intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo theo hướng tích hợp giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:59

5
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo theo hướng tích hợp giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách" nhằm giáo dục các giá trị sống cho học sinh lớp 11 ở trường Trung học phổ thông qua đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo theo hướng tích hợp giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO THEO HƯỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH Người thực hiện: Nguyễn Thị Diệu Nhi Lĩnh vực: Ngữ văn Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách NGHỆ AN, 2023
  2. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................... 1 I. Lý do chọn đề tài.................................................................................................. 1 II. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 2 1. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 2 1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp ...................................................................... 2 1.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn .................................................................... 2 2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 2 B. NỘI DUNG......................................................................................................... 3 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............................................ 3 1. Cơ sở lí luận ........................................................................................................ 3 1.1. Vấn đề đổi mới phương pháp và mục tiêu dạy học môn Ngữ văn................... 3 1.2. Một số vấn đề về đọc hiểu và dạy học đọc hiểu............................................... 4 1.3. Giáo dục Giá trị sống trong nhà trường ........................................................... 6 1.4. Khái quát về đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT ............................................ 7 1.5. Khái niệm giá trị sống và các giá trị sống cơ bản ............................................ 9 1.5.1. Giá trị sống là gì? .......................................................................................... 9 1.5.2. Các giá trị sống cơ bản .................................................................................. 9 2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................... 9 2.1. Vấn đề dạy học Ngữ văn gắn liền với giáo dục GTS hiện nay trong trường phổ thông ..................................................................................................... 9 2.2. Thực trạng dạy học văn bản truyện ngắn nói chung và dạy học truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao ) nói riêng ở trường phổ thông ............................................ 11 2.3. Khảo sát các đối tượng ................................................................................... 12 2.3.1. Khảo sát giáo viên ....................................................................................... 12 2.3.2. Khảo sát học sinh ........................................................................................ 13 II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO (NAM CAO) THEO HƯỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH ........ 13 1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức dạy học văn bản theo hướng tích hợp giáo dục Giá trị sống ...................................................................................... 13 1.1. Đảm bảo mục tiêu bài học .............................................................................. 13 1.2. Bám sát đặc điểm thể loại, khai thác các yếu tố đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của văn bản tạo cơ hội tích hợp giáo dục giá trị sống .......................... 15 1.3. Phát huy tính tích cực của HS trong hành vi và nhận thức liên quan đến giáo dục giá trị sống .............................................................................................. 15
  3. 2. Một số biện pháp tổ chức dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) theo hướng tích hợp giáo dục giá tri sống cho HS lớp 11 ............................ 16 2.1. Tích hợp giáo dục giá trị sống qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản ........ 16 2.2.1. Vài nét về câu hỏi đọc hiểu ......................................................................... 16 2.2.2 Tích hợp giáo dục GTS qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) .................................................................. 17 2.2. Tích hợp giáo dục giá trị sống qua tổ chức hoạt động Đóng vai ................... 20 2.3. Tích hợp giáo dục giá trị sống qua tổ chức hoạt động thảo luận nhóm ......... 23 2.4. Tích hợp giáo dục giá trị sống qua dạy học theo dự án ................................. 27 2.4.1. Hoạt động 1: Xây dựng ý tưởng dự án. Quyết định chủ đề. ....................... 27 2.4.2. Hoạt động 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án...................................... 28 2.4.3. Hoạt động 3: Triển khai thực hiện dự án (01 tuần)..................................... 29 2.4.4. Hoạt động 4: Giới thiệu sản phẩm .............................................................. 29 3. KHẢO SÁT SỰ CẤP THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH QUA VĂN BẢN “CHÍ PHÈO” ............................................................................................................................... 35 3.1. Mục đích khảo sát .......................................................................................... 35 3.2. Nội dung và phương pháp khảo sát................................................................ 35 3.2.1. Nội dung khảo sát........................................................................................ 35 3.2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá .................................................... 35 3.3. Đối tượng khảo sát ......................................................................................... 35 III. Kết quả thực nghiệm ...................................................................................... 38 C. KẾT LUẬN ...................................................................................................... 40 I. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 40 1. Tính mới ............................................................................................................ 40 2. Tính khoa học:................................................................................................... 40 3. Tính hiệu quả..................................................................................................... 40 II. Khả năng mở rộng của đề tài ............................................................................ 40 III. Một số kiến nghị đề xuất ................................................................................. 41 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 42 E. PHỤ LỤC .............................................................................................................
  4. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài 1. Vấn đề đọc hiểu và dạy học đọc hiểu văn bản văn chương trong nhà trường Trong nhà trường phổ thông Việt Nam, môn Ngữ Văn là một trong những môn học chính, đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị kiến thức và giáo dục nhân cách cho học sinh. Thế giới đã dành cho văn học một vị trí danh dự xứng đáng mà chúng ta dễ dàng nhận thấy qua giải Nobel được trao giải thưởng hàng năm, bên cạnh những ngành khoa học khác. Điều đó có nghĩa là văn học với nhân loại là một tồn tại tất yếu. Văn học là nhân học, văn học từ chính tâm hồn con người mà xuất hiện ở thế gian, văn học là nơi để con người tự hoàn thiện chính mình. Vấn đề này đòi hỏi người dạy chúng ta phải tìm cách đổi mới tư duy, phương pháp giảng dạy để đưa môn Ngữ Văn trở về với học trò. Đọc - hiểu là một trong những năng lực cơ bản của con người. Việc áp dụng đọc hiểu vào giờ dạy văn đã góp phần tích cực hóa hoạt động của học sinh, biến học sinh từ khách thể thụ động trở thành chủ thể tích cực. Với một giờ dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương, học sinh sẽ đóng vai trò chính, vận dụng khả năng đọc hiểu để chủ động nghiên cứu, tìm tòi, cảm thụ tác phẩm. Theo đó, người giáo viên giờ đây đóng vai trò là người dẫn dắt, hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu tác phẩm. Có thể thấy, việc dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, đồng thời khơi gợi hứng thú, yêu thích của học sinh đối với môn Ngữ Văn. 2. Việc dạy học tác phẩm văn chương gắn liền với khám phá giá tr ị sống, trang bị kĩ năng sống. Mỗi tác phẩm văn chương đều chứa đựng những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đó có thể là tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, là tình anh em, tình đồng chí,… Có thể nói, mỗi bài học văn là một bài học làm người, dạy con người cách ứng xử, cách yêu thương, trân trọng những giá trị tốt đẹp. Mặc dù mỗi giáo viên dạy văn đều nắm rõ mục tiêu cao nhất của môn học là giáo dục nhân cách, là truyền đạt giá trị sống, tuy nhiên, vì nhiều lí do mà điều này chưa được thể hiện rõ trong mỗi giờ dạy Văn. Nói cách khác, việc dạy Ngữ Văn trong nhà trường hiện nay phần lớn đều nhằm mục đích trang bị kiến thức là chủ yếu. Việc khám phá giá trị sống và liên hệ thực tiễn đời sống trong mỗi bài học còn hạn chế hoặc chưa có. Điều này bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân như hạn chế về thời gian hay phương pháp giảng dạy chưa hợp lí. Hiện nay học sinh được tiếp nhận một nền giáo dục hoàn chỉnh, nhân văn, nhưng không ít các em có những biểu hiện, hành vi lệch chuẩn so với yêu cầu của xã hội. Nhiều học sinh sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống ích kỉ, buông thả chỉ biết hưởng thụ, không quan tâm đến mọi người. Hơn nữa nhiều học sinh hiện nay chỉ biết nhận sự chăm lo của cha mẹ, của xã hội và từ nhà trường, sự quan tâm, giúp đỡ 1
  5. của Thầy cô giáo, bạn bè, nhưng không biết và không thể hiện được trách nhiệm với gia đình, cộng đồng nơi mình sinh sống, chưa có ý thức xây dựng tập thể lớp, xây dựng nhà trường. Ngoài ra còn có một số học sinh không chăm lo việc học tập và rèn luyện của bản thân, sống không có lý tưởng, không có ước mơ hoài bão, không chuẩn bị hành trang để vào đời. Giáo dục không chỉ dừng lại ở việc dạy học mà còn là khơi gợi những giá trị tốt đẹp vốn sẵn có ở mỗi con người. Tuy nhiên vì nhiều lí do, những giá trị sống tốt đẹp này có lúc đã bị che lấp khiến chúng ta xa rời với những điều quý giá. Thực tế nhiều giáo viên hiện nay đã bỏ qua nhiều cơ hội trong chính khả năng của mình để có thể cải biến tình hình, góp phần làm tốt vai trò của giáo dục đối với nhân cách con người. 3. Có nhiều cách thức và phương pháp khác nhau để tăng hứng thú cho học sinh với môn học và giáo dục hoàn thiện nhân cách cho các em. Trong thời gian dạy học bản thân đã có ý thức tích lũy, nghiên cứu, tìm tòi để đổi mới phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản trong trường THPT nhằm giáo dục giá trị sống, hình thành nhân cách học sinh và đã đạt được hiệu quả. Trong phạm vi của báo cáo kinh nghiệm này, để có thể góp phần làm thay đổi thực tế trên, trong vai trò của người giảng dạy Ngữ Văn, tôi xin trình bày đề tài: Dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo theo hướng tích hợp giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách. Đề tài lần đầu tiên được áp dụng và công bố tại trường THPT Nguyễn Sỹ Sách năm học 2020-2021, 2022-2023. II. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu 1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp Được sử dụng khi nghiên cứu, phân tích các giáo trình, bài viết, các công trình nghiên cứu,… có liên quan đến đề tài. 1.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra, khảo sát: Được sử dụng khi thu thập thông tin, khảo sát thực tiễn việc dạy học đọc hiểu văn bản Chí Phèo ở trường THPT để có những căn cứ, đánh giá khách quan và chính xác. - Phương pháp thực nghiệm: Được áp dụng trong thực nghiệm dạy học, chứng minh tính hiệu quả của việc dạy học đọc hiểu văn bản Chí Phèo. 2. Phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu là giáo dục các giá trị sống cho học sinh lớp 11 ở trường Trung học phổ thông qua đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. 2.2. Về thực tiễn, chúng tôi dự kiến khảo sát một số trường THPT trên địa bàn Huyện Thanh Chương (Trường THPT Nguyễn Sĩ Sách, Trường THPT Đặng Thai Mai, Trường THPT Đặng Thúc Hứa,…) 2
  6. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1. Vấn đề đổi mới phương pháp và mục tiêu dạy học môn Ngữ văn Lâu nay, vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) luôn là vấn đề quan trọng có tính thời sự được nhiều cấp học, bậc học quan tâm. Việc đổi mới PPDH là cần thiết, nhằm hướng đến mục đích nâng cao chất lượng dạy học cũng như như hướng đến sự chủ động tích cực của người học. Và không nằm ngoài xu thế đó, môn học Ngữ văn hiện nay cũng đã và đang có những chuyển biến tích cực trong PPDH. Nhắc đến vấn đề đổi mới PPDH môn Ngữ văn, không thể không đề cập đến thực trạng của việc dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện nay: Trước hết, trong quá trình dạy học còn tồn tại tình trạng học đọc chép. Đây là tình trạng không chỉ xuất hiện trọng dạy học môn Ngữ văn mà hầu hết nhiều môn học khác cũng xuất hiện tình trạng này. Xuyên suốt trong giờ học, GV đọc trước, HS chép sau, hoặc GV ghi bảng, HS vừa nhìn bảng vừa chép. Như vậy, HS hoàn toàn trở nên thụ động, việc tiếp thu kiến thức trở nên máy móc, một chiều. Bên cạnh đó, việc dạy học nhồi nhét cũng rất phổ biến. Trong đó, GV cung cấp rất nhiều kiến thức cho HS, tuy nhiên lại không lựa chọn trọng tâm, không tập trung vào vấn đề chính. Kết quả là HS mặc dù được tiếp thu rất nhiều kiến thức nhưng lượng kiến thức ấy lại quá nhiều và không có trọng tâm khiến các em không cảm thụ đc sâu sắc, mau quên. Đây cũng là một lối dạy khiến HS tiếp thu thụ động, một chiều. Ngoài ra, việc tiếp thu kiến thức của HS cũng chưa được khả quan. Các em chưa thực sự chủ động trong việc tìm hiểu và tiếp cận kiến thức mới. Điều này được thể hiện rõ ở việc học trên lớp thiếu hứng thú, học đối phó, về nhàchỉ biết học thuộc để trả bài và cũng không chủ động tìm hiểu bài mới trước khi lên lớp. Điều này chứng tỏ, HS không biết tự học, không có nhu cầu tìm hiểu hay tự nghiên cứu, cũng không biết cách chủ động tự đọc sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức. Trước những thực trạng còn tồn tại trong dạy và học bộ môn, việc đổi mới PPDH môn Ngữ văn trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Trong đó, việc đổi mới các PPDH cần phát huy các yếu tố tích cực và những ưu điểm của các PPDH truyền thống và các PPDH hiện đại. Để khắc phục tình trạng dạy học thụ động trong môn học Ngữ văn hiện nay, PPDH theo hướng đọc - hiểu đang được áp dụng và dần thay thế phương pháp giảng văn truyền thống. Dạy học đọc hiểu là việc GV hướng dẫn HS sử dụng những kĩ năng để đọc hiểu tác phẩm một cách hiệu quả. Với dạy học đọc hiểu, HS trở thành chủ thể trong việc chiếm lĩnh tri thức, GV đóng vai trò là người dẫn 3
  7. dắt, định hướng cho các em trong quá trình chiếm lĩnh những tri thức ấy. Trong đọc hiểu văn bản, vai trò chủ thể sáng tạo của HS được đề cao. HS sẽ trở nên chủ động hơn, việc tiếp thu kiến thức cũng trở nên dễ dàng hơn và tích cực hơn. Để việc dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương trong giờ học Ngữ văn được hiệu quả đòi hỏi người GV phải biết vận dụng khéo léo cũng như tổ chức hợp lí các hoạt động và các biện pháp dạy học tích cực. Đồng thời, người GV cũng phải tự ý thức được vai trò của mình trong dạy học đọc hiểu văn bản, đó là vai trò dẫn dắt, hướng dẫn HS suy nghĩ, thảo luận nhóm, định hướng cho HS cách đọc chứ không phải làm việc thay hay đọc hộ cho HS. Về mục tiêu dạy học môn Ngữ văn, hiện nay, mục tiêu môn Ngữ văn được xác định trên 2 bình diện, đó là năng lực và phẩm chất. Thứ nhất, về năng lực: Đó là giúp HS phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức đọc, viết, nói, nghe và năng lực giao tiếp đa phương thức thông qua nội dung những tri thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa. Ở bậc THPT, chương trình còn trang bị thêm cho HS những tri thức theo định hướng nghề nghiệp; đáp ứng yêu cầu phân hóa, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Ngoài ra, chương trình môn Ngữ văn còn góp phần giúp HS phát triển các năng lực khác như năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực lập luận, phản biện; v.v… Thứ hai, về phẩm chất: Đó là hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất cao đẹp: yêu quê hương, đất nước, con người, sống trung thực và có trách nhiệm. Qua những việc tìm hiểu các tác phẩm văn học giúp cho HS có cơ hội khám phá bản thân và thế giới, có lòng trắc ẩn, vị tha, đồng cảm và thấu hiểu với số phận con người. 1.2. Một số vấn đề về đọc hiểu và dạy học đọc hiểu * Khái quát về đọc hiểu: Đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông qua khả năng tiếp nhận của người đọc. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, hiểu được các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng - sai về lôgic, nghĩa là kết hợp với năng lực tư duy và biểu đạt. Chủ thể của hoạt động đọc hiểu chính là người đọc. Với đọc hiểu, hoạt động đọc tác phẩm không đơn thuần chỉ là tiếp xúc với văn bản hời hợt trên câu chữ mà 4
  8. ở đây đòi hỏi chủ thể đọc hiểu phải có sự hiểu, sự khám phá, chiêm nghiệm các giá trị, ý nghĩa của văn bản qua hệ thống ký tự, ngôn từ của văn bản ấy. Về bản chất, đọc hiểu vừa là hành động nhận thức tích cực lại vừa là quá trình nắm vững ý nghĩa. Trước hết, trong quá trình đọc hiểu, người đọc vừa đọc văn bản bằng mắt, lại vừa tư duy, vừa cảm thụ tác phẩm bằng trí óc, tâm hồn. Như vậy, quá trình tiếp nhận tác phẩm của người đọc qua đọc hiểu diễn ra bằng cả hoạt động của cơ thể (đọc bằng mắt) lẫn hoạt động của trí óc, tinh thần.Đây là hoạt động có mục đích, tác động vào đối tượng để nhận thức và cải tạo bản thân. Tuy nhiên, hoạt động đọc hiểu diễn ra hiệu quả hơn khi người đọc có những vốn tri thức và kinh nghiệm sống, có năng lực tư duy và biết tận dụng nó để chiếm lĩnh tác phẩm một cách tích cực và sáng tạo. Đó là bản chất nhận thức tích cực của hoạt động đọc hiểu. * Dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương: Dạy đọc hiểu trước hết là dạy cho HS biết cách đọc văn bản, thông qua quá trình tự giác tìm hiểu văn bản để định hướng cho các em những nội dung và giá trị của văn bản. Trong giờ đọc - hiểu, HS đóng vai trò chính, không còn phụ thuộc vào GV mà chủ động đọc, tìm hiểu tác phẩm kết hợp với vốn sống, liên tưởng, tưởng tượng để cảm thụ, tri giác, tìm hiểu những giá trị của tác phẩm ấy. Ngoài ra dạy học đọc hiểu còn là việc GV hướng dẫn HS sử dụng những kỹ năng để đọc hiểu văn bản thông qua các hoạt động, thao tác và theo một quy trình nhất định nào đó. Đọc hiểu văn bản đề cao vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của HS trong hoạt động đọc. Dạy đọc - hiểu là vừa dạy cách tiếp xúc với văn bản, thông hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết, các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật và cả ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó, vừa tập trung hình thành cách đọc văn, phương pháp đọc hiểu theo thể loại để dần dần các em có thể tự đọc văn, hiểu tác phẩm văn học một cách khoa học đúng đắn. Đọc hiểu là quá trình thâm nhập vào văn bản với thái độ tích cực, chủ động. Đây là một năng lực cần thiết mà người học cần quan tâm. Hiện nay đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông thường hướng tới các vấn đề cụ thể sau: Thứ nhất là nhận biết đúng, chính xác về văn bản: Thể loại của văn bản (các phong cách ngôn ngữ như phong cách ngôn ngữ khoa học, báo chí, chính luận, nghệ thuật, hành chính, sinh hoạt); hiểu đề tài, nhan đề, chủ đề, tóm tắt được các nội dung của văn bản; hiểu các phương thức biểu đạt của văn bản (phương thức tự sự, biểu cảm, thuyết minh...); hiểu các thao tác lập luận (thao tác phân tích, bình luận, chứng minh, bác bỏ...) 5
  9. Thứ hai là thông hiểu, đánh giá đúng văn bản: Cảm nhận được những đặc sắc, nổi bật của văn bản (từ ngữ, hình ảnh,chi tiết quan trọng, đặc sắc, các biện pháp tu từ...); hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của văn bản, đánh giá được nội dung, ý nghĩa của văn bản bằng kiến thức, kinh nghiệm của mình. Thứ ba là vận dụng văn bản để giải quyết một vấn đề cụ thể: Liên hệ mở rộng một vấn đề nào đó từ văn bản bằng suy nghĩ, ý kiến của mình; vận dụng văn bản để trình bày phương hướng, biện pháp giải quyết một vấn đề cụ thể của cuộc sống, của xã hội. Tóm lại, đọc hiểu là thông qua hoạt động đọc văn bản để cảm nhận, thấu hiểu tác phẩm, khám phá ý nghĩa của văn bản một cách tích cực, sáng tạo. Có thể thấy, mục đích cao nhất của quá trình đọc hiểu văn bản đó là tiếp nhận và cảm thụ các giá trị của văn bản. Từ việc tiếp nhận và cảm thụ các giá trị ấy, người đọc - với năng lực tư duy, với vốn tri thức và kinh nghiệm sống của bản thân sẽ cảm nhận được giá trị của cuộc sống, thấy được vẻ đẹp của cuộc đời và từ đó hình thành và phát triển nên những GTS tích cực. Như vậy, ngoài mục đích là cảm nhận ý nghĩa nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, hoạt động đọc hiểu còn hướng tới việc hình thành những giá trị tích cực cho con người. Đây cũng có thể coi là một mục đích của đọc hiểu. 1.3. Giáo dục Giá trị sống trong nhà trường Thuật ngữ “giá trị” ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Trước thế kỉ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những kiến thức về triết học. Sau này, khi khoa học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học Giá trị là tất cả những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của xã hội. Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí mục đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá trị: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,… Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá, phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Giá trị cuộc sống (hay GTS) là những điều chúng ta cho là quý giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống trở thành 6
  10. động lực để người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. GTS mang tính cá nhân, không phải GTS của mọi người đều giống nhau. GTS là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. GTS về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. GTS là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống, và định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Đối với mỗi con người, việc hoàn thiện những phẩm chất, giá trị tích cực cho bản thân là cần thiết. Nhất là đối với lứa tuổi thiếu niên - những đối tượng con đang ngồi trên ghế nhà trường thì việc giáo dục GTS cho các em là cấp bách hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, các em đang trong quá trình trưởng thành, hoàn thiện nhân cách, tâm lý nhiều khi chưa ổn định, hành động và suy nghĩ của các em còn chưa chín chắn, phần lớn còn theo cảm tính. Vì thế, các em cần được định hướng và giáo dục GTS một cách đúng đắn và thường xuyên, không chỉ trong gia đình mà ngay cả trong nhà trường. Trong bài viết Từ tinh thần nhân văn trong thơ Haiku Nhật Bản suy nghĩ về giáo dục giá trị sống cho HS Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế (Tạp chí Khoa học Giáo dục, 11/2016) của các tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân và Nguyễn Thị Toan, các tác giả có đề cập đến hệ giá trị cho con người Việt được Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam xây dựng đó là: ba giá trị nền tảng là Yêu nước - nghĩa tình - đoàn kết và chín giá trị cốt lõi là: Tự trọng - nhân ái - trung thực - hợp tác - trách nhiệm - ham hiểu biết - ham sáng tạo - yêu quý thiên nhiên - tôn trọng pháp luật. Như vậy, từ hệ giá trị bao gồm ba giá trị nền tảng và chín giá trị cốt lõi kể trên, chúng tôi nhận thấy các giá trị này đều có thể được đưa vào để định hướng và giáo dục trong nhà trường dưới hình thức tổ chức như một môn học giáo dục GTS hoặc có thể được tích hợp thông qua giảng dạy bộ môn. 1.4. Khái quát về đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT Việc định hướng các giá trị sống cho HS trung học phổ thông nói chung cũng như HS lớp 11 nói riêng cần căn cứ vào nhiều yếu tố, mà quan trọng nhất chính là đặc điểm tâm lý của lứa tuổi. Mỗi giai đoạn lứa tuổi có đặc điểm tâm lý, nhận thức khác nhau, vì thế các giá trị sống được định hướng cần phù hợp với trình độ cũng như khả năng nhận thức của các em. Lứa tuổi HS THPT hay lứa tuổi thanh niên, là lứa tuổi có giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Đây lứa tuổi mới lớn, đang trong giai đoạn hình thành nhân cách, sự biểu hiện về mặt tâm lí của các em khá phức tạp. Cụ thể, lứa tuổi HS THPT có những đặc điểm tâm lí như sau: Trước hết, về mặt tư duy, các em đã có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo, chặt chẽ có căn cứ và mang tính nhất quán. 7
  11. Các năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển giúp các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết một vấn đề rất nhanh. Bên cạnh đó, ở lứa tuổi này, các em đã có sự tự ý thức. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, tương lai. Các em có nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống. Trong giao tiếp, các em có khuynh hướng làm bạn với bạn bè cùng tuổi, đồng thời các em còn tham gia vào nhiều nhóm bạn khác nhau. Đây cũng là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Các em có sự khao khát về những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và luôn có nhu cầu tự lập. Nhu cầu giao tiếp với các bạn cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và cũng cảm thấy mình cần cho tập thể. Ý thức về cái tôi ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn làm cho các em có khả năng lựa chọn con đường tiếp theo, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm vị trí cho riêng mình trong cuộc sống chung. Ở lứa tuổi này, các em thường trăn trở với các câu hỏi về ý nghĩa và mục đích cuộc sống, về cách xây dựng một kế hoạch sống có hiệu quả, v.v… Các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế một khái niệm, biết xử sự đúng đắn trong mọi hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Đặc biệt, ở các em đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Việc lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn thiết của các HS cuối cấp. Về tình cảm, đời sống tình cảm của các em bị chi phối bởi nhiều yếu tố, khiến cho đời sống tình cảm trở nên phong phú, đa dạng, sâu sắc. Ở các em có sự hình thành và phát triển của các loại tình cảm: Tình cảm đạo đức - được biểu hiện ở thái độ rõ ràng đối với các vấn đề, hiện tượng đạo đức trong xã hội; có sự phê phán, đánh giá đối với các vấn đề đó; Tình cảm trí tuệ - biểu hiện ở sự say mê các môn học,tích cực nhận thức, sáng tạo; Tình cảm thẩm mỹ - thông qua thị hiếu thẩm mỹ, trạng thái khoái cảm nghệ thuật của bản thân từ đó có cách cư xử, thái độ, hành vi theo nhận định về thẩm mỹ của mình; Tình cảm hoạt động - biểu hiện ở sự yêu thích hoạt động. Cuối cùng, ở lứa tuổi HS THPT cũng hình thành những nhu cầu tâm lý - xã hội cơ bản như: được an toàn; được hiểu, cảm thông; được yêu thương; được tôn trọng; được khẳng định. Có thể thấy, lứa tuổi HS THPT có đặc điểm tâm lý khá đa dạng và phức tạp. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục phải có những cách thức phù hợp, khoa học để có thể tìm hiểu HS một cách khách quan, đúng đắn, và có những biện pháp phù 8
  12. hợp để giáo dục nhân cách. Hay trong giáo dục giá trị sống cũng vậy, cần có sự chọn lọc kĩ lưỡng để định hướng và phát triển những giá trị sống phù hợp với đặc điểm tâm lí và nhận thức của HS. 1.5. Khái niệm giá trị sống và các giá trị sống cơ bản 1.5.1. Giá trị sống là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị sống: * Một thứ gì đó có giá trị khi nó được nhận thức như là sự cần thiết, là tốt, được mong đợi và có ảnh hưởng chi phối đến tình cảm, thái độ, hành vi của cá nhân trong cuộc sống. * Giá trị sống là những thứ được nhận thức là quan trọng, rất cần thiết, và rất có ý nghĩa, luôn mong đợi chúng có khả năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình cảm hành vi của cá nhân trong đời sống hằng ngày * Không chỉ tài sản…mà cả tri thức, sức khoẻ, tình yêu thương, sự trung thực, danh dự…cũng được coi là giá trị sống của cá nhân Giá trị sống của mỗi cá nhân không tự nhiên mà có. Giá trị sống được hình thành nhờ quá trình tự nhận thức và sự trải nghiệm của mỗi người. Giáo dục giá trị sống cần được thực hiện rất sớm gắn liền với gieo trồng những hành vi tích cực và thói quen tốt 1.5.2. Các giá trị sống cơ bản 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Vấn đề dạy học Ngữ văn gắn liền với giáo dục GTS hiện nay trong trường phổ thông Giá trị sống là những điều chúng ta cho là quý giá, là có ý nghĩa đối với cuộcsống mỗi con người phù hợp với chuẩn mực mà chúng ta đang sống. Đó là 9
  13. một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ giữa con người với con người. Giá trị sống về bản chất là những qui tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị sống có vị trí to lớn trong đời sống, định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Trong cuộc sống hiện nay, con người nếu như thiếu đi nền tảng giá trị sống vững chắc thì sẽ rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. Giá trị sống giúp chúng ta cân bằng những mục tiêu vật chất. Nếu không có nền tảng giá trị, con người không biết cách xây dựng và duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ, không biết cách thích ứng trước những đổi thay. Chính vì lẽ đó, việc giáo dục giá trị sống trở nên quan trọng và cần thiết. Nhất là đối với lứa tuổi HS phổ thông, việc giáo dục và định hướng Giá trị sống cho các em lại càng cấp thiết. Vấn đề giáo dục Giá trị sống đã không còn là vấn đề quá xa lạ trong nhà trường phổ thông hiện nay. Việc giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống đã được đưa vào nhà trường như là một bộ môn cần thiết và có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách người học. Bên cạnh đó, nội dung giáo dục g i á t r ị s ố n g cũng được tích hợp giáo dục thông qua hoạt động giảng dạy các bộ môn. Tức là, thông qua việc truyền đạt kiến thức của môn học, người GV sẽ linh hoạt, khéo léo dẫn dắt để hình thành và phát triển các giá trị sống phù hợp cho HS. Và với bộ môn Ngữ văn cũng vậy. Hiện nay, trong giảng dạy môn Ngữ văn cãng đã xuất hiện nội dung giáo dục giá trị sống, tuy nhiên, việc tích hợp giáo dục giá trị sống này vẫn chưa được phổ biến nhiều trong chương trình giảng dạy bộ môn Có nhiều nguyên nhân khiến cho giờ dạy văn hiện nay thiếu đi nội dung giáo dục giá trị sống. Có thể do việc bị hạn chế về thời gian trong mỗi tiết dạy, do phải chuyển tải nhiều nội dung bài học trong khi thời gian có hạn, nên nhiều GV có khuynh hướng tập trung vào việc cung cấp kiến thức mà ít quan tâm đến việc định hướng giá trị sống cho HS. Ngoài ra, vấn đề giáo dục giá trị sống hiện nay cũng ít được quan tâm và phổ biến trong trong nhà trường. Trước thực trạng đó, cần có những biện pháp nâng cao và tích cực tổ chức dạy học văn gắn liền với giáo dục giá trị sống trong nhà trường phổ thông. Bởi lẽ, việc giáo dục giá trị sống cho HS lứa tuổi thanh thiếu niên là vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các em được định hướng và hình thành nhân cách đúng đắn theo hướng tích cực. Hơn thế nữa đặc trưng môn học mang tính nhân văn, chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, giúp cho việc tích hợp giáo dục giá trị sống trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn so với các môn học khác. Và việc giáo dục giá trị sống được lồng ghép trong các bài học chính khóa còn giúp các em dễ tiếp thu và dễ nhận thức hơn cả. 10
  14. 2.2. Thực trạng dạy học văn bản truyện ngắn nói chung và dạy học truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao ) nói riêng ở trường phổ thông * Thực trạng dạy học văn bản truyện ngắn ở trường phổ thông Truyện ngắn chiếm số lượng tương đối trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Bên cạnh đó, các văn bản được chọn lọc giảng dạy trong sách giáo khoa tương đối hay giàu ý nghĩa giá trị. Vì thế việc chú trọng vào giảng dạy các tác phẩm truyện ngắn sao cho đạt hiệu quả là rất cần thiết, đòi hỏi người GV không ngừng nỗ lực, sáng tạo và đổi mới phương pháp và tổ chức dạy học. Tuy nhiên, việc dạy học văn bản truyện ngắn ở trường trung học phổ thông hiện nay nhiều khi chưa thực sự hiệu quả. Điều này xảy ra cả từ phía GV và HS. Có thể điểm qua một số vấn đề như sau: Về phía GV: Mặc dù đã có ý thức đổi mới PPDH nhưng việc thực hiện mới chỉ mang tính chất hình thức. Chưa rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản truyện ngắn cho HS để các em có thể tự đọc các văn bản tương tự trong chương trình và ngoài chương trình; chưa thực sự quan tâm đến việc các em cảm nhận thế nào qua một tiết học. Phần lớn GV vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: GV giảng giải, HS lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà GV đã truyền đạt. GV chủ động cung cấp kiến thức cho HS, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới HS. Điều này khiến cho giờ học văn trở nên nhàm chán, buồn ngủ và chưa phát huy được tính tính cực sáng tạo của HS. Nhiều khi GV chưa quan tâm nhiều đến đặc trưng của thể loại truyện ngắn, chưa có sự đầu tư nhiều cho bài dạy và khả năng tiếp nhận một số tác phẩm còn nhiều hạn chế. Điều này khiến cho GV đôi khi đứng trước một tác phẩm văn học còn lúng túng, chưa biết phải truyền tải những gì mình hiểu đến cho HS như thế nào để đạt được hiệu quả. Nhiều GV còn chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của HS cũng như việc chỉ ra cho HS hướng tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Chưa thay đổi quan niệm về người học và việc đánh giá người học; chưa thực sự chú ý đến người học - nhu cầu, mong muốn, hứng thú của các em; chưa khuyến khích HS tìm tòi, sáng tạo; sự tương tác giữa GV - HS, HS - HS còn hạn chế. Về phía HS: HS đã quen thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà GV đã giảng. Nhiều em không có kĩ năng đọc hiểu văn bản truyện ngắn, không thể đọc hiểu những văn bản tương tự; chưa biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống; thiếu sáng tạo và không biết cách tự học; thiếu động cơ học tập. 11
  15. Ngoài ra, khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học của nhiều HS còn khá hạn chế; chưa hiểu rõ đặc trưng loại thể truyện ngắn; HS chưa phát hiện và lí giải được những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, chưa thấy được sự thống nhất nội dung và hình thức biểu hiện của văn bản, không biết tìm kiếm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết. Việc tự học và chuẩn bị bài mới ở nhà của các em cũng chưa thực sự hiệu quả. * Thực trạng dạy học truyện ngắn Chí Phèo ở trưởng phổ thông: Truyện ngắn ChÍ Phèo là một tác phẩm văn học hay và đặc sắc, giàu ý nghĩa. Chính nhờ cách trần thuật hấp dẫn, tình tiết, chi tiết nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn cũng góp phần tạo nên không khí vui vẻ, sôi nổi, bớt đi phần nào sự căng thẳng trong giờ học văn. Việc tiếp nhận truyện ngắn của HS cũng không gặp quá nhiều khó khăn. Đa số các em đều hiểu được dụng ý nghệ thuật của nhà văn, nội dung tư tưởng của tác phẩm cũng như tiểu sử về tác giả. Đa số giờ học đều đạt được kết quả như bài học đề ra, đó là: Hiểu được bức tranh hiện thực về xã hội nông thôn VN trước cách mạng tháng tám năm 1945 Thấy được những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm: xây dựng nhân vật điển hình, cách kể chuyện đặc sắc. Đồng thời cảm nhận được giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Nam Cao. Tuy nhiên, phần lớn việc giảng dạy truyện ngắn Chí Phèo còn đơn thuần chỉ cung cấp kiến thức cho HS. Điều đó là chưa đủ, bởi lẽ, mục tiêu cao nhất của dạy văn là giáo dục con người, định hướng con người tới những giá trị sống tốt đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn và những phẩm chất tích cực. Hơn thế nữa, Chí Phèo lại là một truyện ngắn ý nghĩa có tính giáo dục sâu sắc. Qua các nhân vật trong tác phẩm, các em có thể tự nhìn nhận mình và hình thành ở bản thân những giá trị sống tích cực. Vì vậy, quá trình giảng dạy truyện ngắn Chí Phèo là một cơ hội để GV tích hợp giáo dục giá trị sống cho HS chứ không nên chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức đơn thuần. 2.3. Khảo sát các đối tượng 2.3.1. Khảo sát giáo viên Tôi đã sử dụng phương pháp điều tra khảo sát về vấn đề dạy học tích hợp liên môn tại trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, kết quả thu được như sau: Có 15% giáo viên chưa biết nhiều về việc dạy học tích hợp. Nhưng có 38 % Giáo viên nhầm lẫn tích hợp liên môn với tích hợp đa môn. Hơn 47 % cho rằng cần tìm hiểu thêm về khái niệm này. Cũng sử dụng phương pháp trên điều tra khảo sát về nội dung giáo dục giá trị sống tại trường, kết quả như sau: Có 30 % Giáo viên nêu được nội dung trọn vẹn 12
  16. của giá trị sống, tới 65 % giáo viên nắm chưa đầy đủ về nội dung này. Và khoảng 5% các giáo viên trả lời cần tìm hiểu thêm về giá trị sống. Riêng đối với thực tế giảng dạy Ngữ Văn ở cả 3 khối lớp đều diễn ra thực trạng như sau: với 45 phút cho một tiết học để triển khai nội dung, hầu như giáo viên chỉ tập trung vào các hình tượng văn học, các kĩ năng phân tích, các kiến thức văn học mà coi nhẹ đi thiên chức của văn học, chính là cải biến tâm hồn con người. Đọc văn, cảm văn để mỗi người hoàn thiện cho tâm hồn mình đẹp hơn. Thực tế chúng ta đã đưa học sinh vào một guồng quay thi cử tới chóng mặt, khiến các em thụ động đón nhận mà quên đi cảm nhận của mình. 2.3.2. Khảo sát học sinh Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát ở 03 lớp 11 của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, tôi thu được kết quả như sau: - Đối với khái niệm giá trị sống và những giá trị sống cơ bản, có tới 58 % các em học sinh không biết chính xác về giá trị sống, thậm chí có tới 24 % học sinh hoàn toàn không nhớ tới khái niệm nay. Còn lại 18 % các em trả lời nhưng chưa trọn vẹn - Đối với lí do nào khiến các em ngại học văn nhất, thu được kết quả như sau: 35 % cho rằng học thuộc, không tích tư duy như các môn tự nhiên khiến các e không thích. 43 % học sinh cho rằng nội dung được học nhàm chán, xa rời tực tế của các em hiện nay. 12 % học sinh thấy văn học cũng như những môn khác. Còn lại 10 % các em trả lời yêu thích môn văn. Qua những kết quả điều tra ở trên chúng ta thấy rõ việc tìm cách đổi mới phương pháp dạy học, tư duy của người thầy là vô cùng cấp thiết, để môn Ngữ Văn không bị học sinh trốn tránh và bỏ qua Với tư cách một môn học, thuộc phân ban xã hội Ngữ Văn cũng phải có trách nhiệm giáo dục, điều chỉnh, phát triển nhân cách cho học sinh chứ không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến thức. Thậm chí các giáo viên giảng dạy Ngữ Văn phải đặt mục tiêu này lên hàng đầu: dạy văn trước hết phải dạy làm người. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO (NAM CAO) THEO HƯỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH 1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức dạy học văn bản theo hướng tích hợp giáo dục Giá trị sống 1.1. Đảm bảo mục tiêu bài học Trước hết, cần khẳng định, việc tích hợp giáo dục g i á t r ị s ố n g trong tổ chức dạy học tác tác phẩm văn chương là cần thiết. Qua việc tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm, HS thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm ấy, thấu hiểu được những 13
  17. tâm tư tình cảm của nhân vật, từ đó chiêm nghiệm và cảm thụ vẻ đẹp của cuộc sống, hình thành và phát triển những giá trị tích cực cho bản thân. Không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị sống trong dạy học văn bản văn chương. Tuy nhiên, mặc dù quan trọng, nhưng nội dung giáo dục giá trị sống cần được vận dụng một cách khéo léo để đạt được hiệu quả tích cực nhất. Đầu tiên, tích hợp giáo dục giá trị sống trong dạy học văn bản cần đảm bảo tuân thủ nguyên tắc về mục tiêu của bài học. Lâu nay, trước khi tiến hành tìm hiểu một tác phẩm văn chương, người GV thường đề ra những tiêu chí về mục tiêu cần đạt được phù hợp với nội dung của từng bài học, đó là: Về kiến thức: Là những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đặc sắc về hình tượng nhân vật, cảm hứng sáng tác, v.v… Về kĩ năng: Là những kĩ năng mà HS được hình thành và rèn luyện trong quá trình tiếp thu và cảm nhận tác phẩm văn học, VD: kĩ năng đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn; kĩ năng tư duy độc lập, sáng tạo; kĩ năng làm việc nhóm; v.v… Về thái độ: Là những tư tưởng, thái độ tích cực mà HS hình thành được sau khi cảm thụ tác phẩm văn học. VD: thái độ yêu mến, trân trọng cái đẹp thái độ đồng cảm với số phận nhân vật; có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và con người; v.v…Từ những mục tiêu bài học đã đề ra, người GV tổ chức quá trình dạy học tác phẩm một cách khéo léo để hướng HS chạm đến những mục tiêu ấy. Đảm bảo được mục tiêu của bài học chính là đích đến của một giờ dạy học tác phẩm văn chương. Đối với một giờ dạy học tác phẩm văn chương tích hợp giáo dục giá trị sống, việc đảm bảo được mục tiêu bài học là rất cần thiết, không thể bỏ được hay thay thế được. Trước khi tích hợp để hướng người học đến việc hình thành các giá trị sống, về cơ bản, đây vẫn là một giờ dạy học đọc hiểu văn bản. Mà đã là một giờ dạy học đọc hiểu văn bản, HS cần được truyền đạt đầy đủ về nội dung kiến thức của bài học, cần được cảm thụ đầy đủ về cái hay, cái đẹp của tác phẩm, về hình tượng nhân vật, về đặc sắc nghệ thuật. Hơn thế nữa, không thể thiếu được những hoạt động thực hành rèn luyện các kĩ năng cơ bản, sự chủ động, tích cực sáng tạo. Nếu chỉ chú trọng đến giáo dục giá trị sống mà bỏ quên thực hiện những mục tiêu bài học sẽ khiến cho giờ học ấy không còn là giờ học tích hợp nữa mà trở thành một giờ học kỹ năng sống đơn thuần. Giáo dục giá trị sống là cần thiết nhưng nên tích hợp khéo léo khi đã đảm bảo được những yêu cầu về mục tiêu bài học. Và chính vì thế, nhiệm vụ trước hết của người GV là truyền đạt kiến thức bài học, hướng dẫn HS tìm hiểu tác phẩm, cảm thụ tác phẩm, đảm bảo những mục tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Chỉ khi cảm thụ sâu sắc được tác phẩm mới hình thành được nhân sính quan tích cực, hình thành giá trị sống tích cực. 14
  18. 1.2. Bám sát đặc điểm thể loại, khai thác các yếu tố đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của văn bản tạo cơ hội tích hợp giáo dục giá trị sống Như đã trình bày ở trên, trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản tích hợp giáo dục giá trị sống, cần phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo về mục tiêu bài học. Bởi lẽ, trước hết dù là dạy học văn tích hợp giáo dục giá trị sống thì đây vẫn là một giờ học văn và HS cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức về văn bản cũng như hình thành những kĩ năng, thái độ tích cực sau khi học tác phẩm. Tuy nhiên, khi đã đảm bảo được những tiêu chí trong mục tiêu bài học đề ra, việc tích hợp giáo dục giá trị sống được diễn ra như thế nào? Trong quá trình đọc hiểu văn bản, không phải lúc nào hay trong bất cứ nội dung nào của bài học, người GV cũng định hướng giáo dục giá trị sống cho HS. Mà việc tích hợp giáo dục giá tri sống cần được diễn ra một cách hợp lí và khéo léo, phù hợp với nội dung bài học và giá trị sống được hình thành phải phù hợp với HS. Chính vì vậy, để tích hợp giáo dục giá trị sống một cách hiệu quả trong dạy học đọc hiểu tác phẩm, người dạy cần bám sát đặc điểm thể loại, khai thác các yếu tố đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của văn bản để tạo cơ hội tích hợp giáo dục giá trị sống. Sở dĩ, cần phải bám sát vào đặc điểm thể loại của văn bản, bởi lẽ, mỗi thể loại văn học đều mang một đặc trưng riêng mà từ những đặc trưng thể loại đó, người học được định hướng phân tích, cắt nghĩa để khám phá đặc sắc nghệ thuật và những giá trị tư tưởng của tác phẩm ấy. Đối với thể loại truyện ngắn, quá trình dạy học tác phẩm gắn liền với những đặc trưng riêng của thể loại như: Hoàn cảnh sáng tác; cốt truyện; hình tượng nhân vật với những đặc trưng về ngoại hình, tính cách, hành động, nội tâm,…; giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. v.v… Như vậy, cùng với việc phân tích, cắt nghĩa tác phẩm theo những đặc trưng thể loại, người GV bám sát vào đó, dẫn dắt và định hướng HS khơi gợi và hình thành các giá trị sống. 1.3. Phát huy tính tích cực của HS trong hành vi và nhận thức liên quan đến giáo dục giá trị sống Nguyên tắc cuối cùng trong tổ chức dạy học văn bản theo hướng tích hợp giáo dục giá trị sống đó là: phát huy tính tích cực của HS trong hành vi và nhận thức liên quan đến giá trị sống Điều này đòi hỏi học sinh phải có sự chủ động, tự thân trong việc phát triển và nhận thức giá trị sống. Đó là điều mà không ai làm hộ được các em ngoài chỉnh bản thân các em. Sự nhận thức nằm trong ý thức chủ quan của mỗi người. Nếu không tiếp nhận nó với tâm thế chủ động, tích cực thì dù có giáo dục có cố gắng thế nào, người GV có tâm huyết bao nhiêu thì bản thân HS vẫn chẳng thay đổi được gì, bởi chính bản thân các em không quan tâm và không hứng thú, không có nguyện vọng hay tâm lí tiếp nhận để thay đổi. Có thể thấy, việc tích hợp giáo dục giá trị sống có hiệu quả với HS hay không nằm ở việc HS có tích cực nhận thức nó hay không. 15
  19. Chính vì lẽ đó, khi tích hợp giáo dục giá trị sống trong dạy học đọc hiểu văn bản, người giáo viên cần tổ chức các hoạt động học tập một cách khéo léo, từ đó định hướng và đề xuất các giá trị sống thích hợp để phát huy được sự tích cực chủ động của HS trong việc tiếp nhận các g i á t r ị s ố n g ấy. Tuy nhiên, giáo viên chỉ là người dẫn đường, gợi mở nhận thức về giá trị sống cho các em, chứ không làm việc hộ các em, làm thay luôn phần việc của các em. Điều đó sẽ khiến các em trở nên bị động, tiếp nhận các giá trị sống không hiệu quả Còn một lý do quan trọng cũng ảnh hưởng đến sự tích cực chủ động nhận thức giá trị sống của học sinh đó là những giá trị sống được định hướng không phù hợp với khả năng nhận thức của các em. Lứa tuổi THPT là lứa tuổi mới lớn đang trong quá trình hình thành và dần hoàn thiện nhân cách, kinh nghiệm sống và vốn sống của các em chưa nhiều, chỉ quanh quẩn đơn thuần trong các mối quan hệ bạn bè, thầy cô, gia đình, trong môi trường lớp học. Vì vậy, khi trao cho các em những giá trị sống quá sức với sự nhận thức, các em sẽ khó tiếp thu, không hiểu vấn đề, làm các em cảm thấy chán, không muốn suy nghĩ và cũng không thấy hứng thú trong trong những nội dung giáo dục giá trị sống tiếp theo. Chính vì lẽ đó, trong tích hợp giáo dục giá trị sống, GV cũng cần phải chú ý đến đặc điểm lứa tuổi của các HS để khai thác những giá trị sống phù hợp, để các em dễ dàng tiếp cận và nhận thức nó một cách tích cực và chủ động. 2. Một số biện pháp tổ chức dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) theo hướng tích hợp giáo dục giá tri sống cho HS lớp 11 2.1. Tích hợp giáo dục giá trị sống qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản 2.2.1. Vài nét về câu hỏi đọc hiểu Trong dạy học nói chung hay dạy học Ngữ văn nói riêng, hệ thống câu hỏi là một thành phần quan trọng, được xem như một trong những cách thức tích cực hóa vai trò của người học. Nó còn góp phần định hướng người học chiếm lĩnh tri thức và hình thành các kỹ năng. Trong dạy học môn Ngữ Văn hiện nay, hệ thống câu hỏi trong giờ đọc hiểu văn bản đã không còn đơn giản chỉ là hướng dẫn HS thu nhận kiến thức về nội dung của văn bản mà còn phải hướng đến việc hình thành và rèn luyện năng lực đọc hiểu cho người học. Hệ thống câu hỏi đọc hiểu đóng vai trò quan trọng trong giờ học Ngữ văn. Câu hỏi trong giờ dạy học đọc hiểu phải thể hiện rõ được đặc trưng của môn học, phải phản ánh đúng bản chất của giờ đọc hiểu văn bản Câu hỏi trong giờ dạy đọc hiểu văn bản phải được xây dựng trên cơ sở quan niệm về bản chất của hoạt động đọc. Chẳng hạn như câu hỏi phải tạo điều kiện để HS thực sự trở thành người chủ động giải mã ý nghĩa cũng như khuyến khích các em kiến tạo nghĩa cho văn bản. Hoặc hệ thống câu hỏi ấy phải tạo ra được môi trường tương tác giữa các yếu tố như văn bản, người đọc và bối cảnh xã hội của hoạt động đọc; phải khơi gợi được kiến thức nền trong quá trình đọc v.v.. Nếu được thiết 16
  20. kế đúng theo tinh thần đó thì hệ thống câu hỏi mới có thể trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho HS cũng như giúp các em hình thành năng lực đọc. 2.2.2 Tích hợp giáo dục GTS qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu trong dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) Như đã nói ở trên, hệ thống câu hỏi được xem như một công cụ quan trọng giúp người học chiếm lĩnh tri thức và hình thành nên các kỹ năng cần thiết. Không chỉ vậy, việc tổ chức cho HS tìm hiểu bài học thông qua hệ thống câu hỏi cũng có hiệu quả khơi gợi và định hướng những giá trị sống tích cực cho HS. Trong dạy học Ngữ văn, để việc tích hợp giáo dục giá trị sống qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu trở nên hiệu quả, cần có sự vận dụng và cách thức tổ chức khéo léo từ phía người GV, sự chủ động phối hợp từ phía HS. Các câu hỏi được đưa ra phải vừa giúp HS chủ động tìm hiểu, nắm được nội dung của bài học, đồng thời cũng qua đó để hình thành nên các giá trị sống. Truyện ngắn Chí Phèo là một truyện ngắn hay và giàu ý nghĩa. Bao quát truyện ngắn có nhiều chi tiết có khả năng khơi gợi nên các giá trị sống. Tuy nhiên, khi sử dụng câu hỏi đọc hiểu để tích hợp giáo dục giá trị sống trong truyện ngắn này cần phải chọn lựa những nội dung phù hợp, để đảm bảo người học vừa nắm bắt được ý nghĩa, nội dung của bài học, lại vừa khám phá được các giá trị sống. * Khi dạy về nhân vật Chí Phèo Tiêu chí Câu hỏi đọc hiểu Nội dung Các giá trị sống được hình thành Nhân vật 1. Trước khi vào tù 1. Trước khi vào tù: Chí Phèo nhân vật Chí phèo - Lai lịch, hoàn cảnh * Tự trọng được nhà văn giới xuất thân: Bên cái lò - Sống phải có thiệu lai lịch như thế gạch cũ bỏ không, lòng tự trọng, yêu nào? Có những vẻ được chuyền tay qua quý, tôn trọng đẹp gì về phẩm nhiều người, lớn lên nhân cách của bản chất? trong sự đùm bọc, nuôi thân mình duõng và yêu thương cảu dân làng - Phẩm chất: + Hiền lành, lương thiện + Có ước mơ, lòng tự trọng 2. Sau khi ra tù: * Sau khi ra tù: * Yêu thương, + Nhà Văn Nam * Thay đổi Chia sẻ đồng cảm, Cao miêu tả ngoại + Nhân hình: biết lên án, căm hình Chí Phèo có sự Đánh mất nhân hình ghét cái xấu, cái 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2