intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tác phẩm Tấm Cám theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh - Ngữ văn 10

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu đề tài là giúp học sinh tham gia nhiều hoạt động, tăng cường trải nghiệm để rèn luyện kỹ năng sống, phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học. Đồng thời giúp học sinh có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập cũng như trong thực tiễn cuộc sống, có hứng thú trong học tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tác phẩm Tấm Cám theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh - Ngữ văn 10

  1. A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Đổi mới giáo dục là vấn đề cấp thiết, đặt lên hàng đầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Xu hướng đổi mới là chuyển từ mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Giáo dục hiện nay đòi hỏi học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Qua đó, giáo viên rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn. Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ được trang bị tốt về nền tảng tri thức mà còn được chuẩn bị những kỹ năng mềm thiết yếu. Học sinh hôm nay chính là nguồn nhân lực then chốt trong tương lai. Học sinh cần có bản lĩnh sống, kỹ năng sống, biết nhận thức về giá trị bản thân, giá trị cuộc sống và phấn đấu hoàn thiện mình. Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là các trường hiện nay chỉ dạy chữ chưa chú trọng dạy người, chỉ chú trọng dạy lý thuyết mà chưa chú trọng thực hành. Học sinh còn thiếu khả năng thích ứng với cuộc sống trong khi xung quanh các em còn đầy rẫy những biến cố, những tệ nạn, những tác động tiêu cực sẵn sàng làm hoen mờ nhân cách, bào mòn ý chí và nghị lực các em. Ngữ văn là một môn học đem lại những giá trị cao đẹp. Môn văn không những giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức: nghe, nói, đọc và viết mà còn góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông qua những tác phẩm văn học trong nhà trường, học sinh sẽ phát triển năng lực thẩm mỹ và các kỹ năng khám phá bản thân, thấu hiểu giá trị nhân bản và thân phận của con người. Ngữ văn cũng giúp học sinh trở về với thực tiễn cuộc sống, rút ra nhiều bài học triết lí nhân sinh sâu sắc. Vì vậy rèn KNS thông qua từng giờ dạy học văn thật sự là một trong những hướng đi thiết thực, bổ ích và dễ thực hiện nhất nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng giáo dục toàn diện, phát triển “trí – thể - mĩ” cho từng đối tượng học sinh. Truyện cổ tích là những tác phẩm tự sự dân gian, phản ánh ước mơ, khát vọng của người lao động thông qua các yếu tố kì ảo. Học truyện cổ tích, học sinh sẽ có thêm nhiều bài học làm người, nhiều chiêm nghiệm về cuộc sống, nhiều triết lí nhân sinh được rút ra... Chính vì thế, dạy học chú trọng phát triển kỹ năng sống cho học sinh qua truyện cổ tích là một phương pháp phù hợp và hiệu quả. Hơn nữa, “Tấm Cám” được đánh giá là một trong những truyện đặc sắc nhất của truyện cổ tích thần kỳ, vì thế việc chú trọng rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong tác phẩm này lại càng phát huy hiệu quả. Phương pháp này không chỉ giúp đổi mới phương pháp dạy học, tích cực hóa hoạt động của học sinh mà còn gắn dạy văn với 1
  2. thực tiễn cuộc sống, làm cho môn văn ngày càng gần gũi với học sinh, tạo cho học sinh có thêm nhiều kỹ năng mềm trong cuộc sống. Trong quá trình dạy học, tôi cũng đã vận dụng phương pháp dạy học theo hướng phát triển kỹ năng sống cho học sinh, tổ chức cho học sinh nhiều hoạt động để góp phần phát triển kỹ năng sống, phát triển phẩm chất và năng lực và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Chính vì tất cả những điều đó, tôi xin trình bày đề tài Dạy học tác phẩm Tấm Cám theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh - Ngữ văn 10 . Đây là một đề tài mới, rất ít người quan tâm, đầu tư chu đáo. Đề tài này được áp dụng ở trường tôi và một số trường bạn, kết quả đạt được rất khả quan và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn phạm vi của đề tài, tôi tìm hiểu, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn dạy học theo hướng phát triển kỹ năng sống. Tôi lấy tác phẩm “Tấm Cám” làm đối tượng nghiên cứu. III. Mục tiêu, nhiệm vụ - Đối với học sinh: Giúp học sinh tham gia nhiều hoạt động, tăng cường trải nghiệm để rèn luyện kỹ năng sống, phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học. Đồng thời giúp học sinh có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập cũng như trong thực tiễn cuộc sống, có hứng thú trong học tập. - Đối với giáo viên: Thiết kế bài giảng sáng tạo, nâng cao hiệu quả bài học, luôn có ý thức thay đổi phương pháp dạy học, giúp tiếp thêm đam mê để thực hiện nhiệm vụ trồng người. IV. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa tài liệu lý luận và các văn bản pháp quy về đổi mới giáo dục và dạy học theo hướng phát triển kỹ năng sống. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, khảo sát, thực nghiệm, ứng dụng công nghệ thông tin, minh họa thông qua video, tổng hợp… V. Thời gian thực hiện - Hình thành ý tưởng: năm học 2019- 2020 - Năm học 2020 – 2021, chúng tôi tiến hành thử nghiệm phương pháp dạy học theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua văn bản “Tấm Cám” ở một số lớp và một số trường trên địa bàn của huyện Thanh Chương. 2
  3. B. NỘI DUNG I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lý luận. 1.1. Kỹ năng Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng, ở mỗi quan niệm là cách nhìn khác nhau của các tác giả trong và ngoài nước. Trong từ điển Từ và ngữ Hán Việt, Nguyễn Lân (1989) đã giải thích "kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn"[37, Tr. 390]. Theo từ điển Giáo dục học "kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể để tiến hành hành động ấy, cho dù là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ" [ 56, Tr. 220]. Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng "kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để có thể hành động phù hợp với những điều kiện cho phép"[57, tr.6]. Từ các khái niệm kỹ năng trên, có thể thấy đó là minh chứng cho sự sinh động về các cách hiểu khác nhau của các tác giả. Dù hiểu theo góc độ nào thì kỹ năng cũng chính là khả năng thực hiện những thao tác được hình thành và củng cố qua quá trình thực hành và trải nghiệm của bản thân. Kỹ năng chính là công cụ để gia tăng giá trị cho kiến thức bản thân, giúp con người làm việc có kế hoạch, tổ chức, chuyên nghiệp và hiệu quả. Kỹ năng là khả năng thực hiện một công việc nhất định, trong hoàn cảnh điều kiện nhất định và đạt chỉ tiêu nhất định. 1.2. Kỹ năng sống Về kỹ năng sống cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Tổ chức y tế thế giới WHO (1993) cho rằng: “KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive) giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Theo quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, UNICEF (1995):“KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Trong đó quan tâm tới sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng”[8, tr.7,8]. Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc UNESCO (2003) quan niệm: “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm chủ hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với tư cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức thức hàng ngày” [8, Tr.35]. 3
  4. Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục KNS của Vụ giáo dục thể chất, tác giả Nguyễn Võ Kì Anh cho rằng: “KNS là khả năng có được những hành vi thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày" [8, tr.36]. Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả... Nói cách khác, kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Việc giáo dục kỹ năng sống góp phần giải quyết tình trạng học sinh thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, thậm chí không biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ... Bên cạnh đó, các bài học về kỹ năng sống sẽ giúp học sinh hình thành những kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Đó là những kỹ năng chúng ta phải biết để có được sự điều chỉnh, ứng xử phù hợp với những thay đổi diễn ra hằng ngày, hàng giờ. Qua học tập và rèn luyện các kỹ năng sống, các em sẽ cảm nhận, thấu hiểu và trân trọng những giá trị căn bản của cuộc sống, giúp các em vững vàng và thành công trong tương lai. 2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang từng bước đổi mới. Người giáo viên phải tìm phương pháp để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển kỹ năng, phẩm chất, năng lực của học sinh là phương hướng phù hợp với yêu cầu của thời đại đổi mới đất nước. Việc đổi mới giáo dục dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước. Điều đó được thể hiện trong nhiều văn bản: - Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. - Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo cho rằng: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực…” 4
  5. - Bộ GD&ĐT có văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018: Chú trọng rèn cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu sách giáo khoa để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm vụ học tập đặt ra trong bài học; dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá, kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, một thực tế cho thấy kỹ năng sống có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của một con người. Kỹ năng sống góp phần lớn vào sự sinh tồn, phát triển, thành công hay thất bại của một con người trong cuộc sống. Mỗi người chúng ta không chỉ cần được trang bị những tri thức, hiểu biết mà quan trọng là phải có những kỹ năng để sinh tồn và phát triển trong xã hội này. Xã hội ngày càng phát triển, đất nước ngày càng đổi mới thì những kỹ năng đó lại càng đóng vai trò quan trọng. Nền giáo dục nước ta hiện đang chú trọng nội dung, trang bị kiến thức, chưa thực sự chú trọng, đầu tư cho việc phát triển kỹ năng, phẩm chất, năng lực. Nội dung giáo dục đang chủ yếu trang bị lý thuyết, ít được thực hành, đang chủ yếu hình thức trong lớp mà chưa đa dạng các hình thức khác…Chính vì thế, dạy học gắn với việc phát triển kỹ năng sống trong mỗi bài học đang là phương pháp cần thiết và đúng đắn trong thực tế hiện nay. Văn bản “Tấm Cám” là một văn bản hay, là một truyện cổ tích giàu giá trị giáo dục, có thể tổ chức rất nhiều hoạt động để rèn nhiều kỹ năng sống cho học sinh, giúp học sinh có thể liên hệ, trở về với thực tiễn cuộc sống ngày nay để rút ra nhiều bài học, nhiều triết lý nhân sinh. Khi dạy tác phẩm này, giáo viên thường chỉ cho học sinh đọc hiểu đơn thuần, tìm mâu thuẫn và diễn biến mâu thuẫn của Tấm và mẹ con Cám mà chưa có những phương pháp, hoạt động phong phú cho học sinh rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Hơn nữa, qua tìm hiểu tôi thấy vấn đề rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được nhiều người nghiên cứu nhưng áp dụng vào văn bản “Tấm Cám” lại ít người quan tâm và không có sự đầu tư chu đáo, hiệu quả. Đặc biệt, dạy “Tấm Cám” theo hướng rèn luyện kỹ năng sống sẽ thay đổi được phương pháp dạy học. Học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, đảm nhiệm nhiều vai trò hơn; giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ cho học sinh trong các hoạt động. Học sinh sẽ không chỉ được đọc hiểu về văn bản mà còn được giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống để rút ra những bài học cho bản thân. Từ những cơ sở lý luận và thực tế như trên, bản thân tôi nhận thấy, dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường. Nếu biết cách tổ chức, bỏ qua tâm lý e ngại, vượt qua những thiếu thốn về cơ sở vật chất, chúng ta sẽ có những giờ dạy Ngữ văn hiệu quả, thắp sáng đam 5
  6. mê, phát triển năng lực sáng tạo, tạo điều kiện cho các em bước vào cuộc đời một cách vững vàng. II. Thực trạng của vấn đề 1. Thuận lợi và khó khăn 1.1. Thuận lợi Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông. Bộ cũng đưa ra các hướng dẫn, yêu cầu cần tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua các môn học và các hoạt động giáo dục. Trong những năm gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An luôn quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Vấn đề dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống luôn được Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An chú trọng, hướng dẫn, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng dạy và học, để học sinh được rèn luyện thêm nhiều kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Trường tôi đang giảng dạy là trường luôn quan tâm, tạo nhiều sân chơi, nhiều hình thức rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong quá trình học tập. Nhờ thế, học sinh được trang bị nhiều kỹ năng mềm, nhiều kinh nghiệm sống trong thời hiện đại. Có được điều đó một phần là bởi lãnh đạo nhà trường luôn có quyết tâm cao trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Trường luôn đi đầu trong các hoạt động đổi mới phương pháp, có nhiều hình thức sáng tạo, đa dạng trong các hoạt động giáo dục như: tổ chức nhiều trò chơi, nhiều cuộc thì, tham quan trải nghiệm, ngoại khóa, câu lạc bộ, sân khấu hóa… Nhiều giáo viên hiện nay luôn có ý thức phấn đấu, tích cực trong việc nghiên cứu, tìm hiểu về đổi mới giáo dục. Chính vì thế, họ rất đồng tình với xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay. Họ luôn muốn tìm tòi, sáng tạo để tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả và nhận thấy dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong môn Ngữ văn là một phương pháp dạy học cần thiết và phù hợp với mục tiêu giáo dục. Các phụ huynh học sinh hiện nay cũng rất hưởng ứng, đầu tư, tạo điều kiện để con em mình được rèn luyện, phát triển kỹ năng sống. Bởi họ nhận thấy tầm quan trọng của kỹ năng sống trong cuộc sống hiện đại, bởi các phụ huynh không chỉ muốn con mình được trang bị kiến thức mà còn được rèn luyện những kỹ năng mềm để vững vàng trong cuộc sống. Trước đây, việc dạy học văn mang tính chất hàn lâm, xa rời thực tiễn, chủ yếu đọc chép, giáo viên thường thuyết giảng… Vì thế nhiều em học sinh cảm thấy chán nản, mệt mỏi. không hứng thú trong giờ học văn. Khi đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy học theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống ở môn Ngữ văn làm cho học sinh đều cảm thấy hứng thú, tích cực, tự giác, say mê, tìm thấy 6
  7. niềm vui, phấn khởi trong học tập. Đa số các em đều cảm thấy thích thú, phấn chấn với các giờ học có nhiều hoạt động rèn luyện kỹ năng. 1.2. Khó khăn 1.2.1. Về phía giáo viên Hiện nay, mặc dù vấn đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đã đề ra từ lâu, thế nhưng một bộ phận quản lý, giáo viên vẫn chưa nhận thức và thấy được tầm quan trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Nhiều giáo viên hiện nay vẫn còn sử dụng những phương pháp truyền thống, mà chưa quen với cách dạy học hiện đại. Họ vẫn lên lớp với cách truyền thụ một chiều, thầy giảng, trò ghi, đọc chép mà chưa chịu khó tìm tòi, học tập, thay đổi. Hơn nữa, để dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống, giáo viên phải tốn thời gian, công sức trong khâu thiết kế, định hướng bài học nên nhiều giáo viên chưa đầu tư, ngại vất vả, ngại thay đổi. Có những giáo viên đã tìm cách thay đổi phương pháp dạy học, đã dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống nhưng lại chỉ chú ý rèn luyện kỹ năng trên lớp học mà chưa chú ý rèn luyện kỹ năng sống trong gia đình, ngoài xã hội. Chính vì thế nên phương pháp dạy học này vẫn chưa thật sự kích thích hứng thú học tập của học sinh. Hơn nữa, việc tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của giáo viên với nhau về vấn đề này cũng còn hạn chế. Khi thực hiện giáo dục KNS cho học sinh, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng. Mặc dù yêu cầu rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh đã có từ lâu nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các Sở Giáo dục chưa có tài liệu hướng dẫn nào cụ thể, chưa có tiêu chí đánh giá nào rõ ràng. Hầu hết giáo viên hiện nay dạy học kỹ năng sống theo kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu. Hơn nữa, hoạt động rèn luyện kỹ năng sống có những đặc thù riêng, khác với các hoạt động giáo dục khác. Bởi nội dung giáo dục này không chỉ diễn ra trong các môn học mà còn trong nhiều hoạt động khác: câu lạc bộ, ngoại khóa, sinh hoạt lớp, trải nghiệm sáng tạo...Chính vì thế, kết quả rèn luyện kỹ năng sống của học sinh là tổng hợp của nhiều hoạt động khác nhau. Như vậy, để thực hiện hoạt động này, nhà trường và học sinh cần đầu tư cơ sở vật chất và có một nguồn kinh phí. 1.2.2. Về phía học sinh Đa số học sinh đều say mê, thích thú khi được học những giờ có rèn luyện kỹ năng sống. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Một số ít học sinh chưa thực sự thích nghi với phương pháp học mới này, chỉ thực hiện một cách thụ động, tham gia lấy lệ, không xây dựng ý kiến vào quá trình thảo luận của nhóm, không tích cực trong các nhiệm vụ giáo viên giao. Có những học sinh thiếu tự tin trong mọi hoạt động nên né tránh, lo sợ, không tham gia hết mình. Có những trường hợp lại gặp khó khăn trong diễn đạt: nói lắp, sợ hãi đám đông. Tất cả những điều này làm cho việc triển khai hoạt động rèn luyện kỹ năng sống trong giờ dạy học văn có những khó khăn đáng kể. 7
