intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:44

45
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài “Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”nhằm đề xuất một số giải pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt phát huy sự sáng tạo, năng lực của học sinh, đặc biệt là giáo dục ý thức đạo đức, vận dụng vào cuộc sống thực những bài học cuộc sống: sự nhân ái, sẻ chia… cho học sinh Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Giáo dục phổ  thông có vị  trí hết sức quan trọng, mang tính nền tảng của hệ  thống giáo dục quốc dân.Trong chương trình giáo dục, môn Ngữ văn là một môn  học có vai trò quan trọng không chỉ giúp học sinh trau dồi kiến thức, rèn luyện tư  duy mà còn góp phần vào quá trình hình thành, phát triển các năng lực  cần thiết   cho các em.  Đề  án đổi mới  Chương trình và Sách giáo khoa (CT&SGK)  giáo dục phổ  thông sau 2015  nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển Chương  trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách   linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá   nhân, … nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối   cảnh nhất định.   Năng lực thể  hiện sự  vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố  (phẩm   chất của người lao động,  kiến thức và kĩ năng) được thể hiện thông qua các hoạt  động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Nghị  quyết 88/2014 của Quốc hội về  đổi mới chương tr ình, sách giáo khoa  giáo dục phổ  thông nêu rõ mục tiêu “chuyển nền giáo dục nặng về  truyền thụ  kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả  về phẩm chất và năng lực,  hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi  học viên” và yêu  cầu   “đổi   mới   toàn   diện   mục   tiêu,   nội   dung,   phương   pháp   và   hình   thức tổ  chức giáo   dục,   thi, kiểm   tra,   đánh   giá chất lượng   giáo   dục   theo   yêu   cầu  phát triển phẩm chất và năng lực  học viên; khắc phục tình trạng quá tải; tăng  cường thực hành và gắn với thực tiễn cuộc sống”. Hơn nữa, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương   trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ  chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận  dụng được cái gì qua việc học. Để  đảm bảo điều đó, nhất định phải thực hiện  1
  2. thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều”  sang dạy học sinh cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình   thành năng lực và phẩm chất.  Nắm bắt được tinh thần đổi mới, trong những năm qua ngành giáo dục nói  chung và tập thể giáo viên đã và đang nghiên cứu đề xuất và thực hiện nhiều giải   pháp hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đạt  được không ít những thành công. Đây là tiền đề  vô cùng quan trọng để  ngành   giáo dục thực hiện mục tiêu đổi mới. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của đơn vị  cho thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích  cực của học sinh chưa nhiều nhất là đối tượng học sinh theo học chương trình   GDTX cấp THPT nói chung và tại Trung tâm GDNN­GDTX Tam Đảo nói riêng.  Dạy học vẫn nặng truyền thụ kiến thức, hoàn thành đầy đủ  nội dung giáo án đã  định sẵn. Việc rèn luyện kỹ  năng có được quan tâm nhưng hiệu quả  chưa cao.  Hoat động kiểm tra đánh giá chưa chú trọng đến đánh giá cả  quá trình học tập  của học sinh. Tất cả những điều đó dẫn tới việc học sinh thụ động, lúng túng khi  giải quyết những vấn đề trong thực tiễn. Sinh ra tại vùng quê Bắc Ninh giàu truyền thống văn hóa, Kim Lân được  biết đến là một trong những nhà văn thành công khi viết về  người nông dân và   cuộc sống nông thôn. Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những nhà văn “thuộc  hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại” , Vợ  nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim Lân về nạn đói lịch sử Ất Dậu (1945).   Tác phẩm Vợ  nhặt  đã được lựa chọn vào chương trình giảng dạy Ngữ  văn 12,   được đông đảo bạn đọc yêu mến.  Qua quá trình khảo sát, dự giờ thực tế, người vi ết nhận th ấy các giáo án  của giáo viên hay các phương pháp được sử  dụng trong giờ học mới chỉ    dừng  lại ở việc dạy học theo một vài thiết kế bài học quen thuộc. Dạy học vẫn mang   tính hàn lâm, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo. Để  một tác phẩm văn  học thực sự  hấp dẫn, phát huy được năng lực của người học, người viết chọn  đề  tài  “Dạy học Ngữ  văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất   2
  3. người học qua truyện ngắn Vợ  nhặt   của Kim Lân”nhằm đề  xuất một số  giải  pháp dạy học tác phẩm  Vợ  nhặt  phát huy sự  sáng tạo, năng lực của học sinh,  đặc biệt là giáo dục ý thức đạo đức, vận dụng vào cuộc sống thực những bài học  cuộc sống: sự  nhân ái, sẻ  chia… cho học sinh Trung tâm GDNN­GDTX Tam  Đảo. 2. Tên sáng kiến: Dạy học Ngữ  văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất   người học qua truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Tạ Thị Thanh Hòa ­ Địa chỉ: Trung tâm GDNN ­ GDTX Tam Đảo ­ Số điện thoại: 0915696603             Email: tathanhhoa.pt@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  Tạ Thị Thanh Hòa ­  Trung tâm GDNN­GDTX Tam Đảo 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ­ Áp dụng dạy học môn Ngữ văn cho học sinh cấp THPT lớp12. ­ Hỗ  trợ  giáo viên có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy tác phẩm truyện ngắn   theo định hướng phát triển năng lực người học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 05/1/2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1.  Nội dung sáng kiến:  PHẦN I:  CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY  HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ  PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC 1. Cơ sở lí luận 3
  4. 1.1. Dạy học Ngữ  văn theo định hướng phát triển năng lực và   phẩm chất   người học 1.1.1.Năng lực và phẩm chất người học + Năng lực: Năng   lực   là   một   khái   niệm   then   chốt   chi   phối   việc   đổi   mới   căn   bản   chương trình giáo dục mới. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp  cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Từ  điển tiếng Việt do Hoàng Phê  chủ biên có giải thích: Năng lực là:“ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên   sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho   con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Tài liệu tập huấn về  dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát   triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 nhấn  mạnh: “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức   kiến thức, kỹ  năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ  cá nhân,… nhằm đáp   ứng   hiệu   quả   một   yêu   cầu   phức   hợp   của   hoạt   động   trong   bối   cảnh   nhất   định. Năng lực thể  hiện sự  vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố  (ph ẩm ch ất c ủa   người lao động, kiến thức và kỹ  năng) được thể  hiện thông qua các hoạt động  của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các  yếu tố  cơ  bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là   các năng lực chung,cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ thông(GDPT) sau năm 2015 đã xác  định một số năng lực những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có  như: ­ Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: + Năng lực tự học + Năng lực giải quyết vấn đề + Năng lực sáng tạo 4
  5. + Năng lực quản lý bản thân  ­ Năng lực xã hội, bao gồm: + Năng lực giao tiếp + Năng lực hợp tác ­ Năng lực công cụ, bao gồm: + Năng lực tính toán + Năng lực sử dụng ngôn ngữ + Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ICT)       + Về phẩm chất: Phẩm chất (giá trị) của cá nhân là động cơ, ý thức trách nhiệm, hứng thú hành  động, đạo đức, niềm tin….của cá nhân đó.  Những phẩm chất cần rèn luyện cho người học bao gồm:  Yêu đất nước; Yêu  con người; Chăm học, chăm làm; Trung thực, trách nhiệm. 1.1.2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người   học     Dạy học là tổ chức các hoạt động học tập của HS: Trong phương pháp dạy  học tích cực, HS được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ  chức  và hướng dẫn, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình ch ưa rõ mà không  phải thụ  động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào  những tình huống của đời sống thực tế, học viên trực tiếp quan sát, thảo luận,  làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa   biết, hiểu được kiến thức, kĩ năng mới, vừa vận dụng được phương pháp chiếm  lĩnh kiến thức, kĩ năng đó, không theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và  phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này, giáo viên không chỉ  giản đơn  truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. 5
  6. Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ  môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt   kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Trong định hướng phát triển chương trình  sau  2015, môn Ngữ  văn được coi  là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiêp ti ́ ếng Việt và năng lực thưởng  thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học;  ngoài ra, năng lực giao tiếp, năng lực tư  duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn   đề, năng lực hợp tác, năng lực tự  quản bản thân (là các năng lực chung) cũng  đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học. Ngoài những năng lực chung mà môn Ngữ  văn cũng như  các môn học khác  đều hướng đến, môn Ngữ văn còn hướng đến những năng lực chuyên biệt: + Năng lực đọc hiểu văn bản Đọc hiểu văn bản chỉ hoạt động tiếp nhận văn bản của bạn đọc là HS, trong  môi trường lớp học, có hướng dẫn và đánh giá. Có 4 cấp độ yêu cầu cơ bản của  hoạt động đọc hiểu: Cấp độ Mô tả Nhận biết Kể lại câu chuyện, tóm tắt cổ truyện, nhớ tên nhân vật,  tên tác giả, thuộc lòng bài thơ, đoạn thơ... Thông hiểu Hiểu được đặc điểm thể  loại, hình thức, bố  cục,tình  huống, tư tưởng, nội dung, nghệ thuật tác phẩm... Vận dụng Vận dụng kiến thức, kỹ năng để  giải quyết các vấn đề  trong phạm vi nhà trường, cuộc sống... với yêu cầu  ở  mức độ bình thường. Vận  Vận   dụng  Vận dụng kiến thức, kỹ năng để  giải quyết các vấn đề  dụ n cao tương đối khó trong phạm vi cuộc sống cá nhân, gia đình  g và xã hội với yêu cầu sáng tạo cao có chủ kiến cá nhân. 6
  7. + Năng lực tạo lập văn bản: Năng lực tạo lập văn bản chính là khả  năng tự  tạo nên một chỉnh thể  văn bản đạt được mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp rõ ràng và có thái độ  của người giao tiếp.  + Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc  nhận ra ñược các giá trị  thẩm mĩ của sự  vật, hiện tượng, con người và cuộc  sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ  đó  biết hướng  những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện.  Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát  triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn   luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học,  môn Ngữ  văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn học,  Tiếng Việt, Tập làm văn nhằm hướng dẫn HS đọc hiểu các văn bản và tạo lập   được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau.  2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Nội dung đề án đổi mới chương trình và SGK Một trong những định hướng phát triển kinh tế ­ xã hội mà Đại hội Đảng  lần thứ XI đã nêu là “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và  phát triển nhanh giáo dục đào tạo”, trong đó nhấn mạnh vào việc đổi mới mãnh  mẽ nội dung và phương pháp, chương trình dạy và học ở tất cả cá cấp, các bậc   học. Theo Đề  án được phê duyệt, chương trình mới, SGK mới được xây dựng  theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả phẩm chất   và năng lực. Bên cạnh đó là chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự  hào   dân tộc, đạo đức, nhân cách, lối sống; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định   7
  8. hướng nghề  nghiệp cho mỗi học sinh. Đồng thời tăng cường năng lực ngoại   ngữ, tin học, kỹ năng sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế.  Chương trình SGK mới xây dựng trên nguyên tắc lấy HS làm trung tâm,  phát huy tính chủ  động, tích cực, sáng tạo, khả  năng tự  học của HS, đồng thời  tăng cường tính tương tác trong dạy học giữa thầy và trò, trò với trò, giáo viên   với giáo viên. 2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay. Nói đến phương pháp dạy học ngữ  văn  ở  nhà trường phổ  thông hiện nay  không thể  không nhắc tới các hiện tượng rất phổ  biến trong các giờ  học văn   hiện nay: dạy học đọc chép, dạy nhồi nhét, học sinh học thụ  động, thiếu sáng  tạo, thiếu hứng thú đam mê... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học tập trì trệ, thụ  động, thiếu   hào hứng của học sinh. Xét về  xã hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại  khoa học công nghệ, dể hiểu là đại đa số  HS chỉ  muốn học các ngành khoa học   tự  nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có HS hứng thú học văn, bởi phần đông HS nghĩ  rằng năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, không học vẫn biết  đọc, biết nói cho nên học văn  không thiết thực. Có thể đó là lí do làm cho đa số  HS không cố gắng học ngữ văn.   Về  phía giáo viên, xã hội ta là xã hội tư  duy theo kiểu giáo điều đã lâu  năm, không biết đối thoại, không cho đối thoại, thậm chí theo lối phong kiến   xưa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ  biết cắm đầu nghe. Xã hội như  thế thì nhà trường như thế không sao khác được. Nếu trong giờ học mà tổ  chức   đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì nhà trường như  vậy.  Nếu không thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục. Thực trạng dạy học văn như  trên không phải do một lí do cục bộ  nào,  không phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, không cố gắng, mà chủ yếu là  do vẫn tồn tại một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chung   và dạy học văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc   8
  9. biệt là lí luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hô   hào mà chưa thực sự  có quan niệm mới về  dạy học, tập trung  ở  mấy nguyên   nhân chủ yếu sau:   Thứ nhất, phương pháp dạy học cũ, chỉ  dựa vào giảng, bình, diễn giảng.  Văn học trong nhà trường được gọi   là môn “Văn học trích giảng”, “Văn học  giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”.  Việc dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”.    Giáo án soạn ra là để cho GV “giảng”, biểu diễn trên lớp.  Khái niệm “đọc” chỉ  được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói là đọc  hiểu. Đối   với phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS tập làm  theo những  đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện   những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Đề  thi tuy có sự  đổi mới về  kiểm   tra đánh giá năng lực người học nhưng không ít đề kiểm tra ra theo dạng tái hiện  kiến thức, ghi nhớ.  Thứ  hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS  phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi   vì bản chất của quá trình dạy học là quá trình “dạy” của GV và quá trình “học”   của HS. Quá trình  học tập không phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp  từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ  liệu  mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc  mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của   hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời,   học xong là quên ngay, không để  lại dấu  ấn trong tâm khảm người học, không  trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.  Thứ ba, chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các  em tính chủ  động trong học tập. Coi HS là chủ  thể  của hoạt động học tập của   mình thì HS phải là người chủ  thể  trong các hoạt động học tập, là người chủ  động kiến tạo các kiến thức của mình mà GV chỉ là người tổ chức các hoạt động  9
  10. học tập cho HS. Giáo án của GV phải là kế hoạch hoạt động của HS để tự kiến  tạo kiến thức, chứ không phải là Giáo án để GV giảng và bình ở trên lớp.  Thứ  tư, chúng ta chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc   văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học  văn là dạy cảm thụ  văn học. Nói như  vậy là chưa thật chính xác, bởi vì   HS  không phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu  chữ  thành nghĩa, thành thế  giới hình tượng, trên cơ  sở  đó mới cảm thụ  thế  giới   nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ  âm nhạc hay hội  hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học  chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức.  Đọc không   hiểu thì không có gì để cảm thụ cả.  Với HS khối GDTX nói chung và HS của Trung tâm GDNN­GDTX Tam   Đảo nói riêng, năng lực đọc hiểu, tạo lập văn bản và cảm thụ thẩm mĩ văn học   còn rất kém. Nguyên nhân xuất phát từ  hai phía: người dạy (GV) và người học  (HS). Học sinh đa phần có xuất phát điểm, mặt bằng kiến thức, năng lực tự học   yếu kém. Về phía người dạy  còn thiếu  kỹ năng, phương pháp. Vì vậy, vấn đề  đặt ra làm làm sao tạo được sự hứng thú và phát huy được năng lực cho học sinh   là điều cần thiết. PHẦN II: MỘT SỐ  PHƯƠNG   PHÁP, KỸ  THUẬT   DẠY HỌC TRUYỆN   NGẮN “VỢ NHẶT” THEO  ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ  PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC Là tác phẩm tiêu biểu của một trong những cây bút truyện ngắn “viết ít mà   ngày càng được khâm phục nhiều”, Vợ nhặt cũng ra đời bởi nỗi ám ảnh của Kim   Lân về  nạn đói lịch sử   Ất Dậu (1945) ­ nạn đói đã cướp đi sinh mạng hơn hai  triệu đồng bào ta lúc bấy giờ.  Cũng như Nam Cao, Kim Lân vốn rất am hiểu về nông thôn cho nên ông có  những trang viết sâu sắc, thấm thía về những người dân quê nghèo khổ. Thế giới   nghệ  thuật của ông là khung cảnh làng quê hồn hậu và những người nông dân   10
  11. cần cù, chất phác. Đó là mảng hiện thực mà ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc.  Nếu như  Tô Hoài mang đến cho người đọc những trang viết vô cùng sinh động  về phong tục tập quán và đời sống của người dân miền núi thì Kim Lân lại đem   đến những tác phẩm đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê vùng đồng bằng  Bắc Bộ. Ông viết chân thật và xúc động về đời sống người dân quê mà ông hiểu  sâu sắc cảnh ngộ  và tâm lí của họ  ­ những con người gắn bó tha thiết, thủy   chung với quê hương và cách mạng. Sáng lên trong các tác phẩm của Kim Lân là  vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam  lũ nhưng vẫn yêu đời, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa. Trong quá trình dự giờ thực tế, tôi nhận thấy các giờ dạy của đồng nghiệp  đều cụ thể  hóa được các đơn vị  kiến thức đã chuẩn bị  sẵn trong giáo án nhưng  phương pháp vẫn còn nhiều điều bất ổn. Việc vận dụng kết hợp những phương   pháp cần thiết và tối ưu để truyền đạt tới HS một cách hiệu quả và dễ  dàng thì   vẫn còn nhiều hạn chế.  Trong quá trình dạy học, GV thường chỉ  vận dụng  phương pháp truyền thống như nêu vấn đề, HS tìm phương án trả lời. Tiếp theo  đó GV phân tích, chốt lại ý chính. Vì vậy, tiết học chưa thực sự thu hút được HS.   Qua quá trình nhiều năm dạy tác phẩm “Vợ  nhặt”  ở  chương trình Ngữ  văn 12, tôi đức rút được một số kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy tác phẩm  vừa tạo được hứng thú cho HS vừa giúp phát triển được một số  năng lực: giao  tiếp, hợp tác, tự  chủ  và các phẩm chất: biết cảm thông chia sẻ, giúp đỡ  người   cùng cảnh ngộ, lòng bao dung... 1. Tạo hứng thú thông qua phần khởi động Hứng thú là thái độ  đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý   nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt  động. Hứng thú biểu hiện  ở  sự  tập trung cao độ, ở  sự  say mê, hấp dẫn bởi nội   dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú là một thuộc tính tâm lí ­ nhân cách của con người.  Hứng thú có  vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không  làm được dưới  ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ  11
  12. tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận  thức, giúp HS học tập đạt kết quả  cao, có khả  năng khơi dậy mạch nguồn của  sự sáng tạo.  Sự  hứng thú thể  hiện trước hết  ở  sự  tập trung chú ý cao độ, sự  say mê   của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là  động cơ  thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ  công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ  có cảm giác dễ  chịu với   hoạt động, nó là động cơ  thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn  vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ  không đem lại kết quả  cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt  động học tập, khi không có hứng thú sẽ  làm mất đi động cơ  học, kết quả  học   tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.  Người học chỉ  tự  giác, tích cực học tập khi họ  thấy hứng thú. Hứng thú  không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú không tự nhiên nảy sinh  và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú  được hình thành, duy trì và phát triển nhờ  môi trường giáo dục với vai trò dẫn  dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người có vai trò quyết định   trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức   được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập.  Ngoài việc khai thác sự lí thú  trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS còn được hình thành và phát triển   nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích   của các em. Đó chính là cách tổ  chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò   chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy   học dự án, tổ  chức dạy học ngoài không gian lớp học, xem các trích đoạn phim,   video clip...Trong thực tế  dạy học, giờ  học nào tổ  chức trò chơi cũng đều gây  được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò  chơi học tập có khả  năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng, kích thích sự  phát triển trí tuệ của các em.        12
  13. Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự   ảnh  hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm   chất đạo đức, nghề  nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc  truyền thụ  tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần  giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến thức môn học đối với  cuộc sống; giúp học sinh biết  cách học thích hợp đối với mỗi bộ  môn, tăng  cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ  môn, nắm vững lý thuyết,  luôn có sự  vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình  huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Quá trình kích thích hứng thú  không chỉ  diễn ra  ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra trong  suốt quá trình. Do đó, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra trò   chơi nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí  tuệ.     Nhà văn Kim Lân cũng không xa lạ  với HS bởi trong chương trình   Ngữ  văn THCS các em đã được học truyện ngắn “ Làng”, vì vậy, thay bằng tạo ra trò  chơi ô chữ, ghép hình đoán tên tác giả  tôi sử  dụng trích đoạn phim tư  liệu,hình  ảnh về nạn đói năm 1945 và đặt câu hỏi để khởi động bài học. Những hình ảnh,   thước phim sống động đã lôi cuốn HS bước vào không gian ảm đạm, cái đói bủa   vây làm nền cho nhân vật xuất hiện của tác phẩm. 13
  14. Hình ảnh minh họa 2. Gợi sự cảm thông, lòng trắc ẩn từ nhan đề tác phẩm.  Văn học luôn gắn bó với đời sống, nhà văn thâm nhập và biểu hiện cuộc   sống theo những con đường khác nhau. Nhan đề  tác phẩm  giữ  vai trò như  một  cột mốc đánh dấu từng chặng đường thâm nhập cuộc sống của tác giả. Nhan đề  tác phẩm là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khoá nghệ thuật” giúp  người đọc mở  ra cánh cửa chìm của tác phẩm.  Nhan đề  như  một một mã của  thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản   văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể  đọc nó hoặc  nên đọc văn bản như thế nào. Nhan đề của tác phẩm  là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, nhưng một   số  GV vẫn còn coi nhẹ, bỏ  qua yếu tố  này. Trong quá trình giảng dạy tôi luôn  lưu ý học sinh tìm hiểu ý nghĩa nhan đề  của tác phẩm. Đây là một cách hay để  tạo sự chú ý, kích thích hứng thú của các em. Ở  truyện ngắn “Vợ  nhặt”, nhà văn Kim Lân đã tạo sự  tò mò ngay bởi  nhan đề  tác phẩm vừa lạ  lẫm vừa chứa dựng điều gì đó oái oăm, éo le, nghịch   cảnh. “Vợ nhặt” nghĩa là gì? Sao tác giả không gọi là “Nhặt vợ”? Cái khác biệt là  ở chỗ: “nhặt vợ” là một động từ, còn “vợ nhặt” là một danh từ. Và đọc xong tác  phẩm, người đọc mới thấy hết được tính chất vừa hài hước, vừa xót xa, bi thảm   trong cái nhan đề ấy. Với kỹ thuật dẫn dắt khéo léo, GV có thể tạo ra một tình huống thảo luận   đầy hứng thú từ  nhan đề. GV có thể  đặt câu hỏi: Nhan đề  “ Vợ nhặt” gợi cho   em suy nghĩ gì?” 14
  15. “Vợ nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Nói  như  nhà văn Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm  1945 người nông dân dường như khó ai thoát khỏi cái chết.  Bóng tối của nó phủ  xuống mọi xóm làng.Trong hoàn cảnh  ấy, giá trị  một con người thật vô cùng rẻ  rúng, người ta có thể  có vợ  theo chỉ  nhờ  mấy bát bánh đúc ngoài chợ  ­ đúng là  nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”.  Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng có  thể  “nhặt” được như  người ta nhặt cái rơm, cái rác ngoài đường, ngoài chợ.  Người ta nhặt nhau về và về  với nhau không phải chỉ  vì muốn có miếng ăn, có  một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái ấm   gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no”   của người dân lao động. Đằng sau nhan đề  ấy, Kim Lân muốn gửi gắm một thông điệp khác: “khi  đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ  nghĩ đến con đường sống.  Dù  ở  trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề  bên cái chết vẫn khát khao hạnh  phúc, vẫn hướng về  ánh sáng, vẫn tin vào sự  sống và vẫn hi vọng  ở  tương lai,  vẫn muốn sống, sống cho ra con người. Vợ  nhặt là một nhan đề  hàm súc. Nó có ý nghĩa tố  cáo xã hội đã gây ra   nạn đói hủy diệt con người. Mặt khác, nhan đề ấy cũng nói lên rằng, trong hoàn   cảnh khắc nghiệt của cuộc sống, trên ranh giới mong manh giữa sự  sống và cái  chết,   con   người   vẫn   hướng   về   sự   sống,   về   hạnh   phúc,   tương  lai.   Tình   yêu  thương, khát vọng hạnh phúc vẫn mạnh hơn cái chết. Đó là ý nghĩa sâu sắc của  nhan đề Vợ nhặt 3. Kết hợp linh hoạt các phương pháp, kỹ  thuật dạy học giúp học sinh   chiếm lĩnh nội dung và nghệ thuật tác phẩm 3.1. Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm  Dạy học nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó học sinh của   một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi   15
  16. nhóm tự  lực hoàn thành các nhiệm vụ  học tập trên cơ  sở  phân công và hợp tác  làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước cả  lớp.   Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp   tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm không phải một phương pháp dạy   học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay là hình thức hợp tác của dạy học. Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố  một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể  để  tìm hiểu một chủ  đề  mới .  Ở mức độ  cao, có thể đề ra những nhiệm vụ cho các nhóm HS hoàn toàn độc lập xử lý các lĩnh   vực đề tài và trình bày kết quả của mình cho những học sinh khác ở dạng bài giảng. Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả  năng sang t ́ ạo nên hình thức  này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sang t ́ ạo.  Điều quan trọng là HVcần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia  làm việc nhóm.            Tùy theo hoạt động học tập, có lúc HS sẽ  làm việc theo cặp trong nhóm.  Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm là những hoạt động nhằm giúp HS phát  triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng.   Những lưu ý khi tổ chức hoạt động nhóm: + Số lượng HS trong một nhóm thường khoảng 4 ­6 học sinh. Nhiệm vụ của   các nhóm có thể  giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ  khác nhau, là  các phần trong một chủ đề chung.       + Để hoạt động nhóm thực sự có hiệu quả, ngay từ đầu GV nên tìm hiểu và  phân loại HS về nhận thức, năng lực, phẩm chất làm tiền đề cho việc chia nhóm.   Các thành viên trong nhóm cần có vai trò, nhiệm vụ rõ ràng.       + Sau mỗi hoạt động nhóm, các thành viên cần thay đổi vai trò cho nhau, tránh  tình trạng mỗi thành viên chỉ đảm nhiệm một vai trò trong thời gian quá lâu. 16
  17. + Khi giao nhiệm vụ cho HS, câu hỏi của Gv phải rõ ràng, mạch lạc để đảm bảo  cho HS hiểu rõ yêu cầu của nhiệm vụ. GV có thể  hỏi thêm những câu hỏi phụ  để kiểm tra xem HS đã nắm được nhiệm vụ hay chưa. + Các vấn đề  đưa ra cho HS hợp tác nhóm dược biên soạn trong phiếu học tập  hoặc bảng phụ và chỉ giao cho HS một làn. Các phiếu được biên soạn đơn giản,  rõ mục đích, có tính trực quan cao, không gây khó hiểu hoặc mất thời gian. + Trong thời gian HS làm việc, GV phải thường xuyên theo dõi để  hướng dẫn,   giúp đỡ  các nhóm trao đổi, thảo luận đúng yêu cầu bài học, hoặc GV gợi mở  thêm kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho HS. Ví dụ: GV tổ chức thảo luận nhóm: Chia lớp thành 4 nhóm, phát phiếu  học tập và cùng thảo luận một nội dung : Cảm nhận của anh (chị) về diễn biến  tâm trạng của nhân vật Tràng (lúc quyết định để người đàn bà theo về, trên  đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ).  Để tìm hiểu các nhân vật trong  truyện, GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi  nhóm tìm hiểu một nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Lần lượt đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác góp ý bổ sung  ( nhóm sau không nhắc lại nội dung nhóm trước đã trình bày) Giáo viên định hướng, nhận xét và nhấn mạnh những ý cơ bản. ­  Tràng là nhân vật có bề ngoài thô, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật   hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư (lớp người bị xã hội khinh nhất trong   quan niệm lúc bấy giờ), lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn  đói 1945. ­  Nhưng  ở  Tràng lại là con người tốt bụng và cởi mở: giữa lúc đói khát   nhất ­ bản thân mình cũng đang cận kề  với cái đói cái chết. vậy mà Trang sẵn  lòng đãi người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc. ­ Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài  câu nói nửa đùa nửa  thật(…). 17
  18.    ­ Niềm  hạnh phúc khi có vợ : +  Tràng khi đưa vợ  về  qua xóm ngụ  cư: Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý,  mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người­ Tràng đã có vợ. + Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Tràng  sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn  ra mắt cô vợ nhặt. + Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau: Tràng thấy mình như  bước ra từ  một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi.  Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự  sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.  Tương tự như vậy, GV có thể đưa ra các câu hỏi khác để HS thảo luận:  + Trong cái đói khát, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết gần kề, những   nhân vật trong truyện ngắn  Vợ  nhặt  vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, em có  nhận xét gì về tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội hiện nay? + Truyện ngắn Vợ nhặt được bao bọc bởi không gian “tối sầm vì đói khát”  nhưng nhân vật nào cũng ánh lên niềm tin vào tương lai để  vượt qua ranh giới   giữa sự  sống và cái chết. Suy nghĩ của em về  vai trò của   niềm tin  trong cuộc  sống? + Sự  xuất hiện của người vợ  nhặt đã đem đến cho gia đình Tràng nguồn  sinh khí mới. Suy nghĩ của em về vai trò của người phụ nữ đối với gia đình? 3.2. Thiết kế và sử dụng phiếu học tập Phiếu học tập( PHT) là phương tiện định hướng hoạt động độc lập của  học sinh trong quá trình dạy học. Trên cơ sở của phiếu học tập, HS độc lập tiếp   thu kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Phiếu học tập còn là phương   tiện rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nhận thức như: Phân tích ­ so sánh, khái  quát hoá, trừu tượng hoá... phiếu học tập đưa học sinh vào hoạt động tìm tòi,   khám phá. Trên cơ sở đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. 18
  19.  Thông qua tổ chức các hoạt động bằng phiếu học tập, giáo viên có thể thu  được thông tin ngược về  kiến thức và kĩ năng của học sinh để  có biện pháp  điềuchỉnh kịp thời. Phiếu học tập phải được thiết kế sẵn trước giờ dạy. Nội dung phiếu học   tập phải vừa đủ, bám sát mục tiêu bài học và chuẩn kiến thức kĩ năng, phù hợp   đối tượng học sinh lớp giảng dạy, phù hợp với trình độ, hoạt động của học sinh,  với lượng thời gian thích hợp. Hình thức phiếu học tập phải rõ ràng, ngắn gọn,  dễ hiểu thể hiện tính sư phạm, tạo hứng thú cho học sinh. Sử  dụng phiếu học tập cần kết hợp với các tài liệu và phương tiện dạy  học khác như  sách giáo khoa, tranh  ảnh, tài liệu tham khảo... Giáo viên công bố  đáp án kịp thời, đúng cách. Đặc biệt, không được lạm dụng phiếu học tập. Nội dung phiếu học tập cần lựa chọn hình thức biểu hiện phù hợp, có   những dữ  liệu nên trình bày bằng văn bản bình thường, có loại đưa vào sơ  đồ,  biểu mẫu, bài tập thực hành, bài tập xử lí tình huống... Tất cả đều phải phù hợp   với đối tượng học sinh và nội dung bài học. Để thiết kế một PHT tốt, đáp ứng được các vai trò trên, theo tôi phải tuân thủ các quy tắc sau: ­ Có mục đích  rõ ràng, nội dung ngắn gọn, chính xác trong diễn đạt ý. ­ Có khối lượng công việc vừa phải, có phần chỉ dẫn nhiệm vụ rõ ràng. ­ Có khoảng trống phù hợp để học sinh điền kết quả của công việc đã làm. ­ Có quy định thời gian hoàn thành. ­ Trình bày phiếu khoa học. ­ Có đánh số thứ tự nếu biên soạn nhiều phiếu học tập trong một tiết học + Phát phiếu học tập VD: anh/ chị hãy điền vào khoảng trống các chi tiết miêu tả nhân vật Tràng: PHIẾU HỌC TẬP 19
  20. ­  Họ tên:………………........  ­ Tổ:.....……..nhóm……..... Nhân vật Tràng Đánh   giá   chung   về  nhân vật Lai lịch ………………………………………. … …………………………… …. Ngoại hình ………………………………………. ........................................ ………………………………………. ………………………… ........................................ Tính cách ………………………………………. ………………………… ………………………………………. ........................................ ………………………………………. ………………………… Khát vọng  ………………………………………. ........................................ hạnh phúc ………………………………………. ………………………… ………………………………………. ........................................ ………………………… ........................................ Nhận xét của giáo viên: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………….. 3.4. Đặt học sinh vào những câu hỏi khám phá, tình huống có vấn đề để giáo   dục ý thức, phẩm chất. Hệ  thống câu hỏi là yếu tố  không thể  thiếu trong hoạt động dạy học nêu   vấn đề. Tuy nhiên người giáo viên cần có sự  lựa chọn các câu hỏi khai thác nội   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2