intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập môn Thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng tính tự giác, tích cực trong hoạt động học tập môn thể dục của học sinh đề tài lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp tích cực hoá hoạt động học tập môn thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, góp phần nâng cao chất lượng giờ học môn thể dục nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung của nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập môn Thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách

  1. PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài: Giáo dục thể chất (GDTC) là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện mục tiêu: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” cho đất nước, để thế hệ trẻ có điều kiện “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GDTC trong nhà trường là một việc hết sức cần thiết, gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo. Với tư tưởng chỉ đạo “Thực hiện các nhiệm vụ xây dựng thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc của chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có trình độ làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và có sức khỏe”... và “Đối với giáo dục, điều đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục, và yêu cầu giáo dục phải nhằm vào mục tiêu thực hiện giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục và lao động trong tất cả các cấp học”. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác GDTC, nhiều trường THPT không chỉ thực hiện đầy đủ những quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo về nội dung chương trình GDTC, mà còn vận dụng một cách sáng tạo trên cơ sở cải tiến , xây dựng các nội dung học tập mới cho phù hợp với điều kiện của trường. Điều đó đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh. Trong quá trình dạy học, tính hiệu quả của quá trình sư phạm phần lớn được xác định bởi việc bản thân người được giáo dục có thái độ tự giác và tích cực như thế nào đối với công việc của mình. Tiền đề cần thiết của thái độ tự giác đối với hoạt động là động cơ tham gia hoạt động đó. Các động cơ kích thích hoạt động TDTT rất đa dạng (sự hấp dẫn của động tác, ham muốn có thể hình đẹp...) người làm công tác chuyên môn về GDTC phải biết tích cực hóa người tập ý nghĩa chân chính của hoạt động TDTT, giúp người tập hiểu rõ bản chất xã hội của TDTT, hiểu ý nghĩa của nó như một phương tiện để phát triển cân đối, củng cố sức khoẻ, chuẩn bị cho lao động sáng tạo và bảo vệ tổ quốc. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi giáo dục phải tạo ra những con người phát triển toàn diện về trí - đức - thể - mỹ và nghề nghiệp. Vì vậy GDTC trong hệ thống giáo dục nói chung và trong nhà trường nói riêng có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người, góp phần nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam. Trong một số năm gần đây, việc đổi mới hình thức tổ chức, quản lý, đổi mới phương pháp dạy và học các môn học nói chung trong đó có môn GDTC nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, căn cứ vào các điều kiện thực 1
  2. tiễn của nhà trường về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực... và một số điều kiện khách quan khác, có thể nói hiệu quả của các giờ học chính khoá đối với môn học GDTC nói chung vẫn còn nhiều hạn chế. Với Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách thì công tác GDTC cũng nằm trong tình trạng chung đó, giờ học đôi khi vẫn còn mang tính hình thức, việc đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng dạy học thể hiện ở các thiết bị, dụng cụ tập luyện, nhà tập, sân bãi còn thiếu. Quy trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức các hình thức luyện tập chưa hợp lý, phương pháp dạy học còn đơn điệu thiếu sinh động chưa gây hứng thú học tập cho học sinh, nhiều học sinh coi giờ học Thể dục như giờ vui chơi nên không chú tâm luyện tập. Kết quả khảo sát trong các giờ học Thể dục cho thấy vẫn còn nhiều học sinh có thể lực chung rất hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em. Do vậy vấn đề này cần được xem xét, nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện hơn... Trước tình hình thực tế đó, là giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở trường THPT, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập môn Thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách ” . II. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng tính tự giác, tích cực trong hoạt động học tập môn thể dục của học sinh đề tài lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp tích cực hoá hoạt động học tập môn thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, góp phần nâng cao chất lượng giờ học môn thể dục nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung của nhà trường. III. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đề ra 2 nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng tính tích cực, tự giác trong hoạt động học tập môn GDTC của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách - Nhiệm vụ 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp tích cực hoá hoạt động học tập môn GDTC cho học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách IV. Thời gian nghiên cứu. Năm học 2019-2020 và năm học 2020 - 2021 V. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. + Học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, huyện Thanh Chương 2
  3. + Giáo viên Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách và một số trường lân cận. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I .TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác GDTC trong trường học. Giáo dục và đào tạo luôn là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia. Con người là hạt nhân của xã hội, xã hội muốn bền vững thì cần phải có con người tài năng, có sức khỏe, có nhân cách đạo đức tốt. Vì vậy, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 03 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TDTT đến năm 2020 (theo Quyết định số 2198/QĐ-TTg) trong đó chỉ rõ Giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường là một trong ba nội dung chủ yếu và mục tiêu cụ thể được đặt ra trong giai đoạn này là "... Đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, bảo đảm yêu cầu phát triển con người toàn diện, làm nền tảng phát triển thể thao thành tích cao và góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong tầng lớp thanh - thiếu niên. Tích cực phát triển thể dục, thể thao trong lực lượng vũ trang, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng toàn dân". Trong đó cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển GDTC và hoạt động thể thao trường học là tăng cường chất lượng dạy và học thể dục chính khóa và phát triển hoạt động thể dục, thể thao ngoại khóa; Ban hành Nghị định về phát triển giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường học,... Nghị quyết 29/NQ-TW-2013 đề ra mục tiêu của GD phổ thông: tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân CHXHCN VN, phát triển bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề. Phấn đấu đến 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương. Ngày 31/01/2015 Thủ tướng ban hành nghị định số 11/2015/NĐ-CP quy định về GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường, trong đó chỉ rõ: Giáo dục thể chất trong nhà trường là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, học sinh, sinh viên các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. 2. Đặc điểm của giờ học Thể dục chính khóa. 2.1. Những nét đặc trưng của giờ học Thể dục - Ưu thế của buổi tập chính khóa còn thể hiện ở chỗ buổi tập được tiến hành 3
  4. theo kế hoạch học tập chặt chẽ của trường học theo thời khóa biểu chung của toàn trường; - Lớp học gồm một số lượng học sinh ổn định, cùng lứa tuổi, hoạt động chung đã liên kết học sinh thành tập thể. Đó là những điều kiện không kém quan trọng để giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ giáo dục - giáo dưỡng trong quá trình GDTC. - Giờ học Thể dục được tổ chức phù hợp với những nguyên tắc sư phạm chung và những nguyên tắc GDTC nói riêng. Đồng thời, việc tiến hành giờ học Thể dục phải đảm bảo những yêu cầu sau: + Tác động của giờ học phải toàn diện về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và sức khỏe. + Hoạt động dạy học và giáo dục phải được quán xuyến từ đầu đến cuối giờ học. Xu hướng chỉ giải quyết nhiệm vụ giáo dưỡng trong phần cơ bản thường thấy trong thực tế là không đúng đắn. Nếu phần chuẩn bị và phần kết thúc không có nội dung giáo dưỡng thì vai trò chủ đạo của người thầy chỉ là hình thức và lãng phí thời gian. + Trong giờ học cần hết sức tránh dùng khuôn mẫu phương pháp cứng nhắc. + Đảm bảo bình đẳng trong hoạt động học tập cho tất cả học sinh, đồng thời chú ý đặc điểm từng cá nhân người tập. Chỉ có như vậy tất cả học sinh mới đạt được yêu cầu chung và hạn chế số học sinh yếu kém. + Các nhiệm vụ đặt ra trong mỗi giờ học phải thật cụ thể, sao cho có thể được giải quyết ngay trong giờ học. 2.2. Xác định nhiệm vụ giờ học Giờ học Thể dục trong các trường phổ thông là hiện thân của hình thức buổi tập chính khóa. Mục đích giáo dục - giáo dưỡng chung của các giờ học này đã được xác định trong chương trình môn học Thể dục, mục đích chung đó được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ của các giờ học. Tất nhiên chỉ có thể đạt được mục đích khi đã giải quyết có kết quả nhiệm vụ của mỗi giờ học. Nhiệm vụ trọng tâm của các giờ học TDTT là trang bị tri thức chuyên môn, hình thành kỹ năng kỹ xảo vận động cần thiết cho cuộc sống. Đó là sự khác biệt cơ bản của buổi tập chính khóa với các hình thức tập luyện khác. Tuy xu hướng giáo dưỡng có ý nghĩa hàng đầu trong giờ học Thể dục nhưng không vì thế mà coi nhẹ hiệu quả sức khỏe và giáo dục của giờ học. Chính thông qua giải quyết nhiệm vụ giáo dưỡng bằng bài tập thể lực mà đạt được hiệu quả sức khỏe và giáo dục cần thiết. 2.3. Phương pháp điều chỉnh lượng vận động trong giờ học thể dục Điều chỉnh lượng vận động là thay đổi hợp lý cường độ và khối lượng vận động trong buổi tập. Nhìn chung, vấn đề hợp lý hóa lượng vận động không chỉ giới hạn trong định liều lượng trong các bài tập thể lực. Ngoài tập luyện thể lực, 4
  5. các thành phần khác như giảng bài, làm mẫu, tổ chức người tập … cũng gây những tác động nhất định tới cơ thể học sinh. Như vậy lượng vận động giờ học còn bao gồm những tác động của các thành phần kể trên. Trong mọi trường hợp, giáo viên GDTC phải cố gắng tạo cho giờ học một lượng vận động lớn nhất cho phép. Trong đó, đảm bảo mật độ chung tối đa có ý nghĩa quyết định. Mật độ chung giờ học là tỷ lệ giữa thời gian hữu ích và tổng thời gian giờ học. Thời gian sử dụng vào các hoạt động sau đây trong giờ học được coi là hữu ích: thời gian học sinh tự giác tư duy về sự giảng giải, làm mẫu, chỉ dẫn của thầy giáo; phân tích động tác của mình hoặc của bạn; thực hiện bài tập và nghỉ cần thiết; các hoạt động phụ trợ (chuyển vị trí tập luyện, xếp hàng, xếp đặt dụng cụ tập luyện ....) Thời gian vô ích lãng phí là bắt đầu giờ học muộn và kết thúc sớm; chờ lượt lâu do thiếu dụng cụ; mất nhiều thời gian chấn chỉnh tổ chức - kỷ luật của học sinh; ngừng tập do hỏng dụng cụ tập luyện... Về nguyên tắc, nếu phương pháp tổ chức quá trình dạy học - giáo dục hợp lý sẽ hạn chế mức lãng phí thời gian vô ích. Muốn nâng cao mật độ chung giờ học phải tìm cách giảm tới mức tối thiểu thời gian chờ lượt và thời gian dành cho các hoạt động phụ: định trước đường di chuyển ngắn nhất cho người tập; tránh sắp xếp và di chuyển đội hình không cần thiết; phân công trực nhật thu dọn dụng cụ tập luyện. Phải cố gắng đạt tới mật độ chung 100% và phần lớn thời gian dùng vào thực hiện bài tập. Mật độ vận động giờ học là tỷ lệ giữa thời gian dành cho trực tiếp thực hiện bài tập và thời gian chung của giờ học. Mật độ vận động là một trong các chỉ số phản ánh hiệu quả giờ học. Vì vậy, trong mọi trường hợp, phải đạt tới mật độ vận động với độ lớn tối đa cho phép. Mặt khác, không nên đánh giá quá mức ý nghĩa của mật độ vận động. Bởi lẽ, điểm cốt yếu của giờ học là chất lượng giải quyết nhiệm vụ giáo dục giáo dưỡng. Chính điều đó đòi hỏi thời gian thoả đáng cho giải thích, làm mẫu và nhiều chi tiết khác không liên quan trực tiếp tới vận động cơ bắp. Kỹ năng sử dụng tốt thời gian cho giảng giải, làm mẫu và tập luyện là điều kiện căn bản của phương pháp tổ chức giờ học hợp lý. Giáo viên có kinh nghiệm thường giảng giải trực tiếp ngay trong quá trình học sinh thực hiện bài tập. Mỗi buổi tập đều có lượng vận động tối đa cho phép. Trong mọi trường hợp, lượng vận động phải được xác định tùy thuộc vào lứa tuổi, giới tính, trình độ thể lực và nhiệm vụ cụ thể của giờ học. Để nâng cường độ chung của giờ học, giáo viên cần nắm vững các phương pháp tổ chức tất các loại hoạt động trong giờ học. Thí dụ, gắn nhiệm vụ giáo dục - giáo dưỡng vào các hoạt động phụ trợ; gắn ngay hoạt động sắp xếp và thu dọn dụng cụ tập luyện, giảng dạy kỹ năng mang vác với giáo dục kỹ năng hợp tác hoạt động trong tập thể; di chuyển và thay đổi đội hình bằng chạy hoặc ngược lại dùng di chuyển và thay đổi đội hình vào mục đích nghỉ ngơi tích cực; giao nhiệm vụ cho học sinh trong thời gian chờ đến lượt tập phải quan sát, phân tích, đánh giá lần tập của bạn hoặc tự thực hiện bài tập bổ trợ đơn giản. Lượng vận động của bài tập thể 5
  6. lực có thể được điều chỉnh bằng trực tiếp và gián tiếp. Thủ pháp điều chỉnh trực tiếp thường là chỉ dẫn về số lần lặp lại tốc độ, trọng lượng và nhiều thông số động tác khác. Thủ pháp điều chỉnh gián tiếp có thể là: thay đổi điều kiện bên ngoài (thí dụ, chạy lên dốc hoặc đường bằng phẳng; tiến hành giờ học trên sân hẹp hoặc đúng quy cách; thực hiện bài tập trên độ cao hoặc ở mặt đất); thay đổi phương pháp thực hiện bài tập (thí dụ, áp dụng phương pháp thi đấu làm tăng cường độ hoạt động). 2.4. Vị trí của giáo viên, học sinh và dụng cụ tập luyện. Với đặc thù môn thể dục thì vị trí đứng của giáo viên, học sinh cũng như dụng cụ tập có vai trò rất quan trọng trong việc giảng dạy và ôn luyện, việc tổ chức hoạt động về mặt không gian trong giờ học ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tri giác, thị giác và thính giác, chất lượng kiểm tra thực hiện bài tập và hiệu quả hoạt động của giáo viên. Phân bố vị trí giữa giáo viên, học sinh và dụng cụ tập được coi là hợp lý khi đáp ứng được những yêu cầu sau: Thứ nhất, đảm bảo cho giáo viên và học sinh có thể nhìn và nghe thấy rõ tất cả những gì diễn ra cần thấy trong giờ học. Thứ hai, phù hợp với quy tắc vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng. Thứ ba, loại trừ khả năng xảy ra chấn thương. Phân bố vị trí hợp lý trong giờ học còn là điều kiện tốt để giáo dục ý thức kỷ luật và tinh thần tập thể cho học sinh. 2.5. Phương pháp tổ chức hoạt động của người tập. Nhiệm vụ học tập do giáo viên đề ra có thể được thực hiện theo hình thức đồng loạt, nhóm hoặc cá nhân. Mỗi hình thức đều có ưu và nhược điểm. Thí dụ, tổ chức hoạt động của học sinh đồng loạt tạo ra khả năng bao quát và điều khiển hoạt động của tất cả lớp học. Nhưng việc đối đãi cá biệt lại bị hạn chế. Ngược lại, sử dụng hình thức nhóm và cá nhân thì khả năng đối đãi cá biệt cho cá nhân hoặc nhóm cá nhân được tăng cường, nhưng khả năng bao quát toàn bộ học sinh lại bị hạn chế. Tùy thuộc vào mức độ mới lạ và phức tạp của bài tập, trang thiết bị vật chất, lứa tuổi, trình độ chuẩn bị người tập và những điều kiện khác mà mỗi hình thức thể hiện ưu thế của mình. Nói chung trong các giờ học chính khóa, người ta thường sử dụng tổng hợp, cả ba hình thức tổ chức hoạt động kể trên. Trong phần chuẩn bị, hoạt động của học sinh thường đồng loạt. Trong phần cơ bản, học sinh tập theo nhóm hoặc cá nhân. Phần kết thúc thường lại được tổ chức theo hình thức đồng loạt. Một trong những vấn đề quan trọng của phương pháp tổ chức hoạt động của học sinh còn là trình tự thời gian thực hiện bài tập. Trong giờ học, nhiệm vụ có thể được học sinh thực hiện đồng thời theo thứ tự, liên tục (băng chuyền) hoặc cách quãng. Nét đặc trưng trong thực hiện bài tập theo phương pháp băng chuyền là không có quãng ngắt. Thí dụ, trong phần chuẩn bị 6
  7. của giờ học, các bài tập thể dục phát triển chung được sắp xếp sao cho tư thế kết thúc của bài tập trước lại là tư thế khởi đầu của bài tập sau. Điều đó cho phép thực hiện liên tục tự nhiên một loạt bài tập. Hoặc trong điền kinh, bài tập nhảy xa có đà được tổ chức thực hiện sao cho khi người thứ nhất dậm nhảy thì người thứ hai bắt đầu chạy đà, người thứ ba vào tư thế chuẩn bị, người thứ tư từ hố nhảy trở về vị trí chạy đà. Tổ chức thực hiện bài tập liên tục tạo ra mật độ vận động lớn hơn so với phương pháp ngắt quãng. Nhưng về mặt giáo dưỡng, phương pháp này lại kém hiệu qủa hơn. Không có thời gian dùng trong thực hiện bài tập sẽ gây khó khăn cho giải thích, phân tích động tác và sử dụng các phương pháp dạy học khác. Việc lựa chọn phương pháp thực hiện bài tập trong giờ học tùy thuộc vào nhiệm vụ và tính mới lạ của nội dung học tập. Thí dụ, khi làm quen động tác hoặc học sâu từng phần thì sử dụng phương pháp ngắt quãng, còn khi hoàn thiện kỹ xảo hoặc phát triển tố chất thể lực thì dùng phương pháp liên tục. Một trong những hình thức tổ chức hoạt động trong buổi tập có hiệu quả, đảm bảo mật độ chung và mật độ vận động cao là hình thức tập luyện vòng tròn. Hình thức này được sử dụng rộng rãi trong các giờ học Thể dục chính khóa, trong tập luyện ngoại khóa. Tập luyện tuần hoàn là một hình thức tổ chức phương pháp đặc biệt, được sử dụng chủ yếu trong giáo dục tố chất thể lực. Nội dung kiểu tập luyện này thường bao gồm các bài tập quen thuộc, có tác động chọn lọc tới các nhóm cơ và chức năng riêng biệt. Các bài tập này thường được lấy từ thể dục cơ bản hoặc các bài tập bổ trợ. Như vậy, tập luyện này có tác dụng nâng cao mật độ vận động buổi tập. Đồng thời, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, kiểm tra và điều chỉnh lượng vận động, kích thích học sinh tham gia lập kế hoạch và điều chỉnh lượng vận động, cũng như hiểu khả năng khác để tổ chức có hiệu quả quá trình GDTC. 2.6. Bảo hiểm và giúp đỡ học sinh Khi tiến hành giờ học cần đặc biệt chú trọng tới phòng ngừa chấn thương. Các biện pháp cơ bản được áp dụng trong giờ học để phòng ngừa chấn thương gọi là bảo hiểm. Trước hết, hiệu quả bảo hiểm phụ thuộc vào sự tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc dạy học và giáo dục. Nêu cao tinh thần tự giác, tích cực của học sinh; đảm bảo tính hệ thống của các buổi tập, vừa sức của nội dung học tập là điều kiện kiên quyết để phòng ngừa chấn thương. Bảo hiểm theo nghĩa hẹp là các biện pháp trực tiếp đề phòng trượt, ngã, chấn động mạnh, cảm giác đau … Các biện pháp đó bao gồm: động tác bảo hiểm của giáo viên, phương tiện bảo hiểm và tự bảo hiểm. Cần đặc biệt chú trọng khâu bảo hiểm khi tập luyện các động tác nguy hiểm, dễ gây chấn thương. 2.7. Công việc chuẩn bị cho giờ học của giáo viên. Tổ chức tiến hành giờ học Thể dục là một hoạt động phức tạp. Vì vậy, để đạt được chất lượng giờ học cao, giáo viên cần chuẩn bị trước và chu đáo về các mặt: 7
  8. 1. Xác định nhiệm vụ giờ học 2. Lập kế hoạch cụ thể cho giờ học 3. Chuẩn bị trước trang bị vật chất cần thiết Các công việc chuẩn bị trên có liên quan mật thiết với nhau. Đồng thời, mỗi việc đều đòi hỏi công nghệ riêng biệt. Xác định nhiệm vụ giờ học có nghĩa là làm sáng tỏ vị trí của nó trong hệ thống các giờ học và hình dung được tương đối đủ kết quả giờ học. Muốn vậy, cần phải phải căn cứ vào tiến trình biểu. Song, diễn biến thực tế của quá trình dạy học - giáo dục luôn đặt ra yêu cầu điều chỉnh như kế hoạch. Vì vậy, mỗi lần xác định nhiệm vụ giờ học cần phân tích kết quả giờ học trước, tính toán lượng thời gian còn lại cho các giờ học. Chỉ có như vậy mới đảm bảo được tính kế thừa cần thiết của các giờ học. Độ chuẩn xác của việc xác định nhiệm vụ giờ học và trật tự giải quyết chúng phụ thuộc cơ bản vào kinh nghiệm và năng lực sáng tạo của giáo viên. Nhưng cũng không nên đánh giá quá cao kinh nghiệm cá nhân, bởi vì chỉ có nỗ lực tập thể mới nhận thức được sâu sắc và toàn diện quá trình dạy học - giáo dục. Nội dung tiếp theo của công việc chuẩn bị cho giờ học là lập kế hoạch cụ thể của giờ học. Lập kế hoạch cho giờ học được bắt đầu từ xác định trình tự giải quyết hợp lý các nhiệm vụ giờ học. Giảng dạy nội dung mới đòi hỏi học sinh tập trung chú ý cao độ và ở vào trạng thái hoạt động thể lực tối ưu, vì vậy nhiệm vụ này cần phải được giải quyết trong phần cơ bản của giờ học. Các nhiệm vụ tương đối đơn giản nên xếp vào phần chuẩn bị và phần kết thúc. Bước thứ hai trong soạn giáo án là xác định nội dung phần cơ bản. Bước này bao gồm các công việc: xác định trình tự thực hiện và lượng vận động của mỗi bài tập; định phương pháp giảng giải, chỉ dẫn người tập, xác lập sơ đồ tổ chức trong thực hiện bài tập. Tất cả những điều nêu trên đều được ghi vào giáo án. Khi dự kiến bài tập cơ bản cần đồng thời lựa chọn các bài tập bổ trợ cho nó. Cuối cùng, phải xác lập được tổ hợp bài tập theo trình tự hợp lý. Xây dụng xong phần cơ bản mới chuyển sang bước lập kế hoạch cho phần chuẩn bị và phần kết thúc của giờ học. Như vậy, các phần phụ của giờ học chịu sự chi phối trực tiếp, phục vụ cho phần cơ bản. Cũng như lập kế hoạch phần cơ bản, kế hoạch hai phần phụ này cũng phải rất cụ thể về hình thức giải quyết nhiệm vụ, phương pháp tổ chức hoạt động người tập, sắp xếp vị trí và di chuyển đội hình trên sân tập. Thao tác cuối cùng của soạn giáo án là đề ra nhiệm vụ về nhà cho học sinh. Trước giờ học, giáo viên phải chuẩn bị địa điểm và thực hiện thử các bài tập (nếu thấy cần). Công việc chuẩn bị địa điểm tập thường được giao cho học sinh, nhưng không vì thế mà giáo viên không kiểm tra. Thực tế cho thấy, đa số các trường hợp phải gián đoạn buổi tập hoặc chấn thương là do chuẩn bị địa điểm tập không chu đáo. 3. Về tính tích cực học tập của học sinh. 3.1. Khái niệm tính tích cực học tập thể dục. 8
  9. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm sống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập đạt từ cấp độ thấp lên cao như: - Bắt chước: Gắng sức làm theo những động tác của thầy, của bạn, … - Tìm tòi: Độc lập giải quyết nhiệm vụ hoạt động, bài tập được giao, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập, … - Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo hữu hiệu … Tính tích cực học tập môn thể dục: Là hoạt động tự giác gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập - rèn luyện. 3.2. Những biểu hiện cơ bản của tính tích cực học tập Thứ nhất: Là khả năng linh hoạt để đáp ứng lại những tình huống khác nhau trong đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kiểm tra kết quả giải quyết vấn đề. Thứ hai: Là tính tích cực học tập được biểu hiện ở nhu cầu, đặc biệt ở sự hứng thú sâu sắc với việc học tập và đối tượng nhận thức. Thứ ba: Là tính tích cực học tập biểu hiện bằng những hành động ý chí trong quá trình học tập. Thứ tư: Là tính tích cực học tập tạo nên khả năng hiện thực nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học. 3.3. Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực trong dạy học môn thể dục - Những đặc trưng cơ bản của nhóm phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của người học * Đặc trưng thứ nhất: Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh là phương pháp hướng vào việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức của người học được tiến hành dựa trên cơ sở kích thích nhu cầu hứng thú học tập để người học tự giác, tự lực tiến hành các hoạt động tìm tòi, lĩnh hội tri thức, từ đó hình thành các kĩ năng, kĩ xảo. Các hoạt động đó được giáo viên lựa chọn, thiết kế và tổ chức cho học sinh thực hiện. Đặc trưng này quy định và đề cao vai trò tổ chức, chỉ đạo của người giáo viên trong quá trình dạy học. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau: - Giáo viên không đóng vai trò truyền thụ kiến thức đơn thuần bằng thuyết trình giảng giải để học sinh nhớ thụ động mà là xây dựng cho học sinh phương pháp học tập sáng tạo. 9
  10. - Đòi hỏi lao động sư phạm của giáo viên rất công phu để tổ chức cho mỗi học sinh đều hoạt động, xử lý nhiều tình huống sư phạm phức tạp. - Tạo cho học sinh thói quen năng động trong học tập, tư duy sáng tạo và óc phê phán. - Làm cho người học nắm được chương trình dạy học. Về nguyên tắc, nội dung học tập, người học sinh phải tự kiểm soát được. * Đặc trưng thứ hai: Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của người học là nhóm phương pháp hướng vào phát triển năng lực tự học, tự tìm tòi sáng tạo của người học sinh. Khi dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực của người học, giáo viên cần thực hiện vai trò dẫn dắt học sinh, làm sao cho học sinh tự lực tìm tòi kiến thức và hình thành được phương pháp học tập phù hợp. Một quá trình học tập được tiến hành như vậy sẽ làm cho học sinh vừa học được kiến thức, vừa học được phương pháp nhận thức. Trong quá trìn đó, học sinh phải học một cách tích cực bởi vì “Cách học tốt nhất để hiểu là làm” , học để hành, hành để học, học đi đôi với hành. * Đặc trưng thứ ba: Phương pháp phát huy tính tích cực học tập của người học khai thác tập thể học sinh như một môi trường, một phương tiện để dạy học. Học sinh thực hiện hoạt động học tập trong một tập thể với sự hợp tác chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau. Thực tế chứng minh rằng tri thức của mỗi người có giới hạn, để mở rộng giới hạn đó thì việc học tập cá nhân đó cần được kết hợp với sự hợp tác khám phá tri thức trong tập thể theo tinh thần “học mọi người, mọi lúc, mọi nơi, mọi nội dung và bằng mọi cách”. Đó cũng chính là một biểu hiện của xã hội trong học tập. * Đặc trưng thứ tư: Cũng theo các nhà lý luận dạy học thì dạy học theo phương phát huy tính tích cực của người học cần được tổ chức trên cơ sở thiết kế bài dạy thành các tìn huống dưới dạng bài tập nhận thức. Trọng tâm giảng dạy của giáo viên là dàn dựng ra các tình huống, tổ chức cho học viên giải quyết các tình huống, thực hiện cơ chế tự hình thành kiến thức. Giữa các nội dung vừa có tư cách là đối tượng nhận thức vừa là động cơ, nhu cầu nhận thức của học sinh thì cần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu nội dung học tập được thiết kế dưới dạng khái niệm, quy luật có sẵn thì quá trình dạy học sẽ được thực hiện theo cơ chế chuyển tải. Còn cơ chế hình thành kiến thức đòi hỏi giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động để tự chiếm lĩnh tri thức. Đây là cơ chế rất thích hợp dối với quá trình giảng dạy môn Thể dục ở các trường THPT vì nó giúp cho học sinh rèn luyện được phẩm chất tư duy cần thiết cho học tập và cuộc sống trong xã hội hiện đại 10
  11. * Đặc trưng thứ năm: Dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực của người học cần khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, trong đó quan trọng nhất là công nghệ thông tin và máy tính điện tử. 3.4. Về tính tích cực vận động Tính tích cực vận động thể hiện ở lượng vận động (LVĐ) và cường độ của chế độ vận động, ngoài ra còn có các yếu tố chủ động và sáng tạo của học sinh. Tính tích cực vận động của học sinh trong tập luyện TDTT thường được thể hiện qua hoạt động tự giác gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập rèn luyện. Nó bắt nguồn từ thái độ học tập tốt, sự cố gắng nắm được những kĩ năng, kĩ xảo vận động cùng hiểu biết có liên quan, phát triển các phẩm chất về thể lực và tinh thần … Nhất định cùng khắc phục khó khăn trên con đường đó. Tính tích cực vận động trong học tập môn thể dục là sự nỗ lực, cố gắng xuất phát từ động cơ bên trong (ý thức) lẫn bên ngoài (hành vi) hăng hái tham gia vào các hoạt động tập luyện, cố gắng tập luyện nhằm thực hiện được và tốt những yêu cầu về kĩ năng, kĩ xảo môn thể thao lựa chọn. 4. Nhiệm vụ và đặc điểm dạy học kỹ thuật môn Thể dục cho học sinh THPT 4.1. Nhiệm vụ dạy học môn Thể dục học sinh THPT Tạo vốn vận động là cơ sở cho các hoạt động thể lực trong cuộc sống cũng như trong sản xuất và chiến đấu. Dùng làm các bài tập dẫn dắt như các phương tiện để tác động có chủ đích đến sự phát triển các năng lực thể chất. Hình thành và đạt đến mức độ hoàn thiện cần thiết các kỹ năng, kỹ xảo trong một số môn Thể thao cơ bản, cần thiết cho cuộc sống, sản xuất và các lĩnh vực khác. Tăng tiến thể lực, hướng tới từng người học, phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếuT tiến thể lực, hướng tới từng 4.2. Đặc điểm dạy học kỹ thuật môn Thể dục ở bậc THPT Về đặc điểm dạy học các môn thể thao cho học sinh ở bậc THPT phụ thuộc vào đặc điểm, mức độ yêu cầu các tố chất thể lực khi thực hiện chúng. Trong giảng dạy môn thể dục, nhìn chung đòi hỏi học sinh phải có sức mạnh, sức nhanh và sức bền, vì vậy việc dạy học động tác càng cần phải gắn với việc giáo dục các tố chất thể lực tương ứng. Do nội dung và yêu cầu về kỹ thuật đối với môn thể dục ở bậc THPT chủ yếu gồm các môn Điền kinh, Cầu lông, Đá cầu... Đó là các môn thể thao có kỹ thuật không quá phức tạp song lại đòi hỏi phải có thể lực nhất định. Bởi vậy, đi đôi với tập luyện kỹ thuật cần phải tập luyện phát triển cả thể lực chung và thể lực chuyên 11
  12. môn. Khi thể lực tăng lên sẽ làm biến dạng kỹ thuật, lúc này đỏi hỏi phải có sự đổi mới về kỹ thuật, hoàn thiện kỹ thuật và đạt trình độ mới hoàn toàn hơn. Tóm lại, quá trình dạy học kỹ thuật Thể thao nói chung và dạy học môn Thể dục nói riêng cần nắm chắc tính chất và đặc điểm của dạy học kỹ thuật để lựa chọn phương pháp và các bài tập phù hợp, làm cho tính khoa học trong tập luyện và hiệu quả học tập của học sinh tốt hơn. 5. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi 16-18 có liên quan đến việc ứng dụng phương pháp giảng dạy phát huy tính tích cực của người học Do phát triển mạnh mẽ về thể lực mà các em ở độ tuổi này đã có nhu cầu chơi thể thao. Người giáo viên cần phải bằng mọi cách khuyến khích nhu cầu đó của các em bằng cách tự bản thân các em tham gia chơi các môn thể tao mà các em yêu thích, hướng dẫn các em chơi thể thao. Nên hướng các em vào những nhà thể thao có uy tín. Các em luôn tôn vinh các thần tượng, ngôi sao thể thao, từ đó xây dựng cho các em ý tưởng, ước mơ. Hoạt động tâm lý ở lứa tuổi thiếu niên còn chịu ảnh hưởng của nhân tố bên trong và bên ngoài. Nhân tố bên trong thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố mà nguyên nhân chủ yếu do các hoóc môn, tuyến nội tiết tố tăng cường đã ảnh hưởng đến hệ thần kinh nên sự cân bằng giữa các quá trình hưng phấn và ức chế ở vỏ bán cầu đại não của các em dễ bị phá vỡ, làm cho hành vi của các em thiếu tính cân bằng. Những ảnh hưởng mang tính tích cực sẽ tạo ra những yếu tố tích cực sau: - Tăng thêm lòng ham muốn, khát vọng, bản năng và nhu cầu sinh tồn. - Tăng cường lòng ham muốn học tập người khác, nhất là người lớn. - Tăng cường các yếu tố tình cảm chung. - Tăng thêm niềm tin và sự hiếu thắng. - Coi trọng quan điểm về giá trị. Ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài chính là sự cuốn hút của môi trường xung quanh, nếu môi trường xung quanh tốt thì sẽ cuốn hút các em, chịu ảnh hưởng tốt và pát triển tốt. Ngược lại, môi trường xung quanh không tốt thì sẽ cuốn hút các em vào những hoạt động xấu, các em sẽ phát triển theo hướng xấu đi. Chính vì vậy, cần phải tạo ra những ảnh hưởng tốt bằng các hoạt động như: Tăng cường tập luyện và thi đấu Thể thao, sẽ tạo ra khát vọng thành nhà vô địch thể thao, khát vọng giành chiến thắng trong thể thao và trong mọi công việc học tập sinh hoạt khác. 12
  13. II. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu. Để giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau: 1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. Đây là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Trong phạm vi của đề tài này, tôi tìm hiểu các vấn đề liên quan tới tính tự giác, tích cực cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới tính tự giác tích cực của học sinh khi học môn thể dục. Qua đó phân tích và lựa chọn các biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh. Trong đề tài tôi đã tiến hành tham khảo nhiều tài liệu bao gồm các văn kiện của Đảng và Nhà nước về TDTT, các chỉ thị, thông tư, các chế độ, chính sách đối với TDTT, các hồ sơ lưu trữ về TDTT ..... Các tài liệu trên được trình bày ở phần “Danh mục tài liệu tham khảo”. 1.2. Phương pháp phỏng vấn. Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập các tư liệu nghiên cứu thông qua phỏng vấn gián tiếp bằng phiếu hỏi các khách thể nghiên cứu. Các lĩnh vực mà đề tài quan tâm là: Làm thế nào để nâng cao tính tự giác tích cực trong giờ học thể dục? Tôi đã tiến hành phỏng vấn hai đối tượng: Các chuyên gia trong ngành, các giáo viên TDTT, các cán bộ có liên quan trực tiếp đến phong trào TDTT trong và ngoài nhà trường Nội dung phỏng vấn thuộc các vấn đề: - Lựa chọn tiêu chí đánh giá tính tích cực học tập của học sinh. - Lựa chọn tiêu chí đánh giá thể chất cho học sinh THPT. - Lựa chọn các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh. 1.3. Phương pháp quan sát sư phạm Trong đề tài này, phương pháp quan sát sư phạm được tiến hành trực tiếp ngay tại trường. Thông qua phương pháp quan sát sư phạm để đánh giá tính tích cực, tự giác, hay thụ động, thờ ơ của học sinh trường trong giờ học chính khoá. Kết quả của phương pháp này là những cơ sở thực tiễn để đề xuất, lựa chọn, nghiên cứu các biện pháp hợp lý và cần thiết. 1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm Phương pháp này được sử dụng trong giai đoạn nghiên cứu ban đầu và giai đoạn thực nghiệm(TN) sư phạm để kiểm tra đánh giá thể lực chung của đối tượng nghiên cứu bao gồm: sức nhanh, sức mạnh, sức bền,. Các Test mà đề tài sẽ sử dụng 13
  14. chủ yếu được lựa chọn từ bộ tiêu chuẩn đánh giá thể lực áp dụng mới nhất cho học sinh. + Chạy 30m XPC (giây): Nhằm đánh giá sức nhanh. + Bật xa tại chỗ (cm): Nhằm đánh giá sức mạnh tốc độ chân. + Nằm ngửa gập bụng (lần/30 giây): Nhằm đánh giá sức mạnh bền. + Chạy tuỳ sức 5 phút (m): Nhằm đánh giá sức bền chung. 1.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm. Được tiến hành với mục đích kiểm tra hiệu quả ứng dụng nhóm phương pháp dạy học phát huy tính tích cực học tập nhằm nâng cao kết quả học tập môn Thể dục cho học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách Quá trình thực nghiệm được triển khai song song giữa hai nhóm. Đối tượng gồm 2 nhóm Thực nghiệm và Đối chứng. Tổng cộng gồm 255 học sinh (trong đó 125 H/S Nam; 130 H/S Nữ; 87 h/s lớp 10; 86 h/s lớp 11; 82 hs lớp 12) và được chia thành hai nhóm: + Nhóm thực nghiệm (nhóm A): Gồm 128 H/S: 44 h/s khối 10(21 nam và 23 nữ) 43 H/S lớp 11 (22 nam; 21 nữ) 41 H/S lớp 12 (21 nam và 20 nữ) + Nhóm Đối chứng (nhóm B): Gồm 127 H/S: 43 h/s khối 10(23 nam và 20 nữ) 43 H/S lớp 11 (22 nam; 21 nữ) 41 H/S lớp 12 (20 nam và 21 nữ). 2. Đánh giá thực trạng tính tích cực của học sinh trong giờ học chính khóa môn thể dục Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 2.1. Xác định tiêu chí đánh giá tính tích cực học tập của học sinh Để có thể xác định được các tiêu chí đánh giá tính tích cực học tập của học sinh, tôi đã đọc và tham khảo các sách có liên quan. Bước đầu tôi tổng hợp được 5 tiêu chí: 1. Ý thức chuẩn bị 2. Sự tập trung chú ý. 3. Tinh thần, thái độ học tập. 4. Sự chuyên cần trong tập luyện môn thể dục 5. Kết quả học tập môn Thể dục được đánh giá từ đạt trở lên. Sau khi tổng hợp được 5 tiêu chí đánh giá tính tích cực học tập của học sinh, đề tài đã tiến hành phỏng vấn giáo viên thể dục trên địa bàn Huyện Thanh Chương. Kết quả cho thấy cả 5 tiêu chí mà đề tài đã đề xuất để đánh giá tính tích cực (nhận 14
  15. thức) học tập của học sinh, đã được các giáo viên, đánh giá ở mức độ rất quan trọng đạt từ 95% đến 100%. Bởi vậy, đề tài sử dụng 5 tiêu chí này để tiến hành khảo sát thực trạng tính tích cực học tập của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 2.2. Thực trạng tính tích cực học tập môn thể dục của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách * Thực trạng tính tích cực học tập môn Thể dục của học sinh thông qua phỏng vấn GV. Để biết thực trạng tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách trong giờ học môn TD, đề tài đã tiến hành phỏng vấn 7 GV thể dục của trường. Kết quả cho biết tính tự giác tích cực trong học tập môn thể dục còn chưa cao. Tỷ lệ học sinh chưa chủ động lấy và sắp xếp dụng cụ tập luyện còn cao, từ đó cho thấy việc các em chuẩn bị tâm thế cho giờ học chưa tốt còn thờ ơ, chưa có tinh thần, thái độ học tập tốt, và sự tập trung chú ý giáo viên giảng bài chỉ chiếm trùng bình từ đó dẫn tới kết quả đạt còn thấp. Kết quả đánh giá trình độ tập luyện còn thấp chưa đạt kết quả như mong muốn,… * Thực trạng tính tích cực học tập môn TD của HS thông qua khảo sát Đề tài sử dụng các tiêu chí đánh giá tính tích cực học tập của học sinh đã được lựa chọn ở trên để tiến hành khảo sát 585 học sinh trong đó có 245 nữ và 340 nam ở các khối 10, 11, 12 của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách. Kết quả khảo sát được trình bày ở bảng sau Bảng 1. Thực trạng tính tích cực học tập của học sinh khối 10, 11, 12 trường THPT Nguyễn Sỹ Sách thông qua quan sát sư phạm. (n = 585) Khối lớp10 Khối lớp 11 Khối lớp12 TT Tiêu chí đánh giá (n = 210) (n = 200) (n = 175) n % n % n % Ý thức chuẩn bị 1 Chuẩn bị trang phục đúng quy định, chủ động 160 76.0 145 72.5 120 69.0 lấy dụng cụ và sắp xếp dụng cụ học tập trên lớp Sự tập trung chú ý 2 Chú ý lắng nghe lời giảng của giáo viên. 135 64.0 150 75.0 90 53.0 Chú ý quan sát động tác thị phạm của giáo 142 68.0 125 62.5 105 60.0 viên, của bạn. 3 Tinh thần, thái độ học tập 15
  16. Ham muốn tập luyện khi giáo viên công bố 130 62.0 115 57.5 83 47.5 nội dung buổi học. Sốt sắng khi được giao nhiệm vụ. 128 61.0 111 55.5 80 45.7 Ra sức hoàn thành bài tập giáo viên giao cho 127 61.0 109 54.5 78 44.5 ở trên lớp. Chịu khó hỏi thêm thầy về bài học. 139 66.0 128 64.0 86 49.0 Nhiệt tình giúp đỡ bạn bè trên lớp. 135 64.0 120 60.0 82 47.0 Sự chuyên cần trong tập luyện môn Thể dục. Biết tận dụng thời gian trong quá trình tập 157 75.0 128 64.0 75 43.0 luyện 4 Hết giờ học vẫn ở lại học thêm. 98 47.0 95 47.5 80 45.7 Theo dõi các thông tin có liên quan đến 189 90.0 158 90.0 150 86.0 TDTT. Tham gia hoạt động ngoại khóa 192 91.0 166 83.0 98 56.0 Kết quả học tập 5 Hoàn thành khối lượng bài tập trên lớp 179 85.0 160 80.0 122 70.0 Hoàn thành bài tập về nhà. 146 70.0 96 48.0 75 43.0 Qua kết quả trình bày ở bảng 1 cho thấy, tính tích cực học tập của học sinh thể hiện qua các tiêu chí đảm bảo giờ giấc, chăm chú lắng nghe giảng bài, chăm chỉ tập luyện với cường độ bài tập trung bình, kết quả học tập cũng như sự đánh giá của giáo viên về tinh thần thái độ học tập tốt, nhìn chung có tỷ lệ số người biểu hiện chỉ đạt được mức từ 74.28% đến 92.85%. Các khối lớp có sự chênh lệch về tỷ lệ có số người biểu hiện không lớn khoảng từ 2% đến 8%, độ lớn của sự chênh lệch đó rơi vào khối 12 là chính vì các em là năm cuối cấp. Kết quả khảo sát trên cho phép ta rút ra nhận xét tính tích cực học tập môn Thể dục của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách còn chưa cao. 2.3. Thực trạng các yếu tố chi phối tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách về môn Thể dục. 2.3.1. Cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn thể dục của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách Một yếu tố cũng rất quan trọng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng GDTC nói chung và phong trào hoạt động TDTT nói riêng đó là trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc giảng dạy và học tập trong nhà trường. Đây là điều 16
  17. kiện cần thiết, phương tiện tiến hành giờ học, là công cụ trực tiếp để giáo viên truyền đạt và học sinh tiếp thu kiến thức được dễ dàng hơn, qua đó nâng cao chất lượng giờ học. Cơ sở vật chất đầy đủ sẽ tạo hứng thú cho việc giảng dạy, học tập và tập luyện của giáo viên và học sinh. Chính vì vậy việc tìm hiểu cơ sở vật chất phục vụ cho việc nâng cao chất lượng GDTC và phong trào hoạt động TDTT của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách là việc cần được tiến hành. Đề tài tiến hành đánh giá trên hai nội dung sau: Tài liệu tham khảo và cơ sở vật chất, trang thiết bị sẵn có. Kết quả điều tra thực trạng cơ sở vật chất trường THPT Nguyễn Sỹ Sách cho thấy nhà trường cũng đã trang bị đầy đủ sách luật thể thao của các môn thể thao cơ bản. Đó là điều kiện tốt để quá trình dạy và học có thể đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên tài liệu tham khảo vẫn còn hạn chế, đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu trong hoạt động thể thao của nhà trường. Bên cạnh những hạn chế về phương tiện phục vụ cho việc dạy và học thì vấn đề vật chất, dụng cụ cho việc giảng dạy, tập luyện cũng đặt ra những yêu cầu cấp bách cần được giải quyết đó là cơ sở vật chất và dụng cụ tập luyện vẫn còn hạn chế: Do diện tích, khoảng trống của nhà truờng không nhiều và yêu cầu để xây dựng sân điền kinh, sân bóng đá phải rộng nên nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu về sân bóng đá và sân điền kinh. Bên cạnh đó dụng cụ tập luyện ít, không đủ cho học sinh tập luyện…Việc giảng dạy môn thể dục chủ yếu diễn ra tại sân trường, vì ảnh hưởng đến giờ học của các lớp khác nên không thể tạo được không khí học tập, tập luyện; đối với các nội dung chạy phải sử dụng đường chạy quanh khu vực trường. Tuy nhiên với những cơ sở vật chất như trên có thể thấy đây là những cơ sở ban đầu mà nhà trường đã có sự quan tâm cố gắng rất nhiều, tạo sân chơi đa dạng cho các em. Như vậy thực trạng cơ sở vật chất ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách chưa đáp ứng được nhu cầu tập luyện của học sinh, số lượng và chất lượng chưa cao. Do vậy đòi hỏi cần phải có sự quan tâm đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị tập luyện để tạo được sân chơi lành mạnh, bổ ích cho học sinh. 2.3.2 Nguyên nhân ảnh hưởng tới tính tích cực học tập của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách Đa số các em học sinh của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách đều xuất phát từ nông thôn, ngoài giờ học các em còn phải lao động giúp gia đình, do đó các em không có thời gian tham gia các hoạt động tập luyện ngoại khóa do trường, lớp tổ chức. Bên cạnh đó nhà trường cũng không đáp ứng được nhu cầu về cơ sở vật chất, dụng cụ tập luyện, một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa để thu hút sự chú ý, tạo hứng thú tập luyện cho các em. Để tìm hiểu nguyên nhân ảnh hưởng, tác động trực tiếp tới tính tích cực học tập môn học thể dục của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, trước hết đề tài 17
  18. tiến hành phỏng vấn 07 giáo viên của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, về các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng môn học thể dục và phong trào tập luyện TDTT. Kết quả như sau 1. Phía nhà trường có 4 yếu tố sau: - Nhà trường chưa thực sự quan tâm, còn xem nhẹ môn TD - Nhận thức của cán bộ, giáo viên, học sinh về thể dục trong nhà trường chưa đúng - Cơ sở vật chất phục vụ tập luyện chưa tốt - Môn TD chưa coi trọng như những môn học khác. 2. Phía giáo viên dạy môn TD có 5 yếu tố sau: - Phương pháp và hình thức giảng dạy chưa đa dạng - Năng lực thị phạm của giáo viên chưa tốt - Giáo viên không thường xuyên động viên, giáo dục HS - Giáo viên TD đôi khi chưa được coi trọng như GV những môn học khác - Giới thiệu kiến thức về TDTT còn ít 3. Phía học sinh có 4 yếu tố sau: - Nhận thức của học sinh về giờ học TD chính khoá không đúng - Không có tính tích cực với bản thân môn học. - Điểm môn TD không được tính vào điểm trung bình học tập - Chưa ý thức được tác dụng của môn học Khi phỏng vấn 07 giáo viên giảng dạy môn thể dục của nhà trường thì 100% giáo viên đồng ý với các nguyên nhân đó là kinh phí cho hoạt động TDTT còn hạn hẹp và các hoạt động TDTT ngoại khóa chưa được phát triển mạnh mẽ. Do diện tích quỹ đất của nhà trường còn ít nên chưa xây dựng được sân bãi phục vụ cho nhu cầu tập luyện của các em học sinh, bên cạnh đó kinh phí dành cho hoạt động TDTT còn hạn hẹp, do vậy đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập và giảng dạy trong nhà trường. Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu tập luyện của các em, ngoài ra đa số giáo viên và học sinh đều xuất thân từ nông thôn nên ngoài thời gian học tập trên lớp các em còn phải tham gia phụ giúp gia đình, do vậy nhà trường chưa sắp xếp được thời gian và lịch tập luyện ngoại khóa phù hợp cho các em. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng môn học thể dục và sự phát triển phong trào tập luyện TDTT của nhà trường. 3. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập môn thể dục cho học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 18
  19. 3.1. Căn cứ đề xuất biện pháp 1. Dựa trên quan điểm đường lối của Đảng, nhà nước về công tác giảng dạy môn thể dục trường học, chiến lược phát triển con người toàn diện đã được quán triệt trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết... 2. Căn cứ vào chương trình môn thể dục cho học sinh được Bộ GD & ĐT ban hành theo chủ trương đường lối của Đảng. 3. Căn cứ vào thực trạng công tác dạy và học thể dục và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ cho môn học. 4. Dựa trên cơ sở lý luận, khoa học nhằm xây dựng các biện pháp phát huy tính tích cực của các em học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 5. Dựa vào điều kiện đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí, đội ngũ giáo viên giảng dạy môn thể dục của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách. 3.2. Nguyên tắc lựa chọn các biện pháp. * Đảm bảo mục tiêu đào tạo. Trang bị những tri thức cơ bản về môn thể dục: Phát triển các năng lực về phương pháp, năng lực phê phán: Phát triển năng lực giao tiếp và sử dụng tri thức, Bồi dưỡng những giá trị xã hội ,văn hóa thẩm mĩ. Mặt khác với mục đích nâng cao thể chất cho học sinh phổ thông thì mục tiêu cần đạt được thể hiện ở việc hướng về mục tiêu rèn luyện thân thể chất, dạy cho các em biết phương pháp tự tập luyện, làm cho học sinh tiếp cận với các yêu cầu kỹ thuật học trên lớp vào thực tiễn. Phải chú ý tới cái mới của chương trình không chỉ đơn thuần học các kĩ thuật cơ bản đơn thuần mà cần học kỹ thuật để áp dụng vào thi đấu... * Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học. Biện pháp được lựa chọn phải cập nhật với những tiến bộ khoa học công nghệ, sát thực với đời sống, phù hợp với trình độ nhận thức của người học trong từng giai đoạn, gắn bó với thực tế của đất nước, tích hợp được nhiều mặt giáo dục trong từng nội dung, nâng cao chất lượng thực hành vận dụng theo từng đối tượng học sinh. * Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất. Các biện pháp đảm bảo tính thống nhất qua việc xác định mục tiêu nội dung , định hướng biện pháp, phương pháp giảng dạy theo trình độ học sinh phổ thông, theo đặc điểm môn học. Có ý nghĩa là sự thống nhất được thể hiện ngay từ mục tiêu đào tạo trình độ chuẩn của chương trình trong dạy học và kiểm tra đánh giá. 19
  20. Các biện pháp phù hợp với yêu cầu thực tiễn của xã hội, phù hợp trình độ khoa học và công nghệ của nền sản xuất hiện đại. * Nguyên tắc đảm bảo tính cần thiết và khả thi. Các biện pháp phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phải đáp ứng giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn. Các biện pháp không đòi hỏi những điều kiện vượt quá sự cố gắng và khả năng của đông đảo giáo viên, học sinh..Tuy nhiên tính khả thi phải được đặt trong mối tương quan giữa trình độ giáo dục cơ bản của Việt Nam và các nước phát triển trong khu vực. * Nguyên tắc đảm bảo tính sư phạm. Các biện pháp đặt ra phải tạo điều kiện cho việc tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào các hoạt động học tập tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh với tổ chức và hướng dẫn đúng mức của giáo viên góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. 3.3. Lựa chọn biện pháp phát huy tính tích cực học tập môn thể dục của học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách Để lựa chọn biện pháp nâng cao tính tích cực trong học tập môn TD cho học sinh đề tài đã tham khảo các tài liệu có liên quan, dựa vào nguyên tắc và cơ sở xây dựng biện pháp; vào nguyên nhân ảnh hưởng tới tính tích cực học môn GDTC của học sinh đề tài đã tổng hợp được 26 biện pháp nâng cao tính tích cực cho học sinh trong quá trình học môn TD. Kết quả phỏng vấn trình bày trên bảng 2 Bảng 2. Kết quả phỏng vấn cán bộ, giáo viên để lựa chọn biện pháp phát huy tính tích cực học tập môn thể dục của học sinh Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách (n =24). Kết quả phỏng vấn Rất cần Không cần TT Nội dung Cần thiết thiết thiết mi % mi % mi % Nhà trường cần quan tâm hơn nữa 1 20 83 4 17 - - môn TD Tạo động cơ học tập môn thể dục cho học sinh(tổ chức tuyên truyền, 2 tăng cường nhận thức ý nghĩa, vai 24 100 - - - - trò của môn TD trong trường học....) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1