Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng lớp học theo các tiêu chí lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6 của trường THCS Thanh Xuân Nam
lượt xem 15
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài "Xây dựng lớp học theo các tiêu chí lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6 của trường THCS Thanh Xuân Nam" nhằm đề xuất quan điểm và một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc trên cơ sở nâng cao kết quả đánh giá tiêu chí lớp học hạnh phúc của học sinh lớp 6A3 nói riêng và học sinh khối 6 nói chung tại trường THCS Thanh Xuân Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng lớp học theo các tiêu chí lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6 của trường THCS Thanh Xuân Nam
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN TRƯỜNG THCS THANH XUÂN NAM XÂY DỰNG LỚP HỌC THEO CÁC TIÊU CHÍ LỚP HỌC HẠNH PHÚC CHO HỌC SINH LỚP 6 Ở TRƯỜNG THCS THANH XUÂN NAM Lĩnh vực/ Môn : Chủ nhiệm Cấp học : Trung học cơ sở Tên tác giả : Mai Thị Hải Yến Đơn vị công tác : Trường THCS Thanh Xuân Nam Chức vụ : Giáo viên
- NĂM HỌC 2020 - 2021
- MỤC LỤC
- I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Hạnh phúc là điều mà hàng ngàn đời nay mỗi chúng ta luôn mong muốn đạt được. Hạnh phúc là mục tiêu sống, mục tiêu hành động của bất cứ cá nhân nào trong cuộc đời này. Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, là mưu cầu “Khát khao của tất cả chúng sinh”, là thước đo đúng đắn nhất về sự tiến bộ của xã hội. Ở kỉ nguyên mới này, giáo dục coi trọng chỉ số EQ (trí tuệ cảm xúc) nhiều hơn, chú ý đến cảm xúc vui vẻ cho giáo viên và học sinh nhiều hơn. Vì vậy hạnh phúc trong nhà trường là điều hết sức quan trọng. “Trường học hạnh phúc” có thể hiểu một cách giản dị là “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến chân – thiện – mỹ. Nhà trường vừa là nơi ươm mầm, đồng thời vừa là nơi kết nối và phát huy những giá trị hạnh phúc. Có thể nói, hạnh phúc cần được bắt đầu từ những điều nhỏ nhất, từ khát khao gieo hạnh phúc của mỗi thầy cô. Lấy cảm hứng từ mô hình “Happy School” của UNESCO, mô hình "Trường học hạnh phúc" bắt đầu triển khai thí điểm ở nước ta vào tháng 4/2018 ở một số trường học tại thành phố Huế và nhanh chóng được nhân rộng trên cả nước và rất nhiều trường học đang triển khai xây dựng “ Trường học hạnh phúc”. Năm học 2020 – 2021, Phòng GD-ĐT quận Thanh Xuân tiếp tục chỉ đạo các trường đẩy mạnh thực hiện phong trào này với những yêu cầu cao hơn, thiết thực hơn, phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường. Để phong trào “Trường học hạnh phúc” thực sự có bề rộng và chiều sâu, đem lại hiệu quả cao, thiết thực trong hoạt động dạy và học, giúp các em hứng thú, chủ động, sáng tạo trong học tập, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn băn khoăn, trăn trở với những câu hỏi tự đặt ra cho bản thân "Làm sao các em có cảm giác trường học là ngôi nhà thứ hai, cô giáo là người mẹ thứ hai và mỗi ngày đến trường là một ngày vui?”. Tôi thấy rằng muốn xây dựng được trường học hạnh phúc thì phải bắt đầu từ việc xây dựng “lớp học hạnh phúc”. Vì mỗi lớp học hạnh phúc, học sinh hạnh phúc là một viên gạch nền móng vững chắc cho một ngôi trường hạnh phúc, học sinh tích cực hoàn thiện và phát triển toàn diện nhất. Chính những lí do trên đã thúc đẩy tôi tìm hiểu, nghiên cứu và dựa trên kinh nghiệm của bản thân để thực hiện xây dựng lớp học theo các tiêu chí của mô hình lớp học hạnh phúc, góp phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện đáp ứng thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển của đất nước. 1.2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng lớp học theo các tiêu chí lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6 của trường THCS Thanh Xuân Nam. 1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu + Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn.
- + Phân tích, đánh giá thực trạng các tiêu chí về lớp học hạnh phúc của học sinh lớp 6A3. + Đề xuất quan điểm và một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc trên cơ sở nâng cao kết quả đánh giá tiêu chí lớp học hạnh phúc của học sinh lớp 6A3 nói riêng và học sinh khối 6 nói chung tại trường THCS Thanh Xuân Nam. 1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo để xây dựng lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6A3 trường THCS Thanh Xuân Nam. b. Phạm vi nghiên cứu Vì điều kiện và thời gian có hạn, nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và ứng dụng thực tế ở học sinh lớp 6A3 năm học 2020 – 2021 của trường THCS Thanh Xuân Nam do tôi làm chủ nhiệm. Thời gian: Khảo sát từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2020. Áp dụng đề tài từ tháng 12 năm 2020 đến nay. 1.5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận nghiên cứu: kết hợp phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để chọn lọc những thông tin cần thiết từ đó liên kết những mối quan hệ thông tin thu thập được thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống thông tin, dữ liệu đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. - Phương pháp thu thập dữ liệu: + Thu thập dữ liệu thứ cấp: qua các tài liệu tạp chí, giáo trình, sách tham khảo, website… + Thu thập dữ liệu sơ cấp: thu thập thông tin từ học sinh qua bảng câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp. - Phương pháp phân tích dữ liệu: Sử dụng phần mềm Microsoft Excel để tập hợp dữ liệu điều tra. Thông qua các số liệu đã được tổng hợp từ các phiếu điều tra tiến hành phân tích thống kê mô tả, phân tích nhân tố ảnh hưởng và so sánh ý kiến đánh giá của các đối tượng được điều tra nhằm xác định các nguyên nhân. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận Tại Lễ phát động “Triển khai Kế hoạch nâng cao năng lực ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo vì một trường học hạnh phúc” ngày 22/4/2019, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ đã chia sẻ: Theo các nhà nghiên cứu, cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, một trường học hạnh phúc có 21 tiêu chí. Nhưng có 3 tiêu chí quan trọng, có tính cốt lõi là: yêu thương, an toàn và tôn trọng. Làm tốt 3 tiêu chí này,
