Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo qua tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau Ngữ văn 10
lượt xem 6
download
Sáng kiến này này hướng tới mục tiêu thay đổi phương pháp dạy học truyền thống bằng phương pháp dạy học hiện đại, tăng cường khả năng thực hành qua trải nghiệm sáng tạo của học sinh, phát triển một cách toàn diện năng lực của người học, trong đó phát huy năng lực giao tiếp ngôn ngữ, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin..., biến những tiết học nặng về lý thuyết khô khan trở thành một quá trình học tập sinh động, gắn học với hành, gắn lí luận với thực tiễn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo qua tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau Ngữ văn 10
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: DẠY HỌC NGỮ VĂN GẮN LIỀN HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO QUA TIẾT DẠY NÓI VÀ NGHE THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU, NGỮ VĂN 10 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN NGHỆ AN, 2023 a
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: DẠY HỌC NGỮ VĂN GẮN LIỀN HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO QUA TIẾT DẠY NÓI VÀ NGHE THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU, NGỮ VĂN 10 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN NHÓM THỰC HIỆN: Hồ Ngọc Việt Nga Nguyễn Thị Kiều Hoa Điện thoại: 0973102644 NGHỆ AN, 2023 b
- MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT .......................................................................................... PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Tính mới của đề tài.............................................................................................. 2 3. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 2 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 3 5. Cấu trúc của đề tài .............................................................................................. 3 PHẦN 2: NỘI DUNG.............................................................................................. 4 1. Cơ sở của đề tài.................................................................................................... 4 1.1. Cơ sở lí luận ...................................................................................................... 4 1.1.1. Dạy học gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo ...................................... 4 1.1.2. Quan điểm vận dụng hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào dạy Ngữ văn Trung học phổ thông............................................................................................... 5 1.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................. 7 1.2.1. Khảo sát các yêu cầu và các bước tiến hành thảo luận ở sách giáo khoa 7 1.2.2. Khảo sát thực trạng dạy tiết nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau................................................................................................. 8 1.3. Phạm vi thực hiện đề tài ................................................................................ 10 2. Tổ chức thực hiện các giải pháp ...................................................................... 10 2.1. Thông qua hình thức tổ chức diễn đàn. ....................................................... 10 2.2. Thông qua Câu lạc bộ Văn học..................................................................... 12 2.3. Thông qua hình thức trải nghiệm thực tế cuộc sống .................................. 14 2.4. Thông qua đổi mới kiểm tra đánh gia cho học sinh.................................... 16 3. Tổ chức dạy học Ngữ văn gắn liền với hoạt động trải nghiệm sáng tạo ...... 16 3.1. Điều kiện để thực hiện ................................................................................... 16 3.1.1. Chuẩn bị của giáo viên: .............................................................................. 16 3.1.2. Chuẩn bị của học sinh................................................................................. 17 3.2. Xác định mục tiêu của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau.................................................... 17 3.2.1. Năng lực........................................................................................................ 18 c
- 3.2.2 Phẩm chất...................................................................................................... 18 3.3. Xác định ý nghĩa của bài học ....................................................................... 19 3.4. Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của dạy học gắn với hoạt động trải nghiệm sáng tạo .............................................................. 19 2.5. Tổ chức thực hiện ở nhà và trên lớp ............................................................ 20 IV. Hiệu quả của đề tài ......................................................................................... 43 1. Đối tượng áp dụng của đề tài ........................................................................... 43 2. Phạm vi áp dụng của đề tài .............................................................................. 43 3. Kết quả đạt được của đề tài ............................................................................. 43 PHẦN 3: KẾT LUẬN ........................................................................................... 45 1. Kết luận .............................................................................................................. 45 2. Những kiến nghị, đề xuất.................................................................................. 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 47 DANH MỤC PHỤ LỤC........................................................................................ 48 d
- DANH MỤC VIẾT TẮT THPT: Trung học phổ thông GDPT: Giáo dục phổ thông GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo CNH: Công nghiệp hóa HĐH: Hiện đại hóa XHCN: Xã hội chủ nghĩa HĐTNST: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo CLB: Câu lạc bộ HS: Học sinh SGK: Sách giáo khoa PPGD: Phương pháp giáo dục e
- PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã tiếp tục khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội”. Cách tiếp cận này đặt ra mục tiêu căn bản là giúp cho học sinh có thể làm gì sau khi học, chứ không tập trung vào việc xác định học sinh cần học những gì để có được những kiến thức toàn diện về các lĩnh vực chuyên môn. Trong rất nhiều các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thì giải pháp đổi mới phương pháp dạy học được xem là then chốt. Các thành tựu nghiên cứu giáo dục học và tâm lý học hiện đại đã cho thấy người học thay vì chỉ nghe giáo viên thuyết giảng, cần có cơ hội tham gia các hoạt động giáo dục có tính tương tác để phát triển các năng lực quan yếu. Đây là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển chưa từng có và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Quá trình dạy học lấy người học làm trung tâm nhất thiết phải xem xét người học tiếp cận vấn đề này như thế nào, có ích gì cho đời sống? Chủ đề truyền thông trong nội dung chương trình Ngữ văn THPT chiếm một nội dung không nhỏ. Bên cạnh đọc hiểu tác phẩm văn học, học sinh còn tiếp cận phân môn Tiếng Việt, Làm văn để rèn luyện ngôn ngữ như các tiết dạy nói và nghe: Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề; Lắng nghe phản hồi về kết quả thuyết trình một bài nghiên cứu; Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau; Thảo luận về văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng...Đây là những bài học mà nếu biết xâu chuỗi, tích hợp với nhau, kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin, ta sẽ có những giờ dạy hiệu quả, tạo hứng thú và phát huy được năng lực người học. Bởi đây là những bài học mà tính thực tế rất cao, gắn liền với đời sống xã hội hiện đại mà bất cứ học sinh nào khi thực hành cũng đều hiểu biết và vận dụng tốt. Trong chương trình Ngữ Văn ở trường THPT, Làm văn là một trong 3 phân môn của môn Ngữ Văn, không những là công cụ quan trọng để rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, giúp cho các em biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói dân tộc mà còn là cơ sở để các em cảm thụ tác phẩm văn học, bày tỏ suy nghĩ về những vấn đề xã hội...Tuy chiếm dung lượng nhỏ so với phần đọc hiểu văn bản nhưng làm văn được dạy học trong nhà trường góp phần hình thành nhiều năng lực cho học sinh, trong đó có năng lực lĩnh hội văn bản và tạo lập văn bản. Riêng phần Làm văn lớp 10, bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau được dạy 2 tiết. Với thời lượng này, trên lớp giáo viên khó thể khai thác hết mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của bài học. Cần phải có thời gian dài chuẩn bị từ phía giáo viên và học sinh thì bài 1
- học mới đảm bảo chất lượng, mới tạo nên sức hấp dẫn, mới rèn luyện nhiều năng lực, phẩm chất người học... Để học sinh phát huy năng lực học môn Ngữ Văn nói chung, bài dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nói riêng một cách hiệu quả, chúng tôi đã cho học sinh khai thác bài này gắn liền với trải nghiệm sáng tạo thông qua các hình thức hướng dẫn học sinh thực hiện các diễn đàn, trình bày ý kiến qua trang viết của Câu lạc bộ văn học, kết hợp triển khai qua hoạt đọng tham quan, dã ngoại để gắn liền kỹ năng được học với những vấn đề mang tính thực tế gần gũi trong đời sống, trọng tâm là thực hành phần nói và nghe về nội dung Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. Từ lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Dạy học Ngữ văn gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo qua tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, Ngữ văn 10 cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, bước đầu tạo điều kiện cho học sinh học Ngữ Văn qua trải nghiệm sáng tạo, phát huy năng lực người học, góp phần nhỏ minh chứng cho việc thực hiện hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT. 2. Tính mới của đề tài Đề tài được thực hiện trên cơ sở thực tiễn dạy học chương trình môn Ngữ văn 10, là năm đầu tiên chương trình GDPT 2018 được triển khai thực hiện ở bậc THPT. Thứ nhất, đổi mới dạy học Ngữ văn THPT, chuyển từ dạy nội dung của một bài, một môn, một phân môn sang dạy tích hợp liên môn, tích hợp nội môn. Đây chính là bước hiện thực hóa sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Nghệ An, Ban Giám hiệu trường THPT DTNT tỉnh về đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường. Thứ hai, sáng kiến này này hướng tới mục tiêu thay đổi phương pháp dạy học truyền thống bằng phương pháp dạy học hiện đại, tăng cường khả năng thực hành qua trải nghiệm sáng tạo của học sinh, phát triển một cách toàn diện năng lực của người học, trong đó phát huy năng lực giao tiếp ngôn ngữ, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin..., biến những tiết học nặng về lý thuyết khô khan trở thành một quá trình học tập sinh động, gắn học với hành, gắn lí luận với thực tiễn. 3. Đóng góp của đề tài Phạm vi mà đề tài đề cập là hoạt động công tác dạy học ở trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh Nghệ An Đề tài tập trung nêu ra những kinh nghiệm, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, đổi mới việc dạy học Ngữ văn ở trường THPT Dân tộc Nội trú tỉnh Nghệ An nói riêng. 2
- Đề tài tập trung vào những mặt đã làm được, đề xuất những quan điểm phù hợp cho quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, đổi mới việc dạy học Ngữ văn nói riêng có hiệu quả. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tài liệu về công tác đổi mới phương pháp giảng dạy, các hướng dẫn về công tác chuyên môn của cấp trên - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu ; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phỏng vấn; phương pháp Test 5. Cấu trúc của đề tài Phần một: Đặt vấn đề Phần hai: Nội dung Phần ba: Kết luận 3
- PHẦN 2: NỘI DUNG 1. Cơ sở của đề tài 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Dạy học gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo Ngày 04.11.2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29- NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW đã định hướng sự đổi mới triệt để đối với ngành giáo dục. Sự thay đổi đó là chuyển từ trang bị kiến thức sang phát huy năng lực và phẩm chất của người học, cụ thể là sẽ tạo ra những con người Việt Nam phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, có những phẩm chất cao đẹp, có các năng lực chung và phát huy tiềm năng của bản thân, làm cơ sở cho việc lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT cũng đã nhấn mạnh: “Đa dạng hoá hình thức tổ chức học tập, coi trọng cả dạy học trên lớp và các hoạt động xã hội, trải nghiệm sáng tạo, tập dượt nghiên cứu khoa học. Phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động giáo dục”. Như vậy, so với chương trình hiện hành, chương trình tổng thể có nhiều nội dung mới mẻ, trong đó trải nghiệm sáng tạo cũng được đề cao, xem trọng như hoạt động dạy học các môn, trở thành một trong hai loại hoạt động giáo dục chính của nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.(Trích Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT). Như vậy, có thể thấy hoạt động trải nghiệm sáng tạo có mục đích, ý nghĩa quan trọng trong giáo dục. Đây là hoạt động được thực hiện phối hợp một cách hợp lý cả hai khâu trải nghiệm và sáng tạo. Ở khâu trải nghiệm, hoạt động này đã định hướng, tạo điều kiện cho học sinh quan sát, suy nghĩ và tham gia các hoạt động thực tiễn. Ở khâu sáng tạo, hoạt động đã khuyến khích, động viên và tạo điều kiện cho các em tích cực nghiên cứu, tìm ra những giải pháp mới, sáng tạo những 4
- cái mới trên cơ sở kiến thức đã học trong nhà trường và những gì đã trải qua trong thực tiễn cuộc sống, từ đó hình thành ý thức, phẩm chất, kĩ năng sống và năng lực cho học sinh. Đối với môn Ngữ văn, “Dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng cần tập trung hình thành cho học sinh phương pháp học và học phương pháp học. Phương pháp dạy học phải tạo cho học sinh tính hiếu kỳ, tò mò (curiosity) và sự đam mê (passion) để tự họ đi tìm và tự lý giải, qua đó mà hình thành năng lực.” (PGS.TS Đỗ Ngọc Thống). Đây cũng là quan điểm đổi mới trong dạy học Ngữ văn, nhấn mạnh hình thành cho học sinh phương pháp học và học phương pháp học, qua đó mà hình thành năng lực. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn Ngữ văn cũng là một trong những phương pháp học quan trọng nhằm phát huy năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn dành cho người học. 1.1.2. Quan điểm vận dụng hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào dạy Ngữ văn Trung học phổ thông Môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung và bậc trung học phổ thông (sau giai đoạn cơ bản) nói riêng, trước hết nó được cấu thành bởi ba bộ phận kiến thức cơ bản là tiếng Việt, Đọc – hiểu văn bản và Làm văn. Các bộ phận kiến thức này được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Ngoài việc hình thành năng lực giao tiếp, năng đọc viết và năng lực sáng tạo (thuộc nhóm năng lực chung), môn Ngữ văn còn có trách nhiệm hình thành và phát triển ở học sinh năng lực chuyên biệt của môn học là năng lực tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản. Để đáp ứng được mục tiêu, nội dung chương trình buộc phải có sự xuất hiện của hệ thống kiến thức ngôn ngữ tiếng Việt, sự đa dạng của các thể loại văn bản nhưng vẫn ưu tiên những văn bản nghệ thuật có hư cấu của lịch sử văn học Việt Nam và những văn bản đại diện cho các nền văn hóa lớn của nhân loại. Với cấu trúc này, học sinh không chỉ hoàn thiện các kỹ năng nói, nghe, đọc, viết một cách hiệu quả mà còn biết cảm thụ những giá trị thẩm mỹ của các văn bản có hư cấu rồi chuyển hóa chúng trong những sản phẩm cá nhân ở phần tạo lập văn bản. Kiến thức khoa học và nghệ thuật là hai phạm trù khác biệt về cách huy động kinh nghiệm, quan sát, suy nghĩ và hoạt động thực tiễn để hình thành các nhận thức mới, giá trị mới, xúc cảm mới. Vấn đề đặt ra là mức độ tương thích giữa nội dung chương trình môn Ngữ văn với HĐTNST như thế nào. Những HĐTNST nào thực sự phù hợp với từng bộ phận kiến thức… Như vậy, để hoàn thành một quá trình giáo dục thông qua HĐTNST trong môn Ngữ văn, trước tiên phải đảm bảo các yêu cầu chung của hoạt động. Tuy nhiên muốn quá trình đó có hiệu quả tất cả mọi đề xuất về giải pháp cần phải khai thác trên đặc điểm riêng của từng nội dung ứng dụng. Việc vận dụng quan điểm hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn 5
- cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này. Với mục đích hình thành và phát triển những phẩm chất thuộc nhóm năng lực chung cần có của con người trong xã hội hiện đại và thu hẹp khoảng cách từ nhà trường đến xã hội; từ kiến thức sách vở đến ứng dụng vào thực tiễn, HĐTNST là một phương pháp học tập cần có cho học sinh. Chính bản thân các trải nghiệm thực tiễn sẽ làm phát triển con người theo nhiều chiều kích phù hợp với từng cá nhân, không bị so sánh hoặc phán quyết trong mối quan hệ với kết quả của người khác. Học tập theo cách này không có nghĩa là bỏ qua tất cả những phương châm giáo dục mà chúng ta đã vận dụng từ trước mà nên xem nó là sự bổ sung làm đa dạng hơn về các phương pháp giáo dục để tạo ra những thay đổi hiện đại mới mẻ về cách học văn trong nhà trường đồng thời tư tưởng này sẽ hỗ trợ phát triển tính chủ động, tích cực và sáng tạo thật sự cho một thế hệ trẻ Việt Nam. Dạy Văn là dạy người, dạy làm người. Nhờ có hoạt động trải nghiệm sáng tạo, học sinh sẽ nhận thức nhiều điều về mối quan hệ giữa văn chương và cuộc đời, giữa học gắn với hành, giữa lí luận và thực tiễn. Học sinh không còn bị động khi cảm thụ tác phẩm mà được quyền bộc lộ những suy nghĩ, trăn trở, cảm xúc thật của mình trước một tư tưởng đạo lí, một hiện tượng đời sống, một hình tượng nghệ thuật…, miễn là những suy nghĩ ấy phải có cơ sở, không vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Nhờ có hoạt động sáng tạo, việc dạy học Ngữ văn không còn khô cứng, giáo điều, một chiều. Mà ở đó, người giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, khơi gợi cho học sinh những con đường để tiếp cận văn bản; học sinh chủ động vận dụng kĩ năng, phát huy năng lực của mình để thực hiện những ý tưởng mà giáo viên dẫn dắt. Trong thực tế dạy học, bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau được học hai tiết trong phân phối chương trình Ngữ văn 10. Ở 2 tiết này, học sinh nắm được những kỹ năng trình bày ý kiến trong điều kiện tương tác đặc thù nhằm đi đến sự thống nhất về quan điểm với người cùng tham gia thảo luận về một vấn đề đời sống đã được xác định... Tuy nhiên, trong hai tiết học để luyện tập với tính thực hành cao như bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nếu học sinh không được giáo viên hướng dẫn chuẩn bị kĩ ở nhà thì khó có thể hình thành được năng lực người học; không phát huy được sự trải nghiệm sáng tạo của học sinh. Có chăng học sinh chỉ được xem những đoạn thảo luận được lấy từ các nguồn trên tivi, qua internet…hoặc thực hiện đóng vai thảo luận một cách bị động trên lớp để thực hiện mục đích yêu cầu của giờ học. Còn việc tổ chức cho học sinh tiến hành trải nghiệm sáng tạo, đi thực tế để có những bài thảo luận mang tính thời sự, có giá trị, lại gặp không ít trở ngại. Chẳng hạn như tổ chức cho các em trải 6
- nghiệm để làm bài thảo luận về tình hình giao thông tại địa bàn cư trú thì giáo viên lại sợ các em gặp tai nạn giao thông. Hơn nữa, điều kiện kinh phí eo hẹp, nhất là đối với đối tượng học sinh trường THPT DTNT tỉnh cũng tác động không nhỏ đến việc học theo hình thức trải nghiệm sáng tạo. Từ đó, học sinh không còn hứng thú với giờ làm văn mang tính lý thuyết này. Đây là điểm khó khăn cho giáo viên khi thực hiện giờ dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. Mặt khác, sử dụng trải nghiệm sáng tạo gắn liền với giờ Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau sẽ giải quyết một số vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay: Đó là giáo viên có dịp vận dụng tích hợp liên môn trong giờ dạy Làm văn để giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi luyện tập, giáo viên có thể gợi mở những chủ đề liên quan đến đời sống hằng ngày để học sinh chuẩn bị. Chủ đề đó có thể liên quan đến khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn…Qua bài Thảo luận theo chủ đề học sinh tự chọn, giáo viên tích hợp kiến thức liên môn như lịch sử, địa lí địa phương, giáo dục công dân…, tích hợp kiến thức nội môn như đọc văn, tiếng Việt, các bài làm văn liên quan…trong bài dạy của mình. Đó là học sinh không còn xa lạ với hoạt động thảo luận trong đời sống hằng ngày. Sau khi đã nắm vững phương pháp học bài này, học sinh sẽ vận dụng vào thực tế cuộc sống, đóng vai mình là người tham gia trực tiếp vào các nội dung cần thảo luận. Đây là những cơ sở lí luận quan trọng để chúng tôi đề xuất các giải pháp Dạy học Ngữ văn gắn liền hoạt động trải nghiệm sáng tạo qua tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, Ngữ văn 10. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Khảo sát các yêu cầu và các bước tiến hành thảo luận ở sách giáo khoa Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1, tập 2 (bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) ở phần Yêu cầu đặt ra 5 mục tiêu: - Xác định rõ vấn đề cần nghị luận. - Bao quát được diễn biến của cuộc thảo luận (những ý kiến đã nêu, những điều đã được làm rõ, những điều cần được trao đổi thêm…) - Thể hiện được thái độ tán thành hay phản đối trước những ý kiến đã phát biểu. - Nêu được quan điểm, nhận định của bản thân về vấn đề (góc nhìn riêng và những phân tích, đánh giá cụ thể) - Tôn trọng người đối thoại để cùng tìm tiếng nói chung về vấn đề. Phần Chuẩn bị thảo luận của sách giáo khoa hướng dẫn thêm một số nội dung: 7
- - Chuẩn bị nói: + Lựa chọn đề tài: Đề tài nói cần được thống nhất trong lớp trước khi tiết học diễn ra hoặc ngay đầu tiết học. Nên chọn những đề tài gắn với đời sống của các bạn, đồng thời có ý ngĩa chung đối với cộng đồng. + Tìm và sắp xếp ý: Đặt tên bài nói, xác định và sắp xếp các ý + Xác định từ ngữ then chốt: Sử dụng các cụm từ phù hợp - Chuẩn bị nghe: + Tìm hiểu trước về bài nói + Ghi lại thông tin trong quá trình nghe Phần Thảo luận của sách giáo khoa cũng hướng dẫn một số nội dung: - Khi thảo luận các thành viên tham gia luân phiên trình bày quan điểm của mình, đồng thời lắng nghe ý kiến của người khác để phản hồi. Đích đến cuối cùng là tìm được tiếng nói chung, xác định một cách hiểu thống nhất về vấn đề. - Việc thảo luận được tiến hành theo các bước và đúng trình tự: Mở đầu; triển khai; Kết thúc - Để việc thảo luận hiệu quả, người nói, người nghe cần tự đánh giá và đánh giá về ý kiến trao đổi nghiêm túc, khách quan. Từ việc khảo sát các yêu cầu và các bước tiến hành thảo luận ở sách giáo khoa có thể nhận thấy cần lưu ý mấy điểm sau đây: - Thứ nhất, Yêu cầu đối với Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau rất cụ thể, rõ ràng. Như vậy, trong định hướng dạy học giáo viên trước hết cần hướng dẫn học sinh bám sát các yêu cầu để tiến hành thảo luận. - Thứ hai, trong các phần Chuẩn bị thảo luận, Thảo luận, sách giáo khoa cũng có các định hướng và hướng dẫn chi tiết với trình tự các bước thực hiện và đánh giá. Ý đồ của người làm sách là hình thành kỹ năng thảo luận chuẩn mực cho học sinh. Do đó, khi dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau giáo viên cần xây dựng Rubrics, bảng kiểm để đánh giá cụ thể, khoa học. - Thứ ba, có thể thấy qua phần Yêu cầu, Chuẩn bị thảo luận, Thảo luận của sách giáo khoa đã có ý đồ tạo nên một định dạng cho nội dung các vấn đề được thảo luận. Nếu người dạy không linh hoạt, sáng tạo, thì dễ đẩy giờ học vào tình trạng rập khuôn, máy móc, nhàm chán. Bởi vậy, dạy bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau cần có ý thức liên hệ với đời sống, quan điểm của học sinh để tiết dạy thực sự có giá trị thực tiễn. 1.2.2. Khảo sát thực trạng dạy tiết nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau Để tìm hiểu thực tế dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thăm dò học sinh. Cụ thể chúng tôi đã 8
- phát phiếu thăm dò cho 43 học sinh lớp 10A5 và 39 học sinh lớp 10A7. Từ việc xử lý phiếu thăm dò, chúng tôi có kết quả như sau: Nội dung câu hỏi Kết quả Tỷ lệ + Đề tài thảo luận 57/82 69,5 % Điều làm em hứng thú nhất + Được lắng nghe ý kiến khi học bài Thảo luận về một 9/82 11 % của người khác vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau là gì? + Được trình bày quan 16/82 19,5% điểm của bản thân + Khó khăn do chưa nắm 39/82 47,5% Khó khăn em gặp phải khi vững yêu cầu về thảo luận học bài Thảo luận về một + Khó khăn do thiếu tư vấn đề xã hội có ý kiến khác 41/82 50 % liệu, thông tin về đề tài nhau là gì? Không gặp khó khăn nào 2/82 2,5 % Khi tham gia thảo luận , em + Thường xuyên 47/82 57,3 % có thói quen liên hệ với các + Thỉnh thoảng 35/82 42,7 % hiện tượng trong đời sống hay không? Không có thói quen 0/82 0% Như vậy, đa số học sinh đều thấy rất hào hứng khi học cách Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau.Đây là điều dễ hiểu, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và sự quan tâm của các em. Vấn đề là giáo viên phải làm như thế nào để nuôi dưỡng hứng thú của các em trong suốt giờ học. Tuy hứng thú với các đề tài được lựa chọn thảo luận nhưng các em vẫn gặp phải những khó khăn nhất định thi tiến hành thảo luận. Để việc thảo luận được tiến hành thuận lợi và đạt được hiệu quả như mong muốn đòi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị kỹ càng bám sát các yêu cầu được giáo viên hướng dẫn. Vì vậy, một trong những mục tiêu của bài học là tiếp tục rèn luyện cho các em kỹ năng tham gia thảo luận. Một khó khăn nữa là đối với các vấn đề xã hội luôn tồn tại các quan điểm trái chiều, người dạy nếu không lưu ý điều này sẽ không dẫn dắt kết quả thảo luận đến được sự thống nhất chung hợp lý khiến cho học trò cảm thấy giờ học chỉ đơn thuần là lý thuyết không có giá trị thực tiễn, từ đó không mấy mặn mà với việc học Ngữ văn. Thói quen liên hệ với các hiện tượng trong đời sống khi tiến hành thảo luận là hết sức cần thiết, tuy nhiên trong thực tế học sinh chưa có nhiều trải nghiệm cuộc sống, chưa có nhiều kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử cũng như vốn sống nên việc liên hệ với các hiện tượng trong đời sống được dùng nhưng hiệu quả chưa cao. Vì 9
- vậy, qua bài học, giáo viên cần lưu ý tiếp tục rèn luyện cho các em kỹ năng liên hệ với các hiện tượng trong đời sống để kết quả thảo luận thêm thuyết phục. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy, thăm lớp dự giờ cũng như thường xuyên theo dõi các bài giảng đăng tải trên internet, chúng tôi thấy việc dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau còn tồn tại một số hạn chế sau: - Cách dạy còn nặng về lý thuyết, các hoạt động hướng tới hình thành kỹ năng cho học sinh đã được tổ chức nhưng do chỉ có hai tiết học để luyện tập với tính thực hành cao như bài Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nếu học sinh không được giáo viên hướng dẫn chuẩn bị kĩ ở nhà thì khó có thể hình thành được năng lực người học; không phát huy được sự trải nghiệm sáng tạo của học sinh. - Sự liên hệ với các hiện tượng trong đời sống còn mang tính gượng ép, chung chung thiếu sự cụ thể gắn với vấn đề thảo luận cũng như sự quan tâm gần gũi của học sinh hiện tại. Từ cơ sở lí luận và thực tiễn như trên, chúng tôi nhận thấy dạy học Ngữ văn gắn liền với trải nghiệm sáng tạo sẽ góp phần đổi mới trong phương pháp giảng dạy ở nhà trường. Nếu biết cách tổ chức, bỏ qua tâm lí e ngại, khắc phục những thiếu thốn về cơ sở vật chất, chúng ta sẽ có những giờ dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả, thắp sáng niềm đam mê ở học sinh, tạo cho các em có dịp phát huy năng lực sáng tạo của mình, chuẩn bị hành trang bước vào cuộc đời một cách vững vàng. 1.3. Phạm vi thực hiện đề tài Năm học 2022-2023, Tôi đã chọn các lớp khối 10 để làm thực nghiệm cho đề tài với 3 nội dung sau để các em thực hiện việc trải nghiệm sáng tạo: - Chúng ta nên lựa chọn nghề nghiệp theo xu hướng của thời đại hay nên đi theo tiếng gọi của đam mê? - Ngày nay mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của các bạn trẻ. Có ý kiến cho rằng mạng xã hội đã đem đến rất nhiều những giá trị tích cực nhưng cũng có ý kiến bày tỏ sự lo ngại về những hậu quả tiêu cực mà nó gây ra. Em hãy trình bày quan điểm của em về vấn đề này. - Tình yêu tuổi học trò, nên hay không nên? 2. Tổ chức thực hiện các giải pháp 2.1. Thông qua hình thức tổ chức diễn đàn. Dạy học qua hình thức tổ chức diễn đàn là phương án khắc phục nhiều nhược điểm của phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, trao các em “cần câu” chứ không phải “con cá”, nghĩa là hình thành cho học sinh kĩ năng tự học các bài học về chủ đề truyền thông. Phương pháp này được chú trọng trong đổi mới phương pháp dạy học văn những năm gần đây. 10
- Diễn đàn là loại hình sinh hoạt rộng rãi cả về đối tượng và chủ đề, là môi trường để học sinh công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm, tình cảm của mình về một vấn đề nào đó trong đời sống xã hội. Có hai loại diễn đàn là diễn đàn trực tiếp qua đó người phát biểu và người nghe trao đổi trực diện và diễn đàn gián tiếp là loại diễn đàn thông qua các phương tiện truyền thông (báo, đài, vô tuyến truyền hình, mạng Internet...) để bày tỏ quan điểm của mình về chủ đề cần thảo luận. Quan điểm đó có thể chưa đúng hoặc lệch lạc nhưng không phải vì thế mà bị "quy chụp", bị đánh giá về tư tưởng và phẩm chất đạo đức. Điều quan trọng của diễn đàn là thông qua tranh luận để định hướng nhận thức và hành động cho học sinh. Đối với bài dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, phải luôn xác định rõ phương pháp dạy chủ đề truyền thông, đích cuối cùng là hình thành cho học sinh những kĩ năng Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. Để hình thành kĩ năng này giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ càng, linh hoạt trong từng hoạt động dạy học. Về nội dung khi thực hiện bài dạy Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau không chỉ cần hoàn thành các yêu cầu đặt ra đối với tiết học, mà còn phải biết lựa chọn những chủ đề tổ chức diễn đàn là chủ đề được học sinh quan tâm. Thảo luận không phải chỉ để hướng tới thống nhất nội dung về một vấn đề xã hội nhất định. Mà chọn chủ đề hay, hấp dẫn trước hết phải tìm hiểu và nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, tình cảm của học sinh, những vấn đề học sinh đang quan tâm, tranh luận, đang mong muốn được trao đổi. Ngoài chủ đề thảo luận trong quá trình dạy học giáo viên cũng phải quan tâm để điều hành các hoạt động dạy học đạt đến mục tiêu các ý kiến phải then chốt, phải nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm cả mặt tích cực và không tích cực của vấn đề nhằm tạo ra những tình huống có vấn đề để cuộc tranh luận phong phú, đa dạng và sôi nổi thông qua việc chuẩn bị một số câu hỏi liên quan đến những nội dung chính của chủ đề. Câu hỏi phải hết sức cụ thể, dễ hiểu, có thể dưới dạng xử lý tình huống, trình bày quan điểm đối với các ý kiến "ngược". Về nhân sự các nhóm tham gia cũng cần được giáo viên hướng dẫn để có trách nhiệm chuẩn bị nội dung sẽ thảo luận tại diễn đàn. Để chuẩn bị các ý kiến nòng cốt, nhóm chuẩn bị nội đung cần họp bàn hoặc có thể tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn về việc phân định rõ các "góc nhìn" có thể có đối với chủ đề diễn đàn. Sau đó căn cứ vào sự phân định này, nhóm cần tìm hiểu, chọn lựa và phân công người chuẩn bị ý kiến nòng cốt cho phù hợp. Các ý kiến nòng cốt đều phải được duyệt trước khi phát biểu tại diễn đàn để chỉnh sửa, bổ sung cho đảm bảo vai trò gợi mở tích cực cho đại biểu tham gia diễn đàn. Các ý kiến mang tính chất "ngược", nêu lên mặt trái của chủ đề cũng cần được chuẩn bị và phát biểu hết sức xây dựng, tránh thái độ cực đoan, tiêu cực khiến không khí diễn đàn trở nên căng thẳng và làm mất tính chất của một hoạt động giáo dục. Mặt khác giáo viên cũng nên giao nhiệm vụ cho nhiều học sinh khác để chuẩn bị trước một số câu hỏi (hoặc 11
- người hỏi) để tránh để không khí diễn đàn trở nên trầm lặng, đồng thời khuyến khích học sinh tham gia diễn đàn tích cực. Để dạy nói nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau qua hình thức tổ chức diễn đàn mục tiêu đặt ra giáo viên tiếp tục phải quan tâm tới công tác tổ chức với tiêu chí lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với chủ đề và điều kiện thực tế của hoạt động dạy học nhằm tránh quá cầu kỳ không cần thiết hoặc quá cẩu thả, sơ sài. Giáo viên dựa vào đặc điểm của các vấn đề xã hội thường có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau, phụ thuộc vào các góc nhìn và khả năng phản hồi trực diện của hình thức tổ chức diễn đàn. Trong quá trình tổ chức dạy học, người dạy phải luôn có ý thức rèn luyện kĩ năng thảo luận cho học sinh để các em có thể chủ động làm một người học độc lập và phát triển được những năng lực nhận thức và phản ánh hiện thực bằng cách lý giải và đánh giá phù hợp các chuẩn mực đạo đức, quy định của pháp luật và xúc cảm thẩm mĩ riêng. Đây là phương pháp tối ưu để đổi mới phương pháp dạy học văn theo định hướng lấy người học làm trung tâm. Tại các diễn đàn, học sinh trao đổi, thảo luận xoay quanh chủ đề với tư cách cá nhân hoặc nhóm. Các vấn đề xã hội qua góc nhìn của mỗi cá nhân lại có nét khác biệt hoặc giá trị riêng. Sự khác nhau giữa các quan điểm tạo nên tranh luận sôi nổi giữa các thành viên trong lớp. Các em cũng có thể sáng tạo, đưa thêm kịch hoặc bài hát vào phần thảo luận. Qua hoạt động học trải nghiệm sáng tạo môn ngữ văn này, học sinh có cơ hội hiểu sâu về các vấn đề xã hội có quá trình tự nghiên cứu, tìm tòi và chia sẻ quan điểm của mình. Việc thảo luận trong diễn đàn giúp học sinh tăng khả năng thuyết trình, đàm phán, kỹ năng giao tiếp. Các em cũng mở rộng quan hệ bạn bè hơn qua hoạt động có tính tập thể này. 2.2. Thông qua Câu lạc bộ Văn học Khi dạy tiết nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau để đạt được mục tiêu phát triển năng lực người học đòi hỏi giáo viên phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Do đó ngoài việc tổ chức thảo luận theo hình thức trực tiếp còn có thể tổ chức gián tiếp thông qua các phương tiện truyền thông mà cụ thể là thông qua cơ chế tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ văn học. Mô hình dạy học “lấy HS làm trung tâm” sẽ phát triển kiến thức và kĩ năng của học sinh thông qua một nhiệm vụ mở rộng, đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của mình thông qua cả sản phẩm lẫn phương tiện thực hiện; theo đó, mô hình CLB sẽ là nơi phù hợp để tổ chức một chuỗi các hoạt động học theo dự án. Định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Vì thế, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường cần tăng cường các cơ hội để HS được thực hành, trải nghiệm, thực hiện một cách chủ động và trực tiếp các hoạt động học tập, hướng tới khả năng giải quyết thành công các vấn đề của cuộc sống thực trong hiện tại và cả tương lai. 12
- Năng lực ngữ văn được xác định gồm năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học có thể được hình thành và phát triển khá hiệu quả qua các loại hình hoạt động thực tiễn như sinh hoạt CLB. Hoạt động câu lạc bộ có khả năng tích cực trong việc phát triển năng lực ngữ văn của học sinh Trên thực tế, một số nghiên cứu đã chỉ ra loại hình CLB Văn - Tiếng Việt đã tồn tại trong các trường phổ thông với các dạng hoạt động như đọc và kể chuyện ngôn ngữ, báo cáo chuyên đề, thi hùng biện, liên hoan văn nghệ về tiếng Việt, đố vui tiếng Việt, trò chơi tiếng Việt. Nếu như trong các giờ học ở trên lớp, HS chỉ được học các kiến thức và cách sử dụng những công cụ nhằm mục đích phát triển năng lực viết, hay cụ thể hơn là kĩ năng tạo lập văn bản để vượt qua các bài thi, bài kiểm tra thì tại mô hình CLB, các em có cơ hội được sử dụng những kiến thức đó, áp dụng vào các tình huống thực tiễn cụ thể và phục vụ trực tiếp cho cuộc sống. Năng lực nói và nghe được thể hiện rõ và phát triển tốt trong các hoạt động của CLB. Hoạt động CLB với các hình thức làm việc nhóm, phỏng vấn, thuyết trình,… sẽ tôi luyện HS trở thành những người có khả năng nói tốt hơn rất nhiều so với HS chỉ học môn Ngữ văn bình thường trên lớp. Sự trải nghiệm và va đập thực tiễn sẽ giúp HS có được những kĩ năng, sự tự tin khi bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó, các em cũng sẽ được sử dụng ngôn ngữ trong việc viết những văn bản có tính thực tiễn nhiều hơn, sử dụng ngôn từ trong việc viết một cách có tư duy logic, lưu loát và nhiều kiến thức hơn. Đây là hành trang để các em bước vào đời và có những ảnh hưởng rõ rệt đến việc đến sự chọn lựa nghề nghiệp trong tương lai. Sinh hoạt tại các CLB liên quan trực tiếp đến môn Ngữ văn và phát triển năng lực nói - viết, HS sẽ được giao lưu, tìm tòi những kiến thức mới và áp dụng cả kiến thức mới lẫn cũ vào trong các hoạt động của CLB cũng như các giờ học trên lớp, các chương trình ngoài nhà trường. Gắn với tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau trong bối cảnh xã hội hiện đại với rất nhiều luồng thông tin phức tạp do sự ảnh hưởng của internet, mạng xã hội và các loại hình truyền thông, khả năng lựa chọn, đọc, xử lí, và sử dụng thông tin sao cho hiệu quả trở thành một năng lực vô cùng cấp thiết đối với bất kì ai. Chất lượng và số lượng thông tin đặt ra những thách thức lớn cho xã hội. Bên cạnh đó, việc tạo lập văn bản thông tin có đầu ra một cách trực tiếp giúp các em mài giũa được khả năng viết rõ rệt. Văn bản được thực sự “sống” và bước ra ngoài môi trường lớp học. Tất cả HS thuộc CLB đều tự tin hơn rất nhiều so với trước khi vào CLB. Các em trở nên chủ động và linh hoạt hơn trong việc sử dụng ngôn từ và vốn sống của mình vào việc học môn Ngữ văn trên lớp và trong đời sống. Theo đó, đầu ra là các bài viết trên website của trường cũng phong phú, hiệu quả hơn. Điều đó thể hiện sự cố gắng và cầu tiến của từng HS trong CLB qua từng giai đoạn, qua đó thể hiện góc nhìn năng động và tươi trẻ của chính các HS về những vấn đề, những sự kiện học đường. Thành quả của CLB chính là website thu hút đông đảo phụ huynh, HS và bạn bè trong và ngoài trường 13
- theo dõi. CLB vì thế là nơi để những người bạn đồng hành học hỏi lẫn nhau, để trau dồi khả năng nói và viết. Mặt khác, với thời lượng các tiết học trên lớp khá eo hẹp, HS không có nhiều thời gian để thực hành, rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản và phát triển năng lực CLB chính là một “cái nôi” để nuôi dưỡng năng lực ngữ văn, đặc biệt là năng lực nói - viết của các em. Dạy học nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau gắn với hoạt động trải nghiệm sáng tạo thông qua câu lạc bộ ngữ văn là hình thức khá thú vị và được nhiều học sinh yêu thích vì các em qua sinh hoạt cùng bạn bè chung sở thích dễ dàng thảo luận, trao đổi, chia sẻ tìm ra tiếng nói chung về các vấn đề xã hội. Các em cũng thuận lợi khi truyền tải các thông điệp xã hội cũng như những nhận thức về cuộc sống qua các bài viết, các buổi sinh hoạt CLB hoặc gửi dự thi, đăng báo. Thông qua các hình thức thể hiện quan điểm khác nhau và lan tỏa trong môi trường rộng hơn lớp học, các em cũng sẽ đón nhận được nhiều hơn về nhiều ý kiến tranh luận, giúp bản thân các em mở rộng nhãn quan về cuộc sống mà có được tri thức cuối cùng phù hợp nhất về vấn đề mình chuyển hóa vào các hình thức sinh hoạt của CLB. Nhờ các hoạt động này, học sinh hiểu sâu thêm kỹ năng thảo luận. Các em cũng có dịp thỏa sức sáng tạo, thể hiện góc nhìn qua vấn đề được thảo luận. Sinh hoạt CLB cũng khiến các bạn có không gian giao lưu, gặp gỡ bạn bè, vui vẻ và lành mạnh vừa phát huy khả năng sáng tạo, khả năng viết văn của học sinh thông qua các đợt phát động sáng tác thơ văn lại mở rộng kiến thức SGK và trang bị kiến thức chuyên sâu về cách thức thảo luận cho học sinh thông qua các buổi giao lưu, sinh hoạt chủ đề, khơi gợi niềm yêu thích và thói quen đọc sách cho các em học sinh, đưa văn học gần gũi với thực tế đời sống bằng các chuyên đề ngoại khóa, học sinh nhận ra giá trị đoàn kết thông qua việc sinh hoạt tập thể, sinh hoạt nhóm, qua đó học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình làm việc và học tập. Đặc biệt dạy học qua hình thức tổ chức CLB làm cho giáo viên luôn có nhu cầu đổi mới PPGD và học sinh phải đổi mới cách học. 2.3. Thông qua hình thức trải nghiệm thực tế cuộc sống Cuộc sống đang không ngừng chuyển động, dạy học nói chung và dạy học trải nghiệm nói riêng đã không còn là phương pháp quá xa lạ trong việc định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Theo mục tiêu giáo dục hiện đại, năng lực để mỗi con người bước vào đời không chỉ bó hẹp ở kỹ năng ghi nhớ, tích lũy các kiến thức từ sách vở mà còn trải nghiệm thực tế, tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa để phần nào có những trải nghiệm chân thật, thú vị nhằm hiểu sâu hơn những kiến thức đã được học từ sách vở. Cho học sinh tham gia các buổi tham quan – trải nghiệm với tinh thần “Học để biết, đi để hiểu” dần trở thành xu thế tất yếú. Với mục tiêu phát triển năng lực làm cho hoạt động trải nghiệm thành đường đi có đích. Người xưa có câu “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, cái “khôn” chính là sự hiểu biết về kiến thức, thấu cảm về những điều thiêng liêng, quý giá để hiểu dân tộc mình, yêu đất nước mình và chủ động hội nhập quốc tế. Đó là những thu nhận không thể có nếu chỉ nghe nói, xem qua phim ảnh mà phải thông qua các 14
- hoạt động được triển khai mới thúc đẩy chất lượng học tập để đào tạo nên những con người năng động. Song nếu chỉ dừng ở tính thực tế của “giờ học thực tế” thì chưa đủ. Trải nghiệm sáng tạo khác với trải nghiệm đơn thuần. Vì trong đó cần hiệu quả sáng tạo của việc tổ chức đi và thu kết quả khi về. Môn Ngữ văn, trong ý nghĩa văn là đời, thì dạy học Văn hiện nay không thể chỉ đi vào khai thác cái hay cái đẹp của ngôn từ, của hình tượng nghệ thuật, mà còn để cái hay cái đẹp ấy giúp học sinh có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ tốt, sống tích cực, nhân văn. Chính vì vậy, có lẽ chưa khi nào yêu cầu trải nghiệm trong hoạt động dạy và học Ngữ văn lại cấp thiết đến thế. Với vai trò là người dẫn đường cho học trò tham gia trải nghiệm, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần vừa năng động vừa có chiều sâu. Đó cũng chính là những trải nghiệm làm thầy, với tinh thần mới: Như chưa hề có một lối mòn! Trên cơ sở những hiệu quả của hình thức dạy học gắn với trải nghiệm thực tế cuộc sống khi ứng dụng vào tiết dạy nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau đã tạo ra kết quả như mong đợi của người dạy. Học thực tế đã đem đến cho học sinh sự hứng thú học tập. Ở đó, người thầy bớt lối định hướng, áp đặt và dùng quan điểm cá nhân để đánh giá về các vấn đề xã hội hộ trò rồi tiến hành đọc - chép. Mở không gian học tập mới ở ngoài lớp, ngoài trường đã tạo ra sự “đổi gió”. Đó là đáp ứng nhu cầu chính đáng “Trăm nghe không bằng một thấy”. Khi được tham gia tìm, xây dựng nội dung học, trò sẽ nhớ lâu và quý kiến thức hơn. Thực tế hiện nay, giữa bão thông tin, nếu chỉ yêu cầu ghi nhớ thì học sinh ít “chịu” học thuộc các con chữ, những vấn đề mang tính thuyết giáo. Thế nên, việc phải tạo ấn tượng, điểm nhấn đã trở thành đòi hỏi bức thiết trong các giờ Ngữ văn. Cần học từ thực tế, vì cách học này mới thực sự giúp vừa dạy chữ vừa dạy người. Kiến thức được khắc sâu hơn, tình cảm và năng lực giao tiếp, ứng xử lễ nghĩa đã được khơi dậy và luyện rèn nghĩa là các em được tham gia hoạt động “tự giáo dục” rất tốt. Điều này nếu chỉ học qua sách vở ở trong lớp khó có thể mang hiệu quả giáo dục như vậy. Kết thúc hoạt động trải nghiệm cuộc sống học sinh luôn “có cái để viết, có chuyện để nói”, đây là cách nhận thức và trình bày quan điểm cá nhân chân xác nhất mà các em đã kiểm chứng qua môi trường cuộc sống xã hội. Cũng qua đó, cơ hội học hỏi qua chúng bạn được mở ra, năng lực viết và thuyết trình được rèn luyện. Song nếu chỉ dừng ở tính thực tế của “giờ học thực tế” thì chưa đủ. Trải nghiệm sáng tạo khác với trải nghiệm đơn thuần. Vì trong đó cần hiệu quả sáng tạo của việc tổ chức đi và thu kết quả khi về. Trong đó, chú trọng đánh giá hiệu quả phát triển năng lực. Trải nghiệm sáng tạo cần quy mô và có kế hoạch. Do đó giáo viên cần hiện thực hóa yêu cầu cần đạt của bài học bằng các nhiệm vụ học tập cụ thể để trong quá trình trải nghiệm các em có thể kiểm chứng mà đưa ra các ý kiến thảo luận sâu sắc, thuyết phục và sinh động để cho thấy Tham quan là loại trải nghiệm không còn mang tính vui chơi và tùy hứng mà đã là giờ học thực tế với yêu cầu cụ thể phải thu nhận được sau chuyến đi, chính thức khẳng định vai trò của 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp nâng cao thành tích môn nhảy xa kiểu ưỡn thân
13 p | 322 | 48
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số đề xuất nhằm gây hứng thú tập luyện Thể dục thể thao cho học sinh THPT
8 p | 192 | 22
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 44 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 58 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 142 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 25 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 17 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm tổ chức dạy học trực tuyến tại trường THPT Trần Đại Nghĩa giai đoạn 2020-2022
23 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn bài 13. lực ma sát – Vật Lí 10 cơ bản
36 p | 88 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường gắn với trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy giáo dục địa phương ở trường THPT Bình Minh
77 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học STEM chủ đề Sự biến đổi chất - Sắc nến lung linh
34 p | 22 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 14 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tích hợp liên môn Lịch sử - Ngoại ngữ - Giáo dục công dân
60 p | 36 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn