intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Kim Hoa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Kim Hoa" nhằm đánh giá thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm non; Tạo sự liên thông về giáo dục kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ từ độ tuổi Mầm non đến lứa tuổi học đường nhằm nâng cao kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ góp phần phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Kim Hoa

  1. 1 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam một đất nước đang trên đà phát triển và hội nhập với các nước tiên tiến, phát triển trên toàn cầu. Cùng với sự phát triển của đất nước, mọi lĩnh vực từ kinh tế giáo dục …luôn không ngừng biến đổi và ngày càng tích cực đổi mới, làm như thế nào để đáp ứng với nhu cầu mới của xã hội. Đặc biệt là nền giáo dục bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Một đất nước phát triển là một đất nước có nền giáo dục tốt nhất. Nhận thức được vấn đề cần thiết và hết sức quan trọng của nền giáo dục nên giáo dục luôn được đông đảo tầng lớp quan tâm. Giáo dục như thế nào là tốt, là hiệu quả, đây là vấn đề mà tất cả mọi người quan tâm, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục. Trong những năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về hình thức, nội dung và phương thức giáo dục. Dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động tham gia và lĩnh hội kiến thức một cách thoải mái . Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ những kiến thức cần thiết về kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các em hiểu, biết những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. Bởi trẻ mầm non tư duy của các con là tư duy trực quan hình ảnh, trẻ rất thích được ngắm nhìn những điều mới lạ, những hình ảnh đẹp và sống động. Chính vì lẽ đó với cương vị là một giáo viên đã có kinh nghiệm giảng dạy học sinh 5-6 tuổi, tôi đã mạnh dạn lựa chọn một đề tài mà bản thân tâm đắc nhất để nghiên cứu “Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Kim Hoa” là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng, nó là vấn đề cốt lõi để giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức một cách tốt nhất. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nhằm đánh giá thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm non. - Tạo sự liên thông về giáo dục kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ từ độ tuổi Mầm non đến lứa tuổi học đường nhằm nâng cao kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ góp phần phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.
  2. 2 - Tìm ra một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với lứa tuổi, với phong tục tập quán của địa phương. Đồng thời nâng cao nhận thức của phụ huynh. 3. Đối tượng nghiên cứu: Trường mầm non Kim Hoa nơi tôi đang công tác có 179 học sinh 5-6 tuổi nhưng việc nghiên cứu tất cả trẻ trong trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn nên tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu trẻ lớp tôi trực tiếp giảng dạy là lớp 5TA2 gồm 30 học sinh. (Trong đó có 16 học sinh nữ và 14 học sinh nam). 4. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu: Lớp mẫu giáo lớn 5TA2 trong trường mầm non Kim Hoa. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2023 đến tháng 03/2024 (Bảng 1). Căn cứ vào kế hoạch, tôi từng bước tiến hành thực hiện đề tài. (Bảng 1: Bảng kế hoạch thực hiện đề tài nghiên cứu) 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp khảo sát: Biết được số liệu thực tế. Phương pháp quan sát: Tổ chức cho trẻ tri giác trực tiếp các sự vật, hiện tượng xung quanh một cách có mục đích có kế hoạch trong một thời gian quy định. Phương pháp trực quan: Dùng các phương tiện trực quan. Phương pháp dùng trò chơi: Sử dụng các yếu tố chơi, các trò chơi thích hợp để kích thích trẻ hoạt động, mở rộng hiểu biết về môi trường xung quanh. Phương pháp sử dụng lời nói: Sử dụng các phương tiện nghe nhìn, để truyền đạt thông tin, kích thích trẻ suy nghĩ, chia sẻ ý tưởng. Phương pháp thực nghiệm: Cho trẻ thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần các động tác cử chỉ điệu bộ thông qua yêu cầu cụ thể mà giáo viên đặt ra. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tham khảo các loại sách. 6. Ứng dụng: Sáng kiến kinh nghiệm được ứng dụng thực hiện tại lớp 5 tuổi A2 trường mầm non Kim Hoa, huyện Mê Linh năm học 2023-2024. PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách và kết quả học tập của trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen
  3. 3 tiêu cực giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ và kỹ năng thích hợp. Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, gần gũi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập. Trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu từ môi trường sống xung quanh, như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với trẻ, cách thức tiếp xúc với trẻ, tất cả đều tác động đến sự phát triển của trẻ. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành từ bậc học mầm non. 2. Thực trạng của vấn đề. Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên được bồi dưỡng qua nhiều chuyên đề. Tổ chức lồng ghép kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ cho trẻ chưa được thường xuyên. Lồng ghép kỹ năng sống và kỹ năng tự phục vụ vào các hoạt động khác chưa thật sự linh hoạt. Mặt khác, việc phối kết hợp giữa gia đình và cô giáo chưa thật sự ăn ý. Phụ huynh chưa nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ đối với trẻ là không thể thiếu được. Chính việc rèn kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ giúp trẻ luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội phong phú và đa dạng hơn, giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách. 2.1. Đặc điểm tình hình Trường mầm non Kim Hoa nơi tôi đang công tác thuộc địa bàn xã Kim Hoa của huyện Mê Linh, với 3 điểm trường. Tổng số học sinh toàn trường có 550 trẻ, trong đó trẻ 5-6 tuổi là 179 trẻ. Trong năm học 2023- 2024 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 5A2 tại khu trung tâm Kim Tiền, với tổng số 30 trẻ (16 bé gái, 14 bé trai). Quá trình thực hiện tại lớp tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 2.2. Thuận lợi * Về phía nhà trường: Năm 2018 trường đạt chuẩn mức độ 1 nên đã đầu tư cơ sở vật chât theo thông tư 01/VBHN-BGDDT. Bởi vậy có cơ sở trang thiết bị dạy học hiện đại để phục vụ cho giáo viên và trẻ được sử dụng trong dạy và học. * Về phía giáo viên: Giáo viên trong lớp đoàn kết biết cùng nhau đưa ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc. Luôn tìm tòi các điểm mới để đưa các phương pháp dạy học
  4. 4 cũng như tổ chức các hoạt động như: học tập, trò chơi, thí nghiệm, vui chơi, các buổi ngoại khoá…hay và bổ ích với trẻ. * Về phía phụ huynh: Hầu hết các bậc phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc quan tâm đến việc học của con em mình, nhiệt tình trong việc đưa con đi học đúng giờ, sẵn sàng giúp đỡ giáo viên khi có việc cần, nhiều phụ hụynh có ý thức xây dựng phong trào của lớp, thường xuyên phối hợp với giáo viên học hỏi thêm kiến thức để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở nhà. * Về phía học sinh: Học sinh đi học đồng đều đúng độ tuổi. Đa số trẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ, hứng thú với hoạt động. 2.3. Khó khăn * Về phía nhà trường: - Do có 3 điểm trường nên vấn đề mua sắm đồ dùng đồ chơi và trang thiết bị còn hạn chế. * Về phía giáo viên: Bản thân tôi nhiều lúc chưa sáng tạo trong các hoạt động giáo dục kỹ năng sống. Công tác tuyên truyền, phối kết hợp với cha mẹ trẻ còn chưa thu hút được sự quan tâm và đáp ứng thông tin của các bậc cha mẹ. * Về phía phụ huynh: Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con. Do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không. * Về phía học sinh: Do tác động của xã hội làm cho trẻ bị ảnh hưởng một số thói quen xấu, bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử nên việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn. Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc, việc đều được bố mẹ làm cho, khiến trẻ quen dựa không có tính tự lập, ích kỷ. Một số trẻ quá hiếu động nên việc tập trung chú ý hiệu quả chưa cao, còn một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động của cô tổ chức. 2.4. Khảo sát học sinh đầu năm. Ngay từ đầu năm học tôi đã có kế hoạch khảo sát về kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ của 30 trẻ ở lớp vào các hoạt động ở lớp qua bảng sau :
  5. 5 (Bảng 2: Bảng kết quả khảo sát đầu năm kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ của trẻ) Qua khảo sát và đánh giá về các tính tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử lý tình huống, sự tò mò khả năng sáng tạo, kỹ năng giữ an toàn cá nhân, kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp mình tôi nhân thấy mức độ đạt của các tiêu chí đều thấp. Do đó tôi đã nghiên cứu, tìm tòi tài liệu, học hỏi kinh nghiệm để tìm ra những biện pháp để dạy kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ. 3. Các giải pháp đã tiến hành: 3.1. Giải pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Để có thể thực hiện tốt “Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống và khả năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi” trước hết là giáo viên tôi không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 5-6 tuổi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non 5-6 tuổi. Tôi tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non. Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non (nhà xuất bản đại học quốc gia). Sách những thói quen vàng. Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống. Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3… Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ, vì vậy năm học này nhà trường luôn nhắc nhở giáo viên đi sâu vào hoạt động rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Bản thân tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì nó quyết định đến nhân cách của trẻ sau này. Không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là: - Không nói dài và nói nhiều. - Không đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi. - Không vội vàng phê phán đúng, sai nhưng kiên trì giúp trẻ tranh luận và kết luận.
  6. 6 Ví dụ: Các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không cần người lớn giúp đỡ, các con là những em bé rất giỏi, rất ngoan các con rất xứng đáng được khen ngợi”. Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy nghĩ, giám đưa ra ý kiến của mình. Việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh hoạt tôi thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như: - Tin tưởng trẻ cũng như năng lực của trẻ. - Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt. - Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới. - Có kinh nghiệm sống và biết nhận xét đánh giá. - Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí gọn gàng, hấp dẫn. 3.2. Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ. Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hóa. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp, khả năng tự phục vụ. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Một số kỹ năng cần dạy trẻ mà tôi đã lựa chọn như sau: + Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống, ở mọi lúc mọi nơi. + Kỹ năng sống hợp tác: bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học những cách làm việc với bạn. Đây là một công việc không nhỏ đối với lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. + Kỹ năng ham thích tò mò, khám phá, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng trẻ cần có vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là thứ có thể đoán trước được. + Kỹ năng giao tiếp: giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến
  7. 7 thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó trẻ sẽ trở lên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ. + Ngoài ra ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: biết rửa tay sạch trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn, biết cách sử dụng những đồ dùng vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ để bát thìa… hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp bàn ăn, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất… Ngoài những kỹ năng đó cô giáo còn dạy trẻ biết cảm ơn khi nhận của ai cái gì, biết xin lỗi khi làm sai, biết giúp đỡ bạn, chăm sóc người thân, bảo vệ cây xanh… 3.3. Giải pháp 3: Tạo môi trường để dạy kỹ năng sống cho trẻ. Khi xác định được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ cho trẻ và nội dung cần hướng tới thì việc tạo môi trường rèn luyện cho trẻ cũng là điều cần quan tâm. Từ đó tôi cố gắng tạo môi trường tốt nhất cho trẻ như: Góc kỹ năng là nơi trẻ thể hiện những kỹ năng của mình với những kỹ năng cần thiết cho trẻ như: cầm bát, cầm thìa, cầm đũa, cầm cốc, xúc, đong, …. Vì vậy tôi luôn chú ý tận dụng diện tích phòng học xây dựng góc kỹ năng một cách phù hợp và chú ý bố trí, sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng trong góc để tạo môi trường hoạt động gần gũi, thoải mái cho trẻ. (Hình ảnh 1 : Góc kỹ năng- Phụ lục 3) Hay ở những góc khác như góc phân vai, xây dựng, sân khấu tuổi thơ tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo như: tủ để đồ, bếp ga, sân khấu nhỏ, cây xanh … được sắp xếp hợp lý trẻ dễ quan sát, dễ lấy và dễ sử dụng để tạo không gian chơi tốt nhất cho trẻ. (Hình ảnh 2: Đồ dùng góc phân vai- Phụ lục 3 ) ( Hình ảnh 3: Đồ dùng góc kể chuyện- Phụ lục 3 ) (Hình ảnh 4 : Đồ dùng góc xây dựng được sắp xếp cho trẻ dễ lấy dễ tìm- Phụ lục 3) Góc siêu thị là những bánh, kẹo, rau củ quả, thịt cá để trẻ bán hàng phục vụ cho các gia đình. (Hình ảnh 5: Đồ dùng tự tạo và có sẵn góc siêu thị - Phụ lục 3 )
  8. 8 Tôi bố trí các góc trong lớp hợp lý để khi trẻ hoạt động có sự thống nhất, liên kết giữa các nhóm chơi mà không ảnh hưởng đến nhau. Ví dụ: Góc âm nhạc sôi động tôi bố trí gần góc xây dựng. (Hình ảnh 6: Góc xây dựng gần góc âm nhạc sôi động- Phụ lục 3 ) Góc bán hàng tôi bố trí gần với góc xây dựng và góc phân vai để các bác có thể dễ dàng mua bán đồ dùng cần thiết. (Hình ảnh 7: Góc bán hàng và góc phân vai- Phụ lục 3 ) Từ đó kích thích sự hứng thú của trẻ, trẻ ham tò mò, tìm hiểu lôi cuốn trẻ vào trò chơi, tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ chơi bằng kinh nghiệm của trẻ và bằng những đồ dùng đồ chơi tự tạo của cô giống với đời thường. Từ đó hình thành lên những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày. (Hình ảnh 8: Trẻ hứng thú đóng vai các nhân vật- Phụ lục 3 ) (Hình ảnh 9: Trẻ chơi ô ăn quan ở góc dân gian- Phụ lục 3) Tại các góc, tôi cũng chú ý tạo điều kiện cho trẻ thể hiện những ý tưởng, mong muốn của trẻ, đặc biệt phát huy tác dụng của trẻ hỗ trợ nhau, liên kết với nhau tổ chức các hoạt động mang tính quần chúng. Khuyến khích trẻ tự làm hay cùng trẻ trang trí một số đồ dùng đồ chơi để trẻ có thể dùng chơi ở các góc. Trẻ vô cùng sung sướng khi được sử dụng đồ dùng do chính trẻ tạo ra, để thực hiện các hoạt động vui chơi của trẻ nhằm phát triển tốt các kỹ năng như: giao tiếp, khả năng làm việc theo nhóm, khéo léo… (Hình ảnh 10: Trẻ cùng nhau tạo ra sản phẩm trang trí lớp học - Phụ lục 3 ) 3.4. Giải pháp 4: Tổ chức hoạt động nhẹ nhàng, linh hoạt Trong quá trình tổ chức các hoạt động tôi luôn cố gắng để trẻ được hoạt động, được trải nghiệm nhiều hơn. Vào hoạt động sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ: Có thể sử dụng những đồ dùng vật thật hay những câu đố, những đoạn clip làm nổi bật chủ đề chơi. Ví dụ: Ở chủ đề tết và mùa xuân cô trang trí lớp bằng những cành đào, cành mai, câu đố, bánh chưng, gánh hàng hoa để thu hút trẻ. Tổ chức các hoạt động đa dạng dựa vào các hoạt động trọng tâm. Ví dụ tổ chức hoạt động ở chủ để tết và màu xuân tôi sẽ cho trẻ chơi những trò chơi dân gian thường được tổ chức vào lễ hội mùa xuân như: bịt mắt bắt dê, cho trẻ được làm bánh chưng bánh dày…, cũng góc xây dựng mà trong chủ đề trường mầm non tôi sẽ cho trẻ làm những bác kỹ sư, công nhân xây trường học. Hay ở chủ đề thế giới động vật tôi cho trẻ xây trang trại chăn nuôi. (Hình ảnh 11: Trẻ chơi bịt mắt bắt dê - Phụ lục 3 ) (Hình ảnh 12: Trẻ làm bánh chưng - Phụ lục 3)
  9. 9 (Hình ảnh 13: Trẻ làm bánh trôi - Phụ lục 3) 3.5 Giải pháp 5: Dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động Với trẻ mầm non nói chung thời gian ở trường của trẻ rất nhiều, các mối quan hệ giao tiếp cũng được thực hiện chủ yếu tại trường. Ở trường trẻ học được nhiều nhất. Vì thế, trong việc cung cấp các kỹ năng sống cho trẻ, tôi vẫn luôn lấy trẻ làm trung tâm, bản thân tôi chỉ là người trực tiếp định hướng những kinh nghiệm sống cho trẻ. Thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ như: Hoạt động đón trẻ, hoạt động học, hoạt động vui chơi, hoạt động chiều, hoạt động góc, lễ hội... tôi thường dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ như: Trẻ tự cất, lấy dép đúng nơi quy định, trẻ cất đúng nơi quy định, trẻ biết gia mạnh dạn, tự tin, có kỹ năng trong khi chơi, trò chuyện. * Thông qua hoạt động đón, trả trẻ: Đối với hoạt động đón, trả trẻ tôi không chỉ quan tâm đến rèn trẻ chào cô giáo, bạn bè,…tạm biệt ông bà bố mẹ mà còn đặc biệt chú ý đến rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ như: vào đầu năm tôi thường xuyên nhắc nhở cho trẻ tự cất đồ dùng cá nhân vào nơi quy định: cất ba lô, mũ vào ngăn tủ của mình, cất giầy dép vào giá để giầy dép rồi đi vào lớp. Giờ trả trẻ tôi nhắc nhở trẻ tự rửa mặt, rửa tay, sửa sang quần áo, đầu tóc gọn gàng trước khi bố mẹ đến đón, nhắc trẻ lấy đồ dùng cá nhân đeo ba lô, đội mũ, đi giầy dép ra về. Cứ như vậy qua một thời gian khoảng 1,2 tháng tất cả số trẻ trong lớp tự giác thực hiện không cần phải cô nhắc nhở từ đó trở thành nề nếp thói quen tự phục vụ. (Hình ảnh 14: Trẻ cất giầy dép gọn gàng vào giá - Phụ lục 3) (Hình ảnh 15: Trẻ cất balo vào đúng ngăn tủ - Phụ lục 3) * Thông qua hoạt động học : rèn trẻ thói quen cất đồ dùng, kê bàn ghế. Hoạt động học là hoạt động cung cấp cho trẻ nhiều kiến thức về tự nhiên, xã hội,…Để đạt được điều đó thì đồ dùng trực quan là phương tiện dạy học không thể thiếu được, mỗi hoạt động cần đồ dùng đồ chơi khác nhau. Để chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho 1 hoạt động mất khá nhiều công sức, để bớt thời gian chuẩn bị trước khi vào hoạt động tôi thường cho trẻ tham gia chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cùng cô, trong hoạt động tôi cho trẻ tự lấy đồ dùng khi cần, kết thúc hoạt động tôi nhắc nhở trẻ tự cất dọn đồ dùng, đồ chơi vào nơi quy định như vậy cô trò vừa có không khí thoải mái, tình cảm, gần gũi với nhau vừa tạo cơ hội cho trẻ tích cực tham gia vào hoạt động, đồng thời rèn nề nếp, thói quen, rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Ví dụ 1: - Hoạt động PTVĐ: “ Tung bóng lên cao và bắt bóng”. Trước khi vào hoạt động tôi cho trẻ tự lấy giầy đeo vào chân, lấy 10- 15 quả bóng ra sân
  10. 10 vận động. Kết thúc hoạt động tôi nhắc nhở trẻ cất dọn đồ dùng, đồ chơi vào nơi quy định, cởi giầy để vào giá. (Hình ảnh 16: Trẻ chuẩn bị bóng trước giờ PTVĐ - Phụ lục 3) - Hoạt động LQCV: Làm quen chữ o, ô,ơ Ngoài việc chuẩn bị đồ dùng khác, tôi cho trẻ chuẩn bị cùng cô mỗi bạn 1 rổ có chữ o, ô, ơ trong hoạt động khi trẻ dùng đến thẻ chữ tôi cho trẻ tự lấy rổ để về phía trước, kết thúc hoạt động cho trẻ thu dọn các rổ chữ để vào nơi quy định. (Hình ảnh 17: Trẻ chuẩn bị đồ dùng cùng cô - Phụ lục 3) - Hoạt động tạo hình: Nặn cái làn giỏ, trước khi vào hoạt động tôi cho trẻ tự kê bàn ghế, tự lấy mỗi trẻ 1 hộp đất nặn, 1 bảng con, 1 khăn lau. Kết thúc hoạt động tôi cho trẻ cất bảng, đất nặn, khăn lau để vào nơi quy định, rồi đi rửa tay. (Hình ảnh 18: Trẻ kê bàn ghế chuẩn bị cho giờ học- Phụ lục 3) Tương tự như vậy ở hoạt động làm quen với toán, âm nhạc,…Tôi tận dụng cơ hội rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ như cho trẻ tham gia chuẩn bị các chữ số, hình khối,… đối với hoạt động toán, chuẩn bị dụng cụ âm nhạc với hoạt động âm nhạc, chuẩn bị đồ dùng để khám phá như đồ dùng gia đình, một số loại hoa, một số loại quả, khi kết thúc hoạt động cho trẻ thu dọn những đồ dùng đó để vào nơi quy định * Thông qua hoạt động ngoài trời: Đây là hoạt động trẻ ra ngoài trời được quan sát tìm hiểu thiên nhiên, sự vật xung quanh. Ngoài việc củng cố cho trẻ hiểu biết về sự vật hiện tượng xung quanh trẻ tôi còn quan tâm tới sức khỏe, sự an toàn của trẻ khi ra ngoài trời kết hợp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ bằng cách: Trước khi cho trẻ ra ngoài sân tôi cho trẻ tự lấy giầy, dép đi vào chân, lấy mũ đội vào đầu. Kết thúc hoạt động tôi nhắc nhở trẻ cất giầy dép, mũ vào nơi quy định. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. * Thông qua hoạt động góc: Rèn trẻ thói quen lấy, cất đồ dùng đồ dùng đúng nơi quy định Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, thông qua hoạt động vui chơi trẻ được “Học mà chơi, chơi mà học”. Để phát huy tối đa tác dụng của hoạt động vui chơi đối trẻ, ngoài việc cung cấp cho trẻ biết các mối quan hệ xã hội, cách giao tiếp ứng sử trong mối quan hệ đó, cung cấp một số kỹ năng học tập tôi còn rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ qua hoạt đông vui chơi như trước khi chơi trẻ
  11. 11 chuẩn bị vị trí chơi, tự kê bàn ghế, tự lấy đồ dùng đồ chơi ra chơi và biết cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định khi chơi xong. Ví dụ 2: Tổ chức hoạt động vui chơi chủ đề đình. - Trước khi chơi: Sau khi tôi cho trẻ nhận góc chơi, nhận trò chơi ở từng góc xong tôi nhẹ nhàng nói với trẻ: “Các con về góc chơi của mình chuẩn bị góc chơi và lấy đồ chơi ra chơi nào!” - Trẻ về góc chơi tự lấy đồ chơi: bộ đồ chơi gia đình, bộ đồ chơi bác sĩ để chơi trò chơi “Gia đình kết hợp bác sĩ” ở góc phân vai, lấy đồ dùng: Đất nặn, sáp màu, bảng, giấy vẽ,…để chơi trò chơi vẽ, nặn một số đồ dùng trong gia đình ở góc nghệ thuật ra chơi. - Sau khi chơi: Tôi hỏi trẻ: “Các con nhìn xem môi trường lớp học sau buổi chơi như thế nào?”, “Chúng mình cùng nhau cất dọn đồ dùng, đồ chơi vào nơi qui định cho lớp học sạch sẽ gọn gàng nhé!” - Trẻ cùng nhau cất dọn đồ dùng đồ chơi vào góc kết hợp đọc thơ: Đồ chơi Đồ chơi của lớp Chơi xong ta cất Kẻo mất bạn ơi Ta giữ đồ chơi Cho bền cho đẹp Cứ như vậy qua hoạt động vui chơi trẻ biết giữ gìn đồ dùng đồ chơi, đồng thời hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. (Hình ảnh 19: Trẻ cất đồ dùng đồ chơi sau HĐ góc- Phụ lục 3) * Thông qua hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân: Đây là hoạt động nhằm hình thành cho trẻ về nề nếp, ý thức tự phục vụ bản thân. Cô cho trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc cùng cô. Trước khi ăn, cô hướng dẫn để trẻ tự kê bàn ăn, tự lấy ghế, lấy khăn và đĩa đựng cơm rơi, giúp cô chia bát, chia thìa cho các bạn. Giờ ăn trẻ tự dùng thìa xúc ăn, tự giác ăn hết suất, khi trẻ ăn xong tự để bát vào nơi quy định, biết tự cất ghế ngồi, đặc biệt mỗi cá nhân trẻ sau khi ăn xong biết tự lau miệng, xúc miệng, uống nước và lau sạch sẽ chỗ ngồi mình ngồi. Giờ ngủ cho trẻ giúp cô kê giường ngủ, trải chiếu, tự lấy và cất gối đúng nơi quy định. Giúp cô gấp chăn, cất chiếu, kê giường sau khi ngủ dậy. (Hình ảnh 20: Trẻ cất bát, thìa đúng nơi quy định- Phụ lục 3) (Hình ảnh 21: Trẻ lau bàn sau khi ăn- Phụ lục 3) (Hình ảnh 22: Trẻ trải chiếu để chuẩn bị ngủ trưa- Phụ lục 3)
  12. 12 (Hình ảnh 23: Trẻ gấp chăn, đệm sau khi ngủ dậy- Phụ lục 3) * Thông qua hoạt động tham quan, trải nghiệm: Ví dụ 3: Tham gia chuyến dã ngoại đầu xuân năm mới lễ chùa Hoa Sơn- Kim Tiền. Qua các buổi tham quan như vậy trẻ rất phấn khởi, vui mừng, háo hức vì được cùng nhau giao lưu với bên ngoài phạm vi trường mầm non. Trên đường đi trẻ biết đi theo hàng lối và đi sát lề đường bên phải để bảo vệ an toàn cho bản thân, biết chào hỏi mọi người trẻ gặp. Được đi nhiều lần trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Trẻ được luyện kỹ năng giao tiếp xã hội, chào hỏi lễ phép, được rèn khả năng quan sát nhận biết các sự vật hiện tượng ở trên đường đi và ở nơi mà trẻ đến tham quan. Qua đó kiến thức mà trẻ thu được về chủ đề sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn. (Hình ảnh 24: Chuyến tham quan chùa Hoa Sơn- Kim Tiền - Phụ lục 3 ) Mục đích của chuyến tham quan trải nghiệm là cho trẻ tìm hiểu về khu di tích lịch sử của địa phương, lòng biết ơn sâu sắc đến các vị hiền tài của dân tộc, nâng cao sự hiểu biết của trẻ về môi trường văn hóa - xã hội - lịch sử, qua đó hình thành tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc và trẻ được vui chơi tự do ngoài trời theo ý thích, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, phát triển ở trẻ khả năng hoạt động tập thể, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau. Đến khu di tích cô hướng dẫn cho các bé xếp hàng ngay ngắn, được nghe cô giới thiệu về lịch sử của ngôi chùa. Sau đó các con được cô giáo đưa đi thăm quan tìm hiểu về các khu vực trong khuôn viên trong chùa … Khi tham quan trẻ còn được trải nghiệm một số kĩ năng sống, mối quan hệ trong giao tiếp như: Biết chào hỏi người lớn, khi đến thăm các khu di tích thì phải đi nhẹ nhàng, không đùa nghịch. Khi vào thắp hương phải giữ trật tự. Ngoài ra trẻ còn được giáo dục một số thói quen, hành vi văn minh như không hái hoa, bẻ cành, không vứt rác ở nơi công cộng... Việc tổ chức cho trẻ mầm non đi thăm quan các di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương thực sự bổ ích và thiết thực. Việc làm này không những giúp trẻ có thêm những hiểu biết về truyền thống lịch sử của địa phương mình đang sống mà từ đó hình thành ở trẻ tình yêu quê hương đất nước, "Gieo mầm" ở trong trẻ một suy nghĩ, một hành động đúng khi được sinh ra và lớn lên tại mảnh đất văn hóa giàu truyền thống lịch sử này đồng thời cũng là dịp tuyên truyền đến các ban, ngành đoàn thể, các bậc phụ huynh và toàn thể nhân dân hiểu thêm về những hoạt động của các con khi tới trường mầm non. Ví dụ 4: Tham gia cuộc thi “Rung chuông vàng” được tổ chức cho các bé khối 5 tuổi.
  13. 13 Mục đích của cuộc thi nhằm tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện kiến thức của mình, trẻ được giao lưu với bạn bè, phát triển kỹ năng giao tiếp mạnh dạn khi tham gia các hoạt động nhất là khi đứng trước đám đông; rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ và từng bước hình thành nhân cách, thói quen, phẩm chất, đạo đức tốt, chuẩn bị các kiến thức kỹ năng cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1. (Hình ảnh 25: Bé tham gia cuộc thi Rung chuông vàng - Phụ lục 3 ) * Thông qua hoạt động lao động: Vào mỗi thứ sáu hàng tuần, tôi sẽ tiến hành tổ chức cho trẻ trong lớp giúp cô giáo dọn dẹp, vệ sinh lớp học. Sự hứng thú, tích cực của trẻ sẽ được tăng lên khi trẻ được thảo luận, làm việc nhóm cùng nhau từ đó trẻ sẽ cùng nhau hoàn thành tốt công việc của mình, tính tự giác, ý thức và kỹ năng của trẻ cũng từ đó mà được hình thành. Không cần có sự tác động, trợ giúp từ cô giáo nữa. Tôi chia trẻ thành 3 nhóm và phân công cho mỗi nhóm như sau: - Nhóm 1: Lau giá góc, nhặt rác trong lớp (Hình ảnh 26: Trẻ lau dọn giá góc- Phụ lục 3 ) - Nhóm 2: Sắp xếp lại đồ chơi trong lớp (Hình ảnh 27: Trẻ sắp xếp đồ dùng, đồ chơi- Phụ lục 3 ) - Nhóm 3: Chăm sóc cây ở góc thiên nhiên. (Hình ảnh 28: Trẻ tưới cây- Phụ lục 3 ) Sau khi hoàn thành công việc, tôi nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ, xếp hàng lần lượt vào rửa tay, nhắc trẻ khi rửa tay vặn nhỏ vòi nước để tiết kiệm nước đồng thời tránh gây ướt bẩn xung quanh, bảo vệ cơ thể khỏi các vi khuẩn gây bệnh. 3.6. Giải pháp 6 : Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ cho trẻ trong gia đình. Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là khi chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo viên thấy rằng, một số trẻ khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình… Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không bực bội khi cho rằng trẻ chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin vào sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học, kỹ năng giao tiếp khi chơi với nhau.
  14. 14 Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khóa; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải cả đời. Cần giáo dục trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực, đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. Và cha mẹ phải là tấm gương sáng cho mọi hành động của trẻ. Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ sảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác, thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ. Đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Việc cả ngày trẻ bên cô, được học một số kỹ năng ở lớp cũng như ở nhà cần có sự phối kết hợp giữa phụ huynh và cô giáo để tạo thành thói quen cho trẻ đồng nhất rèn một số kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ cho trẻ. Ví như cô giáo dạy rửa tay trước khi ăn cha mẹ không thể nói “thôi ăn đi con không cần rửa tay”, cô dạy khi ăn là phải ngồi vào bàn cha mẹ nhắc “con nhỏ ko cần thiết”… Thì việc hình thành nên thói quen nề nếp cho trẻ là rất khó. Vì vậy cần sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. (Hình ảnh 29: Cô dạy trẻ xếp hàng rửa tay trước khi ăn- Phụ lục 3) 4. Hiệu quả đạt được: Với những biện pháp nêu trên, kết quả đạt được như sau: 4.1 Kết quả trên trẻ: Có 28/30 trẻ chiếm 93,3% đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích, khơi dậy trí tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. Được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường phổ thông. Có 27/30 trẻ chiếm 93,3% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô; vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ. Có 28/30 trẻ chiếm 93,3% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống hòa bình và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
  15. 15 Có 28/30 trẻ chiếm 93,3% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được đảm bảo an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển. Có 27/30 trẻ chiếm 90% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt. Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lên chuyên cần từ 90% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ. Có 28/30 trẻ chiếm 93,3% trẻ có những kỹ năng sống cơ bản như: biết chào hỏi, biết xin ý kiến, biết xếp hàng, giúp đỡ người khác, biết tự tắm, chải tóc cho bản thân, xử lý tình huống khi gặp người lạ mặt, xử lý khi cháy nổ xảy ra… ( Bảng 3: Bảng tổng hợp kết quả khảo sát, đánh giá trẻ) 4.2 Kết quả từ phía các bậc cha mẹ 100% cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trên lớp. 95% cha mẹ có thói quen liên kết chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ. Trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức. 97% giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng tr, thay đổi cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con mẹ đi theo xách cặp cho con tranh thủ đút cho con ăn. Ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lớp, tự xúc cơm ăn. 100% Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng và kết quả giáo dục của nhà trường, tin tưởng vào chế độ ăn cũng như khẩu phần ăn của trẻ ở lớp để không còn tình trạng mỗi ngày trẻ mang cả lốc sữa đi học với mong muốn được uống sữa thay ăn cơm. 96% cha mẹ trẻ không chê bai, chỉ trích cô giáo ngược lại rất nhiều phụ huynh thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp nguyên vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi. 4.3 Về phía giáo viên và nhà trường: Trong giảng dạy chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn 97% trẻ có một số kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ nên giờ nên lớp của cô cũng có cảm giác nhàn hơn vì trẻ có thể tự phục vụ bản thân như: tự xúc ăn, lau miệng, chuẩn bị bàn ăn, chuẩn bị gối ngủ, tự rửa tay, tự lấy đồ dùng học tập… nhờ đó trẻ vui thích đến lớp và cô giảm bớt áp lực công việc.
  16. 16 Cô mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh; biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ và trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ. Bản thân nắm chắc nội dung, phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Linh hoạt, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tự tin phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, tạo được niềm tin đối với phụ huynh. Nhà trường luôn là nơi thu hút và hấp dẫn trẻ. Trẻ đến trường vui vẻ thoải mái và mong muốn được đến truồng thường xuyên. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN GHỊ 1. Kết luận Từ những điều trên tôi thấy được nguyên nhân thành công và rút ra những bài học kinh nghiệm sau: Một số điều người lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống: Người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Việc học của trẻ nếu luôn được người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Nhân cách, ý chí, tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để lớn lên. Vì thế người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều cách học khác nhau. Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách. Kể chuyện cho trẻ nghe hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: cô giáo, cha mẹ dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe… Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống: Không hạ thấp trẻ: mỗi lần chúng ta nói lời hạ thấp khả năng của trẻ là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ. Không nên tạo cho trẻ thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên lăng nhục trẻ. Không dọa nạt trẻ: mỗi lần chúng ta dọa nạt trẻ là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe dọa hoàn toàn có hại đối với trẻ và không giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn. Không bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ không làm được một điều gì cả. Sự bao bọc thái quá sẽ dẫn đến ý nghĩ rằng trẻ không thể làm điều gì.
  17. 17 Không yêu cầu những điều không phù hợp với trẻ vì những yêu cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chín chắn mà trẻ chưa có khả năng làm được sẽ ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của trẻ. Không tước đoạt quyền làm trẻ con của trẻ: hãy để cho trẻ được làm trẻ con thật sự đừng mong đợi trẻ là một người giống như người lớn hoặc như người lớn mong muốn. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó. Đối với giáo viên: Mạnh dạn trao đổi với bạn bè đồng nghiệp những kinh nghiệm hay những điều còn thắc mắc. Giáo viên phải thực sự yêu nghề, có năng lực sư phạm, nắm chắc chuyên môn. Tự học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, tìm hiểu sách báo và nhiều nguồn tư liệu khác để có phương pháp rèn kỹ năng phù hợp với trẻ của lớp mình. Có sự hiểu biết về kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ của trẻ. Nắm bắt được khả năng của trẻ, nhu cầu của phụ huynh. Có sự sáng tạo trong mỗi hoạt động, thường xuyên rèn luyện bản thân, kỹ năng dạy, thao tác, rèn luyện giọng nói. Đồ dùng đồ chơi tự tạo phong phú sáng tạo hấp dẫn với trẻ. Tạo điều kiện tốt để trẻ có khả năng tư duy, phát triển tốt các kỹ năng thông qua các hoạt động. Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh. 2. Khuyến nghị đề xuất: Để thực hiện tốt việc rèn kỹ năng sống, khả năng tự phục vụ cho trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được một số kết quả như đã nêu. Bản thân xin có một số đề xuất sau: a, Đối với trường mầm non: Cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Đầu tư kinh phí mua một số trang thiết bị, tạo môi trường cho trẻ được trải nghiệm nhiều hơn. Động viên, khen thưởng giáo viên kịp thời cả về vật chất lẫn tinh thần. b. Đối với UBND Huyện Mê Linh và PGD & ĐT Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.Tăng thêm số lượng giáo viên vào biên chế để đội ngũ giáo viên nhà trường được ổn định yên tâm công tác. Phòng Giáo dục, Nhà trường tổ chức các tiết kiến tập theo chuyên đề: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong năm học vừa qua tôi rất mong nhận được sự đánh giá góp ý của các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu
  18. 18 và bạn bè đồng nghiệp để tôi tiếp thu trong quá trình giảng dạy ngày một hiệu quả hơn với sự nghiệp trồng người trong những năm tiếp theo. LỜI CAM ĐOAN - Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi được rút ra trong quá trình giảng dạy, không sao chép của người khác. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung SKKN của mình. Trân trọng cảm ơn quý ban giám khảo rất nhiều ạ! Xác nhận của nhà trường Tôi xin cam đoan nội dung thuyết trình là do chính tay tôi viết, không sao chép của ai Người viết sáng kiến Nguyễn Thị Hồng Ngọc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2