
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
lượt xem 4
download

Nghiên cứu đề tài “Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”nhằm đề xuất một số giải pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt phát huy sự sáng tạo, năng lực của học sinh, đặc biệt là giáo dục ý thức đạo đức, vận dụng vào cuộc sống thực những bài học cuộc sống: sự nhân ái, sẻ chia… cho học sinh Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Giáo dục phổ thông có vị trí hết sức quan trọng, mang tính nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.Trong chương trình giáo dục, môn Ngữ văn là một môn học có vai trò quan trọng không chỉ giúp học sinh trau dồi kiến thức, rèn luyện tư duy mà còn góp phần vào quá trình hình thành, phát triển các năng lực cần thiết cho các em. Đề án đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa (CT&SGK) giáo dục phổ thông sau 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển Chương trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, … nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Nghị quyết 88/2014 của Quốc hội về đổi mới chương tr ình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nêu rõ mục tiêu “chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học viên” và yêu cầu “đổi mới toàn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học viên; khắc phục tình trạng quá tải; tăng cường thực hành và gắn với thực tiễn cuộc sống”. Hơn nữa, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo điều đó, nhất định phải thực hiện 1
- thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy học sinh cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Nắm bắt được tinh thần đổi mới, trong những năm qua ngành giáo dục nói chung và tập thể giáo viên đã và đang nghiên cứu đề xuất và thực hiện nhiều giải pháp hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đạt được không ít những thành công. Đây là tiền đề vô cùng quan trọng để ngành giáo dục thực hiện mục tiêu đổi mới. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của đơn vị cho thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực của học sinh chưa nhiều nhất là đối tượng học sinh theo học chương trình GDTX cấp THPT nói chung và tại Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo nói riêng. Dạy học vẫn nặng truyền thụ kiến thức, hoàn thành đầy đủ nội dung giáo án đã định sẵn. Việc rèn luyện kỹ năng có được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao. Hoat động kiểm tra đánh giá chưa chú trọng đến đánh giá cả quá trình học tập của học sinh. Tất cả những điều đó dẫn tới việc học sinh thụ động, lúng túng khi giải quyết những vấn đề trong thực tiễn. Sinh ra tại vùng quê Bắc Ninh giàu truyền thống văn hóa, Kim Lân được biết đến là một trong những nhà văn thành công khi viết về người nông dân và cuộc sống nông thôn. Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những nhà văn “thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại” , Vợ nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim Lân về nạn đói lịch sử Ất Dậu (1945). Tác phẩm Vợ nhặt đã được lựa chọn vào chương trình giảng dạy Ngữ văn 12, được đông đảo bạn đọc yêu mến. Qua quá trình khảo sát, dự giờ thực tế, người vi ết nhận th ấy các giáo án của giáo viên hay các phương pháp được sử dụng trong giờ học mới chỉ dừng lại ở việc dạy học theo một vài thiết kế bài học quen thuộc. Dạy học vẫn mang tính hàn lâm, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo. Để một tác phẩm văn học thực sự hấp dẫn, phát huy được năng lực của người học, người viết chọn đề tài “Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất 2
- người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”nhằm đề xuất một số giải pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt phát huy sự sáng tạo, năng lực của học sinh, đặc biệt là giáo dục ý thức đạo đức, vận dụng vào cuộc sống thực những bài học cuộc sống: sự nhân ái, sẻ chia… cho học sinh Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo. 2. Tên sáng kiến: Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Tạ Thị Thanh Hòa Địa chỉ: Trung tâm GDNN GDTX Tam Đảo Số điện thoại: 0915696603 Email: tathanhhoa.pt@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tạ Thị Thanh Hòa Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng dạy học môn Ngữ văn cho học sinh cấp THPT lớp12. Hỗ trợ giáo viên có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy tác phẩm truyện ngắn theo định hướng phát triển năng lực người học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 05/1/2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Nội dung sáng kiến: PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC 1. Cơ sở lí luận 3
- 1.1. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học 1.1.1.Năng lực và phẩm chất người học + Năng lực: Năng lực là một khái niệm then chốt chi phối việc đổi mới căn bản chương trình giáo dục mới. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên có giải thích: Năng lực là:“ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Tài liệu tập huấn về dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 nhấn mạnh: “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (ph ẩm ch ất c ủa người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung,cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ thông(GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số năng lực những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như: Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: + Năng lực tự học + Năng lực giải quyết vấn đề + Năng lực sáng tạo 4
- + Năng lực quản lý bản thân Năng lực xã hội, bao gồm: + Năng lực giao tiếp + Năng lực hợp tác Năng lực công cụ, bao gồm: + Năng lực tính toán + Năng lực sử dụng ngôn ngữ + Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ICT) + Về phẩm chất: Phẩm chất (giá trị) của cá nhân là động cơ, ý thức trách nhiệm, hứng thú hành động, đạo đức, niềm tin….của cá nhân đó. Những phẩm chất cần rèn luyện cho người học bao gồm: Yêu đất nước; Yêu con người; Chăm học, chăm làm; Trung thực, trách nhiệm. 1.1.2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học Dạy học là tổ chức các hoạt động học tập của HS: Trong phương pháp dạy học tích cực, HS được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và hướng dẫn, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình ch ưa rõ mà không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, học viên trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa biết, hiểu được kiến thức, kĩ năng mới, vừa vận dụng được phương pháp chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng đó, không theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này, giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. 5
- Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Trong định hướng phát triển chương trình sau 2015, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiêp ti ́ ếng Việt và năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học; ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học. Ngoài những năng lực chung mà môn Ngữ văn cũng như các môn học khác đều hướng đến, môn Ngữ văn còn hướng đến những năng lực chuyên biệt: + Năng lực đọc hiểu văn bản Đọc hiểu văn bản chỉ hoạt động tiếp nhận văn bản của bạn đọc là HS, trong môi trường lớp học, có hướng dẫn và đánh giá. Có 4 cấp độ yêu cầu cơ bản của hoạt động đọc hiểu: Cấp độ Mô tả Nhận biết Kể lại câu chuyện, tóm tắt cổ truyện, nhớ tên nhân vật, tên tác giả, thuộc lòng bài thơ, đoạn thơ... Thông hiểu Hiểu được đặc điểm thể loại, hình thức, bố cục,tình huống, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật tác phẩm... Vận dụng Vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề trong phạm vi nhà trường, cuộc sống... với yêu cầu ở mức độ bình thường. Vận Vận dụng Vận dụng kiến thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề dụ n cao tương đối khó trong phạm vi cuộc sống cá nhân, gia đình g và xã hội với yêu cầu sáng tạo cao có chủ kiến cá nhân. 6
- + Năng lực tạo lập văn bản: Năng lực tạo lập văn bản chính là khả năng tự tạo nên một chỉnh thể văn bản đạt được mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp rõ ràng và có thái độ của người giao tiếp. + Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra ñược các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn nhằm hướng dẫn HS đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Nội dung đề án đổi mới chương trình và SGK Một trong những định hướng phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu là “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”, trong đó nhấn mạnh vào việc đổi mới mãnh mẽ nội dung và phương pháp, chương trình dạy và học ở tất cả cá cấp, các bậc học. Theo Đề án được phê duyệt, chương trình mới, SGK mới được xây dựng theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả phẩm chất và năng lực. Bên cạnh đó là chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, nhân cách, lối sống; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định 7
- hướng nghề nghiệp cho mỗi học sinh. Đồng thời tăng cường năng lực ngoại ngữ, tin học, kỹ năng sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chương trình SGK mới xây dựng trên nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của HS, đồng thời tăng cường tính tương tác trong dạy học giữa thầy và trò, trò với trò, giáo viên với giáo viên. 2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay. Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện nay: dạy học đọc chép, dạy nhồi nhét, học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo, thiếu hứng thú đam mê... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học tập trì trệ, thụ động, thiếu hào hứng của học sinh. Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dể hiểu là đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đông HS nghĩ rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết đọc, biết nói cho nên học văn không thiết thực. Có thể đó là lí do làm cho đa số HS không cố gắng học ngữ văn. Về phía giáo viên, xã hội ta là xã hội tư duy theo kiểu giáo điều đã lâu năm, không biết đối thoại, không cho đối thoại, thậm chí theo lối phong kiến xưa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe. Xã hội như thế thì nhà trường như thế không sao khác được. Nếu trong giờ học mà tổ chức đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì nhà trường như vậy. Nếu không thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục. Thực trạng dạy học văn như trên không phải do một lí do cục bộ nào, không phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, không cố gắng, mà chủ yếu là do vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc 8
- biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hô hào mà chưa thực sự có quan niệm mới về dạy học, tập trung ở mấy nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Văn học trong nhà trường được gọi là môn “Văn học trích giảng”, “Văn học giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”. Việc dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”. Giáo án soạn ra là để cho GV “giảng”, biểu diễn trên lớp. Khái niệm “đọc” chỉ được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói là đọc hiểu. Đối với phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm theo những đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Đề thi tuy có sự đổi mới về kiểm tra đánh giá năng lực người học nhưng không ít đề kiểm tra ra theo dạng tái hiện kiến thức, ghi nhớ. Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi vì bản chất của quá trình dạy học là quá trình “dạy” của GV và quá trình “học” của HS. Quá trình học tập không phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển. Thứ ba, chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi HS là chủ thể của hoạt động học tập của mình thì HS phải là người chủ thể trong các hoạt động học tập, là người chủ động kiến tạo các kiến thức của mình mà GV chỉ là người tổ chức các hoạt động 9
- học tập cho HS. Giáo án của GV phải là kế hoạch hoạt động của HS để tự kiến tạo kiến thức, chứ không phải là Giáo án để GV giảng và bình ở trên lớp. Thứ tư, chúng ta chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì HS không phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức. Đọc không hiểu thì không có gì để cảm thụ cả. Với HS khối GDTX nói chung và HS của Trung tâm GDNNGDTX Tam Đảo nói riêng, năng lực đọc hiểu, tạo lập văn bản và cảm thụ thẩm mĩ văn học còn rất kém. Nguyên nhân xuất phát từ hai phía: người dạy (GV) và người học (HS). Học sinh đa phần có xuất phát điểm, mặt bằng kiến thức, năng lực tự học yếu kém. Về phía người dạy còn thiếu kỹ năng, phương pháp. Vì vậy, vấn đề đặt ra làm làm sao tạo được sự hứng thú và phát huy được năng lực cho học sinh là điều cần thiết. PHẦN II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KỸ THUẬT DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những cây bút truyện ngắn “viết ít mà ngày càng được khâm phục nhiều”, Vợ nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim Lân về nạn đói lịch sử Ất Dậu (1945) nạn đói đã cướp đi sinh mạng hơn hai triệu đồng bào ta lúc bấy giờ. Cũng như Nam Cao, Kim Lân vốn rất am hiểu về nông thôn cho nên ông có những trang viết sâu sắc, thấm thía về những người dân quê nghèo khổ. Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê hồn hậu và những người nông dân 10
- cần cù, chất phác. Đó là mảng hiện thực mà ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Nếu như Tô Hoài mang đến cho người đọc những trang viết vô cùng sinh động về phong tục tập quán và đời sống của người dân miền núi thì Kim Lân lại đem đến những tác phẩm đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ông viết chân thật và xúc động về đời sống người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ những con người gắn bó tha thiết, thủy chung với quê hương và cách mạng. Sáng lên trong các tác phẩm của Kim Lân là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ nhưng vẫn yêu đời, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa. Trong quá trình dự giờ thực tế, tôi nhận thấy các giờ dạy của đồng nghiệp đều cụ thể hóa được các đơn vị kiến thức đã chuẩn bị sẵn trong giáo án nhưng phương pháp vẫn còn nhiều điều bất ổn. Việc vận dụng kết hợp những phương pháp cần thiết và tối ưu để truyền đạt tới HS một cách hiệu quả và dễ dàng thì vẫn còn nhiều hạn chế. Trong quá trình dạy học, GV thường chỉ vận dụng phương pháp truyền thống như nêu vấn đề, HS tìm phương án trả lời. Tiếp theo đó GV phân tích, chốt lại ý chính. Vì vậy, tiết học chưa thực sự thu hút được HS. Qua quá trình nhiều năm dạy tác phẩm “Vợ nhặt” ở chương trình Ngữ văn 12, tôi đức rút được một số kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy tác phẩm vừa tạo được hứng thú cho HS vừa giúp phát triển được một số năng lực: giao tiếp, hợp tác, tự chủ và các phẩm chất: biết cảm thông chia sẻ, giúp đỡ người cùng cảnh ngộ, lòng bao dung... 1. Tạo hứng thú thông qua phần khởi động Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú là một thuộc tính tâm lí nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ 11
- tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp HS học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Người học chỉ tự giác, tích cực học tập khi họ thấy hứng thú. Hứng thú không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người có vai trò quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học, xem các trích đoạn phim, video clip...Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. 12
- Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự ảnh hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến thức môn học đối với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ môn, tăng cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ môn, nắm vững lý thuyết, luôn có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Quá trình kích thích hứng thú không chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra trong suốt quá trình. Do đó, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra trò chơi nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí tuệ. Nhà văn Kim Lân cũng không xa lạ với HS bởi trong chương trình Ngữ văn THCS các em đã được học truyện ngắn “ Làng”, vì vậy, thay bằng tạo ra trò chơi ô chữ, ghép hình đoán tên tác giả tôi sử dụng trích đoạn phim tư liệu,hình ảnh về nạn đói năm 1945 và đặt câu hỏi để khởi động bài học. Những hình ảnh, thước phim sống động đã lôi cuốn HS bước vào không gian ảm đạm, cái đói bủa vây làm nền cho nhân vật xuất hiện của tác phẩm. 13
- Hình ảnh minh họa 2. Gợi sự cảm thông, lòng trắc ẩn từ nhan đề tác phẩm. Văn học luôn gắn bó với đời sống, nhà văn thâm nhập và biểu hiện cuộc sống theo những con đường khác nhau. Nhan đề tác phẩm giữ vai trò như một cột mốc đánh dấu từng chặng đường thâm nhập cuộc sống của tác giả. Nhan đề tác phẩm là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khoá nghệ thuật” giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào. Nhan đề của tác phẩm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một số GV vẫn còn coi nhẹ, bỏ qua yếu tố này. Trong quá trình giảng dạy tôi luôn lưu ý học sinh tìm hiểu ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Đây là một cách hay để tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em. Ở truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã tạo sự tò mò ngay bởi nhan đề tác phẩm vừa lạ lẫm vừa chứa dựng điều gì đó oái oăm, éo le, nghịch cảnh. “Vợ nhặt” nghĩa là gì? Sao tác giả không gọi là “Nhặt vợ”? Cái khác biệt là ở chỗ: “nhặt vợ” là một động từ, còn “vợ nhặt” là một danh từ. Và đọc xong tác phẩm, người đọc mới thấy hết được tính chất vừa hài hước, vừa xót xa, bi thảm trong cái nhan đề ấy. Với kỹ thuật dẫn dắt khéo léo, GV có thể tạo ra một tình huống thảo luận đầy hứng thú từ nhan đề. GV có thể đặt câu hỏi: Nhan đề “ Vợ nhặt” gợi cho em suy nghĩ gì?” 14
- “Vợ nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Nói như nhà văn Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người nông dân dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống mọi xóm làng.Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng có thể “nhặt” được như người ta nhặt cái rơm, cái rác ngoài đường, ngoài chợ. Người ta nhặt nhau về và về với nhau không phải chỉ vì muốn có miếng ăn, có một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người dân lao động. Đằng sau nhan đề ấy, Kim Lân muốn gửi gắm một thông điệp khác: “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người. Vợ nhặt là một nhan đề hàm súc. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội đã gây ra nạn đói hủy diệt con người. Mặt khác, nhan đề ấy cũng nói lên rằng, trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống, trên ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, về hạnh phúc, tương lai. Tình yêu thương, khát vọng hạnh phúc vẫn mạnh hơn cái chết. Đó là ý nghĩa sâu sắc của nhan đề Vợ nhặt 3. Kết hợp linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung và nghệ thuật tác phẩm 3.1. Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm Dạy học nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi 15
- nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước cả lớp. Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm không phải một phương pháp dạy học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay là hình thức hợp tác của dạy học. Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới . Ở mức độ cao, có thể đề ra những nhiệm vụ cho các nhóm HS hoàn toàn độc lập xử lý các lĩnh vực đề tài và trình bày kết quả của mình cho những học sinh khác ở dạng bài giảng. Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sang t ́ ạo nên hình thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sang t ́ ạo. Điều quan trọng là HVcần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc nhóm. Tùy theo hoạt động học tập, có lúc HS sẽ làm việc theo cặp trong nhóm. Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm là những hoạt động nhằm giúp HS phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Những lưu ý khi tổ chức hoạt động nhóm: + Số lượng HS trong một nhóm thường khoảng 4 6 học sinh. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. + Để hoạt động nhóm thực sự có hiệu quả, ngay từ đầu GV nên tìm hiểu và phân loại HS về nhận thức, năng lực, phẩm chất làm tiền đề cho việc chia nhóm. Các thành viên trong nhóm cần có vai trò, nhiệm vụ rõ ràng. + Sau mỗi hoạt động nhóm, các thành viên cần thay đổi vai trò cho nhau, tránh tình trạng mỗi thành viên chỉ đảm nhiệm một vai trò trong thời gian quá lâu. 16
- + Khi giao nhiệm vụ cho HS, câu hỏi của Gv phải rõ ràng, mạch lạc để đảm bảo cho HS hiểu rõ yêu cầu của nhiệm vụ. GV có thể hỏi thêm những câu hỏi phụ để kiểm tra xem HS đã nắm được nhiệm vụ hay chưa. + Các vấn đề đưa ra cho HS hợp tác nhóm dược biên soạn trong phiếu học tập hoặc bảng phụ và chỉ giao cho HS một làn. Các phiếu được biên soạn đơn giản, rõ mục đích, có tính trực quan cao, không gây khó hiểu hoặc mất thời gian. + Trong thời gian HS làm việc, GV phải thường xuyên theo dõi để hướng dẫn, giúp đỡ các nhóm trao đổi, thảo luận đúng yêu cầu bài học, hoặc GV gợi mở thêm kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho HS. Ví dụ: GV tổ chức thảo luận nhóm: Chia lớp thành 4 nhóm, phát phiếu học tập và cùng thảo luận một nội dung : Cảm nhận của anh (chị) về diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ). Để tìm hiểu các nhân vật trong truyện, GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu một nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Lần lượt đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác góp ý bổ sung ( nhóm sau không nhắc lại nội dung nhóm trước đã trình bày) Giáo viên định hướng, nhận xét và nhấn mạnh những ý cơ bản. Tràng là nhân vật có bề ngoài thô, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư (lớp người bị xã hội khinh nhất trong quan niệm lúc bấy giờ), lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn đói 1945. Nhưng ở Tràng lại là con người tốt bụng và cởi mở: giữa lúc đói khát nhất bản thân mình cũng đang cận kề với cái đói cái chết. vậy mà Trang sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc. Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài câu nói nửa đùa nửa thật(…). 17
- Niềm hạnh phúc khi có vợ : + Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người Tràng đã có vợ. + Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt. + Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau: Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi. Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Tương tự như vậy, GV có thể đưa ra các câu hỏi khác để HS thảo luận: + Trong cái đói khát, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, những nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, em có nhận xét gì về tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội hiện nay? + Truyện ngắn Vợ nhặt được bao bọc bởi không gian “tối sầm vì đói khát” nhưng nhân vật nào cũng ánh lên niềm tin vào tương lai để vượt qua ranh giới giữa sự sống và cái chết. Suy nghĩ của em về vai trò của niềm tin trong cuộc sống? + Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã đem đến cho gia đình Tràng nguồn sinh khí mới. Suy nghĩ của em về vai trò của người phụ nữ đối với gia đình? 3.2. Thiết kế và sử dụng phiếu học tập Phiếu học tập( PHT) là phương tiện định hướng hoạt động độc lập của học sinh trong quá trình dạy học. Trên cơ sở của phiếu học tập, HS độc lập tiếp thu kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Phiếu học tập còn là phương tiện rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nhận thức như: Phân tích so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá... phiếu học tập đưa học sinh vào hoạt động tìm tòi, khám phá. Trên cơ sở đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. 18
- Thông qua tổ chức các hoạt động bằng phiếu học tập, giáo viên có thể thu được thông tin ngược về kiến thức và kĩ năng của học sinh để có biện pháp điềuchỉnh kịp thời. Phiếu học tập phải được thiết kế sẵn trước giờ dạy. Nội dung phiếu học tập phải vừa đủ, bám sát mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức kĩ năng, phù hợp đối tượng học sinh lớp giảng dạy, phù hợp với trình độ, hoạt động của học sinh, với lượng thời gian thích hợp. Hình thức phiếu học tập phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện tính sư phạm, tạo hứng thú cho học sinh. Sử dụng phiếu học tập cần kết hợp với các tài liệu và phương tiện dạy học khác như sách giáo khoa, tranh ảnh, tài liệu tham khảo... Giáo viên công bố đáp án kịp thời, đúng cách. Đặc biệt, không được lạm dụng phiếu học tập. Nội dung phiếu học tập cần lựa chọn hình thức biểu hiện phù hợp, có những dữ liệu nên trình bày bằng văn bản bình thường, có loại đưa vào sơ đồ, biểu mẫu, bài tập thực hành, bài tập xử lí tình huống... Tất cả đều phải phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học. Để thiết kế một PHT tốt, đáp ứng được các vai trò trên, theo tôi phải tuân thủ các quy tắc sau: Có mục đích rõ ràng, nội dung ngắn gọn, chính xác trong diễn đạt ý. Có khối lượng công việc vừa phải, có phần chỉ dẫn nhiệm vụ rõ ràng. Có khoảng trống phù hợp để học sinh điền kết quả của công việc đã làm. Có quy định thời gian hoàn thành. Trình bày phiếu khoa học. Có đánh số thứ tự nếu biên soạn nhiều phiếu học tập trong một tiết học + Phát phiếu học tập VD: anh/ chị hãy điền vào khoảng trống các chi tiết miêu tả nhân vật Tràng: PHIẾU HỌC TẬP 19
- Họ tên:………………........ Tổ:.....……..nhóm……..... Nhân vật Tràng Đánh giá chung về nhân vật Lai lịch ………………………………………. … …………………………… …. Ngoại hình ………………………………………. ........................................ ………………………………………. ………………………… ........................................ Tính cách ………………………………………. ………………………… ………………………………………. ........................................ ………………………………………. ………………………… Khát vọng ………………………………………. ........................................ hạnh phúc ………………………………………. ………………………… ………………………………………. ........................................ ………………………… ........................................ Nhận xét của giáo viên: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. 3.4. Đặt học sinh vào những câu hỏi khám phá, tình huống có vấn đề để giáo dục ý thức, phẩm chất. Hệ thống câu hỏi là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động dạy học nêu vấn đề. Tuy nhiên người giáo viên cần có sự lựa chọn các câu hỏi khai thác nội 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp nâng cao thành tích môn nhảy xa kiểu ưỡn thân
13 p |
324 |
48
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số đề xuất nhằm gây hứng thú tập luyện Thể dục thể thao cho học sinh THPT
8 p |
195 |
22
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p |
53 |
13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p |
149 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p |
62 |
10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
41 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p |
31 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p |
28 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p |
38 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p |
28 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p |
26 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn bài 13. lực ma sát – Vật Lí 10 cơ bản
36 p |
92 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm tổ chức dạy học trực tuyến tại trường THPT Trần Đại Nghĩa giai đoạn 2020-2022
23 p |
27 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p |
24 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường gắn với trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy giáo dục địa phương ở trường THPT Bình Minh
77 p |
39 |
4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học STEM chủ đề Sự biến đổi chất - Sắc nến lung linh
34 p |
23 |
4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
17 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tích hợp liên môn Lịch sử - Ngoại ngữ - Giáo dục công dân
60 p |
37 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
