Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến là giúp học sinh không ngừng tiến tới, không bao giờ dừng lại với những gì đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học, góp phần học tập suốt đời.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh
- 1
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Để thực hiện được điều đó, chúng ta phải chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.. Ngữ Văn là một môn học đặc biệt trong chương trình giáo dục, bởi nó vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, vừa là sách vở, vừa là cuộc đời, nó mang trong mình những giá trị của nhiều môn học khác. Mọi hoạt động của môn Ngữ Văn trong nhà trường đều xoay quanh một vấn đề trung tâm là tác phẩm. Cái “lạ”, cái “thật” cái “ảo”, cái “thực”... trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm gợi mở bao điều, đánh thức các năng lực tiềm ẩn của học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế, khi đọc hiểu các tác phẩm văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng, học sinh khó tiếp thu hơn so với các tác
- phẩm văn học hiện đại. Việc rút ngắn khoảng cách thẩm mĩ để học sinh dễ dàng tiếp nhận tác phẩm là không hề đơn giản. Sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh chưa nhiều, dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm, học sinh còn lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn...Chính vì thế, việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm văn học dân gian phải được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống, có sự đầu tư của người dạy và sự tích cực, chủ động của người học. Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu trên, tôi tiến hành thực hiện chuyên đề:“Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh” với mong muốn đem đến cho các thầy cô giáo và các em học sinh một tài liệu tham khảo hữu ích, cũng là góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung. 2. Tên sáng kiến: “Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh”. 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Địa chỉ: Giáo viên trường THPT Nguyễn Thái Học. Số điện thoại: 0986.229.678. Email: tuesansan@gmail.com. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Tuyết Nhung. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong công tác giảng dạy môn Ngữ Văn mà trọng tâm là phân môn Đọc Văn của chương trình Ngữ Văn 10 THPT.
- 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 10 năm 2018. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN I. Cơ sở lí luận 1. Khái niệm năng lực Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên(NXB Đà Nẵng, 1998) có giải thích: “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” Trong tài liệu Tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 thì năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng kết hợp nhiều yếu tố (phẩm ch ất, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực có các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung cốt lõi. Năng lực cốt lõi bao gồm những năng lực cơ bản: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ. 2. Các năng lực cần hình thành cho học sinh trong dạy học Ngữ Văn
- Môn Ngữ Văn được coi là môn học công cụ,do đó năng lực tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học là những năng lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học . Ngoài ra, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học của môn học. 2.1. Năng lực giải quyết vấn đề Đây là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả và tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu. 2.2. Năng lực sáng tạo Là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống; từ đó đề xuất các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu, khám phá, có cách nói/ viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả. 2.3. Năng lực hợp tác Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục tiêu chung. 2.4. Năng lực tự quản bản thân Là khả năng của mỗi người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng này giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm với suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
- 2.5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt Là khả năng sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình huống giao tiếp. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức, kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. 2.6. Năng lực thưởng thưc văn hoc ́ ̣ Là sự thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận diện, thưởng thức, đánh giá cái đẹp trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện, từ đó biết hướng suy nghĩ và hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. 3. Cách thiết kế và tổ chức hoạt động của một bài học theo hướng phát triển năng lực học sinh Để đổi mới dạy học, mỗi chuyên đề, mỗi bài học nên được thiết kế và tổ chức theo các hoạt động cơ bản sau đây: 3.1. Hoạt động khởi động Mục đích là tạo tâm thế học tập cho học sinh, giúp các em ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú với học bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiên thức, kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu làm bộc lộ cái học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra cái chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập. Vì vậy, các câu hỏi hay nhiệm vụ trong hoạt động khởi động là những câu hỏi hay vấn đề mở, chưa cần học sinh phải có câu trả lời hoàn chỉnh.
- Kết thúc hoạt động này, giáo viên không chốt về kiến thức mà chỉ giúp học sinh phát biểu được vấn đề để chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm tiếp cận, hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề. 3.2. Hoạt động hình thành kiến thức Mục đích là giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng mới và bổ sung vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của mình. Giáo viên giúp học sinh hình thành được những kiến thức mới thông qua các hoạt động khác nhau như: nghiên cứu tài liệu; tiến hành thí nghiệm, thực hành; hoạt động trải nghiệm sáng tạo... Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của học sinh thể hiện ở các sản phẩm học tập mà học sinh hoàn thành, giáo viên cần chốt kiến thức mới để học sinh chính thức ghi nhận và vận dụng. 3.3. Hoạt động luyện tập Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được. Trong hoạt động này, học sinh được luyện tập, củng cố các đơn vị kiến thức vừa học thông qua áp dụng kiến thức vào giải quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề nảy sinh trong học tập hay thực tiễn. Kết thúc hoạt động này, nếu cần, giáo viên giúp học sinh lĩnh hội cả về tri thức lẫn phương pháp, biết cách thức giải quyết vấn đề đặt ra trong “Hoạt động khởi động”. 3.4. Hoạt động vận dụng Mục đích là giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kỹ năng đã học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề nảy sinh trong cuộc sống gần gũi, ở gia đình, địa phương.
- Giáo viên cần gợi ý để học sinh phát hiện những hoạt động, sự kiện, hiện tượng nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, mô tả yêu cầu cần đạt (về sản phẩm) để học sinh lưu tâm thực hiện. Hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả học sinh phải tham gia. Tuy nhiên, giáo viên cần quan tâm, động viên để có thể thu hút nhiều học sinh tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những học sinh có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp. 3.5. Hoạt động tìm tòi mở rộng Mục đích là giúp học sinh không ngừng tiến tới, không bao giờ dừng lại với những gì đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học, góp phần học tập suốt đời. Giáo viên cần khuyến khích học sinh tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức ngoài sách vở, ngoài lớp học. Học sinh tự đặt ra các tình huống có vấn để nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Cũng như hoạt động vận dụng, hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả học sinh phải tham gia. Tuy nhiên, giáo viên cần quan tâm, động viên để có thể thu hút nhiều học sinh tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những học sinh có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp. 4. Giới thiệu về thể loại truyện cổ tích 4.1. Khái niệm Truyện cổ tích là tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. 4.2. Phân loại
- Truyện cổ tích có thể chia làm ba loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích sinh hoạt. Truyện cổ tích thần kì là tiểu loại tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Những truyện thuộc tiểu loại này thường ra đời từ rất sớm và những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích đều có thể tìm thấy ở kiểu truyện này. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích thần kì là sử dụng yếu tố kì ảo một cách đậm đặc. Đó là một yếu tố không thể thiếu được của cốt truyện, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng về một xã hội lí tưởng của nhân dân và kết thúc truyện thường có hậu. Truyện cổ tích loài vật là kiểu truyện mà nhân vật là các con vật trong thế giới loài vật. Tác giả dân gian thông qua các con vật, mối quan hệ của các con vật để gián tiếp phản ánh xã hội con người, những mối quan hệ của con người trong xã hội. Truyện cổ tích sinh hoạt là những truyện ra đời khi mâu thuẫn và đấu tranh xã hội trở nên gay gắt. Thực tế này đi vào trong truyện cổ tích đã làm cho yếu tố hoang đường kì ảo giảm nhẹ và thay vào đó là các yếu tố hiện thực để phản ánh sâu sắc những sinh hoạt đời thường, những quan hệ gia đình và xã hội. Thông qua những bức tranh sinh hoạt, những mối quan hệ này nhân dân đã gửi gắm những ước mơ về một xã hội công bằng, dân chủ, phê phán cái ác và đề cao đạo đức, luân lí. 4.3. Đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích 4.3.1. Nội dung Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội : Ra đời và phát triển trong xã hội có phân hoá giai cấp, truyện cổ tích rất chú ý tới việc phản ánh những mâu thuẫn giai cấp, phản ánh những cuộc đấu tranh xã hội. Đi sâu vào mảng đề tài này, truyện cổ tích chú ý khai thác những mâu thuẫn gia đình, tác giả dân gian quan niệm gia đình là một xã hội thu nhỏ. Và với cái
- nhìn như vậy, truyện cổ tích đã lí giải những mâu thuẫn gia đình trong mối tương quan với các quan hệ xã hội. Chế độ phong kiến đề cao, coi trọng người đàn ông thì trong gia đình nảy sinh mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, con trưởng và con út. Nếu gia đình là mái ấm của những đứa trẻ có đủ cha, đủ mẹ thì những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ bị bỏ rơi lại bị hắt hủi và bóc lột tàn tệ… Truyện cổ tích đã dựng nên những bức tranh trái chiều nhau giữa hai cảnh sống của giai cấp thống trị và những người thuộc tầng lớp bị trị. Khi phản ánh những mâu thuẫn giai cấp, những cuộc đấu tranh xã hội, các tác giả dân gian đã thể hiện một cái nhìn đầy cảm thông, thương yêu, nâng đỡ những con người “nhỏ bé” gặp phải những cảnh ngộ trớ trêu. Và ẩn sâu trong cái nhìn đó là một tinh thần phản kháng mạnh mẽ, mãnh liệt của nhân dân lao động, đồng thời cũng ánh lên một niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Truyện cổ tích phản ánh ước mơ của nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ: Thực trạng xã hội được phản ánh trong truyện cổ tích là hết sức đen tối, đầy rẫy những cảnh tượng đáng sợ. Trong gia đình thì anh cướp hết của cải của em (Cây khế), chị giết em để cướp chồng (Sọ Dừa), anh nuôi lợi dụng, hãm hại và lừa gạt em để cướp công (Thạch Sanh), mẹ con dì ghẻ hành hạ, sát hại con riêng của chồng (Tấm Cám). Ngoài xã hội cũng đầy rẫy những cảnh bất công, oan trái, đói rét, thảm thương (Chim huýtcô, Chử Đồng Tử, Bò béo bò gầy, Sự tích con muỗi… ). Hơn bất kì một thể loại văn học dân gỉan nào khác, truyện cổ tích đã xây dựng thành công một thế giới hiện thực trong những “giấc mơ”. Và qua những “giấc mơ” ấy người dân lao động đã trực tiếp trình bày, phản ánh khát vọng của mình về một xã hội công bằng, dân chủ. Ở dó những người dân lương thiện, nghèo khổ, hiền lành, chăm chỉ làm ăn sẽ được hưởng hạnh phúc xứng đáng với đạo đức và tài năng của họ, đồng thời những kẻ ác sẽ bị trừng trị đích đáng.Trong “thế giới cổ tích”, người dân lao động không chỉ ước mơ về một xã hội công bằng, dân chủ mà còn có cả những ước mơ khác, bay
- bổng và đẹp đẽ. Đó là ước mơ về lao động nhẹ nhàng: trong một đêm xây được cả một toà lâu đài tráng lệ; giao thông thuận tiện: tấm thảm biết bay, đôi hài vạn dặm; đời sống vật chất phong phú mà không cần phải lao động vất vả: con người chỉ cần trải khăn ăn hoặc ngả mâm thần ra là có đủ thứ thức ăn sơn hào hải vị, ước mơ sống lâu, ước mơ có những công cụ lao động và vũ khí tốt để lao động, chiến đấu có hiệu quả… Truyện cổ tích đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức xã hội: Truyện cổ tích đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức xã hội theo hai khuynh hướng: đề cao, ca ngợi và phê phán, lên án: Khuynh hướng thứ nhất: Đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức tốt đẹp. Theo khuynh hướng này, chúng ta thấy trong “thế giới cổ tích” người dân lao động không chỉ đơn thuần là phản ánh những mâu thuẫn xã hội hay trình bày những khát vọng về một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ mà còn đề cao, ca ngợi những tình cảm đạo đức xã hội tốt đẹp theo những quan điểm thẩm mĩ của mình. Đó là tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt (Sự tích đá Vọng Phu, Sự tích con sam), là tình bạn keo sơn thắm thiết ( Sự tích chim cuốc, Ba người bạn), là tình anh em, vợ chồng gắn bó thắm thiết (Sự tích trầu cau), là tình người nhân hậu (Người trồng mía và người đi đường, Tấm Cám – bà hàng nước cưu mang che chở cho cô Tấm). Khuynh hướng thứ hai: Truyện cổ tích phê phán, lên án những thứ phi đạo đức trong xã hội. Đối với những trường hợp này, nhân dân coi đây là những bài học bổ ích để cảnh tỉnh những kẻ ác, cái ác đang hoành hành trong xã hội: kết thúc truyện cổ tích người “ở hiền” sẽ “gặp lành”, còn cái ác, kẻ ác bao giờ cũng bị trừng trị đích đáng. Không chỉ vậy, nhân dân còn muốn coi truyện cổ tích là những liều “thuốc đắng dã tật” hay nhắc nhở, khuyên răn cho những ai đã và đang cố tình lãng quên tình nghĩa anh em, vợ chồng, cha mẹ, làng xóm, để củng cố vun đắp những tình cảm tốt đẹp trong gia đình, họ hàng, làng xóm.Những quan niệm đạo đức thể hiện trong truyện cổ tích được
- chắt lọc từ chính trong kinh nghiệm ứng xử thực tế, đồng thời là những lí tưởng đạo đức mà nhân dân muốn xây dựng. Do vậy nó vừa quen lại vừa lạ, vừa gần gũi vừa cao cả, vừa đời thường vừa thánh thiện. Nó không chỉ là cái vốn có trong cộng đồng mà còn là cái sẽ có, cần có để cho cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn. 4.3.2. Nghệ thuật: Cốt truyện và kết cấu: + Cốt truyện của truyện cổ tích là sự đan cài của một loạt những môtíp theo một hệ thống nhất định. Do vậy, trong truyện cổ tích hầu như không có những cốt truyện độc lập. Cốt truyện của truyện cổ tích thường ngắn gọn, ít tình tiết phức tạp. Nó không có những chi tiết rườm rà mà thay vào đó là những công thức trần thuật đơn giản, gọn nhẹ. Truyện được kể trung thành theo trục thời gian: việc gì xảy ra trước thì kể trước, việc gì xảy ra sau thì kể sau. + Truyện cổ tích thường có một số kết cấu như sau: Kết cấu một trục thẳng: Đây là kiểu kết cấu mà cốt truyện có một nhân vật chính, nhân vật này hành động liên tiếp, các nhân vật và các sự kiện bị chi phối bởi những hành động của nhân vật chính. Ví dụ: Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Lọ nước thần… Kết cấu ba chặng tăng cấp: Đây là kiểu kết cấu có cốt truyện được chia làm ba chặng, mỗi một chặng là một thử thách với nhân vật mà thử thách sau cao hơn thử thách trước. Khi nhân vật chính vượt qua thử thách thứ ba là lúc nhân vật đạt được mục đích cuối cùng và cũng là lúc kết thúc truyện. Ví dụ: Thạch Sanh. Kết cấu đồng quy: Đây là kiểu kết cấu mà nhân vật được chia làm hai tuyến. Hai tuyến nhân vật này đều đứng trước những thử thách như nhau. Những thử thách này là các tình huống mà nhân vật phải trải qua. Và trong
- quá trình xử lí các tình huống này thì bản chất nhân vật sẽ được bộc lộ và dẫn đến những kết thúc trái ngược nhau. Ví dụ truyện Cây khế, Hai cô gái và cục bướu… Nhân vật: Nhân vật chính trong truyện cổ tích là những con người bé nhỏ, tầm thường. Ở các cốt truyện chia làm hai tuyến nhân vật thì nhân vật thiện luôn là những người nghèo khổ, có tài có đức, luôn bị áp bức bóc lột. Họ là những con người hoàn hảo về mọi mặt, tiêu biểu cho quan niệm thẩm mĩ của nhân dân. Ngược lại nhân vật ác thì lại ác và xấu đến tột cùng. Chúng là những kẻ có lòng dạ nham hiểm, tham lam vô độ. Ngược lại ở những truyện không chia hai tuyến đối lập thì nhân vật chính của truyện thường đứng ở một cực nào đó, hoặc là xấu hoặc là tốt, tính cách này không phát triển và cũng không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhân vật trong truyện cổ tích thường mang tính chất đại diện chứ không mang tính cá nhân, cá thể. Họ là đại diện cho một tầng lớp hay một nhóm người nào đó, mang tính khái quát chung chung về một loại nhân vật (nhân vật chức năng). Do tính chất này mà nhân vật truyện cổ tích mang tính phiếm chỉ. Yếu tố thần kì: Yếu tố thần kì là kết quả của những hư cấu dưới ánh sáng trí tưởng tượng kì ảo và bay bổng của nhân dân. Yếu tố thần kì này có thể là những nhân vật thần kì như ông Bụt, cô Tiên, Thiên Lôi, Ngọc Hoàng, phù thủy, yêu tinh…, cũng có thể là những đồ vật hay vật thể thần kì như gậy thần, khăn thần, mâm thần, đàn thần, niêu thần…, cũng có thể là những con vật thần kì như ngựa thần, chim thần, rắn thần… Trong truyện cổ tích Việt Nam, nhân vật thần kì chia làm hai loại: những ông Bụt, bà Tiên luôn tốt bụng, giàu lòng thương người luôn hiện lên để giúp đỡ những kẻ thấp cổ bé họng còn những phù thuỷ, yêu tinh thì luôn độc ác, làm hại người. Khác với các nhân vật thần kì, các đồ vật thần kì và con vật thần kì phần lớn không đứng riêng về phe nào cả, ai có nó là làm chủ được nó. Ví dụ ngựa thần, chim thần, mâm thần giúp tất cả những ai là chủ nhân của chúng. Khi tham gia vào
- truyện cổ tích, các yếu tố thần kì có nhiều tác dụng khác nhau, nhờ có nó mà cốt truyện có thể kéo dài hay rút ngắn theo ý người kể chứ không phụ thuộc vào lôgic thực tế. Nhờ có yếu tố thần kì này mà truyện cổ tích hấp dẫn mọi lứa tuổi, mọi thời đại, thể hiện một cách sinh động những ước mơ của nhân dân lao động. II. Cơ sở thực tiễn 1. Thực trạng việc dạy và học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông hiện nay 1.1. Dạy học đọc chép Hiện tượng dạy học đọc chép trong môn Ngữ Văn rất phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay. Đọc chép trong giờ chính khóa, chuyên đề…Thầy cô đọc trước, học sinh chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi học sinh chép theo. Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái quát về tác gia thầy cô cũng thường tóm tắt rồi đọc cho học sinh chép. Đối với bài “giảng văn” thầy cô cũng thường nêu câu hỏi, rồi giảng, sau đó đọc chậm cho các em chép một số kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học sinh tiếp thu hoàn toàn thụ động, một chiều. 1.2. Dạy nhồi nhét Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do thầy cô sợ dạy không kĩ, ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của học sinh, cho nên dạy từ a đến z, không lựa chọn trọng tâm, không có thì giờ nêu vấn đề cho học sinh trao đổi, sợ “cháy” giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm cho các em tiếp thu một cách thụ động, một chiều. 1.3. Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo Tương ứng với cách dạy học như trên học sinh tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thôi. Tính chất thụ động thể hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc để trả bài và làm bài.
- Cách học đó tất nhiên cũng không có điều kiện tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng không được khuyến khích sáng tạo. 1.4. Học sinh không biết tự học Cách học thụ động chứng tỏ học sinh không biết tự học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, không biết cách chủ động tự đọc SGK để tìm hiểu kiến thức, không biết cách phân biệt cái chính và cái phụ, không biết tìm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết. 1.5. Học tập thiếu sự hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò với trò Mỗi cá nhân trong quá trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi người thường chỉ chú ý vào một số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến thức khác. Trong điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa thầy giáo và học sinh, học sinh với học sinh có thể nhắc nhở nhau, bổ sung cho nhau, làm cho kiến thức được toàn diện và sâu sắc. 2. Thực trạng dạy văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích Tấm Cám nói riêng trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT Trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, chúng tôi thấy việc dạy học các tác phẩm văn học dân gian nói chung, truyện cổ tích nói riêng chưa phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học sinh. Điều đó thể hiện ở những tồn tại sau: 2.1. Dạy học đọc hiểu Chủ yếu vẫn theo hướng truyền thụ một chiều những cảm nhận c ủa giáo viên về văn bản, chưa hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Dạy học chú trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng của văn bản văn học, ít chú trọng đến các phương tiện nghệ thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình thành kỹ năng. 2.2. Dạy học chưa phù hợp loại thể
- Nhiều giáo viên còn tiếp cận văn học dân gian bằng thi pháp của văn học viết, phân tích các yếu tố nghệ thuật của văn học dân gian như phân tích các yếu tố đó của văn học viết. Chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác phẩm vào trong môi trường văn hóa dân gian, không “sống lại” cuộc sống và những sinh hoạt tinh thần muôn màu, muôn vẻ của nhân dân lao động nên hiệu quả giờ dạy không cao, tiết dạy không tạo được niềm say mê hứng thú cho học sinh. 2.3. Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực chưa hiệu quả Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động, mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được.Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo; học tập thiếu sự hợp tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết (Chẳng hạn nhập vai Tấm kể lại truyện Tấm Cám), việc chuyển thể thành kịch bản, xử lí tình huống giả định, trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà học sinh ít có cơ hội bày tỏ thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được các kỹ năng và năng lực của người học. Chưa tổ chức được các hình thức dạy học ngoài lớp (như tổ chức hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm...), gắn các nội dung học tập với việc vận dụng vào thực tiễn để giúp học sinh có thêm cơ hội thể hiện năng lực học tập của mình. III. Triển khai dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Ngày soạn:
- Ngày giảng: Tiết 21 Đọc Văn: TẤM CÁM (Truyện cổ tích) A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1. Về kiến thức: Học sinh nắm được khái niệm và đặc điểm của truyện cổ tích. Hiểu được ý nghĩa của những mâu thuẫn, xung đột trong truyện Tấm Cám. Nắm được giá trị nghệ thuật của truyện. 2. Về kĩ năng: Củng cố kĩ năng tóm tắt văn bản tự sự. Biết cách đọc và hiểu một truyện cổ tích thần kì: nhận biết được một truyện cổ tích thần kì qua đặc trưng thể loại. 3. Về thái độ, phẩm chất: Thái độ: Có tình yêu thương đối với người lao động, có niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, của chính nghĩa trong cuộc sống. Biết đấu tranh để bảo vệ cái đẹp, cái thiện; biết lên án diệt trừ cái xấu, cái ác. Phẩm chất: Sống yêu thương, sống tự chủ có trách nhiệm… 4. Phát triển năng lực: Năng lực chung: + Năng lực tự học, năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tính toán, năng lực công nghệ thông tin và truyền thông. Năng lực riêng: + Năng lực tái hiện và vận dụng kiến thức, + Năng lực đọc hiểu, giải mã văn bản, + Năng lực sáng tạo, năng lực tạo lập văn bản,
- + Năng lực vận dụng kiến thức văn học vào cuộc sống… B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: 1. Giáo viên: * Phương tiện: Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án, sách chuẩn kiến thức kĩ năng. Các tư liệu tham khảo có liên quan tới bài học. Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp. Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà. * Phương pháp: Giáo viên phối hợp linh hoạt các phương pháp: Nêu vấn đề, gợi mở, thảo luận, so sánh… 2. Học sinh: Sách giáo khoa, sách bài tập, vở ghi, vở soạn, đồ dùng học tập… Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà. C.THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra việc soạn bài, chuẩn bị sách vở của học sinh. 3. Bài mới
- Hoạt động 1: Khởi động Mục tiêu: Tạo tâm thế tiếp nhận cho học sinh bước đầu thâm nhập vào “thế giới cổ tích” của câu chuyện. Phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, phát vấn. Phương tiện dạy học: Máy tính, máy chiếu. Hình thức tổ chức dạy học: Hoạt động cả lớp, hoạt động cá nhân. Các bước thực hiện:
- Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp nâng cao thành tích môn nhảy xa kiểu ưỡn thân
13 p | 322 | 48
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số đề xuất nhằm gây hứng thú tập luyện Thể dục thể thao cho học sinh THPT
8 p | 192 | 22
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 43 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 58 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 142 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 25 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 17 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm tổ chức dạy học trực tuyến tại trường THPT Trần Đại Nghĩa giai đoạn 2020-2022
23 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn bài 13. lực ma sát – Vật Lí 10 cơ bản
36 p | 87 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường gắn với trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy giáo dục địa phương ở trường THPT Bình Minh
77 p | 35 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học STEM chủ đề Sự biến đổi chất - Sắc nến lung linh
34 p | 22 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 14 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học tích hợp liên môn Lịch sử - Ngoại ngữ - Giáo dục công dân
60 p | 36 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn