intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Thông qua các hoạt động hàng ngày ở trường mầm non, giúp trẻ phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản thân tại lớp mẫu giáo 4-5 Tuổi A Trường Mầm non 8/3 Nha Trang

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:36

33
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm phân tích, đánh giá thực trạng kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ tại lớp để đưa một số biện pháp giúp phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi A thông qua các hoạt động hàng ngày tại trường Mầm non 8/3 – TP Nha Trang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Thông qua các hoạt động hàng ngày ở trường mầm non, giúp trẻ phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản thân tại lớp mẫu giáo 4-5 Tuổi A Trường Mầm non 8/3 Nha Trang

  1. MỤC LỤC Trang I.  ĐẶT VẤN ĐỀ 02 1. Sự cần thiết của đề tài. 02 2. Mục đích nghiên cứu. 03 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 03 1. Thực trạng.của vấn đề cần giải quyết 04 2. Nội dung nghiên cứu 06 3. Đánh giá đề tài 16  4. Tổ chức thu thập minh chứng 19 III. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHỤ LỤC 22 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
  2. 1. Sự cần thiết của đề tài Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) là tổ chức có nhiều công trình  nghiên cứu sâu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn tại và phát triển của cá nhân  đã phân loại kỹ năng sống thành 3 nhóm cơ bản; và kỹ năng tự bảo vệ là một   trong những kỹ năng thuộc nhóm một­gồm các kỹ năng tự nhận thức và sống  với chính mình. Vì vậy nếu xét dưới góc độ tồn tại và phát triển của cá nhân  thì kỹ năng tự bảo vệ là kỹ năng rất cần thiết và quan trọng.  Theo các nhà nghiên cứu kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân là “Khả  năng con  người vận dụng những kiến thức để nhận diện, đồng thời biết cách ứng phó  được trước các tình huống bất lợi, những hoàn cảnh nguy hiểm có thể  xảy   đến để  bản thân có thể an toàn”. Chính vì vậy, quan tâm giáo dục trẻ  về  kỹ  năng bảo vệ bản thân là điều rất cần thiết mà cha mẹ cũng như cô giáo không   thể bỏ quên. Trang bị  kỹ  năng để  trẻ  tự  bảo vệ  mình luôn là quan điểm được các   chuyên gia tâm lý giáo dục nhấn mạnh.   Ở  bất cứ lúc nào và bất cứ  nơi đâu  đều tiềm ẩn những tình huống có thể xảy ra vì thế thông qua hoạt động mọi  lúc mọi nơi giáo viên có thể giáo dục trẻ  biết cách tự  bảo vệ  bản thân tránh   khỏi nguy hiểm, vượt qua nguy hiểm, biết cấp cứu khi gặp nạn, biết cách   đối phó với người lạ. Nếu trẻ có những cách xử lý tình huống chưa phù hợp,  hoặc lo lắng, hoảng sợ… giáo viên có thể kịp thời phát hiện, giải thích và sửa  sai ngay cho trẻ, để trẻ biết đó là những hành vi không đúng trẻ không nên bắt  chước theo.  Cha mẹ  thường sợ  hãi, lo lắng, tìm cách nghiêm cấm con tiếp xúc với  các rủi ro nhưng lại quên giải thích cho trẻ lý do vì sao và hậu quả có thể xảy  ra là gì. Điều này khiến trẻ  với tâm lý muốn khám phá lại càng tò mò hơn,   nhưng trẻ  lại không biết phân biệt được đâu là nguy hiểm và không nguy  hiểm để tự mình tránh xa. Thực tế  hiện nay tình trạng trẻ  thụ   động, không biết  ứng phó trong  những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách bảo vệ  bản thân trước các tình  huống nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ…để  lại những hậu quả  thật thương   tâm và đáng tiếc ngày càng nhiều trong xã hội. Thực tế này khiến cho xã hội,  các nhà tâm lý, đặc biệt là bậc học mầm non phải suy nghĩ. Sau khi quan sát, tìm hiểu trẻ tại nhóm lớp mà tôi phụ trách, tôi thấy t rẻ  trong lớp tuy đã tự  tránh xa những đồ  chơi, đồ  vật nguy hiểm, trẻ biết được  hành vi nào là nên, không nên, đúng hay sai nhưng  khả  năng xử  lý các tình  huống khi gặp nguy hiểm thì chưa cao, còn phải cần đến sự  nhắc nhở  giúp  đỡ của người lớn … Bên cạnh đó, giáo viên chỉ chú ý các nội dung giáo dục  hành vi tự bảo vệ cho trẻ mà chưa quan tâm đến việc hình thành các kỹ năng  tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  đúng mức, hoặc thực hiện còn mang tính hình  2
  3. thức, qua loa và đôi lúc còn gượng ép, có phần áp đặt ý muốn chủ  quan của  mình, cũng như chưa chú trọng đến vấn đề lồng ghép dạy trẻ kỹ năng tự bảo  trong các chủ  đề… Nắm bắt được tâm sinh lý trẻ  “Chơi mà học, học mà  chơi” thông qua hoạt động mọi lúc mọi nơi giáo viên dễ dàng định hướng và  giáo dục trẻ một cách nhẹ nhàng, thoải mái, giúp trẻ dễ dàng tiếp thu và vận  dụng những hiểu biết của mình một cách phù hợp.   Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  bản  thân  đối với sự  phát triển của trẻ, với mong muốn tích lũy thêm những tri  thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về  giáo dục  kỹ  năng tự  bảo vệ  bản  thân cho trẻ  mầm non, tôi đã chọn đề  tài nghiên cứu là “Thông qua các hoạt  động hàng ngày  ở  trường mầm non, giúp trẻ  phát triển kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân tại lớp mẫu giáo 4­5 Tuổi A Trường Mầm non 8/3 Nha Trang”  2. Mục đích nghiên cứu.  Phân tích, đánh giá thực trạng kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân của trẻ  tại  lớp để đưa một số biện pháp giúp phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho  trẻ  4­5 tuổi A thông qua các hoạt động hàng ngày tại trường Mầm non 8/3 –  TP Nha Trang. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  Theo tiến sĩ Nguyễn Thu Cúc, chuyên gia tư  vấn của ABS Training cho  biết: “Kỹ tự bảo vệ bản thân không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp.   Việc giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  em bao gồm những nội  dung hết sức đơn giản, gần gũi với trẻ  em, là những kiến thức tối thiểu để  trẻ  có thể  tự  lập”  hoặc theo tác giả  Yayne Dendhire, trong bộ  sách Healthy  Habits của nhà xuất bản giáo dục Macmillan, Úc đã nhận định: “Kỹ  năng về  giữ  an toàn là tránh khỏi những nguy hại, khỏi những mối nguy hiểm như bị  tổn thương về thể xác lẫn tinh thần”  Bên cạnh nghiên cứu các tài liệu dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân tôi   đã đọc một số  tác phẩm hữu ích hộ  trợ  sự  hoàn thiện kỹ  năng này, chẳng  hạn: Tuyển tập “Những câu chuyện vàng những kỹ  năng tự  bảo vệ  mình”  của tác giả  Bạch Băng cùng các đồng tác giả  giúp trẻ  nhận thức được tầm  quan trọng của việc tự  bảo vệ  bản thân thông qua các câu chuyện diễn ra   trong chính cuộc sống của trẻ  nhỏ. Hay trong tác phẩm “45 cách dạy trẻ  tự  bảo vệ  mình” của tác giả  Yoo Yeo Hong được nhà xuất bản Thông tin và  truyền thông dịch, sản xuất năm 2011 đã trình bày đan xen giữa lý thuyết và  thực hành, giúp trẻ nhận biết các mối nguy hiểm, nâng cao cảnh giác và bảo  vệ  an toàn cho chính mình cũng như  hướng dẫn trẻ  cách đối phó hoặc thoát  khỏi nguy hiểm tạm thời. Dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân thực sự rất cần thiết cho con trẻ.   Trẻ  có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế  nào để tránh xa những mối   3
  4. nguy hiểm hoặc khám phá thế  giới trong phạm vi an toàn. Chính vì vậy, bên  cạnh việc giúp trẻ  hình thành thói quen và kỹ  năng cần thiết để  bảo vệ  bản   thân, cha mẹ, cô giáo cần đồng hành và chia sẻ  với trẻ  về  những mối nguy   hiểm có thể gặp phải trong gia đình, trong trường học và ở  ngoài xã hội phù  hợp với lứa tuổi của trẻ.  * Đặc điểm về kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ 4­5 tuổi Ở trẻ mẫu giáo, đặc biệt là đối với trẻ 4­5 tuổi thì sự  nhận thức và quá  trình lĩnh hội, tích lũy kinh nghiệm, biểu tượng, vốn sống, so với các lứa tuổi   trước đã phong phú hơn. Điều này giúp trẻ  có những nhận biết cơ  bản về  một số  đồ  vật không an toàn, những nơi nguy hiểm, những tình huống khó  khăn…và có những cách  ứng phó và bảo vệ  bản thân. Tuy nhiên kỹ  năng tự  bảo vệ của trẻ còn nhiều hạn chế. ­ Trẻ rất dễ bị mất tập trung bởi những cảnh vật mới lạ hoặc nh ững đồ  vật trong tay trẻ  nếu thình lình rơi xuống đất hoặc lăn vào những nơi nguy  hiểm như ao, hồ, bể chứa nước, giếng…trẻ sẽ tìm cách đuổi theo mà không   chú ý đến những nguy hiểm trước mắt. ­ Trí nhớ: Trẻ mẫu giáo 4­5 tuổi ít khi ghi nhớ những điều gì nếu chỉ nói  một lần với trẻ, trí nhớ chủ định ở trẻ phát triển mạnh. ­ Nhu cầu khám phá thế giới, môi trường xung quanh của trẻ rất lớn bất   kể chúng có an toàn hay không. Đặc biệt, đối với những đồ vật hàng ngày bị  người lớn cấm đoán không cho phép tiếp xúc hoặc chơi, vì thế  trẻ  không  lường trước được những nguy hiểm có thể gặp phải. ­ Ở trẻ 4­5 tuổi, tư duy của trẻ vẫn mang tính trực quan, sự quan sát và   đánh giá của trẻ còn mang đậm màu sắc chủ quan, cảm tính rất dễ bị thuyết  phục, nếu những người xấu nắm được đặc điểm tâm lý của trẻ  như: Thích  ăn kẹo, nhận quà, chơi đồ  chơi…là cơ  hội cho trẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ. Trẻ  không đủ bình tĩnh để phán đoán, để quyết định hành động, xử trí như thế nào   trong những tình huống gặp phải. Với những đặc điểm về  những kỹ năng tự  bảo vệ  của trẻ  4­5 tuổi nêu  trên thiết nghĩ vấn đề giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ là rất cấp thiết. Giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  cho trẻ  4­5 tuổi có  ảnh hưởng đến phát  triển toàn diện nhân cách trẻ về các mặt thể chất, tình cảm­xã hội, giao tiếp,  ngôn ngữ, nhận thức và sẵn sang đi học. Cụ thể, giáo dục kỹ năng tự bảo vệ  giúp cho trẻ  được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, chủ  động, có khả  năng thích  ứng được với những thay đổi, những khó khăn, thử  thách trong   cuộc sống. 1. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết 1.1. Thuận lợi 4
  5. Trường Mầm non  8/3  là đơn vị  trực thuộc Phòng Giáo dục – Đào tạo  Thành phố  Nha Trang. Điều kiện cơ  sở  vật chất trường, lớp khang trang,  sạch đẹp đáp ứng tốt các nhu cầu học tập, vui chơi của trẻ. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, sát sao với các hoạt động của  lớp, có những ý kiến chỉ đạo kịp thời nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và  giáo dục trẻ trong lớp, trường. Chuyên môn đã triển khai và thực hiện công tác giáo dục phát triển kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân trong toàn trường; cũng như  triển khai kịp thời các  công văn chỉ  đạo của cấp trên về  vấn đề  đảm bảo an toàn cho trẻ  trong  trường mầm non và tuyên truyền đến giáo viên, phụ huynh về việc an toàn sử  dụng các hạt nhựa, đồ chơi nhựa cho trẻ. Giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc  giáo kỹ năng tự bảo  vệ bản thân đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Đa số các cháu trong độ tuổi đều theo học với nhau từ các năm học trước   nên có sự thân thiết, gần gũi, đoàn kết. Bản thân tôi thường xuyên tham gia học tập bồi dưỡng chuyên môn, các   chuyên đề ở trường bạn, dự giờ, học hỏi từ các đồng nghiệp và cũng có kinh   nghiệm lâu năm trong công tác chăm sóc ­ giáo dục trẻ. 1.2. Khó khăn Trẻ tuy đã được đến trường sớm, được trang bị những kiến thức về kỹ  năng sống nhưng kỹ năng tự bảo vệ bản thân chưa nhiều, khả năng xử lý các  tình huống gặp phải chưa cao vì thực tế trẻ chưa tiếp xúc nhiều với thế giới  bên ngoài, ngoài gia đình và trường mầm non.  Giáo viên  chưa xây dựng được kế  hoạch giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  một cách toàn diện hơn theo hướng tích hợp các hoạt động   dạy, vui chơi và các hoạt động khác. Giáo viên  thường quan tâm việc giáo  dục nhận thức và giáo dục kỹ  năng sống chung chung cho trẻ  nhiều hơn so  với việc giáo dục từng kỹ  năng một, chưa chú ý đúng mức, hoặc thực hiện   còn mang tính hình thức, lồng ghép giáo dục còn qua loa và đôi lúc còn gượng  ép, có phần áp đặt ý muốn chủ quan của mình. Phụ  huynh còn bao bọc chưa dám cho trẻ  tự  lập, tự  xử  lý mà đa phần  còn làm giúp trẻ. Giáo viên chưa chủ  động tuyên truyền với phụ huynh phối  hợp với nhà trường và xã hội trong vẫn đề  giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  bản   thân cho trẻ. Bảng 1: BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT ĐẦU NĂM THÁNG 10/2018 (Chưa áp dụng) 5
  6. Tháng 3/2016 NỘI DUNG KHẢO SÁT ĐẠT CHƯA ĐẠT Sĩ số % Sĩ số % + Trẻ nhận biết được những hành động  13/29 44,8 16/29 55,2 và tình huống nguy hiểm với bản thân + Trẻ  chủ  động giải quyết các vấn đề  15/29 51,7 14/29 48,3 trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày,  các hoạt động lễ  hội nhằm tự  bảo vệ  bản thân. + Trẻ  mạnh dạn, tự  tin nêu các phương  10/29 34,4 19/29 65,6 án giải quyết của mình nhằm tự bảo vệ  bản thân trong các tình huống. +   Trẻ   biết   tìm   kiếm   sự   giúp   đỡ   của  11/29 37,9 18/29 62,1 những người đáng tin cậy nhằm tự  bảo  vệ bản thân Trẻ  chủ  động mạnh dạn xử  lý các tình  9/29 31,1 20/29 68,9 huống bất trắc nảy sinh hằng ngày mà  không cần có sự can thiệp của cô. Từ việc khảo sát thực trạng giáo dục này tôi đã chủ động đưa ra một số  biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ 4­5   tuổi ở lớp tôi phụ trách như sau: 2. Nội dung nghiên cứu  Biện pháp 1: Xây dựng kế  hoạch giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  bản   thân cho trẻ  một cách toàn diện, thông qua các chủ  đề  trong năm học  theo hướng tích hợp các hoạt động dạy, vui chơi và các hoạt động khác. Việc giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  cho trẻ  theo hướng tích hợp với các  hoạt động dạy, vui chơi và các hoạt động khác là quan điểm hiện đại, không   những phù hợp với tâm lý trẻ mà còn phù hợp với xu hướng giáo dục của thế  giới hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục kỹ năng này. Tôi lựa chọn các nội dung giáo dục kỹ  năng bảo vệ  gần gũi với trẻ  để  tích hợp trong các chủ đề. DỰ KIẾN CHỦ ĐIỂM NĂM HỌC 2018 – 2019 Lớp : 4 ­ 5 TUỔI A STT CHỦ ĐIỂM KỸ NĂNG DẠY TRẺ 6
  7. Dạy  trẻ   biết   không  đi   theo  và  TRƯỜNG MN +TẾT  1 nhận   quà   của   người   lạ   khi   chưa  TRUNG THU được người thân cho phép   Dạy trẻ  biết tránh các hành vi  xâm hại thân thể. 2 BẢN THÂN   Dạy trẻ  một số  kỹ  năng thoát  hiểm NGHỀ NGHIỆP QUANH BÉ   Dạy trẻ  không chơi những đồ  3 vật gây nguy hiểm và cách sử  dụng  + CÔ GIÁO LÀ MẸ HIỀN những đồ vật nguy hiểm  Dạy trẻ biết cách đội và tháo  mũ bảo hiểm 4 GIAO THÔNG   Dạy trẻ  biết  ý  nghĩa và  có ý  thức   thực   hiện   theo   quy   định   của  một số  biển báo giao thông và nơi  nguy hiểm   Dạy   trẻ biết   địa   chỉ   số   điện  thoại của bố  mẹ, biết các số  điện  thoại   khẩn   cấp   và   biết   gọi   người  GIA ĐÌNH + BÉ YÊU CHÚ  lớn khi gặp các tình huống xảy ra. 5 BỘ ĐỘI   Dạy   trẻ   nhận   diện   người   lạ  người quen  Dạy trẻ những tình huống nguy  hiểm trong cuộc sống hàng ngày   Dạy trẻ  biết không ăn những  6 TẾT VÀ MÙA XUÂN thức ăn có hại cho sức khỏe THỰC   VẬT   QUANH   BÉ   +   Dạy trẻ  phải làm gì trong một  7 NGÀY QTPN 8/3 thảm họa tự nhiên   Dạy   trẻ   không   chơi   ở   những  8 NƯỚC VÀ HTTN nơi nguy hiểm  Dạy trẻ  kỹ  năng biết kêu cứu,  9 ĐỘNG VẬT QUANH BÉ giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm. 7
  8. Ví dụ: Trong chủ đề “Gia đình”, trong tuần 1 chủ đề con là “Đứa trẻ ở  nhà” bao gồm các nội dung dạy trong tuần như sau: + Nhận diện người lạ, người quen. + Tình huống nguy hiểm trong cuộc sống hàng ngày (bị người thân đánh  đập, cách sử dụng các đồ dùng sắc nhọn, không ăn những thức ăn nghi ngờ ôi  thiu…) Hoặc trong chủ  đề  “Bản thân” chúng ta có thể  giáo dục giới tình và kỹ  năng tránh bị xâm hại tình dục, một số kỹ năng thoát hiểm. Ví dụ: Vấn đề bảo vệ sức khỏe bản thân Tôi luôn chú ý trước mỗi bữa ăn đều cho trẻ  lau chùi chén muỗng thật  khô ráo và duy trì rửa tay sạch sẽ trước khi vào bàn ăn; vào mỗi bữa ăn đều   giới thiệu món ăn và chất dinh dưỡng cho trẻ biết, cách nhận biết những món  ăn ngon và những món ăn bị  nghi ngờ  ôi thiu, cho trẻ  biết những món ăn  không tốt cho sức khỏe. Việc duy trì bé làm nội trợ  hằng tuần cũng đã cung  cấp rất nhiều các kỹ  năng cho trẻ  trong cuộc sống như: Cách thao tác với   những vật nguy hiểm như dao, kéo, điện…một cách an toàn. Để thực hiện tốt các nội dụng trên tôi đã: + Ra soát toàn bộ chương trình giáo dục mầm non, xem xét nội dung nào  có thể lồng ghép nội dung kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ. Tùy vào những chủ đề  theo tuần, tháng, học kỳ mà tôi lựa chọn những kỹ năng sống phù hợp để giáo   dục cho trẻ. + Xây dựng mục tiêu của từng nội dung và của kỹ  năng tự  bảo vệ  cần   đạt được về kỹ năng, kiến thức, thái độ + Xác định các mức độ cần đạt được dựa vào các tiêu chí và mức độ của   từng kỹ năng + Xây dựng kế hoạch bài học theo hướng lồng ghép giáo dục kỹ năng tự  bảo vệ Như vậy nội dung giáo dục kỹ năng tự  bảo vệ cho trẻ  4­5 tuổi B được   tập trung vào 3 vấn đề  lớn: An toàn  ở  gia đình, an toàn nơi công cộng và an  toàn giao thông. Đặc biệt trong thời gian gần đây vấn đề  xâm hại tình dục   đang rất nóng và nhận được rất nhiều sự  quan tâm của các bậc phụ  huynh   nên tôi đã mạnh dạn chọn lựa lồng ghép nội dung giáo dục “giáo dục giới   tính, tránh xâm phạm thân thể  và các hành vi xâm hại tình dục” dù trong   chương trình không đưa ra. Ngoài ra tôi đã khảo sát, nghiên cứu cũng như những đề xuất của một số  giáo viên trong tổ, tôi đã thiết kế  nội dung khảo sát mức độ  nhận thức về  việc tự bảo vệ bản thân của trẻ 4­5 tuổi như sau (phụ luc 2, phụ lục 3): 8
  9. Nội dung1: Biết và không chơi với một số đồ vật nguy hiểm (dao, đinh,  kim tiêm, ổ điện, chất tẩy rửa, bật lửa, thuốc pháo, phích nước sôi…) Nội dung 2: Biết không nên chơi  ở  những nơi nguy hiểm (nhà bếp, nơi  bụi bẩn, có khói thuốc lá, bãi rác, ao hồ song suối…) Nội dung 3: Biết hành động nguy hiểm (xô đẩy, đá đấm, đánh nhau, cắn   nhau, chơi trên đường đi…) Nội dung 4: Biết cách đội và tháo mũ bảo hiểm. Nội dung 5: Biết kêu cứu giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm (đi lạc, té  ngã, chạy máu, khó chụi trong người, kẹt thang máy, đám cháy, động đất…) Nội dung 6: Biết địa chỉ, số điện thoại nhà, của bố mẹ và gọi bố mẹ khi   gặp các tình huống bất trắc xảy ra Nội dung 7: Biết các số  điện thoại khẩn cấp: 113 (công an), 114(cứu  hỏa), 115(cứu thương) khi gặp tình huống khẩn cấp xảy ra Nội dung 8: Biết không đi theo người lạ  khi chưa được người thân cho  phép. Nội dung 9: Biết ý nghĩa và có ý thức thực hiện theo quy định của một   số biển báo giao thông, biển báo nơi nguy hiểm. Nội dung 10: Biết các hành vi xâm hại thân thể (ôm, hôn, sờ  mó vào bộ  phận sinh dục của trẻ khi trẻ đó không phải là mẹ của mình) Sau khi xây dựng kế  hoạch dạy trẻ  kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân một   cách toàn diện, cũng như kết quả khảo sát được tôi đã mạnh dạn đưa ra biện   pháp 2 nhằm phát triển kỹ năng tự  bảo vệ bản thân cho trẻ  tại nhóm lớp tôi   phụ trách.  Biện pháp 2: Phát triển kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ thông  qua việc tập giải quyết các tình huống.  Trong trường mầm non giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  cho trẻ  được thực  hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Bài học trên lớp, trò chơi, tham quan,  dạo chơi, lao động hàng ngày và trong cuộc sống hàng ngày. Việc giáo dục kỹ  năng cho trẻ  ít có cơ  hội được trải nghiệm bằng thực tế  sinh động mà chỉ  thông qua những tình huống giả  định hoặc qua những buổi dã ngoại. Và với   việc giải quyết một cách thuần thục những tình huống giả  định này trẻ  sẽ  không bị  lung túng khi giải quyết những tình huống mà trong thực tế  trẻ  sẽ  gặp phải. Để phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ thông qua các trò chơi  tình huống tôi chú ý cung cấp cho trẻ  những tình huống mà trẻ  thường gặp   phải trong cuộc sống liên quan đến kỹ năng tự bảo vệ như: Tình huống trẻ bị  lạc mẹ trong siêu thị, khi đi tham quan, trẻ bị người lạ dụ dỗ, bị người khác  9
  10. tấn công, trẻ  bị  lam dụng… dưới nhiều hình thức khác nhau: Tình huống cô  xây dựng lên, tình huống qua các video, qua các câu chuyện, qua các chuyến đi   dạ ngoại. * Tình huống cô xây dựng lên VD 1: Trẻ bị lạc bố mẹ Đặt vấn đề: Khi đang đi chơi tại trung tâm thương mại, công viên, hay đi   mua sắm, bé bị lạc bố mẹ. Cô cho trẻ nêu cách giải quyết khi gặp phải trường hợp như vậy Cô hướng dẫn trẻ kỹ năng bé cần biết: + Nếu vừa bị lạc bố mẹ khi đang mua sắm hoặc vui chơi thì bé hãy đứng   yên một chỗ, nơi mà bố mẹ bé dễ dàng nhìn thấy, không chạy lung tung. + Nhờ một người bên cạnh liên lạc vào số di động, điện thoại bàn…Bất  kỳ số nào mà bé có thể nhớ. + Nếu bị  lạc bố  mẹ  từ  lúc nào mà bé cũng không biết thì bé cần hỏi   người xung quanh và tìm đến các phòng trung tâm của khu thương mại, công   viên…để nhờ họ đọc loa tìm bố mẹ. + Khi bé bị lạc trên đường, nếu có thể, hãy tìm đến sự  giúp đỡ  của một  chú công an và đến đồn cảnh sát để bố mẹ có thể tìm thấy bé. VD 2: Nếu người lạ cho quà  Đặt vấn đề: Có người lạ  đến cho bé ăn kẹo, bánh, uống sữa hay đồ  chơi… Cho trẻ tự giải quyết vấn đề Cô dạy trẻ kỹ năng bé cần biết: + Tuyệt đối không được nhận, cầm, ăn. + Không tiếp tục đứng gần, nói chuyện hay tiếp xúc với người đó nữa,  hãy đi ra chỗ người thân, bạn bè, chỗ đông người. + Kể cho bố mẹ, người thân đang ở bên cạnh ngay. + Trong trường hợp người đó cứ  bám theo ép bé ăn hay bắt lên xe thì  phải quẫy đạp và hét thật to để mọi người đến cứu.    * Tình huống cho trẻ xem qua video VD 1: Không đi theo ngươì lạ ­ Đặt vấn đề: Những người không quen biết nói đưa bé đi mua kẹo bánh,  bim bim, đồ chơi hay đưa bé về nhà… ­ Kỹ năng bé cần biết: 10
  11. + Nói “không” với người lạ mặt. + Người lạ mặt cố nài ép, dụ giỗ bé thì bé cần đến chỗ chú bảo vệ, chú  công an, ghé vào đồn công an gần nhất hoặc chạy vào một cửa hàng ở gần đó  nhờ giúp đỡ. + Khi đang ở ngoài chỗ đông người mà bị ép đi theo, bé hãy hô thật lớn,  kẻ xấu sẽ tự đi. VD 2: Vạch rõ giới hạn ­ Đặt vấn đề: Một người ôm bé, thơm bé, hay chạm vào các bộ phận  cấm trên cơ thể. ­ Kỹ năng bé cần biết: + Nếu là cô giáo, bố mẹ, ông bà nội ngoại hay họ hàng thân thiết thì có  thể bế, ôm hay thơm bé. + Không cho phép ai ngoài bố mẹ động chạm vào các vùng cấm trên có  thể. VD3: Rút ra bài học ­ Đặt vấn đề: Đọc câu chuyện trên báo về  chuyện bắt cóc trẻ  em, lừa   đảo, trấn lột… ­ Kỹ năng bé cần biết: + Dựa vào các bài học thực tế, cô giáo, bố mẹ phải đưa ra lời khuyên và   cách xử lý cho trẻ. + Khi bị đe dọa trấn lột: Phải báo ngay cho cô giáo và bố mẹ… + Cho bé học võ để tự vệ: Ngày nay có rất nhiều các môn phái võ thuật  phù hợp với bé. Việc tham gia vào các lớp võ tự vệ là rất cần thiết vì nó vừa   giúp trẻ tự vệ lại có thể tăng cường sức khỏe cho bé. VD 3: Xảy ra cháy  Đặt vấn đề: Trong nhà xảy ra cháy  Kỹ năng bé cần biết: + Việc đầu tiên phải xem là nguyên nhân lửa bốc lên từ đâu. Nếu là một   đám cháy nhỏ hoặc một chiếc chảo nấu ăn bốc cháy thì bé có thể dùng chiếc   khăn nhúng nước rồi úp lên đám cháy đó để dập lửa.  + Tuyệt đối không được cầm chảo đang sôi mà mang đi nơi khác vì có  thể bỏng tay và trong lúc di chuyển, gió sẽ làm lửa bốc lớn hơn. + Nếu đám cháy quá lớn thì bé cần chạy thật xa khu vực có lửa rồi, la  lớn tiếng và sang nhà hàng xóm để nhờ họ gọi đến số cứu hỏa 114. 11
  12. + Trong trường hợp bị  lửa bén vào quần áo, nhắc trẻ  không nên hốt  hoảng bỏ chạy vì khi đó gió sẽ càng làm lửa cháy lớn hơn. Lúc này nếu quần   áo dễ  cởi thì bé nên cởi đồ  ra rồi ngâm vào nước cho lửa tắt, còn nếu thấy   không cởi ngay được thì nằm xuống sàn nhà lăn người qua lại hoặc lấy vải   nhúng nước quấn vào chỗ cháy để dập lửa.  + Nếu thấy không thể  dập được lửa bé hãy kêu cứu thật to để  người  khác lấy nước, lấy chăn mền nhúng nước phủ lên người, dập lửa giúp mình.   Cần lưu ý, tuyệt đối không được cầm bình cứu hỏa phun thẳng vào người khi  đó vì hóa chất chữa cháy có thể gây nhiễm trùng vết bỏng.    * Thông qua các câu chuyện (phụ lục 4) Xuất phát từ  đặc điểm tâm lý của trẻ  mầm non là rất thích nghe kể  chuyện. Nội dung các câu chuyện thường để  lại  ấn tượng cho trẻ  khó phai  mờ. Chính vì vậy tôi   đã sáng tác một số  câu chuyện lồng vào  đó các tình  huống để giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện. ­  Ở  chủ  điểm “ Nước và mùa hè”. Với đặc thù trẻ  đang sống  ở  thành  phố, vì vậy ngoài việc giáo dục trẻ  tránh xa ao, hồ, hố  nước nguy hiểm mà   môi trường sống của trẻ ít gặp. Thì việc đi lại trong nhà vệ sinh không đúng  cách cũng có thể  có nhiều tình huống xảy ra có thể  gây nguy hiểm cho trẻ.  Chính vì vậy, tôi đưa ra những tình huống để  dạy trẻ  cách sử  dụng an toàn  trong phòng vệ sinh bằng cách đưa vào câu chuyện để  trẻ  rút ra bài học kinh  nghiệm cho mình  Qua câu chuyện tôi giúp trẻ rút ra bài học : ­ Sàn nhà tắm rất trơn, tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ dễ bị ngã.  Hoặc câu chuyện “Chiếc ổ khóa” Với câu chuyện này tôi giáo dục trẻ: ­ Không vào nhà vệ sinh một mình và chốt, khoá cửa. Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như: ­  Không tự  ý xả  nước  ở  vòi vì dễ  xảy ra bỏng khi sử  dụng bình nóng   lạnh. ­ Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn. Không tự ý xả  nước và trèo vào đề  phòng nước quá nhiều sẽ  nguy hiểm, không nằm bồn   tắm quá lâu… ­ Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có rất   nhiều tình huống bất  trắc trẻ rất dễ gặp trong cuộc sống, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ.   Với   nền   kinh tế  phát triển như  hiện nay, nhiều gia đình sử  dụng ô tô là   phương tiện đi lại của gia đình hàng ngày. Xong việc chấp hành luật lệ  an  12
  13. toàn giao thông khi đi ô tô và xe máy đối với trẻ  thường các bậc phụ  huynh   vẫn còn coi nhẹ chưa được thực hiện nghiêm túc.    Với “Chủ  điểm giao thông” chúng tôi đưa tình huống cho trẻ  qua câu  chuyện “Một chuyến về quê” và “Đi xe máy” Sau khi  cho trẻ nghe chuyện và toạ đàm với trẻ về nội dung câu chuyện,   tôi thấy có nhiều cháu cũng nhận là thường xuyên không đội mũ bảo hiểm  khi đi xe máy đi học. Sau đó, nhiều bậc phụ  huynh đã chia sẻ  với cô giáo:    Bản thân phụ huynh cũng ít khi nhớ cho con đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy  đến   trường,   bởi   một   phần vướng,   một   phần   công   an   thường   không   phạt  trường hợp này nên các phụ  huynh cũng hay bỏ  qua. Nhưng bây giờ, các con  đòi đội mũ bảo hiểm khi đi học nên phụ  huynh mới bắt đầu quan tâm. Như  vậy tôi thấy rằng, qua câu chuyện trẻ  đã nhận thức được sự  cần thiết của  việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe. Biết được nếu không thực hiện tốt thì có thể  xảy ra rủi ro như thế nào. Từ đó tạo cho trẻ ý thức chấp hành luật lệ an toàn  giáo thông từ bé. * Thông qua các hoạt động lễ hội Hay từ  đầu năm nhà trường luôn xây dựng kế  hoạch tổ chức các hoạt  động lễ hội trong một năm học, tôi đã dựa vào đó để xây dựng kế hoạch giáo  dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ tại nhóm lớp.  Ví dụ: Ngày 17/3 trường tổ  chức cho các cháu đi du lịch champa, tôi đã  kết hợp cho trẻ tự chuẩn bị những đồ  dùng để  cầm đi du lịch như: quần áo,  giày, mũ, nước uống, ba lô… cho trẻ tự xếp đồ vào ba lô để đi.  Trước khi đi  mấy ngày tôi đã lồng ghép đưa ra các tình huống khi bị lạc để trẻ có thể tự sự  lý. Tôi kết hợp ôn lại cho trẻ khi đi chơi. Ngày 31/3 trường tôi cũng tổ  chức “Đêm xa mẹ” cho các cháu lớp mẫu   giáo, kế  hoạch này đã được đề  ra từ  đầu năm nên tôi đã chuẩn bị  kỹ  lưỡng   các kỹ  năng hướng dẫn trẻ  như: Kỹ  năng tự  chăm sóc bản thân khi xa mẹ  trong chủ điểm “Gia đình”; Kỹ năng chuẩn bị đồ  dùng cần thiết khi đi chơi,   kỹ năng an toàn khi chơi, không tới gần lửa vì kế hoạch nhà trường đưa ra có  tổ  chức vui chơi lửa trại nên trong chủ  điểm “Bản thân” tôi đã chú ý lồng   ghép. Tôi gợi ý để khai thác kinh nghiệm sống của trẻ và khuyến khích trẻ tự  chia sẻ, xây dựng những tình huống mà trẻ đã gặp phải hoặc đã quan sát thấy. Tận dụng những tình huống mà trẻ gặp phải trong thực tế để  xây dựng  các hoạt động phù hợp nhằm giáo dục kỹ năng. Cung cấp kiến thức, làm giàu vốn kinh nghiệm của trẻ  thông qua việc  tạo điều kiện và cơ  hội để  trẻ  có thể  làm quen với môi trường xung quanh,  13
  14. trong đó có cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội thông qua việc quan   sát tranh ảnh, đọc và kể chuyện, tham quan, các giờ hoạt động… Khi xây dựng các tình huống tôi chú ý không đưa ra cách giải quyết cụ  thể mà tạo điều kiện để  trẻ  tự  tìm cách giải quyết theo khả năng của mình.   Trong quá trình trẻ  giải quyết một tình huống nào đó, tùy từng nhóm trẻ  mà  có thể nâng cao yêu cầu với trẻ cho phù hợp. Khi trẻ giải quyết các tình huống giáo viên cần theo dõi cách giải quyết   của trẻ để kịp thời đưa ra những gợi ý cần thiết nhằm hướng dẫn trẻ. Giáo viên phải luôn quan sát và kích lệ  cũng như  tuyên dương những  biểu hiện kỹ năng tốt của trẻ. Các tình huống đưa ra phải phù hợp với vốn kinh nghiệm, sự  hiểu biết  và hứng thú của trẻ để có thể tự mình hoặc với sự gợi ý của giáo viên có thể  giải quyết được. Các tình huống tạo ra không gò bó, áp đặt trẻ. Tình huống phải đảm bảo  tính tự  nhiên, gắn liền với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ, phản ánh mối   quan hệ đa dạng, phong phú trong xã hội. Giáo viên cần tạo sự giao tiếp gần gũi, thân thiện, bình đẳng giữa cô và  trẻ, giữa trẻ và trẻ với nhau.  Bên cạnh đó tôi kết hợp sử  dụng trò chơi để  tổ  chức cho trẻ  một trò  chơi mà thông qua đó giúp trẻ giải quyết một vấn đề, biểu hiện thái độ  hay   thực hiện hành động, việc làm. Trong đó trò chơi học tập và đóng vai của trẻ  mẫu giáo rất thích hợp để giúp trẻ rèn luyện nhận thức và thực hành kỹ năng. Sự  trải nghiệm trong môi trường chơi phong phú, hấp dẫn tạo cơ  hội   cho trẻ tiếp cận xâu rộng hơn với thế giới hiện thực của người lớn và được   gia nhập vào trong đó thông qua lăng kính của trẻ từ đó các kỹ năng được hình   thành và phát triển. * Trò chơi học tập Hình thức trò chơi này giúp trẻ  nhận biết kỹ  năng tự  bảo vệ  qua việc   tiến hành các hành động nhận thức để  phân loại các hành vi đúng và sai, nên   và không nên. Từ đó trẻ sẽ có kinh nghiệm thực tế để có thể giải quyết trong   tình huống cụ thể. Ở lứa tuổi mầm non, trẻ em chơi nhiều hơn là học, những nhiệm vụ trí   tuệ  đặt ra cho các em không nhiều nên các trò chơi học tập cần độ  khó vừa  phải. Bên cạnh đó, đồ  dùng, đồ chơi chuẩn bị cho trò chơi học tập ở  lứa tuổi   này cần phải bắt mắt, đẹp để  thu hút sự  chú ý của trẻ. Khi hướng dẫn trò  14
  15. chơi, giáo viên phải trực tiếp làm mẫu 2­3 lần thì các em mới có thể nắm bắt   được cách chơi và luật chơi Khi thiết kế trò chơi, giáo viên phải: + Dựa vào nội dung bài học, điều kiện và thời gian mỗi giờ học + Trò chơi phải mang ý nghĩa giáo dục + Trò chơi phải tạo được hứng thú với trẻ + Trò chơi phải có mục đích rõ ràng: Nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức,   kỹ năng nào hay giới thiệu kiến thức nào. + Trò chơi phải có luật + Dự trù đồ  dùng đồ  chơi, số  lượng người tham gia chơi và tình huống   có thể xảy ra. + Chuẩn bị phần thưởng cho người thắng cuộc, đây là một yếu tố quyết   định sự hứng thú của trẻ đối với trò chơi. Ví dụ:  ­ Trò chơi đoán tên đồ vật: Đây là trò giúp trẻ chú ý vào các chi tiết. Bạn  lấy bất kỳ  một đồ  vật trong nhà,  ở  cửa hàng, miêu tả  về  chúng để  trẻ  đoán  tên. ­ Trò chơi miêu tả: Bạn cho trẻ nhìn bức tranh về phong cảnh, con người   hoặc đồ  vật sau đó hãy nói con nhắm mắt và kể  lại những gì chúng nhớ. Ai   nhớ nhiều chi tiết hơn sẽ là người chiến thắng. ­ Trò chơi tìm đường: Đây là trò chơi giúp trẻ tìm đường về nhà hay đến  một địa điểm nào đó. Bạn hãy chỉ cho trẻ những dấu hiệu nhận biết ở các lối   rẽ, sau đó để  trẻ  miêu tả  lại. Để  trẻ  hứng thú hơn bạn có thể  đưa ra những   phần thưởng nho nhỏ. Cũng tương tự như vậy, khi bạn cho con đi chơi công  viên, đi cắm trại, du lịch hãy chơi trò tìm đường bằng cách đánh dấu trên thân   cây hay hòn đá.   * Trò chơi đóng vai Đối với trẻ  mầm non, hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ  đạo trong  hoạt động của trẻ  ở trường. Thông qua giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác   nhau trong xã hội, trẻ  đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ  nhìn thấy trong  cuộc sống. Tất cả  những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ  có sẽ  được, trẻ thể hiện qua họat động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến   việc tạo các tình huống khi trẻ  đóng vai để  trẻ  tìm cách giải quyết, cũng  như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ đã có. 15
  16. Ví dụ:  Ở  góc “Gia đình”, khi tôi đóng giả  một người lạ  đến gõ cửa khi  trẻ   ở  nhà một mình, thì trẻ  biết nhắc nhau “Đừng mở  cửa, phải đợi bố  mẹ   về đã”. Hoặc tôi cho trẻ   ở  nhóm gia đình cùng đi siêu thị  và đưa ra tình huống:   “Con bị  lạc bố  mẹ   ở  siêu thị” thì trẻ  biết ra nhờ  cô bán hàng gọi điện thoại   cho bố mẹ, cháu đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với   cô đợi bố mẹ đến đón. Tôi đóng một vai làm người đi đường và đến rủ bé: Đi cùng cô để cô dắt  về với mẹ.  Các trẻ  trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu không sẽ  bị  bắt cóc   đấy”. Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện của trẻ để  có những gợi mở  kịp thời như: Các bác đã thắt dây an toàn chưa, đừng thò  đầu, thò tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.  Với nhóm “Nấu ăn” , tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ thể hiện   vai của mình: Ví dụ: Bắc nồi lên bếp ga đặt đã đúng giữa bếp chưa nếu không sẽ  dễ  đổ và xảy ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay  để không bị bỏng. Việc tổ chức tốt các hoạt động, đòi hỏi phải có một không gian đa dạng,   mới lạ và bầu không khí thân thiện cởi mở…có như vậy mới kích thích hứng   thú chơi của trẻ và thúc đẩy trẻ rèn luyện kỹ năng theo khả năng của mình. Để  giáo dục và phát triển kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  thì điều  quan trọng nhất là phải luôn tạo cơ hội để trẻ được thực hành, luyện tập các  hành vi thường xuyên, mọi lúc mọi nơi có như vậy trẻ mới hình thành nên các   kỹ năng một cách bền vững. Biện pháp 3: Nhà trường, giáo viên phối hợp với gia đình và xã hội  trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với  phụ huynh để cùng phối hợp dạy kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Tuyên   truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập từ  bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ, nhận biết những mối nguy   hiểm từ  xung quanh và cách xử  lý thì trẻ  sẽ  vững vàng vượt qua những thử  thách trong mọi tình huống, điều đó được chứng minh rõ ràng từ thực tế.  Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là  giúp trẻ  nâng cao năng lực để  tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau,  quyết định phải xuất phát từ  trẻ, nội dung giáo dục phải xuất phát từ  chính  16
  17. nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để  cọ  sát các ý kiến  khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành và áp dụng.  Chính vì  vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân.  Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh   cho rằng con mình còn quá bé để  hiểu được những điều đó  cũng như  nghĩ  rằng trẻ  mẫu giáo vẫn được sống trong sự  che chở, bao bọc, bảo vệ  tuyệt   đối của bố  mẹ. Những trên thực tế, không phải lúc nào cha mẹ  cũng  ở  bên   con khi có tình huống xấu. Để  phụ  huynh hiểu hơn về  kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  tôi đã  chú trọng tuyên truyền các nội dung sau: ­ Tuyên truyền về các nội dung “Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ” cho trẻ 4­ 5 tuổi được lồng ghép trong các chủ đề trong năm học của nhóm lớp hoặc tôi  dán bài tuyên truyền “Dạy trẻ không nên đi theo người lạ” tại góc “Cha mẹ  cần biết” của nhóm lớp để  phụ  huynh biết và cùng phối hợp trong quá trình  rèn luyện khả năng này cho trẻ.  ­ Trong các buổi họp phụ  huynh tôi dành thời gian để  trao đổi với phụ  huynh về  khả  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ  trẻ  4­5 tuổi nói chung và  những phụ huynh huynh có con chưa biết cách xử lý các tình huống gặp phải  trong cuộc sống riêng để  họ  nắm được khả  năng  tự  bảo vệ  của con mình.  Bên cạnh đó tôi cũng trao đổi với các bậc phụ huynh để xây dựng một số tình  huống có vấn đề nhằm mục đích kích thích, phát triển kỹ năng tự bảo vệ bản   thân của trẻ đạt hiệu quả.  ­ Giáo viên trao đổi với phụ  huynh về  các hoạt động dã ngoại, tham  quan, các lễ  hội để  họ  phối hợp với cô giáo chuẩn bị  cho trẻ  các kiến thức  cũng như  các kỹ  năng cần thiết, cách chuẩn bị  các đồ  dùng cần thiết trong  những chuyến đi để tự chăm sóc và bảo vệ bản thân khi không có bố mẹ bên   cạnh. ­ Giới thiệu cho phụ huynh biết các kỹ năng tự bảo vệ cũng như cách xử  lý các tình huống xảy ra trong cuộc sống để phụ huynh giáo dục con một cách  đúng nhất.  ­ Trò chuyện trao đổi với phụ huynh về những biểu hiện của trẻ, những  khó khăn khi thực hiện và kết quả đạt được… Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống  nhất phương pháp giáo dục trẻ: ­ Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ. ­ Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. ­ Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa   câu hỏi để trẻ tự tìm tòi. 17
  18. ­ Không vội vàng phê phán đúng ­  sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận  và có thể đưa ra kết luận của mình. Giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự bảo vệ nói riêng là việc   làm hết sức quan trọng đòi hỏi sự tham gia của cả gia đình, nhà trường và xã  hội. Bởi như Dorothy Holte đã nói “Cây giáo dục chỉ đơm hoa thơm và kết trái   ngọt khi có sự  chăm sóc và vun sới của nhà trường, gia đình và xã hội”. Và  ông bà, cha me, thầy cô, anh chị  hãy là tấm gương sáng cho các em noi theo.   Hãy gần gũi, chia sẽ, tâm sự, động viên và cùng các em tháo gỡ  khó khăn,   vướng mắc trong cuộc sống và tuyệt nhiên không được so sánh hay áp đặt ý  nghĩ chủ quan của bản thân mình vào trẻ. 3. Đánh giá đề tài 3.1 Đối với trẻ Sau thời gian triển khai thực hiện đề  tài thực hiện  ở  lớp đang dạy, kết  quả thu được như sau:  Bảng 2: BẢNG TỔNG HỢP KHẢO SÁT CUỐI NĂM THÁNG 3/2019 (đã áp dụng) Tháng 3/2019 NỘI DUNG KHẢO SÁT ĐẠT CHƯA ĐẠT Sĩ số % Sĩ số % + Trẻ nhận biết được những hành động  27/29 93,1 02/29 6,9 và tình huống nguy hiểm với bản thân + Trẻ  chủ  động giải quyết các vấn đề  25/29 86,2 04/29 13,8 trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày,  các hoạt động lễ hội. + Trẻ  mạnh dạn, tự  tin nêu các phương  28/29 96,5 01/29 3,5 án giải quyết của mình nhằm tự bảo vệ  bản thân trong các tình huống. +   Trẻ   biết   tìm   kiếm   sự   giúp   đỡ   của  26/29 89,7 03/29 10,3 những người đáng tin cậy nhằm tự  bảo  vệ bản thân Trẻ  chủ  động mạnh dạn xử  lý các tình  22/29 75,9 07/29 24,1 huống bất trắc nảy sinh hằng ngày mà  không cần có sự can thiệp của cô 18
  19. BẢNG SO SÁNH SỐ LƯỢNG VÀ TỶ LỆ ĐẠT TRƯỚC TÁC ĐỘNG VÀ  SAU TÁC ĐỘNG NỘI DUNG KHẢO SÁT Đầu năm Cuối năm Tháng 10/2018 Tháng 3/2019 Sĩ số % Sĩ số % +   Trẻ   nhận   biết   được   những   hành  13/29 44,8 27/29 93,1 động   và   tình   huống   nguy   hiểm   với  bản thân + Trẻ  chủ  động giải quyết các vấn  09/29 31 25/29 86,2 đề   trong   các   hoạt   động   sinh   hoạt  hàng ngày, các hoạt động lễ hội. +   Trẻ   mạnh   dạn,   tự   tin   nêu   các  10/29 34,4 28/29 96,5 phương án giải quyết của mình nhằm  tự   bảo   vệ   bản   thân   trong   các   tình  huống. + Trẻ  biết tìm kiếm sự  giúp đỡ  của  11/29 37,9 26/29 89,7 những   người   đáng   tin   cậy   nhằm   tự  bảo vệ bản thân + Trẻ  chủ  động mạnh dạn xử  lý các  9/29 31,1 22/29 75,9 tình   huống   bất   trắc   nảy   sinh   hằng  ngày mà không cần có sự  can thiệp  của cô Qua khảo sát đầu năm và cuối năm cho thấy, việc sử dụng các biện pháp  trên đã mang lại hiệu quả  cao. Đối với bài tập 01 đã tăng tỉ  lệ  từ  44,8% lên  93,1% bài tập 02 từ  31% tăng lên đến 86,2%. Bài tập 03 đã tăng từ  34,4% lên  96,5%... Như vậy, trẻ đã tiến bộ rất nhiều về kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Với các biện pháp tác động sư  phạm được tổ  chức vào các hoạt động  học, hoạt động chơi, tình huống… với mong muốn trẻ không chỉ  được cung  cấp các tri thức về kỹ  năng tự  bảo vệ mà còn tạo cơ  hội cho trẻ  được thực   hành trải nghiệm. Sau 6 tháng thử  nghiệm với trẻ  lớp mẫu giáo 4­5 tuổi A,   trường MN 8/3 cho thấy, hầu hết mức độ  nhận thức các nội dung giáo dục  trong kỹ  năng tự  bảo vệ  của trẻ  lớp thực nghiệm, đã có sự  tăng lên so với   chính những trẻ này trước thực nghiệm. Với các phần trăm thu được trước thử  nghiệm và sau thử  nghiệm cho  thấy trẻ  nhận thức được các nội dung về  giáo dục kỹ  năng tự  bảo vệ  cũng   19
  20. như  nắm được tri thức, những cách  ứng xử, thái độ  tốt so với trước thử  nghiệm. Với các nội dung khảo sát biết kêu cứu giúp đỡ  và chạy khỏi nơi nguy   hiểm; biết địa chỉ, số điện thoại nhà, của ba mẹ; biết các số điện thoại khẩn   cấp:  Cứu hỏa, cứu thương, công an; biết không  đi theo và nhận quà của   người lạ  khi chưa được người thân cho phép; biết các hành vi xâm hại tình   dục. Cho thấy sự  khác biệt ý nghĩa về  mức độ  nhận thức của trẻ   ở  các nội   dung giáo dục trước và sau khi thử nghiệm. Với sự tiến bộ về mức độ nhận thức của trẻ chứng tỏ những biện pháp   tác động sư phạm này bước đầu đã thể hiện hiểu quả. 3.2. Đối với giáo viên Giáo viên tự tin mạnh dạn hơn khi xây dựng các loại kế hoạch và thực  hiện các biện pháp hỗ  trợ  giúp trẻ  trong việc hình thành các kỹ  năng tự  bảo  vệ  bản thân. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, có biện pháp  giáo dục phù hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ mạnh   dạn tự tin khi gặp các tình huống xảy ra. Giáo viên có nhiều biện pháp linh hoạt, sáng tạo tổ  chức các hoạt động  nhẹ nhàng, linh hoạt, có biện pháp tác động đến cá nhân và tập thể nhóm trẻ phù   hợp. Định hướng nội dung các hoạt động giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ  trong giờ  học, chơi theo chủ  đề  giáo dục không còn máy móc, áp đặt mà  hướng đến mục tiêu để  trẻ  tự  do tự  lực, tự  lựa các cách giải quyết các sự  việc gặp phải. Biết cách tạo nhiều cơ hội để trẻ chơi, tận dụng các hoạt động  mọi lúc mọi nơi để lồng ghép các kỹ năng tự bảo vệ cần thiết, từ đo giúp tr ́ ẻ biết  xử lý tình huống gặp phải một cách chủ động và là nền tảng bước đầu cho trẻ  học thêm những kỹ năng tự bảo vệ cần thiết ở những lứa tuổi tiếp theo, tạo nên  sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý   nghĩa. 3.3. Đối với phụ huynh  Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động học nói chung và hoạt  động mọi lúc mọi nơi nói riêng đối với việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho   trẻ. Phụ  huynh có sự  phối hợp với giáo viên trong việc rèn luyện, củng cố  những kỹ  năng tự  bảo vệ  bản thân cho trẻ. Nhiệt tình ủng hộ  cho cô và trẻ  mang thêm đồ  dùng, đồ  chơi; tranh  ảnh, sách báo sưu tầm về  các kỹ  năng   sống, các nguyên vật liệu mở, cây xanh, con vật, các biển báo … giúp lớp học   có thêm nhiều đồ chơi mới, các góc chơi sinh động, góp phần giúp môi trường  lớp học thêm đa dạng. Phụ huynh dành nhiều thời gian tạo điều kiện để  trẻ  được vui chơi, giao lưu, dã ngoại cùng gia đình, bạn bè, người thân… tạo cơ  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2