intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:60

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, chương trình môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học thông qua hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản về văn học, tiếng Việt và các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Sỹ Sách

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN ­­­­­­­­­­­­­­­­ S¸NG KIÕN KINH NGHIÖM ng÷ v¨n   §Ò tµi  PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÀM VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC CHO HỌC SINH  LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH                           Người thực hiện: Trần Thị Thanh Tú Lê Thị Lương
  2. A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
  3. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay Xu thế chung của xã hội hôm nay là sự phát triển theo công nghệ 4.0 và toàn   cầu hóa. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về  sự  thay đổi toàn diện trong việc đào tạo   nhân lực lao động và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước nhằm đáp  ứng những đòi   hỏi mới của xã hội và thị trường lao động là hết sức cần thiết. Sự đổi mới này, đặt  ra cho nền giáo dục nước nhà cần phải giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân  lực lao động mới có được sự  tự  tin, năng động, sáng tạo, có năng lực hành động,  năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, hợp tác có hiệu quả….  Để thực hiện được điều này, ngành giáo dục Việt Nam, trong đó có giáo dục  Trung học phổ  thông (THPT), đang tích cực đổi mới căn bản, toàn diện về  nội  dung, mục đích và phương pháp dạy học theo tinh thần Nghị quyết số 29 – NQ/TW   ngày 4/11/2013.  Chương trình giáo dục phổ  thông mới được xây dựng theo định hướng tiếp  cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển của các nước tiên tiến, nhằm thực hiện  yêu cầu của Nghị  quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội: “tạo chuyển biến căn bản,   toàn diện về  chất lượng và hiệu quả  giáo dục phổ  thông; kết hợp dạy chữ, dạy   người và định hướng nghề nghiệp, góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền  thụ  kiến thức sang nền giáo dục phát triển cả  về  phẩm chất và năng lực, hài hòa  trí, đức, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Chương trình   giáo dục phổ  thông tổng thể  đã công bố  mục tiêu giáo dục học sinh phổ  thông là   hướng tới rèn luyện 5 phẩm chất chủ yếu: Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực  và trách nhiệm. Đồng thời chương trình cũng hình thành và phát triển cho học sinh   những năng lực cốt lõi, gồm: Những năng lực chung, được tất cả  các môn học và  hoạt động giáo dục hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao  tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề  và sáng tạo. Những năng lực chuyên   môn, được hình thành, phát triển chủ  yếu thông qua một số  môn học, hoạt động   giáo dục nhất định: năng lực tính toán, năng lực ngôn ngữ, tìm hiểu tự nhiên và xã   hội, công nghệ, tin học, thẩm mĩ và thể chất.  Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực  học sinh là một giải pháp được xem là then chốt, có tính đột phá của nền giáo dục  phổ thông mới. 3
  4. Cùng với sự  đổi mới chung của ngành giáo dục, môn Ngữ  văn trong nhà  trường phổ  thông cũng đang từng bước thay đổi phương pháp cũng như  mục đích  dạy học nhằm phù hợp với yêu cầu của thời đại. Dự  thảo Chương trình giáo dục  phổ thông môn Ngữ văn mới (2018) xác định mục tiêu chung của môn học Ngữ văn  là: “Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ và   tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc   biệt, chương trình môn Ngữ  văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ  và  năng lực văn học thông qua hệ  thống kiến thức phổ  thông cơ  bản về  văn học,  tiếng Việt và các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.” Để  đáp ứng được mục tiêu dạy   học Ngữ  văn trong trường phổ  thông như  đã   nói  ở  trên, đòi hỏi cần thay  đổi   phương pháp dạy học, đó là lấy học sinh làm trung tâm và phát huy tối đa tính tích  cực, chủ động, sáng tạo của người học. Trong đó dạy học phát triển năng lực cho   học sinh là cơ bản.  2. Phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT Chương trình Ngữ văn THPT, phân môn Làm văn chiếm một vị trí khá quan   trọng nhưng tương đối khó đối với cả người dạy và người học. Kĩ năng làm văn là   thước đo năng lực ngôn ngữ, vốn sống, vốn văn học qua các kỹ  năng như: nhận   thức, tư duy, hành văn, lập luận, tạo lập văn bản, …. Với tư cách là một bộ  phận  của môn Ngữ  văn, phần làm văn trong nhà trường phổ  thông có mục đích là hình  thành và phát triển ở học sinh “năng lực sử dụng tiếng Việt” trong đó có năng  lực   tạo lập văn bản (dạng viết, dạng nói), năng lực tự chủ, tự học, năng lực cảm thụ  văn học, năng lực tư  duy và giải quyết vấn đề, …. Tư  duy logic trong việc phân  tích đề  văn, hình thành ý tưởng, tìm ý, sắp xếp ý, sử  dụng các thao tác lập luận   trong bài viết, rà soát và đánh giá bài viết. Tư duy hình tượng được thể hiện trong   việc xây dựng các hình tượng trong văn miêu tả, tự  sự, biểu cảm, nghị  luận văn   học…. Sản phẩm bài viết của học sinh góp phần thể hiện tổng hợp vốn sống, vốn   văn học, nhân cách của các em. Qua bài viết, học sinh bộc lộ con người thực của   mình. Bởi vậy, việc dạy làm văn còn có nhiều thuận lợi để  hình thành các phẩm   chất tốt đẹp cho người học. Như vậy, việc dạy học làm văn ở trường phổ thông hướng tới mục tiêu hoàn   chỉnh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản; nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ  nhằm đạt hiệu quả cao trong giao tiếp, bồi dưỡng năng lực tư  duy, năng lực giải  quyết vấn đề và góp phần hình thành các phẩm chất tốt đẹp cho học sinh. Tuy nhiên, làm văn lại là phần học được xem là khô khan, trừu tượng, khó  dạy và ít hấp dẫn. Thầy ngại dạy, trò chán học đang là một thực tế  phổ  biến  ở  phân  môn làm văn, trong đó có các trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương  (Nghệ  An). Do đó, người dạy chưa làm rõ được mục tiêu của phân môn  làm văn  4
  5. và chưa phát triển được các phẩm chất, năng lực của môn Ngữ  văn qua làm văn  cho học sinh.  3. Trong thời gian dạy học chúng tôi đã có ý thức tích lũy, nghiên cứu, tìm tòi  để  đổi mới phương pháp dạy học làm văn nhằm trong trường THPT nhằm kích  thích sự hứng thú của học sinh, hướng tới phát triển các phẩm chất, năng lực học  sinh và đã đạt được hiệu quả. Vì thế, chúng tôi xin trình bày đề  tài “Dạy học làm văn theo định hướng   phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 11 tại trường Trung học ph ổ   thông Nguyễn Sỹ Sách”. Đề  tài lần đầu tiên được áp dụng và công bố  tại trường THPT Nguyễn Sỹ  Sách năm học 2020­2021 II. PHƯƠNG PHÁP, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu ̉ ải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu của đê tai,  chúng tôi s Đê gi ̀ ̀ ử dụng đồng thời hai   phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm.           ­ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ thống hóa lý  thuyết.          ­ Phương pháp quan sát và điều tra, khảo sát và tổng hợp số liệu để nắm bắt   những dữ liệu cần thiết về hoạt động phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh         ­ Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu        ­ Phương pháp giải dạy thực nghiệm  2. Phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu là những quan điểm, lý thuyết dạy học Làm văn  theo định hướng phát triển phẩm chất,   năng lực cho học sinh lớp 11  ở  trường  Trung học phổ thông trong chương trình Ngữ văn. 2.2. Về  thực tiễn, chúng tôi dự  kiến khảo sát một số  trường THPT trên địa   bàn Huyện Thanh Chương (Trường THPT Nguyễn Sĩ Sách, Trường THPT Đặng  Thai Mai, Trường THPT Đặng Thúc Hứa,…) III. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI II. PHƯƠNG PHÁP, PHẠM VI NGHIÊN CỨU III. CẤU TRÚC 5
  6. IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tiễn II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÀM VĂN THEO ĐỊNH  HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC III. CÁCH THỨC TRIỂN KHAI ÁP DỤNG C. KẾT LUẬN I. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI II. KHẢ NĂNG MỞ RỘNG CỦA ĐỀ TÀI III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI ­ Hình thành ý tưởng: năm học 2016 ­ 2017 ­ Nghiên cứu và thể nghiệm đề tài: + Năm học: 2017 – 2018 + Năm học: 2018 – 2019 + Năm học: 2019 – 2020 ­ Hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm: Tháng 3/2021 ­ Báo cáo thẩm định hội  đồng khoa học trường THPT Nguyễn Sỹ  Sách:  Tháng 3/2021 6
  7. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1.Phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh ­ một yêu cầu cơ bản trong đổi   mới giáo dục phổ thông Trong yêu cầu "đổi mới căn bản, toàn diện" giáo dục phổ  thông, đổi mới  mục tiêu giáo dục được xem là một yêu cầu cơ  bản. Bởi lẽ, sự đổi mới mục tiêu   giáo dục sẽ  dẫn đến đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học. Từ  việc coi trọng cung cấp tri thức, xem đó là yêu cầu hàng đầu, giáo dục đang đổi   mới theo định hướng phát triển năng lực phẩm chất, hình thành kỹ năng cho người  học. Mục tiêu của nó là phát triển toàn diện, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của  người học, giúp người học phát huy tinh thần tích cực, chủ  động, sáng tạo trong  vận dụng tri thức, kĩ năng để  giải quyết các vấn đề  trong học tập và trong cuộc  sống. Đến nay, đã có nhiều định nghĩa về năng lực, thu hút sự quan tâm của các nhà   nghiên cứu trong và ngoài nước. Vậy, năng lực là gì? Khái niệm “năng lực” có nguồn gốc từ tiếng La Tinh (Competentia), nghĩa là   khả  năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có, để  thực hiện một hoạt động   nào đó với chất lượng cao. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Thế giới (OECD)   quan niệm “năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức   hợp trong một bối cảnh cụ thể”. Denyse Tremblay xem năng lực là “khả năng hành  động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp   các nguồn lực để  đối mặt với các tình huống trong cuộc sống”. Còn theo E.F.  Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng   như   sự  sẵn sàng của học sinh (HS)  nhằm giải quyết những vấn đề  nảy sinh và  hành động một cách có trách nhiệm, có sự  phê phán để  đi đến giải pháp”. Có thể  thấy, các ý kiến đã nêu đều quy năng lực vào phạm trù khả năng.Theo đó, năng lực  tương đương với việc đáp ứng và giải quyết vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng, 2000), định nghĩa  năng lực là: “1.Khả  năng, điều kiện chủ  quan hoặc tự  nhiên sẵn có để  thực hiện  một hoạt động nào đó. 2. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả  năng  hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [40, tr.661]. Tài liệu tập   huấn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về  Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học   tập theo định hướng năng lực học sinh môn Ngữ  văn cấp THPT  (2014) quan niệm  về  năng lực: “là sự  kết hợp một cách linh hoạt và có tổ  chức kiến thức, kỹ  năng  với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, …. Năng lực thể hiện sự vận dụng  tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kĩ năng) được  7
  8. thể hiện thông qua các hoạt động cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào   đó”. Trong Tài liệu Hội thảo Chương trình giáo dục tổng thể giáo dục phổ  thông   mới  (Bộ  GD&ĐT, 2015) năng lực được xem “là sự  huy động tổng hợp các kiến  thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như  hứng thú, niềm tin, ý chí, … để  thực hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định”. Những dẫn trích trên đây cho thấy, mặc dầu có những khác biệt nhất định   trong cách diễn giải nhưng nhìn chung các ý kiến khi nói đến năng lực đều nhấn  mạnh yếu tố  khả  năng, tính tích cực trong việc tổ  chức và hoàn thành các hoạt  động của con người trong học tập cũng như  trong giải quyết các tình huống của   cuộc sống. Theo đó, năng lực là khả năng làm việc có hiệu quả những hành động,   việc làm cụ thể dựa trên việc huy động kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm, sự vận   dụng thuần thục các thao tác, kĩ năng gắn liền với một thái độ  đúng đắn, tích cực  và khả năng vận dụng linh hoạt. Năng lực là sự  tổng hòa giữa vốn hiểu biết, kinh   nghiệm, sự thuần thục các thao tác kĩ năng cùng khả năng vận dụng vào thực tế để  giải quyết những vấn đề  đặt ra trong cuộc sống. Năng lực không do bẩm sinh mà   có mà được hình thành qua học tập, lao động và sáng tạo. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã công bố mục tiêu giáo dục học sinh   phổ thông để rèn luyện 5 phẩm chất và 10 năng lực. Chương trình các môn học và   sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy khi triển khai đều hướng tới mục tiêu này,  đó là các phẩm  chất:  yêu nước, nhân  ái, chăm chỉ, trung thực  và trách  nhiệm.  Chương trình cũng góp phần hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực   cốt lõi, gồm: năng lực tự  chủ  và tự  học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực  giải quyết vấn đề  và sáng tạo. Năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển  chủ  yếu thông qua một số  môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực  ngôn ngữ, năng lực tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm   mỹ và thể chất. Theo đó, bộ môn Ngữ văn bên cạnh hướng tới góp phần hình thành cho học  sinh những phẩm chất, năng lực chung, còn góp phần hình thành  ở  các em những   năng lực riêng mà môn Ngữ văn có ưu thế, thậm chí chỉ  có ở  môn Ngữ văn. Đó là  các năng lực như: năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực thưởng thức văn học/cảm  thụ thẩm mĩ, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản bản   thân, năng lực hợp tác. Bên cạnh tính đặc thù của bộ môn Ngữ văn, mỗi phân môn   có những yêu cầu, ưu thế mang tính đặc thù. 1.2. Tính đặc thù của môn Làm văn trong yêu cầu phát triển phẩm chất,  năng   lực cho học sinh Quan điểm tích hợp đã dẫn tới sự ra đời của môn Ngữ văn với ba phân môn:   Văn học, Làm văn và Tiếng Việt dựa trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ  năng nghe, nói, đọc, viết bằng Tiếng Việt cho HS. Làm văn là phần thực hành tổng  8
  9. hợp các kiến thức, kĩ năng của các phần tiếng Việt, Văn học và một phần kiến   thức lí thuyết làm văn. Yêu cầu quan trọng nhất của làm văn là HS nắm được các lí   thuyết cơ bản về tạo lập văn bản (nói và viết); các kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập   dàn ý, viết đoạn văn, viết bài văn và sửa chữa văn bản. HS cần được rèn luyện,  thực hành nhiều lần với các thao tác lập luận khác nhau, với các kiểu bài khác   nhau. Năng lực mà HS có được ở phần Văn học (đọc – hiểu và tiếp nhận văn bản),   Tiếng Việt (năng lực giao tiếp bằng Tiếng Việt) tạo điều kiện trực tiếp để  đạt   đến mục tiêu quan trọng nhất của Làm văn là tạo lập văn bản (nói và viết) đạt kết   quả cao. Ngược lại, những tri thức, kĩ năng Làm văn quay trở lại sẽ góp phần nâng  cao năng lực sử dụng tiếng Việt và khả  năng tiếp nhận văn bản ở  học sinh được   tốt hơn. Chương trình Làm văn THPT mới không dựa vào các thao tác nghị  luận để  chia nhỏ văn nghị luận ra nhiều loại (chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận, …) như chương trình Làm văn CCGD. Bởi vì, không có một bài nghị  luận nào chỉ  sử  dụng một thao tác chứng minh, giải thích, hay bình luận, mà bao giờ cũng vậy,  một bài văn nghị  luận hấp dẫn phải có sự  vận dụng linh hoạt nhiều thao tác lập  luận. Cũng vì vậy, nên một thao tác lập luận có thể  được vận dụng trong nhiều   kiểu bài nghị  luận khác nhau, có điều nó cần được vận dụng như  thế  nào, ít hay   nhiều và nhằm mục đích gì. Không đồng nhất các thao tác nghị  luận với các kiểu  bài vừa phù hợp với thực tế viết văn lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho HS sử  dụng các thao tác đó trong suốt cả quá trình học văn nghị luận ở THCS và THPT. Chương trình làm văn cũng đã có những đổi mới trong cách ra đề  kiểm tra,  đánh giá, nhằm tạo điều kiện cho HS suy nghĩ độc lập, tích cực, viết những điều  mình nghĩ, mình quan niệm chứ  không phải gò bó theo những khuôn phép, định  hướng cho trước. Theo tinh thần này, đề văn chỉ nêu vấn đề là chủ yếu.Khi vấn đề  đặt ra, HS tự mình xác định hướng giải quyết, bày tỏ và bảo vệ ý kiến, quan niệm  của mình, phản bác lại ý kiến, quan niệm mà mình không đồng tình. HS cũng có  thể linh hoạt trong việc vận dụng thao tác lập luận hoặc kết hợp các thao tác lập  luận để  làm sáng tỏ  vấn đề. Đây chính là một trong những điểm mới trong hoạt   động kiểm tra, đánh giá môn Ngữ  văn theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực   người học. Cách dạy và học làm văn theo hướng tích hợp với Văn học và tiếng Việt   nhằm góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. Theo tinh thần trên, đại  đa số ngữ liệu, các vấn đề  ở  phân môn làm văn đều được rút ra từ  các văn bản ở  phần Văn học, sử  dụng triệt để  kiến thức và kĩ năng về  Văn học và Tiếng Việt   trong quá trình dạy làm văn. Đề  làm văn chủ  yếu gắn với các văn bản văn học   được học trong phần đọc hiểu của chương trình. Đề  nghị  luận xã hội cũng được   9
  10. lấy trên cơ sở các văn bản nghị luận các em đã được học trong chương trình, từ đó   gợi mở để HS bày tỏ ý kiến của mình về các vấn đề xã hội của hôm nay. Quan điểm tích cực hóa hoạt động của HS được khẳng định trong chương   trình làm văn thể hiện ở cả nội dung và phương pháp dạy học. Xu hướng dạy làm   văn gắn liền với thực tiễn cuộc sống thông qua các kiểu văn bản, như: nghị  luận   về  một đoạn văn/đoạn thơ; các thao tác lập luận; viết tiểu sử  tóm tắt; … các đề  làm văn (nghị luận văn học và nghị luận xã hội) có tác dụng kích thích hứng thú và   suy nghĩ độc lập của HS. Phương pháp dạy học làm văn cũng có nhiều thay đổi  tích cực, đó là bằng việc cho HS hoàn thành các nhiệm vụ  hoạt động, HS tự  phát  hiện ra tri thức, nắm chắc các phương thức hoạt động, từ  đó mà chiếm lĩnh tri   thức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo cần thiết. Vấn đề kiểm tra, đánh giá trong phân môn làm văn cũng góp phần phát triển   năng lực cho HS.Kiểm tra, đánh giá là một mắt xích có mối quan hệ  qua lại với  toàn bộ quá trình dạy và học.Điều đó có nghĩa là việc kiểm tra, đánh giá không chỉ  được thực hiện bằng các đề thi, bài thi mà trải ra cả quá trình dạy học, đặc biệt là   các hoạt động trên lớp cũng như   ở  nhà của người học. Trên tinh thần  ấy, thái độ  tham gia, chất lượng hoạt động của HS trong quá trình phát hiện tri thức, thực hành  luyện tập là căn cứ rất quan trọng để đánh giá quá trình dạy và học.  Theo mục tiêu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, dạy học Ngữ văn  cần bồi dưỡng, phát triển các phẩm chất, năng lực Ngữ  văn đa dạng của người  học, giúp họ  tự  nhìn thấu những mối liên hệ  giữa văn chương và cuộc đời để  có  thể tích cực, chủ động và sáng tạo trong môi trường sống cụ thể. Dạy học làm văn  trong chương trình THPT hiện nay có thể góp phần phát triển các phẩm chất, năng  lực đặc thù của môn Ngữ văn: Qua việc HS làm các bài văn nghị luận văn học, xã   hội, có thể  góp phần hình thành các phẩm chất yêu nước, nhân ái, trách nhiệm,  trung thực. Việc học sinh phát hiện được những tình huống có trong đề văn và văn   bản,  HS lí giải được các hiện tượng văn học và hiện tượng trong đời sống cũng  như  những vấn đề  về  tư  tưởng, đạo lí, đứng trước những hiện tượng khác nhau,   học sinh biết nhìn nhận và đánh giá một cách thỏa đáng, hợp  lí sẽ  góp phần hình  thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Năng lực sáng tạo  được thể  hiện thông qua các bài viết của HS. Đó là sự  mới mẻ trong cách cảm nhận của HS, hoặc cách diễn đạt mới lạ những nội dung   vốn đã quen thuộc. Để đáp ứng yêu cầu này, đề văn cần tạo điều kiện cho HS suy   nghĩ độc lập, tích cực. Đề văn chỉ nêu vấn đề là chủ yếu, còn HS tự mình xác định  hướng giải quyết. Đồng thời, qua đề  văn và trong quá trình dạy học, người GV   cần hướng tới việc rèn luyện cho HS khả  năng tư  duy năng động, sáng tạo, dám  nghĩ, dám nêu vấn đề và dám lật ngược những vấn đề tưởng như đã là chân lí. 10
  11. Phân môn làm văn còn có  ưu thế  trong việc phát triển   năng lực giao tiếp   tiếng Việt của HS. Như  chúng ta đã biết, mục tiêu quan trọng nhất của phân môn  Làm văn vẫn là tạo lập được văn bản để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp. Những   tri thức, kĩ năng làm văn không chỉ  giúp HS trong việc tạo lập được các loại văn  bản trong đời sống mà còn góp phần nâng cao năng lực sử  dụng tiếng Việt trong   giao tiếp cũng như trong cuộc sống. Mặt khác, khi học làm văn, trong quá trình lập   luận, HS phải huy động không chỉ  vốn kiến thức về  văn học và xã hội của mình   mà còn bộc lộ năng lực sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải   thông điệp theo mục đích giao tiếp mà mình hướng tới. Và như  vậy, HS qua làm   văn mà phát triển được năng lực giao tiếp, bởi khi làm văn, HS cũng cần phải xác   định được mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp để xây dựng   cách thức lập luận phù hợp và tổ chức cấu trúc văn bản nhằm đạt được hiệu quả  cao nhất. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn  Ngữ  văn và cũng là năng lực đặc thù của nghị  luận văn học trong phân môn làm  văn.Tiếp xúc với văn bản văn học là HS bước vào thế giới hình tượng nghệ thuật   mà nhà văn xây dựng nên. Lúc này, năng lực thưởng thức văn học của HS được thể  hiện qua cách các em nắm bắt được các cái hay, cái đẹp hay sự  xấu xa, bần tiện   mà nhà văn thể  hiện qua các sự  kiện, sự  vật, hiện tượng, con người trong tác  phẩm. Nó còn thể hiện ở chỗ, HS biết rung động trước cái đẹp, cái thiện, biết phê   phán và lên án cái xấu, cái ác để  từ  đó biết sống tốt hơn. Có thể  nói, “Một trong  những yếu tố quan trọng nhất của năng lực văn học là hiểu được cái hay, cái đẹp   của tác phẩm văn học.Nhưng trong lĩnh vực của cái đẹp, hiểu không chỉ là chuyện   của lí trí mà còn là vấn đề  tình cảm, cảm xúc.Ở  đây, nhận thức được đối tượng  bao hàm những phản ứng nào đấy về tình cảm, cảm xúc trước đối tượng.Người ta  gọi đấy là năng lực thẩm mĩ”. Những phân tích trên đây cho thấy, phân môn làm văn có những ưu thế riêng   trong việc hình thành, phát triển một số phẩm chất năng lực cho HS. Tuy nhiên, để  phát huy tới mức tối đa khả năng của phân môn làm văn, người giáo viên bên cạnh   tri thức, cần có kỹ năng sư phạm, đặc biệt là tính độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong   những tình huống cụ  thể. Nói cách khác dạy học làm văn theo định hướng phát   triển năng lực là hữu ích, có tính khả thi, song hiệu quả của nó lại phụ thuộc nhiều   vào nhận thức, thái độ và năng lực sư phạm của giáo viên. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Khảo sát các đối tượng 2.1.1. Khảo sát giáo viên 11
  12. Phát triển năng lực HS qua dạy – học là một hoạt động cần thiết trong xu  thế  dạy học ngày nay, phân môn làm văn không nằm ngoài xu thế  đó. Hoạt động   dạy – học này sẽ góp phân hình thành, phát triển và hoàn thiện những phẩm chất,   năng lực cốt yếu nhất của con người thời đại. Đó là sự tự tin, năng động; khả năng  tư  duy độc lập, sáng tạo, khả  năng  ứng phó và giải quyết những tình huống khác   nhau của cuộc sống một cách linh hoạt. Đặc biệt là hướng tới rèn luyện cho học   sinh kỹ năng tiếp nhận và tạo lập các loại văn bản trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong nhận thức tư tưởng cũng như  trong thực tiễn dạy học của   giáo viên (GV) vẫn chưa có sự  đổi mới theo định hướng này. Dường như  những  quan điểm dạy học truyền thống và phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu  bén rễ trong suy nghĩ của GV. Thêm vào đó là sức ì, tâm lý ngại đổi mới, ngại khó   cũng là rào cản đối với  GV trong việc đổi mới phương pháp dạy – học theo định   hướng phát triển phẩm chất, năng lực. Để  có cái nhìn khách quan về  tình hình dạy – học làm văn  ở  trường THPT  hiện nay, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế việc dạy – học của GV qua việc   dự giờ, trao đổi, phỏng vấn giáo viên.  Đối  tượng  khảo  sát  là  GV  dạy  môn  Ngữ  văn  trên  địa  bàn  huyện  Thanh  Chương. Cụ thể là ở 3 trường: Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách, THPT Đặng Thai   Mai, THPT Đặng Thúc Hứa. Có 36 GV trả  lời câu hỏi. Nội dung khảo sát xoay   quanh vấn đề về nhận thức, quan niệm, phương pháp dạy học làm văn theo hướng   phát triển năng lực Ngữ văn cho HS THPT. Kết quả khảo sát xin xem ở phần  Phụ   lục.   Trả lời câu hỏi về tính cần thiết của việc dạy học làm văn theo định hướng  phát triển năng lực có 31/36 GV cho rằng điều này là cần thiết và có tính khả  thi  (chiếm tỉ lệ 86,1%). Trên thực tế một số GV rất có ý thức trong việc đổi mới dạy   học nhằm hình thành và phát huy năng lực,phẩm chất  HS bằng những phương  pháp khác nhau, như thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề, ra những đề văn có tính  “mở”, gây nhiều tranh cãi, nhiều ý kiến trái chiều.  Song, bên cạnh đó vẫn còn  nhiều GV chưa chú ý hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn cho HS trong dạy   học Làm văn. Có 15/36 GV (chiếm tỉ lệ 41, 7 % ) cho rằng khi dạy làm văn ít chú ý  đến việc hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn cho HS.  Thực tế  dạy học giáo viên chỉ  chú trọng dạy phần đọc văn, tức dạy đọc  hiểu, dạy tiếp nhận văn bản mà chưa chú ý đúng mức đến việc dạy HS tạo lập  văn bản, dạy học làm văn. Dựa trên thực tế dạy học và qua dự giờ, chúng tôi thấy   việc dạy học làm văn ở nhà trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Hạn chế thứ nhất là việc dạy học làm văn ở phổ thông hiện nay chưa chú ý  dạy cho HS quá trình tạo lập văn bản, chưa chỉ ra được các bước tiến hành tạo lập  12
  13. văn bản mà chỉ chú trọng dạy lý thuyết, cho HS nhận diện các kiểu bài. Hạn chế  này do GV luôn xem SGK là pháp lệnh, ngại thay đổi, rập khuôn theo những gì có  sẵn. Hạn chế  này dẫn đến việc HS không nắm được cách viết, chỉ  có thể  bắt   chước theo những bài mẫu có sẵn. Hạn chế thứ hai là giáo viên chủ yếu dạy làm văn để kiểm tra kiến thức của   HS.Ví dụ như viết bài phân tích, cảm nhận về một tác phẩm, một hình tượng văn  học.Khi đó, HS viết bài làm văn như là một cách để ôn tập lại kiến thức đã học và   trả bài những gì đã học được cho GV.GV chưa chú trọng việc dạy cho HS kĩ năng   viết các loại văn bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp trong cuộc sống. Nguyên nhân của  hạn chế  này là do người dạy vẫn còn nặng về  truyền thụ  kiến thức cho HS mà  chưa chú trọng dạy học năng lực. Việc dạy chỉ nhằm truyền tải kiến thức đến HS   chứ chưa chú trọng đến rèn kỹ năng cho người học.Hạn chế này dẫn đến hậu quả,   GV chỉ coi trọng các kiểu bài nghị luận để phục vụ cho kiểm tra, thi cử. Ít cho HS   viết ngắn, viết đoạn, ít khi rèn cho HS năng lực tưởng tượng, sáng tạo. Một hạn chế nữa trong dạy học làm văn là GV chưa chú ý giúp HS viết bài   làm văn theo định hướng giao tiếp. Chưa hướng dẫn HS quan tâm đến mục đích  của việc tạo lập văn bản: viết cho ai? Viết để  làm gì?Vì vậy, GV chưa giúp HS  thấy được ý nghĩa thực tiễn của việc viết mà chỉ biết việc học viết là để phục vụ  kiểm tra, thi cử trong nhà trường. Điều này dẫn đến hiện tượng HS chán học viết,  thường thấy nặng nề khi học làm văn và thường hay chép theo bài văn mẫu để đối   phó. Từ  những hạn chế  nêu trên cho thấy trong thực tế  dạy học phân môn làm   văn  ở  trường THPT vẫn còn nhiều bất cập.Hoạt động dạy học Làm văn vẫn còn  mang tính truyền thống, chủ  yếu vẫn là thầy nói, trò nghe, ghi chép lại theo kiểu  truyền thụ kiến thức một chiều.  Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đang đổi mới phương pháp dạy học theo   định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS, đòi hỏi người giáo viên cũng cần   có sự đổi mới phương pháp dạy học làm văn một cách toàn diện. 2.1.2. Khảo sát học sinh Khi được khảo sát về tính cần thiết trong việc hình thành và phát triển phẩm  chất, năng lực trong dạy học làm văn thì đa phần HS được khảo sát đều cho rằng  là cần thiết. Có 89,5% HS được hỏi trả  lời phân môn làm văn có vai trò rất quan   trọng và quan trọng trong việc phát triển phẩm chất, năng lực cho HS THPT . Thực  tế, trong các hoạt động học tậpcác em cũng thích được thỏa sức sáng tạo, được  trân trọng những ý kiến riêng của mình, thích được thể  hiện quan điểm riêng, cái  nhìn riêng của bản thân. Phân môn làm văn là “mảnh đất” màu mỡ để  các em bộc   lộ rõ phẩm chất, nhân cách và năng lực riêng của mình. 13
  14. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế  có đến 411/480 HS (chiếm tỉ  lệ  85,6%) trả  lời  rằng trong quá trình học làm văn, các em còn  tiếp thu bài học một cách thụ  động, xuôi chiều. Nhiều HS chưa có thói quen tích cực, chủ  động, sáng tạo, và   chưa có nhu cầu tìm kiếm kiến thức cũng như  hình thành những kĩ năng cho mình   qua việc học làm văn. Hầu như HS đã quen việc tiếp nhận kiến thức có sẵn do GV   truyền thụ theo kiểu ghi nhớ máy móc mà vẫn chưa chưa có ý thức suy nghĩ, lật lại  vấn đề, và cũng ngại tranh luận, ngại suy nghĩ. Thinh thoang, vân co môt sô HS đăt ̉ ̉ ̃ ́ ̣ ́ ̣  ̉ ̃ ̀ ̣ ̣ ước môt vân đê ch câu hoi nghi vân sau môi bai hoc, hoăc tr ́ ̣ ́ ̀ ưa ro, nh ̃ ưng sô HS ây rât ́ ́ ́  ́ ưa thê tao ra môt hiêu  it, ch ̉ ̣ ̣ ̣ ưng rông rai. ́ ̣ ̃ Nguyên nhân của hạn chế  này là do giáo dục của chúng ta còn nặng về  truyền thụ kiến thức hơn năng lực. Học sinh học làm văn chủ yếu chỉ  để  viết bài  văn nghị  luận phục vụ  kiểm tra, thi cử. Do đó, HS thường chỉ  viết theo bài văn   mẫu, hoặc viết lại những gì giáo viên đã dạy để an toàn. Một hạn chế  nữa trong việc học làm văn của học sinh là học làm văn để  phục vụ cho việc học môn Ngữ văn – phần đọc hiểu chứ không phải học để viết.   Có nghĩa là học làm văn để  việc học Ngữ  văn được tốt hơn. Ví dụ  như  viết bài  phân tích, cảm nhận một tác phẩm văn học. Việc viết lúc này của học sinh thực  chất chỉ là trả bài những gì đã được học. Còn học để viết có nghĩa là học để  biết  cách giao tiếp bằng hình thức viết. Học để có kỹ năng viết được các loại văn bản  đáp ứng nhu cầu giao tiếp trong cuộc sống.  Do đó, trong thực tế  HS khi làm bài thường lệ  thuộc vào các tài liệu tham  khảo, các bài văn mẫu, hoặc khi trình bày ý kiến thì không dám bày tỏ  quan điểm  riêng của mình mà chấp nhận ý kiến một cách đơn giản, xuôi chiều  hoặc lường ý  GV để  trả  lời. Kết quả  khảo sát cho thấy, có 297/480 HS (chiếm tỉ lệ  61,9%) trả  lời rằng trong bài viết của mình không có tính sáng tạo, sức thuyết phục chưa cao,   ít khi vận dụng linh hoạt nhiều thao tác lập luận trong bài viết, rất ít khi bày tỏ  ý  kiến cá nhân trong bài viết. Nhiều HS không dám bày tỏ  quan điểm của bản thân  trước những vấn đề “nóng”, mang tính chính trị hoặc trước những vấn đề văn học  hoặc xã hội phức tạp, nhiều tranh cãi. 2.1.3. Khảo sát tài liệu tham khảo Hệ  thống tài liệu tham khảo có hai loại. Tài liệu tham khảo dành cho giáo  viên và tài liệu tham khảo dành cho học sinh. Hệ  thống các tài liệu hướng dẫn dạy học làm văn dành cho giáo viên bao   gồm: Sách giáo viên, thiết kế bài giảng, hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ   năng, … Nhìn chung, các tài liệu này đều bám sát SGK để gợi mở, định hướng cho   GV khi dạy học. Cấu trúc của các tài liệu này gồm hai phần: phần mục tiêu bài  học và phần những điều cần lưu ý. Trong phần mục tiêu, các tác giả  định hướng  14
  15. về  kiến thức, kĩ năng, thái độ.  Ở  phần lưu ý dạy học, các tác giả  thường định   hướng nội dung, phương pháp dạy học và tiến trình tổ  chức dạy học, kiểm tra,   đánh giá và gợi ý giải bài tập.  Ví dụ định hướng dạy – học bài Thao tác lập luận bác bỏ, SGV Ngữ văn 11,  tập 2, do Phan Trọng Luận chủ biên, phần mục tiêu bài học nêu:  Giúp HS: ­ Hiểu được mục đích, yêu cầu và cách bác bỏ ­ Biết cách bác bỏ được một ý kiến, quan niệm sai lầm. Phần những điều cần lưu ý, về  nội dung dạy học, SGV nêu đặc điểm của  bài học qua đó nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của thao tác lập luận bác bỏ  là  không chỉ hữu ích cho việc viết bài nghị luận mà còn rất cần thiết trong cuộc sống.   Người có ý thức và biết cách bác bỏ  là người có nhận thức đúng đắn, tư  duy sắc  sảo. Do đó, dạy bài này, GV không chỉ  giúp HS hiểu yêu cầu, cách thức bác bỏ  trong khi làm văn nghị  luận mà còn nâng cao ý thức vận dụng thao tác này trong   giao tiếp  ứng xử. Trọng tâm bài học là cách thức lập luận bác bỏ. Còn phương  pháp và tiến trình tổ  chức dạy học, SGV đề  xuất phương pháp dạy học  là phối  hợp diễn dịch và quy nạp, truyền thụ kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Tiến trình tổ  chức dạy học, chủ yếu là trả lời các câu hỏi trong SGK. Không khó để nhận ra, phần định hướng của SGV chủ yếu mới dừng lại  ở  việc nhấn mạnh vai trò của thao tác nghị luận, định hướng chung về kiến thức và  trả lời các câu hỏi trong SGK mà chưa có định hướng cụ thể về phương pháp dạy   học làm văn theo đặc trưng của phân môn. Phần định hướng cũng chưa chú ý đến  cách tổ  chức hoạt động một giờ  dạy học làm văn, như: khâu chuẩn bị, các bước   tiến hành, hệ thống câu hỏi... Định hướng dạy học bài Luyện tập viết tiểu sử tóm   tắt, SGV Ngữ văn 11, tập 2 chỉ ghi Xem bài viết chung “Tiểu sử tóm tắt”  ở trang   64. Như vậy, SGV cũng chưa phân định được đặc trưng riêng khi dạy lý thuyết và  thực hành làm văn. Bài Lập luận trong văn nghị  luận, SGV Ngữ  văn 10, tập 2, có  hai phần lớn, Mục tiêu bài học và Những điều cần lưu ý. Phần những điều cần lưu  ý trình bày nội dung và phương pháp, tiến trình tổ chức dạy học. Về phương pháp,   SGV gợi ý sử  dụng phương pháp diễn dịch và luyện tập. Còn tiến trình tổ  chức   dạy học chỉ dừng lại  ở việc trả lời các câu hỏi ở SGK. Như vậy, SGV chủ yếu là  trả  lời các câu hỏi  ở  SGK mà chưa có những định hướng chi tiết, cụ  thể  phương   pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh theo đặc trưng của môn Ngữ  văn nói chung và phân môn Làm văn nói riêng.  Từ  định hướng trong SGK và hướng dẫn dạy học trong SGV, có thể  thấy   vấn đề  đặc trưng của phân môn Làm văn chưa được quan tâm. Nói cách khác,  15
  16. phương pháp, kỹ  năng dạy học làm văn nhằm phát huy năng lực của HS qua giờ  dạy học Làm văn chưa được thể hiện rõ. Tài liệu tham khảo cho HS chủ  yếu là sách Để  học tốt Ngữ  văn, sách Bồi   dưỡng làm văn, Những bài làm văn mẫu … Những tài liệu này chủ  yếu là hướng  dẫn HS trả  lời các câu hỏi tìm hiểu bài trong SGK hoặc là các bài văn mẫu mà  không hướng dẫn HS phương pháp tự học làm văn. 2.1.4. Đề kiểm tra, đánh giá thi cử Bên cạnh dạy ­ học, việc kiểm tra đánh giá có vai trò quan trong trong việc  phát triển năng lực cho HS. Điều này được thể hiện ở các khâu, như: ra đề, chấm  bài, trả  bài. Trong mấy năm gần đây,  song song với yêu cầu đổi mới về  phương  pháp dạy học Ngữ  văn theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS là yêu cầu  đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực. Thực tế cho thấy, hướng  ra đề “mở” đã được nhiều GV quan tâm.  Như cách  ra đề theo hướng yêu cầu HS tăng cường vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hay ra  đề theo hướng yêu cầu HS phát biểu quan điểm, nhận thức của bản thân. Đa dạng  hóa các  dạng  đề  kiểm tra,  cách thức kiểm tra,  đánh giá. Cách làm này sẽ  góp  phầnvào việc phát huy năng lực HS, tác động tích cực đến tư  duy, khả  năng sáng   tạo của HS, tạo hứng thú, đam mê học tập cho các em,… Tuy nhiên,  ở  một bộ  phận không nhỏ của GV vẫn chưa thoát ra được thói quen ra đề hướng tới kiểm tra   tri thức thay vì vận dụng. Nhiều GV ra đề  chỉ  tập trung vào một số  chủ  đề  quen  thuộc, có sẵn mà chưa có sự  đổi mới và chưa mạnh dạn ra những đề  dạng “mở”  để phát triển năng lực HS. Đặc biệt là chưa chú ý nhiều đến những đề  văn mang  tính thời sự, chứa nhiều ý kiến trái chiều để  kích thích khả  năng tư  duy độc lập,   sáng tạo của HS. Đề  văn còn đơn điệu, bó hẹp trong chương trình, chưa mở rộng  ngoài chương trình và trong cuộc sống nên hạn chế khả năng vận dụng kiến thức  tổng hợp và các khả  năng rèn luyện kĩ năng làm văn nghị  luận, khả  năng tư  duy,  sáng tạo của HS. Bên cạnh đó, trong các kì thi tốt nghiệp và tuyển sinh đại học,   cao đẳng những năm gần đây, nội dung các câu hỏi đã có phần “mở” nhưng hướng   dẫn chấm vẫn chưa thật “mở”, mà vẫn còn nặng về kiểm tra nội dung kiến thức   nhiều hơn là đánh giá năng lực. Nhiều GV chưa thật chú trọng khâu chấm, chữa   bài một cách nghiêm túc, cẩn thận cho HS. Đặc biệt, GV vẫn chưa nắm được kĩ  năng xây dựng những đáp án, phương án đánh giá bài làm của HS phù hợp với dạng  đề “mở”. Vì vậy, chưa đánh giá đúng mức những sáng tạo riêng, độc đáo trong bài   làm của các em. Hệ quả của cách đánh giá như trên là làm cho bản thân GV thấy gò  bó, khó thể hiện được sự sáng tạo hay tâm huyết nghề nghiệp của mình trong quá  trình giảng dạy, đồng thời cũng không phát huy được khả năng sáng tạo của HS. Về  phía học sinh xu hướng ra đề  “mở” ít nhiều đã đem đến hứng thú cho  người học, giúp các em có cơ  hội được tư  duy, suy nghĩ, sáng tạo, được thỏa sức  16
  17. bộc lộ tài năng, năng lực của bản thân. Việc ra đề “mở” cũng đòi hỏi HS phải biết   cách tổ  chức lại kiến thức, biết liên hệ,mở rộng các vấn đề  của văn học và của  đời sống để giải quyết vấn đề. Đây là cơ hội để HS phát huy tối đa khả năng sáng  tạo, có thể thoải mái bộc lộ quan điểm riêng của bản thân mà không sợ “chệch” ý  GV. Qua thực tiễn dạy học và kiểm tra, đánh giá HS trong những năm gần đây,  chúng tôi đã may mắn gặp được những bài văn giàu tính sáng tạo của HS. Các em  đã có những suy nghĩ, trăn trở  sâu sắc, có cái nhìn toàn diện, đa chiều trước một  vấn đề xã hội phức tạp, trăn trở trước những vấn đề văn học giàu giá trị nhân văn,  lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, có sức thuyết phục người đọc/ người nghe. Đáng   tiếc là số HS này không nhiều.  17
  18. II. MỘT SỐ  PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÀM VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG  PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH 1. Đối tượng, hình thức, nội dung thực hiện phương pháp ­ Đối tượng để chúng tôi thực hiện là học sinh một số  lớp 11 trường THPT   Nguyễn Sỹ Sách, năm học 2020­2021 ­ Về mặt hình thức: Thực hiện một số phương pháp dạy học mới nhằm phát triển  phẩm chất, năng lực học sinh trong các tiết dạy học làm văn trong chương trình lớp 11. ­ Về  nội dung,  chúng  tôi chủ  yếu hướng dẫn học sinh thực hiện   năm  hoạt  động: Dạy học làm văn bằng cách quan sát; dạy học làm văn bằng cách kiến tạo   kiến thức qua luyện tập, thực hành; dạy học làm văn thông qua tương tác và dạy   học làm văn thông qua trải nghiệm; phát triển phẩm chất, năng lực học sinh qua   kiểm tra, đánh giá.  2. Các phương pháp dạy học làm văn theo định hướng phát triển phẩm chất,  năng lực 2.1. Phát triển phẩm chất, năng năng lực học sinh qua dạy  học bằng quan sát,   làm theo mẫu Chương trình Ngữ văn tích hợp đề cao việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc,   viết cho HS. Ngoài việc hình thành cho HS kĩ năng tạo lập các loại văn bản, còn   rất coi trọng việc hình thành và rèn luyện cho học sinh kĩ năng hình thành ý, lập ý,   các thao tác lập luận, phản bác, quy trình và cách thức làm một bài văn (bao gồm   nghị  luận văn học, nghị  luận xã hội và các loại văn bản có giá trị   ứng dụng cao   trong đời sống). Chính vì vậy, chương trình làm văn mới đã chú ý tới sự tương ứng  giữa cung cấp lí thuyết và luyện tập, thực hành. Trong làm văn, kiến thức lí thuyết  góp phần định hướng cho việc thực hành đúng hướng, đầy đủ, chính xác.Ngược  lại thực hành để  củng cố  kiến thức lí thuyết, đồng thời hình thành kĩ năng,  năng  lực cho HS. Chẳng hạn, ở phân môn Làm văn lớp 11, nội dung lí thuyết cần cung cấp cho   học sinh gồm: ­ Văn nghị luận: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị  luận; Các thao tác lập  luận: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận và vận dụng kết hợp các thao tác đó   trong bài văn nghị luận, … ­ Các văn bản khác:  Tóm tắt văn bản nghị luận, tiểu sử tóm tắt,… Nhìn vào tên các bài học vừa nêu, có thể  hình dung, khi dạy học, giáo viên   phải kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và luyện tập. Nhưng trước hết, giáo   viên cần cung cấp cho học sinh những kiến thức lí thuyết cơ  bản về các kiểu bài  18
  19. và về  các thao tác lập luận. Đây chính là chỗ  đòi hỏi giáo viên phải tìm được các   phương pháp thích hợp để  học sinh vừa nắm vững  kiến thức  vừa biết cách  vận  dụng những kiến thức lí thuyết để thực hành và áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên tư duy lí thuyết làm văn khá trừu tượng. Đối với học sinh THPT,  khả năng tư duy lí thuyết là vấn đề khó. Vì vậy, giáo viên phải biết cách diễn giải   những nội dung lí thuyết cho rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu đồng thời giúp HS dễ hình  dung các bước thực hiện khi tiến hành thực hành và vận dụng trong thực tiễn. Một trong những phương pháp chúng tôi áp dụng có hiệu quả  khi dạy học   làm văn là dạy học bằng quan sát, làm theo mẫu. Có nghĩa là hướng dẫn HS phân  tích mẫu, học và làm theo mẫu. Dạy học thông qua quan sát gồm các hoạt động cơ bản sau: Bước 1: GV giới thiệu mẫu và hướng dẫn HS quan sát, phân tích mẫu hoặc  GV làm mẫu cho HS. Để định hướng sự chú ý của HS, GV cần lưu ý HS tập trung  chú ý vào những đặc điểm nổi bật và quan trọng của mẫu. Bước 2: GV tổ chức, hướng dẫn HS thảo luận để đánh giá, nhận xét những   đặc điểm, tính chất của mẫu hoặc tiến trình thực hiện mẫu. Bước 3: Cho HS thực hành, làm theo mẫu. Nên cho HS thực hành theo nhóm  trước khi thực hành cá nhân để HS có thể trợ giúp lẫn nhau. Bước 4: Tổ  chức, hướng dẫn HS đánh giá, rút kinh nghiệm từ  những gì đã   thực hành. Trong giai đoạn hình thành tri thức mới, cần cho HS quan sát mẫu chuẩn   để từ đó hình thành tri thức chuẩn. Trong giai đoạn thực hành, có thể cho HS quan   sát “mẫu” sai để HS phân tích, rút ra bài học kinh nghiệm. Chẳng hạn, trong chương trình Làm văn 11, có bài Thao táclập luận so sánh.  Xét về tư duy, so sánh là làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng ,tuy  nhiên, thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra   sự  tương đồng và khác biệt của hai đối tượng, mà HS cần hiểu được vai trò của  thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận là nhằm làm sáng tỏ một vấn đề nào  đó. Hơn nữa, HS còn cần biết cách xây dựng một lập luận so sánh cũng như  biết  vận dụng thao tác lập luận so sánh khi viết bài văn nghị  luận nhằm đạt hiệu quả  giao tiếp cao.Để  giúp HS nắm vững được những kiến thức này, GV nên cho HS  tìm hiểu, phân tích mẫu để rút ra các kiến thức lí thuyết. Bài Thao tác lập luận so sánh được học sau bài Xin lập khoa luật, nên GV có  thể  dùng văn bản này để  làm mẫu. Với việc lựa chọn những mẫu như  thế, GV   hướng dẫn HS phân tích, khai thác triệt để  các dữ  kiện của mẫu, qua đó sẽ  kích  thích tư  duy của HS, khiến các em dễ  dàng nắm bắt được những kiến thức lí   19
  20. thuyết liên quan đến bài học. Đồng thời giúp các em phát triển được năng lực kiểm  nghiệm lí thuyết. Hoặc khi dạy bài “Tóm tắt văn bản nghị luận”, GV có thể  sử  dụng phương   pháp dạy học quan sát và làm theo mẫu: Bước 1: GV giới thiệu một bài tóm tắt văn bản nghị luận mẫu. Nên lấy văn  bản nghị luận HS đã được học, chẳng hạn bài “Về luân lí xã hội ở nước ta” (Phan  Châu Trinh, Ngữ văn 11, Tập 2) hoặc bài “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” (Ăng­ ghen, Ngữ văn 11, Tập 2). Bước 2: GV tổ chức, hướng dẫn HS thảo luận để  nhận xét, đánh giá và rút   ra kết luận về  mục đích, yêu cầu và cách tóm tắt một văn bản nghị  luận qua hệ  thống câu hỏi gợi mở định hướng. Bước 3: Tổ chức cho HS viết tóm tắt văn bản nghị  luận nhằm đáp ứng yêu   cầu về hình thức và nội dung của một văn bản tóm tắt. Bước 4: Tổ  chức hoạt động nhận xét về  các văn bản tóm tắt và rút kinh  nghiệm về cách tóm tắt văn bản nghị luận. Ví dụ  3: Khi dạy bài “Luyện tập viết tiểu sử  tóm tắt”, GV có thể  sử  dụng   mẫu “sai” để  HS phân tích, rút ra bài học kinh nghiệm. Sau đó, tổ  chức cho HS  hoạt động theo nhóm và thực hành viết văn bản tiểu sử tóm tắt. Những lưu ý khi lựa chọn mẫu: Việc chọn mẫu phải đạt được những dữ  kiện để  hình thành tri thức lí thuyết hoặc hình thành kĩ năngng. Các dữ kiện càng  nhiều, càng đa dạng thì việc định hướng cho HS càng thuận lợi. Bởi thế, khi lựa   chọn mẫu, cần chú ý lựa chọn những mẫu càng nhiều dữ  kiện đáp ứng được cho   việc hình thành những phần tri thức lí thuyết quan trọng nhất càng tốt. Sau đó, GV  hướng dẫn HS khai thác triệt để các dữ kiện của mẫu bằng hệ thống câu hỏi định   hướng. Có thể sử dụng mẫu trong SGK, đó là những mẫu đáp ứng tương đối đầy   đủ  các dữ  kiện để  hình thành lí thuyết. Ngoài ra GV cũng có thể  lựa chọn những  mẫu khác khi thấy cần thiết. Khi lựa chọn mẫu, nên lấy mẫu từ  những văn bản   đọc hiểu mà các em đã được học trong chương trình.  Trong quá trình chọn mẫu, GV nên chọn những mẫu hoàn chỉnh, có nghĩa là   nên chọn những văn bản hoàn chỉnh. Nếu văn bản quá dài, không thể trích dẫn hết,   thì GV nên giới thiệu thêm vai trò của các trích đoạn ấy trong văn bản hoàn chỉnh  của nó để  HS dễ  hiểu hơn. Đây cũng là lí do nên chọn mẫu từ  các văn bản đọc  hiểu mà HS đã được học. Vừa góp phần giúp HS khắc sâu thêm kiến thức đọc   hiểu, vừa giúp HS có cái nhìn hoàn chỉnh nội dung, vai trò của mẫu trong văn bản   mà mình sẽ phân tích. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2