- mỗi người chúng ta sẽ thấy hạnh phúc và hạnh phúc thực sự, chứ không phải sự ép buộc. Đây là nhu cầu tự thân, là động lực để các thành viên trong nhà trường phấn đấu. Bộ trưởng đã dẫn giải, về từng tiêu chí và nội hàm của từng tiêu chí như sau: - Tiêu chí “yêu thương”: + Thứ nhất là sự quan tâm. Thầy, cô quan tâm đến đồng nghiệp, quan tâm đến học trò và HS quan tâm đến nhau. Nếu thờ ơ, vô cảm thì chúng ta không hạnh phúc được. + Thứ hai là chia sẻ. Mỗi người có thuận lợi, khó khăn riêng. Do đó sự chia sẻ cho đi, nhận lại sẽ tạo ra một sự gần gũi và không có khoảng cách. + Thứ ba là sự tin tưởng lẫn nhau. Thầy, cô tin tưởng đồng nghiệp, tin tưởng HS và ngược lại. Hoài nghi, đố kỵ sẽ không hạnh phúc được. Chúng ta có niềm tin thì sẽ có sức mạnh và chắp cánh ước mơ. + Thứ tư là sự hỗ trợ. Hỗ trợ về tinh thần bằng sự chia sẻ và hỗ trợ về vật chất bằng sự giúp đỡ. Qua hỗ trợ tình cảm sẽ nảy nở, ích kỷ cá nhân là kẻ thù của hạnh phúc. + Thứ năm là sự bao dung. Không ai có thể hoàn hảo, không ai tránh khỏi sai lầm nhưng khi đã có sự bao dung thì mọi việc sẽ được nhìn nhận rất nhẹ nhàng. Như vậy, nội hàm sơ bộ của tiêu chí yêu thương là sự quan tâm, chia sẻ, tin tưởng, hỗ trợ và bao trùm lên bao dung. - Tiêu chí an toàn: Trong trường học phải an toàn về thể chất và tinh thần. GV, HS phải được bảo vệ, không có sự xúc phạm về thể xác và tinh thần để mỗi khi đến trường như là về nhà. Do vậy an toàn về thể chất, trước hết là chúng ta phát triển để khỏe mạnh. Bộ trưởng nhấn mạnh về an toàn tinh thần, sự tổn thương về tinh thần thậm chí còn nguy hiểm hơn là tổn thương về thể xác và có thể đi hết cả cuộc đời. - Tiêu chí tôn trọng: cần tôn trọng sự khác biệt bởi chính sự khác biệt ấy mới tạo nên sự đa dạng về văn hóa và đổi mới. Tôn trọng sự khác biệt, trước hết là không áp đặt, đem giá trị của một vài cá nhân, áp đặt cho cái chung. Chúng ta hướng tới sự tốt đẹp, nhưng có nghĩa là tất cả vài trăm người giống nhau như một, dẫn đến đồng phục hóa trăm người như một. Nếu tất cả đều giống nhau thì đó là triệt tiêu sự sáng tạo, triệt tiêu những tư tưởng đổi mới. Cho nên khuyến khích sự khác biệt nhưng phải trong sự thống nhất. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Vài nét về trường THCS Thanh Xuân Nam Trường THCS Thanh Xuân Nam được thành lập năm 2005 tọa lạc tại phường Thanh Xuân Nam, Quận Thanh xuân, TP Hà Nội, là ngôi trường có khuôn viên rất đẹp đẽ, khang trang, khung cảnh sư phạm Xanh - Sạch - Đẹp. Trường liên tục 08 năm liền đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến và tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố về TDTT
- và đã được Bộ GD&ĐT công nhận “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Ngày 11/3/2014 nhà trường vinh dự được đón bằng công nhận “Trường THCS đạt Chuẩn quốc gia”. Cơ sở vật chất của nhà trường được xây dựng khang trang hiện đại theo tiêu chuẩn trường đạt chuẩn Quốc gia có diện tích gần 10.000m2 với các trang thiết bị hiện đại. Tất cả các phòng học rộng rãi, đầy đủ ánh sáng, thoáng mát, bàn ghế mới đạt chuẩn, bảng chống lóa đúng quy định, máy vi tính, tivi màn hình 65’ – góc quay 45 độ, máy proector được nối mạng Internet. Có đầy đủ các phòng học chức năng: Phòng thí nghiệm thực hành, phòng đa năng, phòng ngoại ngữ, phòng âm nhạc... để phục vụ tốt nhất cho công tác giảng dạy và học tập. Hội đồng sư phạm nhà trường có nhiều thầy cô giáo giỏi, với trình độ chuyên môn vững vàng, 100% đạt chuẩn (80% trên chuẩn), có uy tín với phương pháp giảng dạy tốt, có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề và rất tận tình với học sinh. Năm học 2020 – 2021, toàn trường có 44 cán bộ giáo viên nhân viên với 809 học sinh và 19 lớp. 2.2.2. Thực trạng các tiêu chí đánh giá lớp học hạnh phúc cho học sinh lớp 6 trường THCS Thanh Xuân Nam Vì điều kiện và thời gian có hạn, nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và ứng dụng thực tế ở học sinh lớp 6A3 năm học 2020 – 2021 của trường THCS Thanh Xuân Nam do tôi làm chủ nhiệm. 2.2.2.1. Kết quả khảo sát Trước khi thực hiện triển khai sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng các tiêu chí đánh giá lớp học hạnh phúc thông qua việc phát phiếu khảo sát (Mẫu tại Phụ lục 1) với đối tượng là học sinh lớp 6A3. Tổng số phiếu điều tra phát ra là 41 phiếu, thu về 41 phiếu hợp lệ. Từ những thông tin thu được từ việc khảo sát, tôi đã tổng hợp lại và thu được kết quả như sau: Bảng 1: Bảng kết quả phiếu khảo sát kết quả đánh giá tiêu chí lớp học hạnh phúc của học sinh trước khi áp dụng SKKN Số Điểm phiếu trung Đánh giá Tiêu đánh Stt bình chí giá 5 4 3 2 1 Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Yêu thương 1 Quan tâm 5 33 3 4,05 Khá 2 Chia sẻ 10 29 2 3,20 Trung bình 3 Tin tưởng 7 34 0 4,17 Khá
- Số Điểm phiếu trung Đánh giá Tiêu đánh Stt bình chí giá 5 4 3 2 1 Tốt Khá Trung bình Yếu Kém 4 Hỗ trợ 7 32 2 3,12 Trung bình 5 Bao dung 20 21 3,49 Trung bình An toàn 6 Thể chất 6 35 4,15 Khá 7 Tinh thần 1 10 25 5 3,17 Trung bình Tôn trọng Tôn trọng sự 8 0 9 25 7 3,05 Trung bình khác biệt Nguồn: Tác giả tự tổng hợp Qua kết quả điều tra khảo sát, có thể thấy phần lớn học sinh lớp 6A3 đánh giá các tiêu chí lớp học hạnh phúc ở mức khá hoặc trung bình. Như vậy, học sinh đang chưa cảm thấy lớp học thực sự hạnh phúc. Để làm rõ vấn đề này, ngoài phỏng vấn trắc nghiệm, tôi đã phỏng vấn trực tiếp thêm các học sinh là cán bộ lớp theo các câu hỏi trong Phụ lục 2, từ đó đưa ra những đánh giá và tổng kết được thực trạng các tiêu chí đánh giá lớp học hạnh phúc của học sinh lớp 6 trường THCS Thanh Xuân Nam. 2.2.2.2. Thực trạng và những nhược điểm của phương pháp cũ a. Tiêu chí “Yêu thương” Theo kết quả khảo sát, tiêu chí “Yêu thương” với 05 nội hàm đánh giá đều ở mức trung bình khá. Cụ thể nội hàm “Quan tâm” ở mức khá, chia sẻ ở mức trung bình, “tin tưởng” ở mức khá, “hỗ trợ” ở mức trung bình, “bao dung” ở mức trung bình. Với kết quả như trên, có thể thấy học sinh lớp 6A3 chưa hoàn toàn cảm thấy được yêu thương, cảm thấy hạnh phúc trong lớp học. Qua quá trình phân tích và đánh giá, tôi đã tổng kết được thực trạng và những nhược điểm của phương pháp cũ đã ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc của học sinh. Cụ thể như sau: - Học sinh bị căng thẳng trong lớp học: Lớp 6 là năm học đầu tiên của cấp THCS, học sinh vừa chuyển lên một cấp học mới với rất nhiều sự khác biệt và vô cùng bỡ ngỡ: trường mới, bạn mới, thầy cô mới, nhiều môn học mới với nhiều yêu cầu, nội dung kiến thức trừu tượng, phong phú, sâu sắc hơn … Đây cũng là một trong những điều rất khó khăn của học sinh lớp 6, các em cần nhiều thời gian để làm quen môi trường mới, hiểu được cách thức học tập mới và có thói quen học tập đúng. Bên cạnh đó, qua việc phỏng vấn trực tiếp, kể cả với những học sinh giỏi, các em đều cảm thấy áp lực và căng thẳng từ sức ép học tập, sức ép điểm số của bố mẹ. Một số giáo viên
- thay vì cởi mở đã quá nghiêm túc vì cho rằng giai đoạn này cần phải rèn nếp học sinh mới. Ngoài ra, một số ít thầy cô luôn đề cao sự quan trọng của môn học, kiến thức nào cũng rất quan trọng và cần thiết nên học sinh cảm thấy lo lắng và áp lực. Đây là hạn chế của phương pháp cũ, cần phải thay đổi để học sinh cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc hơn trong giờ học. - Học sinh chưa hứng thú trong học tập: Một số em còn mải chơi, chưa chú tâm vào việc học. Bên cạnh đó, một số môn học, thầy cô vẫn dạy theo phương pháp truyền thống, chưa có những thay đổi trong phương pháp dạy học, dẫn đến học sinh chưa hứng thú và tích cực trong giờ học. Ngoài ra, một số em hổng kiến thức từ tiểu học, nên chán nản, không muốn học. - Nhiều em còn có những mối quan tâm khác: Ở giai đoạn này, một số học sinh lớp 6 bắt đầu bước vào lứa tuổi dậy thì, các em quan tâm nhiều đến vẻ ngoài, làm dáng làm đỏm nhiều hơn. Một số ít học sinh bắt đầu có mối quan tâm đến đối tượng khác giới dẫn đến nảy sinh những rung cảm đầu đời. Điều này làm các em không tập trung trong học tập, kết quả học sa sút hơn. Bên cạnh đó, mối quan hệ bạn bè của các em đa dạng và phức tạp hơn. Giáo viên cũng chưa có phương pháp nắm bắt được tâm tư nguyện vọng và các mối quan hệ của các em. - Học sinh chưa có đủ kỹ năng sống: Đôi khi các tiết sinh hoạt chủ đề có nội dung còn chưa gần gũi với các vấn đề thực tiễn xảy ra hàng ngày xung quanh các em, nên chưa thu hút được sự quan tâm của học sinh. Hơn nữa ở giai đoạn này học sinh cần được bổ sung kiến thức xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự bảo vệ , kỹ năng làm việc nhóm… Do vậy, cần phải thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề để đạt được kết quả tốt hơn. - Học sinh chưa được quan tâm và chia sẻ đúng cách: giáo viên chủ nhiệm mới chỉ tìm hiểu về học sinh thông qua sơ yếu lý lịch, thông qua cách thể hiện của các em trong giờ học và thông qua nhận xét của các cô giáo bộ môn. Tuy nhiên, học sinh lớp 6 vẫn còn rụt rè, chưa dám thể hiện mình trong lớp học. Do vậy, giáo viên chủ nhiệm không thể nắm bắt được hết các thông tin về hoàn cảnh gia đình, tính cách, đặc điểm tâm lý riêng hay những sở trường, sở thích của tất cả các em. Giáo viên chủ nhiệm cần có những biện pháp để thấu hiểu và chia sẻ với học sinh một cách hiệu quả hơn. - Học sinh cảm thấy sợ sệt, sợ giáo viên không tin tưởng: Chương trình học nặng hơn và có nhiều giáo viên bộ môn, thậm chí có những môn chỉ 1 tiết/ tuần. Do vậy học sinh chưa “quen” cô, cảm thấy sợ sệt. Thời điểm này cần Giáo viên chủ nhiệm là thủ lĩnh tinh thần, là cầu nối để học sinh cảm thấy bớt lo lắng hơn khi đi học. - Lớp học chưa thân thiện, tinh thần đoàn kết, tính tập thể chưa cao: Do môi trường mới, học sinh cần thời gian để làm quen và tìm hiểu nhau để xây dựng tình bạn, lớp học đoàn kết, thân thiện. Vai trò của cô giáo chủ nhiệm là phải có những biện pháp để thúc đẩy sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp.
- - Kết quả phỏng vấn trực tiếp cho thấy, do nội quy, quy định của trường cấp 2 nghiêm khắc hơn khi các em học ở tiểu học, nên nhiều học sinh cảm thấy chưa quen, sợ bị phạt. b. Tiêu chí “An toàn” Đối với Tiêu chí “An toàn”, kết quả khảo sát học sinh lớp 6A3 đánh giá về thể chất ở mức khá, về tinh thần ở mức trung bình. Điều này cũng dễ hiểu và phần nhiều xuất phát từ tâm lý lứa tuổi. Lứa tuổi lớp 6, các em đang quen là học sinh lớn tuổi nhất ở tiểu học nay lại là học sinh nhỏ tuổi nhất trong trường, các em cảm thấy mình nhỏ bé nên lo lắng, sợ sệt và nhút nhát. Nhìn các anh chị lớn hơn, lanh lẹ… nếu bị các anh chị hù dọa thì các em sẽ như thế nào? Đa phần ở lứa tuổi dậy thì (từ 11-14 tuổi),việc bị bắt nạt, trêu chọc, đánh nhau đôi khi rất dễ xảy ra. Đồng thời, vì các em mới bắt đầu môi trường THCS, không khỏi sự bỡ ngỡ, chưa quen trường lớp mới, cơ sở vật chất cũng như nếp sinh hoạt, hoạt động nên cũng dễ xảy ra va chạm,tai nạn, sự cố ngoài ý muốn… Tuy nhiên, nguyên nhân một phần cũng vì giáo viên vẫn sử dụng phương pháp cũ là thu thập thông tin từ hồ sơ và từ phụ huynh mà chưa có phương án xây dựng mạng lưới thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nên dẫn đến chưa nắm được tâm tư, tình cảm hay mâu thuẫn các con mắc phải. Mặt khác, giáo viên cũng chưa xây dựng được kế hoạch thường xuyên rà soát cơ sở vật chất, việc ăn uống, vệ sinh của học sinh để hạn chế các va chạm hoặc những tai nạn, sự cố ảnh hưởng đến sức khỏe học sinh. c. Tiêu chí “Tôn trọng sự khác biệt” Đối với Tiêu chí “Tôn trọng sự khác biệt”, kết quả khảo sát học sinh lớp 6A3 đánh giá ở mức trung bình. Điều này cho thấy học sinh lớp 6A3 vẫn còn cảm giác bị “bỏ rơi”, chưa được quan tâm đúng mức về đặc điểm cá thể của mỗi em. Vì học sinh mới chuyển cấp, vẫn còn rụt rè, chưa dám trao đổi với giáo viên về tâm tư nguyện vọng cũng như năng khiếu của mình. Giáo viên vẫn áp dụng phương pháp cũ, chưa phân tích, nhận ra được năng lực, năng khiếu, điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh. Vẫn còn tình trạng áp đặt truyền tải kiến thức, chưa phân hóa được cho từng cá thể. Trên thực tế, mức độ tiếp thu của mỗi học sinh là khác nhau, năng khiếu cũng khác nhau, sức khỏe cũng khác nhau… Cần có giải pháp phù hợp để giáo viên thể hiện tinh thần “Tôn trọng sự khác biệt” của mỗi học sinh thật hiệu quả. 2.3. Một số biện pháp Căn cứ vào thực trạng và nguyên nhân đã phân tích ở Mục 2.2, tôi đã đưa ra những giải pháp tương ứng với từng tiêu chí lớp học hạnh phúc. Việc đưa ra giải pháp cụ thể, chi tiết cho từng tiêu chí giúp tăng hiệu quả và tính thực tiễn trong quá trình triển khai thực tế. Cụ thể như sau: 2.3.1. Về tiêu chí “Yêu thương” a. Tạo môi trường học tập vui vẻ, giảm căng thẳng trong lớp học
- Trong lớp học hạnh phúc, giáo viên phải làm tròn vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, là người nhạc trưởng của giờ học. Thầy cô mẫu mực thì học trò học tập, thầy có hành vi tiêu cực thì học trò cũng bắt chước theo. Chính vì vậy trong mối quan hệ gắn kết này, giáo viên phải biết xây dựng không khí lớp học luôn vui tươi, phấn khởi. Để tạo môi trường học tập vui vẻ, giảm căng thẳng trong lớp học, biện pháp thực hiện như sau: - Giáo viên luôn mang tinh thần thoải mái, vui vẻ trong lớp học và cười nhiều hơn với học sinh. Học sinh sẽ cảm thấy sự vui vẻ, dễ gần từ giáo viên, xóa bỏ khoảng cách với thầy cô và bớt áp lực trước các môn học khó. Tuy nhiên, cần khẳng định không quá thoải mái, dễ dãi đến mức vui mà thiếu đi sự nghiêm túc, mà cần đủ để cho học sinh cảm nhận tích cực với sự thoải mái nhất. Các thầy cô nên khởi động mỗi tiết học bằng một số việc làm đơn giản, có thể không liên quan đến đến nội dung bài học như quan tâm hỏi thăm học sinh, một vài câu đố vui vẻ, một vài trò chơi vận động nhỏ, hát một bài hát hoặc chia sẻ một chút về tin tức “hot” của giới trẻ, tuổi teen, giải trí, facebook… hoặc những hiểu biết sâu rộng ở những lĩnh vực khác như thời trang, sức khỏe … Thầy cô phải đặt mình vào cương vị của các em thì mới “đi” đến được những “góc khuất” của tâm hồn để khơi dạy tình yêu và đam mê ở các em. Có như vậy, học sinh mới được kích thích những cảm xúc tích cực, và từ đó thu nhận kiến thức các môn học dễ dàng hơn. - Lồng ghép sự hài hước bằng lời nói, biểu cảm: Những lời nói đùa, những câu bình luận, nhận xét vui vẻ của giáo viên trong lớp học tạo những hiệu quả rất tích cực cho học sinh, giúp các con thoải mái, giảm áp lực và không ngại ngùng khi giơ tay phát biểu, gạt bỏ được tâm lý sợ sai.Ví dụ trong một vài tiết học Toán, khi tôi đặt câu hỏi, học sinh trong lớp rụt rè không dám trả lời các câu hỏi phần vì sợ sai, phần vì sợ xấu hổ trước thầy cô và bạn bè, tôi thường khéo léo động viên với các em: “ Kể cả không trả lời đúng câu này chúng ta vẫn thông minh hơn học sinh lớp 5 các con nhỉ ”, cả lớp và ngay cả những học sinh đã trả lời sai cũng cười lớn. Qua đó, các em sẽ mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình hơn, sự vui vẻ, thoải mái cũng giúp các em nhớ kiến thức tốt hơn. Hình 1: Lớp học sôi nổi, vui vẻ của học sinh lớp 6A3 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp - Hướng dẫn nhẹ nhàng khi học sinh trả lời sai, tránh phê bình, dùng những từ ngữ nặng lời, gay gắt. Giáo viên có thể khéo léo nhận xét, ghi nhận sự nỗ lực, sự cố gắng nào đó trong bài làm hoặc câu trả lời của học sinh. Sau đó giáo viên mới đưa ra những câu nhận xét chi tiết và cụ thể sẽ giúp học sinh hiểu các lỗi mình mắc phải một cách rõ ràng hơn, rút được kinh nghiệm để có kết quả tốt hơn cho lần sau. Thay vì những câu nhận xét chung chung như “Tốt”, “Chưa đạt”, tôi thường ghi nhận xét vào bài của các em một cách rõ ràng, chi tiết, chú trọng vào quá trình học tập của học sinh
- như “Trình bày bài của con rất tốt, con đã ôn tập bài kĩ” hoặc “Con có nhiều tiến bộ ở phần tính nhanh, tuy nhiên cần chú ý đến quy tắc dấu ngoặc hơn”… b. Quan tâm đến hứng thú học tập của học sinh bằng cách sử dụng các phương pháp mới để nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức Ngoài việc tạo dựng mối quan hệ thầy trò, mỗi giáo viên cần phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, có phương pháp dạy học hiệu quả để có nhiều tiết học tốt hơn, tạo hứng thú, chủ động tiếp thu kiến thức, không còn mệt mỏi và buồn ngủ. Giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học sao cho hiệu quả, thu hút được sự chú ý của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, chủ động tìm tòi kiến thức hoặc tích hợp môn học của mình với môn học khác và đời sống thực tiễn để học sinh cảm thấy ý nghĩa và thiết thực hơn. Chẳng hạn trong các tiết dạy môn toán của mình, tôi thường lồng ghép thêm các trò chơi: + Trò chơi Nhanh mắt nhanh tay: Để khắc sâu kiến thức cho học sinh, tôi thường đưa ra các bài toán có lời giải sai ở một vài bước học sinh hay mắc phải, các nhóm thảo luận tìm ra lỗi sai và sửa sai. Nhóm nào tìm nhanh nhất và sửa lại cho đúng là đội chiến thắng và được thưởng. Hình 2: Lớp 6A3 chơi trò chơi nhanh mắt nhanh tay Nguồn: Tác giả tự tổng hợp + Trò chơi Rung chuông vàng: Trong tiết luyện tập, tôi cho học sinh cả lớp tham gia trò chơi này bằng cách cho mỗi học sinh dùng 01 bảng phụ để trả lời các câu hỏi. Chiếu lần lượt 20 câu hỏi và tìm ra người chiến thắng là người trả lời đúng đến câu cuối cùng. + Trò chơi Nhanh như chớp: trò chơi này tôi thường cài vào phần khởi động hoặc luyện tập – vận dụng ở các tiết học thích hợp, giáo viên cần xây dựng bộ các câu hỏi trắc nghiệm trong ứng dụng trò chơi trực tuyến Kahoot, Quizz,… các nhóm học
- sinh được sử dụng máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh truy cập vào các ứng dụng và tham gia trả lời. Hệ thống sẽ ghi nhận đáp án đúng, đếm giờ và tính điểm. Nhóm nào trả lời nhanh và đúng sẽ giành chiến thắng và được thưởng. Thông qua các trò chơi tôi nhận ra rằng học sinh sẽ hứng thú trong việc tìm hiểu kiến thức, các em được thảo luận, hợp tác, có khi là tranh luận nhưng cũng dần tìm được tiếng nói chung và thống nhất kết quả của hoạt động nhóm. Giáo viên lúc này sẽ quan sát, tư vấn, hỗ trợ, định hướng và chốt lại kiến thức cho các em. c. Đổi mới tiết Sinh hoạt lớp, lồng ghép sinh hoạt chủ đề với những nội dung giáo dục đạo đức, tư tưởng, kỹ năng sống Sinh hoạt lớp là một tiết học chính khóa, thường diễn ra vào cuối tuần. Nhưng từ lâu hầu như tiết sinh hoạt lớp đối với học sinh có cái gì đó nặng nề, không hứng thú, có khi tiết này nhìn giống như một phiên tòa, vì ở đó có người thưa, người kiện, người khiếu nại, người thắc mắc… rồi xử, rồi phạt và có cả cãi vã. Để đổi mới tiết sinh hoạt lớp, người giáo viên cần đổi mới ở nhiều phương diện cả về nội dung, hình thức tổ chức, vai trò của học sinh - giáo viên chủ nhiệm, phương pháp tổ chức, các bước tiến hành. Trước hết, giáo viên chủ nhiệm có thể coi tiết học này là một cuộc họp và người điều hành cuộc họp chính là học sinh, là đội ngũ cán bộ lớp. Cán bộ lớp được phân công phân nhiệm một cách rõ ràng. Các tổ trưởng, tổ phó từng tổ có trách nhiệm sơ kết thi đua tuần của tổ mình. Lớp trưởng, lớp phó tổng hợp, báo cáo đề cử được các cá nhân hay tổ thực hiện tốt xứng đáng được khen thưởng và cả những cá nhân cần rút kinh nghiệm. Các thành viên cả lớp cùng nhau xây dựng phương hướng, nhiệm vụ cho tuần sau. Giáo viên cũng để cho học sinh cả lớp được quyền nói, tự nhận xét để đảm bảo sự công bằng và khuyến khích các em phát triển cái tôi của mình theo chiều hướng tích cực. Trong cuộc họp này, giáo viên chỉ đóng vai trò như một cố vấn, một người quan sát để tổng hợp mọi vấn đề và đưa ra quyết định cuối cùng ở cuộc họp một cách hợp lý nhất. Phần còn lại của tiết sinh hoạt lớp, giáo viên nên lồng ghép thêm sinh hoạt chủ đề với những nội dung giáo dục đạo đức, tư tưởng, kĩ năng sống…Các em sẽ hiểu được những giá trị sống tốt đẹp đó là kim chỉ nam cho những hành động đúng đắn, ngoài ra các em còn được trang bị kĩ năng sống để biết bảo vệ bản thân, hòa nhập với tập thể trong mọi hoàn cảnh, biết quản lý cảm xúc, biết ứng xử văn minh, lịch sự … Mỗi tuần, giáo viên xây dựng hoạt động, phân công từng nhóm, từng học sinh tìm hiểu các nội dung theo chủ đề cho trước, học sinh chủ động tìm tòi nội dung từ nhiều nguồn khác nhau như: sách, báo, tạp chí, mạng internet… sau đó các em tổng hợp báo cáo để giáo viên duyệt trước các buổi sinh hoạt lớp. Giáo viên hướng dẫn cách cho các em xây dựng hoạt động, chuyển giao dần cho học sinh điều khiển chương trình, chủ động thể hiện các hoạt động bằng nhiều hình thức như trò chơi, thuyết trình, quay video
- thực tế, …Lúc này, giáo viên đóng vai trò định hướng, can thiệp vào những thời điểm phù hợp để chốt vấn đề, hoặc giải quyết những tình huống gây tranh cãi. Ví dụ trước buổi sinh hoạt chủ đề tôn sư trọng đạo, tôi giao nhiệm vụ cho tổ 1 tìm hiểu nội dung về những tấm gương tôn sư trọng đạo trong cuộc sống; tổ 2 chuẩn bị nội dung về những biểu hiện chưa tôn sư trọng đạo; tổ 3 tìm hiểu về nội dung học sinh cần làm gì để tôn sư trọng đạo; tổ 4 chuẩn bị các tiết mục văn nghệ liên quan đến chủ đề. Đến giờ sinh hoạt lớp, theo điều hành của bạn dẫn chương trình, đại diện các tổ trình bày với cả lớp những nội dung theo yêu cầu của mình dưới rất nhiều hình thức như trò chơi, tiểu phẩm, thuyết trình, video… Hoặc một hình thức khác khi tổ chức tiết sinh hoạt chủ đề kiềm chế cảm xúc giận dữ, đây là một chủ đề khá khó với các em. Vì vậy, để đơn giản hóa, tôi tổ chức cho học sinh cả lớp một hoạt động nhỏ: viết ra giấy những gì bản thân cảm nhận được. Đó có thể là những cảm xúc tiêu cực, khó chịu về bạn bè, về việc học hành hay những mối quan hệ có mâu thuẫn khác,… Đây cũng là một cách giải tỏa tâm lý. Sau đó tôi chia nhóm các cảm xúc các con gặp phải, rồi hướng dẫn cách giải tỏa, cách đánh giá và giải quyết vấn đề để các con biết cách kiểm soát cảm xúc tốt hơn. Đồng thời, tôi kể cho các con nghe những câu chuyện có liên quan đến kĩ năng quản lý tốt cảm xúc như mẩu chuyện hạt giống tâm hồn, hay xem những video về quà tặng cuộc sống: Đừng hành động khi đang giận dữ; Hai hạt mầm; Giá trị của lời động viên;… Bằng việc đổi mới giờ sinh hoạt lớp, các hoạt động được tổ chức đa dạng, nội dung mới mẻ, gần gũi, thậm chí là giải quyết ngay được những vấn đề đang xảy ra trong lớp, học sinh được quyền chủ động trong các hoạt động đảm bảo rằng học sinh sẽ cảm thấy không còn sợ tiết sinh hoạt lớp nữa, thậm chí các em còn háo hức chờ đợi các tiết sinh hoạt lớp tuần sau hơn, các em sẽ hiểu, yêu thương nhau, xây dựng tập thể lớp đoàn kết, hạnh phúc. d. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý từng học sinh Thầy cô và bạn bè trong trường lớp không phải là những cá thể duy nhất ảnh hưởng đến học sinh. Quan điểm sống, lối ứng xử của học sinh là sản phẩm của cả một quá trình học hỏi, hấp thu từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, nơi học sinh sinh sống, trưởng thành như gia đình, cộng đồng, khu vực nơi ở của các em cũng là một trong những nguyên nhân tác động đến các em, giáo viên cần hiểu môi trường mà học sinh phát triển, học tập, những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của học sinh, ở mức độ cá nhân, gia đình, cộng đồng để có những biện pháp phối hợp giáo dục, điều chỉnh hành vi của các em cho đúng đắn. Giáo viên có thể tìm hiểu thông qua các cách như đến thăm gia đình học sinh, gặp gỡ trao đổi với phụ huynh, hoặc qua các kênh thông tin từ giáo viên cũ của học sinh ở tiểu học, bạn bè của các em. Việc quan sát và đánh giá đặc điểm tính cách, năng khiếu, sở trường, sở đoản của các em thông qua các hoạt động cũng là một việc không thể thiếu. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết, tỉ mỉ, kiên nhẫn và tinh ý.
- Khi giáo viên đã hiểu rõ hoàn cảnh sống và đặc điểm tâm lý riêng của từng học sinh trong lớp, thì khi ấy giáo viên mới có biện pháp giáo dục, tác động đúng cách, phù hợp với từng em, nâng cao hiệu quả giáo dục. e. Xây dựng niềm tin giữa giáo viên – học sinh và giao nhiệm vụ quan trọng cho học sinh Hơn đâu hết, môi trường giáo dục là nơi rất cần đến sự tin tưởng. Sự tin tưởng phải được xây dựng từ cả hai chiều giáo viên – học sinh, và học sinh – giáo viên. Học sinh cần có một tư tưởng giáo viên chủ nhiệm chính là người đồng hành, là người hỗ trợ giúp đỡ các em, khi gặp bất cứ vấn đề gì thì việc đầu tiên các em phải nghĩ đến sẽ tìm đến cô chủ nhiệm để giúp các em giải quyết. Để làm được điều này, tôi thường chia sẻ, phân tích cho các em thấy sự khác nhau giữa lớp 6 và bậc tiểu học là như thế nào, ở mỗi môn học cần có phương pháp học tập như thế nào, các hoạt động tập thể cần làm gì, hay chỉ là hướng dẫn các con từ cách soạn sách vở, sơ vin áo vào trong quần, xắn tay áo đồng phục sao cho đẹp, tư thế ngồi học sao cho chuẩn…Dần dần các con cảm thấy tin tưởng, vui vẻ, sẵn sàng chia sẻ mọi thứ với tôi, từ việc hôm nay học Văn thế này, môn Anh thế kia… Thậm chí cả những chuyện riêng tư các con cũng chia sẻ với tôi. Sau này nhiều phụ huynh còn nói với tôi rằng: “Cô ơi cô, nhiều thứ cháu chỉ chia sẻ với cô thôi, về nhà cháu chẳng nói gì với bố mẹ cả”. Điều này, phần nào khẳng định được sự tin yêu của học sinh dành cho giáo viên chủ nhiệm. Bên cạnh đó, người giáo viên cần tin tưởng vào sự trong sáng, hồn nhiên trong tâm hồn mỗi học sinh và tiềm năng của mỗi em. Mỗi học sinh có một năng lực, một năng khiếu nhất định. Giáo viên cần tin tưởng các em hoàn toàn có thể chủ động hoàn thành được các công việc mà giáo viên giao phó. Giáo viên nên giao cho các em làm từ những việc nhỏ, rồi dần dần được nâng lên làm các nhiệm vụ quan trọng. f. Chế độ thưởng, phạt rõ ràng Việc xây dựng chế độ thưởng phạt rõ ràng và công khai trong lớp học rất quan trọng. Đảm bảo cho việc giáo viên đối xử công bằng với tất cả học sinh, từ cơ sở đó giúp học sinh nghiêm túc, tích cực thực hiện nội qui trường lớp. Đẩy mạnh được các phong trào thi đua từ cá nhân đến tập thể. Tôi đã cùng học sinh trao đổi, thảo luận để xây dựng một quy định chung của lớp với các tiêu chí rất cụ thể, dễ nhớ, dễ thực hiện. Một số học sinh gọi đây là “Hương ước” của lớp, giống như “Hương ước” của các làng văn hóa. Việc xây dựng “Hương ước” được diễn ra dân chủ, thẳng thắn. Học sinh được chia nhóm thảo luận và hoàn thành bản “Hương ước” được quy đổi ra 100 điểm. Áp dụng theo đó, em nào thực hiện tốt sẽ được tính điểm cộng, ai vi phạm tự biết trừ của mình bao nhiêu điểm. Thay vì cô giáo tuyên bố phạt bao nhiêu điểm, làm kiểm điểm, trừ hạnh kiểm… thì ở đây, học sinh tự nguyện “trừ điểm” của mình. Và để đạt yêu cầu, các em cũng chủ động làm những việc tốt khác để được cộng điểm bù.
- Ví dụ không làm bài tập về nhà bị trừ 10 điểm/ lần. Muốn gỡ được 10 điểm này, học sinh phải tìm cách để được cộng điểm. Cụ thể như tích cực giơ tay phát biểu xây dựng bài được cộng 5 điểm/ lần. Với các làm này, học sinh không bị rơi vào cảm xúc tiêu cực của người “bị phạt” mà tự giác trừ điểm mình và hào hứng tìm cách “gỡ điểm”. Bên cạnh đó, điều này sẽ đem lại cho học sinh vi phạm một tâm thế khác: Tự biết lỗi và tự chịu trách nhiệm với lỗi của mình, để cố gắng thay đổi. Có nghĩa không ai là người xấu, chỉ đơn giản là mắc lỗi và điều chỉnh để thay đổi. Các em sẽ hiểu rằng, mọi việc luôn có cơ hội cho mình sửa sai. Từ đó các em sẽ tích cực thi đua, và được khen thưởng hàng tuần, hàng tháng bằng những món quà nhỏ. Hình 3: Tặng thưởng thi đua Sơ kết tuần 15 – Lớp 6A3 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp g. Đẩy mạnh các hoạt động học sinh giúp đỡ nhau trong học tập và rèn luyện, chia sẻ yêu thương giữa học sinh trong lớp Trong những năm qua, các phong trào học sinh giúp đỡ nhau trong trường học đã trở thành những hoạt động thường xuyên được các lớp triển khai góp phần nâng cao ý thức học tập, rèn luyện của học sinh. Các phong trào này luôn cần cải tiến cách thức thực hiện cho phù hợp với đặc điểm từng học sinh, khuyến khích các em tham gia thực hiện với một tinh thần tự giác và tự nguyện cao nhất. Một số phong trào điển hình mang lại hiệu quả cao như: - Đẩy mạnh hoạt động của các “đôi bạn cùng tiến”: với phương châm “Học thầy không tày học bạn”, tôi đã xếp mỗi học sinh chậm tiến ngồi cạnh một bạn học giỏi hơn. Các em học giỏi có thể chủ động chọn giúp đỡ ai hoặc các bạn chậm tiến đề xuất xin cô giáo nhờ bạn nào hỗ trợ. Bạn học giỏi giúp đỡ, hỗ trợ bạn bằng cách nhắc
- nhở bạn ghi chép bài, làm bài tập về nhà, chỉ dẫn cho bạn những bài chưa hiểu ngay tại lớp... Các bạn chậm tiến có một cuốn sổ nhật kí để ghi chép các yêu cầu, dặn dò về nhà hàng ngày. Các bạn học giỏi thường xuyên báo cáo hoạt động với giáo viên theo ngày, theo tuần, tháng. Trong 03 tháng đầu học kỳ, lớp đã thành lập 09 đôi bạn cùng tiến. Các bạn đã trở thành những đôi bạn thân, tạo tính tự giác, cùng nhau phấn đấu và cùng nhau tiến bộ. Mặt khác, việc này giúp khơi dậy tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau không chỉ trong từng đôi bạn mà còn trong cả lớp. - Bên cạnh việc đó, trong lớp cũng cần triển khai nhiều hoạt động khơi dậy tấm lòng nhân ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống của các em học sinh ngay trong lớp. Cả lớp cần đồng cảm, chia sẻ với những học sinh khó khăn hơn, những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt… để cả lớp trở thành một tập thể nhân ái, tình cảm, đoàn kết vững mạnh. Hình 4: Tặng thưởng cho các đội bạn cùng tiến hoạt động tốt của Lớp 6A3 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp h. Có cách thức phê bình, góp ý phù hợp trên tinh thần “bao dung” nhiều hơn, hạn chế xử phạt khi không cần thiết. Giáo viên cần suy nghĩ đơn giản, không nên đặt nặng chuyện mắc lỗi của học sinh. Việc học sinh mắc lỗi là chuyện thường tình, việc xử lý kỉ luật không nhằm mục đích trừng phạt, mà là cơ hội để giáo dục học sinh. Vì vậy, giáo viên không nên quá cầu toàn, hãy cho phép học sinh được phạm lỗi và có quyền sửa lỗi. Đối với những học sinh hay mắc lỗi, giáo viên cần lắng nghe học sinh nhiều hơn, đặc biệt những học sinh cá biệt, giáo viên cần quan tâm, động viên, giáo dục nhẹ nhàng tránh việc làm tổn hại đến thân thể và nhân phẩm học sinh. Giáo viên nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ vô hình chung làm tổn thương, thui chột sự tự tin, tích cực của các em. Với những học sinh hay mắc lỗi ở lớp tôi, đơn cử như học sinh Quỳnh Trang hay trốn trực nhật, thay vì quở trách ngay, tôi bình tĩnh gặp và nói chuyện riêng với con cuối buổi học, lắng nghe về lí do mắc lỗi, tôi phân tích cho con ý nghĩa của việc trực nhật và chỉ ra hành động sai của con gây ra những hậu quả gì và nhắc nhở con không tái phạm. Sau đó, Quỳnh Trang đã hiểu được trách nhiệm của mình với lớp, không những con trực nhật đầy đủ, đúng lịch mà còn nhiệt tình hỗ trợ vệ sinh khử khuẩn lớp học kể cả không phải ngày con trực nhật. Bên cạnh đó nếu học sinh nhận được sự khích lệ, động viên và khen ngợi đúng lúc của thầy cô sẽ là nguồn động lực to lớn để các em thay đổi theo hướng tích cực hơn. Tôi luôn ghi nhận, khen ngợi kể cả với những tiến bộ nhỏ của những học sinh chậm tiến và chưa ngoan. Ví dụ như học sinh Đức Hoàn là học sinh học rất yếu môn toán, con rất sợ giờ học toán, các bài kiểm tra con thường xuyên được 2 điểm, nhưng trong lời phê bài kiểm tra của con tôi thường động viên “Con tập trung làm bài, học kĩ hơn thì kết quả sẽ tốt hơn rất nhiều. Con biết nghe lời và cô tin tưởng Đức Hoàn sẽ
- làm được những điều mà cô mong muốn…”. Trên lớp, từ những lần con cố gắng giơ tay phát biểu dù chỉ là để đọc đề bài nhưng tôi cũng khen ngợi con vì tinh thần tích cực xây dựng bài, sau những lần đó tôi nhận thấy con bắt đầu tích cực hơn, và dần dần con chủ động giơ tay để lên bảng làm những bài tập đơn giản. Kết quả học tập của con cũng có những bước thay đổi khả quan hơn. Hãy để cho học sinh cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô dành cho mình. Mỗi hành động, lời nói, tác phong cũng như cư xử của thầy cô trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học sinh. Giáo viên sẽ không thuyết phục được học sinh nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi giáo viên phải là một tấm gương về nhân cách để học sinh noi theo. 2.3.2. Về tiêu chí “An toàn” a. Thường xuyên rà soát cơ sở vật chất lớp học Việc thường xuyên rà soát cơ sở vật chất lớp học như: đèn, quạt, điều hòa, bàn ghế học sinh, bảng, nền, cửa sổ, tivi, máy tính trong lớp học,… đảm bảo cho học sinh sự an toàn trong lớp học và đảm bảo điều kiện học tập tốt nhất cho các em. Bên cạnh đó, việc giới thiệu mọi “ngóc ngách” của ngôi trường mới cho các em theo học là điều cần thiết. Qua đó các em biết được đường đi lối lại, sân chơi ở chỗ nào, khu vệ sinh ở đâu, lớp học của mình ở vị trí nào trong trường, muốn xuống phòng ăn bán trú thì đi lối nào, khu vực nào trong trường là khu vực cấm, khu vực không an toàn… khi nào gặp sự cố, các vấn đề lớn thì học sinh cần phải thông báo với ai. b. Xây dựng mạng lưới thu thập thông tin từ học sinh Việc xây dựng mạng lưới thông tin từ học sinh, từ cán bộ lớp giúp giáo viên chủ nhiệm nắm bắt được những sự việc trong lớp, những mâu thẫu giữa học sinh với nhau, những thắc mắc của học sinh trong quá trình học, lớn hơn là những vấn đề của học sinh bên ngoài nhà trường. Từ đó giáo viên đánh giá và xử lý kịp thời, tránh để những mẫu thuẫn nhỏ trở thành những vấn đề nghiêm trọng. Mạng lưới thông tin có thể đến từ những nguồn sau: - Thông tin từ đội ngũ cán bộ lớp: Đội ngũ cán bộ lớp từ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng,tổ phó, cán sự bộ môn, sao đỏ… sẽ báo cáo thường xuyên cho giáo viên chủ nhiệm tình hình học tập và những vi phạm của các bạn để có hướng xử lý. - Thông tin từ các nhóm “chat” nội bộ của học sinh: giáo viên có thể lập tài khoản ảo để tham gia vào các nhóm chat nội bộ của học sinh qua các ứng dụng: zalo, messenger, facebook… Việc tham gia chỉ để nắm thông tin, không bình luận giúp giáo viên biết được tâm tư, tình cảm, bức xúc, mâu thuẫn, hay góc khuất…của các em khi trao đổi với nhau.
- Hình 5: GVCN tham gia nhóm Zalo của học sinh lớp 6A3 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 2.3.3. Về tiêu chí “Tôn trọng sự khác biệt” Nhà bác học Albert Einstein từng nói rằng: “Ai cũng là thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây, nó sẽ sống suốt đời với niềm tin rằng nó là kẻ đần độn”. Nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Thạch – tác giả của hàng chục đầu sách bán chạy trên thị trường cũng đồng quan điểm với Einstein. Anh cho rằng: “Ta không thể bắt một con cá chạy bộ, hay một con hươu xuống nước bơi. Mỗi cá thể trong xã hội được cấu thành từ sự đa dạng trên nền tảng sẵn có. Tôn trọng sự khác biệt là tôn trọng chính mình”. Liệu có công bằng khi bắt một cô bé với năng khiếu hội họa, yêu thích những sắc màu phải đạt nhất nhì lớp môn Toán hay ép buộc cậu bé thích khám phá máy móc, lập trình ngồi đọc quyển sách văn chương dày cộp? Thay vì để “con cá” năng khiếu trong trẻ em được thoải mái vẫy vùng, sống đúng khả năng bơi lội đỉnh cao, rất nhiều phụ huynh lại thế chỗ ước mơ của các em bằng mơ ước của chính mình. Do vậy, việc quan trọng nhất là giáo viên phải tôn trọng năng lực và cá tính cá nhân của từng học sinh và sử dụng áp dụng mô hình giáo dục cá nhân hóa, xây dựng kế hoạch và định hướng học tập cho từng học sinh, trong đó áp dụng đồng thời hai phương pháp phổ biến của giáo dục cá nhân hóa là: + Cá nhân hóa theo nhịp độ cho phép học sinh nghiền ngẫm và nghiên cứu tài liệu tùy theo tốc độ của từng cá nhân. + Cá nhân hóa do học sinh làm chủ, người học sẽ quyết định việc học gì dựa trên mục tiêu và sở thích của mình. Theo mô hình này, để giúp học sinh đạt được mục tiêu học tập đã đề ra, giáo viên chủ nhiệm sẽ là người tìm hiểu tài liệu và phân loại đâu là thứ phù hợp với từng cấp độ, kỹ năng của từng học sinh và đưa ra những gợi ý cho học sinh quyết định học việc gì và như thế nào. Cụ thể một vài ví dụ như sau: + Trường hợp học sinh Anh Huy khá hiếu động, kết quả học tập tất cả các môn đều kém. Tuy nhiên, tôi nhận thấy con rất có năng khiếu đá bóng khi làm tiền đạo cho
- đội bóng của lớp tham gia Hội khỏe Phù Đổng. Tôi nói chuyện với giáo viên bộ môn thể dục, hỏi ý kiến về trường hợp học sinh Anh Huy và xin cho con tham gia vào câu lạc bộ bóng đá của trường. Tôi cũng tư vấn cho con và bố mẹ Anh Huy.Sau 02 tháng tham gia, Anh Huy đã tự tin và thân với nhiều bạn, bớt hiếu động và có động lực thi đua học tập với các bạn. Từ đó kết quả học tập của con cũng tốt dần lên. Hình 6: Bạn Anh Huy (đứng giữa) chụp ảnh cùng đội bóng của trường Nguồn: Tác giả tự tổng hợp + Trường hợp học sinh Thùy Linh, con học giỏi đều các môn, nhưng tính cách khá rụt rè, nhút nhát và ít giao tiếp với các bạn. Điều này khiến con sống khép kín, hạn chế trong các môn học có hoạt động nhóm, hoạt động thuyết trình... Tôi đánh giá con cần nâng cao kĩ năng giao tiếp và cần một môi trường giao tiếp nhiều hơn. Tôi đã xin ý kiến cô giáo Tiếng Anh và tư vấn con tham gia câu lạc bộ tiếng Anh. Từ đó con đã tự tin hơn trong giao tiếp, đồng thời con cũng nâng cao trình độ tiếng Anh để thi vào đội tuyển tiếng Anh của nhà trường. Việc áp dụng được mô hình cá nhân hóa giáo dục đã giúp không những nâng cao năng khiếu cá nhân học sinh, còn giúp học sinh tự tin hơn, cảm thấy hạnh phúc khi đến trường, giúp cải thiện kết quả các môn học không phải sở trường của học sinh. III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Sau thời gian 04 tháng triển khai đồng bộ biện pháp nêu trên (từ tháng 12/2020 đến hết tháng 3/2021), đã mang lại những kết quả rất tích cực. Giáo viên và học sinh cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc và yêu trường lớp hơn. Kết quả thể hiện qua những số liệu cụ thể như sau: 3.1. Hiệu quả nâng cao kết quả đánh giá chỉ số lớp học hạnh phúc của học sinh Bảng 2: Bảng kết quả phiếu khảo sát kết quả đánh giá tiêu chí lớp học hạnh phúc của học sinh sau khi áp dụng SKKN Số Điểm phiếu trung Đánh giá Tiêu đánh Stt bình chí giá 5 4 3 2 1 Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Yêu thương 1 Quan tâm 30 11 4,73 Khá 2 Chia sẻ 41 5,00 Tốt 3 Tin tưởng 41 5,00 Tốt 4 Hỗ trợ 15 26 4,37 Khá 5 Bao dung 41 5,00 Tốt
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở trường THCS Nguyễn Lân, quận Thanh Xuân
35 p | 35 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng dạy môn hóa học 9 ở trường THCS
22 p | 144 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Ban chỉ huy Đội tại trường THCS Nguyễn Khuyến
29 p | 64 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng và dạy - học theo chủ đề tích hợp liên môn trong dạy - học Địa lí 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
40 p | 34 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng câu hỏi và đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan để đánh giá kết quả học tập môn Tin học 6 trường THCS Mạo Khê 2
44 p | 13 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng các chủ đề dạy học và hệ thống câu hỏi thực tiễn chương Dòng điện trong các môi trường Vật lý 11 tạo hứng thú học tập cho học sinh
70 p | 9 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm để nâng cao chất lượng đối với học sinh lớp 7
14 p | 38 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng nhiều cách giải cho một bài toán hóa học
21 p | 26 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng sử dụng hằng đẳng thức để giải một số dạng toán có chứa căn thức bậc hai
20 p | 58 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập bộ môn Vật lý lớp 9
19 p | 20 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài giải pháp quan trọng nhằm thu hút bạn đọc đến thư viện mỗi ngày đông hơn
17 p | 44 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phân loại và hướng dẫn học sinh giải các bài tập liên quan đến tính chia hết
21 p | 8 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn bóng đá nam ở trường TH-THCS Thanh Lương
20 p | 41 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng các dạng bài tập giúp học sinh luyện thi tốt vào lớp 10 phần hidrocacbon-chương IV Hóa học 9
18 p | 50 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài biện pháp tổ chức vận động xây dựng quỹ nhân đạo trong nhà trường
12 p | 38 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm chương Điện học Vật lí 9
22 p | 18 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Xây dựng nhiều cách giải cho một số bài toán hóa học THCS
17 p | 69 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn