời cô giáo, mời bạn rồi mới ăn cơm. Khi ăn tôinhắc trẻ ăn chậm, nhai kỹ, không ngậm thức ăn lâu trong miệng, không nói chuyện khi ăn, không vừa ăn, vừa nghịch. Để làm được điều đó trước tiên tôi phải làm mẫu cho trẻ: Tư thế ngồi, cách xúc cơm, cách cầm thìa sao cho đúng... Trong giờ ăn tôi chú ý để rèn cho trẻ kỹ năng tự xúc cơm ăn hết xuất. Vì những ngày đầu tôi thấy các cháu không chịu tự xúc cơm ăn mà cứ ngồi chờ, chờ đến khi nào cô giáo xúc cơm cho mới ăn, cô không đút cơm là coi như hôm đó không chịu ăn cơm, những ngày đầu tôi còn giúp trẻ nhưng sau đó tôi liền tìm hiểu nguyên nhân và biết rằng: ở nhà bố mẹ chiều thấy con ăn chậm xúc cơm ăn còn vụng về, rơi vãi lung tung bẩn quần, bẩn áo nên bố mẹ thường xúc cơm ăn cho nhanh. Tôi đã sắp xếp cháu ăn tốt biết tự xúc cơm ăn ngồi với cháu ăn kém chưa tự xúc cơm ăn được để cháu ăn tốt làm gương cho cháu ăn kém. Đồng thời dưới sự khích lệ của tôi luôn động viên trẻ đã làm cho trẻ cố gắng tự xúc cơm ăn. Ví dụ: Hôm nay Bạn Minh Khang xúc cơm ăn rất giỏi đấy! Lại còn ăn cả canh rau nữa chứ. Các con hãy ăn giỏi như bạn Minh Khang nhé, các con mà ăn giỏi sẽ được đi thi bé khỏe, bé ngoan nữa đấy. Khi uống nước tôi nhắc nhở trẻ không rót quá nhiều, rót vừa phải nên uốngtừ từ, không nghịch ngợm bình nước. Khi ăn xong trẻ biết tự cất ghế vào nơi quy định. không để ghế ngổn ngang trong lớp, nhiều khi lại gây nguy hiểm cho trẻ nếu không may chạy va phải ghế. Và cứ như vậy sau mỗi bữa ăn dần dần kỹ năng tự xúc cơm ăn của trẻ đã thành thạo hơn. Trẻ xúc gọn gàng hơn tuy còn rơi vãi, nhưng tôi nhận thấy trẻ đã cố gắng rất nhiều và trẻ tự ý thức về việc ăn uống của mình không ỷ lại vào người lớn nữa. c. Rèn luyện thói quen tự phục vụ cho trẻ qua giờ ngủ trưa:
  17. 15 Giờ ngủ trưa có vai trò quan trọng đối với trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 24 - 36 tháng tuổi, nó tương đương với việc bổ sung hợp lý các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Thời gian ngủ, chất lượng giấc ngủ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của trẻ. Trẻ được ngủ đúng giờ giấc, đủ giờ, ngon giấc khi thức dậy sẽ có tinh thần sảng khoái, trẻ tỉnh táo, học tập tích cực hơn, trẻ ăn ngon miệng, không quấy khóc… Hiểu được tầm quan trọng của giờ ngủ trưa cho trẻ nên tôi đã bố trí chỗ ngủ sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Phòng ngủ được giảm ánh sáng bằng cách đóng bớt 1 số cửa. Trước khi ngủ tôi và trẻ đã chuẩn bị chăn, gối đủ số lượng đối với mỗi trẻ. Tôi rèn cho trẻ thói quen tự lấy gối của mình và về chỗ để ngủ . Khi ăn và vệ sinh xong tôi hỏi trẻ: Ăn xong rồi bây giờ chúng mình sẽ làm gì? ( Đi ngủ), Thế đi ngủ phải có gì? ( Có gối). Thế bây giờ cô cháu mình hãy cùng nhau đi lấy gối nào? Sau một thời gian trẻ đã biết tự lấy gối của mình và về chỗ ngủ, không để cô giáo phải chia gối nữa. Để trẻ thực hiện được kỹ năng này ngay khi phụ huynh đưa gối cho cô, tôi đã đánh dấu gối của trẻ bằng những ký hiệu riêng trùng với ký hiệu trên khăn mặt cá nhân của trẻ nên trẻ rất dễ nhớ gối của mình không lầm với gối của bạn. Khi ngủ dậy tự đi cất gối, những ngày đầu tuy rất lộn xộn nhưng tôi vẫn để trẻ tự làm. Sau đó tôi hỏi trẻ : Các con thấy tủ đựng gối của lớp mình có gọn gàng, ngăn nắp không? Cô thấy chưa được gọn và chưa đẹp mắt. Tôi hướng dẫn trẻ xếp lần lượt không tranh giành nhau, sau một thời gian đã khá hơn rất nhiều. Như vậy qua việc tổ chức cho trẻ nhiều hoạt động phong phú ở trường lớp theo chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ nhằm hình thành, rèn luyện một số nề nếp thói quen tự phục vụ trẻ lớp tôi đã "trưởng thành" hơn trong mắt tôi đã biết tự phục vụ cho chính bản thân mình mà không phải nhờ cô giáo giúp nữa. 2.3.4. Giải pháp 4: Phối hợp với phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải, các loại tranh ảnh quyên góp cho cô giáo cùng trẻ làm đồ dùng, đồ chơi và thường xuyên trao đổi tình hình của trẻ từ hai chiều ở trường - ở nhà để phụ huynh phối hợp tốt với giáo viên nhằm cũng cố hình thành rèn luyện nề nếp thói quen tốt cho trẻ một cách thống nhất và bề vững. Công tác phối hợp với phụ huynh là việc làm rất quan trọng và có hiệu quả cao trong việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Chính vì vậy tôi đã tuyên truyền với phụ huynh, giúp phụ huynh hiểu được việc rèn thói quen nề nếp cho trẻ là rất cần thiết. Để trẻ khắc sâu và nhớ lâu thói quen nề nếp có được khi ở trường lớp, thì về nhà trẻ cũng phải được thường xuyên luyện tập thực hiện, có như vậy việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ mới có nề nếp thực sự. Từ đó trẻ có kỹ năng thói quen tốt trong mọi hoạt động hàng ngày cũng như các hành vi văn minh lịch sự trong mọi hoạt động và mọi tình huống. Đặc biệt là những ngày đầu năm học, trẻ mới bắt đầu đi học. Vì trẻ ở nhà được ông bà, bố mẹ và những người thân cưng chiều, không phải tuân thủ những nề nếp sinh hoạt như ở lớp, nên một số thói quen được hình thành bị phá vỡ. Một số trẻ lần đầu tiên được đến trường cảm thấy sợ hãi, thường khóc khi chia tay bố mẹ để vào lớp và hay bị ốm sau một vài buổi đi học đầu tiên vì không thích nghi kịp với sự thay đổi
  18. 16 môi trường, chế độ sinh hoạt. Vì vậy nhà trường và gia đình cần giúp trẻ mau chóng vượt qua giai đoạn này. a.Vận động phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải, các loại tranh ảnh quyên góp cho cô giáo và trẻ cùng làm đồ dùng, đồ chơi. Có thể nói rằng đồ chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu được đối với cuộc sống của trẻ mầm non. Để thỏa mãn hoạt động vui chơi của trẻ chúng ta có thể cho trẻ tự làm đồ chơi. Đồ chơi tự tạo được làm từ nguyên vật liệu tự nhiên, dễ kiếm, đa dạng và cũng dễ làm, sản phẩm lại gần gũi với hoạt động của trẻ. Sự đa dạng của nguyên vật liệu thiên nhiên đã thu hút được sự chú ý của trẻ mang lại cho trẻ niềm say mê hứng thú. Chính những vật liệu đơn giản sẵn có trong cuộc sống hàng ngày là những đồ chơi có giá trị giúp trẻ phát triển toàn diện. Bởi vì đồ chơi tự tạo có ưu điểm nổi bật là sẵn có, thường xuyên đổi mới, phong phú và đặc biệt sáng tạo.Bên cạnh đó, trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình, thường có rất nhiều sản phẩm bị loại bỏ sau khi sử dụng, chẳng hạn như vỏ chai dầu gội, sữa tắm, lon bia, vỏ hộp sữa, bìa lịch cũ, đĩa CD bị trầy cũ… đó là nguồn vật liệu rất phong phú và đa dạng, có thể tận dụng làm những việc hữu ích. Nếu chúng ta có ý thức thu gom, chọn lọc từ nguồn phế thải đó và có ý tưởng làm các đồ dùng, đồ chơi thì có thể biến những chiếc hộp, bìa to nhỏ thanh ô tô, tàu hỏa, nhà cửa, bàn ghế… Làm như vậy chúng ta sẽ tiết kiệm được tiền mua sắm vật liệu, tạo ra nhiều đồ chơi mang tính sáng tạo phong phú cho lớp học của mình. Những đồ chơi này vừa dễ làm, dễ sử dụng trong các giờ học và các hoạt động. Qua đó hình thành ý thức tuyền truyền với mọi người xung quanh, từ trẻ đến phụ huynh học sinh về việc bảo vệ môi trường và như vậy, chúng ta đã giảm thiểu được lượng rác thải, giảm chi phí cho việc xử lý rác thải trong vệ sinh môi trường. Từ việc vận động phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải, các loại tranh ảnh quyên góp cho cô giáo và trẻ cùng làm đồ dùng, đồ chơi tôi muốn rèn nề cho trẻ biết cách sắp xếp, thu dọn sản phẩm một cách gọn gàng ngăn nắp và biết thích thú với việc tạo ra các sản phẩm, giúp trẻ tự tin chủ động trong quá trình hoạt động và biết quý trọng giữ gìn những sản phẩm mà cô và trẻ cùng làm ra. Đồ dùng, đồ chơi là người bạn thân thiết không thể thiếu được đối với trẻ, nó là món ăn tinh thần của trẻ Mầm non. Trẻ được say mê hoạt động, nhằm phát triển ở trẻ về trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ…và phát triển nhân cách theo đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở tuổi này. b.Trao đổi với phụ huynh tình hình của trẻ từ hai chiều ở trường - ở nhà để phụ huynh phối hợp tốt với giáo viên. Bên cạnh việc chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ trọng tâm, tôi tìm hiểu đặc điểm tâm lý của từng trẻ qua hoạt động hàng ngày, xem trẻ thường có sở thích gì? Đặc điểm riêng của trẻ như thế nào? Thông qua phụ huynh để biết được một số đặc điểm, thói quen cá nhân của từng trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp. Ngoài ra tôi thường xuyên tìm hiểu về trẻ như trước khi đi học trẻ thường có những biểu hiện gì (tình trạng sức khỏe, biểu hiện tâm lý...) từ đó tôi có biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp.
  19. 17 Ví dụ: Một số cháu có thói quen là đến lớp cháu cứ ôm ba lô, đồ dùng cá nhân của mình, nếu bỏ ra là cháu khóc, rồi quần áo mặc trong người trời nóng cô cởi bớt ra cháu cũng khóc với những cháu như vậy tôi thường xuyên gần gũi trò chuyện giáo dục, nhắc nhở trẻ để dần dần cho trẻ bỏ thói quen đó đi. Hay có những trẻ khi đi đến lớp là ngồi im một chỗ vì trẻ biết đây là môi trường lạ nên trẻ chưa mạnh dạn tự tin, như vậy thì tôi phải tiếp cận với trẻ dần dần như lấy đồ chơi cho trẻ chơi, rủ trẻ ra chơi đồ chơi…. Như vậy nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ để có biện pháp chăm sóc, giáo dục, rèn luyện phù hợp, giúp trẻ có nề nếp và thích nghi với trường lớp mầm non. Có lẽ tôi phải mất vài tuần đầu giáo dục rèn luyện cho trẻ, những tuần sau đó tôi theo dõi, nhắc nhở giáo dục kịp thời khi cần thiết. Đến nay trẻ có nề nếp hơn như: Nghe lời cô, học ngoan có nề nếp, các cháu không còn khóc và không còn ngồi ngả nghiêng nữa. Ví dụ: Tôi tuyên truyền qua giờ đón, trả trẻ, qua họp phụ huynh trong năm học, qua góc tuyên truyền của lớp. Trao đổi với phụ huynh thường xuyên trò chuyện với trẻ để giúp trẻ biết vì sao phải đi học? Đi học vui như thế nào? Đi học con được chơi với ai? Qua đó kích thích sự tò mò gây hứng thú cho trẻ mong muốn được đi học. Nhắc nhở phụ huynh ở nhà cũng rèn luyện cho trẻ một số nề nếp thói quen cần thiết như: thói quen rửa tay trước khi ăn, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, tự xúc cơm, trước khi ăn biết chào mời người lớn, không tự do lấy đồ chơi ra chơi khi chưa được sự cho phép của người lớn... Phụ huynh cần chú ý không nên nuông chiều trẻ quá mức, trẻ đòi gì được nấy, mà cần có thái độ nghiêm khắc với trẻ khi trẻ chưa ngoan. Ngày đầu trẻ đi học tôi trao đổi với phụ huynh cho trẻ thích nghi dần dần với môi trường một cách từ từ như: Có thể cho trẻ đến muộn hơn, và đón sớm hơn một chút để trẻ thích nghi dần rồi dần dần cho trẻ đi học đúng thời gian biểu của trường. Tôi trao đổi với phụ huynh về thói quen cũng như đặc điểm tâm, sinh ý của trẻ khi ở nhà như thế nào. Trẻ thích ăn món gì? Sợ ăn món gì? Không ăn được thức ăn nào? Thức ăn nào bị dị ứng? Khó ngủ hay dễ ngủ, thói quen vệ sinh như thế nào... để tôi có biện pháp giáo dục phù hợp. Ví dụ: Thấy trẻ rửa tay trước khi ăn cha mẹ nên khen ngợi và khoe với mọi người về thói quen đó để trẻ thêm phấn khởi và làm theo mong muốn được khen ngợi tiếp... hoặc cha mẹ khen ngợi thói quen chào hỏi lễ phép của trẻ, những gì trẻ làm tốt thì phụ huynh nên khen trẻ để khuyến khích trẻ phát huy. Như vậy việc trao đổi với phụ huynh với trẻ nhằm tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ là việc hết sức cần thiết. Bởi thông qua phụ huynh thì tôi có thể nắm bắt tâm sinh lý của từng trẻ từ đó tôi rèn nề nếp cho trẻ một cách tốt nhất. Và vận động phụ huynh cho trẻ đi học đều chuyên cần và đúng giờ, vì đi học đều sẽ giúp cho trẻ ngoan hơn và nề nếp thói quen của trẻ sẽ tốt hơn. Như vậy để làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh nhằm rèn nề nếp cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ vai trò quan trọng. Do vậy cô giáo nên tuyên truyền các bậc phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ . Đồng thời trao đổi với phụ huynh rèn luyện thêm nề nếp thói quen
  20. 18 cho trẻ khi trẻ ở gia đình. Giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. 2.4. Kết quả đạt được. Qua áp dụng biện pháp trên trong năm học 2021 - 2022 bản thân tôi thu được kết quả như sau: Đối với trẻ: Trẻ ở lớp tôi phụ trách nề nếp thói quen tiến bộ rõ rệt, kết quả cụ thể khảo sát cuối năm học như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 5/201) Đạt Chưa đạt Số TT Nội Dung Số Số trẻ Tỷ lệ % Tỷ lệ % trẻ trẻ 1 Nề nếp thói quen trong giao tiếp như: Chào hỏi, xưng hô với cô, với bạn, 25 23 92% 2 8% và với những người xung quanh. 2 Nề nếp thói quen trong học tập, vui chơi như: Trẻ biết chú ý lắng nghe, giơ 25 24 96% 1 4% tay khi muốn nói, ngồi đúng ghế của mình…. 3 Nề nếp thói quen trong lao động tự phục vụ: tự đi ngồi vào bàn, tự cất ba lô 25 24 96% 1 4% đúng nơi quy định, tự đi dép, tự đi rửa tay khi tay bẩn… Qua chất lượng khảo sát cuối năm được nâng lên rõ rệt: Đa số trẻ có nề nếp thói quen lao động, tự phục vụ: cất túi vào đúng nơi quy định, tự đi dép, tự lấy gối…đạt 96% và trẻ có nề nếp thói quen học tập, vui chơi như chú ý lắng nghe, giơ tay khi muốn nói, ngồi đúng bàn ghế của mình… đạt 96%, trẻ chưa đạt nề nếp thói quen trong gia tiếp như: Tự biết chào hỏi, xưng hô với cô, với các bạn, với bố mẹ và những người xuang quanh là 92%. Vì vậy bản thân tôi phải có hướng để rèn luyện trẻ trong thời gian tiếp theo. Ngoài những kết quả nêu trên đa số trẻ đến cuối năm học thích đi học, đến trường ngoan hơn, không còn tình trạng trẻ khóc lóc như trước nữa, trẻ biết tự động chào hỏi lễ phép cô giáo và người thân, biết cất lấy đồ dùng đúng nơi gọn gàng, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định và có một số thói quen tốt trong các hoạt động trong ngày. Đặc biệt là trẻ rất hào hứng được đến trường, gần gũi với cô và các bạn. Trẻ có thói quen tự phục vụ nên việc chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng dễ dàng hơn. Trẻ tự xúc cơm, xúc cháo ăn, biết gọi người lớn khi có nhu cầu, chơi xong biết cất đồ chơi gọn gàng. Đặc biệt trẻ biết tự động chào cô giáo, người thân và khi có khách đến thăm lớp. Trẻ biết đọc thơ, hát cho bố mẹ ông bà nghe.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2