Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT
lượt xem 5
download
Đề tài giúp quá trình dạy học thực tiễn, ngoài ra đề tài là tài liệu tham khảo đối với các đồng nghiệp, đặc biệt đối với giáo viên dạy môn lịch sử ở các trường Trung học Phổ thông cũng như những ai quan tâm tâm và vận dụng nội dung kiến thức về vấn đề chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT vào quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và tính hiệu quả trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT trong cả nước. Đề tài còn góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và tiến tới thay đổi SGK, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong những năm tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. Từ ngàn đời nay, Biển Đông cùng với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần máu thịt thiêng liêng không thể tách rời của mọi người dân đất Việt. Quyết tâm giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã thôi thúc nhân dân Việt Nam đoàn kết hơn, chung sức, đồng lòng vì biển đảo thân yêu. Việt Nam là đất nước trải qua nhiều thăng trầm, đau thương và mất mát. Có đi dọc những nghĩa trang liệt sỹ ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước; có gặp, nói chuyện với những người đã gửi một phần tuổi trẻ, thanh xuân cho đất nước; có tận mắt nhìn những nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam..., thì mới thấm thía giá trị của hòa bình, mới quý trọng vô cùng máu xương của cha anh đã dâng hiến cho Tổ quốc. Thế hệ trẻ hôm nay chưa đi qua cuộc chiến, sẽ chưa hiểu hết sự khốc liệt của chiến tranh. Nhưng chúng ta có thể thấy ở những quốc gia đang hàng ngày phải hứng chịu bom rơi đạn nổ, có thể gặp các thế hệ đi trước, để biết rằng, không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đại thắng mùa xuân 1975 trở thành dấu son chói lọi đối với dân tộc và mỗi người con quê hương đất Việt. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn quyết tâm bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Với biển đảo quê hương, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán được xác lập tại Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trải qua nhiều mất mát, đau thương nên Việt Nam luôn thực tâm mong mỏi và quyết tâm gìn giữ hòa bình, ổn định và an ninh trên Biển Đông. Song, Việt Nam cũng bằng mọi biện pháp để luôn mạnh mẽ đấu tranh không khoan nhượng trước hành vi xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của mình đã được công nhận theo luật pháp quốc tế. Trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động chưa từ bỏ âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị - xã hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới biển đảo của nước ta thì bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biên giới quốc gia trên biển là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thế kỉ XXI bởi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài ba thập kỉ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển nên các nhà chiến lược xem thế kỉ XXI là “thế kỉ đại dương”. Việt Nam là một quốc gia có biển, biển Việt Nam không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta mở rộng quan hệ 1
- với quốc tế; Biển còn đóng vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn chiến lược quan trọng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Môn lịch sử với chức năng giáo dục của mình đã “...góp phần hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội”. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa ngày càng mở rộng, việc giáo dục cho thế hệ trẻ những giá trị truyền thống, những phẩm chất cao quý và những bài học lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng và môn lịch sử ở nhà trường phổ thông đã góp phần quan trọng trong chiến lược chung của quốc gia về giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh – những người làm chủ tương lai của đất nước. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT” (chương trình chuẩn) làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, với mong muốn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc và khơi dậy trong các em, ý thức đóng góp sức mình vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền dân tộc trong đó có chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. 2. Điểm mới, đóng góp của đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí luận dạy học, khẳng định vai trò, ý nghĩa của giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh Trung học Phổ thông trong dạy học lịch sử. Đồng thời, đề tài đề xuất những phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học lịch sử Việt Nam cho học sinh nhằm giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ môn. Đề tài giúp tôi trong quá trình dạy học thực tiễn, ngoài ra đề tài là tài tiệu tham khảo đối với các đồng nghiệp, đặc biệt đối với giáo viên dạy môn lịch sử ở các trường Trung học Phổ thông cũng như những ai quan tâm tâm và vận dụng nội dung kiến thức về vấn đề chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT vào quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và tính hiệu quả trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT trong cả nước. Đề tài còn góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và tiến tới thay đổi SGK, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong những năm tới. 2
- PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm “Ý thức”, “Giáo dục ý thức” Theo từ điển Tiếng Việt: “Ý thức” là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy; là sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ hành động cần phải có (ý thức được việc làm của mình). “Giáo dục” là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. “Giáo dục ý thức” là sự phản ánh của hiện thực khách quan, hình thức thông qua quá trình giáo dục con người. Như ý thức về chủ quyền lãnh thổ tổ quốc, ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc...Giáo dục ý thức chính là quá trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực khách quan cho con người. 1.1.1.2. Khái niệm “chủ quyền biển, đảo” Khái niệm “chủ quyền biển, đảo” nằm trong khái niệm “chủ quyền lãnh thổ quốc gia”. Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông: “chủ quyền quốc gia” là quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập, tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định vận mệnh của mình. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi nước, trong văn bản pháp lý quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo. Vì vậy, “Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước như các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo Hiến pháp 1992 của nước ta: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay 3
- của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Công ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây. Công ước quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển. UNCLOS 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển. 1.1.2. Nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong dạy học Lịch sử dân tộc ở trường phổ thông 1.1.2.1. Giáo dục ý thức cho HS về vai trò, vị trí của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thông qua bài học lịch sử HS thấy được vai trò của biển, đảo nước ta: Đã bao đời nay gắn với đời sống kinh tế, văn hóa con người Việt Nam. Biển, đảo đã góp phần tạo nên những thắng lợi hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Biển, đảo có vị trí quốc phòng an ninh quan trọng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vươn ra biển, khai thác những tiềm năng của biển để làm giàu đất nước cũng chính là bảo vệ Tổ quốc từ phía biển. 1.1.2.2. Giáo dục cho HS ý thức về chủ quyền quốc gia và quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay. Đó là quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo - Trường Sa, Hoàng Sa cũng như Sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử được thể hiện hết sức mạnh mẽ qua các hoạt động: Quản lý hành chính liên tục, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, vẽ bản đồ… Từ thời phong kiến đến Pháp đô hộ (1884-1954 ), đến giai đoạn Việt Nam tạm thời bị chia cắt (1954 – 1975) và thời kỳ đất nước thống nhất cho đến nay. 1.1.2.3. Giáo dục cho HS về những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam và vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo. Giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam hết sức to lớn: Du lịch, nguồn thủy hải sản phong phú không chỉ là nguồn sống của ngư dân ven biển mà còn là nguồn đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, ịch vụ giao thông biển đang ngày càng được chú trọng. Nguồn khoáng sản biển hết sức đa dạng: Cát, sỏi, muối, titan, monazite... với trữ lượng lớn, dễ khai thác. Đáng kể là dầu thô và khí đốt là những nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú ở khu vực biển Việt Nam, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đồng thời cũng là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của nền kinh tế. Tuy nhiên tài nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa: Ô nhiễm nguồn nước, khai thác bừa bãi, mang tính hủy diệt, khai thác chưa đi đôi với bảo vệ bền vững, việc đánh bắt hải sản bằng các phương tiện “hủy diệt” như mìn, hóa chất, xung điện, 4
- lưới nhỏ hay khai thác san hô để nung vôi, làm đồ trang trí… vẫn diễn ra ở các vùng biển nước ta. Các tài nguyên khác như khoáng sản, vận tải biển, du lịch biển, tài nguyên địa chiến lược… chưa được đầu tư khai thác đúng mức nên chưa phát huy hết tiềm năng vốn có. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, vì đây là vấn đề sống còn và cấp bách, ảnh hưởng lâu dài đến sự tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay là phải đưa nội dung bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, đảo vào trong nhà trường. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng không thể thiếu khi thực hiện mục tiêu giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT ở trường THPT. 1.1.2.4. Giáo dục cho HS về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay. Từ thời phong kiến cho đến nay, Việt Nam luôn đấu tranh cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực cũng như của thế giới. Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với pháp luật quốc tế, trên cở sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Dựa vào những bằng chứng lịch sử và pháp lí quốc tế, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng luôn khẳng định lập trường nhất quán về chủ quyền không thể tranh cãi của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 1.1.3.1. Về kiến thức: Thông qua việc dạy học Lịch sử nhằm giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS để HS biết được vị trí địa lí, tầm quan trọng của biển, đảo, những thành tựu về kinh tế, những mối đe dọa đối với biển, đảo như tranh chấp chủ quyền, ô nhiễm môi trường…); biết được những nét chính về quá trình xác lập, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; biết được những thay đổi mạnh mẽ của kinh tế, xã hội ở các vùng biển đảo nước ta hiện nay. HS được khắc sâu những kiến thức cơ bản của bài học Lịch sử, nắm bắt được vai trò của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, vai trò của biển, đảo đối với công cuộc phát triển kinh tế đất nước hiện nay. 1.1.3.2. Về phẩm chất năng lực: Thông qua việc dạy học Lịch sử dân tộc nói chung, dạy học về chủ quyền biển, đảo Việt Nam nói riêng nhằm giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về lịch sử lâu đời của dân tộc; bồi dưỡng ý thức độc lập dân tộc, bảo vệ sự thống nhất nước nhà qua nhiều thế kỉ. Giáo dục lòng biết ơn đối với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc trong đó có chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. 5
- Từ đó có trách nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Ngoài ra nhằm hình thành và phát triển cho HS các năng lực tư duy như: Phát hiện, phân tích, khả năng xác định điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, mối quan hệ tác động qua lại giữa biển, đảo với đời sống con người trong xã hội, rèn luyện cho HS năng lực đánh giá, nhận xét vai trò của biển, đảo đối với sự vận động và phát triển của xã hội. Qua đó các em sẽ có khả năng phân biệt, có thái độ ứng xử đúng đắn đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Việt Nam là một quốc gia biển có hơn 3260 km bờ biển và 4000 hòn đảo, trong đó có 2 quần đảo Hoàng sa, Trường Sa nằm giữa Biển Đông – một giao lộ hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới. Tài nguyên biển đa dạng: thuỷ-hải sản (11000 loài sinh vật…); dầu khí, băng cháy, đất hiếm,…tiềm năng du lịch rất lớn với 125 thắng cảnh. Biển đảo Việt Nam là một bộ phận của lãnh thổ Tổ quốc chúng ta, có vai trò to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã dành sự quan tâm rất lớn đến chủ quyền biển đảo, nhất là khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng thềm luc địa nước ta, bởi vậy việc giáo dục về biển đảo Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Bên cạnh đó toàn ngành giáo dục đang ra sức thực hiện công tác đổi mới phương pháp dạy học để mang lại hiệu quả cao. Riêng bộ môn lịch sử trong thời gian gần đây cũng thường xuyên bị “đưa lên bàn cân” vì sự thờ ơ của học sinh, vì kết quả thấp trong các kỳ thi hàng năm, ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc của thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT nói riêng đang có chiều hướng đi xuống, thế hệ trẻ hôm nay khi nhắc đến vấn đề chủ quyền biển, đảo Tổ quốc thì rất “mơ hồ” vậy nên nhiệm vụ của GV môn lịch sử phải giáo dục HS đế các em nhận thức được quá trình xác lập chủ quyền biển đảo, tầm quan trọng của việc khai thác chủ quyền biển đảo, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về chủ quyền biển đảo, cũng như thấy được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Để hiểu rõ thực tiễn việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi tiến hành điều tra, khảo sát một số trường THPT trên địa bàn huyện (Phụ lục 1, 2). 1.2.1.1. Về nội dung điều tra: Đối với Giáo viên: Tôi tập trung làm rõ một số vấn đề chủ yếu như: Sự cần thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT những nội dung về vấn đề biển, đảo trong SGK Lịch sử hiện nay, phương pháp dạy học 6
- những nội dung về biển, đảo trong các bài học LSDT, những ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn cũng như nâng cao hiệu quả dạy học về vấn đề biển, đảo trong các bài học LSDT ở trường THPT.. Đối với Học sinh: Tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản như sau: Tìm hiểu sự hứng thú của HS đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam, nhận thức của HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo thông qua các môn học, các hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo được tổ chức trong nhà trường, sự hiểu biết của các em về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, khó khăn của HS trong học tập nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo. 1.2.1.2. Về phương pháp điều tra Tôi tiến hành các phương pháp như dùng phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với GV, HS, quan sát, dự giờ... Sau khi xử lý các nguồn thông tin điều tra, kết quả điều tra thực tiễn đã cho phép tôi rút ra một số kết luận về các vấn đề đã đặt ra như sau: Về phía Giáo viên: Khi hỏi về sự cần thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT: có 90% GV được hỏi đều cho rằng đây là việc làm rất cần thiết, 100% cho rằng cần thiết, không có ý kiến nào cho rằng đây là việc làm không cần thiết. Về bộ môn có ưu thế trong việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong nhà trường phổ thông: có đến 90% GV cho rằng môn Lịch sử có ưu thế nhất, có 50% ý kiến GV cho rằng môn Địa lý, 50% ý kiến cho rằng môn Giáo dục công dân và môn Giáo dục quốc phòng là 25%. Về sử dụng Phương pháp dạy học đối với môn Lịch sử khi dạy phần LSDT nói chung và dạy học về nội dung chủ quyền biển, đảo nói riêng: Có đến 90% ý kiến cho rằng cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp dạy học kết hợp giữa dạy học hiện đại và truyền thống nhằm phát huy được tính tích cực, độc lập của HS. Tuy nhiên vẫn còn một số ít GV (10%) có ý kiến không muốn đổi mới phương pháp dạy, vẫn muốn sử dụng phương pháp truyền thống. Về thực trạng của việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong nhà trường phổ thông hiện nay: Có đến 75% ý kiến cho rằng có đề cập tới vấn đề giáo dục chủ quyền biển, đảo cho HS trong nhà trường, 25% GV có dạy lồng ghép nội dung chủ quyền biển, đảo; 15% ý kiến cho rằng có đưa vấn đề chủ quyền biển, đảo vào dạy lồng ghép trong các môn như Địa lý, Giáo dục công dân và môn Giáo dục quốc phòng. Khi hỏi về hình thức để giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT: có 50% ý kiến GV cho rằng muốn thực hiện việc giáo dục chủ quyền biển, đảo cho HS trong bài học nội khóa LSDT và bài LSĐP, 90% ý kiến GV chọn hình thức ngoại khóa để tuyên truyền giáo dục về vấn đề này; 10% cho 7
- rằng HS tự tìm hiểu, tiếp cận, khai thác trên các kênh thông tin (mạng Internet, tivi, báo, radio…). Về vấn đề nội dung chương trình trong SGK, tất cả GV được hổi đều nhấn mạnh: Vấn đề xác lập, thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo của nhà nước ta qua các thời kì lịch sử (từ thế kỉ XVII đến nay) và cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay của Việt Nam cần được đưa vào chương trình SGK phần LSDT ở tất cả các khối lớp. Về phía Học sinh: Kết quả thu được từ phiếu điều tra HS về sự cần thiết của việc đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào chương trình SGK phần LSDT: Có 90% ý kiến HS cho rằng đây là việc làm cần thiết, chỉ có 10% cho rằng đây là việc làm không cần thiết. Khi hỏi hiểu biết của các em về những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến biển, đảo Việt Nam cũng như những tài liệu chứng minh cho chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Chỉ có khoảng 20% HS trả lời đúng, còn lại đa số các em trả lời sai hoặc không trả lời. Khi đề cập tới các hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo đã được tổ chức trong nhà trường: Có 70% ý kiến HS cho rằng đã đưa vào chương trình nội khóa dạy lồng ghép trong một số môn học như Lịch sử, Giáo dục công dân, Địa lý, Giáo dục quốc phòng; 90% HS cho rằng nhà trường đã tiến hành tổ chức hoạt động ngoại khóa. Về hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo gây hứng thú cho HS: Đa số các em cho rằng hình thức tổ chức ngoại khóa gây nhiều hứng thú cho các em trong học tập (90%), một số ít (25%) cho rằng bài học nội khóa. Những khó khăn của bản thân trong học tập các nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo: 88.9% HS cho rằng thiếu dụng cụ, tài liệu học tập; 61.1% cho rằng GV lên lớp chưa thực sự hấp dẫn; 52.8% HS cho rằng đó là những kiến thức khô khan, nhàm chán. Nhận xét: thông qua việc khảo sát, điều tra nhỏ tôi rút ra được một số nhận xét như sau: Về phía Giáo viên: Hầu hết GV đều nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc dạy học nội dung về chủ quyền biển, đảo trong chương trình LSDT. 100% GV cho rằng nên đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào chương trình SGK để dạy học cho HS. Tuy nhiên, vấn đề còn dừng lại ở nhận thức lý luận. Nhiều GV còn tỏ ra khá lúng túng khi khai thác các vấn đề về chủ quyền biển, đảo trong chương trình giảng dạy, nhất là việc lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung yêu cầu. Đa số GV chỉ sử dụng một phương pháp dạy học duy nhất đó là trình bày miệng, chưa kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học trong một bài học 8
- Lịch sử, do đó dẫn đến sự nhàm chán, đơn điệu, không khai thác hết nội dung và yêu cầu bài học. Một số GV còn lạm dụng khi sử dụng tài liệu tham khảo nên dẫn đến tình trạng "quá tải", làm cho giờ học trở nên nặng nề, hoặc làm loãng nội dung, làm mất tính đặc trưng của bài học Lịch sử. Sự kết hợp linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học của một bộ phận GV còn nhiều hạn chế, các hình thức ngoại khóa chưa thật phong phú. Về phía Học sinh: Hầu hết HS THPT về cơ bản đều quan tâm đến vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, nhưng ở mức độ khác nhau. Đa số HS đều cho rằng cần phải đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, vẫn còn một tỉ lệ không ít những HS không quan tâm hoặc thờ ơ với vấn đề này. Điều đó cho thấy ý thức về trách nhiệm công dân của HS chưa cao, chưa được uốn nắn, giáo dục một cách kịp thời và nghiêm túc. Về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục về nội dung chủ quyền biển đảo: Đa số các em cho rằng nên kết hợp cả hình thức nội khóa và ngoại khóa, bên cạnh đó GV cần đổi mới phương pháp dạy học để tiết học thoải mái và đạt kết quả cao hơn. Tuy vậy, nhận thức của HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam còn rất hạn chế, nhiều vấn đề các em nhận thức còn theo cảm tính. Khi đề cập tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, tôi hỏi những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này hay tên các đảo ở Trường Sa... thì vẫn còn nhiều HS không đưa ra được câu trả lời đúng. Đây thực sự là vấn đề thực tế và cũng là vấn đề cấp thiết được đặt ra trong nhận thức của HS. Hay nói một cách khác là kiến thức của HS nói riêng và của mọi người dân Việt Nam nói chung về vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay đang yếu cần được giáo dục một cách nghiêm túc và cẩn thận. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết Thứ nhất, về chương trình và sách giáo khoa, những vấn đề cần thiết thực tiễn như vấn đề xác lập chủ quyền biển, đảo của các nhà nước trong lịch sử dân tộc, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo chưa được đưa vào chương trình sách giáo khoa. Thứ hai, về phương pháp dạy học. Trong đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử hiện nay, hứng thú học tập là “chìa khóa vàng” cần thiết để học sinh vượt khỏi tính áp đặt của cách học truyền thống, hướng đến cách học tích cực. Cùng với chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy của giáo viên hết sức quan trọng. Dĩ nhiên, dạy và học môn Lịch sử không chỉ giới hạn trong sách giáo khoa, trong bốn bức tường của lớp học mà cần được mở rộng với những hình thức như tham quan bảo tàng, nhà lưu niệm, ngoại khóa… Giáo dục lịch sử trong trường phổ thông còn cần sự kết hợp với cả môi trường giáo dục của gia đình, xã hội, của các phương tiện thông tin đại chúng. 9
- Thứ ba, quan niệm “Môn chính”, “Môn phụ” trong trường phổ thông đã chi phối và ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy học Lịch sử. Tâm lí đó đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều cán bộ quản lí, GV, phụ huynh và HS dẫn đến những ứng xử lệch chuẩn làm cho bộ môn Lịch sử không được nhìn nhận và đánh giá đúng vị thế của nó. Nhiều HS vốn không thích học Lịch sử, nên càng không hứng thú với các nội dung cần sự tư duy, phân tích và vận dụng như môn Lịch sử. Nhất là thời lượng dành cho bộ môn này còn quá ít. Vì vậy, GV càng khó khăn trong việc nâng cao chất lượng và phát huy ưu thế giáo dục thế hệ trẻ của bộ môn. Thứ tư, vấn đề giáo dục chủ quyền biển, đảo trong trường phổ thông hiện nay chưa đồng bộ, còn mang tính hình thức, phong trào và hầu như được quan niệm là của riêng môn Lịch sử. Điều này dẫn tới việc tiếp thu của HS có phần phiến diện. Bên cạnh đó, trong hoạt động ngoại khóa, nhiều trường chỉ giao cho một số ít GV trong trường thực hiện. Cách làm này có chiều rộng về phong trào hơn là chiều sâu về kiến thức, hiệu quả giáo dục mang lại chưa cao. 10
- CHƯƠNG 2 CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƯỜNG THPT 2.1. Vị trí, mục tiêu của chương trình Lịch sử Việt Nam ở trường THPT. 2.1.1. Vị trí Trong chương trình Lịch sử hiện nay, phần LSVN được dạy ở cả ba khối lớp 10, 11, 12 như sau: Khối lớp 10: Khái quát LSVN từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX (từ bài 13 đến bài 28). Khối 11: LSVN từ năm 1858 đến kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) (từ bài 19 đến bài 24). Khối 12: LSVN từ năm 1919 đến năm 2000 ( từ bài 12 đến bài 27). Lịch sử xã hội loài người là quá trình thống nhất, hợp quy luật, đầy mâu thuẫn và đa dạng. LSVN là một bộ phận của lịch sử thế giới, nó vừa thể hiện những quy luật chung của loài người vừa có những quy luật riêng đặc thù của từng dân tộc. Nói cách khác, lịch sử của mỗi quốc gia nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Do vậy, LSDT Việt Nam có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của lịch sử loài người. 2.1.2. Mục tiêu 2.1.2.1. Về kiến thức: Học xong phần Lịch sử Việt Nam, HS phải nắm được: Những kiến thức đầu tiên về sự ra đời, cuộc sống vật chất và tinh thần của người nguyên thủy ở Việt Nam. Những chính sách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc ở nước ta dẫn đến những chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta thời kì này. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X - XV. Trải qua 5 thế kỉ độc lập, nhân dân Việt Nam đã xây dựng được cho mình một nền kinh tế phát triển, một nền văn hóa dân tộc tiên tiến và củng cố chính quyền ngày càng vững chắc. Bước sang thời cận đại, đứng trước những khó khăn và thử thách của dân tộc, và tình hình chung của thế giới, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã liên tục đấu tranh và liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, lật đổ chế độ phong kiến, giải phóng đất nước thoát khỏi quân phát xít, thành lập chính quyền mới do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đến thời kì hiện đại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường, 11
- bất khuất nhân dân ta đã đánh đổ hai thế lực xâm lược hùng mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc về mặt địa lí cũng như hành chính. Từ năm 1975 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn thực hiện những hành động nhằm củng cố, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung và chủ quyền biển, đảo của dân tộc nói riêng. 2.1.2.2. Về phẩm chất, năng lực. Qua dạy học phần Lịch sử dân tộc nói chung, dạy học những nội dung về chủ quyền biển, đảo nói riêng, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về lịch sử lâu đời của đất nước. Bồi dưỡng ý thức tinh thần lao động sáng tạo, ý thức về văn hóa dân tộc, về chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc. Giáo dục lòng biết ơn đối với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong đó có ý thức về chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó HS phải có trách nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định được động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc. Rèn luyện cho HS tinh thần chủ động, tích cực trong học tâp, các kĩ năng học tập và thực hành bộ môn (sử dụng SGK, tài liệu tham khảo, tranh ảnh, bản đồ, lập niên biểu, thống kê…), phát triển các thao tác của tư duy HS: quan sát, đối chiếu các sự kiện, hiện tượng lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, hình dung… góp phần phát huy năng lực nhận thức, năng lực thực hành, kỹ năng, kỹ xảo của HS. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cũng như trong học tập như: làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, biết ứng phó trước vấn đề hiện tại đặt ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. 2.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử Việt Nam nhằm giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS THPT. 2.2.1. Ý thức về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển. Nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII) cho đến nay, ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển luôn được các chính quyền Nhà nước đề cao. Điều đó được thể hiện bằng nhiều hoạt động, trong đó có ý thức tiến hành việc đo đạc vẽ bản đồ, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền… Có nhiều tư liệu lịch sử đã ghi lại như: Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục…Bên cạnh đó, nhiều tấm bản đồ được vẽ trong khoảng thời gian này như: Vương quốc An Nam (1650); “Bãi Cát vàng” (Hoàng Sa – 1686; Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, cùng với các chiến dịch giải phóng trên đất liền, chiến dịch giải phóng Trường Sa và các đảo ven bờ đã nổ ra thắng lợi (4-1975), giang sơn thu về một mối. GV có thể dạy lồng ghép nội dung trên trong các bài: Bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX), mục 1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước - Chính sách ngoại giao. 12
- Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975), mục III. 2 - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. 2.2.2. Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền biển, đảo Tổ quốc một cách hòa bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, con đường mở mang bờ cõi xuống phía Nam của người Việt cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ khi giành quyền tự chủ lâu dài đã xác định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển được thể hiện qua các nội dung: quá trình mở rộng lãnh thổ, tổ chức quân đội, chính sách đối nội và đối ngoại của các triều đại phong kiến GV có thể dạy lồng ghép nội dung trên trong các bài: Bài 17, lớp 10: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế; Bài 24, lớp 12: Việt Nam trong năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm 1975, mục III - Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975- 1976); Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng. 2.2.3. Vai trò của biển, đảo góp phần tạo nên những thắng lợi hiển hách trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII, thủy quân Việt Nam đã biết dựa vào thế mạnh của sông, biển chiến thắng nhiều trận oanh liệt như: chiến thắng Bạch Đằng các năm (938, 981, 1288); thắng lợi ở Rạch Gầm – Xoài Mút của nghĩa quân Tây Sơn, thắng lợi trước hạm đội của thực dân Anh năm 1702 tại đảo Côn Lôn (nay là Côn Đảo)… Bước sang thế kỉ XIX và XX, phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông trong lịch sử, nhân dân Việt Nam tiếp tục chiến đấu và giành thắng lợi trước hai thế lực lớn mạnh đến từ phương Tây là Pháp và Mỹ. Nhiều trận thắng đã đi vào lịch sử như: thắng lợi trước liên quân Pháp và Tây Ban Nha tại cửa biển Đà Nẵng (9 - 1858) làm thất bại bước đầu kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của quân Pháp; thắng lợi trong Cuộc tiến công và giải phóng Trường Sa (từ 9 - 4 đến 29 – 4 - 1975)... GV có thể chọn một số kiến thức để giáo dục cho HS qua một số bài sau: Bài 19, lớp 10: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV, mục I và II; Bài 19, lớp 11: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873), mục I - 3: Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858; ; Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975), mục III - 2: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975… 13
- 2.2.4. Những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay và vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo. Biển, đảo nước ta có giá trị, tiềm năng kinh tế hết sức to lớn như: Du lịch biển, đảo; nguồn thủy hải sản phong phú; giao thông đường biển thuận lợi; nguồn khoáng sản biển đa dạng… Chính vì vậy, ngay sau ngày đất nước được thống nhất, Nhà nước ta rất chú trọng đến việc phát triển nền kinh tế biển thông qua việc ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị… phấn đấu mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển. Tuy nhiên, trước thực trạng về tài nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa nghiêm trọng, vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo cũng được chú trọng thông qua việc kí kết các công ước quốc tế và ra nhiều văn bản liên quan đến vấn đề biển, đảo như: Công ước Luật Biển 1982, Luật Biên giới quốc gia 2013... Ở phần này, GV có thể chọn một số kiến thức tiêu biểu để giáo dục cho HS qua một số bài sau: Bài 18, lớp 10: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X - XV, mục 3 - Mở rộng thương nghiệp; Bài 22, lớp 10: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự phát triển của thương nghiệp; Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I - 2: Đường lối đổi mới của Đảng. 2.2.5. Giáo dục cho HS về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay. Ở nội dung này, GV cần cho HS khai thác nội dung của các văn bản mang tính pháp lí quốc tế như: Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002; quá trình thúc đẩy việc hướng tới kí kết COC; để giáo dục cho HS thấy, Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, luôn tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hòa bình, an ninh trên biển; trên cơ sở đó khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên biển, đảo phục vụ công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước. GV có thể lựa chọn những kiến thức trên để dạy lồng ghép trong các bài: Bài 24, lớp 12: Việt Nam trong năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm 1975, mục III - Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975-1976); Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng. 2.3. Những yêu cầu cơ bản khi xác định biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSVN ở trường THPT 2.3.1. Phải xác định đúng kiến thức cơ bản cần giáo dục 14
- Đây là yêu cầu quan trọng để dạy học bộ môn Lịch sử nói chung và dạy học về vấn đề chủ quyền biển, đảo nói riêng. Vì có xác định đúng kiến thức cơ bản mới có biện pháp giáo dục phù hợp. Việc xác định đúng kiến thức cơ bản của bài học sẽ định hướng cho GV biết cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào, HS học tập và lĩnh hội kiến thức gì và bằng cách nào. Như vậy mới có thể giúp GV thực hiện được mục tiêu của bộ môn và bài học hướng tới, giúp HS nhận thức đúng vấn đề cần giáo dục, mang lại hiệu quả bài học cao. 2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, chính xác về nội dung và tính tư tưởng Tính khoa học được thể hiện qua việc lựa chọn những kiến thức cơ bản nhất, chính xác nhất để hình thành những kiến thức lịch sử cho học sinh, từ đó giáo dục cho các em về thế giới quan khoa học, đúng đắn, xây dựng cho các niềm tin, ý thức trách nhiệm đối với những vấn đề của quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi dạy học lịch sử nói chung, dạy về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc nói riêng, phải cung cấp cho học sinh những tư liệu lịch sử khoa học, chính xác làm bằng chứng về việc xác lập chủ quyền biển, đảo Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử, của bao thế hệ người Việt Nam. Từ đó hình thành cho thế hệ trẻ ý thức, trách nhiệm để bảo vệ những thành quả mà cha ông ta đã dựng xây, bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc nói chung, biển đảo nói riêng. Bên cạnh đó GV cần phải tôn trọng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn đề biển, đảo và giáo dục chủ quyền biển đảo, tránh những kích động không cần thiết đối với HS. Từ việc giáo dục chủ quyền biển, đảo hình thành cho HS ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung, chủ quyền biển, đảo nói riêng, bảo vệ những thành quả mà cha ông ta đã xây dựng để có được 2.3.3. Đảm bảo tính cụ thể, trực quan sinh động, giàu biểu tượng lịch sử Thực trạng giáo dục Lịch sử hiện nay cho thấy, HS chán học Lịch sử một phần do các bài giảng khô cứng, thiếu tính thực tế, thiếu sự liên hệ thực tiễn của GV. Do vậy, trong dạy học Lịch sử, đặc biệt là việc giáo dục vấn đề chủ quyền biển, đảo, lời nói của GV cần phải sinh động, hấp dẫn, giàu tính hình ảnh và cần sử dụng các tư liệu, đồ dùng trực quan sinh động như: bản đồ, sơ đồ, phim tư liệu, tranh, ảnh, hiện vật lich sử,… hướng dẫn HS phát hiện ra vấn đề, xử lí và thẩm thấu vấn đề bằng nhãn quan Lịch sử của HS. Mặt khác GV cần phải phát huy tối đa tính tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình nhận thức của HS. Muốn vậy GV cần đa dạng hóa các hình thức tiến hành (bài học nội khóa, bài học ngoại khóa, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về vấn đề chủ quyền biển, đảo Tổ quốc) để vấn đề biển, đảo trở nên hấp dẫn, hứng thú, dễ hiểu, dễ tiếp thu và lĩnh hội sâu sắc vấn đề đối với đối tượng HS. 15
- 2.3.4. Cần đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với tâm lí, lứa tuổi HS Có thể nói, đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng hang đầu cần phải tuân thủ khi tiến hành các biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông. Vì đây là đối tượng rất phù hợp để giáo dục và định hướng. Đây là giai đoạn HS phổ thông đang có những chuyển biến và thay đổi lớn về tâm sinh lý đặc biệt là tâm lý, là giai đoạn quan trọng, quyết định đến việc hình thành nhân cách cho HS. Chính vì vậy, việc đưa vấn đề biển, đảo vào trường PTTH là phù hợp, vừa sức và mang tính kịp thời. Đối với HS lớp 10 và lớp 11 cần chú trọng đến việc giáo dục ý thức cho HS về nội dung những chứng cứ lịch sử để chứng minh được chủ quyền các quần đảo của Việt Nam được xác lập ngay từ thời phong kiến (thế kỷ XVII) đến nay. Đối với HS lớp 12, đây là những HS đã đủ tuổi công dân, tự chịu trách nhiệm trước hành vi của mình cần phải giáo dục một cách sâu sắc và kĩ lưỡng hơn về tình hình Biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng; đặc biệt chú trọng đến việc định hướng cho HS thái độ đối với việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở hai quần đảo Trường sa và Hoàng Sa hiện nay theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam. 2.3.5. Cần định hướng thường xuyên và cập nhật Chủ quyền biển, đảo trong tiến trình lịch sử của dân tộc không phải là vấn đề mới nhưng lại là mới đối với thực trạng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Việc giáo dục như thế nào cho có hiệu quả về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề rất “nhạy cảm”, diễn tiến rất phức tạp với những thay đổi không ngừng do nhiều yếu tố khách quan khác nhau. GV cũng phải thường xuyên tự cập nhật những thông tin mới qua nhiều kênh thông tin khác nhau để định hướng cho HS kịp thời, qua đó giúp HS nhận thức được vấn đề đúng đắn về tình hình hiện tại, nhất là trong bối cảnh Biển Đông thường xuyên “nổi sóng” như hiện nay. 2.4. Bảng thống kê những nội dung vận dụng nhằm giáo dục cho ý thức chủ quyền biển, đảo cho HS trong dạy học LSVN ở trường THPT. STT Lớp, Tên, bài Địa chỉ Nội dung Lớp 10 – Bài 14: Mục 1: Quốc gia Ý thức về chủ quyền lãnh thổ Các quốc gia cổ Văn Lang, Âu Lạc quốc gia, giá trị tiềm năng của đại trên đất nước Mục 2: Quốc gia kinh tế biển. 1 Việt Nam Chăm Pa Mục 3: Quốc gia Phù Nam 16
- Lớp 10 - Bài 16: Mục II: Một số Biển đảo góp phần tạo nên 2 Thời bắc thuộc và cuộc khởi nghĩa những chiến công hiển hách cuộc đấu tranh tiêu biểu trong công cuộc bảo vệ Tổ giành độc quốc Lớp 10 - Bài 17: Mục II: Luật pháp Các triều đại phong kiến luôn Qúa trình hình và quân đội ý thức sâu sắc về chủ quyền thành và phát triển đất nước trong đó có biển đảo. 3 của nhà nước phong kiến từ thế kỉ X - XV Lớp 10 - Bài 18: Mục 3: Mở rộng Giá trị tiềm năng kinh tế của Công cuộc xây thương nghiệp biển trong phát triển kinh tế 4 dựng và phát triển đất nước kinh tế trong các thế kỉ X – XV. Lớp 10 - Bài 19: Mục I: Các cuộc Biển đảo góp phần tạo nên Những cuộc kháng kháng chiến chống những chiến công hiển hách chiến chống ngoại quân xâm lược trong công cuộc bảo vệ Tổ xâm thế kỉ X - XV Tống. quốc. 5 Mục II: Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ở thế kỉ XIII Lớp 10 - Bài 22: Mục 3: Sự phát Vai trò của biển, đảo trong sự 6 Tình hình kinh tế triển thương phát triển kinh tế đất nước. trong các thế kỉ nghiệp XVI - XVIII Lớp 10 - Bài 23: Mục II (1): Kháng Biển đảo góp phần tạo nên Phong trào Tây chiến chống quân những chiến công hiển hách Sơn và sự nghiệp Xiêm trong công cuộc bảo vệ Tổ 7 thống nhất đất quốc nước bảo vệ Tổ Mục III: Vương Qúa trình chiếm hữu và thực quốc cuối thế kỉ triều Tây Sơn thi liên tục chủ quyền biển, XVIII đảo của ta thời kỳ Tây Sơn. 8 Lớp 10 - Bài 24: Mục I: Tư tưởng, Vai trò của biển, đảo trong đời 17
- Tình hình văn hóa tôn giáo sống văn hóa con người Việt ở các thế kỉ XVI – Nam và quá trình chiếm hữu thực sự hòa bình, thực thi chủ XVIII Mục III: Nghệ quyền biển, đảo Hoàng Sa, thuật và khoa học Trường Sa của Việt Nam kĩ thuật Lớp 10 - Bài 25: Mục 1: Xây dựng Ý thức chủ quyền lãnh thổ Tình hình chính và củng cố bộ máy quốc gia trên biển của ta có từ trị, kinh tế, văn nhà nước – Chính rất sớm và quá trình xác lập, 9 hóa dưới triều sách ngoại giao chiếm hữu và thực thi chủ Nguyễn (Nửa đầu quyền biển đảo với Hoàng Sa thế kỉ XIX và Trường Sa thời nhà Nguyễn. Lớp 11 – Bài 19: Mục I – 3: Chiến Biển đảo góp phần tạo nên Nhân dân Việt sự ở Đà Nẵng những chiến công hiển hách Nam kháng chiến 1858 trong công cuộc bảo vệ Tổ 10 chống thực dân quốc Pháp xâm lược (1858 đến trước 1873) Lớp 11 – Bài 20: Mục III – 2: Hai Pháp đã thực hiện chủ quyền Chiến sự lan rộng bản hiệp ước 1883 ở hai quần đảo Hoàng Sa và ra cả nước, cuộc và 1884, nhà nước Trường Sa 11 kháng chiến của phong kiến nhân dân ta từ Nguyễn đầu hàng. 1873 – 1884 nhà Nguyễn đầu hàng Lớp 11 – Bài 22: Mục 1: Những Pháp đã thực hiện chủ quyền Xã hội Việt Nam chuyển biến về ở hai quần đảo Hoàng Sa và trong cuộc khai kinh tế Trường Sa. 12 thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp Lớp 12 – Bài 12: Mục I – 1: Chính Pháp đã thực hiện chủ quyền Phong trào dân sách khai thác ở hai quần đảo Hoàng Sa và 13 tộc dân chủ ở Việt thuộc địa lần thứ Trường Sa. Nam từ 1919 – hai của thực dân 1925. Pháp 14 Lớp 12 – Bài 21: Mục I: Tình hình Chính quyền Việt Nam Cộng 18
- Xây dựng CNXH và nhiệm vụ của hòa đã thực hiện chủ quyền ở ở miền Bắc, đấu cách mạng nước ta hai quần đảo Hoàng Sa và tranh chống đế sau hiệp định Giơ Trường Sa. quốc Mĩ và chính ne vơ quyền Sài Gòn ở Mục IV – 2: Miền Vai trò của biển, đảo trong sự miền Nam 91954 Bắc thực hiện kế phát triển kinh tế đất nước. – 1965) hoạch nhà nước 5 năm (1961 – 1965) Lớp 12 – Bài 22: Mục II – 2: Mĩ Chủ quyền biển đảo đã bị kẻ Nhân dân hai tiến hành chiến thù lợi dụng để thực hiện mưu miền trực tiếp tranh bằng không đồ đen tối của chúng. chiến đấu chóng quân và hải quân đế quốc Mĩ xâm phá hoại miền Bắc 15 lược. Nhân dân miền Bắc vùa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973) Lớp 12 – Bài 23: Mục III – 2: Cuộc Ý thức về chủ quyền quốc gia Khôi phục và phát tổng tiến công và trên biển của ta. triển kinh tế - xã nôi dậy mùa xuân Biển đảo góp phần tạo nên 16 hội ở miền Bắc, 1975 những chiến công hiển hách giải phóng hoàn trong công cuộc bảo vệ Tổ toàn miền Nam quốc (1973 – 1975) Lớp 12 – Bài 24: Mục III: Hoàn Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong thành thống nhất của nước ta hiện nay những năm đầu đất nước về mặt 17 nhà nước (1975 – của cuộc kháng chiến chống Mĩ, 1976) cứu nước 1975 Lớp 12 – Bài 26: Mục I – 2: Đường Vai trò của biển, đảo trong sự Đất nước trên con lối đổi mới của phát triển kinh tế đất nước. 18 đường đổi mới đi Đảng Bảo vệ chủ quyền biển, đảo lên xây dựng của nước ta hiện nay CNXH (1986 – 2000) 19
- 2.5. Một số biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSVN ở trường THPT. 2.5.1. Khai thác triệt để các sự kiện trong bài học lịch sửu nội khóa để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS Trong chương trình môn lịch sử ở trường THPT hiện hành không có bài học nào trực tiếp đề cập đến chủ quyền biển đảo nói chung và Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, vì vậy khi dạy học GV có thể sử dụng tài liệu, lồng ghép, nhằm cụ thể hóa một số sự kiện trong các bài học lịch sử nội khóa có liên quan để liên hệ giáo dục ý thức về CQBĐ cho HS cụ thể: 2.5.1.1. Khai thác triệt để những nội dung lịch sử có khả năng giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo. Muốn dạy tốt phần LSVN cho HS trong chương trình của bộ môn ở trường THPT nói chung và giáo dục về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng đạt kết quả cao nhất, GV cần khai thác triệt để những sự kiện, hiện tượng lịch sử có khả năng giáo dục. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, GV cần nắm vững nội dung chương trình SGK để phân biệt được sự kiện thể hiện trực tiếp nội dung về chủ quyền biển, đảo hay sự kiện liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam để tìm phương pháp giáo dục thích hợp và hiệu quả nhất. Thứ nhất, khai thác những sự kiện, tài liệu lịch sử thể hiện trực tiếp về chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ cổ đến đương đại như: Các văn bản nhà nước (Châu bản…), sách điển chế, chính sử, sách địa chí, bản đồ lịch sử, tư liệu và bản đồ của phương Tây. Khi tiến hành khai thác, GV tiến hành theo 3 bước như sau: - Bước 1: Xác định tài liệu khai thác là tài liệu nào? Phục vụ cho việc dạy học bài nào, mục nào? - Bước 2: GV chọn phương pháp hướng dẫn HS khai thác và lĩnh hội tài liệu, sự kiện. - Bước 3: Ý nghĩa của việc khai thác tài liệu, sự kiện. Trong chương trình LSVN khối THPT, chúng ta có thể khai thác được nhiều tài liệu gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam để giáo dục cho HS như: Phủ biên tạp lục - 1776 của Lê Qúy Đôn, lịch triều hiến chương loại chí - 1821, hoàng Việt dư địa chí - 1833 của Lê Huy Chú), đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng; bản đồ lịch sử như: An Nam quốc đồ được thực hiện vào thời Hồng Đức (1490)… đặc biệt là Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, trong đó có tấm bản đồ Partiedela Cochinechine (106) có giá trị quan trọng khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Phụ lục 5). 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua dạy học Lịch sử Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (SGK Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản)
14 p | 133 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị trong việc giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam ở lớp 12
21 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sống và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh THPT qua tác phẩm Chí Phèo
19 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay
43 p | 44 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục STEM thông qua chủ đề Lắp mạch điện đèn trang trí - Vật lí 11
40 p | 14 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy cho học sinh trung học phổ thông trong các giờ dạy môn Hóa học
21 p | 39 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo sự hứng thú cho học viên Trung tâm GDNN - GDTX khi mở đầu tiết học giáo dục hướng nghiệp thông qua việc thực hiện các trò chơi kỹ năng sống
15 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 13 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng của tỉ số thể tích
15 p | 26 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Công tác phòng ngừa, can thiệp với học sinh bị chứng rối loạn hành vi ở trường THPT
35 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn