intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm trong giảng dạy Vật lí 8

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

44
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số nội dung như sau: Giáo viên tự chế tạo và sử dụng dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy Vật lí 8; Một số dụng cụ thí nghiệm đơn giản mà giáo viên có thể tự làm để phục vụ cho các tiết dạy trong chương trình Vật lí 8;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm trong giảng dạy Vật lí 8

  1.                                        CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                   Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ SỬ DỤNG DỤNG CỤ THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN TỰ  LÀM TRONG GIẢNG DẠY VẬT LÍ 8”                                                                     Họ tên: Võ Thị Gấm                                                    Chức vụ: Giáo viên                                                    Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Cam Thủy Lệ Thủy, tháng 4 năm 2020
  2. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài: Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành khoa học kỹ thuật quan trọng. Sự phát  triển của khoa học Vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự  tiến bộ  của khoa học kỹ thuật, vì vậy những hiểu biết và nhận thức Vật lí có  giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp  hoá hiện đại hoá đất nước . Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo con  người ở trường trung học nói chung và bậc học trung học cơ sở nói riêng. Mục  tiêu của môn Vật lý THCS là trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức Vật lí  cơ  bản, bước đầu hình thành cho học sinh những kỹ năng cơ  bản phổ  thông và   thói quen làm việc khoa học góp phần hình thành năng lực nhận thức và các   phẩm chất, nhân cách mà mục tiêu giáo dục trung học cơ sở đề ra . Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm bởi nguyên tắc dạy học là nguyên tắc  trực quan “học đi đôi với hành”. Thường thì do kinh nghiệm sống nên học sinh  đã có một số  vốn hiểu biết nào đó về  các hiện tượng vật lí. Nhưng không thể  coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp các em tự nghiên cứu bởi vì trước một hiện  tượng vật lí, học sinh có thể  có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. Vì  vậy, khi giảng dạy vật lí, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm   sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lí, bổ  sung, hệ  thống hoá những  kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm vật   lí, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy.   Tuy nhiên  ở  các trường trung học cơ  sở  hiện nay tình trạng dụng cụ  thí  nghiệm còn thiếu hoặc không đồng bộ, chất lượng kém, chưa có cán bộ  phụ  trách phòng thí nghiệm được đào tạo đúng chuyên môn đang rất phổ biến đã ảnh  hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học. Từ  thực tế  đó, tôi  nhận thấy việc sử 
  3. dụng đồ dùng dạy học đồng thời lồng ghép các dụng cụ thí nghiệm tự làm có ý  nghĩa vô cùng quan trọng vì vậy tôi đã tìm tòi và dành khá nhiều thời gian, tâm  sức trong việc nghiên cứu các thí nghiệm vật lí đơn giản. Hôm nay tôi mạnh dạn   trình bày đề tài  “Sử dụng dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm trong giảng  dạy Vật lí 8 ” đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Vật lí của bản thân tôi  trong các năm học vừa qua. 1.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: ­ Phạm vi áp dụng: Các tiết dạy có thí nghiệm trong chương trình Vật lý  lớp 8 trường THCS. ­ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 8 trường THCS cam Thủy năm  học 2018­2019 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1.  Thực trạng nội dung cần nghiên cứu. Thí nghiệm vật lí là phương tiện trực quan có hiệu quả, giúp học sinh dễ  hiểu về hiện tượng vật lí xảy ra, có nhiều hiện tượng chứng tỏ chỉ thông qua thí   nghiệm thì học sinh mới hình dung được hiện tượng đó xảy ra như  thế  nào, ví   dụ  như: nguyên lí paxcan, sự  tồn tại của áp suất khí quyển, sự  đối lưu, sự  phụ  thuộc của áp suất chất lỏng vào độ  sâu cột chất lỏng... Vì tác dụng nhiều mặt  như  vậy nên không thể  học vật lí mà không có thí nghiệm bởi thông qua thí  nghiệm mà các kiến thức vật lí gắn liền hơn với thực tiễn sản xuất.  Tình trạng thiếu dụng cụ  thí nghiệm  ở  các trường THCS đã  ảnh hưởng   rất lớn đến chất lượng dạy học. Tình trạng dạy chay, học chay khiến học sinh   không thể hình dung được quá trình vật lí, sự biểu hiện của các tính chất vật lí,  diễn biến của các hiện tượng vật lí. Mặt khác không khí lớp học trở  nên đơn 
  4. điệu, học sinh thiếu hứng thú trong học tập và tất yếu dẫn đến hiệu quả  giờ  dạy thấp. Thực tế trong nhiều năm qua, chất lượng thiết bị dạy học và thói quen sử  dụng đồ  dùng còn rất nhiều hạn chế đã làm ảnh hưởng không ít tới hoạt động   dạy học của giáo viên và học sinh. Mặt khác, trong chương trình Vật lý 8 ngoài  các bài thí nghiệm đã được chỉ  định tối thiểu và đã có thiết bị  đi kèm thì nhiều   nội dung thí nghiệm khác trong sách giáo khoa chưa có dụng cụ thí nghiệm. Điều  đó gây khó khăn rất nhiều cho giáo viên và học sinh trong công tác dạy và học. Vật lí là môn khoa học thực nghiệm thế  nhưng tình trạng phổ  biến  ở  trường trung học sơ sở mà tôi giảng dạy hiện nay là : +  Hầu hết các bài dạy Vật lí 8 chưa có đủ dụng cụ thí nghiệm cần thiết  cho học sinh và giáo viên. + Tranh vẽ minh hoạ gần như không có.      +  Kĩ năng làm thí nghiệm của học sinh vẫn còn hạn chế, các em lúng túng  khi sử dụng các dụng cụ và không biết xử lí kết quả khi làm báo cáo thực hành. + Dụng cụ  thí nghiệm còn thiếu hoặc không đồng bộ, chất lượng kém,  thiếu tính chính xác, phần lớn bị hư hỏng và không sử dụng được. + Nhà trường chưa có cán bộ  phụ  trách phòng thí nghiệm được đào tạo   đúng chuyên môn vì vậy việc bảo quản thiết bị, giúp giáo viên sắp xếp các thiết  bị dạy học chưa tốt.       Về cơ bản việc sử dụng thí nghiệm Vật lí 8 ở trường tôi vẫn còn hạn chế,   chưa phát huy hết tính độc lập sáng tạo của học sinh trong khi đó lượng kiến  thức  luôn được bổ sung, điều chỉnh cho kịp với sự phát triển của thời đại . 2.2 Cơ sở lý luận 2.2.1 Các khái niệm
  5. ­  Thiết bị  dạy học là một bộ  phận của cơ  sở  vật chất trường học, bao gồm   những đối tượng vật chất được thiết kế  mà giáo viên sử  dụng để  điều khiển  hoạt động nhận thức của học sinh; đồng thời là nguồn tri thức, là phương tiện  giúp học sinh lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng đảm bảo cho việc thực hiện   mục tiêu dạy học. ­Thiết bị  dạy học tự  làm là những thiết bị  phục vụ  cho việc dạy học không  nằm trong danh mục các thiết bị dạy học do Bộ GD&ĐT quy định 2.2.2 Ý nghĩa của thiết bị dạy học trong giảng dạy bộ môn vật lí Thiết bị dạy học là vật chất hữu hình, tưởng như vô tri, vô giác nhưng  dưới sự điều khiển của người giáo viên đã làm cho thiết bị dạy học thể hiện  được những khả năng sư phạm của nó. Thiết bị dạy học tăng tốc độ truyền  thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn, làm cho việc dạy học được văn minh hơn,  hiệu quả hơn. Thiết bị dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực  hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự đào tạo, rèn  luyện kỹ năng học tập và lao động, nâng cao tính khách quan khoa học của kiến  thức. Thiết bị dạy học góp phần đắc lực cho việc hình thành nhân cách của học  sinh  Trong quá trình dạy học Vật lí nhiều năm qua tôi nhận thấy việc làm các  thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong sự phát triển nhận thức của học sinh,   giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em   được quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần   cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động  thực tế. Do được tận mắt quan sát, tự  tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị  và đo   lường các đại lượng... các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ  và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
  6. Đặc biệt, việc thực hiện các thí nghiệm Vật lí là rất phù hợp với đặc   điểm tâm sinh lí và khả  năng nhận thức của học sinh, đồng thời tạo điều kiện  rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành,   cần thiết cho việc học tập Vật lí ở  các cấp học trên. Việc giáo viên và học sinh  tự  thiết kế  chế  tạo và sử  dụng các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản qua các vật   liệu dễ kiếm có nhiều tác dụng như: tăng cường tính trực quan, góp phần nâng  cao chất lượng lĩnh hội và nắm vững kiến thức, phát triển năng lực tư duy, độc   lập sáng tạo của học sinh. Việc tiến hành thí nghiệm, giải thích hoặc tiên đoán  kết quả  thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải phát huy, huy động các kiến thức đã  học ở nhiều phần khác nhau của Vật lí. Do đó, các kiến thức mà học sinh đã lĩnh  hội được củng cố, đào sâu, mở rộng và hệ thống hoá.  2.3. Giải pháp: Từ thực trạng nêu trên bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu và đưa ra những   giải pháp sau: 2.2.1. Giáo viên tự  chế  tạo và sử  dụng dụng cụ  thí nghiệm đơn giản   trong dạy Vật lí 8.   Việc chế tạo “dụng cụ thí nghiệm đơn giản” đòi hỏi ít vật liệu, các vật liệu  đơn giản, dễ kiếm, rẻ tiền. Ngay cả đối với các thí nghiệm định lượng thì việc   đo đạc cũng chỉ  đòi hỏi sử  dụng các dụng cụ  đo phổ  biến như  lực kế, thước,   đồng hồ đeo tay của học sinh.....Vì vậy “dụng cụ thí nghiệm đơn giản” dễ chế  tạo, dễ gia công bằng công cụ thông dụng như kìm, búa, kéo, cưa, giũa, giấy ráp.  Chính nhờ  đặc điểm này mà trong một số  trường hợp ta có thể  tự  làm được   những thí nghiệm đơn giản và đưa vào giảng dạy dù những thí nghiệm đó không   thể  tiến hành được với các “dụng cụ” có sẵn trong phòng thí nghiệm. Các bộ  phận của “dụng cụ  thí nghiệm đơn giản”  khi lắp ráp, tháo rời dễ  dàng, nhanh 
  7. chóng vì vậy với cùng một “dụng cụ thí nghiệm đơn giản”, trong nhiều trường  hợp ta chỉ cần thay thế các chi tiết phụ trợ là có thể làm được thí nghiệm khác.  Ngoài   ra   các   dụng   cụ   thí   nghiệm   đơn   giản   rất   dễ   bảo   quản   và   vận   chuyển, an toàn trong chế tạo và tiến hành thí nghiệm. Việc bố trí, tiến hành thí  nghiệm với “dụng cụ  thí nghiệm” này rất dễ  làm, không tốn nhiều thời gian.   Hiện tượng vật lý diễn ra trong thí nghiệm với “dụng cụ thí nghiệm đơn giản”   rõ ràng dễ quan sát. Việc thiết kế, chế tạo các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản, tự  làm làm tăng   hứng thú, tạo niềm vui trong việc dạy học của giáo viên và học sinh. Đồng thời,   kích thích tính tích cực, độc lập và phát huy khả  năng tư  duy sáng tạo của học  sinh trong học tập. Giáo viên cũng có thể  cá thể  hoá quá trình học tập của học   sinh bằng cách chế tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản cho các đối tượng học sinh   khác nhau, hướng dẫn chế  tạo, tiến hành thí nghiệm với mức độ  khó dễ  khác   nhau. Các dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm phần lớn đáp ứng việc thực hành đồng  loạt của học sinh. Nó giải quyết một phần khó khăn về  thiết bị, tạo điều kiện   cho các em tự  lực làm việc nhiều hơn. Nó không chỉ  đòi hỏi khả  năng thao tác  chân tay một cách đơn thuần mà còn phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, thực   tiễn   của   học   sinh. Nghiên cứu tự làm dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy học Vật lí 8 ở trường   THCS có rất nhiều lợi ích. Học sinh có thể  làm thí nghiệm trước ở  nhà để  tiết   kiệm thời gian làm thí nghiệm trên lớp, có thói quen tự  làm dụng cụ thí nghiệm  và làm thí nghiệm. Đồng thời tạo thói quen hợp tác trong việc nghiên cứu bài  học, hợp tác làm thí nghiệm, chế tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản.        2.2.2. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ thí nghiệm trong bài dạy để  chế   tạo ra các dụng cụ đảm bảo một số yêu cầu sau:
  8. ­ Các dụng cụ  thí nghiệm đơn giảm tự  làm phải thể  hiện rõ hiện tượng  vật lí cần quan sát. Một trong những  ưu  điểm quan trọng của “dụng cụ  thí  nghiệm đơn giản tự làm” là các dụng cụ này chỉ bao gồm những bộ phận có liên   quan đến hiện tượng vật lí cần quan sát chứ  không bị  che lấp bởi vỏ  bọc hay   những chi tiết phức tạp làm cho thiết bị  có hình dáng đẹp hay sử  dụng thuận   tiện. Bởi vậy, khi thiết kế dụng cụ thí nghiệm này cần đơn giản đến mức tối  đa, tránh mọi chỗ rườm rà khó quan sát, cố gắng để những bộ phận thể hiện rõ   hiện tượng vật lí lộ ra ngoài.   Ví dụ     Thí nghiệm về  sự  truyền áp suất trong chất lỏng (Ứng dụng của   định luật Paxcan) trong tiết 11: “Bình thông nhau – Máy nén thủy lực” Vật lí 8.  ( Thí nghiệm này không có dụng cụ trong phòng thí nghiệm). Mục đích của thí nghiệm này là cho học sinh thấy được chất lỏng chứa đầy   trong một bình kín có khả năng truyền nguyên vẹn áp suất từ bên ngoài tác dụng  lên nó. Qua đó học sinh hiểu rõ về nguyên tắc hoạt động của máy nén thủy lực   trong thực tế. Vật liệu gồm có: 1 chai nhựa lớn, 5 vỏ bút bi, một đoạn ống nhựa có đường   kính 7mm, keo dán, 1 quả bóng cao su.  Cách chế tạo dụng cụ như sau: Hơ nóng các đầu bút bi rồi uốn nhẹ để các   đầu bút bi cong lại. Dùng keo gắn chặt các bút bi xuyên qua nắp chai đựng nước  sao cho các ống có độ sâu và quay theo các hướng khác nhau. Dùng keo gắn một  đầu ống nhựa vào quả bóng cao su, đầu kia xuyên qua nắp chai nhựa. Tác dụng   lực vào quả  bóng sẽ  thấy nước dâng lên các  ống nhựa đều bằng nhau. Qua đó   các em thấy rõ nguyên lí Paxcan. Như vậy ở thí nghiệm này hiện tượng chất lỏng truyền áp suất nguyên vẹn  theo mọi phương được thể hiện rất rõ, dụng cụ thí nghiệm rất đơn giản, dễ làm  nhưng mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
  9. ­ Sơ  đồ  lắp ráp phải dễ  thực hiện, chú ý đến hiệu quả  quan sát, sự  tiện   dụng hơn là mỹ  thuật . Dụng cụ  thí nghiệm phải toát lên được trọng tâm của  vấn đề  giáo viên cần truyền đạt và thấy rõ được hiện tượng vật lí khi có kết  quả thí nghiệm.  Ví dụ    : Thí nghiệm chứng minh áp suất chất lỏng phụ thuộc vào độ sâu của   khối chất lỏng ở bài dạy “Áp suất chất lỏng”, tiết 10 Vật lí 8. Để chứng minh áp suất chất lỏng phụ thuộc vào độ sâu của khối chất lỏng  qua công thức p = d.h tôi đã cho học sinh làm dụng cụ  thí nghiệm sau: Dùng 2   chai nhựa lớn (chai cô ca loại 1,5l), chai thứ nhất đục 2 lỗ  A, B có độ  sâu như  nhau, chai thứ 2 đục 2 lỗ  C, D  ở độ  sâu khác nhau. Đặt chai thứ  nhất vào chậu  nhựa và đổ  nước đầy, học sinh quan sát thấy nước chảy ra  ở  2 lỗ  như  nhau  chứng tỏ  áp suất bằng nhau. Dặt chai thứ  2 vào chậu nhựa và đổ  nước đầy thì   nước chảy ra ở 2 lỗ khác nhau. Lỗ gần đáy chai nước chảy ra mạnh hơn chứng   tỏ áp suất nước gây ra lớn hơn.  Như  vậy qua thí nghiệm này học sinh thấy rõ ngay áp suất chất lỏng phụ  thuộc vào độ  cao của khối chất lỏng mặc dù dụng cụ  làm thí nghiệm rất đơn  giản, dễ làm. ­ Các dụng cụ, chi tiết, vật liệu cần dùng phải dễ  kiếm, rẻ  tiền để  cho   nhiều học sinh có thể tự  làm được, giáo viên phải tự  mình thâm nhập đời sống  để nắm vững những thứ có thể tìm kiếm được, sau đó hướng dẫn cho học sinh   tìm kiếm và chế tạo  v í d   : chai nhựa mà các em sử dụng hằng ngày, ống dây nhựa, vỏ lon bia...    ụ ­ Tận dụng các dụng cụ, thiết bị đã trở thành hàng công nghiệp bán rộng rãi   trên thị  trường. Điều này không đơn thuần có ý nghĩa về  mặt kinh tế  (rẻ  tiền)   mà còn có ý nghĩa sâu sắc về  mặt nhận thức làm cho học sinh thấy được mối   liên hệ giữa vật lí học với đời sống và sản xuất.
  10. Ví dụ :  Dụng cụ  thí nghiệm về  các bình thông nhau có diện tích đáy khác   nhau trong bài “Bình thông nhau” tiết 11 Vật lí 8 Dụng cụ thí nghiệm bình thông nhau trong phòng thí nghiệm vật lý 8 chỉ có   diện tích 2 nhánh bằng nhau do đó chưa toát lên được những kiến thức vật lý vì  vậy tôi đã chế  tạo ra dụng cụ  bình thông nhau có diện tích 2 nhánh khác nhau   bằng cách sau: Dùng 2 đến 3 chai nhựa có diện tích đáy là S1, S2, S3... dùng ống  thủy tinh có đường kính trong từ 10mm đến 15mm xuyên qua các chai nhựa bằng  thanh sắt nung đỏ sau đó dùng keo 502 dán bịt kín các chỗ hở. Như vậy chúng ta  đã có 1 bình thông nhau với các nhánh có diệntích khác nhau. ­ Ưu tiên những dụng cụ thí nghiệm có thể hoạt động đươc để  học sinh có  thể thấy được diễn biến của hiện tượng vật lí thật. Đây là ưu điểm nổi bật của   thí nghiệm vật lí, có giá trị  nhận thức hơn hẳn các phương tiện dạy học khác  như hình vẽ, phim ảnh, thậm chí cả máy vi tính. 2.2.3. Một số  dụng cụ  thí nghiệm đơn giản mà giáo viên có thể  tự   làm để phục vụ cho các tiết dạy trong chương trình Vật lí 8: ­ Thí nghiệm về quán tính, dạy bài 5: Sự cân bằng lực – Quán tính. ­ Thí nghiệm chứng minh áp suất chất lỏng phụ thuộc vào chiều cao cột chất  lỏng dạy bài 8: Áp suất chất lỏng. ­ Thí nghiệm chứng minh sự  tồn tại của áp suất khí quyển, dạy bài 9: Áp  suất khí quyển. ­ Thí nghiệm về  cấu tạo của các chất, dạy bài 19: Các chất được cấu tạo   như thế nào. Ngoài ra còn rất nhiều thí nghiệm giáo viên có thể tự làm để phục vụ công   tác giảng dạy môn Vật lí lớp 8. 2.3. Kết quả thu được:
  11. Sau quá trình sử  dụng dụng cụ  để  nâng cao chất lượng dạy học bộ  môn  Vật lí 8 bản thân tôi cảm thấy bước đầu đã gặt hái được một số thành công. a.Về kiến thức Học sinh nắm chắc những kiến thức cơ bản của các bài học dựa trên cơ  sở  tái hiện lại được các thí nghiệm. Có mở  rộng và nâng cao một số  kiến thức   phù hợp cho đối tượng học sinh giỏi. b. Về kĩ năng Học sinh có kĩ năng quan sát các hiện tượng và quá trình vật lí để thu thập   các dữ liệu cần thiết. Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lí, lắp ráp và  tiến hành các thí nghiệm Vật lí. Kĩ năng phân tích, xử lí thông tin và các dữ liệu   thu được để  giải thích một số  hiện tượng Vật lí cũng như  giải quyết một số  vấn đề  trong cuộc sống. Có khả  năng đề  xuất phương án thí nghiệm đơn giản  để  kiểm tra dự  đoán hoặc giả  thuyết đã đề  ra, kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính   xác bằng ngôn ngữ Vật lí. c. Về tình cảm thái độ Học sinh có hứng thú trong việc học tập bộ  môn Vật lí, có thái độ  trung  thực tỉ  mỉ, cẩn thận, chính xác trong việc thu thập thông tin, quan sát và thực  hành thí nghiệm. Có tinh thần hợp tác trong học tập, đoàn kết trong hoạt động   nhóm. d. Kết quả thu được trong năm học 2018 – 2019:  * Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài. Yếu ­  Sĩ  Giỏi Khá TB Lớp Kém số SL % SL % SL % SL % 8 38 5 13, 8 21,1 15 39,5 10 26,3 1 * Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài.
  12. Sĩ  Giỏi Khá TB Yếu ­ Kém Lớp số SL % SL % SL % SL % 8 38 8 21,1 12 31,6 14 36,8 4 10,5 Qua so sánh đối chứng kết quả  tôi thấy tỉ  lệ  điểm: TB, Khá, Giỏi có sự  chuyển biến khá tốt, điểm yếu giảm so với trước khi thực hiện đề tài, cụ thể là:  Yếu giảm 15,8%, TB giảm 2,7%, Khá tăng 10,5%, Giỏi tăng 8,0%.           3. PHẦN KẾT LUẬN. 3.1. Ý nghĩa của đề tài:  Đây là đề  tài đã  được xây dựng trong quá trình bản thân tôi trực tiếp  nghiên cứu và vận dụng vào giảng dạy, do đó nó  rất thiết thực và có tính ứng  dụng cao.  Qua thời gian áp dụng đề tài này tôi nhận thấy yếu tố quan trọng nhất để  nâng cao chất lượng dạy học môn Vật lí đó là học sinh phải được quan sát, được  làm thí nghiệm để  rút ra nhận xét và khắc sâu kiến thức. Có như  vậy học sinh  mới hiểu và nắm vững một cách tổng quát nội dung bài học, trên cơ  sở  đó các   em có thể tự học, tự nghiên cứu tài liệu và có hứng thú học tập, biết tự lực, chủ  động, tự tin lĩnh hội kiến thức. Quá trình giảng dạy tôi nhận thấy việc lồng ghép  sử dụng dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm trong giảng dạy vật lí THCS trong  việc hình thành kiến thức mới không chỉ rút ngắn được thời gian đào sâu phần lý  thuyết mà còn hướng dẫn cụ  thể  phần thực hành. Học sinh vừa lĩnh hội kiến   thức mới vừa hình thành kỹ năng thực hành. 3.2.Kiến nghị đề xuất. Tuy đã có nhiều cố  gắng trong nghiên cứu, song nội dung không thể  tránh  khỏi những tồn tại. Rất mong sự  góp ý chân thành của cấp trên cùng quý bạn   đồng nghiệp và các thầy cô để  cho đề  tài ngày càng hoàn thiện hơn,   giúp tôi  hoàn thành công tác tốt hơn và cũng là hoàn thiện bản thân mình hơn. 
  13. Tôi xin chân thành cảm ơn!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2