intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ người dân tộc Bru Vân Kiều

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ người dân tộc Bru Vân Kiều" nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về ngôn ngữ, nhận thức mối quan hệ giao tiếp của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ người dân tộc Bru Vân Kiều

  1.                             CỘNG  HÒA  XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                               Độc lập ­ Tự do ­  Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP "TĂNG CƯỜNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO  TRẺ MẪU GIÁO 5 ­ 6 TUỔI  DÂN TỘC BRU­VÂN KIỀU"                                      1
  2. Quảng Bình, tháng 01 năm 2013                                             CỘNG  HÒA  XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                               Độc lập ­ Tự do ­  Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP "TĂNG CƯỜNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO  TRẺ MẪU GIÁO 5 ­ 6 TUỔI DÂN TỘC BRU­ VÂN KIỀU"                                     Họ và tên: Nguyễn Thị Tú                                Chức vụ: Giáo Viên                                Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thủy 2
  3.                                     Quảng Bình, tháng 01 năm 2013 Phần I.  Phần mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài: Tiếng Việt là ngôn ngữ  chính thức của người Việt; đây là ngôn ngữ  thứ  hai của người dân tộc nói chung và dân tộc Bru ­ Vân Kiều nói riêng. Tiếng Việt được ví như  dòng máu tuôn chảy trong mỗi con người, nếu   như  máu không chảy thì con người không tồn tại được, nếu thiếu máu con  người sẽ bị gầy yếu, còi cọc và chậm phát triển. Người Việt Nam mà không sử  dụng được Tiếng Việt thì không hòa nhập với cộng đồng, nếu sử  dụng Tiếng  Việt không thành thạo thì ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, tư duy và đặc biệt   là trong giao tiếp, từ đó con người không chiếm lĩnh tri thức nhân loại và không   vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ cuộc đời. Dạy Tiếng Việt cho trẻ  là nhiệm vụ  luôn được Đảng, Nhà nước ta hết   sức quan tâm, chăm lo. "Tăng cường dạy Tiếng Việt" cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu của đội ngũ  cán bộ, giáo viên nói chung và giáo viên mầm non vùng dân tộc thiểu số  nói  riêng. Mục đích là cung cấp công cụ  giao tiếp, phát triển tư  duy, nhận thức,   nâng cao khả  năng hòa nhập cộng đồng, cùng sống trong mái nhà chung Việt  Nam. Tiếng Việt được sử  dụng thành thạo giúp các em năng động hơn, tự  tin,  ham học hỏi, thích giao tiếp với mọi người xung quanh, hòa nhập cuộc sống   cộng đồng. Dạy trẻ  sử  dụng Tiếng Việt tốt giúp trẻ  tiếp thu đầy đủ  và tốt hơn các  kiến thức; nâng cao hiểu biết và kết quả học tập, xóa bỏ dần sự chênh lệch về  trình độ giữa trẻ em dân tộc thiểu số với trẻ em người Kinh.  Trang bị  cho trẻ  vốn Tiếng Việt cơ  bản để  các cháu có khả  năng nghe,  hiểu và sử  dụng được Tiếng Việt trong quá trình giao tiếp; đồng thời giúp các  em có tâm thế vững vàng, sẵn sàng đi học, tích cực chủ động tham gia các hoạt  động học tập từ đó hình thành nhân cách và rèn luyện hành vi văn minh cho trẻ. 3
  4. Không nói được Tiếng Việt thì trẻ rất khó tiếp thu kiến thức, kỹ năng,  đồng thời trẻ sẽ mặc cảm, tự ti, nhút nhát... Thực tế  hiện nay chất lượng giáo dục của trẻ  thuộc vùng dân tộc thiểu   số  còn rất nhiều hạn chế  chưa đáp  ứng mục tiêu mong đợi đặc biệt các môn  học: Văn học, Toán, Môi trường xung quanh...Nguyên nhân do năng lực nhận  thức, ngôn ngữ, Tiếng Việt của trẻ còn hạn chế. Là người giáo viên mầm non tôi luôn băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ và luôn   tìm tòi nhiều giải pháp để  thực hiện tốt nhiệm vụ  "Tăng cường dạy Tiếng  Việt" cho trẻ. Đó là lý do tôi chọn đề  tài "Một số  giải pháp tăng cường dạy  Tiếng Việt  cho trẻ  5­6T người dân tộc Bru Vân Kiều" làm sáng kiến kinh  nghiệm trong năm học này. Dưới góc độ khác nhau, đề tài giáo dục và rèn luyện, phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mẫu giáo 5­6T được nhiều người, nhiều công trình nghiên cứu. Song  trong những năm qua, đề tài "Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho   trẻ  người dân tộc Bru Vân Kiều" chưa có ai đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Năm  học này, tôi đã mạnh dạn thực hiện và mong muốn đóng góp được một số biện  pháp hữu hiệu giúp chị  em đồng nghiệp có thể  vận dụng có hiệu quả  tại lớp   mình phụ trách. * Điểm mới của đề tài là đã áp dụng một số giải pháp:  Một số giải pháp dạy trẻ nghe Tiếng Việt; Một số giải pháp dạy trẻ nói Tiếng Việt; Một số giải pháp dạy trẻ hiểu lời nói Tiếng Việt; Một số giải pháp dạy trẻ làm quen với việc đọc, viết Tiếng Việt; Một số giải pháp dạy trẻ khả năng giao tiếp. Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về ngôn ngữ, nhận thức mối  quan hệ giao tiếp của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng,  giáo dục trẻ. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến: Đề  tài "Một số  giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ  5­6T dân  tộc Bru ­ Vân Kiều" có thể áp dụng cho giáo viên đang công tác tại trường và có  khả  năng áp dụng trong các đơn vị  thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi biên  giới và đây là đề  tài thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  mẫu giáo 5­6   tuổi.  * Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây: Phần I. Phần mở đầu: 4
  5. Phần II. Nội dung Phần III. Kết luận Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất  mong quý đọc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lý, lãnh  đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.  Phần  II. Nội dung 2.1. Thực trạng của vấn  đề  mà đề  tài, sáng kiến, giải pháp cần giải  quyết.                      Năm học 2012 ­ 2013 được sự  quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường   tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 5­6 tuổi, trong quá trình th ực hiện đề tài  này tôi gặp những thuận lợi, khó khăn sau:             *Thuận lợi:             Ban giám hiệu nhà trường tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo để  tạo điều kiện về  cơ  sở  vật chất, mua sắm đầy đủ  trang thiết bị  phục vụ  cho   dạy học và việc  bán trú cho trẻ.              Toàn trường có 3 nhóm trẻ  và 11 lớp mẫu giáo trong đó có 3 lớp học   đúng độ  tuổi, 4 lớp học ghép 2 độ  tuổi, 4 lớp học ghép 3 độ  tuổi. Lớp tôi may   mắn được thực hiện đúng độ  tuổi (lớp mẫu giáo 5­6 T) với số  lượng 17 cháu.  Trong đó có 5 trẻ  dân tộc Kinh chiếm tỷ  lệ: 29,4%; 12 trẻ  dân tộc Vân Kiều  chiếm tỷ lệ 70,6% (có 01 cháu dân tộc khuyết tật). So với những lớp có 100%  là trẻ dân tộc thì lớp tôi có trẻ dân tộc Kinh nên tạo điều kiện thuận lợi để  trẻ  dân tộc Vân Kiều có điều kiện học hỏi, giao tiếp với trẻ người Kinh từ đó giúp  trẻ hiểu và sử dụng Tiếng Việt thành thạo hơn, góp phần nâng cao chất lượng   chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Đa số  trẻ  tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động chăm sóc, nuôi  dưỡng, giáo dục. Đặc biệt trẻ thích tham gia học chữ cái, các trò chơi dân gian,  đọc câu đố, tục ngữ, ca dao, đồng dao, thơ, hát... nhờ  đó giúp trẻ  nhanh chóng  được hình thành, rèn luyện và phát triển ngôn ngữ.             Bản thân có trình độ  chuyên môn Cao Đẳng sư  phạm mầm non, hiện  đang tham gia học Đại học sư phạm mầm non tại chức nhờ đó kiến thức, năng  lực chuyên môn nghiệp vụ  vững vàng; có lập trường tư  tưởng chính trị  vững   vàng; phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình công tác, luôn được  phụ huynh, đồng nghiệp và nhân dân tín nhiệm. 5
  6. Bản thân tôi có ý thức và tích cực tự  học tập, rèn luyện và bồi dưỡng  năng lực sư  phạm và khả  năng phát âm  Tiếng Việt;  sử  dụng câu, từ  rõ ràng,  mạch lạc để làm gương cho trẻ noi theo.        Luôn được sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao về chuyên môn và sự  quan tâm   tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường.   Nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng Tiếng dân tộc  cho giáo viên, từ đầu năm đến nay đã tổ chức nhiều tiết dạy thao giảng về lĩnh   vực “Phát triển ngôn ngữ" như Văn học, Làm quen chữ cái....    Bản thân tôi trải qua 17 năm công tác, trong đó có 3 năm tham gia giảng  dạy tại trường và trực tiếp chủ  nhiệm lớp có nhiều trẻ  em dân tộc Bru­ Vân  Kiều nên đã học tập và tích luỹ được một số ngôn ngữ của người dân nơi đây. Mặc dù, có nhiều thuận lợi song tôi vẫn gặp nhiều khó khăn sau đây:         * Khó khăn: Trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Lệ Thủy, địa hình phức   tạp, giao thông cách trở, đường sá đi lại vừa xa xôi vừa phải vượt qua nhiều  sông, suối, dốc, đèo nguy hiễm. Phương tiện, trang thiết bị  hiện đại như: Ti Vi, loa máy thu thanh, băng  đĩa… chưa đáp ứng nhu cầu tổ chức các hoạt động cho trẻ.                 Trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng người dân  ở  đây thường sử  dụng   Tiếng mẹ đẻ rất tự nhiên và bản năng nên khi đến trường trẻ rất khó hiểu, khó   nghe, khó nói được Tiếng Việt. Mặt khác, ngữ điệu, giọng nói của phụ huynh không đúng thanh điệu, âm  điệu, ngữ  điệu Tiếng Việt nên trẻ bắt chước học theo và sử  dụng Tiếng Việt  không đúng yêu cầu.     Do điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội còn hạn chế  nên phụ  huynh mặc  cảm với cái nghèo. "Cái nghèo" làm cho con người có thêm nghị  lực để  vươn   lên nhưng cũng chính "cái nghèo" đã làm cho con người tự  ti, mặc cảm, chấp   nhận cuộc sống hiện tại; nhiều phụ huynh cho rằng: "Cái ăn chưa no thì học cái  chữ  để  làm gì". Họ  không hiểu cái chữ  giúp con người vượt qua cảnh sống  nghèo khó hiện tại, vươn tới tương lai, do đó, họ  ít quan tâm, không chú trọng  tới việc học tập và chăm sóc nuôi dạy các cháu.     Nhiều phụ  huynh không đưa đón con đến trường, không hiểu được ý  nghĩa tầm quan trọng của giáo dục mầm non nên khi giáo viên đến tận nhà vận   6
  7. động trẻ đi học thì không những không nhận thiếu sót với giáo viên mà còn nói   những lời cay nghiệt khiến cho giáo viên có chút nản lòng. Môi trường  ở  lớp rất xa lạ  đối với trẻ  dân tộc, tâm lý rụt rè, e sợ  luôn  thường trực các cháu. Các cháu mẫu giáo ngại giao tiếp bằng Tiếng Việt, ít tò   mò, ít hỏi cô, hỏi bạn, ít trả lời câu hỏi, điều này đồng nghĩa với việc kìm hãm   sự phát triển tư duy, nhận thức và ngôn ngữ của chúng.   Khi  ở lớp trẻ sử dụng Tiếng Việt, khi về nhà trẻ  sử  dụng Tiếng mẹ đẻ  do đó trẻ dễ quên Tiếng Việt, quên kiến thức, kỹ năng khi ở lớp cô giáo dạy, từ  đó các cháu thụ động, thiếu linh hoạt, không vượt khỏi môi trường cộng đồng  dân cư nhỏ hẹp.   Bộ quần áo, trang phục dày dép các cháu dân tộc khác với trẻ người Kinh   nên làm cho các cháu thiếu tự tin, có khi so sánh, ghen tỵ lẫn nhau, tâm lý ấy làm  cho việc học ngôn ngữ của các em có phần giảm sút. Việc giao tiếp bằng Tiếng Việt tùy thuộc vào khả năng các cháu là chính,  các anh, chị, cha, mẹ, người thân trong gia đình ít khi hướng dẫn, ít khi quan  tâm.  Việc giao tiếp giữa cô và trẻ rất khó khăn, có nhiều trẻ không thể nghe cô  nói, hiểu những lời nói, câu hỏi, những yêu cầu của cô, không xác định được   câu trả lời... Việc giao tiếp bằng Tiếng Việt nhờ  đến sự  tậm tâm của đội ngũ nhà  giáo, song giáo viên lại là người từ  các nơi khác đến nên ngôn ngữ  dân tộc   không biết hoặc có biết thì cũng rất ít  ỏi nên khó khăn khi giao tiếp, sinh hoạt   và trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.  Giáo viên không hiểu phong tục, tập quán của người dân tộc, ít có thời  gian để  tiếp cận với phụ  huynh; gia đình các cháu  ở  xa, bố  mẹ  ít đưa đón trẻ  đến trường nên khó tiếp xúc, gần gũi, khó rút ngắn khoảng cách, ranh giới giữa  giáo viên với trẻ và phụ huynh. Dạy Tiếng Việt cho trẻ   được tốt chỉ  có người dân  ở  tại địa phương  nhưng vấn đề khó khăn là người dân ở đây trình độ dân trí thấp, trình độ chuyên   môn không được đào tạo đạt chuẩn do đó, họ  chưa đảm nhận được nhiệm vụ  quan trọng này. * Điều tra thực tiễn:  Vào đầu năm học khảo sát chất lượng đầu vào của lớp tôi tình hình thực  tế kết quả như sau: 7
  8.                    Kết quả TT Nội dung K­G TB Yếu TS SL Tỷ  SL Tỷ  SL Tỷ lệ lệ lệ 1 Khả năng nghe 17 5 29,4 6 35,3 6 35,3 2 Khả năng nói 17 6 35,3 6 35,3 5 29,4 Khả năng làm quen  3 17 6 35,3 6 35,3 5 29,4 với đọc, viết. Khả năng hiểu lời nói  4 17 5 29,4 6 35,3 6 35,3 Tiếng Việt. Khả năng giao tiếp  5 bằng Tiếng Việt của  17 5 29,4 6 35,3 6 35,3 trẻ.           Qua kết quả  điều tra thực tiễn cho thấy: số  lượng cháu đạt Trung bình  trở lên: 67,1%; Yếu: 32,9% Từ những thuận lợi, khó khăn trên đây và từ những kết quả điều tra thực  tiễn với vai trò trách nhiệm của người giáo viên bản thân tôi luôn trăn trở, suy   nghĩ và tìm ra một số giải pháp nhằm "Tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ 5­6   tuổi dân tộc Bru Vân Kiều". Sau đây là một số biện pháp cơ bản:  2.2. Các giải pháp:  Giải pháp 1: Một số giải pháp dạy trẻ nghe: Theo chương trình giáo dục mầm non dạy trẻ nghe bao gồm: Nghe lời nói trong giao tiếp hằng ngày; Nghe kể chuyện đọc thơ, ca dao, đồng giao phù hợp với độ tuổi; Nghe các từ  chỉ  người, sự  vật, hiện tượng,  đặc điểm, tính chất, hoạt  động và các từ chỉ biểu cảm, từ khái quát. * Dạy trẻ nghe kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng giao:  Do khả năng nhận thức cũng như ngôn ngữ của trẻ dân tộc còn nhiều hạn  chế  nên thực hiện đổi mới nội dung chương trình tôi đã biết lựa chọn những   câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng giao phù hợp với độ  tuổi và khả  năng nhận  thức của trẻ.  8
  9. Về chuyện: tôi đã chọn những câu chuyện ngắn có nội dung đơn giản, có   tình tiết trùng lặp, các nhân vật thân thuộc, gần gũi đáng yêu và ngữ  điệu vui  nhộn, hấp dẫn, giúp trẻ hứng thú tham gia. Ví dụ: Trước đây theo chương trình đổi mới hình thức phương pháp dạy  câu chuyện: "Niềm vui bất ngờ" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi  thay đổi dạy câu chuyện: "Bác sỹ Chim"; Câu chuyện " Cây tre trăm đốt" nay chương trình giáo dục mầm non mới  tôi thay đổi dạy câu chuyện: "Sự tích Cây Vú sữa"; Câu chuyện " Sơn Tinh ­ Thủy Tinh" nay chương trình giáo dục mầm non   mới tôi thay đổi dạy câu chuyện: "Thần Sắt"...; Về  thơ  tôi đã cũng chọn những bài ngắn, câu thơ  có ít từ, có vần điệu,  nhịp điệu gần gủi, giúp trẻ dễ nhớ, dễ thuộc.  Ví dụ: Trước đây theo chương trình đổi mới hình thức phương pháp dạy  những bài thơ: "Bó hoa tăng cô" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi  thay đổi dạy bài: "Làm quen chữ  số"; Bài thơ: "Gà mẹ  đếm con" nay chương   trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy bài: "Đàn Kiến nó đi"; Bài thơ:   "Em Vẽ" đổi thay bài "Tay ngoan".... Tương tự như vậy tôi đã lựa chọn cho trẻ nghe những bài hát, câu đố, hò,   vè, tục ngữ ca dao, đồng giao gần gũi, phù hợp với khả năng nhận thức, trẻ dễ  nhớ, dễ thuộc.. Đối với phụ  huynh và trẻ  dân tộc Bru ­ Vân Kiều thường nói mất dấu  hoặc từ  có dấu thì chuyển thành dấu nặng, phát âm không rõ từ, không đúng  thanh điệu, ngữ điệu. Ví dụ: Số bảy thì nói là số "bay"; Mẹ đi làm thì nói "Me đị làm..". Vì vậy, để  trẻ  nghe đúng trước hết giáo viên phải nói đúng từ  ngữ, âm  điệu, nhịp điệu thanh điệu...  Trong khi kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng giao... cô nên đọc, kể  chậm   rãi, ngắt nghỉ đúng chỗ, thể hiện đúng thanh điệu, nhịp điệu của bài... Việc đọc, kể  phải thể  hiện theo tâm trạng, tính cách nhân vật kết hợp  hành động, cử  chỉ, nét mặt, lộ  rõ cách phát âm từ  lưỡi, miệng, môi của cô và  điều chỉnh luồng hơi phát ra từ cổ, họng để phát âm thật chính xác. * Dạy trẻ nghe nói trong giao tiếp hằng ngày: trong các thời điểm đón trẻ,  trả trẻ, trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày giáo viên cần nói cho trẻ nghe   và thường xuyên giao tiếp với trẻ. 9
  10. Cô nắm bắt khả  năng phát triển ngôn ngữ  của trẻ  để  có kế  hoạch giao   lưu, giao tiếp với trẻ. Cô nói chuyện với trẻ, vuốt ve, âu yếm tạo sự  gần gủi   thân thiện giúp trẻ không có mặc cảm, tự ti, rụt rè, nhút nhát. Trong quá trình trẻ nghe cô khuyến khích trẻ chú ý, hứng thú, tạo cho trẻ  cảm giác gần gũi, vui tươi. Có thể  cô nói chưa hết câu nhưng ngừng lại để  dành cho trẻ sự tập trung chú ý hơn. Trong cùng một độ tuổi nhưng khả năng và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ  khác nhau do đó việc nghe của trẻ cũng khác nhau. Đối với trẻ yếu, nhút nhát cô cần cho trẻ nghe những câu ngắn, đơn giản.   Thường xuyên gọi tên trẻ và quan tâm đối với trẻ, những đồ  dùng, đồ  chơi, sự  vật hiện tượng, các bộ phận trên cơ thể trẻ cô cần cho trẻ nhận biết, gọi tên và   hướng dẫn trẻ giữ gìn bảo vệ; thường xuyên nhắc nhỡ  trẻ  khác cùng giúp đỡ,   trao đổi, trò chuyện và tham gia chơi cùng cháu yếu, nhút nhát.  Đối với trẻ có khả năng phát triển tốt hơn cô cho trẻ nghe những câu mở  rộng, câu phức, những đoạn chuyện, những khổ thơ dài hơn. Nghe thường đi đôi với hiểu, nghe đầy đủ thì hiểu đúng nội dung câu nói,  nghe không đầy đủ  thì hiểu sai nội dung lời nói. Vì vậy, khi nói cho trẻ  nghe  ngữ điệu cô cần gắn với tình cảnh xảy ra tạo tâm thế vui tươi giúp trẻ tri giác   đầy đủ, trọn vẹn lời nói của mình. Nếu tình cảnh vui thì ngữ  điệu của cô nhẹ  nhàng, âu yếm, nét mặt rạng rỡ  hân hoan. Nếu tình cảnh buồn thì ngữ  điệu  trầm, nét mặt buồn lắng, thể hiện sự không hài lòng, không vui tươi. Đối với trẻ 5­6T cô cần giúp trẻ hiểu được 2­3 yêu cầu liên tiếp. Ví dụ: Yêu cầu cháu đến giá tạo hình lấy tranh của bạn A rồi đem về để  vào bọc cho bạn A. Trong quá trình trẻ  thực hiện giáo viên để  ý xem cháu có   làm đúng yêu cầu của cô không, nếu đúng thì kịp thời khen ngợi, nếu chưa đúng   thì hướng dẫn cháu thực hiện cho đúng yêu cầu đó. Giúp trẻ  hiểu được nội dung câu đơn, câu phức, câu mở  rộng, tiến tới  hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện. Đối với trẻ dân tộc Vân Kiều khả năng hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện  rất khó. Vì vậy, trong quá trình dạy cho trẻ giáo viên không tham vọng ôm đồm  nhiều nội dung mà chỉ đặt ra yêu cầu trọng tâm nhất của bài. Ví dụ: Đối với bài thơ "Nàng Tiên ốc": Đối với trẻ dân tộc Kinh cô giáo   có thể  đặt yêu cầu trẻ  phải biết được những câu, từ  miêu tả  con  Ốc đẹp như  thế nào?, Những chuyện lạ đã xảy ra trong nhà bà? Vì sao bài thơ có tên "Nàng   Tiên Ốc"?.... 10
  11. Nhưng đối với trẻ  dân tộc thiểu số  giáo viên có thể  chỉ  đặt ra yêu cầu:  trẻ  biết từ  trong con  Ốc có Nàng Tiên và đã giúp bà làm những công việc như  cho lợn ăn, quét dọn nhà cửa, nấu cơm cho bà khi bà đi vắng.... Giải pháp 2. Một số giải pháp dạy trẻ nói Tiếng Việt: * Cô giáo tổ chức tốt các tiết học để dạy trẻ nói. Trên tiết học là điều kiện tốt nhất để dạy trẻ nói Tiếng Việt, chỉ có tiết   học mới cung cấp và giúp trẻ nói Tiếng Việt chính xác và đầy đủ nhất. Dạy trẻ phát âm rõ các chữ cái trong chương trình:  Đối với các chữ  cái nguyên âm như  chữ  cái a, ă, â, o, ô,  ơ, e, ê, u,  ư.. thì  trẻ dễ nhớ, dễ thuộc, cô chỉ cần phát âm đúng, rõ ràng là trẻ đọc theo được.   Đối với các chữ cái có phụ âm đầu, phụ âm cuối gần giống nhau như chữ  cái: b, d, đ, m, n, l, h...cô cần phát âm nhiều lần, kết hợp với độ mở của miệng,   môi, sự  uốn cong của lưỡi và luồng hơi bật ra để  giúp trẻ  dễ  quan sát và bắt  chước đọc theo. Dạy trẻ kể lại chuyện: Đối với trẻ dân tộc khả năng ghi nhớ có chủ định  và ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nên việc kể lại chuyện rất khó khăn, cần có  sự giúp đỡ của giáo viên. Trong quá trình nghe cô kể  chuyện nhiều lần trẻ  tiếp thu nội dung kiến   thức, hiểu được nội dung của chuyện từ  đó nắm được trình tự  nội dung câu  chuyện. Giáo viên dạy trẻ  kể  lại chuyện là cơ  hội giúp trẻ  thể  hiện khả  năng  nghe, nói và ghi nhớ của mình. Cô kể một đoạn rồi có thể dừng để cho trẻ  kể  tiếp. Có thể Cô đóng vai là người dẫn chuyện giúp trẻ kể lại từng đoạn chuyện   và cả câu chuyện. Khi đóng vai người dẫn chuyện giáo viên phải biết được nên   kể ở đoạn nào và dừng ở đoạn nào, đoạn nào khuyến khích trẻ tự kể. Đối với các câu chuyện có nhiều đoạn hội thoại, nhiều tình tiết lặp đi  lặp lại cô nên khuyến khích trẻ tự kể các đoạn hội thoại và các tình tiết lặp đi  lặp lại đó. Ví dụ: Khi dạy trẻ kể lại câu chuyện "Ba cô gái" cô nên để trẻ tự kể các  đoạn chú Sóc con đưa thư đến nhà và nói với Chị Cả, Chị Hai,Chị Út và những   câu hội thoại mà chị Cả, chị Hai, Chị Út nói với Sóc con. Khi nghe cháu kể  lại chuyện hoặc đọc thơ, ca dao, đồng giao giáo viên  chú ý lắng nghe và ghi nhớ những câu, những từ trẻ phát âm chưa đúng để sửa  sai cho trẻ. Tiến hành sửa ngay sau khi trẻ đọc xong hoặc kể xong, bằng cách   11
  12. cô cho trẻ nói đi nói lại sao cho trẻ phát âm đúng từ, câu đó rồi mới chuyển sang   từ khác, câu khác, cháu khác. Trong lớp có nhiều trẻ nói sai, trong cùng một lúc giáo viên có thể không   sửa sai được cho hết tất cả các cháu cô cần ghi vào sổ nhật ký để mọi lúc, mọi  nơi giáo viên phải chú ý sửa sai cho trẻ, làm sao sau mỗi từ, mỗi câu, mỗi trẻ  mà phát âm chưa đúng thì giáo viên phát hiện đầy đủ  và sửa sai. Bỡi vì trẻ  dân   tộc chưa ý thức được cách phát âm của mình là đúng hay sai nên theo bản năng  cháu cứ  phát âm mãi dần dần trở  thành thói quen và khi đã trở  thành thói quen   rồi thì sửa sai cho trẻ khó vô cùng. Một số từ trẻ thường phát âm sai như: "rộn ràng" thì trẻ đọc "dộn dàng";  "S" thì trẻ phát âm "x".  . Một số từ nhất là từ láy trẻ thường phát âm sai như: "bồng bềnh" trẻ nói  "dồng dềnh", "tinh tươm" trẻ nói "inh ươm". * Cô giáo khuyến khích trẻ đặt câu hỏi và tự trả lời: Cô có thể  sử  dụng hình thức câu đố  hỏi trẻ  sau đó khuyến khích trẻ  tự  đặt câu đố hỏi cô:  Những câu hỏi chỉ nguyên nhân. Ví dụ: Cô hỏi vì sao khi bật quạt chúng ta thấy mát?; trẻ  đặt câu hỏi: vì   sao khi bật bóng đèn thấy sáng hơn? Tương tự  cô  đặt một số  câu hỏi so sánh, khuyến khích trẻ  đặt theo:  Nhiều hơn­ ít hơn, cao hơn­ thấp hơn, giống nhau­ khác nhau... Ví dụ: Cô hỏi: Cháu có gì giống cô? Trẻ hỏi: cô có gì khác cháu?... Giúp trẻ  sử  dụng một số  từ  chỉ biểu cảm: Giáo viên có thể  sưu tầm và   tìm kiếm một số hình ảnh trên internet rồi thiết kế giáo án PewPoin chiếu trên  máy cho trẻ xem, khi trẻ xem xong cô giáo cần gợi ý cho trẻ sử dụng một số từ  chỉ biểu cảm gắn vào tình huống đó. Ví dụ: Khi xem bạn mặc áo mới cô hỏi trẻ: Bạn sẽ như thế nào khi được  mặc chiếu áo mới? Nếu con có chiếc áo mới thì sẽ thế nào?... Dạy trẻ nói thông qua việc mô tả sự vật, hiện tượng, kể lại sự việc: Khi tổ chức cho trẻ tham quan, dạo chơi và các hoạt động giáo dục khác  giáo viên gợi ý cho trẻ  tập mô tả  sự  vật, hiện tượng đã xảy ra theo khả  năng  của mình. Ví dụ: Khi quan sát "Cây Bàng" cô khuyến khích cho trẻ  mô tả  "Cây  Bàng" có các bộ  phận nào? Lá cây, thân cây có hình dáng như  thế  nào, "Cây   12
  13. Bàng" có tác dụng gì?, Nếu không có "Cây Bàng" này khi trời nắng thì cô cháu  mình sẽ thế nào?... Khi dạo chơi ngoài trời xong cô cho trẻ  kể  lại trình tự  những công việc   đã làm, những tình huống đã xẩy ra, cảm xúc của trẻ về những tình huống đó. Cô có thể đặt một số câu hỏi rồi khuyến khích trẻ  tự  nói theo khả  năng  của mình. Cô khuyến khích trẻ  tự  nói, tự  bày tỏ  cảm xúc và tự  trình bày, tự  kể lại những câu chuyện, tình tiết sự việc đã xảy ra trước đó mà trẻ  được bắt  gặp cho cô và các bạn khác cùng nghe. Giải pháp 3: Một số giải pháp dạy trẻ làm quen với việc đọc, viết: Dạy trẻ làm quen với cách đọc và viết Tiếng Việt: Khác với các ngôn ngữ của các nước khác cách đọc, viết Tiếng Việt bắt  đầu từ  trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới; hướng viết Tiếng Việt  ở  độ tuổi cháu mẫu giáo thì chủ yếu theo chiều mũi tên, giáo viên cần hướng dẫn  cho trẻ biết chiều hướng từng mũi tên và điểm bắt đầu và điểm dừng của chữ  cái. Hướng dẫn trẻ thực hành tập tô chữ cái, sao chép một số kí hiệu, chữ cái,  tên mình: Để thực hiện nhiệm vụ này giáo viên cần kết hợp linh hoạt giữa lời   nói với động tác, cử  chỉ, đường nét. Vị  trí ngồi của cô phù hợp sao cho trẻ  dễ  quan  sát và tri giác trọn vẹn thao tác của cô. Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ cầm bút giáo viên hướng dẫn trẻ cầm bằng tay   phải thì đồng thời cô đưa tay phải lên. Cầm bằng 3 ngón tay thì đồng thời đưa 3   ngón tay: ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón tay giữa cho trẻ thấy. Cô nói chậm   và nói đến ngón tay nào thì đưa ra ngón tay đó ra nhịp nhàng, linh hoạt. Khi tô chữ  cái cô hướng dẫn điểm bắt đầu, điểm dừng theo đúng chiều   hướng mũi tên. Nói đến đâu tô đến đó. Tạo điều kiện cho trẻ  tiếp xúc với đồ  dùng dụng cụ  học tập, đồ  chơi,   trang thiết bị dạy học, sách vỡ, tranh ảnh, máy vi tính... Năm học này, không được sự  hỗ  trợ  của ngành nên nhà trường có chủ  trương yêu cầu phụ huynh mua dụng cụ học tập cho trẻ. Có đủ dụng cụ cho trẻ  học là điều quan trọng và cần thiết, tôi đã phối hợp với phụ huynh chuẩn bị đầy  đủ dụng cụ học tập, mỗi trẻ có đủ vỡ tập tô, bút chì, bộ chữ cái, tranh ảnh....  Trong các hoạt động, tôi tạo điều kiện cho các cháu được sử dụng dụng   cụ học tập của mình. Trẻ tự cất, lấy đồ dùng theo ký hiệu; hướng dẫn trẻ bảo   quản, giữ gìn sạch sẽ, cẩn thận. Tập cho trẻ có thói quen tốt là sau khi sử dụng   xong xếp ngay ngắn và để vào giá góc theo quy định.   13
  14. Hướng dẫn trẻ  biết cấu tạo các cuốn sách, vỡ, chiều hướng đọc sách,   mở sách, xem sách. Làm quen với một số  ký hiệu thông thường trong cuộc sống hàng ngày  như ký hiệu nhà vệ sinh, lối đi vào, đi ra, những nơi có cảnh báo nguy hiễm, ký   hiệu trên đồ dùng vệ sinh và dụng cụ học tập của mình...   Giải pháp 4: Giúp trẻ hiểu và giao tiếp bằng Tiếng Việt trong sinh hoạt  hằng ngày. Vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của trẻ còn nhiều hạn chế nên trẻ chưa mạnh   dạn, tự  tin trong giao tiếp. Do đó dạy trẻ  giao tiếp bằng Tiếng Việt với mọi  người là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết. Môi trường giao tiếp của trẻ bao gồm trên lớp,  ở  nhà và cộng đồng dân  cư. Đối tượng giao tiếp của trẻ là cô giáo, bạn bè, người thân trong gia đình  (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em) và những người thân quen gần gũi. Để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp với mọi người đây là nhiệm   vụ hết sức quan trọng đối với giáo viên dạy vùng dân tộc thiểu số. Trên lớp cô giáo giữ vai trò quan trọng quyết định khả năng giao tiếp của  trẻ. Vì vậy, giáo viên cần tạo cơ hội cho trẻ giao tiếp bằng Tiếng Việt. Khi tổ  chức các hoạt động (hoạt động học, hoạt động góc, hoạt động  ngoài trời, sinh hoạt chiều, tổ chức các trò chơi, vệ  sinh...) giáo viên cần dành  một lượng thời gian nhất định để  cho trẻ  tự  bàn bạc, thảo luận và nêu ý định  của mình. Phát huy làm sao mỗi trẻ được nêu một ý kiến cho riêng mình sau đó   tạo cơ  hội cho trẻ  trong nhóm bàn luận, tranh cãi với nhau. Hoạt động này có   các tình huống xảy ra như có cháu nói có ý đúng, ý hay, có cháu nói chưa có ý   hay, ý đúng. Vì vậy, cô là người giải quyết, tổng kết, kết luận các vấn đề  nảy   sinh. Giúp trẻ  biết phân công công việc và đánh giá, nhận xét, góp ý cho nhau  trong quá trình hoạt động theo tổ, nhóm. Mặc dù trong lớp gồm cháu dân tộc thiểu số và cháu dân tộc Kinh nhưng   chúng tôi yêu cầu các cháu khi đến lớp chỉ giao tiếp với nhau bằng Tiếng Việt;   phân công những cháu nói Tiếng Việt tốt kèm cặp, giúp đỡ, hướng dẫn những  cháu nói Tiếng Việt còn hạn chế, chú ý phát hiện và sửa sai từ, câu cho bạn.  Trong các giờ đón, trả trẻ cô giúp cháu biết chào hỏi, thưa gửi, biết giới  thiệu về  bản thân, gia đình và biết kể  những sở  thích của mình, kể  tên những   14
  15. người thân trong gia đình, tình cảm của trẻ đối với những người thân đó, những  con vật, đồ vật yêu thích, những sự việc đã xảy ra mà trẻ biết. Phối hợp với phụ huynh để trẻ giao tiếp bằng Tiềng Việt khi ở nhà. Thông thường lúc  ở  nhà phụ  huynh và trẻ  giao tiếp với nhau bằng tiếng  mẹ đẻ, họ ít quan tâm dạy con nói bằng Tiếng Việt nên việc phối hợp với phụ  huynh để dạy trẻ nói Tiếng Việt khi ở nhà là rất quan trọng. Ngoài thời gian  ở lớp các cháu có lượng thời gian rất lớn khi  ở nhà, nếu   được người thân quan tâm giúp đỡ trẻ nói Tiếng Việt rất có hiệu quả. Hiểu được vấn đề đó trong thời gian qua tôi đã tích cực phối hợp với phụ  huynh để quan tâm dạy Tiếng Việt cho trẻ khi ở nhà. Trong thời điểm đón trẻ, trả trẻ  và tận dụng những khi được gặp gỡ  tôi  đã trực tiếp trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ khi ở lớp, yêu cầu phụ  huynh dạy trẻ nói Tiếng Việt khi  ở nhà, cung cấp một số  bài thơ, câu chuyện,  chữ  cái và chỉ  ra những câu, những từ  mà trẻ  nói chưa đúng, chưa chính xác  hướng dẫn cho phụ huynh sửa sai giúp cho trẻ nói đúng. Yêu cầu cha, mẹ, anh chị cần dành một thời gian cần thiết để trò chuyện,  giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt.  Nhờ   áp dụng các  biện  pháp  trên  nên  mặc  dù chưa  kết  thúc năm  học  nhưng lớp tôi đã đạt được kết quả đáng phấn khởi. * Kết quả đạt được:                    Kết quả TT Nội dung K­G TB Yếu TS SL Tỷ  SL Tỷ  SL Tỷ lệ lệ lệ 1 Khả năng nghe 17 10 58,8 5 29,4 2 11,8 2 Khả năng nói 17 11 64,7 5 29,4 1 5,9 Khả năng làm quen  3 17 10 58,8 4 23,5 3 17,6 với đọc, viết. Khả năng hiểu lời nói  4 17 11 64,7 3 17,6 3 17,6 Tiếng Việt. Khả năng giao tiếp  5 bằng Tiếng Việt của  17 11 64,7 4 23,5 2 11,8 trẻ. 15
  16. Qua kết quả  ...cho thấy: số  lượng cháu đạt  Trung bình trở  lên: 87,1%; Yếu:  12,9%            * Bài học kinh nghiệm :            Nhờ áp dụng các biện pháp "Tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ mẫu  giáo 5­6T người dân tộc Bru­ Vân Kiều", bằng sự  giúp đỡ  của Ban giám hiệu   nhà trường cùng chị em đồng nghiệp và sự  nỗ  lực phấn đấu không ngừng của   bản thân, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau:          1. Giáo viên cần có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, chấp hành tốt   chủ  trương đường lối của Đảng; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành  mạnh giản dị, yêu nghề, mến trẻ, đối xử công bằng với trẻ, có trình độ chuyên   môn nghiệp vụ vững vàng, có ý thức học hỏi chị em đồng nghiệp để  vươn lên  về mọi mặt.         2.  Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ; nắm vững nội dung chương   trình giáo dục trong đó các nội dung về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ để  xây dựng kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ và các biện pháp giáo dục phù hợp.   Khi tổ  chức hoạt động phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  giáo viên cần nghiên  cứu kỹ các phương tiện, điều kiện, chuẩn bị  đầy đủ  các đồ  dùng cần thiết để  tiến hành hoạt động đạt kết quả cao. 3. Lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, phù hợp  với đặc điểm nhận thức và khả  năng của trẻ  và đáp  ứng nhu cầu phát triển  ngôn ngữ  cho trẻ. Khuyến khích sự  hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt   động chăm sóc, giáo dục đặc biệt là hoạt động giao tiếp. 4. Cần phải thường xuyên tổ chức cho trẻ tham gia chơi các Trò chơi để  phát triển ở trẻ tình cảm, nhận thức, khả năng giao tiếp ngôn ngữ, tinh thần tập  thể, biết nhường nhịn bạn bè, biết giao lưu, chia sẽ  kinh nghiệm của mình  trước những bạn khác, hạn chế tính rụt rè, nhút nhát của trẻ. 5. Có sự  phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên trong lớp, giáo viên trong   nhóm, với phụ huynh và những người thân trong gia đình trẻ. Phần III. Kết luận 3.1. Ý nghĩa phạm vi áp dụng của đề tài, sáng kiến giải pháp Giáo viên là lực lượng nồng cốt quyết định chất lượng chăm sóc, nuôi  dưỡng giáo dục trẻ, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tỷ lệ thuận  16
  17. với lương tâm, trách nhiệm của người giáo viên. Nếu các cháu mầm non được  chăm sóc, giáo dục chu đáo là cơ  sở  để  hình thành và phát triển nhân cách cho  trẻ; làm tiền đề nền móng vững chắc cho trẻ học phổ thông. Đảng, Nhà nước giao cho chúng ta trọng trách vinh vang, rất đỗi tự hào và  trách nhiệm lớn lao, đó là nhiệm vụ "Trồng người".  Bác Hồ nói: "Vì lợi ích mười năm ta phải trồng cây  Vì lợi ích trăm năm ta phải trồng người" Sự nghiệp "Trồng người" đối với trẻ em vùng thuận lợi đã rất khó khăn,  vất vã song đối với trẻ  em người dân tộc thiểu số  lại càng khó khăn vất vả  hơn. Làm sao cho trẻ phát triển đúng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà đó là  mục tiêu, trách nhiệm cao cả của mỗi một người giáo viên. Thấm nhuần lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua  dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự  nghiệp "Trồng người" của đất nước. "Tăng cường dạy Tiếng Việt" cho trẻ  là góp phần thực hiện "lời dạy"   của Người. Dạy Tiếng Việt cho trẻ  bao gồm các nội dung: dạy cho trẻ  nghe Tiếng   Việt một cách đầy đủ, chính xác; hiểu Tiếng Việt là hiểu được ý nghĩa câu nói,  câu hỏi câu trả lời; nói Tiếng Việt một cách thành thạo là nói đúng từ, đúng câu,  đúng âm  điệu, ngữ điệu, nhịp điệu, thanh điệu và làm quen với việc đọc, viết  Tiếng Việt.... Các nội dung trên có mối quan hệ  đặc biệt với nhau nếu nghe  đúng thì nói đúng và hiểu đúng ý nghĩa câu nói, ngược lại nếu nghe sai thì không  hiểu được ý nghĩa câu nói và nói không đúng. Để thực hiện tốt các nội dung trên   thì phải thực hiện đồng thời, thường xuyên và liên tục, kết hợp hài hòa giữa   Nhà trường­Gia đình­Xã hội.  Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt có ý nghĩa nhân văn sâu sắc  nhằm hình thành và phát triển toàn diện về  thể  chất, nhận thức, tình cảm và   quan hệ xã hội. Đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa   dân tộc, tinh hoa nhân loại; đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thực   hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta   đã và đang khởi xướng. Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt thông qua các biện pháp dạy   trẻ nói Tiếng Việt đúng quy định, nghe và hiểu được nội dung lời nói, làm  quen  với việc đọc, viết và sử dụng chúng trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày làm tiền   đề nền tảng cho việc phát triển tư duy, nhận thức và hoàn thiện nhân cách con   17
  18. người giúp cho các cháu trẻ em người dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Vân  Kiều nói riêng vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời. Sử dụng đúng Tiếng Việt ngay từ tuổi mầm non là cơ sở để giúp trẻ sau   này lớn lên có điều kiện mở rộng môi trường giao tiếp, giao lưu với bạn bè các  vùng miền trên quê hương, đất nước, trong cộng đồng dân cư, trong mái nhà  chung Việt Nam. Để dạy Tiếng Việt cho trẻ có kết quả, giáo viên mầm non cần vận dụng   linh hoạt, sáng tạo kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ  với kỹ  năng và thực tiễn   công việc. Phối hợp hài hòa giữa giáo dục Nhà trường­ Gia đình­ Xã hội. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất Đề nghị lãnh đạo ngành và cán bộ quản lý giáo dục mầm non góp ý chân   thành vào bản Sáng kiến kinh nghiệm này; tạo điều kiện để  bản thân tôi được   học tập thêm chị  em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều kinh  nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng  chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Bên cạnh những kết quả  đã đạt được song Sáng kiến kinh nghiệm này   cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính mong sự  đóng góp ý kiến  giúp đỡ  của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học của Nhà trường và Hội đồng  khoa học của ngành để  cho bản Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện   hơn và có khả  năng áp dụng trong phạm vi toàn trường và còn vươn đến các   trường mầm non thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới./.                                                                      18
  19.                                                                                      Người viết                                                                                              Nguyễn Thị Tú                   Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... .....................................................................................................................................              Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD­ ĐT LỆ THỦY ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... 19
  20. ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2