Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT
lượt xem 5
download
Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giáo dục giá trị sống cho HS của GVCN ở trường THPT trên địa bàn. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT
- ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Xu thế hội nhập toàn cầu và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có giáo dục. Giáo dục Việt Nam nhiều năm qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong quá trình nỗ lực “đổi mới cơ bản và toàn diện”. Song, không thể phủ nhận toàn ngành đang có chung mối lo và trăn trở: một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên Việt Nam trước cơn lốc hội nhập đang có sự xuống cấp, lệch chuẩn đạo đức và thiếu hụt những GTS căn bản; sự khủng hoảng niềm tin bản thân và cộng đồng; lối sống “thiếu nhân tính, xa rời quốc tính và nhạt nhòa cá tính”; thiếu ý thức bảo vệ môi sinh; tình trạng bạo lực, phạm pháp, sa vào các tệ nạn xã hội… Bởi vậy“giáo dục giá trị sống, tổ chức rèn luyện cho thanh thiếu niên sống xứng đáng với hệ giá trị trong nền văn hóa truyền thống cao cả của dân tộc và cập nhật nền văn hóa tiên tiến của thời đại đang là điều cấp thiết cho toàn bộ nền giáo dục của đất nước”. Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”, đề án “Tăng cường giáo dục lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015 -2020”, “Mô hình Trường học hạnh phúc”… chính là một trong số những định hướng chỉ đạo của ngành trong những năm qua nhằm giáo dục GTS cho HS, bên cạnh việc giáo dục tri thức và giáo dục kĩ năng. Đặc biệt, năm học 2019 - 2020, ngành giáo dục xác định “việc dạy người, dạy đạo đức, lối sống, giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh phải là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và quyết tâm triển khai hiệu quả”. 2. Nhận thức được tính cấp thiết và trách nhiệm của hệ thống nhà trường trong việc giáo dục GTS và phát triển nhân cách cho người học, nhiều trường phổ thông (đặc biệt là những trường công lập tự chủ, dân lập, tư thục, quốc tế…) đã xây dựng hệ GTS cốt lõi làm triết lí giáo dục của trường mình, đồng thời đưa “Chương trình giáo dục các GTS” (Leaving Valus an educationalprogram, viết tắt là LVEP) vào dạy học chính khóa trong nhà trường rất hữu ích. Còn lại, phần lớn các trường phổ thông nói chung và trên địa bàn Nghệ An nói riêng, do quá tải về dạy học kiến thức và áp lực thành tích nên chỉ có thể triển khai lồng ghép giáo dục GTS trong một số môn học và chuyên đề ngoại khóa, hoạt động tập thể, hoạt động trải nghiệm sáng tạo của nhà trường. Định hướng giá trị chưa rõ, các cách thức chưa được thiết kế để hướng vào truyền đạt các giá trị một cách hiệu quả nên mục đích của giáo dục GTS ở những cơ sở này chưa đạt được kết quả như mong đợi. Ngoài ra, việc tập huấn bồi dưỡng giáo viên hằng năm nhất là đối tượng GVCN lớp để tổ chức giáo dục GTS cho HS trong các nhà trường cũng chưa được các cấp quản lí giáo dục quan tâm một cách đúng mức như tính cấp bách của nó. Đặc biệt, ghi nhận số ít GVCN đã nhận thức sâu sắc về “sứ mệnh của người thầy” và với lòng yêu nghề, yêu trẻ luôn nỗ lực hoàn thiện nhân cách bản thân trở thành tấm gương sống đẹp 1
- cho HS, đồng thời biết chủ động tích hợp giáo dục GTS vào trong các bài giảng và trong công tác chủ nhiệm lớp của mình, giúp HS biết nêu cao những giá trị nhân bản tốt đẹp của con người để tự điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách. Rõ ràng, việc giáo dục GTS cho HS trong các trường phổ thông là vấn đề “cấp thiết”, “cấp bách”, “quan trọng”, “cần được chú trọng”, “một trong nhưng nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu”… nhưng thực tế vẫn bị coi nhẹ, việc “dạy chữ” còn nặng hơn “dạy người”. Giáo dục GTS trong các trường học lâu nay đã triển khai nhưng thực hiện thiếu tính hệ thống, đồng bộ và hiệu quả. Vẫn còn có một khoảng trống trong dạy GTS, vẫn còn có một độ vênh nhất định trong việc thực hiện ba nội dung cơ bản của giáo dục nhà trường: giáo dục tri thức - giáo dục giá trị - giáo dục kĩ năng. 3. Trước yêu cầu và thực tiễn dạy học đó, chúng tôi trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu biện pháp giáo dục GTS cho HS một cách tối ưu và mới mẻ trong phạm vi hoạt động quản lí và giáo dục HS của người GVCN. Đề tài nghiên cứu nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục GTS và mục tiêu giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới dạy học phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước và xu thế giáo dục hiện đại. Trên tinh thần đó, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và áp dụng sáng kiến: “Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT” II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giáo dục GTS cho HS của GVCN ở trường THPT trên địa bàn. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Phương pháp khảo sát thực tiễn - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu - Phương pháp Test - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh đối chiếu IV. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI Phần một: Đặt vấn đề Phần hai: Nội dung Phần ba: Kết luận 2
- NỘI DUNG I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lí luận 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1 Giá trị Giá trị: dt. 1. Cái có ích và đáng quý. 2. Chỉ mức độ, hiệu lực đến đâu (Theo Từ điển Tiếng Việt - NXB Khoa học xã hội) Theo nghĩa chung nhất như J. H. Fichter nhà xã hội học Mĩ, xác định: “Tất cả những gì có ích, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị”. 