  8. 2. Thành công và hạn chế Từ những thuận lợi và khó khăn nói trên, chúng tôi đã không ngừng tìm cách phát huy những thuận lợi và khắc phục tối đa những khó khăn để áp dụng phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong bài học “Tấm Cám”. Bước đầu, chúng tôi thấy có những thành công đáng kể cũng như còn một số hạn chế cần khắc phục. Thành công bước đầu của việc áp dụng phương pháp dạy học này là tạo hứng thú, say mê, sáng tạo cho học sinh. Nếu như trước đây, học sinh thường không hứng thú với môn văn, coi môn văn là môn học buồn ngủ, là môn học không mấy “thời thượng” trong xã hội hiện đại ngày nay. Hơn nữa, tác phẩm “Tấm Cám” mặc dù là tác phẩm hay, nhiều giá trị nhưng nếu không biết các tổ chức hoặc dạy học theo kiểu đọc chép, không tạo được hứng thú thì sẽ làm mất đi giá trị của tác phẩm. Khi áp dụng phương pháp dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống, học sinh tỏ ra háo hức, tích cực, tự giác trong mọi nhiệm vụ được giao. Sau bài học, học sinh không chỉ được trang bị tri thức mà còn rèn luyện nhiều kỹ năng, phát huy nhiều năng lực, rèn nhiều phẩm chất cần thiết cho học sinh thời hiện đại. Còn với giáo viên giảng dạy, áp dụng phương pháp dạy học này, tình hình dạy học văn có nhiều chuyển biến. Học sinh tích cực, sáng tạo làm cho giáo viên cũng nhiều hứng thú, giúp giáo viên không ngừng học hỏi, tìm tòi để nâng cao hiểu biết, tìm ra những giải pháp tốt nhất để “thắp lửa” đam mê cho các em. Sử dụng phương pháp dạy học này, giáo viên không còn phải nói nhiều, giảng lắm, phải độc thoại một mình trên lớp học mà trở thành người tổ chức, hướng dẫn còn mọi hoạt động chủ yếu do học sinh tiến hành. Bên cạnh những thành công bước đầu thì cũng còn tồn tại một số hạn chế. Về phía giáo viên, trong quá trình lên lớp, một số thầy cô khi áp dụng phương pháp này vẫn còn nặng về hình thức, còn mang nặng tính chất trình diễn. Nhiều giáo viên lại ôm đồm kiến thức làm mất thời gian mà hiệu quả giờ dạy chưa cao. Trong tiến trình lên lớp với phương pháp rèn luyện kỹ năng sống, một số giáo viên thao tác hơi nhanh hoặc chưa cụ thể, chưa có sự giám sát, theo dõi, động viên, quan tâm nên dẫn đến việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của học sinh chưa cao. Một số học sinh chưa thích nghi với phương pháp học mới này, chỉ thực hiện một cách thụ động, tham gia miễn cưỡng, không xây dựng ý kiến vào quá trình thảo luận của nhóm. Ngoài ra, có một số học sinh còn ỷ lại mọi việc cho các bạn học khá, giỏi thực hiện còn mình chỉ đứng ngoài cuộc, ghi lại các thành quả của các bạn. Một số học sinh lại gặp khó khăn trong diễn đạt: nói lắp, sợ hãi đám đông, thiếu tự tin. Những học sinh này thường ngại hoặc không dám trực tiếp tham gia các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống. 8
  9. III. Các hình thức, phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh THPT 1. Lồng ghép dạy kỹ năng sống trong quá trình dạy học các môn học Đây là hình thức, phương pháp sử dụng hiệu quả, thường xuyên nhất trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Chương trình THPT có rất nhiều môn học, mỗi môn có đặc điểm và ưu thế riêng cho việc rèn luyện kỹ năng sống. Nếu giáo viên có ý thức rèn luyện kỹ năng sẽ dễ liên hệ, dễ đặt ra nhiều tình huống để học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống nhằm rút ra những bài học cho bản thân. Chính vì thế, đây là một hình thức, phương pháp quan trọng, có ý nghĩa vô cùng to lớn để hướng đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Ví dụ, với môn văn, qua các bài học, giáo viên không chỉ giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin…mà còn có thể bồi đắp đời sống tâm hồn, tình cảm qua hệ thống các nhân vật, các sự việc, các nội dung trong tác phẩm văn học. Ví dụ, qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, giáo viên có thể giúp học sinh bồi đắp thêm kỹ năng thể hiện sự cảm thông, tình thương người, khát vọng sống mãnh liệt, sự lạc quan trong cuộc sống... Với môn giáo dục công dân là môn học có thể giúp học sinh nhiều bài học đạo đức, nhiều hiểu biết về cách ứng xử trong cuộc sống, có thêm nhiều kỹ năng trong cuộc đời. Học môn lịch sử giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng đạt mục tiêu…Vì thế, mỗi môn học sẽ giúp trang bị, bồi dưỡng cho học sinh những kỹ năng, hiểu biết khác nhau để giúp các em vững vàng trong cuộc sống. Nội dung mỗi bài học Ngữ văn giúp học sinh có thể nhận thức, rèn luyện được nhiều kỹ năng. Hơn nữa, cách tổ chức các hoạt động trong giờ học của giáo viên và sự tích cực của học sinh trong các hoạt động ấy cũng góp phần không nhỏ vào việc hình thành, phát triển kỹ năng sống. Bởi kỹ năng được hình thành qua suy nghĩ, nhận thức, hành động nên nếu giáo viên có cách thức tổ chức giờ học hợp lí hiệu quả, học sinh được làm việc nhiều, với các hình thức đa dạng thì chắc chắn sẽ có thêm nhiều kỹ năng cần thiết. Hơn nữa, ở các nhà trường hiện nay, học sinh chủ yếu hoạt động học tập trên lớp qua các môn học nên hình thức, phương pháp rèn luyện kỹ năng sống này lại càng có ý nghĩa quan trọng. 2. Sinh hoạt lớp. Sinh hoạt lớp là hoạt động tập thể của học sinh, được phân bố thời gian mỗi tuần một tiết để học sinh tiến hành những hoạt động giáo dục và xây dựng tập thể dưới sự hướng dẫn và cố vấn trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm. Sinh hoạt lớp ngoài nhiệm vụ sơ kết các hoạt động trong tuần và triển khai các hoạt động của tuần tới thì có thể tổ chức dưới nhiều hình thức, nhiều chủ đề khác nhau nhờ vào sự sáng tạo, chủ động của giáo viên chủ nhiệm. Hiện nay, hình 9
  10. thức tổ chức sinh hoạt lớp được thực hiện rất phong phú, đa dạng. Có thể là những tổng kết, rút kinh nghiệm của giáo viên và học sinh, là những bài học, lời khuyên răn của giáo viên chủ nhiệm từ những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Không những thế, nhiều giáo viên tổ chức sinh hoạt lớp với các chủ đề rất đa dạng, với nhiều hình thức rất phong phú và sáng tạo. Chính vì thế, tiết sinh hoạt lớp không còn là những lời giáo huấn suông hay là tiết để trách phạt, khen thưởng học sinh mà còn là tiết học để tổ chức rất nhiều hoạt động vui, chơi, tìm hiểu, khám phá để đúc rút, rèn luyện thêm nhiều hiểu biết, đặc biệt là nhiều kỹ năng trong cuộc sống. Trong tiết sinh hoạt lớp, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận, tìm hiểu, trả lời các câu hỏi về một chủ đề nào đó. Cũng có thể, học sinh được điều khiển và tham gia các trò chơi bổ ích, lý thú. Không những thế, tiết sinh hoạt lớp cũng là thời gian để các học sinh bộc lộ các khả năng của bản thân như: hát, múa, nhảy, kể chuyện, dẫn chương trình…về một chủ đề nhất định. Tất cả những điều đó đều góp phần giúp học sinh rèn luyện và phát triển những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống, để các em vững vàng, tự tin trong tương lai. 3. Chủ đề tự chọn. Chủ đề tự chọn là những vấn đề được giáo viên hoặc tập thể giáo viên chọn lựa để đưa vào hoạt động giáo dục trong nhà trường. Chủ đề tự chọn thường là những vấn đề quan trọng, có nhiều nội dung, có ý nghĩa trong việc giáo dục học sinh. Hiện nay, trong các mỗi môn học thường có những chủ đề tự chọn của tổ nhóm, mỗi giáo viên chủ nhiệm lại tổ chức những chủ đề khác nhau trong tiết sinh hoạt lớp. Với các tiết học theo chủ đề này, giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm rõ những nội dung của chủ đề mà điều quan trọng là rèn cho học sinh thêm những kỹ năng, phẩm chất và năng lực. Để giúp học sinh khám phá về chủ đề, giáo viên có thể hướng cho học sinh có nhiều cách thức hoạt động khác nhau: trò chơi, tìm hiểu kiến thức, thảo luận, trải nghiệm, viết bài, tạo video... Chính những hoạt động này sẽ làm cho các em khắc sâu thêm nội dung kiến thức đồng thời tạo hứng thú, tìm tòi, khám phá và góp phần giúp các em có thêm những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. 4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) là một bộ phận của quá trình giáo dục ở trường phổ thông. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực hành, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là con đường quan trọng hình thành và phát triển kỹ năng, năng lực và nhân cách cho học sinh. HĐGDNGLL có nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, diễn ra trên bình diện rộng. Đó là các hoạt động thực tiễn về khoa học kỹ thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí…Trong 10
  11. HĐGDNGLL, học sinh có điều kiện sử dụng kiến thức, kinh nghiệm tri thức đã học, khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, kích thích sự phát triển tư duy. Có thể nói HĐGDNGLL là môi trường tốt cho việc phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh, là điều kiện tốt nhất để các em phát huy vai trò chủ thể, chủ động, sáng tạo trong quá trình rèn luyện và học tập, góp phần hình thành phát triển kỹ năng sống cho học sinh. Khi tham gia các HĐGDNGLL, các em được hòa mình vào sự vận động chung của đời sống xã hội phong phú, phức tạp và sôi động. Chính HĐGDNGLL đã bước đầu đặt học sinh trước những vấn đề của thời đại, của xã hội, của đất nước cũng như những thách thức thực tiễn mà các em sẽ phải tiếp cận và đối mặt…Từ thực tế đó giúp các em có thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống. Để hoạt động này có hiệu quả, giáo viên cần đóng vai trò là người tư vấn, tổ chức còn học sinh là những người trực tiếp, chủ động thực hiện mọi nhiệm vụ, yêu cầu mà giáo viên đề ra. Thông qua những hoạt động đó, học sinh sẽ hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng. 5. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của người thầy, học sinh được trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động. Từ đó, học sinh phát huy năng lực thực tiễn và tiềm năng sáng tạo. Giáo viên là người tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm trong thực tiễn để tích lũy và chiêm nghiệm, để học sinh có thể khái quát thành sự hiểu biết cho bản thân và rèn luyện các kỹ năng trong cuộc sống. Hoạt động trải nghiệm giúp cho học sinh huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống gia đình, nhà trường và xã hội. Trải nghiệm còn giúp bày tỏ quan điểm, ý tưởng sáng tạo, lựa chọn ý tưởng hoạt động; thể hiện và tự khẳng định bản thân, đánh giá và tự đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm và của các bạn... dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Nhờ đó, hoạt động trải nghiệm giúp hình thành và phát triển kỹ năng, phẩm chất và năng lực. Chương trình hoạt động trải nghiệm rất đa dạng, phong phú, có thể tổ chức thực hiện trong phạm vi nhà trường cũng như gia đình và xã hội. Học sinh khi được tham gia trải nghiệm thường hứng thú để khám phá, thực hiện. 6. Tham vấn, truyền thông. Tham vấn, truyền thông ở trường THPT là hoạt động của đội ngũ tham vấn viên, của các diễn giả nhằm tư vấn, tháo gỡ, chia sẻ với học sinh những điều khó nói, những vấn đề quan trọng trong cuộc sống. 11
  12. Hằng năm, các trường phổ thông không chỉ tiến hành dạy học và tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục đa dạng mà còn liên hệ các cơ quan, tổ chức để mời các tham vấn viên, các diễn giả nổi tiếng về trường trực tiếp nói chuyện, trao đổi, tổ chức trò chơi, trả lời các câu hỏi...với học sinh. Mục đích của hoạt động này là để tư vấn, chia sẻ với học sinh những vấn đề tế nhị, khó nói nhưng ảnh hưởng to lớn đến đời sống học sinh như sức khỏe sinh sản vị thành niên, các biện pháp tránh thai, tình yêu tuổi học đường...Bằng nghệ thuật truyền giảng, bằng giọng nói truyền cảm, bằng những câu chuyện, bằng hiểu biết phong phú, các diễn giảng giúp học sinh nhận thức được nhiều điều, hiểu được những vấn đề ít ai nói đến, rút ra nhiều bài học cho bản thân, thấm thía về cách ứng xử trong cuộc sống. Các tham vấn viên là những người đã được đào tạo, rèn luyện, có hiểu biết, có kinh nghiệm, có năng khiếu để thuyết phục người khác. Tất cả những điều đó giúp cho học sinh có thêm nhiều kỹ năng, nhiều bài học trong cuộc sống. IV. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đọc hiểu văn bản “Tấm Cám” 1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua môn Ngữ Văn 1.1. Môn Ngữ văn ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu rèn luyện kỹ năng sống Với đặc trưng là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có những hiểu biết xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. Học văn học, học sinh biết thêm nhiều nền văn hóa, nhiều giai đoạn lịch sử của nước ta và thế giới, biết về tình thần đấu tranh quật cường của dân tộc ta, biết đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm vô cùng phức tạp của con người…Như vậy, môn Ngữ văn ở trường THPT cung cấp cho học sinh một kho tàng tri thức lớn, giúp các em nhận thức được nhiều điều trong cuộc sống. Đó là một cơ sở quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho học sinh hiện nay. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, tăng khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng lành mạnh hoàn thiện nhân cách. Những chức năng, giá trị này của môn Ngữ văn ở trường THPT đều rất cần thiết và không thể thiếu đối với mỗi học sinh trong thời đại ngày nay. Học môn Ngữ văn, học sinh sẽ có thêm nhiều kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành cách em kỹ năng nhận thức và nhiều kỹ năng ứng xử trong cuộc sống, giúp các em hoàn thiện nhân cách, năng lực, phẩm chất để thích ứng với những đòi hỏi của xã hội. Học những tác phẩm văn học dân gian ở trường THPT không chỉ giúp học sinh hiểu về một thời kì xa xưa của lịch sử xã hội mà còn giúp các em rút ra nhiều bài học về cuộc sống, về cách ứng xử đúng đắn với mọi người, về truyền thống cha 12
  13. ông. Học văn học trung đại, học sinh không chỉ thấy một thời hào hùng của lịch sử dân tộc, thấy được những tư tưởng, suy nghĩ của cha ông ta cách đây hàng chục thế kỉ mà còn giúp các em thấy được ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, non sông, giúp các em rút ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống ngày nay. Học văn học hiện đại, đương đại, học sinh lại được hiểu hơn về tâm tư, tình cảm của các nhà văn nhà thơ, những con người có tấm lòng yêu nước, luôn thổn thức trước những vấn đề của xã hội. Tất cả những tác phẩm văn học được chọn lọc trong chương trình THPT không chỉ có giá trị nhận thức, giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị giáo dục sâu sắc về tình thương người, sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau, lòng yêu nước, sự căm thù giặc…Chính vì thế, môn Ngữ văn ở trường THPT sẽ giúp học sinh có những bài học ý nghĩa về cuộc sống, sẽ bồi dưỡng, thanh lọc tâm hồn, giúp các em được phát triển lành mạnh, hoàn thiện hơn về nhân cách. Như vậy, môn Ngữ văn có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. 1.2. Quan điểm giáo dục kỹ năng sống ở môn Ngữ văn Mục tiêu hướng đến của chương trình giáo dục phổ thông mới là không chú trọng nhiều vào nội dung mà quan tâm nhiều đến việc rèn luyện năng lực, phẩm chất của người học. Muốn đạt được phẩm chất, năng lực thì học sinh phải hình thành, phát triển được những kỹ năng cần thiết trong quá trình học tập. Chính vì thế, dạy học văn trong nhà trường hiện nay không chỉ quan tâm đến việc hình thành kiến thức, năng lực mà cần quan tâm rèn luyện cả kỹ năng sống cho học sinh. Để hình thành, phát triển kỹ năng sống trong quá trình dạy học Ngữ văn, giáo viên có hai cách để tiếp cận kỹ năng sống cho học sinh: tiếp cận từ nội dung và từ phương pháp dạy học. Tiếp cận từ nội dung là thông qua nội dung bài học, giáo viên có thể liên hệ, nhắn nhủ hoặc đặt ra các tình huống gắn với thực tiễn để học sinh nghiên cứu, tìm tòi, rút ra bài học, hình thành kỹ năng sống cho bản thân. Tiếp cận từ phương pháp là thông qua hệ thống các phương pháp dạy học của giáo viên, thông qua sự tổ chức các hoạt động của giáo viên để học sinh tích cực hoạt động. Từ việc tham gia các hoạt động đó, giáo viên giúp học sinh có thêm nhiều kỹ năng quan trọng trong cuộc sống. Đây là cách thức hình thành kỹ năng quan trọng, diễn ra trong mọi bài học, diễn ra thường xuyên, chính vì thế sẽ hình thành và phát triển nhiều kỹ năng của học sinh trong cuộc sống. Nếu giáo viên tổ chức được nhiều hoạt động, thu hút được sự tham gia tích cực của học sinh thì chắc chắn hiệu quả thu được về kỹ năng, năng lực sẽ rất rõ. Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn, theo đặc trưng của môn học là giáo dục theo con đường “mưa dầm thấm lâu”, nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép. Kỹ năng sống của học sinh không phải hình thành trong một sớm một chiều, qua một bài học, một vài hoạt động mà chính là nhờ một quá trình dài lâu, qua nhiều hoạt động, nhiều môi trường để hình thành và phát triển. Đặc biệt, giáo dục 13
  14. kỹ năng sống qua môn Ngữ văn, môn học vừa có tính chất công cụ vừa có tính chất nghệ thuật thì càng phải cần thời gian, không nóng vội, cần sự tự nhiên chứ không thể gượng ép. Mỗi bài học chỉ có thể rèn luyện cho học sinh một phương diện nào đó của kỹ năng sống, phải qua thời gian, qua nhiều hoạt động, qua nhiều bài học, qua thực tế cuộc sống đa dạng thì học sinh mới tích lũy được cho mình những kỹ năng sống cần thiết. Các kỹ năng mà học sinh có được trong những bài học cũng cần sự uốn nắn, chỉnh sửa, rèn luyện qua thời gian dài lâu mới có thể trở thành kỹ năng, kỹ xảo. Đặc biệt, những bài học rút ra về tình người, sự sẻ chia, những khát vọng sống của con người…qua những tác phẩm văn học giá trị cần được kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực, để học sinh tự tìm tòi, tự khám phá thì chắc chắn hiệu quả mang lại sẽ thấm thía hơn. Qua những hoạt động tích cực, hiệu quả của học sinh, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên thì việc hình thành kỹ năng sống sẽ do các em tự khám phá ra, sẽ ăn sâu vào đời sống tâm hồn, tình cảm và nhận thức của các em. 1.3. Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn Ngữ văn THPT 1.3.1. Mục tiêu giáo dục môn Ngữ văn ở trường THPT Trước hết, môn Ngữ văn trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại, hệ thống về văn học và Tiếng Việt. Những kiến thức đó bao gồm: kiến thức về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu với những thể loại đa dạng của văn học Việt Nam và một số tác phẩm, đoạn trích của văn học nước ngoài; những hiểu biết về lịch sử văn học, kiến thức về lí luận văn học; những hiểu biết về lịch sử tiếng Việt, phong cách ngôn ngữ; những kiến thức về kiểu văn bản, đặc biệt là văn bản nghị luận… Môn văn ở trường THPT còn hình thành ở học sinh những năng lực đặc thù như năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Năng lực ngôn ngữ thể hiện ở việc việc rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Năng lực văn học thể hiện ở khả năng tiếp nhận văn học, khả năng tạo lập một số kiểu văn bản văn học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ… Không những thế, môn văn còn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước. Môn văn cũng góp phần giúp các em có thêm lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập tự cường, tinh thần dân chủ, nhân văn, tinh thần quốc tế cao cả. Môn văn giúp bồi đắp đời sống tâm hồn con người thêm phong phú, hướng thiện. 1.3.2. Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT qua giờ học Ngữ văn Về kiến thức, môn Ngữ văn giúp học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc và các giá trị tốt đẹp của nhân loại. Môn văn góp phần củng cố, mở rộng, bổ sung, khắc sâu cho học sinh hiểu rõ quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội. Hơn nữa, học sinh cần hiểu được giá trị, ý nghĩa của 14
  15. kỹ năng sống giúp bản thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần của bản thân mình cũng như người khác. Về kỹ năng, môn Ngữ văn góp phần giúp học sinh phát triển kỹ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt và tự tin trong các tình huống giao tiếp hằng ngày. Nó giúp học sinh có suy nghĩ, hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống. Môn Ngữ văn cũng giúp học sinh có kỹ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống như tệ nạn xã hội, HIV/ AIDS, bạo lực, xâm hại về tinh thần và thể xác con người…Hơn nữa, qua bài học môn Ngữ văn cũng có thể giúp các em có thêm nhận thức để phòng ngừa những hành vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển lành mạnh của bản thân. Về thái độ, môn Ngữ văn cũng góp phần giúp học sinh có hứng thú và nhu cầu được thể hiện kỹ năng sống mà bản thân đã được rèn luyện đồng thời biết động viên người khác cùng thực hiện các kỹ năng sống đó. Môn Ngữ văn góp phần không nhỏ vào việc hình thành và thay đổi hành vi, đặc biệt là những hành vi liên quan đến lối sống lành mạnh, đến quyền và trách nhiệm của bản thân, gia đình, cộng đồng. Chính nhờ những điều đó nên môn Ngữ văn giúp cho học sinh có những định hướng nghề nghiệp cho bản thân trong tương lai. 2. Tìm hiểu về truyện cổ tích 2.1. Định nghĩa Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về những con vật nói năng và hoạt động như con người. Trong truyện cổ tích thường có yếu tố hoang đường kì ảo, đóng vai trò cán cân công lí, thể hiện khát vọng công bằng, mơ ước và niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, cái tốt với cái xấu. 2.2. Truyện cổ tích thần kỳ Truyện cổ tích thần kỳ là loại truyện cổ tích có nội dung phong phú và số lượng nhiều nhất. Đặc trưng quan trọng của cổ tích thần kỳ là có sự tham gia của các yếu tố thần kỳ vào tiến trình phát triển của câu chuyện. Qua đó, nhân dân ta thể hiện ước mơ cháy bỏng về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng trong xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người. 15
  16. 3. Phương pháp dạy học tác phẩm “Tấm Cám” theo hướng rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh “Tấm Cám” là truyện cổ tích thần kỳ viết về cuộc đời, số phận nhân vật Tấm - một cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ. Từ nhỏ, Tấm đã phải chịu sự đối xử bất công, có nhiều mâu thuẫn với dì ghẻ và Cám. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt, Tấm bị mẹ con Cám giết hại. Mặc dù thế, Tấm đã không cam chịu cái chết mà liên tục hóa thân để tiếp tục cuộc đấu tranh bền bỉ, không khoan nhượng với kẻ thù và cuối cùng cái thiện đã chiến thắng cái ác. Tấm làm hoàng hậu và mẹ con Cám đều bị chết. Chính vì nội dung tác phẩm cổ tích thần kỳ này gắn với nhiều ước mơ, khát vọng của nhân dân nên trong phần tìm hiểu nội dung, nếu giáo viên lưu ý, quan tâm sẽ giúp học sinh có thêm nhiều bài học và kỹ năng sống. Với tác phẩm “Tấm Cám”, kỹ năng sống không chỉ được hình thành, rèn luyện, phát triển từ nội dung sâu sắc của bài học mà còn được rèn luyện qua các phương pháp dạy học tích cực của giáo viên. Chính vì thế, dạy học tác phẩm này cũng như nhiều tác phẩm khác, nếu giáo viên biết cách tổ chức, chỉ dẫn cho học sinh hoạt động hợp lý, hiệu quả thì học sinh sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hiện đại ngày nay. 3.1. Học sinh thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” để trình chiếu trong tiết học Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Ở tiết học này, để kết hợp rèn kỹ năng sống cho học sinh, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho một nhóm học sinh trong lớp thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” để trình chiếu trong phần khởi động của tiết học. Ở hoạt động này, giáo viên nên cho các em có cùng sở thích và năng khiếu đóng vai, diễn xuất, quay phim, tạo dựng, sửa chữa video đăng kí đảm nhận. Đây là hoạt động tuy mất thời gian chuẩn bị và thực hiện nhưng giúp các em rèn luyện thêm nhiều kỹ năng quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Trước khi tiến hành tiết học, giáo viên cần hướng dẫn và nói rõ nhiệm vụ cho một nhóm tự chuẩn bị và thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” trước khi làm hoàng hậu. Để thực hiện video này, học sinh cần tự sắp xếp thảo luận nhóm để trao đổi chọn trích đoạn nào, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên của nhóm: bạn viết kịch bản, bạn đóng vai Tấm, bạn đóng vai dì ghẻ, bạn đóng vai Cám, bạn đóng vai Bụt, bạn quay video, bạn chỉnh sửa và tạo lập video…Sau đó, nhóm chọn địa điểm, thời gian để thực hiện video. Đây là nhiệm vụ tương đối khó, yêu cầu các thành viên tích cực và nỗ lực hết mình với nhiệm vụ được giao. Giáo viên không trực tiếp tham gia mà đóng vai trò là người hướng dẫn, trao đổi, quan sát, theo dõi, nhắc nhở, giải đáp những thắc mắc mà các em gặp phải trong quá trình thực hiện video đóng vai. 16
  17. Video học sinh thực hiện đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” Đến tiết học, sau khi trình chiếu video đóng vai của nhóm, giáo viên yêu cầu các nhóm khác nhận xét về video đóng vai “Tấm Cám” mà nhóm đã thực hiện về mọi phương diện: kỹ năng viết kịch bản, kỹ năng đóng vai, kỹ năng quay và tạo lập video…Sau đó, giáo viên nhận xét, đánh giá, góp ý. Khi học sinh thực hiện hoạt động này trong giờ học thì tiết học sẽ thêm phần sinh động, hấp dẫn, thú vị với các em học sinh. Với những em tham gia nhóm đóng vai tạo lập video sẽ có thêm nhiều hoạt động trải nghiệm sáng tạo đáng nhớ. Nhờ vậy, các em sẽ được rèn thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống như: kỹ năng tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng thương lượng, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng quản lý thời gian…Những bạn học sinh mặc dù không trực tiếp tham gia đóng vai nhưng thông qua video trình chiếu chắc chắn cũng sẽ phần nào nâng cao hiểu biết, rút thêm nhiều kinh nghiệm và kích thích hứng thú, đam mê khám phá cho các em. 3.2. Tổ chức hoạt động phỏng vấn trong phần tìm hiểu chung Phỏng vấn là hoạt động trao đổi, đối đáp giữa hai người với nhau để trao đổi thông tin, để tìm hiểu về một vấn đề nào đó trong xã hội. Trong phần tìm hiểu chung của tác phẩm “Tấm Cám”, giáo viên có thể cho học sinh tiến hành hoạt động phỏng vấn và trả lời phỏng vấn để bài học trở nên sinh động, hấp dẫn; học sinh làm việc tích cực và rèn luyện phát triển thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống. Để thực hiện hoạt động này, tiết học trước giáo viên cần dặn dò, giao nhiệm vụ cho nhóm để chuẩn bị phần phỏng vấn. Với nhóm này, giáo viên cần hướng dẫn cách chuẩn bị phần phỏng vấn để học sinh thực hiện có hiệu quả. Nhóm cần nghiên 17
  18. cứu, phân công nhiệm vụ cụ thể cho người phỏng vấn và người trả lời phỏng vấn để thực hiện thành công, đúng yêu cầu cuộc phỏng vấn và cung cấp những thông tin cần thiết về truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích “Tấm Cám” nói riêng. Đến tiết học, giáo viên yêu cầu nhóm thực hiện cuộc phỏng vấn giữa một người yêu văn chương và một nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Yêu cầu cuộc phỏng vấn cần diễn ra tự nhiên, thoải mái, người phỏng vấn cần chuẩn bị những câu hỏi phù hợp để khơi gợi người trả lời phỏng vấn nhắc đến những nội dung quan trọng của bài học như: định nghĩa truyện cổ tích, phân loại, đặc điểm truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích “Tấm Cám”. Người trả lời phỏng vấn cần diễn đạt lưu loát, am hiểu về vấn đề truyện cổ tích để cung cấp kiến thức cho mọi người. Kết thúc cuộc phỏng vấn, giáo viên nên cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung phần làm việc của nhóm này và cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung. Hoạt động phỏng vấn Với hoạt động phỏng vấn này, giáo viên sẽ giúp các học sinh rèn kỹ năng phát hiện giải quyết vấn đề để chuẩn bị phần phỏng vấn để rèn kỹ năng tự tin, kỹ năng giao tiếp khi tiến hành phỏng vấn trước tập thể lớp. Đây đều là những kỹ năng quan trọng, cần thiết, cần được trau dồi rèn luyện với mỗi học sinh. 3.3. Học sinh vẽ tranh và tóm tắt tác phẩm qua tranh Trong giờ đọc hiểu tác phẩm “Tấm Cám”, giáo viên còn có thể tạo điều kiện cho học sinh thể hiện năng khiếu của bản thân qua việc vẽ tranh và tóm tắt tác phẩm qua tranh. Vẽ tranh cũng là một phương diện thể hiện sự cảm nhận, hiểu biết của học sinh về tác phẩm văn học. Học sinh vẽ những bức tranh về những chi tiết, 18
  19. sự việc tiêu biểu trong tác phẩm “Tấm Cám” để phục vụ cho việc tóm tắt tác phẩm thêm sinh động, hấp dẫn và dễ nhớ, dễ hiểu. Hoạt động này giáo viên cho một nhóm học sinh chuẩn bị ở nhà. Nhóm này giáo viên có thể cho học sinh có cùng sở thích và năng khiếu đăng kí tham gia. Sau khi giao nhiệm vụ, nhóm tự thảo luận để bàn bạc, thống nhất vẽ những chi tiết sự việc nào, ai là người vẽ tranh, ai là người tóm tắt tác phẩm qua tranh.. Với hoạt động này, giáo viên cần đóng vai trò là người hướng dẫn, nhắc nhở, khuyên bảo, động viên, khuyến khích các em để học sinh tự tin trong hoạt động và trong cuộc sống. Học sinh tóm tắt tác phẩm qua tranh vẽ Đến tiết học văn bản “Tấm Cám”, giáo viên cho học sinh treo sản phẩm tranh vẽ đã chuẩn bị để phục vụ cho bài học. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt ngắn gọn tác phẩm “Tấm Cám” trên cơ sở các bức tranh để câu chuyện trở nên sinh động, cuốn hút hơn. Sau khi nhóm trình bày xong, giáo viên cho các nhóm nhận xét, góp ý, rút kinh nghiệm. Nhờ hoạt động này, giáo viên giúp học sinh có kỹ năng sáng tạo, kỹ năng tự tin, kỹ năng cảm nhận tác phẩm, kỹ năng khẳng định bản thân, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin…Không những thế, nhờ hoạt động này mà tiết học thêm phần sinh động, học sinh thêm hứng thú, giờ học văn trở thành tiết học mà nhiều học sinh chờ đợi. 3.4. Thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là phương pháp giáo viên sắp xếp học sinh thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Trong hoạt động nhóm cần có sự phân công: trưởng nhóm, phó nhóm, thư kí...Sự phân công này có tính chất tạm thời, nên có sự thay đổi. Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả, giáo viên cần lưu ý các vấn đề sau: thiết kế 19
  20. các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau, tạo những nhiệm vụ phù hợp với kỹ năng và khả năng làm việc nhóm của học sinh, phân công nhiệm vụ công bằng giữa các nhóm và các thành viên, hướng dẫn học sinh phương pháp, kỹ năng làm việc nhóm. Hoạt động nhóm cần tiến hành theo các bước: chuẩn bị hoạt động, thực hiện và đánh giá hoạt động. Hơn nữa, giáo viên phải quan tâm, hướng dẫn, có biện pháp giúp đỡ kịp thời đối với hoạt động của các nhóm. Hoạt động thảo luận nhóm Từ hoạt động nhóm, học sinh được trao đổi, hỗ trợ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung. Hoạt động nhóm có ý nghĩa trong việc phát huy cao độ vai trò hợp tác, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học sinh. Nó tạo cơ hội cho các em thể hiện ý kiến, tự khẳng định khả năng, biết tiếp thu ý kiến người khác, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, nó còn giúp học sinh hình thành các kỹ năng, phẩm chất cần thiết như: kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý thời gian. Ngoài ra, nó còn thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, nhân văn. Hoạt động nhóm tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát, thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Tuy nhiên, nếu giáo viên không quan tâm, theo dõi sát sao các hoạt động làm việc nhóm sẽ tạo sự chây lười, ỉ lại của một số học sinh và các em sẽ khó có thể nắm được nội dung bài học. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2