intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân theo hướng phát triển năng lực

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:53

38
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong trường phổ thông. Đổi mới PPDH phù hợp với những đổi mới của chương trình và SGK mới. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân theo hướng phát triển năng lực

  1. MỤC LỤC Trang Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………….. 1 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………………………………… 1 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU………………………………………………. 2 III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU……………………………….. 2 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………… 2 V. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI............................................................................ 2 VI. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.......................................................................... 2 Phần 2: NỘI DUNG........................................................................................... 3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN........................................................................................... 3 1. Khái niệm năng lực........................................................................................ 3 2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực...................................................... 4 3. Dạy học theo hướng phát triển năng lực ở môn Ngữ văn........................... 4 II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC VĂN HIỆN NAY... 9 III. PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VỢ NHẶT THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH.................................. 10 1. Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức bài học và phát triển năng lực... 10 2. Một số năng lực cụ thể hướng tới hình thành và phát triển cho học sinh qua dạy học truyện Vợ nhặt của Kim Lân................................................................ 20 3. Giáo án thể nghiệm dạy đọc hiểu văn bản Vợ nhặt theo hướng phát triển năng lực của học sinh......................................................................................... 23 Phần 3: KẾT LUẬN........................................................................................... 43 I. KẾT LUẬN CHUNG..................................................................................... 43 II. KẾT QUẢ TRONG VIỆC ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.... 43 III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT..................................................................................... 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 46 PHỤ LỤC: CÁC BỨC TRANH, ẢNH MINH HỌA CHO BÀI DẠY............ 47 0
  2. Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) - đã nêu rõ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, trong đó, việc đổi mới giáo dục phổ thông được xem là khâu đột phá. Một trong những mục tiêu cụ thể đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông là nhấn mạnh tập trung hình thành “năng lực công dân; năng lực thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn”, từ đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước. Như vậy, phát triển năng lực là một trong những yêu cầu quan trọng, thể hiện rõ nhất việc đổi mới mục tiêu giáo dục lần này, tạo sự chuyển mạnh, chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Quan niệm đó chi phối toàn bộ các yếu tố của quá trình giáo dục, từ nội dung, phương pháp đến đánh giá kết quả học tập. Trong những năm qua, giáo viên bậc phổ thông nói chung, giáo viên bộ môn Ngữ văn nói riêng đã thực hiện nhiều công việc trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đã đạt được những thành công bước đầu. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực của người học. Tuy nhiên, nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi đặt ra mà nhiều giáo viên vẫn còn lúng túng, vướng mắc trong trả lời, thực hiện. Đó là: Năng lực được phát triển từ quá trình dạy học Ngữ văn cần được quan niệm như thế nào? Làm thế nào để giúp học sinh phát triển được những năng lực của mình? Bằng cách nào để đo lường, đánh giá mức độ của năng lực mà học sinh đạt được? Người thầy phải đổi mới như thế nào để đáp ứng được xu hướng đổi mới đó? Qua từng bài học, người thầy dạy như thế nào để có thể phát triển năng lực của học sinh? Và người học sinh học như thế nào mới thể hiện và nâng cao được năng lực của mình? Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường, chúng tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh… chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm nhiều… Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, từ lâu đã rất quen thuộc với người đọc, được chọn đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2. Trong thực tiễn giảng dạy tác phẩm Vợ nhặt đã được giáo viên đề xuất nhiều hướng khai thác khác nhau. Tuy nhiên, dạy học truyện Vợ nhặt như thế nào để giúp học sinh không chỉ được tiếp cận kiến thức, mà còn biết cách đọc hiểu tác phẩm, có điều kiện vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Với những trăn trở của bản thân và qua thực tiễn 1
  3. giảng dạy, trong sáng kiến này tôi xin mạnh dạn đề xuất hướng “Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân theo hướng phát triển năng lực”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong trường phổ thông. - Đổi mới PPDH phù hợp với những đổi mới của chương trình và SGK mới. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu về vấn đề dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân trong chương trình Ngữ văn lớp 12. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương pháp chủ yếu: 1. Phương pháp thống kê, nêu ví dụ. 2. Phương pháp thực nghiệm . 3. Phương pháp so sánh. 4. Phương pháp phân loại, phân tích. 5. Phương pháp tổng hợp. V. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI Phần 1. Đặt vấn đề Phần 2. Nội dung Phần 3. Kết luận VI. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI - Xây dựng được cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc dạy học hướng tới phát triển năng lực cho học sinh. - Bước đầu mô hình hóa được một giờ dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực người học. 2
  4. Phần 2: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm năng lực Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998): “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã xác định mười năng lực mà học sinh Việt Nam cần phải có gồm: - Ba năng lực chung là: + Năng lực tự chủ và tự học + Năng lực giao tiếp và hợp tác + Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo - Bảy năng lực đặc thù là: + Năng lực tính toán + Năng lực sử dụng ngôn ngữ + Năng lực khoa học + Năng lực công nghệ + Năng lực tin học + Năng lực thẩm mĩ + Năng lực thể chất Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống. 3
  5. 2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục khẳng định đổi mới chương trình theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Cách tiếp cận này đặt ra mục tiêu căn bản là giúp cho học sinh có thể làm được gì sau khi học, chứ không tập trung vào việc xác định học sinh cần học những gì để có được kiến thức toàn diện về các lĩnh vực chuyên môn. Như vậy, phát triển năng lực là một trong những yêu cầu quan trọng, thể hiện rõ nhất việc đổi mới mục tiêu giáo dục lần này. Năng lực được hiểu là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (kiến thức, kĩ năng, thái độ, động cơ, hứng thú…) nhằm thực hiện công việc có hiệu quả. Mục tiêu phát triển năng lực nhằm khắc phục tình trạng quá chú trọng vào trang bị kiến thức hàn lâm, kinh viện; người học biết nhiều lí thuyết nhưng thực hành, vận dụng kém… Dạy học theo hướng phát triển năng lực là người giáo viên biết quan tâm phát triển năng lực cá nhân; lấy học sinh làm trung tâm và việc đánh giá chỉ nhằm định hướng cho người học phương pháp học tập và con đường tiếp tục học tập; người học thay vì chỉ nghe giáo viên thuyết giảng, cần phải có cơ hội tham gia các hoạt động giáo dục có tính tương tác để phát triển các năng lực. Để làm được như vậy, giáo viên phải có khả năng đáp ứng được đòi hỏi mới trong giáo dục và nhà trường phải hoàn toàn chủ động, làm chủ được trong việc tiếp cận này. Để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chú trọng phát triển năng lực học sinh phổ thông thì cần phải vận dụng dạy học theo tình huống, dạy học sinh định hướng hành động, tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đánh giá cũng phải chú trọng vào năng lực của người học (tư duy sáng tạo, vận dụng giải quyết những vấn đề trong cuộc sống), với các phương pháp được áp dụng như: Quan sát, phỏng vấn sâu, hội thảo, nhật ký người học, hồ sơ học tập, bài tập lớn, đánh giá thực hành, học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Muốn làm được điều này cần nâng cao nhận thức giáo viên, tập huấn cho giáo viên; thiết kế lại chương trình đào tạo chú trọng mục tiêu hình thành năng lực cho người học và phối hợp với đổi mới kiểm tra phương pháp dạy và học. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá, cần có sự phối hợp của nhiều đối tượng, từ cán bộ quản lý, giáo viên đến học sinh và phụ huynh học sinh. Nhiều phương pháp nâng cao hiệu quả đánh giá được các đại biểu đề xuất như tập trung bồi dưỡng giáo viên các kỹ năng, hình thức đánh giá; đa dạng hóa các hình thức như đánh giá bằng sản phẩm, dự án, đánh giá qua khảo sát thực tế. 3. Dạy học theo hướng phát triển năng lực ở môn Ngữ văn Môn Ngữ văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng 4
  6. lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, giúp học sinh phát triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt; giúp học sinh biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có hứng thú viết, thảo luận về các tác phẩm văn học, nhờ đó các em có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn. Giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng. Giúp học sinh hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, học sinh có thể tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc sống và công việc. Trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa. Giúp học sinh có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời sống xã hội. Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; có thói quen và niềm vui đọc sách; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân toàn cầu, nhưng luôn có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Tóm lại, các năng lực cơ bản mà môn học Ngữ văn hướng đến: - Năng lực giải quyết vấn đề Trên thực tế, có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ). Tuy nhiên, các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho rằng GQVĐ là một NL chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết những 5
  7. vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu. Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội dung dạy học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học,… quá trình học tập các nội dung trên là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học. - Năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá. Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của HS trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của HS, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là HS, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,…). - Năng lực hợp tác Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành tích học tập. 6
  8. Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực rất cần thiết trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường, một không gian rộng mở của quá trình hội nhập. Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học sinh trong bối cảnh mới. - Năng lực tự quản bản thân Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình. Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn luyện và phát triển ở HS năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, HS cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống. - Năng lực giao tiếp tiếng Việt Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe, nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích. 7
  9. Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, HS được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, HS được luyện tập những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để HS được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. - Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh; trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc được thể hiện ở những phương diện sau: + Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật. + Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn học: Cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,...từ đó cảm nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm. 8
  10. + Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương. Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết). II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC VĂN HIỆN NAY Mục đích của một giờ đọc văn không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Thế nhưng, việc dạy học hiện nay vẫn tồn tại một thực trạng như sau: Về phía người dạy, việc đổi mới phương pháp dạy học chưa đồng bộ, nhiều giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp. Đa số giáo viên đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học nhưng việc thực hiện chưa thường xuyên, còn mang tính chất hình thức, đối phó. Lí do của thực trạng này là thời gian và công sức cho việc chuẩn bị một giờ dạy học theo phương pháp mới là quá nhiều, vả lại cần phải có sự phối hợp tích cực của người học thì giờ dạy theo phương pháp mới mới thành công. Nhiều giáo viên hiện nay vẫn còn dùng phương pháp dạy học theo một chiều: thầy giảng, trò lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều thầy giảng là đủ. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho người học một con đường tích cực, chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí có những giáo viên còn đọc chậm cho học sinh chép lại những gì có sẵn ở giáo án. Vì vậy, giờ học tác phẩm văn chương chưa thu hút được sự chú ý và cộng tác của người học, thậm chí gây ra tâm lí chán học cho một bộ phận học sinh. Về phía học sinh, đa phần học sinh học tập môn Ngữ văn rất thụ động. Các em không quan tâm đến các hoạt động để tự tìm đến tri thức mà quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên 9
  11. đã giảng. Điều này đã làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của chính mình, biến mình thành người quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, lời sẵn có, thành người nô lệ của sách vở. Vì chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn. Có một thực tế hiện nay là rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn chương hay. Do vậy, khi làm bài học sinh còn suy luận chủ quan, liên hệ thực tế còn khiên cưỡng. Số đông học sinh và cả phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn. Nên tập trung vào các môn học tự nhiên để sau này thi cử thuận lợi còn học môn Ngữ văn chỉ là đủ điểm lên lớp, đủ điểm đậu Tốt nghiệp. Trong những năm gần đây, nhiều cuốn sách thiết kế được xuất bản nhằm giúp giáo viên có được những định hướng khi tiếp cận tác phẩm. Những cuốn thiết kế đó có những ưu điểm không thể phủ nhận như: đã vận dụng những phương pháp dạy học tích cực như gợi mở, thảo luận; đã gợi ý cho giáo viên sử dụng một số đồ dùng dạy học. Nhưng hạn chế cơ bản của những cuốn thiết kế đó là chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi mở, những tình huống học tập gắn với thực tế cuộc sống nhằm hướng tới phát triển năng lực cho học sinh. Trước thực trạng đó, với trách nhiệm của một người giáo viên và bằng lí luận đổi mới phương pháp dạy học, tôi đã nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực. Mục đích cuối cùng tôi muốn hướng tới là nhằm khơi dậy hứng thú học tập, thức tỉnh một số năng lực cho học sinh và nâng cao chất lượng dạy học. III. PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VỢ NHẶT THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH. 1. Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức bài học và phát triển năng lực Dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật là việc làm đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các thao tác, phương pháp dạy học sao cho học sinh cảm nhận được hết những vẻ đẹp về nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Dạy đọc hiểu văn bản Vợ nhặt theo hướng phát triển năng lực của học sinh lại cần ứng dụng phương pháp, kỹ thuật và hình thức dạy học tích cực để phát huy tối đa việc hình thành các năng lực cho học sinh. Tức là làm thế nào để học sinh tự học, tự tìm hiểu để hình thành kỹ năng từ đọc hiểu một tác phẩm truyện cụ thể mà có thể đọc hiểu tất cả các tác phẩm ngoài chương trình cùng thể loại; vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống; đồng thời lại phải vận dụng kiến thức xã hội, kiến thức các môn học khác để khám phá tác phẩm. Để hướng tới mục đích đó, tôi đã vận dụng các phương pháp, kĩ thuật và hình thức dạy học tích cực của bộ môn cũng như các phương pháp , kĩ thuật và hình thức dạy học chung trong dạy văn bản Vợ nhặt như sau: 10
  12. 1.1. Về phương pháp: Dạy truyện ngắn Vợ nhặt theo hướng phát triển năng lực học sinh, tôi đã vận dụng các phương pháp dạy học tích cực như sau: 1.1.1.Dạy học đọc - hiểu: - Dạy học đọc - hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Vậy thế nào là dạy học đọc hiểu? Dạy học đọc - hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động có sắc thái cá nhân. Vấn đề đọc hiểu văn bản không phải hoàn toàn xa lạ đối với các giáo viên văn xưa nay và không thủ tiêu yếu tố giảng của giáo viên. Nó chỉ biến giáo viên từ người giảng văn trở thành người hướng dẫn đọc văn. Nó chỉ tăng cường vai trò hướng dẫn của thầy, tạo điều kiện cho học sinh tự học và thầy chỉ giảng những chỗ quan trọng và cần thiết nhất, khắc phục lối diễn giảng dài dòng như diễn viên trên lớp. Hoạt động đọc - hiểu cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc - hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc - hiểu còn là sự tích hợp kiến thức kỹ năng của các phân môn cũng như kinh nghiệm sống của học sinh. - Một số nhiệm vụ cơ bản của người học khi đọc - hiểu như: + Tìm kiếm thông tin từ văn bản. + Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối… thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. + Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản. + Khái quát tư tưởng bài văn. Cho một số cách khái quát, tìm cách khái quát đúng ở trong đó, hoặc tự viết lời khái quát. + Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống. Với tác phẩm “Vợ nhặt”, tôi cũng lần lượt triển khai các nhiệm vụ sau cho học sinh: * Công việc chuẩn bị ở nhà: Học sinh đọc và tìm hiểu trước về tác giả, tác phẩm (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác và tóm tắt được nội dung tác phẩm), nghiên cứu trước về bối cảnh lịch sử của truyện (nạn đói năm 1945) qua môn Lịch sử và các phương tiện thông tin, truyền thông. * Hoạt động trên lớp: - Tìm kiếm thông tin: xác định được nội dung chính của văn bản: tình người, khát vọng sống trong hoàn cảnh cận kề cái chết; xác định được các chi tiết quan 11
  13. trọng tạo nên ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm như: chi tiết những người chết đói và những người sống “đi lại dật dờ như những bóng ma”, những chi tiết về ngoại hình người vợ nhặt, tiếng thở dài của “thị” khi đứng trước nhà Tràng, chi tiết lá cờ đỏ cuối tác phẩm…đều là những chi tiết làm rõ thảm cảnh của con người đồng thời cũng hướng sự vận động của tác phẩm theo chiều hướng tích cực. - Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối… thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản: + Giải thích ý nghĩa, tác dụng của các từ ngữ, hình ảnh, câu văn, chi tiết… như nhan đề “Vợ nhặt” gợi ra số phận thê thảm và giá trị rẻ rúng của con người. Những chi tiết về ngoại hình anh cu Tràng và những thứ liên quan tới anh ta(căn nhà, mảnh vườn…) gợi ấn tượng về một người thô ráp, xấu xí, có vẻ hoang sơ và nghèo khó. Những chi tiết về cử chỉ, hành động và ngôn ngữ của người vợ nhặt trước và sau khi về nhà Tràng cho thấy sự biến chuyển trong tâm trạng, tính cách của chị ta(đúng hơn là về làm dâu chị ta mới thể hiện đúng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam). Chi tiết thị nén “một tiếng thở dài” khi đứng trước “giang sơn” nhà Tràng biểu thị sự thất vọng nhất thời(vì chị ta đang chạy trốn cái đói, đứng trước gia cảnh nghèo khó của Tràng làm sao tránh được thất vọng?). Chi tiết Tràng “chậc kệ” để rồi quyết định đưa người đàn bà về nhà là quyết định liều lĩnh hay sự quyết tâm hướng tới hạnh phúc hay là sự thách thức với cái đói.v.v. Biện pháp tương phản(đặt những cái xác chết vì đói cạnh những người còn sống nhưng “đi lại dật dờ như những bóng ma” là gì? Phải chăng là ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, đúng hơn là không có ranh giới. Đêm “tân hôn” của vợ chồng Tràng lại diễn ra trong “những tiếng hờ khóc” của gia đình có người chết, mùi đống rấm xua đi tử khí của những nhà nghèo không có tiền mua hương thắp cho người chết có ý nghĩa gì? Hình ảnh những bát cháo cảm(thứ vốn dành cho động vật) nay con người phải ăn để sống có ý nghĩa gì?… + Chỉ ra mối quan hệ giữa các thông tin trong văn bản: Tất cả các thông tin trong văn bản: Cảnh người chết đói “như ngả rạ”, hoàn cảnh cụ thể của gia đình Tràng, người vợ nhặt, tiếng trống thúc thuế, hình ảnh những người cướp kho thóc Nhật… đều hướng tới một nội dung: Sự bóc lột tàn tệ của bọn Thực dân, Phát xít đã đẩy người nông dân tới tình cảnh thê thảm – người chết đói đã đành, người sống còn thê thảm hơn. + So sánh điểm tương đồng giữa các nhân vật: Cùng là nạn nhân của nạn đói, giàu tình thương, lạc quan tin tưởng vào tương lai. + Phân tích được mô hình tổ chức của văn bản: Truyện được tổ chức theo hướng phát triển có dụng ý của tác giả: thời gian bắt đầu bằng buổi chiều ảm đạm kết thúc bằng một buổi sáng đầy ánh nắng, từ tâm trạng vô tư mỗi khi đi làm về của Tràng đến nỗi tiếc nuối khi nghĩ đến những người đi cướp kho thóc và hình ảnh lá cờ đỏ thắm cuối truyện. Như vậy là một kết cấu thể hiện rõ niềm tin tưởng lạc quan của tác giả vào sự đổi đời của người lao động, niềm tin vào sức sống của họ. 12
  14. + Đưa ra kết luận về văn bản: Sự cảm thông, trân trọng của nhà văn vào số phận, vẻ đẹp của con người, khẳng định sự bất tử của tình người… - Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản: + Đánh giá các thông tin, các cảm xúc, suy nghĩ của người viết: Nhà văn đã thể hiện cái nhìn đầy thương xót về thân phận con người, trân trọng những phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của họ, niềm tin vào sức sống của họ sẽ vượt qua nghịch cảnh… + Đánh giá khuynh hướng tư tưởng của người viết: Lòng thương yêu, tin tưởng vào tình người; phê phán những thế lực gây ra thảm cảnh cho con người. + Khái quát hóa ở mức phê bình: Một truyện ngắn xuất sắc trong văn học hiện thực. Khác với các tác phẩm cùng đề tài, Vợ nhặt làm tỏa sáng tình người chứ không diễn tả sự tha hóa của nhân cách vì hoàn cảnh. + Làm rõ phong cách của người viết: Ngôn ngữ đời thường được sử dụng rất thành thạo cứ như lấy thẳng từ cuộc sống mà không hề gia công chọn lọc. Nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Xây dựng cốt truyện độc đáo. - Vận dụng: + Tìm đọc các văn bản khác cùng đề tài: Địa ngục -Nguyên Hồng, Mười năm - Tô Hoài, Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi… + Giải quyết những vấn đề trong cuộc sống như: vai trò của tình người trong xã hội, sức mạnh của lòng lạc quan… 1.1. 2. Xây dựng hệ thống câu hỏi mở Hệ thống câu hỏi mở sẽ giúp học sinh có điều kiện huy động được những kiến thức, kĩ năng đã có từ trước trong quá trình học tập; hoặc vận dụng những hiểu biết, trải nghiệm trong thực tế đời sống... vào việc cảm thụ tác phẩm. Câu hỏi mở đặt ra các tình huống kích thích tư duy, khơi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng giúp học sinh phát triển năng lực cảm thụ văn chương. Với hệ thống câu hỏi mở, mỗi học sinh sẽ có điều kiện thể hiện tình cảm, suy nghĩ, quan niệm, cách đánh giá của mình về tác phẩm. Đặc biệt, hệ thống câu hỏi mở sẽ đưa ra được nhiều tình huống gắn với thực tế cuộc sống của HS hơn. Hệ thống câu hỏi mở cũng được soạn theo một tinh thần mở. Nghĩa là những câu hỏi này có thể giúp người dạy áp dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt, tùy theo điều kiện, khả năng cụ thể. Không nhất thiết tất cả các câu hỏi, các tình huống nêu ra đều cần giải quyết ngay trên lớp, trong một tiết học mà có những câu hỏi tình huống được đặt ra với mục đích khơi gợi để HS tiếp tục tư duy, suy tưởng về sau. Điều này phù hợp với đặc trưng môn học về những giá trị văn chương vốn hàm súc và đa nghĩa. Đồng thời, có thể biến học sinh trở thành một người đọc thông minh, một bạn đọc đồng sáng tạo của nhà văn, có thói quen không ngừng tự đặt ra những câu hỏi, những tình huống khi đọc các tác phẩm văn chương chứa 13
  15. đựng nhiều ý nghĩa cuộc sống... Từ đó hình thành và phát triến được một số năng lực cho mình. Khi dạy “ Vợ nhặt”, tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi mở như sau: (Trong tiết 1): (1). Trình bày những hiểu biết của em về nhà văn Kim Lân? (2). Đọc truyện, em thấy nhà văn Kim Lân đã bắt nguồn từ cảm hứng nào để sáng tác? Từ cảm hứng sáng tác đó, em nhớ đến sự kiện lịch sử nào của nước ta vào khoảng từ năm 1940 đến năm 1945? (3). Có những cách tóm tắt văn bản tự sự nào? Em hãy tóm tắt truyện Vợ nhặt theo một cách mà em đã học? Từ đó nhận xét về cốt truyện trong sự so sánh với truyện Chí Phèo của Nam Cao? (4). Đối với văn bản tự sự, ta nên tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật nào? Theo em, nên đọc hiểu truyện Vợ nhặt theo cách nào? (5). Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận xét về truyện Vợ nhặt như sau: “Thành công đầu tiên của truyện là đã tái hiện bức tranh nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm bối cảnh chung cho truyện”. Trong truyện, cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư qua những chi tiết nào? Nghệ thuật tái hiện của nhà văn có gì đặc sắc? Từ đó gợi cho em liên tưởng đến những cảnh ngộ nào đã từng gặp trong cuộc sống? Em cũng đã từng đọc được tác phẩm có cảnh tượng, nhân vật nào như thế? (6). Trong bức tranh nạn đói, nhà văn đã tái hiện hình ảnh của ngững con người nào? Em ấn tượng nhất là nhân vật nào ? Vì sao? Em thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó em bất ngờ gặp phải một tình huống éo le, đầy thử thách thì em sẽ giải quyết như thế nào? (7). Chứng kiến những cảnh đời được tái hiện trong tác phẩm cũng như những gì được nhìn thấy qua tranh ảnh(video), tình cảm, cảm xúc nào đã hình thành trong em? Hãy trình bày trong khoảng ba câu? (8). Theo em, dụng ý của nhà văn khi tái hiện bức tranh về nạn đói như thế là gì ? 1.1.3. Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm Khác với kiểu dạy học truyền thống truyền thụ một chiều: thầy nói trò nghe, thảo luận nhóm là phương pháp giúp học sinh được bộc lộ những khả năng của bản thân, hình thành kỹ năng tư duy, hợp tác trao đổi, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau. Thảo luận nhóm tạo không khí sôi nổi, thoải mái trong học tập. Học sinh luôn có được cảm giác tự do, không bị áp đặt qua đó phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của mình trong quá trình khám phá và chiếm lĩnh tri thức. 14
  16. Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm lấy học sinh làm trung tâm có nhiều ưu điểm: Tạo cho học sinh thói quen tự nhận thức, suy nghĩ về những vấn đề đặt ra trong môn học; tạo động cơ để học sinh mở rộng, đào sâu và nâng cao hơn sự hiểu biết về những vấn đề thảo luận; học sinh có cơ hội được lắng nghe, đánh giá, so sánh quan điểm, ý kiến của chính mình với ý kiến của những người tham gia thảo luận; được khẳng định và thể hiện chính kiến của mình; tạo cách ứng xử, phản hồi nhanh về những vấn đề đặt ra… Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm còn có ý nghĩa “kép” bởi nó không chỉ thuần túy thể hiện những hiểu biết về nội dung thảo luận mà còn bộc lộ thái độ, cảm xúc, kinh nghiệm thực tế của học sinh xung quanh những nội dung đó. Mặt khác, với hình thức thảo luận, không chỉ học sinh mà bản thân giáo viên cũng có thể cập nhật, bổ sung, điều chỉnh tri thức của mình thông qua những ý kiến, kinh nghiệm, chia sẻ hữu ích từ cuộc thảo luận. Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người. Với truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, khi giảng dạy, tôi đã cho học sinh thảo luận các nội dung sau: Tiết 1: Thảo luận theo nhóm: + Nhóm 1:Trong truyện, cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư qua những chi tiết nào? Nghệ thuật tái hiện của nhà văn có gì đặc sắc? Từ đó gợi cho em liên tưởng đến những cảnh ngộ nào đã từng gặp trong cuộc sống? Em cũng đã từng đọc được tác phẩm có cảnh tượng, nhân vật nào như thế? + Nhóm 2: Trong bức tranh nạn đói, nhà văn đã tái hiện hình ảnh của những con người nào? Em ấn tượng nhất là nhân vật nào ? Vì sao? Cảnh gia đình Tràng được nhà văn tái hiện như thế nào? Em thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó em bất ngờ gặp phải một tình huống éo le, đầy thử thách thì em sẽ giải quyết như thế nào? Tiết 2: Thảo luận theo nhóm: + Nhóm 1 và nhóm 2: Tìm những chi tiết tiêu biểu biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Tràng? Cảm nhận để rút ra vẻ đẹp trong tâm hồn của nhân vật? + Nhóm 3 và nhóm 4: Tìm những chi tiết tiêu biểu biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật người vợ nhặt? Cảm nhận để rút ra vẻ đẹp trong tâm hồn của nhân vật? 15
  17. Tiết 3: Thảo luận theo bàn: Tìm những chi tiết tiêu biểu biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Bà cụ Tứ? Cảm nhận để rút ra vẻ đẹp trong tâm hồn của nhân vật? 1.1.4. Tổ chức dạy học tích hợp Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống; thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống. Đây là một quan điểm dạy học nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực cần thiết trong đó có năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết có hiệu quả các tình huống thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là để đảm bảo cho mỗi học sinh biết vận dụng kiến thức được học trong nhà trường vào các hoàn cảnh mới lạ, khó khăn, bất ngờ; qua đó trở thành một người công dân có trách nhiệm, một người lao động có năng lực. Dạy học tích hợp đòi hỏi việc học tập ở nhà trường phổ thông phải được gắn với các tình huống của cuộc sống sau này mà học sinh có thể phải đối mặt và chính vì thế nó trở nên có ý nghĩa đối với học sinh. Như vậy, dạy học tích hợp sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân mỗi học sinh, giúp các em thành công trong vai trò người chủ gia đình, người công dân, người lao động tương lai. Tùy thuộc phạm vi tri thức được vận dụng, để giải quyết vấn đề trong các tình huống khác nhau mà có các dạng dạy học tích hợp sau: Tích hợp các nội dung trong một môn học, khi đó, vừa gắn kết đảm bảo tính đồng bộ giữa các nội dung có liên quan trong một môn học, vừa đặt ra những tình huống đòi hỏi học sinh vận dụng các kiến thức kỹ năng môn học để giải quyết; hoặc lồng ghép các nội dung giáo dục cần thiết nhưng không thành một môn học (như các nội dung về môi trường, năng lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản...) vào nội dung của mỗi môn học tùy theo đặc trưng của từng môn. Giáo viên cần lựa chọn thông tin, kiến thức, kĩ năng cần cho học để đảm bảo dạy học tích hợp là cách giảm tải kiến thức không thực sự có giá trị sử dụng, để có điều kiện tăng tải kiến thức có ích. Để lựa chọn nội dung kiến thức đưa vào chương trình các môn học, trước hết phải trả lời kiến thức nào cần và có thể làm cho học sinh biết huy động vào các tình huống có ý nghĩa. Để làm được điều này, giáo viên cần tổ chức cho học sinh các hoạt động vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, để hiểu sự vật với tri thức đa dạng, từ đó phát triển năng lực. Dạy học tích hợp liên môn sẽ hình thành cho học sinh biết năng lực biết tổng hợp kiến thức, kĩ năng ở nhiều môn học để giải quyết các nhiệm vụ học tập và hình thành năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn. Bằng những quan sát định tính chúng tôi thấy ở các tiết dạy tích hợp liên môn các em học sinh tích cực, chủ động, hứng thú trong việc tìm ra các tri thức mới với những biểu hiện như: các em sôi 16
  18. nổi, tích cực trao đổi, chủ động bày tỏ quan điểm, học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Với truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khi giảng dạy, tôi đã tích hợp liên môn: - Học sinh vận dụng kiến thức lịch sử để đưa ra được bối cảnh xã hội của truyện ngắn, từ đó có tiền đề để hiểu được số phận cũng như bi kịch mà nhân dân ta nói chung, những nhân vật trong truyện nói riêng phải đối mặt. - Chọn một số đoạn văn để tích hợp việc củng cố kiến thức tiếng Việt và Làm văn cho học sinh, sau đây là một ví dụ: Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.(Vợ nhặt-Kim Lân) Yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi: Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính? Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ? Xác định kiểu câu được sử dụng nhiều nhất trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật của kiểu câu đó ? Từ đoạn văn, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình mẫu tử ? 1.1.5. Phương pháp đóng vai Tổ chức cho học sinh nhập một vai giả định để hóa thân vào nhân vật, trình bày những suy nghĩ và cảm nhận của mình, giúp các em suy nghĩ sâu sắc hơn, có thể phát triển năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực hợp tác… Khi dạy tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, tôi đã cho học sinh đóng vai trong các tình huống: nhập vai một nhân vật bất kì trong truyện kể lại truyện, chuyển thể cảnh buổi sáng hôm sau của gia đình Tràng thành một tiểu phẩm ngắn. 1.2. Về kĩ thuật: Năng lực của học sinh sẽ được hình thành và phát triển khi giáo viên biết vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực . Với Vợ nhặt, khi giảng dạy tôi đã vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực như : 1. 2.1. Kĩ thuật "Trình bày 1 phút" Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy đợc các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: 17
  19. - Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?... - HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác nhau. - Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm. Cuối bài học Vợ nhặt, tôi đã cho HS trình bày 1 phút ở phần tổng kết như sau: GV nêu câu hỏi: Đánh giá của riêng em về ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của truyện Vợ nhặt? HS sẽ được trình bày những đánh giá của mình trong thời gian 1 phút . 1.2.2. Kĩ thuật "Bản đồ tư duy" Bản đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng hay kết quả làm việc của cá nhân / nhóm về một chủ đề. - Viết tên chủ đề / ý tưởng chính ở trung tâm. - Từ chủ đề / ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên. - Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. - Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. Đối với truyện ngắn Vợ nhặt, sau khi học xong, tôi đã cho HS sử dụng kĩ thuật bản đồ tư duy để tóm tắt lại các nội dung của bài học: GV nêu câu hỏi: Hãy sử dụng bản đồ tư duy để tóm tắt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm? 1.2.3. Kĩ thuật đặt câu hỏi Trong dạy học theo phơng pháp cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ. Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS - GV và HS - HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn. Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để: - Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo điều kiện cho HS tham gia vào quá trình dạy học. 18
  20. - Kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với nội dung học tập. - Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức. Khi dạy truyện Vợ nhặt, tôi cũng đã sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi ở phần luyện tập: Giáo viên gợi mở: “Vợ nhặt” là một tác phẩm có nhiều ý nghĩa, gợi nhiều liên tưởng, cảm xúc cho người đọc. Ở tác phẩm này chắc chắn sẽ còn ẩn chứa rất nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật viết văn, nhiều thông điệp sâu sắc của nhà văn. Để tìm hiểu tiếp, em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tiếp tục tự đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa truyện, cách tìm hiểu truyện; về những chi tiết, hình ảnh mà em cảm thấy ấn tượng, thấy chưa hiểu, để hỏi thầy cô, các bạn hoặc để tự mình đi tìm câu trả lời. Từ tình huống GV gợi mở, HS tự đặt ra những câu hỏi về những chi tiết, hình ảnh...mà mình chưa hiểu, mình cần tìm hiểu, mình thấy chưa được giải quyết để tiếp tục hiểu rõ. 1.2.4. Kĩ thuật “Phòng tranh” Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm. - GV nêu câu hỏi / vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm. - Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và treo lên tờng xung quanh lớp học như một triển lãm tranh. - HS cả lớp đi xem "triển lãm" và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung. - Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ưu. Khi dạy truyện Vợ nhặt, tôi cũng đã sử dụng kĩ thuật phòng tranh ở nhiệm vụ tập làm họa sĩ. Đó là sau khi học xong, HS về nhà vẽ tranh về truyện Vợ nhặt và treo lên xung quanh lớp học vào đầu tiết sau. 1.3.Về hình thức tổ chức dạy học: Để hướng tới phát triển năng lực cho HS, hình thức tổ chức dạy học là khâu quan trọng. Các hình thức tổ chức dạy học trong môn học Ngữ văn bao gồm hình thức tổ chức dạy học trong lớp và ngoài lớp. Dạy truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, tôi đã sử dụng cả hai hình thức dạy học nói trên. 1.3.1. Hình thức tổ chức dạy học trong lớp Đó là hình thức tổ chức dạy học trong các giờ học chính khoá. GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo các nội dung học tập. Hình thức tổ chức dạy học trong lớp được thực hiện theo các cách sau: - Học theo cá nhân. - Học theo nhóm. - Học theo góc. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2