1.1.2. Giá trị sống Nói đến GTS là muốn nói đến những giá trị thiết thực cho cuộc sống của từng cá nhân con người đang sống, hoạt động gắn liến với kĩ năng sống, giúp con người ta sống và làm việc hiệu quả hơn cho cá nhân và xã hội. GTS (hay giá trị của cuộc sống) là những điều mà con người ta cho là quý giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người, khiến mỗi người mong muốn lĩnh hội, thể hiện ra để cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn và góp phần cải thiện cuộc sống chung. GTS trở thành động lực giúp người ta nỗ lực phấn đấu đạt được nó. Như vậy, GTS chủ yếu hướng vào giá trị tinh thần (không đề cập đến giá trị tiền bạc, giàu sang, sức khỏe…) và chú ý đến các bình diện sau: - Những giá trị phẩm chất nhân cách đạo đức bản thân (Khoan dung, Khiêm tốn, Giản dị, Trung thực, Yêu thương, Hạnh phúc …) - Những giá trị quan hệ liên nhân cách, quan hệ với nhóm, với cộng đồng (Tôn trọng, Đoàn kết, Trách nhiệm, Hợp tác …) - Những giá trị chung (Hòa bình, Tự do) 1.1.3. Giáo dục giá trị sống Giáo dục GTS cho HS là quá trình giúp HS tiếp thu, lĩnh hội những giá trị phổ quát của xã hội, biến thành những giá trị đặc trung của bản thân mỗi HS, giúp các em có suy nghĩ, thái độ và hành động tích cực, hiệu quả, phù hợp với bản thân và đáp ứng mong đợi của cộng đồng, xã hội. 1.2. Nội dung và phương pháp giáo dục GTS cho HS THPT 1.2.1 Nội dung giáo dục GTS cho HS THPT Ngoài những giá trị truyền thống của nhân cách con người Việt Nam như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, lạc quan yêu đời, nhân nghĩa, lòng yêu thương và quý trọng con người… được giáo dục 3
- trong các môn học chính khóa, nhà trường cần trang bị cho HS những GTS phổ quát, mang tính nhân loại. Vậy những giá trị phổ quát là những giá trị nào? Năm 1995, Chương trình GTS lần đầu tiên được đưa ra, 186 thành viên trong tổ chức Liên hợp quốc đã chọn ra 12 giá trị cốt lõi nhất mang tính chung toàn cầu. Chương trình đã triển khai ở rất nhiều nước khác nhau trên thế giới, với mục tiêu chung nhằm kêu gọi sự chia sẻ các giá trị cho một thế giới tươi đẹp hơn. Các giá trị này đều đã có trong mỗi con người bất kể sự khác nhau về quốc tịch, màu da và văn hóa. Khi mọi người cùng vươn tới những giá trị đó, họ sẽ xích lại gần nhau, chia sẻ, cảm thông với nhau và cuộc sống của tất cả mọi người trên trái đất đều thống nhất với nhau trong thế giới hòa bình, tôn trọng, hạnh phúc. Dưới đây là nội hàm của những giá GTS phổ quát chung của nhân loại cần được giáo dục cho HS hiện nay. Các tổ chức quốc tế hi vọng đưa những GTS này vào giáo dục cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới có thể sẽ xây dựng thế giới thành ngôi nhà chung toàn cầu tự do, hòa bình, hợp tác, hạnh phúc. - Hòa bình: 1. Dt. Trạng thái yên tĩnh không có chiến tranh. 2. Tt. Không dùng đến vũ lực, không gây chiến tranh (Theo Từ điển Tiếng Việt). Hòa bình không đơn giản chỉ là không có chiến tranh với súng đạn. Hòa bình là khi chúng ta sống hòa thuận và không có sự đấu đá lẫn nhau. Nếu mỗi người trong chúng ta được yên ổn, đó sẽ là một thế giới hòa bình. Hòa bình còn có nghĩa là đang sống trong sự thinh lặng của nội tâm. Hòa bình là trạng thái bình tĩnh và thư thái của trí óc. Hòa bình bắt đầu trong mỗi người. Xuyên qua sự thinh lặng và sự suy nghĩ đúng đắn về ý nghĩa của nó, con người có thể tìm được nhiều cách mới mẻ và sáng tạo để tạo thuận lợi cho sự hiểu biết về các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả mọi người. Những nội dung chính liên quan đến chủ đề hòa bình mà giáo dục có thể mang lại cho người học là: sự khước từ bạo lực, khoan dung, vị tha, đoàn kết, chia sẻ với mọi người, quan tâm và tôn trọng lẫn nhau. - Tự do: dt. Quyền sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện của mình không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm (Theo Từ điển Tiếng Việt). Tất cả mọi người đều có quyền tự do. Trong sự tự do ấy, mỗi người có bổn phận tôn trọng quyền lợi của những người khác. Tự do tinh thần là một kinh nghiệm khi bạn có những suy nghĩ tích cực về tất cả, kể cả về chính bạn. Tự do thuộc lĩnh vực của lí trí và tâm hồn. Tự do là một món quà quý giá. Chỉ có thể tự do thật sự khi các quyền lợi cân bằng với trách nhiệm. Xã hội chỉ có tự do thực sự khi mọi người có được quyền bình đẳng. 4
- - Tôn trọng: đgt. 1. Coi trọng và quý mến. 2. Tuân thủ, không coi thường và vi phạm (Theo Từ điển Tiếng Việt). Tôn trọng trước hết là tự trọng, là biết rằng tự bản thân có giá trị. Một phần của tự trọng là nhận biết những phẩm chất của chính bạn. Tôn trọng là biết lắng nghe người khác. Tôn trọng là biết người khác cũng có giá trị như bạn. Tôn trọng chính bản thân là cách làm tăng sự tin cậy lẫn nhau. Khi chúng ta tôn trọng chính mình, chúng ta sẽ dễ dàng tôn trọng người khác. Những ai biết tôn trọng sẽ nhận được sự tôn trọng. Hãy biết rằng mỗi người đều có giá trị và khi thừa nhận giá trị của người khác thì thế nào cũng sẽ chiếm được sự tôn trọng từ người khác. Một phần của sự tôn trọng là sự tự ý thức rằng bản thân bạn có sự khác biệt với người khác trong cách đánh giá. - Hợp tác: đgt. Chung sức, trợ giúp qua lại với nhau (Theo Từ điển Tiếng Việt). Hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục tiêu chung. Một người biết hợp tác thì thường sẽ có cách nói thuyết phục và cảm giác trong sáng về người khác cũng như đối với nhiệm vụ. Một người biết hợp tác cần thể hiện và đưa ra và đóng góp bằng cách đưa ra các ý tưởng cần thiết để phát triển cá nhân và tập thể, đồng thời lắng nghe ý kiến về tập thể. Hợp tác phải được chỉ đạo bởi nguyên tắc về sự tôn trọng lẫn nhau. Một người biết hợp tác sẽ nhận được sự hợp tác. Khi có sự yêu thương thì sẽ có sự hợp tác. Khi bạn nhận thức được những giá trị của cuộc sống thì chính bản thân bạn có khả năng tạo ra sự hợp tác Sự can đảm, quan tâm, chăm sóc và đóng góp là sự chuẩn bị đầy đủ cho việc tạo ra sự hợp tác. - Đoàn kết: đgt. Thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau (Theo Từ điển Tiếng Việt). Đoàn kết là sự hòa thuận, đóng góp của mỗi cá nhân và giữa các cá nhân trong một nhóm, một tập thể vì một mục đích hay một công việc chung nào đó mà không làm phương hại đến lợi ích của người khác. Đoàn kết được tồn tại nhờ sự chấp nhận và hiểu rõ giá trị của mỗi người, cũng như biết đánh giá đúng sự đóng góp của họ đối với tập thể. Đoàn kết được xây dựng qua việc chia sẻ các mục tiêu, niềm hi vọng và viễn cảnh tương lai. Khi một tập thể đoàn kết, nhiệm vụ lớn dường như dễ dàng thực hiện. Đoàn kết tạo ra cho tất cả mọi người cảm giác được tôn trọng. Sự thiếu tôn trọng dù là nhỏ có thể là lí do làm cho mất đoàn kết. Đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng mọi khó khăn, thử thách. 5
- Đoàn kết tạo nên kinh nghiệm về sự hợp tác, giúp mọi người hăng hái trong khi thực hiện nhiệm vụ và tạo ra một bầu không khí thân thiện. Đoàn kết tạo ra cảm giác hạnh phúc êm ái và gia tăng sức mạnh cho mọi người, giúp mọi người trở nên gần gũi, thân ái với nhau hơn, tạo ra niềm vui trong cuộc sống. Đoàn kết tạo nên ý thức về bổn phận và tăng cường bản chất tốt đẹp của mọi người. Đoàn kết khác với bè phái. Bè phái là sự liên kết của một nhóm người có mục đích không trong sáng, thiếu lành mạnh nhằm đối lập với những người khác. Đoàn kết là nền tảng của sự phát triển bền vững. Có đoàn kết mới có dân chủ. Trong xu thế hội nhập hiện nay của thế giới, đoàn kết càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chúng ta phải biết đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp, cùng hướng tới một sự phát triển bền vững. - Trung thực: tt. Ngay thẳng, thật thà. 2. Đúng như vốn có, đúng như sự thật (Theo Từ điển Tiếng Việt). Trung thực nghĩa là không có sự khác biệt giữa tư tưởng, lời nói, hay việc làm và khiến mọi người gần nhau hơn. Khi trung thực con người cảm thấy tâm hồn trong sáng và nhẹ nhàng. Một người trung thực và chân chính thì xứng đáng được tin cậy. Trung thực thể hiện trong tư tưởng, lời nói và hành động thì đem lại sự hòa thuận. Trung thực là sử dụng tốt những gì được ủy thác, là cách xử sự tốt nhất, là một mối quan hệ sâu xa giữa lương thiện và tình bạn. Khi sống trung thực, một người có thể học và có thể giúp người khác học cách biết trao tặng. Tính tham lam đôi khi là cội rễ của sự bất lương. Người sống trung thực sẽ biết thế nào là đủ, không tham lam. Khi nhận thức được về mối quan hệ với nhau, chúng ta sẽ nhận ra được tầm quan trọng của lòng trung thực. - Trách nhiệm: dt. Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình (Theo Từ điển Tiếng Việt). Trách nhiệm là việc bạn góp phần của mình vào công việc chung. Trách nhiệm là thực hiện nhiệm vụ với lòng trung thực. Muốn có hòa bình, chúng ta phải có trách nhiệm tạo ra sự yên ổn. Muốn có một thế giới hài hòa, chúng ta phải có trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên. Một người được coi là có trách nhiệm khi người đó đồng ý góp phần để gánh vác công việc chung với các thành viên khác. Người có trách nhiệm sẽ có nhu cầu làm nhiều hơn những việc xứng đáng để góp phần cùng người khác xây dựng nên một cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhóm, cho cộng đồng. Một người có trách nhiệm thì biết thế nào là lẽ phải, là 6
- cái đẹp, nhận ra được điều gì tốt để góp phần. Quyền lợi gắn liền với trách nhiệm. Trách nhiệm là biết cách sử dụng tiềm lực và tài nguyên của con người để tạo ra những thay đổi tích cực. - Khiêm tốn: tt. Không đánh giá quá cao bản thân, không tự kiêu, tự mãn (Theo Từ điển Tiếng Việt). Người khiêm tốn thường có biểu hiện là nói năng nhẹ nhàng, ăn mặc giản dị, khiêm tốn gắn liền với tự trọng. Khiêm tốn là khi bạn nhận biết khả năng, uy thế của mình, nhưng không khoác lác, khoe khoang. Người khiêm tốn tìm được niềm vui khi lắng nghe người khác. Khi cân bằng được giữa lòng tự trọng và khiêm tốn, bạn có sức mạnh và tâm hồn để tự điều khiển và kiểm soát chính mình. Khiêm tốn giúp con người có một trí óc cởi mở. Bằng sự khiêm tốn bạn có thể nhận ra sức mạnh của bản thân và khả năng của người khác. - Khoan dung: đtg. Rộng lượng tha thứ cho người phạm lỗi lầm (Theo Từ điển Tiếng Việt). Khoan dung là tôn trọng thông qua sự hiểu biết lẫn nhau. Hòa bình là mục tiêu, khoan dung là phương pháp. Khi biết khoan dung, con người trở nên cởi mở và chấp nhận sự khác biệt với những vẻ đẹp của nó. Mầm mống của sự cố chấp là sợ hãi và dốt nát. Hạt giống khoan dung và yêu thương cần được tưới chăm bởi lòng trắc ẩn và sự ân cần quan tâm đến nhau. Người khoan dung thì biết rút ra những điều tốt từ người khác cũng như trong các tình thế. Khoan dung là chấp nhận cá tính và sự đa dạng, đồng thời biết cách dàn xếp mầm mống gây chia rẽ, bất hòa và tháo gỡ ngòi nổ của sự căng thẳng được tạo ra bởi sự dốt nát. - Giản dị: tt. Đơn giản, bình dị, không rối rắm phức tạp (Theo Từ điển Tiếng Việt). Giản dị là sống một cách tự nhiên, không giả tạo. Khi bạn quan sát thiên nhiên, bạn sẽ biết giản dị là như thế nào. Giản dị là chấp nhận hiện tại và không làm mọi điều trở nên phức tạp. Người giản dị sẽ thích suy nghĩ và lập luận rõ ràng. Giản dị dạy chúng ta biết tiết kiệm – biết cách sử dụng tài nguyên, tiềm năng một cách khôn ngoan; biết hoạch định đường hướng cho tương lai. Giản dị giúp bạn kiên nhẫn, làm nảy sinh tình bạn và khả năng nâng đỡ. Giản dị là hiểu rõ giá trị của những vật chất dù là nhỏ bé nhất trong cuộc sống. - Yêu thương: đgt. Có tình cảm gắn bó thiết tha và hết lòng quan tâm, săn sóc (Theo Từ điển Tiếng Việt). 7
- Yêu người khác cũng đồng nghĩa với việc mong muốn những điều tốt đẹp cho họ. Yêu là biết lắng nghe và chia sẻ. Khi yêu thương trọn vẹn, giận dữ sẽ tránh xa. Tình yêu là giá trị làm cho mối quan hệ giữa chúng ta trở nên tốt hơn. Trong một thế giới tốt đẹp, quy luật tự nhiên là yêu thương; và trong một con người tốt, bản chất tự nhiên là sự thương yêu. Tình yêu mang tính phổ quát không có biên giới hoặc sự thiên vị, tình yêu lan tỏa đến tất cả mọi người. Tình yêu ở quanh ta và ta có thể cảm nhận được nó. Giá trị của tình yêu là ở chỗ nó như là một chất xúc tác tạo nên sự thay đổi, phát triển và thành đạt. Tình yêu là nhìn nhận mỗi người theo cách tốt đẹp hơn. Tình yêu thật sự luôn bao hàm lòng tốt, sự quan tâm, hiểu biết và không có những hành vi ghen tị cũng như kiểm soát người khác. - Hạnh phúc: 1. dt. Cuộc sống, trạng thái sung sướng do thỏa mãn được ý nguyện. 2. tt. Có hạnh phúc (Theo Từ điển Tiếng Việt). Hạnh phúc là trạng thái bình an của tâm hồn khiến con người không có những thay đổi đột ngột hay bạo lực. Khi bạn trao hạnh phúc thì bạn sẽ nhận được hạnh phúc. Khi bạn hi vọng, đó là lúc hạnh phúc. Khi bạn yêu thương, sự bình an nội tâm và hạnh phúc sẽ đến. Nói những lời tốt đẹp về mọi người đem lại hạnh phúc nội tâm. Những hành động trong sáng và quên mình sẽ đem đến hạnh phúc. Hạnh phúc lâu bền là trạng thái của sự hài lòng bên trong. Khi hài lòng với chính mình, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc. Khi bạn hạnh phúc, bạn sẽ đem lại hạnh phúc cho thế giới vì hạnh phúc sinh ra hạnh phúc. Giá trị cốt lõi của con người là sự bình an. Cho đến khi chúng ta chưa trải nghiệm được sự bình an, thì chưa thể trải nghiệm được hạnh phúc. Tóm lại, 12 giá trị nêu trên cần được cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của từng lứa tuổi, từng cấp học. Đối với HS tiểu học, cần chú ý đến những giá trị gần gũi HS như: yêu thương, tôn trọng, hợp tác, khoan dung, khiêm tốn, giản dị, trung thực… những giá trị mà các em có thể học và hành, lĩnh hội và trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Đối với HS trung học cơ sở, trên cơ sở tiếp tục phát triển những giá trị đã hình thành ở tiểu học, chú ý đến những giá trị hướng vào quan hệ nhóm, tập thể, xã hội…Đặc biệt chú ý đến những giá trị khiêm tốn, giản dị, trung thực… làm tăng giá trị bản thân, tăng phẩm chất nhân cách. Riêng đối với HS THPT, cần hệ thống hóa những giá trị phổ quát, nhưng mở rộng và nâng nội dung lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hội nhập toàn cầu. Nội dung của những GTS đối với HS phổ thông cần hướng các em đến hoàn thiện nhân cách một người thanh niên, một 8
- công dân, hướng đến một nhân cách nghề nghiệp, những giá trị tinh hoa bản sắc dân tộc, những GTS phổ quát của nhân loại; hướng các em đến một lối sống hài hòa giữa đời sống cá nhân – bạn bè – tình yêu – sự nghiệp – trách nhiệm xã hội … Cũng có thể nói là hướng các em vươn tới nhân cách lí tưởng mang những GTS phổ quát của một thanh niên thời đại, không chỉ của dân tộc mà còn là của nhân loại trong một thế giớ mở. 1.2.2 Phương pháp giáo dục GTS cho học sinh THPT Làm thế nào để dạy về các giá trị? Làm thế nào để khuyến khích HS khám phá, tìm hiểu và phát triển các giá trị cũng như những kĩ năng sống, thái độ sống, nhằm giúp họ phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình? Và làm thế nào để HS biết mình có thể tạo nên sự khác biệt trên thế giới này và cảm thấy bản thân có đủ khả năng tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn? Những câu hỏi đó chứng tỏ rằng giáo dục GTS cần trải qua một quá trình vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật cao. Chương trình giáo dục Giá trị sống (LVEP) của UNESCO đã đưa ra khung lí thuyết phương pháp giáo dục GTS như sau: - Bước một, xây dựng bầu không khí dựa trên nền tảng các giá trị để tất cả mọi người đều cảm nhận được tình yêu thương, thấy mình có giá trị, được tôn trọng và an toàn. - Bước hai, thấu hiểu các yếu tố hỗ trợ khám phá các giá trị. Mỗi hoạt động GTS bắt đầu với ba yếu tố hỗ trợ khám phá các giá trị bao gồm: tiếp nhận thông tin, suy ngẫm, và khám phá các giá trị qua thực tế cuộc sống. Cụ thể là : + Tiếp nhận thông tin: Đây là cách dạy về giá trị theo kiểu truyền thống. Sách vở, kể chuyện, các nguồn thông tin có thể trở thành trợ thủ đắc lực trong việc khám phá các giá trị. + Suy ngẫm: Các hoạt động tưởng tượng và suy ngẫm đòi hỏi học viên phải đưa ra những ý tưởng của riêng mình. + Khám phá các giá trị qua thực tế cuộc sống: Giáo viên cần nắm vững rằng HS là lứa tuổi rất ham tìm tòi, hiểu biết những gì đang diễn ra quanh mình, vì thế hãy tìm những lĩnh vực mà HS quan tâm, như AIDS, nghèo đói, bạo lực, ma túy, tham nhũng, tình trạng ô nhiễm tại địa phương… Những lĩnh vực này sẽ gợi mở chủ đề thảo luận rất thực tế, thiết thực về tác động của giá trị và phản giá trị, cũng như hành động của chúng ta tạo nên sự khác biệt như thế nào. - Bước ba, tổ chức thảo luận: Việc tạo một không gian thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau là điều rất quan trọng và cần thiết. Một không gian như vậy giúp việc chia sẻ trở nên dễ dàng và thoải mái hơn. Việc bày tỏ những cảm giác, cảm nhận sau mỗi câu hỏi có thể làm sáng tỏ quan điểm cá nhân và tìm được sự đồng cảm hơn. Thảo luận trong một môi trường mang tính hỗ trợ có thể giúp hàn gắn, chữa lành tổn thương rất hiệu quả. 9
- Quá trình thảo luận còn có thể giúp cho điều tiêu cực được chấp nhận và từ đó tạo bầu không khí cởi mở để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực này. Khi tất cả được thực hiện với sự tôn trọng chân thành, HS sẽ dần được tháo bỏ được hàng rào phòng thủ và không còn biện minh cho tính tiêu cực của mình. Một khi những giá trị tích cực được khám phá, các em sẽ cảm thấy bản thân mình có giá trị, dần dần thấy tự do và có ý chí mạnh mẽ để hành động khác đi. - Bước bốn, khám phá các ý tưởng: Tiếp theo sau các cuộc thảo luận là hoạt động tự suy ngẫm hoặc lên kế hoạch cho nhóm về những hoạt động nghệ thuật, viết nhật kí, hoặc kịch… Những cuộc thảo luận khác sẽ giúp hình thành bản đồ tư duy các giá trị và phản giá trị để xem xét tác động của giá trị và phản giá trị đối với bản thân, mối quan hệ và xã hội. Các hoạt động giá trị có thể khơi dậy niềm thích thú thật sự ở người học, cổ vũ cho quá trình học thật và thúc đẩy chuyển hóa động cơ thành hành động cụ thể. Bước này giúp giáo viên hiểu và hỗ trợ HS. - Bước năm, đưa các giá trị vào cuộc sống: Thầy cô giáo hướng dẫn HS ứng dụng các hành vi dựa trên nền tảng giá trị với gia đình, xã hội, môi trường. Chính những việc cảm thấy bản thân có khả năng tạo nên sự khác biệt sẽ xây dựng lòng tự tin và cam kết sống với các giá trị. Dựa trên khung lí thuyết này nhà trường và giáo viên có thể áp dụng một cách linh hoạt và sáng tạo phù hợp với đối tượng giáo dục, môi trường giáo dục của lớp mình, trường mình. 1.3. GVCN ở trường THPT với công tác giáo dục GTS cho HS 1.3.1. Chức năng và hoạt động của GVCN ở trường THPT - GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản lí và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất; người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác của mọi HS trong lớp. Ngoài ra, GVCN là người cố vấn công tác Đoàn ở lớp chủ nhiệm. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách HS và là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và ngoài xã hội Chức năng của người GVCN lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo dục, các mối quan hệ giáo dục của HS theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện. 10
- - Từ đó, có thể thấy, công tác của GVCN gồm có hai hoạt động lớn: hoạt động quản lí tập thể HS và hoạt động giáo dục HS. + Với tư cách là nhà quản lí, công tác quản lí tập thể HS của GVCN bao gồm những công việc sau: Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm; Tổ chức bộ máy tự quản; Triển khai kế hoạch chủ nhiệm; Giám sát, thu thập thông tin về lớp chủ nhiệm; Cập nhật hồ sơ công tác chủ nhiệm và hồ sơ HS; Cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn; Phối hợp với các lực lượng khác. + Với tư cách là nhà giáo dục, công tác giáo dục HS của GVCN bao gồm những hoạt động sau: Phát triển tập thể HS thành môi trường lớp học thân thiện; Triển khai các nội dung giáo dục toàn diện trong lớp chủ nhiệm; Tổ chức các hoạt động và giao lưu tập thể; Giáo dục GTS và giáo dục kĩ năng sống cho HS ; Thực hiện giáo dục kỉ luật tích cực; Giải quyết những tình huống bất ngờ; Tư vấn, tham vấn cho HS trong việc ra quyết định giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Với vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng như vây, đòi hỏi người GVCN phải liên tục phát triển năng lực tổ chức quản lí giáo dục tập thể và cá nhân HS, năng lực giao tiếp với cha mẹ HS và HS cũng như phẩm chất đạo đức nhà giáo. 1.3.2. Vai trò của GVCN trong việc giáo dục GTS cho HS THPT Nhà trường là một thiết chế xã hội, thay mặt xã hội làm nhiệm vụ giáo dục HS thành những con người theo mong đợi của gia đình, xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội cùng có trách nhiệm giáo dục HS những GTS, để các em vững vàng, tự tin, thành công trong cuộc sống, có khả năng ứng phó với những cạm bẫy, tiêu cực trong xã hội. Cần kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội theo chức năng và vai trò của mình, trong đó nhà trường luôn có vai trò quyết định quyết định đối với sự hình thành và phát triển GTS của các em, vì nhà trường có chức năng và những điều kiện chuyên biệt, được xã hội giao cho để thực thi giáo dục thế hệ trẻ. Nhà trường có phương thức giáo dục đặc trưng, đó là có chương trình, kế hoạch giáo dục GTS đạt mục tiêu giáo dục của nhà trường và đáp ứng những yêu cầu của xã hội. Nếu nhà trường đóng vai trò quyết định thì GVCN đóng vai trò chủ đạo quyết định đến chất lượng, hiệu quả giáo dục GTS cho HS của nhà trường. Bởi GVCN không những thay mặt hiệu trưởng quản lí HS trong mọi hoạt động giáo dục GTS của nhà trường mà còn trực tiếp giáo dục GTS cho HS thông qua bộ môn mình giảng dạy và thông qua công tác chủ nhiệm của mình. Điều đó đòi hỏi mỗi thầy cô giáo, mỗi nhà trường đều cần nhìn nhận lại vấn đề giáo dục GTS cho HS và biết vận dụng hiệu quả tư tưởng học thường xuyên, học suốt đời nhằm tạo cho HS động cơ thường xuyên, đúng đắn trong việc chọn lọc và tiếp thu các giá trị để duy trì và phát huy trong cuộc sống hằng ngày. 11
- 1.3.3. Những yêu cầu đối với việc giáo dục GTS cho học sinh của GVCN ở trường THPT - GVCN chịu trách nhiệm giáo dục toàn diện cho HS lớp chủ nhiệm nên cần nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí, tầm quan trọng, nội dung và phương pháp của công tác giáo dục GTS cho HS, để chủ động triển khai tổ chức đa dạng các hoạt động, áp dụng nhiều biện pháp chứa đựng những giá trị nhằm giáo dục GTS cần thiết cho các em. - Giáo dục GTS chỉ có hiệu quả khi nó tuân thủ cơ chế hình thành giá trị. Điều đó có nghĩa là muốn chuyển giá trị của xã hội thành giá trị cá nhân thì phải tạo cơ hội cho chủ thể (cá nhân đó) được trải nghiệm, được đánh giá trên cơ sở đó lựa chọn giá trị, không áp đặt các cá nhân phải thừa nhận các giá trị vô điều kiện. Có được trải nghiệm, đánh giá và lựa chọn thì giá trị của xã hội mới biến thành niềm tin của mỗi cá nhân để định hướng hành vi của họ trong cuộc sống hàng ngày. Yêu cầu này có nghĩa là những nội dung bài học giáo dục GTS của GVCN không mang tính lí thuyết, giáo điều, học tập phải đi liền với trải nghiệm, học tập phải đi liền với thực tế nếu không mọi cái chỉ dừng lại ở lí thuyết suông. - Hoạt động giáo dục GTS của GVCN cần phải đảm bảo nguyên tắc tiến trình và thay đổi hành vi. Nghĩa là giáo dục GTS không phải hình thành ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải có một quá trình và mục đích cao nhất là thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Điều này đòi hỏi và thử thách lòng kiên trì, nhẫn nại của GVCN trong sứ mệnh trồng người. - Việc giáo dục GTS cho HS của GVCN còn phải đảm bảo được nguyên tắc thống nhất. Có nghĩa là những GTS mà GVCN muốn giáo dục cho HS lớp chủ nhiệm cần hòa hợp với giá trị cốt lõi mà nhà trường đang hướng tới, góp phần đạt mục tiêu chung trong việc giáo dục HS trong dòng chảy truyền thống của nhà trường. - Giáo dục GTS cho HS bằng chính nhân cách sống của người thầy. Thầy cô là tấm gương để trò soi vào, để trò học làm người. Chính vì vậy không có con đường nào hiệu quả bằng dùng nhân cách để giáo dục nhân cách. Thầy cô giáo dục GTS cho HS cần là tấm gương mẫu mực về lối sống có giá trị. Đây là yêu cầu rất cao đòi hỏi mỗi GVCN luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục HS hiệu quả hơn. Vậy là, giáo dục GTS vừa là sứ mệnh cao cả nhưng cũng là công việc hết sức vất vả gian nan của người GVCN. Để giáo dục GTS cho HS đạt hiệu quả như mong đợi và kì vọng của gia đình, nhà trường và xã hội, để cây giá trị trong bản thân mỗi HS luôn xanh tươi, vững bền từ gốc rễ phụ thuộc phần lớn vào tài hoa, năng lực sư phạm và tình yêu học trò từ chính trái tim mình của người GVCN. 12
- 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng học tập nội dung giá trị sống của học sinh Để có kết luận xác đáng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu thực trạng học tập của HS. Cụ thể, chúng tôi đã phát phiếu điều tra cho HS ở nhiều lớp khác nhau của các trường trên địa bàn để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình về việc giáo dục GTS qua công tác của người GVCN. - Nội dung khảo sát như sau: Phiếu khảo sát thực trạng học tập của học sinh Họ và tên học sinh............................................................................................ Lớp.................................................................................................................. Trường............................................................................................................ Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô trống trong bảng có câu trả lời phù hợp với em. Không/ Nội dung Có chưa Em có thường xuyên được học 12 GTS phổ quát (Hòa bình, Tôn trọng, Yêu thương, Trách nhiệm, Khoan dung, Trung thực, Khiêm tốn, Hợp tác, Hạnh phúc, Trách nhiệm, Giản dị, Tự do, Đoàn kết) thông qua các hoạt động giáo dục của GVCN lớp mình hay không? Em có mong muốn được học các GTS phổ quát từ những hoạt động giáo dục do GVCN tổ chức hay không? - Kết quả thu được như sau: Nội dung khảo sát TT Năm học Trường Có Không Đã được Chưa từng mong mong học được học muốn muốn THPT Huỳnh 170/300 150/300 298/300 2/300 1 2019 -2020 Thúc Kháng 56,67% 50% 99,33% 0,67% THPT 70/300 230/300 290/300 10/300 2 2019 -2020 Lê Viết Thuật 23,33 % 76,67% 96,67% 3,33% 75/300 225/300 285/300 15/300 3 2019 -2020 THPT Cửa Lò 25% 75% 95% 5% 60/300 240/300 288/300 12/300 4 2019 -2020 THPT Thái Lão 20% 80% 96% 4% 13
- - Kết quả khảo sát trên cho thấy: + HS ở các trường trên địa bàn chủ yếu không được học một cách thường xuyên, bài bản, có hệ thống các GTS thông qua các hoạt động giáo dục của GVCN. Có chăng, HS chủ yếu được học thông qua một số chương trình ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt tập thể do nhà trường tổ chức. Nhà trường không xây dựng nội dung chương trình giáo dục GTS đưa vào dạy dọc chính khóa, các tiết sinh hoạt lớp cho GVCN. + Phần lớn HS các trường đều mong muốn GVCN lớp mình sẽ đưa nội dung giáo dục GTS vào trong các hoạt động đa dạng của lớp. Kết quả khảo sát đó là một trong những minh chứng thuyết phục để chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài Biện pháp giáo dục GTS cho HS của GVCN ở trường THPT. 2.2. Thực trạng giáo dục của giáo viên Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu thực trạng của việc giáo dục GTS cho HS qua công tác chủ nhiệm bằng phiếu điều tra khảo sát GVCN ở một số trường THPT trên địa bàn. - Nội dung khảo sát như sau: Phiếu khảo sát thực trạng giáo dục của giáo viên - Họ và tên giáo viên………………………………………………………………… - Giảng dạy môn……………………Chủ nhiệm lớp………………………………. - Trường…......................................................................................................... Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu (x) vào ô trống trong bảng có câu trả lời phù hợp với thầy /cô Không Chưa Thường Hài Nội dung thường hài xuyên lòng xuyên lòng Thầy/cô có thường xuyên tổ chức đa dạng các biện pháp giáo dục GTS cho HS lớp mình chủ nhiệm không? Thầy/ cô đã thực sự hài lòng với hiệu quả giáo dục GTS cho HS lớp mình hay chưa hay chưa? 14
- - Kết quả thu được như sau: Nội dung khảo sát Trường Hiệu quả giáo dục TT Năm học Không THPT Thường thường Chưa hài xuyên Hài lòng xuyên lòng 2019 - THPT Huỳnh 15/30 25/30 10/30 20/30 1 2020 Thúc Kháng 50% 83,33% 33,33% 66,67% 2019 - THPT Lê Viết 7/30 23/30 5/30 25 /30 2 2020 Thuật 23,33% 76,67% 16,67% 83,33% 2019 - 10/30 20/30 7/30 23/30 3 THPT Cửa Lò 2020 33,33% 66,67% 23,33% 76,67% 2019- THPT Thái 8/30 22/30 7/30 23/30 4 2020 Lão 26,67% 73,33% 23,33% 76,67% Từ kết quả khảo sát đó, chúng tôi nhận thấy: Phần lớn GVCN chưa đầu tư thời gian và tâm huyết vào việc giáo dục GTS cho HS lớp mình. Công tác chủ nhiệm của họ còn nặng ở hoạt động quản lí HS và có tâm lí ỷ lại vào các chương trình ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có nội dung giáo dục GTS do nhà trường tổ chức. Hoặc cũng có những giáo viên tâm huyết hơn họ có giáo dục GTS cho HS thông qua tiết sinh hoạt lớp, nhưng thực hiện không thường xuyên và bài bản. Cũng chính vì thế mà phần lớn các GVCN chưa hài lòng với hiệu quả giáo dục nội dung này cho HS lớp mình. 2.3. Thực trạng về tài liệu tham khảo Để có được kết luận thuyết phục về thực trạng tài liệu tham khảo, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các tài liệu tham khảo: 1. Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh THPT – PGS TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - Năm 2010 (Tài liệu tập huấn giáo viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo). 2. Những giá trị sống cho tuổi trẻ - Living Values Education (Đỗ Ngọc Khanh biên dịch- Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2017). 3. Các bài báo trên các tạp chí, báo in và báo mạng viết về hoạt động giáo dục GTS và kĩ năng sống của các trường phổ thông. Từ kết quả khảo sát đó, chúng tôi có nhận xét như sau: - Tài liệu thứ nhất chỉ cung cấp lí thuyết mang tính phương pháp luận về giáo dục GTS cho HS chứ không đi sâu vào hướng dẫn và minh họa cụ thể cho giáo 15
- viên, đặc biệt là cho GVCN. Tài liệu cũng không đưa ra các mô hình tổ chức hoạt động giáo dục GTS cho HS dưới những dạng thức khác nhau. - Tài liệu thứ hai của Chương trình giáo dục GTS của Unesco. Đó là nguồn tài liệu tuyệt vời dành cho giáo dục viên (giáo viên, nhân viên xã hội, huấn luyện viên, những người đã và đang giảng dạy trong môi trường học tập chính quy như trường phổ thông, đại học hay trong môi trường sinh hoạt cộng đồng như câu lạc bộ, nhà văn hóa…). Tài liệu cung cấp những bài học lí thuyết và thực hành về 12 GTS phổ quát theo chuẩn quốc tế. Cuốn sách chính là nền tảng để GVCN hiểu được nội hàm, bản chất của các GTS từ đó vận dụng vào việc giảng dạy vào môi trường giáo dục của mình. - Tài liệu thứ ba là tập hợp những bài báo đưa tin về việc giáo dục GTS ở các trường phổ thông hiện nay. Nhóm tài liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan phần nào về thực trạng giáo dục GTS của các nhà trường, của giáo viên hiện nay. Như vậy, không có một nguồn tài liệu nào đi sâu nghiên cứu một cách bài bản, toàn diện về vai trò, thực trạng, phương pháp tổ chức các hoạt động GTS cho HS qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng đề tài của chúng tôi hi vọng sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho GVCN trong công tác giáo dục vô cùng quan trọng và cấp thiết này. 2.4. Thực trạng về kiểm tra, đánh giá Lâu nay, việc đánh giá toàn diện HS trong các nhà trường phổ thông đang thực hiện trên hai phương diện: đánh giá kết quả học tập các môn học và đánh giá hạnh kiểm của HS. Tuy nhiên việc đánh giá của giáo viên vẫn còn nặng theo chuẩn kiến thức kĩ năng thông qua các bài kiểm tra định kì và đánh giá từ một kênh - giáo viên đánh giá GV. Giáo viên chưa chú trọng đến việc đánh giá quá trình học tập và đánh giá sản phẩm học tập của HS từ nhiều kênh khác nhau: HS tự đánh giá, HS đánh giá lẫn nhau, giáo viên đánh giá HS. Việc tổ chức các hoạt động giáo dục GTS cho HS không chỉ trang bị cho người học những giá trị tích cực để các em bước vào hành trình cuộc đời mà còn có cơ hội cho HS tự đánh giá và cho giáo viên đánh giá HS từ nhiều kênh khác nhau, đảm bảo việc đánh giá HS theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất. Từ cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi đã nghiên cứu và đề xuất những biện pháp giáo dục GTS cho HS của GVCN ở trường THPT một cách hiệu quả, thiết thực. Hệ thống các biện pháp mới mẻ này sẽ góp phần khắc phục thực trạng giáo dục GTS còn nhiều bất cập và hạn chế ở các trường THPT trên địa bàn, góp phần đổi mới dạy học và giáo dục phù hợp điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội của địa phương cũng như bắt nhịp được với yêu cầu, xu thế giáo dục hiện đại. II. Biện pháp giáo dục GTS cho HS của GVCN ở trường THPT Đề tài sẽ nêu một cách cụ thể và tường minh các biện pháp giáo dục GTS cho học sinh của GVCN ở trường THPT. Các biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ theo hệ thống, được trình bày theo thứ tự thang đo về nhận thức và hành vi xếp từ thấp 16
- đến cao. Ngoài ra, trong hệ thống bốn biện pháp, chúng tôi thống nhất lấy ví dụ minh họa cùng một giá trị vì hai lí do: một là, quy định dung lượng đề tài có hạn không cho phép tác giả nêu nhiều ví dụ; hai là để người đọc tiện theo dõi và nắm bắt vấn đề một cách vừa xuyên suốt, thấu đáo vừa mang tính tổng quan. 1. Xác định GTS cốt lõi để tạo nên văn hóa và truyền thống của lớp chủ nhiệm 1.1. GTS cốt lõi của lớp học Giá trị sống cốt lõi của lớp học là tập hợp các giá trị quan trọng, hàng đầu, được tập thể lớp xem như là quan niệm và nguyên tắc cơ bản, thiết yếu, mang tính lâu dài. Giá trị cốt lõi này là nền tảng, chuẩn mực, hướng dẫn toàn bộ hành vi nội bộ của tổ chức lớp cũng như mối quan hệ của tập thể lớp đó với thế giới bên ngoài. GTS cốt lõi, văn hóa và truyền thống lớp học biểu hiện ở tầm nhìn, sứ mạng, triết lí, mục tiêu, phong cách quản lí lớp, bầu không khí tâm lí trong lớp học… được xem là tốt đẹp, được mỗi thành viên trong lớp học chấp nhận, trân trọng, giữ gìn, tạo nên đặc trưng, sự khác biệt với các lớp học khác để mỗi khi nhắc về lớp mình mọi thành viên đều có thể nhớ được và tự hào. 1.2. Căn cứ để xác định GTS cốt lõi cho lớp chủ nhiệm - Các GTS phổ quát (như đã đề cập ở mục 2.1 phần I) - Các giá trị cốt lõi của nhà trường: chính là triết lí, mục tiêu của nhà trường trong giáo dục HS mang truyền thống, văn hóa, phong cách đặc trưng của trường mình. Ví dụ: Giá trị cốt lõi của trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng đó là hướng đến mục tiêu giáo dục HS trường Huỳnh: Trí tuệ - Năng động, sáng tạo – Nghĩa tình. GTS cốt lõi được xác định xây dựng cho lớp chủ nhiệm phải có sự thống nhất hài hòa với giá trị phổ quát chung cần giáo dục cho HS THPT và giá trị cốt lõi, mục tiêu, triết lí giáo dục của nhà trường. 1.3. Cách thức xác định GTS cốt lõi cho lớp chủ nhiệm a) Thời gian thực hiện: Việc xác định GTS – triết lí giáo dục riêng của lớp chủ nhiệm phải được thực hiện ngay từ đầu cấp học, ngay sau khi GVCN nhận lớp theo sự phân công của nhà trường, đón chào một khóa học HS mới trong hành trình nghề giáo của mình. b) Tiến trình xác định GTS cốt lõi được thực hiện qua các hoạt động sau: b1) Hoạt động 1: Xác định GTS cốt lõi của lớp chính là xác định mô hình “lớp học lí tưởng” cho lớp mình - Giáo viên giới thiệu về 12 GTS phổ quát và giá trị cốt lõi của nhà trường. 17
- - Giáo viên tổ chức cho các tổ HS thảo luận GTS cốt lõi của lớp chủ nhiệm bằng yêu cầu sau: Trên cơ sở các GTS phổ quát và GTS cốt lõi của nhà trường, chọn 3-5 giá trị mà nhóm mình mong muốn hướng tới để xây dựng một tập thể vững mạnh, có văn hóa và truyền thống riêng Viết và trang trí Cây giá trị của lớp mà nhóm mình mong muốn hướng tới? - Sau khi các tổ thảo luận, trình bày ý kiến, GVCN đi đến thống nhất hệ giá trị sống cốt lõi (cây giá trị) cho lớp trên cơ sở định hướng của mình và sự đồng thuận của các tổ, tất cả các thành viên trong lớp. Ví dụ: Chúng tôi đã tiến hành cho học sinh lớp chủ nhiệm thảo luận và thống nhất xác định giá trị sống cốt lõi của lớp mình như sau: - Lớp D1 khóa 96 và D1 khóa 99, A5 khóa 97 xác định giá trị sống cốt lõi là: TRUNG THỰC – TRÁCH NHIỆM – HỢP TÁC – YÊU THƯƠNG b2) Hoạt động 2: Xác định GTS cốt lõi trong nội quy lớp học - Nội quy, nề nếp kỉ luật của lớp là những điều rất cần thiết để giáo dục, nội quy, quy tắc ứng xử trong lớp học là rất quan trọng và cần thiết. Nội quy, nề nếp phản ánh GTS - triết lí giáo dục, văn hóa, truyền thống của tập thể lớp, là cơ sở để HS hiểu xem những hành vi nào là phù hợp, những hành vi nào là không phù hợp và đâu là giới hạn không được vượt qua. GVCN có vai trò định hướng xác định GTS cốt lõi cho tập thể lớp và khắc sâu giá trị cốt lõi ấy trong nội quy lớp học. Tuy nhiên, giáo viên không phải là người đưa ra nội quy mà tổ chức cho HS trực tiếp tham gia xây dựng nội quy trên nền tảng GTS cốt lõi vừa xác định và điều lệ, nội quy nhà trường - Các bước xây dựng nội quy lớp học trên nền tảng GTS cốt lõi như sau: + Bước 1: Giáo viên thông báo cho HS về GTS cốt lõi của lớp (Cây giá trị) và Nội quy của nhà trường. + Bước 2: Giáo viên chia HS thành nhóm nhỏ, thảo luận và trả lời các câu hỏi: Nêu 03 hành vi cụ thể để thể hiện cho mỗi giá trị cốt lõi của lớp. Từ các hành vi đó, lập thành bảng nội quy liệt kê những điều HS nên làm và không nên làm?(ứng xử, giao tiếp, kỉ luật, học tập) Viết và trang trí Cây giá trị - Bảng nội quy Từng cá nhân nêu ý kiến, sau đó thống nhất và đưa ra các ý kiến của nhóm. + Bước 3: Yêu cầu từng nhóm chia sẻ ý kiến của nhóm mình cho cả lớp biết. Sau khi tất cả các nhóm đã trình bày xong, giáo viên và cả lớp cùng xem xét, tìm ra những ý kiến chung cho tất cả HS để thống nhất nội quy lớp học. 18
- + Bước 4: Quy định chế độ khen thưởng và xử phạt: HS và giáo viên cùng nhau thỏa thuận về chế độ khen thưởng và xử phạt cho các hành vi đáng khen và đáng chê. Cả lớp tiếp tục thảo luận các câu hỏi sau: Ai sẽ giám sát việc thực hiện nội quy? Nên làm gì để khuyến khích cả lớp thực hiện nội quy? Nếu vi phạm nội quy sẽ xử lí như thế nào? Nếu thực hiện tốt nội quy thì sẽ khen thưởng như thế nào? Khuyến khích HS đưa ra các hình thức khen thưởng/xử phạt + Bước 5: Giáo viên hoàn thiện nội quy và phổ biến cho HS, trang trí trong lớp học để ai cũng có thể đọc được và giao cho cán bộ lớp theo dõi việc thực hiện nội quy theo sự phân công. Những nội dung đã thống nhất trong buổi thảo luận xây dựng nội quy sẽ được giáo viên hoàn thiện. Việc hoàn thiện một bảng nội quy nhằm giáo dục GTS cũng nên được mềm hóa bằng cách gia tăng tính cảm xúc và thẩm mĩ, khác với những bản nội quy cứng nhắc và khô khan như lâu nay. b3) Hoạt động 3: Xác định GTS cốt lõi cho HS qua việc lập mục tiêu của bản thân trong cả cấp học - “Mục tiêu là những trạng thái, cột mốc mà con người muốn đạt được trong một khoảng thời gian xác định”. Thông thường có 2 loại mục tiêu: Mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn. Mục tiêu ngắn hạn là mục tiêu mà bạn muốn sớm đạt được. Còn mục tiêu dài hạn là những mục tiêu mà bạn phải ước tính phải mất một khoảng thời gian kha khá mới đạt được. Mục tiêu ngắn hạn thường là mục tiêu ngày, tuần, tháng. Mục tiêu dài hạn thường là mục tiêu năm và chục năm trở lên. Nếu bạn muốn đạt được thành công, bạn cần phải đặt ra mục tiêu. Nếu không có mục tiêu, bạn sẽ thiếu tập trung và định hướng. Thiết lập mục tiêu không chỉ giúp bạn điều khiển định hướng của cuộc sống mà còn là chuẩn mực để xác định xem bạn có đang thực sự thành công hay không. Thiết lập mục tiêu giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về bản thân và thực tại của chúng ta như thế nào. Mình đang có gì, mình muốn có gì và mình phải làm gì để những điều mình muốn thành hiện thực. Tiêu chí của Mục tiêu thông minh (SMART) là: cụ thể, dễ hiểu; đo lường được; vừa sức, đạt được; thích hợp; có thời hạn. - Cách xác định giáo dục GTS cốt lõi thông qua hoạt động xác lập mục tiêu: + Bước 1: Giáo viên giới thiệu tầm quan trọng của xác lập mục tiêu, cách xác lập mục tiêu thông minh (smart), giá trị cốt lõi và mục tiêu của lớp. + Bước 2: Giáo viên yêu cầu HS tự xác lập mục tiêu của mình với các thao tác sau: 19
- Vẽ bàn tay của mình (hoặc ngôi sao) lên giấy Suy nghĩ và viết ra 3 mục tiêu về học tập – kĩ năng sống – giá trị sống của mình trong 3 năm học theo tiêu chí SMART Kí tên để xác lập cam kết Những giải pháp/hành động cụ thể cho từng mục tiêu đó là gì? Tạo nhóm 3 người và chia sẻ. + Bước 3: Giáo viên tập hợp các bản mục tiêu để cho trang trí trong lớp học. Như vậy, khi mỗi HS trong lớp học đều biết cách xác định mục tiêu để hoàn thiện bản thân trên các phương diện học tập tri thức – rèn luyện kĩ năng – hoàn thiện nhân cách theo định hướng GTS cốt lõi, nghĩa là công tác chủ nhiệm của giáo viên đã có thành công bước đầu trên hành trình vun trồng, hi vọng về mùa quả ngọt. b4) Hoạt động 4: Xác định GTS cốt lõi bằng cách trang trí không gian lớp học - Lớp học hay phòng học là một căn phòng thường được bố trí trong nhà trường chuyên sử dụng cho hoạt động giảng dạy và học tập của thầy cô giáo và các em HS, sinh viên. Lớp học là một không gian tương đối tách biệt và yên tĩnh, nơi mà việc học tập có thể diễn ra một cách không bị gián đoạn bởi những phiền nhiễu. Lớp học là nơi diễn ra hoạt động chính nhất của HS tại trường: học tập, vui chơi, nên không gian lớp học ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả học tập và giáo dục HS. Trách nhiệm của mỗi GVCN là phải xây dựng được lớp học hạnh phúc – nơi khiến cô và trò đều có cảm giác “muốn đến”, khi đến sẽ có hứng thú, niềm vui, sự mong chờ và những rung cảm. Một trong những cách để lớp học trở nên hạnh phúc đó là GVCN cần có kĩ năng tổ chức cho HS trang trí lớp học trên cơ sở, nền tảng giá trị sống cốt lõi của lớp mình. - Cách thức giáo viên tổ chức cho HS trang trí lớp học để khắc sâu giá trị: + Bước 1: GV tổ chức cho các nhóm HS thảo luận về ý tưởng trang trí lớp học: Cách trang trí Cây giá trị và Bảng nội quy Cách trang trí Góc thi đua Cách trang trí Bảng mục tiêu cá nhân Cách trang trí Bảng tin hoạt động nổi bật trong tuần Cách trang trí Góc Học đường xanh (tủ sách và cây xanh trong lớp học) + Bước 2: Các nhóm chia sẻ ý tưởng và giáo viên chốt thống nhất một ý tưởng chung. + Bước 3: Triển khai trang trí lớp học dưới sự điều hành của GVCN và Ban sự kiện của lớp. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nghệ thuật so sánh trong ca dao ở chương trình THPT
47 p | 127 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Giáo dục thể chất trong trường THPT
23 p | 28 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Địa lí 12
34 p | 69 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Sinh học theo tiếp cận năng lực ở trường Trung học phổ thông Mường Luân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên
28 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tiết ôn tập trong môn Địa lí thông qua một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực ở trường THPT
37 p | 12 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nâng cao chất lượng ôn thi trung học phổ thông quốc gia bài 6 Giáo dục công dân 12
47 p | 54 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nâng cao chất lượng ôn thi THPT QG bài 6 GDCD lớp 12
50 p | 39 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác kênh hình sách giáo khoa Sinh học 12, biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan phục vụ ôn thi trung học phổ thông (THPT) quốc gia
17 p | 43 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn