intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp giúp học sinh tự ôn tập chương môn Vật lý THPT

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp giúp học sinh tự ôn tập chương môn Vật lý THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO AN GIANG TRƢỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH ------------------------------------------- BÁO CÁO SÁNG KIẾN BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH TỰ ÔN TẬP CHƢƠNG MÔN VẬT LÝ THPT Họ và tên : TRẦN ANH ĐIỀN Tổ: Vật lý - KTCN NĂM HỌC 2018-2019 1
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƢỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------------------ An Giang, ngày 20 tháng 02 năm 2018 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sƣ phạm ứng dụng I- Sơ lƣợc lý lịch tác giả: - Họ và tên: Trần Anh Điền Nam, nữ: Nam - Ngày tháng năm sinh: 28/08/1984 - Nơi thường trú: Số 07, tổ 1, ấp Long Thượng, xã Kiến An, Chợ Mới, An Giang - Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh - Chức vụ hiện nay: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ - Lĩnh vực công tác: Dạy lớp II.- Sơ lƣợc đặc điểm tình hình đơn vị: 1. Thuận lợi + Được sự quan chỉ đạo sâu sát của Ban lãnh đạo nhà trường. + Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ tạo điều kiện cho hoạt động dạy học. + Đây là phương pháp học tập mới, mang lại sự thoải mái, vui vẻ và sáng tạo cho HS. + Chương trình môn Vật lý có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy dùng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức. + Phương pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực. 2. Khó khăn + Đây là phương pháp dạy học mới nên HS không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng sử dụng, đòi hỏi GV phải chuẩn bị chu đáo. + GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS. + Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc lập sơ đồ trong học tập là sự máy móc không hiệu quả. 2
  3. - Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: Biện pháp giúp học sinh tự ôn tập chương môn Vật lý THPT - Lĩnh vực: Phương pháp dạy học III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: 1. Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng bản đồ tư duy (Sơ đồ) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong đó nhấn mạnh: "Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả". Mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Ngành Giáo dục phải liên tục đổi mới nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Điều 28 của Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo 3
  4. nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Quá trình đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực của giáo dục phổ thông mà tâm điểm là đổi mới chương trình giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạt được mục tiêu việc “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học sinh (HS) trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên (GV), nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành. Phương pháp dạy học bộ môn Vật lý đã và đang có những đổi mới nhất định. Định hướng dạy học tích cực, lấy học sinh HS làm trung tâm, dạy học theo chủ đề, chú trọng phát triển năng lực HS, tăng khả năng tự học... Tuy nhiên, khả năng tự học của nhiều học sinh còn hạn chế, nhất là khi học qua hết một chương. Học sinh không thể tự lực thực hiện việc ôn tập mà luôn cần sự trợ giúp của giáo viên. Tôi thiết nghĩ cần có những biện pháp dạy học sao cho tập dần cho học sinh khả năng tự học nói chung, tự ôn tập chương môn Vật lý nói riêng. Từ những lý do nêu trên tôi lựa chọn đề tài của mình là: "Biện pháp giúp học sinh tự ôn tập chương môn Vật lý THPT". 3. Nội dung sáng kiến 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 3.1.1. Phƣơng pháp tự học bằng sơ đồ hoá kiến thức Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của HS. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn. Phương pháp sử dụng sơ đồ kiến thức được nhiều môn học sử dụng. Riêng môn Vật lý được tôi sử dụng hướng dẫn cho học sinh tự học theo cách riêng của mình. 4
  5. Sơ đồ là hình thức ghi chép sử dụng dạng cây thư mục để hệ thống hoá kiến thức, mở rộng và đào sâu các nội dung. Sơ đồ như một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, là một sự kết hợp các đường nét phù hợp với cấu trúc nội dung kiến thức, giúp học sinh tự học tốt kiến thức lý thuyết Vật lý. Cơ chế hoạt động của sơ đồ chú trọng tới các mạng lưới liên tưởng (các nhánh) có liên quan với nhau. Vì vậy, có thể vận dụng sơ đồ vào hỗ trợ dạy học ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương. Sơ đồ giúp học sinh có được phương pháp tự học. Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn chưa hiệu quả, nhất là môn Vật lý riêng và môn khoa học tự nhiên nói chung. Các em này thường học bài nào biết bài đó, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo sơ đồ trong học tập sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy từ đó học tốt hơn. Sơ đồ giúp học sinh học tập một cách tích cực. Cùng một lúc giáo viên có thể kiểm tra bài cũ của tất cả học sinh trong lớp thay vì trả bài theo cách truyền thống là vấn đáp từng em. Sơ đồ giúp học sinh ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của sơ đồ là ngắn gọn nên sơ đồ chỉ sử dụng từ khoá có chọn lọc, sắp xếp, bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic nhất. Để ghi chép sơ đồ hiệu quả nhất, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dùng từ khóa và ý chính, viết cụm từ, không viết thành câu, dùng các từ viết tắt, có tiêu đề, đánh số các ý, liên kết ý nên dùng mũi tên. 3. 1.2. Các bƣớc khi lập sơ đồ ôn tập chƣơng - Tờ giấy nên đặt nằm ngang. Viết tên nội dung cấp 1 là tên chương. Tên chương sẽ bắt đầu từ bên trái. - Viết tên nội dung cấp 2 là tên bài hoặc nhóm bài. Viết thêm các tiêu đề được liệt kê từ tên chương. Dùng các mũi tên tỏa ra một cách cân đối. - Viết tên nội dung cấp 3 là tên từng nội dung thành phần của bài. Tên các khái niệm, định nghĩa, định luật... được liệt kê. 5
  6. - Nội dung cấp 4 để trống. Đây là phần nội dung được học sinh rút gọn kiến thức cụ thể và phải tự ghi vào. - Thêm các đường nối liên kết giữa những kiến thức có liên quan. 3.1.3. Biện pháp giúp học sinh tự ôn tập chƣơng môn Vật lý bằng sơ đồ Trước hết, giáo viên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy rằng sơ đồ là một công cụ phối hợp các phương pháp khác để thực hiện giảng dạy thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả trong đó có việc sử dụng sơ đồ để dạy ôn tập chương. Trước khi tiến hành ôn tập chương, giáo viên cần cho học sinh đọc nhanh nội dung của chương đó để tìm cách chia nhóm kiến thức toàn chương thành các đơn vị kiến thức chính. Số lượng các tiêu đề chính có thể dựa vào các bài hoặc nhóm một số bài lại với nhau. Việc học nhanh trong thời gian ngắn giúp học sinh có thói quen tư duy tích cực, hiệu quả học tập cao. Giáo viên gởi cho mỗi học sinh một sơ đồ mà trong đó còn trống các đơn vị kiến thức, yêu cầu học sinh làm việc cá nhân để bổ sung vào ô trống cho đầy đủ thông tin. Giáo viên quan sát để có thể hỗ trợ kịp thời. Theo nội dung từng chương mà giáo viên có thể linh hoạt thay đổi hình thức tổ chức để tránh sự nhàm chán. Kiến thức cả chương được hiển thị lên một trang giấy A4 nên cần dùng hình vẽ đơn giản, triển khai các nhánh nên bố trí sao cho dễ viết nhất, hạn chế viết chéo, viết ngược sẽ rất khó đọc. Mấu chốt vấn đề là làm sao lựa chọn được các từ khóa ngắn gọn, súc tích nhất, có thể viết tắt các từ thông dụng. Kinh nghiệm cho thấy nếu đặt tên chương ở giữa trang giấy còn các nhánh lang ra mọi phía thì chữ viết chéo sẽ khó viết và khó đọc. Chữ nên viết ngang, từ trái qua phải, nếu dài thì xuống dòng rồi từ đó phân ra các nhánh thứ cấp. Tên chương nên đặt sát bên trái, các nhánh tiến dần sang bên phải như dạng "cây thư mục" đã quá quen thuộc đối với học sinh khi học môn Tin học. Để từ đó khi làm bài, các em có thể diễn đạt chi tiết từ nội dung chính mà mình đã ghi nhớ. 6
  7. Sơ đồ kiến thức của một chương phải đặt gọn trong một trang giấy. Khi học, các em sẽ nhìn thấy bức tranh kiến thức tổng thể của một chương, phân biệt được những điểm gần giống nhau... Đó là những yêu cầu rất cần thiết khi làm bài trắc nghiệm lý thuyết. Việc ôn tập nhẹ nhàng hơn vì dễ ghi nhớ kiến thức. Để tăng khả năng tự học bằng sơ đồ, giáo viên nên thường xuyên cho học sinh luyện tập tại lớp và tại nhà. Khi thấy học sinh đã thành thạo, giáo viên nên để một vài tiết cho học sinh tự nghiên cứu, trao đổi để vẽ sơ đồ. Giáo viên điều chỉnh, uốn nắn, sửa sai và có thể đánh giá cho điểm. Trong những giờ dạy như thế tôi quan sát thấy học sinh làm việc rất tốt, rất tích cực. Tóm lại việc sử dụng sơ đồ trong từng tiết dạy ô tập chương mang lại nhiều lợi ích cho học sinh: giúp các em dễ nắm bài, dễ ghi nhớ, tạo điều kiện để phát huy năng lực sáng tạo, khả năng phân bố không gian, từng bước rèn luyện năng lực tự học, tự chọn lọc thông tin để ghi nhớ một cách khoa học. 3.2. Một số minh chứng cho giải pháp mới 3.2.1. Sử dụng sơ đồ trong việc kiểm tra kiến thức cũ - Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng: Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác định thật chính xác cần kiểm tra những gì. Giáo viên cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải chính xác, rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề. Giáo viên phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt, sách bài tập nhằm đối phó với giáo viên. - Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng: Tạo điều kiện thuận lợi để HS có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu biết của các em. Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của HS mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em. Thái độ và cách đối xử của GV với HS có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra miệng. GV cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của HS và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của HS. Sự hiểu biết của GV về cá tính HS, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kĩ năng của HS được kiểm tra. Trong quá trình HS đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết GV cũng không nên ngắt lời của HS. Cùng là 7
  8. một sai sót nhưng GV phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi HS trả lời xong. - Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều HS, tránh để tình trạng HS có tâm lý đã trả bài rồi thì không cần phải học bài. Bằng cách sử dụng sơ đồ bỏ trống để trả bài tiết ôn tập chương đối với tất cả HS là một biện pháp tốt. Sử dụng sơ đồ trong kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn. Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng khác. - Sử dụng sơ đồ vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các sơ đồ tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Kiểm tra kiến thức toàn chương "dao động cơ", Vật lý 12 bằng sơ đồ sau: 8
  9. - Với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi thường xuyên hướng dẫn HS cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng sơ đồ nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà HS cần nắm vững. Sau đó, HS phải trình bày được những nội dung cần nắm vững trong bài học, HS dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và GV là người chốt lại kiến thức. - Phần kiểm tra bài cũ này tôi còn cho HS hoàn thành trọn vẹn sơ đồ dưới hình thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), HS nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao. Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho phần trả bài không còn là áp lực với HS, các em không phải chỉ còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học. 3.2.2. Sử dụng sơ đồ trong việc củng cố kiến thức Củng cố bài học là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, GV sẽ giúp HS phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy cho HS. Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa GV và HS. Điều đó tạo hứng thú học tập cho HS, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện để HS phát biểu ý kiến. Một số phương pháp củng cố bài thường dùng: - Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu. Biện pháp củng cố này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân tích, so sánh và móc nối các kiến thức. Thường áp dụng với những bài mang tính so sánh hay tổng quát, có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức. - Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập. Biện pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho HS khả năng diễn đạt. Nhưng sẽ tạo áp lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp. Phương pháp áp dụng đối với những bài học nhiều lý thuyết. 9
  10. - Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi. Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho HS đối với môn học. Nhưng có hạn chế là tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi. Nguyên tắc cơ bản là trò chơi phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của bài. - Củng cố bài giảng bằng cách cho HS tự tổng kết kiến thức. Biện pháp củng cố này rèn cho HS kĩ năng trình bày vấn đề trước đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề Phương pháp áp dụng với những bài nội dung đơn giản, dễ tổng kết lại kiến thức. Trên đây là một vài phương pháp củng cố bài học mà tôi và các GV chắc chắn đã dùng trong các tiết dạy của mình. Mỗi phương pháp có một ưu nhược điểm riêng và khi dùng sơ đồ, chúng ta có thể khắc phục các nhược điểm, phát huy tối đa các ưu điểm. Sử dụng sơ đồ gần như là một biện pháp có thể kết hợp các phương pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả. Đó là trò chơi, là sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố. Tôi nhận thấy rằng sơ đồ là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho HS. Đặc biệt, sơ đồ rất phù hợp cho việc đọc, ôn tập, ghi chú... Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch để hướng dẫn HS học tập theo sơ đồ này. Ví dụ: Củng cố kiến thức sau khi học xong bài “Từ trường", Vật lý 11 như sau: Tuy nhiên, sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng sơ đồ thì không phải tiết nào cũng củng cố bài như vậy vì sẽ gây nhàm chán và mất thời gian. Do đó, một biện pháp khác tôi đưa ra là củng cố bằng việc làm bài tập và trả lời các câu hỏi phần. Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em 10
  11. nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc củng cố bài học, khi HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một sơ đồ hoàn hảo. 3.2.3. Sử dụng sơ đồ trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức - Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng, nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì vậy cần có sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, k năng cần hệ thống, khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. - Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống cho một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển của kiến thức, cùng các k năng cần rèn luyện. - Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư duy, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình. - Sự trình bày các bài tổng kết: Tùy theo nội dung cần tổng kết và sự phát triển của kiến thức, bài tổng kết có thể trình bày theo các đề mục, các vấn đề của nội dung mang kiến thức cần ôn tập. Đồng thời bài tổng kết cũng có thể trình bày ở dạng các bảng tổng kết, các sơ đồ thể hiện mối liên hệ các kiến thức giúp học sinh dễ nhìn, dễ nhớ và hệ thống hóa kiến thức ở dạng khái quát cao. Khi xây dựng các bảng tổng kết cần rõ ràng các sơ đồ dễ nhìn, đảm bảo tính khoa học và thẩm m . GV, HS cần có sự chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ cho giờ ôn tập tổng kết. Ngoài việc chuẩn bị nội dung, kiến thức, câu hỏi cho bài ôn tập, hệ thống kiến thức đã đựơc trình bày trong sách giáo khoa, GV cần chuẩn bị thêm một số kiến thức để mở rộng, đào sâu kiến thức và một số dạng bài tập mang tính vận dụng sâu kiến thức trong các sách tham khảo, sách bài tập Vật lý... 11
  12. - Sơ đồ là một công cụ hỗ trợ tốt trong những tiết ôn tập. Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS phải lên trình bày, thuyết minh thông qua sơ đồ mà GV và HS hoặc nhóm mình đã hoàn thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh sơ đồ từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm. - Sơ đồ hoá kiến thức toàn chương cần tập trung thông tin của từng chủ đề kiến thức, mô tả đầy đủ thông tin chính và phụ cho từng chương, tất cả phải được thể hiện trên một trang giấy. Ví dụ: Ôn tập kiến thức sau khi học xong chương “Dòng điện trong các trường", Vật lý 11 như sau: 3.3. Một số lưu ý khi tổ chức thực hiện Sơ đồ hệ thống hóa kiến thức một chương là hệ thống kiến thức bao trùm cả một nhóm lớn kiến thức, k năng. Việc lập sơ đồ của chương đòi hỏi nhiều k năng quan trọng như: K năng nhìn bao quát, k năng sử dụng từ khóa ngắn gọn, k năng phân bố không gian kiến thức, k năng thiết kế, viết ,vẽ... Sơ đồ là công cụ hết sức hữu ích cho học sinh học bài, nắm vững kiến thức có hệ thống. Thực tế dạy học một số năm qua cho thấy: Nếu học sinh được rèn luyện bằng sơ đồ thường xuyên thông qua tiết dạy k năng của các em tăng lên rất nhanh. Đến tiết 12
  13. ôn tập nhiều em đã tự làm được sơ đồ tốt. Tuy nhiên giáo viên cần soạn sẵn sơ đồ chương để các em làm tài liệu học tập, trên sơ đồ nên có một phần cho các em bổ sung hoàn thiện như đã nêu ở trên. IV. Hiệu quả đạt đƣợc: Tôi tiến hành thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của biện pháp tổ chức dạy học theo giải pháp mới. Đồng thời nhìn lại giải pháp dạy học đó để điều chỉnh giải pháp dạy học ngày càng phù hợp hơn. Cũng như suy nghĩ đến khả năng mở rộng triển khai cho một số đơn vị kiến thức khác của chương trình Vật lý THPT. Đối tượng mà tôi tiến hành thực nghiệm là HS ở một số của trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh mà tôi được phân công giảng dạy trong năm học 2018-2019. Cụ thể là thực nghiệm ở hai lớp 11C2 và 12C3 và đối chứng ở hai lớp 11C1 và 12C13. Thống kê điểm số kiểm tra ở lớp thực nghiệm như sau: Số bài kiểm tra đạt điểm Lớp Từ Từ Từ Từ Từ Từ Từ Từ Từ Từ Số thực 0,0 1,0 2,0 3,0 4,0 5,0 6,0 7,0 8,0 9,0 HS nghiệm đến đến đến đến đến đến đến đến đến đến
  14. Sau khi tiến hành kiểm tra HS, thống kê kết quả cuối chương 1 được biểu diễn trên biểu đồ sau: 30 25 20 % HS đạt điểm Thực nghiệm 15 Đối chứng 10 5 0 Từ 0,0 Từ 1,0 Từ 2,0 Từ 3,0 Từ 4,0 Từ 5,0 Từ 6,0 Từ 7,0 Từ 8,0 Từ 9,0 đến đến đến đến đến đến đến đến đến đến
  15. 2. Ý nghĩa, tác dụng của sáng kiến Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy sáng kiến có ý nghĩa thực tiễn cao, đáp ứng được chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển giáo dục về việc “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Đối với bản thân tôi, đề tài này đã giúp rất nhiều cho công tác giảng dạy, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy. VI- Kết luận: Sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức không chỉ có thể áp dụng ở bộ môn Vật lý mà có thể vận dụng được cho tất cả các bộ môn khác. Bằng những kinh nghiệm tôi đã rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường, sự giúp đỡ tận tình của tổ chuyên môn. Tôi đã hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp chuyên môn để vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn. - Đề tài có thể áp dụng cho nhiều đối tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều công việc. Từ những điểm nêu trên cho thấy đề tài có tính khoa học và thực tiễn cao, phát huy tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý nói riêng và các môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của người học. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến Trần Anh Điền 15
  16. PHỤ LỤC 16
  17. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2