Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ “Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8
lượt xem 4
download
Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là với nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học mỗi thầy cô là một người lái đò quan trọng để đưa các em qua sông. Hiểu được điều đó với phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu về giá trị của một tập thơ lại càng có ý nghĩa lớn lao.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ “Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, là một danh nhân văn hoá thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng chói về chủ nghĩa yêu nước, về lòng tự hào dân tộc, về ý chí nghị lực kiên cường của người chiến sĩ cách mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Người đã lấy thơ văn làm ngòi bút chiến đấu. Vì vậy, đọc tác phẩm của Người ta còn thấy chân dung một con người ở trong đó. Tiêu biểu cho tác phẩm ấy chính là tập thơ “Nhật kí trong tù ”của Bác. “Nhật kí trong tù ” thật sự là một tác phẩm có giá trị, một viên ngọc quý mà Bác đã vô tình “đánh rơi” vào kho tàng văn học Việt Nam. Cho đến nay trải qua bao thời gian mà dòng người vẫn đến với tác phẩm như để hiểu hơn một con người. Trong chương trình môn Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS các em được tiếp cận với một số bài trích trong tập thơ. Song để hiểu được tác phẩm mà các em chưa có điều kiện tiếp cận với tập thơ của Người các em cần có sự hướng dẫn của người giáo viên. Vì vậy, khi đứng trên lớp qua mỗi bài dạy học về tác phẩm văn chương là một lần các thầy cô phải suy nghĩ, trăn trở tìm ra lối đi phù hợp với học sinh mình nhất. Với nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học mỗi thầy cô là một người lái đò quan trọng để đưa các em qua sông. Hiểu được điều đó với phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu về giá trị của một tập thơ lại càng có ý nghĩa lớn lao . Vì vậy, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm “Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8”. 2. Tên sáng kiến: “Hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị tập thơ “Nhật kí trong tù” trong chương trình ngữ văn lớp 8”. 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 1
- Sáng kiến kinh nghiệm này tôi vận dụng vào dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS. Học sinh đội tuyển, học sinh giỏi Trường THCS Đồng Cương. 4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng bắt đầu từ ngày 01/09/2015 . 5. Mô tả bản chất của sáng kiến: 5.1. Về nội dung sáng kiến: a.Giới thiệu Hồ Chí Minh : *Tiểu sử : Chủ Tịch Hồ Chí Minh (lúc còn bé tên là Nguyễn Sinh Cung) khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Người sinh ngày 19 tháng 05 năm 1890, mất ngày 02 tháng 09 năm 1969.Quê ngoại là làng Hoàng Trù, quê nội là làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân .Thân phụ người là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan; Người có một chị gái là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm(Tự Tất Đạt, còn gọi là Khiêm), một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận, tên khi mới lọt lòng là Xin.Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn Nghệ An thì bảy đời dòng họ Nguyễn có nhiều người học giỏi đỗ đạt cao.Vì thế chính gia đình, dòng họ và truyền thống của quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh ngay từ thời niên thiếu. Bởi vậy Nguyễn Sinh Cung là một học trò thông minh, chăm chỉ học tập và ham tìm hiểu những điều mới lạ. Ngoài những sách phải học, Người còn ham đọc truyện và thơ ca yêu nước. Lúc ở quê nhà, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán. Lớn lên Người theo cha vào Huế học. N ăm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1918 Nguyễn Tất Thành tham gia đảng xã hội Pháp. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập đảng xã hội Pháp. Từ 1923đến 1941 Nguyễn Ái Quốc chủ yếu học tập và hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan. Năm 1941Người về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.Tháng tám năm 1942 Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng chống Nhật thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam .Trong những ngày bị đày 2
- đoạ vô cùng cực khổ Người đã viết tập thơ “Nhật kí trong tù”.Tháng 9 năm 1943 Người được trả tự do, trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng giành thắng lợi. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh chính thức được bầu làm Chủ tịch nước. Từ 1945 với cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần . *Sự nghiệp : Văn xuôi hình tượng : Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Va Ren và Phan Bội Châu … Văn chính luận : Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bản án chế độ thực dân Pháp Thơ : Tập thơ “Nhật kí trong tù”, Thơ Hồ Chí Minh b. Tập thơ “Nhật kí trong tù ”: b.1.Giới thiệu chung : * Hoàn cảnh sáng tác : Tháng 8 1942,Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Khi đến gần thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phương ở đây bắt giữ, rồi bị giải tới giải lui gần 30nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đoạ cực khổ hơn một năm trời. Trong những ngày đó, Người đã viết “Nhật kí trong tù” bằng chứ Hán, gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt. *Thể loại : “Nhật kí trong tù”là một tập nhật kí bằng thơ gồm 133 bài, được viết bằng thơ chữ Hán. b.2Giá trị nội dung và nghệ thuật : Giá trị nội dung: b.2.1 Nhật kí trong tù phản ánh chế độ đen tối của nhà tùTưởng Giới Thạch : 3
- * “Nhật kí trong tù” lên án chế độ nhà tù cực kì vô nhân đạo: Người ở trong tù bị bóc lột một cách tàn nhẫn, vào tù phải nộp đủ mọi khoản tiền: “ Nhập lung yếu nạp đăng quang phí, Vào lao anh phải nộp tiền đèn Quế tệ nhân nhân các lục nguyên ” Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu “nguyên” (Tiền đèn) Người tù phải tự lo lấy muối, dầu, gạo, củi: “ Giam phòng dã thị tiểu gia đình, Nhà lao mà giống tiểu gia đình, Sài, mễ, du, diêm tự kỷ doanh; Gạo củi, muối, dầu tự sắm sanh; Mỗi cá lung tiền nhất cá táo, Trước mỗi phòng giam bày một bếp, Thành thiên chử phạn dữ điều canh.” Suốt ngày lụi hụi với cơm, canh. (Nhà lao Quả Đức) “ Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền, Mới đến nhà giam phải nộp tiền Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên” Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên” (Tiền vào nhà giam ) Và còn phải chịu đựng cái “luật rừng” : “ Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu, Lệ thường tù mới đến Tất tu thụy tại xí khanh biên Phải nằm cạnh cầu tiêu Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy, Muốn ngủ cho ngon giấc Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.” Anh phải trả tiền nhiều (Quán trọ) Không những người tù phải nộp đủ mọi khoản tiền mà còn bị bòn rút từng hào một: “ Chử nhất oa phạn lục mao tiền Thổi một nồi cơm, trả sáu hào Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác Một đồng của đáng sáu hào chỉ Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.” Giá cả trong tù định rõ sao! (Tiền công) Người tù bị đày đọa đến mức tàn khốc nhất. Họ phải chịu cảnh ăn đói: 4
- “ Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn Lót lòng mỗi bữa lưng cơm đỏ Vô diêm, vô thái, hựu vô thang” Không muối, không canh cũng chẳng cà (Cơm tù) Phải ngủ rét: “ Thu thâm vô nhục diệc vô chiên Đêm thu không đệm cũng không chăn Súc hĩnh cung yêu bất khả miên” Gối quắp lưng còng ngủ chẳng an (Đêm lạnh) Người tù bị hạn chế cả những chuyện nhỏ nhất: “ Một hữu tự do chân thống khổ Đau khổ chi bằng mất tự do Xuất cung dã bị nhân chế tài; Đến buồn đi… cũng không cho Khai lung chi thì đỗ bất thống, Cửa tù khi mở không đau bụng Đỗ thống chi thì lung bất khai.” Đau bụng thì không mở cửa tù. (Bị hạn chế) Người tù còn phải chịu cảnh: “ Tứ nguyệt ngật bất bão Bốn tháng cơm không no Tứ nguyệt thụy bất hảo Bốn tháng đêm thiếu ngủ Tứ nguyệt bất hoán y, Bốn tháng áokhông thay Tứ nguyệt bất tẩy tảo” Bốn tháng không giặt giũ (Bốn tháng rồi) Chính vì bốn tháng bị đày đọa: cơm không no, đêm thiếu ngủ, áo không thay, không giặt giũ là đủ biến một con người khỏe mạnh, bình thường thành một con người khác hẳn: “ Hắc sấu tượng ngã quỷ Gầy đen như quỷ đói Toàn thân thị lại sa” Ghẻ lở mọc đầy thân (Bốn tháng rồi) Bị ghẻ lở khắp người: “ Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm, Đầy mình đỏ tím như hoa gấm Thành nhật lao tao tự cổ cầm; Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách, Mặc gấm bạn tù đều khách quý Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.” Gẩy đàn trong ngục thẩy tri âm 5
- (Ghẻ lở) Vì thế mà người tù bị bệnh tật hành hạ và cái chết lúc nào cũng có thể xảy ra: “ Tha thân chỉ hữu cốt bao bì Thân anh ra bọc lấy xương Thống khổ cơ hàn bất khả chi Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc, Đêm qua còn ngủ bên tôi Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.” Sáng nay anh đã về nơi suối vàng (Một người tù cờ bạc vừa chết cứng) Hình ảnh nhà tù cực kì vô nhân đạo cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. * Nhật ký trong tù lên án một chế độ xã hội đầy rẫy sự bất công: Quyền sống của con người không được đảm bảo, người lương thiện vô tội bị bắt giam bừa bãi: “ Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Oa…! Gia phạ đương binh cứu quốc gia; Cha sợ sung quân cứu nước nhà; Sở dĩ ngã niên tài bán tuế, Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Yếu đáo ngục trung căn trước ma.” Phải theo mẹ đến ở nhà pha (Cháu bé trong ngục Tân Dương) Nhân vật trong bài thơ là một em bé sáu tháng. Tiếng nói ở đây là tiếng khóc, tiếng khóc tố cáo xã hội Trung Quốc. Đã là xã hội mà pháp luật trừng trị, hành hạ cả những nạn nhân đáng thương vô tội đáng lẽ phải được trân trọng, chăm sóc, yêu thương. Chế độ xã hội ấy, nền tảng pháp luật ấy mất đi bản chất nhân đạo và sự công bằng của nó. Cũng vẫn là âm hưởng trữ tình, pha châm biếm, ở một bài thơ khác, tiếng nói của người phụ nữ vừa gây sự thương cảm xót xa, vừa mang tính chất mỉa mai, chua chát: “ Lang quân nhất khứ bất hồi đầu Biền biệt anh đi không trở lại Sử thiếp khuê trung độc bão sầu Buồng the trơ trọi thiếp ôm sầu Đương cục khả liên dư tịch mịch, Quan trên xót nỗi em cô quạnh Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.” Nên lại mời em tạm ở tù (Gia quyến người bị bắt lính) 6
- Bài thơ là tiếng nói nhỏ nhẹ, mềm mại của người phụ nữ với cảnh ngộ trớ trêu của mình. Nạn nhân là một người phụ nữ vô tội và kẻ trắng trợn gây tội lỗi lại nghiễm nhiên là những người đại diện cho pháp luật. Điều đó càng làm bật lên tính chất vô nhân đạo của chế độ Tưởng Giới Thạch. Đến đại biểu của một nước láng giềng đến công cán cũng bị bắt giam vô tội vạ, bị giải tới giải lui qua hơn ba mươi nhà lao mà không hề được giải quyết: “ Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân Ta là đại biểu dân Việt Nam Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân; Tìm đến Trung Hoa để hội đàm Vô nại phong ba bình địa khởi, Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió Tống dư nhập ngục tác gia tân.” Phải làm khách quý tại nhà giam (Đường đời khó khăn) Nhật ký trong tù là bản án đanh thép chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. b.2.2: Nhật kí trong tù như một bức chân dung tự hoạ con người Hồ Chí Minh: Đọc tác phẩm “Nhật kí trong tù” ,chúng ta bắt gặp con người Hồ Chí Minh với tất cả vẻ đẹp , phong phú sâu sắc trong tâm hồn, trong tính cách, trong cách nhìn, cách suy nghĩ về cuộc đời và người. “Nhật kí trong tù” đúng là một bức chân dung tự hoạ bằng thơ về con người tinh thần của người sáng tạo ra nó. *Đó là niềm khao khát tự do cháy bỏng: Hồ Chí Minh đau khổ vô hạn và thấm thía sâu sắc nỗi “mất tự do”.Nỗi đau khổ này được tác giả bộc lộ trong nhiều bài thơ. Trong lần chuyển lao có bọn “cảnh binh khiêng lợn cùng đi”Bác đã viết những câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ một quy luật trong cuộc sống đau khổ của chính mình: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng Cay đắng chi bằng mất tự do” (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi) Trong bài thơ “Bị hạn chế”Bác cũng khẳng định : “Đau khổ chi bằng mất tự do” Nỗi sốt ruột khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển thành sự giận giữ, phần nộ: “Quảng Tây đi khắp lòng oan ức 7
- Giải đến bao giờ, giải tới đâu?” Bên cạnh đó ở Người còn là tự do về mặt tinh thần trong “bài thơ đề từ” : “Thân thể tại ngục trung Tinh thần tại ngục ngoại” (Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao) Và không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là khách tự do, thanh thản ung dung, tự tại như là một khách tiên.Trong bài “ngắm trăng” Bác viết : “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa Đối thử lương tiêu nại nhược hà Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia” (Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ) Trong bài thơ hoàn toàn không thấy tác giả nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ trở thành nhân vật đáng yêu có tâm trạng, có linh hồn. *Tập thơ còn là lòng yêu nước sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng: Yêu nước thương dân chính là biểu hiện cao nhất của tình cảm nhân đạo .Bởi yêu nước là nơi kết tinh, lắng đọng của tình cảm yêu thương con người. Sống trong cảnh lao tù cực khổ mà lòng sốt ruột luôn nhớ về quê hương,Tổ Quốc “Tin tức bên nhà bữa bữa trông” “Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ”. Nỗi lòng ấy còn khiến cho Người trong đêm khuya mà không sao ngủ được: “Nhất canh…nhị canh…hựu tam canh Triển chuyển, bồi hồi,thuỵ bất thành; Tứ,ngũ canh thi tài hợp nhãn Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh” 8
- (Canh một …canh hai…lại canh ba Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh) (Không ngủ được) Yêu nước còn là nỗi xót xa trước cảnh đất nước lầm than : “ Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ Mộng nhiễu tân sầu, vạn lũ ti Vô tội nhi tù dĩ nhất tải Lão phu hoà lệ tả tù thi” (Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay ở tù năm trọn thân vô tội Hoà lệ thành thơ tả nỗi này) (Đêm thu) Ngay cả khi ốm nặng Người vẫn lo lắng cho nước cho dân: “Ngoại cảm hoa thiên tân lãnh nhiệt (Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh Nội thương Việt địa cựu sơn hà” Nội thương đất Việt cảnh lầm than) (Ốm nặng) Lòng yêu nước thương dân tha thiết đã biến thành nỗi nhớ cách mạng , khao khát được trở về hoạt động, đấu tranh : “Xót mình giam hãm trong tù ngục Chưa được xông pha giữa trận tiền” (Ở Việt Nam có bạo động) Lòng yêu nước còn được thể hiện thành nỗi nhớ bạn , nhớ đồng chí da diết , bâng khuâng: “Ngày đi, tiễn bạn đến bến sông Hẹn ngày về khi lúa đỏ đồng Nay gặt đã xong cày đã khắp Quê người tôi vẫn chốn lao lung” 9
- (Nhớ bạn) *Tập thơ còn là lòng nhân ái bao la sâu sắc của Người : Sẽ là thiếu sót rất lớn nếu như trong “bức chân dung tự hoạ” chúng ta không đề cập đến tình yêu thương con người và vạn vật của Bác .Trong bài thơ “Bác ơi”nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ rất hay, rất đúng về con người Hồ Chí Minh : “Bác ơi tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông, mọi kiếp người!” Trước hết trái tim ấy dành trọn vẹn tình thương yêu cho những người lao khổ ,nhất là với phụ nữ và trẻ em. Chỉ nhìn thấy cảnh ngộ thôi Người cũng phải thốt lên, đồng cảm với cháu bé khi chưa tròn một tuổi : “oa…!oa…!oa…! Cha sợ sung quân cứu nước nhà Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Phải theo mẹ đến ở nhà pha” (Cháu bé trong ngục Tân Dương) Chỉ cần nghe “Người bạn tù thổi sáo”, Bác chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ quê của anh ta mà còn hình dung thấy ở chốn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ bước lên một tầng lầu nữa để ngóng trông chồng: “Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu Khúc nhạc đồng quê chuyển điệu sầu Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.” Chỉ bằng âm thanh của tiếng sáo thôi mà Bác đã đón nhận bằng cả sự cảm thông và tình thương yêu tha thiết. Trong tù, Bác gọi những người cùng bị giam là “nạn hữu”(bạn tù) và Người cùng chia sẻ họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh ghẻ lở khổ sở: “Mặc gấm bạn tù đều khách quý Gẩy đàn trong ngục thảy tri âm” Người còn cảm thông với cảnh ngộ của vợ người bạn tù đến thăm chồng : 10
- “Quân tại thiết song lí Thiếp tại thiết song tiền Tương cận tại chỉ xích Tương cách tự thiên uyên Khẩu bất năng thuyết đích Chỉ tại nhãn truyền nghiên” (Anh ở trong song sắt Em ở ngoài song sắt Gần nhau chỉ tấc gang Mà cách nhau trời vực Miệng nói chẳng nên lời Chỉ còn nhờ khoé mắt) (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng) Không chỉ vậy, Người còn khóc thương cho cảnh ngộ của người tù cờ bạc vừa chết cứng, tình cảm đó như là tình cảm của người thân dành cho nhau: “Thân anh da bọc lấy xương Khổ đau đói rét hết phương sống rồi Đêm qua còn ngủ bên tôi Sáng nay anh đã về nơi suối vàng (Một người tù cờ bạc chết cứng) Cùng với những người bạn tù tình cảm của Người còn dành cho cả những người lao động . Trên đường chuyển lao Người nhìn thấy cảnh vất vả của những người phu làm đường mà viết nên thơ : “Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi Phu đường vất vả lắm ai ơi! Ngựa xe, hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh được mấy người ?” (Phu làm đường) Đâu chỉ vậy Người còn cảm thông, ái ngại cho cả cảnh hạn hán, mất mùa của người nông dân: “Vùng đây tuy rộng đất khô cằn, 11
- Vì thế nhân dân kiệm lại cần ; Nghe nói xuân nay trời đại hạn Mười phần thu hoạch chỉ đôi phần” (Long AnĐồng Chính) Trong những lần chuyển lao đầy gian khổ khi trời sắp tối, nhìn cánh chim bay mỏi mệt mà không nghĩ đến mình Người còn nhìn tới hình ảnh người lao động quan tâm đến họ: “Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng” (Chiều tối) Tình yêu thương của Người thật đáng cho ta trân trọng .Người không chỉ yêu thương con người mà còn yêu thương cả vạn vật xung quanh mình. Khi ở trong tù Người còn cảm thông cho những bông hoa không có sự sẻ chia , cảm thông : “Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình Hoa hương thấu nhập lung môn lí Hướng tại lung nhân tố bất bình” (Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình ; Hương hoa bay thấu vào trong ngục Kể với tù nhân nỗi bất bình) (Cảnh chiều hôm) Người còn thương cho cả một chiếc răng bị gẫy như thương một người bạn đã gắn bó thân thiết với mình từ lâu : “Cứng rắn như anh chẳng kém ai Chẳng như lão lưới dẻo và dài Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ Nay kẻ chân mây kẻ cuối trời”. (Rụng mất một chiếc răng) Chúng ta có thể thấy tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại rộng lớn. Điều này tạo nên giá trị đặc biệt của tập thơ. 12
- *“Nhật kí trong tù” còn là ý chí, nghị lực phi thường, lớn lao, bền bỉ: Chất “tình” và chất “thép” được kết hợp một cách tự nhiên, hài hoà. Đúng như nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét: “Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mông bát ngát tình” “Thép” chính là tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng điều đáng chú ý là chất “thép” ấy được toát ra một cách tự nhiên,bình dị trong tư thế ung dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển lao, Bác bị bọn lính xích chân vào thuyền nhưng Người vẫn phát hiện cuộc sống đông đúc vui tươi của làng xóm bên sông, của những thuyền câu nhẹ lướt. Có lần, sau suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây ấn tượng đối với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sắp tới mà lại chính là cảnh “Cô em xóm núi xay ngô tốiXay hết lò than đã rực hồng”. Chất “thép” thể hiện đặc biệt rõ ở sự kiên định, vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi gian lao thử thách khắc nghiệt. Đối với Bác mọi gian lao thử thách để rèn giũa con người thêm vững vàng, kiên định. “Nghe tiếng giã gạo” Bác làm thơ như để tự khuyên mình : “Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công” (Nghe tiếng giã gạo) Ý thơ này Người vẫn hằng tâm niệm. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ Bác đã khẳng định “Muốn nên sự nghiệp lớn –Tinh thần càng phải cao”. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là tấm gương sáng về tu dưỡng rèn luyện này. Có những lúc Người cười cợt với đau khổ, phong thái ung dung được toát lên: “ Ngục trung hại bệnh chân tân khổ Bản ưng thống khóc khước cuồng ca” (Trong tù mắc bệnh càng đau khổ Đáng khóc mà ta cứ hát tràn) 13
- (Ốm nặng ) “Hôm nay xiềng xích thay dây trói Mỗi bước leng keng tiếng ngọc dung Tuy bị tình nghi là gián điệp Mà như khanh tướng vẻ ung dung) (Đi Nam Ninh) Có những lúc chân tay bị xiếng xích bị trói mà cực hình không thể khuất phục được Người: “Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình Làng xóm ven sông đông đúc thế Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh” (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh) “Nghĩ mình trong bước gian truân Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng” (Tự khuyên mình) Trong bài “Bốn tháng rồi” ở Người còn đề cao tinh thần kiên cường bất khuất của người chiến sĩ cách mạng với ý chí nghị lực lớn lao: “Trì cửu hoà nhẫn nại Bất khẳng thoái nhất phân Vật chất tuy thống khổ Bất động dao tinh thần” (Kiên trì và nhẫn nại Không chịu lùi một phân Vật chất tuy đau khổ Không nao núng tinh thần) (Bốn tháng rồi ) Với nghị lực phi thường ấy, tâm hồn thi sĩ của người tù, chiến sĩ đã tự cởi bỏ xiềng xích để chọn lấy cho mình một chỗ đứng thênh thang: “Núi cao lên đến tận cùng 14
- Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường) Trên con đường chuyển lao đầy gian khổ dãi gió, dầm mưa, xiềng xích …Vậy mà sáng lên trong từng câu thơ là một phong thái ung dung, lạc quan: “Mặc dù bị trói chân tay Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng Vui say ai cấm ta đừng Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu” (Trên đường) Trong thơ của Người chất “thép” còn được thể hiện ở niềm tin vào ngày mai, sự vận động từ tối đến sáng để quên đi hết cảnh lao khổ trên con đường chuyển lao : “Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng Nghênh diện thu phong trận trận hàn (Người đi cất bước trên đường thẳm Rát mặt đêm thu trận gió hàn) “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn chốc sạch không” (Giải đi sớm) *Nhật kí trong tù còn là cái nhìn với hiện thực : Trong “bức chân dung tự hoạ” của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp một trí tuệ lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện qua cái nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ bất công vô lí trong nhà tù quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung Hoa rộng lớn khi đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm thường hàng ngày, với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái quát, tìm ra quy luật của cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của bản thân mình. Vì vậy, một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí thâm trầm sâu sắc. Trong việc học đánh cờ Người rút ra tầm quan trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong hoạt động của con người“Lạc nước hai xe đành bỏ phí Gặp thời một tốt cũng 15
- thành công”. Không chỉ vậy nhà thơ còn khẳng định bản chất lương thiện của con người và sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giáo dục: “Ngủ thì ai củng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng có những chiêm nghiệm đúng đắn về “đường đời hiểm trở”, về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội “Núi cao gặp hổ mà vô sựĐường phẳng gặp người bị tống lao”. Người còn phát hiện ra sự phi lí trái tự nhiên . Nhà tù đế quốc là nơi mà tù nhân phải nộp đủ các khoản tiền, nhà tù còn là nơi giam giữ cải tạo người đánh bạc nhưng đó lại là nơi tự do đánh bạc: “Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội Trong tù đánh bạc được công khai Bị tù, con bạc ăn năn mãi Sao trước không vô quách chốn này” (Đánh bạc) Ở trong tù khi nghe tiếng giã gạo Bác nghĩ đến sự tôi luyện ý chí, nghị lực và khẳng định quy luật vận động của đấu tranh: “Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công” (Nghe tiếng giã gạo) Đó còn là bài học trải qua bao gian nan vất vả nếu con người biết vượt qua sẽ dẫn đến thành công : “Điđường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” 16
- (Đi đường) *Tập thơ “Nhật kí trong tù” còn là tâm hồn của một nghệ sĩ: Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đề tài thiên nhiên, đề tài vô tận của thi ca từ xưa đến nay, chiếm một vị trí quan trọng. Bác luôn gần gũi với thiên nhiên hoà mình với thiên nhiên muôn màu sắc. Có khi chỉ qua một lỗ thông hơi nhỏ xíu hay từ cánh cửa nặng trĩu của nhà giam mà Người vẫn mở rộng tâm hồn để đón nhận thiên nhiên tươi đẹp trong lành. Có gì đâu những gì thiên nhiên cung cấp cho nhà thơ chỉ là một tia sáng mặt trời lúc ban mai , một luồng gió mát lẫn với mùi hoa từ ngoài sân thoảng tới, một bóng đen của lùm cây hay chỉ là cái nhấp nháy của chòm sao Bắc Đẩu. Nhất là ánh trăng. Trong thơ Bác đầy trăng. Người dành cho trăng một vị trí cao quý, trăng luôn được trìu mến. Trăng là ánh sáng trong trắng, là hạnh phúc, là ước mơ của con người toả sáng trong nhà tù đen tối : “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa Đối thử lương tiêu nại nhược hà Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia” (Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ) (Ngắm trăng) Trong ngục tù, nơi cuộc sống thiếu thốn nặng nề, không rượu, không hoa. Nhưng trước cảnh đẹp đêm trăng tâm trạng của Người thì bồn chồn xao xuyến. Đó là tâm trạng của người nghệ sĩ rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Bác đã đặt Người và trăng đối xứng với nhau, gần nhau như những người bạn tri âm, tri kỉ.Trăng và Người có mối giao hoà đặc biệt. Người và cảnh bỗng sáng đẹp lên như một bức tranh lụa óng ả của một hoạ sĩ thiên tài. Trong tập thơ của Bác, cảnh thiên nhiên trong lành êm ả gần gũi trong sáng và giản dị vô cùng. Trong những ngày lao tù khổ cực, Bác đã bị giải đi mấy chục nhà lao, chân tay Bác bị trói, xiềng xích nhưng không hề gì, nhà thơ vẫn nhìn thấy non sông đất nước tươi đẹp : 17
- “Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường) Chỉ cần thấy hình ảnh cánh chim vào buổi chiều tối, Người say sưa ngắm cảnh: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” (Chiều tối) Sáng tinh mơ đã phải lên đường thế mà Bác vần tìm thấy một nguồn cảm hứng lớn khiến bình minh trong một ngày bỗng có cái khí thế lớn lao của cảnh bình minh trong một thời đại: “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn chốc sạch không Hơi ấm bao la trùm vũ trụ Người đi thi hứng bỗng thêm nồng” (Giải đi sớm) Lại một lần nữa, chúng ta cảm nhận được tư thế ung dung, chủ động của thi sĩ trên đường đi đầy gian khổ, cảm nhận được ở Bác dù cho là hoàn cảnh nào tâm hồn của Bác vẫn luôn chan hoà với thiên nhiên, với trời đất bao la: “Nhất khứ kê đề dạ vị lan Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” (Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn) (Giải đi sớm) Trăng và sao là người bạn về đêm, còn người bạn thiên nhiên của Bác ban ngày là: “Phiến thì vũ trụ giải lâm phục Vạn lý sơn hà sái cẩm chiên; Nhật noãn phong thanh hoa đới tiếu Thụ cao chi nhuận điểu tranh nghiên” (Đất trời một thoáng thu màn ướt 18
- Sông núi muôn trùng trải gấm phơi Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ Cây cao chim hót rộn cành tươi) (Trời hửng) Mặt trời trong thơ của Người còn là biểu tượng cho tương lai tươi sáng của cách mạng, điều đó đã thắp sáng trong người tù một niềm tin mãnh liệt: “Lung lý hiện thời hoàn hắc ám Quang minh khước dĩ diện tiền lai” (Trong ngục giờ đây còn tối mịt Ánh hồng trước mặt đã bừng soi) (Buổi sớm I) “Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng Chiếu đặc toàn sơn xứ xứ hồng Chỉ vị lung tiền hữu hắc ảnh Thái dương vị chiếu đáo lung trung” (Đầu non sớm sớm vầng dương mọc Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng Chỉ bởi trước lao còn bóng tối Mặt trời chưa rọi thấu vào trong) (Cảnh buổi sớm) Thiên nhiên trong thơ Bác còn gắn với những thử thách gian khổ của nhà tù. Trong những lần chuyển lao qua những chặng đường vất vả gian khổ ta cũng thấy Người phải trải qua bao con đường núi non hiểm trở: “Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham Na tri bình lộ cánh nan kham” (Đi khắp đèo cao, khắp núi cao Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao) (Đường đời hiểm trở) Đôi khi thiên nhiên còn trở nên chớ trêu trước hình ảnh người chiến sĩ cách mạng: 19
- “Gió sắc tựa gươm mài đá núi Rét như dùi nhọn chích cành cây” (Hoàng hôn) Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” không chỉ và không phải lúc nào cũng nên thơ, cũng đẹp đẽ thơ mộng, hùng tráng, tràn đầy ánh sáng của niềm vui, của khát vọng mà thiên nhiên trong thơ Bác còn là hiện thực khách quan trong nhiều cảnh ngộ đắng cay Cũng có khi thiên nhiên thật vô tình, thật đáng trách đáng giận: “Một ngày trời hửng chín ngày mưa Trời thật vô tình đáng giận chưa Giày rách đường lầy chân lấm láp Vẫn còn dấn bước dặm đường xa” Với Người chính thiên nhiên khắc nghiệt đã trở thành môi trường rèn luyện, thử thách ý chí con người. Vì vậy mà “Nhật kí trong tù” mang những nét riêng khó tìm thấy ở thơ cổ.Cái đặc sắc và cái lạ của thiên nhiên trong tập thơ của Bác là ngay trong cảnh xiềng xích, đói rét ốm đau vẫn bắt gặp bao hình ảnh nên thơ lộng lẫy được viết bằng một cảm hứng say đắm ngọt ngào. Vượt qua mọi khổ cực của cuộc sống tù đày để sống một cuộc sống tự do về tinh thần, chính tình yêu thiên nhiên quê hương của Bác đã giúp Người vượt lên trên mọi thứ cát bụi của cõi trần để được đắm mình trong đêm trăng, để thả hồn mình vào cảnh đẹp của đất trời. Tình yêu thiên nhiên của Bác Hồ được thể hiện trong tập thơ thật đa dạng, muôn màu, giản dị và phong phú, gắn liền với thế giới nội tâm. Thiên nhiên trong thơ Bác thật giản dị trong sáng nhưng vẫn đậm chất trữ tình. Nhật kí trong tù là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp dẫn của tập thơ này trước hết đúng là sức hấp dẫn trong “bức chân dung tự hoạ” con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói như nhà thơ Xuân Diệu sức hấp dẫn của tập thơ chính là sức hấp dẫn của “chất người cộng sản Hồ Chí Minh”. Là những cách nói khác nhau nhưng đều khẳng định tác giả của tập thơ “Nhật kí trong tù” là một nhân vật kiệt xuất: “Đại trí”, “Đại nhân”, “Đại dũng”. * Giá trị nghệ thuật: 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp 9
21 p | 253 | 59
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh khai thác, phát triển một vài ứng dụng từ một bài tập số học 6
16 p | 29 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng thực hành Tiếng Anh cho học sinh THCS theo hướng phát triển năng lực và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
26 p | 34 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh phân tích đề bài và giải bài toán bằng cách lập hệ phương trình
22 p | 60 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 7 giải một số bài toán bằng nhiều cách
30 p | 88 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh cách giải một số bài toán vận dụng tính chất của dãy tỉ số bằng nhau
21 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 9 một số kĩ năng viết văn nghị luận đạt kết quả cao trong kì thi vào lớp 10 THPT
28 p | 39 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn giáo viên Ngữ văn đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở trường THCS Lương Thế Vinh
25 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh giải bài toán bằng cách lập phương trình
37 p | 92 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 6 giải quyết bài toán chia hết trong N
30 p | 12 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh phân loại và giải một số dạng hệ phương trình
42 p | 23 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh lớp 7 giải bài toán về tỉ lệ thức
10 p | 62 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh giải toán phân tích đa thức thành nhân tử nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
20 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh qua chủ đề Các giác quan Sinh học 8, ở trường THCS và THPT Nghi Sơn
27 p | 17 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh khối 6 hệ thống hóa một số kiến thức cơ bản về từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm bằng sơ đồ tư duy
19 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh phương giải bài tập môn Vật Lí lớp 8
26 p | 66 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh kĩ năng khai thác kiến thức từ bản đồ trong dạy học Địa lí THCS theo hướng phát triển năng lực
19 p | 22 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỷ luật theo hướng tích cực đối với học sinh lớp 6 ở trường THCS
11 p | 46 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn