intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, nhằm khắc phục tình trạng dạy và học theo văn mẫu tại trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, tạo sự hứng thú và phát huy được năng lực tự học sáng tạo cho học sinh, khắc phục tình trạng dạy học theo văn mẫu; Đánh giá thực trạng về công tác dạy học Ngữ văn tại Trường THPT Đô Lương 4.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, nhằm khắc phục tình trạng dạy và học theo văn mẫu tại trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT ĐÔ LƢƠNG 4 ---�--- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NHẰM KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG DẠY VÀ HỌC THEO VĂN MẪU TẠI TRƢỜNG THPT ĐÔ LƢƠNG 4, TỈNH NGHỆ AN” L NH VỰC: NGỮ VĂN Tác giả: Phan Văn Thành – ĐT: 0931.366.857 Trần Thị Nga - ĐT: 0966.625.978 Tổ: Ngữ văn Tháng 12/2022 1
  2. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Quán triệt Nghị quyết 29/NQ-TW của Đảng, với mục tiêu tổng quát là “Giáo dục con người Việt nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả”. Để đạt được mục tiêu Nghị quyết Đảng đặt ra cho ngành giáo dục, dạy học môn Ngữ văn đóng một vai trò quan trọng. Môn Ngữ văn là môn học có nhiều khả năng và ưu thế nhất góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung hỗ trợ cho các môn khác trong việc diễn đạt để trở thành môn công cụ. Bởi dạy văn là khám phá cái hay, cái đẹp từ những tác phẩm văn chương nhằm khơi dậy, hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, bồi dưỡng cho các em tri thức hiểu biết và làm phong phú đời sống tâm hồn, hướng các em tới Chân - Thiện - Mỹ, những giá trị đích thực của cuộc sống. Dạy học ngữ văn theo hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Lộ trình đổi mới dạy học Ngữ văn tính từ năm 2000 đến nay trải qua hai lần điều chỉnh với những thay đổi cơ bản về mục tiêu, yêu cầu cần đạt và nội dung chương trình. Chuyển đổi từ giáo dục truyền thụ kiến thức của chương trình năm 2000 sang chú trọng kết hợp truyền thụ kiến thức và giáo dục kỹ năng của chương trình năm 2006 rồi đến chú trọng hình thành trục kết nối kiến thức - kỹ năng - phẩm chất- năng lực của chương trình 2018. Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên đã thực hiện công việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và có những thành công nhất định. Tuy nhiên từ thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp tại trường, từ nhận thức và kỹ năng học tập của trò chúng tôi thấy rằng sự sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học phát huy tích cực tự học của học sinh chưa cao, dạy học còn nặng cung cấp kiến thức, kiểm tra đánh giá chưa khách quan mà còn nặng tính hình thức. Tình trạng học sinh viết sai chính tả, bài văn viết chung chung, viết không có bố cục, học sinh chán ngán học văn vì ghi nhiều, thầy cô giảng nhiều nghe rất mệt. Vì thế mục tiêu học văn của các em chỉ là để thi, giáo viên dạy chỉ để đạt chỉ tiêu đăng ký chất lượng đầu năm, dẫn đến việc copy văn mẫu, những bài văn “đồng phục”, những bài văn na ná giống nhau. Những bài văn trở thành như “mì ăn liền” phục 2
  3. vụ cho thi cử và sau thi thì quên ngay. Đây là một thực trạng đáng buồn trong dạy học văn mà như một hồi chuông cảnh báo cần khắc phục ngay và liền. Bản chất của những bài văn mẫu là rất tốt, nó là nguồn tài liệu tham khảo giúp ích cho giáo viên và học sinh. Những bài văn mẫu là bài văn hay, bài văn đạt điểm cao của học sinh trong các kỳ thi, được lấy làm mẫu. Nhưng do mục tiêu và động cơ dạy và học không đúng quy trình chỉ dạy phần “ngọn” không dạy phần “gốc – bản chất” nên trở thành vấn nạn. Qua tham khảo tài liệu và thực tế dạy học, chúng tôi xin được trình bày đề tài “Một số biện pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, nhằm khắc phục tình trạng dạy và học theo văn mẫu tại trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An”. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nâng cao hiệu quả dạy học, tạo sự hứng thú và phát huy được năng lực tự học sáng tạo cho học sinh, khắc phục tình trạng dạy học theo văn mẫu. - Chia sẻ đồng nghiệp về kinh nghiệm dạy học có hiệu quả. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài - Đánh giá thực trạng về công tác dạy học Ngữ văn tại Trường THPT Đô Lương 4 - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài. 4. Đối tƣợng nghiên cứu: Các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn tại trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. 5. Phạm vi nghiên cứu: - Nội dung nghiên cứu: Đề tài tìm hiểu, đề xuất và hướng dẫn học sinh phương pháp học tập môn Ngữ văn theo đặc trưng của phân môn - Thời gian nghiên cứu: Đề tài thực hiện trong năm học 2021 – 2022 và năm học 2022 – 2023. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: 6.1. Quan sát, ph ng vấn, nghiên cứu sản phẩm, so sánh giữa các số liệu thu được. Và nghiên cứu các tài liệu, thu thập thông tin liên quan. 6.2. Phương pháp thống kê số liệu trong quá trình khảo sát 6.3. Phương pháp phân tích, phân loại: phân tích những nguyên nhân và những kết quả đạt được trong hoạt động dạy học. 3
  4. 6.4. Phương pháp so sánh trong thực trạng vấn đề và so sánh kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 6.5. Ngoài ra còn có các phương pháp như: thuyết trình, thực nghiệm... PHẦN 2: NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Năng lực và các năng lực cần hình thành trong dạy học Ngữ văn 1.1.1. Giới thuyết về năng lực Phạm trù năng lực thường được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách hiểu có những thuật ngữ tương ứng: (1) Năng lực (Capacity/Ability) hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng (hoặc tiềm năng) mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định; (2) Năng lực (Compentence) thường gọi là năng lực hành động: là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/ một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và sự sẵn sàng hành động. Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992), năng lực được giải thích với hai nghĩa: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một loạt hành động nào đó; Năng lực là: Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao [7, tr.656]. Năng lực của HS là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng,... mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội. Năng lực của học sinh là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống. Người ta chia ra thành hai loại năng lực: Năng lực chung: là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Vì thế có nước gọi là năng lực xuyên chương trình. Mỗi năng lực chung cần: a) Góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng; b) Giúp cho các cá nhân đáp ứng được những đòi h i của một bối cảnh rộng lớn và phức tạp; c) Chúng có thể không quan trọng với các chuyên gia, nhưng rất quan trọng với tất cả mọi người. Năng lực chuyên biệt: là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như toán học, 4
  5. âm nhạc, mĩ thuật, thể thao... Đó là những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định, bao gồm: Năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất,… 1.1.2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực Dạy học theo hƣớng phát triển năng lực là mô hình dạy học hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Trong mô hình này, người học có thể thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình. Điều đó có nghĩa là người học phải chứng minh mức độ nắm vững và làm chủ các kiến thức và kỹ năng (được gọi là năng lực); huy động tổng hợp mọi nguồn lực (kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, hứng thú, niềm tin, ý chí,…) trong một môn học hay bối cảnh nhất định, theo tốc độ của riêng mình. Dạy học phát triển năng lực có 04 đặc điểm chính: Thứ nhất, dạy học theo định hướng phát triển năng lực được thiết kế theo hướng phân hóa dựa trên hứng thú, nhu cầu và nền tảng kiến thức, sở thích cũng như thế mạnh của học sinh. Phương pháp này cho phép người học cá nhân hóa, đa dạng hóa việc học để đáp ứng nhu cầu của bản thân theo hướng có lợi cho họ. Tức là, ngoài số giờ lên lớp theo quy định, học sinh có quyền lựa chọn môn học, hình thức học ở bất kỳ đâu và bất cứ thời điểm nào (học online, học nhóm,…) để giúp học sinh phát triển tối đa năng lực vốn có của mình. Phương pháp học này mang đến sự tự do, linh hoạt cho học sinh, loại b sự bất bình đẳng trong quá trình học tập. Học sinh được coi là trung tâm của quá trình học và luôn cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Thứ hai, dạy học theo hướng phát triển năng lực định hướng để học sinh có thể tiếp thu kiến thức cần thiết và nâng cao khả năng thực hành, vận dụng kiến thức đã học được. Kiến thức, kỹ năng và cách ứng xử là những “tài nguyên” để các em thực hiện nhiệm vụ cụ thể để hình thành và phát triển năng lực. Thứ ba, dạy học phát triển năng lực xác định và đo lường năng lực đầu ra của học sinh dựa trên mức độ làm chủ kiến thức môn học. Học sinh thể hiện sự tiến bộ của mình thông qua việc chứng minh năng lực mà không dựa trên khoảng thời gian cố định như học kỳ hay cấp học. Thứ tƣ, dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp người học có thể chọn cách tiếp nhận các tài liệu học tập kể cả thời điểm và nhịp độ học tập. Điều này khuyến khích khả năng làm việc độc lập và tự chủ của học sinh, phát triển tối đa các kỹ năng để đạt được mục tiêu học tập. 1.1.3.Ý nghĩa của dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển các phẩm chất nhân cách và năng lực của học sinh một cách toàn diện. 5
  6. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực chú trọng năng lực vận dụng kiến thức của bài học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn từ đó giúp học sinh áp dụng được những gì đã học vào thực tế cuộc sống. Điều này giúp người học có năng lực giải quyết các vấn đề cuộc sống và nghề nghiệp cũng như giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. Với một số học sinh, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho phép đẩy nhanh tiến độ hoàn thành chương trình học, tiết kiệm thời gian và công sức cho việc học. Dạy học theo hướng phát triển năng lực tạo ra những giờ học thú vị, sôi động và cuốn hút học sinh vào các hoạt động tìm tòi, khám phá kiến thức.Từ đó phát triển các kỹ năng học tập của học sinh một cách toàn diện để giải quyết vấn đề, tự học và hợp tác cùng tư duy sáng tạo. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp cách giờ giảng dạy trở nên hiệu quả hơn, giáo viên đáp ứng được nhu cầu học của từng học sinh và đảm bảo mọi học sinh đề tận dụng giờ học một cách tối đa. 1.2. Các năng lực hình thành trong dạy học môn Ngữ văn Trong định hướng phát triển CT GDPT sau 2015, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ là năng lực mang tính đặc thù của môn học; ngoài ra năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học của môn học. Năng lực đặc điểm thể hiện trong môn Ngữ văn 1.2.1. Giải quyết vấn đề – Phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp Đánh giá – Phát hiện và lý giải những vấn đề nhập nhằng, mơ hồ, đa nghĩa, khó hiểu trong nội dung và nghệ thuật. Phát hiện và lý giải những vấn đề trong thực tiễn đời sống được gợi ra từ tác phẩm. Phát hiện và đánh giá những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình tạo lập văn bản nói và viết 1.2.2. Năng lực tưởng tượng và sáng tạo – Phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống Đề xuất các giải pháp một cách thiết thực Áp dụng vào tình huống mới – Có cách tiếp cận và cắt nghĩa độc đáo về nội dung, giá trị của tác phẩm Phát hiện những nét nghĩa mới, giá trị mới của văn bản. Có cách nói và cách viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả. 1.2.3. Hợp tác -Phối hợp, tương tác hỗ trợ nhau cùng thực hiện nhiệm vụ để cùng đạt mục tiêu chung (thảo luận nhóm ) Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn 6
  7. đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người, thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận cá nhân Điều chỉnh thái độ, cách ứng xử 1.2.4. Tự quản bản thân. ( Thực chất là KNS) Làm chủ cảm xúc. Suy nghĩ và hành động hướng vào mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh Tự đánh giá, điều chỉnh hành động phù hợp với những tình huống mới học sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và r n luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống. 1.2.5. Năng lực giao tiếp Tiếng Việt Sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình huống giao tiếp Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. 1.2.6. Năng lực thưởng th c văn học cảm thụ th m mĩ Biết nhận diện, thưởng thức và đánh giá cái đẹp trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện Cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận ra những giá trị thẩm mĩ trong văn học, biết rung cảm, hướng thiện Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. hái lược về địa bàn nghiên c u – Trường THPT Đô Lương 4. Trường THPT Đô Lương 4 thành lập năm 2006, đóng trên địa bàn xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Học sinh chủ yếu là con em xã Hiến Sơn, Trù Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn. Hiện tại trường có 22 lớp với tổng học sinh là 928 học sinh. Đội ngũ giáo viên 100% chính quy sư phạm. Cơ sở vật chất của trường đảm bảo mức tối thiểu cho việc dạy học và đang từng bước cố gắng đảm bảo tốt hơn. Học sinh của nhà trường cơ bản chăm ngoan, hiếu học nhưng kỹ năng sống còn hạn chế: nhút nhát, ngại giao tiếp, tính cầu tiến vượt đói vượt ngh o chưa cao, ảnh hưởng tiêu cực của đô thị hóa nhiều như học đòi, sa ngã ... Đặc biệt có nhiều luồng tư tưởng, mục tiêu khá phức hợp: Trường THPT Đô Lương 4 tuổi nghề còn khiêm tốn, khó khăn nhiều mặt nhưng đội ngũ giáo viên đã nỗ lực không ngừng trong học tập, giảng dạy và giáo dục học sinh. Các khóa học của học sinh sau ba năm học tập và r n luyện dưới mái trường 7
  8. THPT Đô lương 4 đều trưởng thành và lớn lên nhiều mặt: có lý tưởng sống, có khát vọng, đậu đạt cao,... Chất lượng đại trà được khẳng định, chất lượng mũi nhọn có nhiều đột phá: đậu tốt nghiệp 100% nhiều năm liền; đã có học sinh đậu thủ kỳ thi THPT quốc gia, kết quả thi học sinh gi i tỉnh đứng vị thứ cao trên toàn tỉnh (13, 19, ...). Hiện nay trường đã trở thành một địa chỉ được nhân dân và các cấp chính quyền tin tưởng. 2.2.1. hảo sát về thực trạng dạy học Ngữ văn tại trường THPT Đô Lương 4 2.2.1.1: Phiếu khảo sát: (Xem phụ lục 01) 2.2.1.2. ết quả khảo sát: Để có kết quả khảo sát chính xác, khách quan, khoa học, chúng tôi đã tiến hành khảo sát toàn bộ học sinh khối lớp 12 trường THPT Đô Lương 4. Tổng số học sinh được khảo sát: 336 em Thời gian khảo sát: 2/2023 Kết quả: Mức độ Hoàn toàn Đồng ý Phân vân Không đồng ý Nhóm đồng ý tiêu (4 điểm) (3 điểm) (2 điểm) (1 điểm) chí Số Số Số Số Điểm Điểm Điểm Điểm lượng lượng lượng lượng Từ 1 310 1240 41 123 15 30 0 0 đến 46 90% trở lên 80% - 90% 65% - 80% Từ 50% - 65% Dƣới 50% (5 điểm) (4 điểm) ( 3điểm) (2 điểm) (1 điểm) Từ 47 Số Số Số Số Số đến 48 lượng Điểm lượng Điểm lượng Điểm lượng Điểm lượng Điểm 45 225 92 368 180 540 33 66 16 16 Rất hài lòng Hài lòng Tạm hài lòng Không hài lòng Từ 49 (4 điểm) (3 điểm) (2 điểm) (1 điểm) đến 57 Số Số Số Số Điểm Điểm Điểm Điểm lượng lượng lượng lượng 64 256 155 465 121 242 26 26 2.2.1.2.1. Những mặt làm được: Dạy học nghiêm túc, phát hiện được những học sinh có năng khiếu văn học bồi dưỡng phát triển tốt phẩm chất năng lực cho học sinh, kết quả học sinh gi i cấp tỉnh đạt kết quả đáng kể ( 2022: 2 giải ba; 2021: 1 giải ba, 1 kk, 2020: 1kk, 1 giải ba, 2019 1 giải nhì, 1 giải ba, 2018; hai giải nhì) Chiến lược ôn tập tốt, kết quả thi THPT hàng năm đạt kết quả cao, đứng trong tốp 10 của tình. 8
  9. Đội ngũ giáo viên Ngữ văn đạt chuẩn, 3/8 giáo viên gi i cấp tỉnh. Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, ý thức cầu thi cao. 2.2.1.2.2. Những tồn tại, và nguyên nhân * Tồn tại: Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự học của học sinh ở môn Ngữ văn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc r n luyện kỹ năng chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kỳ chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học còn thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Điều đó thể hiện ở những tồn tại sau: - Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống… một cách cứng nhắc. Chưa làm cho học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực… để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển. - Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức ở các lớp thực hiện chương trình SGK hiện hành nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày t quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân. - Khẩu kiểm tra đánh giá còn nhiều l ng lẻo từ khâu ra đề, coi thi và chấm. Tình trạng học sinh học vẹt văn mẫu để có điểm khá phổ biến. Theo suy nghĩ nước nổi b o nổi của thời thế nên giáo viên cũng xuôi chiều theo lối học để thi như học sinh. - Mặc dù đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi cách thức tổ chức giờ học, kiểm tra đánh giá nhằm đạt mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh song kết quả chưa đạt được như mong muốn. *. Nguyên nhân tồn tại: - Nguyên nhân khách quan: Việc học văn của học sinh chỉ để phục vụ cho thi để qua cầu tốt nghiệp nên các em chỉ học những gì liên quan đến thi và giáo viên cũng chỉ dạy những gì nằm trong khung chương trình thi. Số lượng học sinh yêu thích học văn ít, đam mê viết lách hầu như không có. Nháp tính bài toán là điều bình thường còn nháp văn, viết văn thành nhu cầu muốn viết được viết như lập dị. 9
  10. Thói quen đọc sách ở học sinh hầu như không có, ngay cả sách giáo khoa học sinh cũng đọc qua quýt, thậm chí không đọc theo hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên trước khi học bài mới. Đề thi các năm, phần điểm đọc hiểu có nhiều câu mang tính cho điểm, khuyến khích điểm, đẩy điểm đại trà lên cao. Phần nghị luận xã hội rất rõ vấn đề, học sinh viết đại khái thành đoạn là có điểm, nghị luận văn học đơn điệu lặp đi lặp lại kiểu đề và số lượng văn bản. - Nguyên nhân chủ quan: Về phía giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống, có đổi mới song chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi sâu vào thực chất nhằm giúp khai thác kiến thức một cách có chiều sâu; việc hiểu hết bản chất của nhóm năng lực chung và năng lực chuyên biệt ở môn Ngữ văn ở một vài GV vẫn còn hạn chế. Kiểm tra đánh giá học sinh nặng hình thức nhiều,… Về phía học sinh: Học sinh ở trường chủ yếu là học sinh vùng nông thôn, nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự phục vụ cho bài học còn hạn chế. Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học nên chưa đảm bảo các năng lực. Học sinh ngại học văn, ngại phải viết, học sinh chỉ học khi bắt đầu kiểm tra khảo sát chung, học thuộc lòng tài liệu và sau khi thi xong thì quên ngay. Kết luận chung: Dạy học văn khi áp dụng vào thực tiễn, do quán tính của lối dạy học phân tích tác phẩm, không ít giáo viên vẫn ghi trong giáo án là hướng dẫn học sinh đọc-hiểu văn bản nhưng lại dành phần lớn thời gian để nói lên cách hiểu của thầy và cách phân tích tác phẩm từ các sách hướng dẫn dạy học. Với phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, nếu người thầy không thấu hiểu một cách rốt ráo đó là phương pháp dạy học chống lại sự độc quyền trên hành trình chiếm lĩnh tri thức, là phương pháp chủ trương khai mở vấn đề trên “nguyên lý đối thoại” thì sẽ không khuyến khích được “những tiếng nói khác” từ phía học trò. Cuối cùng, tiếng nói quyền uy vang lên từ người thầy và các cuốn sách văn mẫu vẫn là tông giọng chủ đạo. Tiếp đó, thành tích ngắn hạn của nhà trường, của địa phương là một áp lực lớn để người thầy sử dụng các bài văn mẫu theo các khuôn khổ sáo mòn làm tài liệu học tập cho học sinh. Chừng nào không có phương thức để buộc người giáo viên Ngữ văn nhận thấy phải thường xuyên tự học, tự đọc để nâng cao trình độ, để ý thức sâu sắc những giới hạn tri thức của chính mình; chừng nào tâm lý học hành cử tử, học để đi thi chưa được quét sạch; chừng nào tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục giữa các địa phương, các nhà trường vẫn thông qua đối chiếu kết quả thống kê cuối những kỳ thi, thì lối dạy học áp đặt, việc người thầy nắm giữ độc quyền thông hiểu tác phẩm, vấn nạn văn mẫu vẫn khó có thể xóa b hoàn toàn. 3. Biện pháp dạy học Ngữ văn theo hƣớng phát triển năng lực nhằm khắc phục tình trạng dạy và học văn mẫu 10
  11. 3.1. Truyền lửa từ say mê, hứng thú của bản thân Uyliam Bato Dit từng nói: “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”. Nhất là đối với môn Ngữ văn, giáo viên muốn học sinh không quay lưng lại với môn học thì bản thân giáo viên dạy cũng phải trung thành yêu mến với nghề mình đã chọn. Để “truyền lửa” cho học sinh thì trong tim thầy cô cũng phải cần có “lửa”. Bởi bản chất của văn chương là đời sống tâm hồn, con đường đến trái tim phải xuất phát từ trái tim. Điều này đặt ra những năng lực chuyên biệt cần có của giáo viên văn. Giáo viên trở thành hình mẫu rất “văn”, học sinh yêu thích học văn như vì yêu cô/thầy dạy văn. 3.1.1. Lập trường tư tưởng, thái độ và hành động Giáo dục thời kinh tế thị trưởng, lập trường tư tưởng không vững vàng, không xác định rõ cuộc sống vật chất và đam mê bản thân rất dễ bị giao động tư tưởng mà quên đi “phút giây mà ta bắt đầu”. Lập trường, tư tưởng vô cùng quan trọng, văn giữa đời mong manh dễ vỡ nên rất cần văn nuôi lớn giữa đời để níu giữ con người để được là Con Người. GV dạy Ngữ Văn không cho phép nguội lạnh cảm xúc mỗi khi lên lớp, không được có những tư tưởng chán nản, buông b , mất niềm tin vào những giá trị cuộc sống, con người. Vậy nên, ngoài lý thuyết suông nói ở miệng là yêu trò, yêu nghề thì hãy hành động như những ngày đầu mà ta bắt đầu, nghiên cứu bài giảng, trăn trở phương pháp, không ngừng thói quen đọc sách mỗi ngày, hãy cầm bút viết bài với đề bài ra cho học sinh làm trước khi phát đề cho học sinh. “Cơm áo không đùa với khách thơ” vì bén duyên, tạo nghiệp nên có lẽ nói như Hộ trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao “tôi mê văn quá nên mới khổ. ấy thế mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng.” 3.1.2. Tôn trọng đối tượng học và tự trọng bản thân (từ trang phục, giọng nói, chữ viết, tiết chế cảm xúc ….) - nguyên tắc kỷ luật Tôn trọng nhân cách học sinh có nghĩa là phải coi học sinh là một cá nhân, một con người, một chủ thể với đầy đủ các quyền được học tập, vui chơi, nhận thức, lao động… với những đặc trưng tâm lý riêng biệt, họ được có quyền bình đẳng với mọi người trong các quan hệ xã hội. Trong quá trình giao tiếp hãy tạo điều kiện thuận lợi để đối tượng giao tiếp bộc lộ những nét tính cách, thái độ, nhu cầu, nguyện vọng… . Điều đáng lưu ý trong nguyên tắc này là giáo viên không nên áp đặt học sinh phải tuân theo ý của thầy, cô một cách duy ý chí. Tôn trọng nhân cách đối tượng, giao tiếp thể hiện ở phút ban đầu phải gây được ấn tượng tốt đẹp. Trong giao tiếp, giữa chủ thể giao tiếp với đối tượng giao tiếp có sự hiểu biết lẫn nhau, chủ thể giao tiếp biết lắng nghe ý kiến của đối tượng giao tiếp, dù đó là đúng 11
  12. hay sai thì cũng không cắt ngang hay t thái độ không vừa lòng để học sinh sợ hãi mà không tiếp tục cuộc đối thoại, không bày t hết nguyện vọng của mình. Biểu hiện của sự tôn trọng trong dạy học: Sự tử tế, nhã nhặn với học sinh. Hãy cư xử với trò như những gì mà ta muốn nhận lại được. Đó là biểu hiện đầu tiên của sự tôn trọng trong giáo dục. Khi biết quan tâm đến cảm nhận của trò thì giáo viên sẽ tự biết cách điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp nhất. Đôi khi chỉ những hành động nh cũng khiến người khác ấm lòng và nhận rằng họ được bạn coi trọng. Đây là điều mấu chốt để gắn kết giáo viên với học sinh và tạo ra môi trường học tập tốt hơn. Không phân biệt đối xử. Hãy cảm ơn trò vì chúng mà mình mới được là cô là thầy. Tất cả mọi trò đều đáng nhận được sự tôn trọng. Cho dù trò học tốt hay học chưa tốt, hoàn cảnh sống khác nhau …, tất cả đều nên được đối xử với thái độ như nhau. Trong giao tiếp, thầy cô giáo luôn động viên khích lệ tinh thần các em. Trong học tập, thầy, cô giáo đừng khi nào nghĩ là học sinh của mình học kém, đạo đức tồi, là học sinh cá biệt… Cho dù học sinh đó có kém thật đi chăng nữa, đạo đức thuộc vào diện có vấn đề đi, thì thầy, cô giáo vẫn nên nghĩ rằng đó là những nét tính cách chưa được hoàn thiện và nó chỉ biểu hiện trong thời gian ngắn và nhất định những học sinh này sẽ trở thành người tốt về mọi mặt. Do đó thầy, cô giáo không nên quát mắng học sinh là: “Dốt nát, ngu như lợn…”. Thực chất những lời nói trên là thể hiện sự thiếu thiện chí, sự bất lực của giáo viên đối với học sinh. Đó là điều cấm kỵ trong giao tiếp sư phạm. Có niềm tin vào trò. Nhà giáo dục học nổi tiếng V.A.Xukhomlinxki đã khuyên rằng cần phải tin tưởng ở con người, vì đó là cái tha thiết nhất đối với con người. Cần gìn giữ nó, chống lại sự nghi ngờ lạnh nhạt của tính nghi ngờ lạnh nhạt.Trong những hoàn cảnh khó khăn, lòng thành thực, thái độ chân thành và cởi mở của nhà giáo hết sức quan trọng. V. A. Xukhômlinxki cũng nhắn nhủ giáo viên rằng nếu nghi ngờ một điều gì đó, cứ nói thẳng, đừng để sự nghi ngờ lại trong lòng, nhất là sự nghi ngờ trẻ em, vì đối với nhà giáo, đó là gánh nặng rất nguy hiểm. Không lấy khuyết điểm của trò để chỉ trích. Nhân vô thập toàn, con người không ai là hoàn hảo, mỗi người đều có những cái hay cái dở của riêng mình. Khi giao tiếp, chúng ta không nên nhắc tới những yếu điểm của người khác để chỉ trích, nhắc lại những lỗi lầm hay đau khổ trong quá khứ của trò. Đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt, nhạy cảm, dế bị tổn thương, khi giao tiếp với chúng ta phải hết sức thận trọng “ muốn ăn mật đừng phá tổ ong”. Lắng nghe ý kiến của trò. Được lắng nghe và bày t ý kiến là một trong những nhu cầu của con người. Biết lắng nghe cũng là cách biểu hiện sự tôn trọng.Biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của trò không chỉ thể hiện sự hiểu biết, để cao trò và cả bản thân mình. Có như vậy hoạt động dạy học và giáo dục mới có thể dễ dàng, hài hòa và tốt đẹp. Khen ngợi những ƣu điểm. Một chuyên gia tâm lý nói: Cái vốn quý nhất của chúng ta là năng lực kêu gọi được lòng hăng hái của mọi người. Chỉ có khuyến 12
  13. khích và khen ngợi mới làm phát sinh và gia tăng những tài năng quý nhất của mình mà thôi. Nhà tâm lí học Emerson nói: Đừng tiếc những lời cảm ơn và khuyến khích! Những lời nói đó, ít lâu sau ta có thể quên đi, nhưng những người được ta khen tặng sẽ hoan hỉ và luôn nhớ tới. Con người ai cũng thích được khen ngợi những điểm mạnh, những điều tốt đẹp họ đã làm. Nếu được nhận những lời khen chân thành thì ai cũng cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy mình có giá trị, và hữu ích, và cũng cảm thấy cảm mến người trao tặng lời khen. Trong dạy học, chúng ta hãy tinh tế phát hiện ra những điểm mạnh dù chỉ là nh ở trò. Trên cơ sở đó hãy đưa ra những lời khen chân thành, kịp thời. Đừng quá quan tâm hay chỉ trích những điểm yếu, điểm hạn chế. Ai cũng có điểm mạnh và điểm yếu, những lời khen chân thành sẽ giúp trò có thêm động lực để phát huy những điểm mạnh. Hãy luôn nhớ: lời khen thường dễ nghe những lời chê, lời chỉ trích lại thường khó chấp nhận- “Muốn ăn mật đừng phá tổ ong”(Đắc nhân tâm). Đặt bản thân vào vị trí của trò. Giáo viên biết đặt vị trí của mình vào vị trí của trò, phác hoạ chân dung tâm lý trò, khi giao tiếp bao giờ cũng tự mình trả lời được câu h i “nếu mình ở vị trí học sinh thì sẽ như thế nào”. Thầy, cô giáo biết sống trong niềm vui, nỗi buồn của các em, biết đặt vị trí của thầy, cô vào vị trí của học sinh khi tiếp xúc, khi giải quyết các tình huống sư phạm. Có như vậy giáo viên mới có thể cùng rung cảm với học sinh, quan tâm đến học sinh, hiểu hoàn cảnh của từng học sinh. Trong quá trình tiếp xúc, giáo viên biết mỉm cười thân mật, biết buồn cùng với học sinh. Sự biểu hiện đó được thể hiện trong ngôn ngữ; trong thái độ thiện cảm, dịu dàng ngay cả lúc cần kiên quyết dứt khoát. Và khi giao tiếp, giáo viên không nên gây căng thẳng trong tâm trí học sinh qua mỗi lần giao tiếp. Sau mỗi lần tiếp xúc, nên tạo cho các em một niềm vui mới, một khát vọng muốn tiếp xúc với thầy, cô giáo. Lòng tự trọng bản thân. V. A.Xukhimlinxki đã viết “Hãy kính trọng những ưu điểm của người khác. Hãy làm cho người khác những cái như anh muốn để những người khác làm như thế cho anh”. Một điều kiện rất quan trọng trong giao tiếp là tôn trọng nhân cách của đối tượng giao tiếp ý thức này được thường trực trong mỗi thầy, cô giáo. Phải chăng sự tôn trọng các em chính là tôn trọng mình, chính nghề nghiệp của mình. Hay nói cách khác đó là lòng tự trọng. Tôn trọng nhân cách học sinh còn được thể hiện ở trang phục của giáo viên: trang phục thể hiện tính lịch sự, vì vậy trang phục cần hài hòa, cân xứng với vóc dáng, (màu da, điệu bộ, lời nói…). Sử dụng ngôn ngữ nói: từ giọng điệu, cách phát âm, việc sử dụng từ sao cho đảm bảo tính văn hóa. Bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được xúc phạm đến danh dự, tổn thương đến phẩm giá của học sinh. 13
  14. Hành động của thầy, cô trong tiếp xúc với học sinh cũng phần nào thể hiện sự tôn trọng nhân cách của họ, hành động đập bàn, cau mày nhăn trán, nghiến răng… đều biểu hiện sự thiếu tôn trọng, thể hiện một hành vi thiếu văn hóa. Chữ viết: “ Nét chữ là nết người”, môn Ngữ văn là môn duy nhất trong khi thi THPT thi tự luận, ngoài yêu cầu về nội dung bài thi còn yêu cầu về hình thức chính là nét chữ, chính tả, cách trình bày … của thi sinh. Vậy nên trước khi yêu cầu trò thì chính bản thân giáo viên là người thực hiện đầu tiên, làm gương, làm chuẩn mực. Chữ viết trên bảng có thể không đẹp nhưng phải rõ ràng, dễ đọc, phê vào bài làm của học sinh không được cẩu thả, tưởng minh trong góp ý sửa bài cho học sinh. Giữ chữ tín. Chữ tín hay có thể nói là lời hứa của giáo viên với học sinh. Hứa sẽ cộng điểm, hứa sẽ kiểm tra, hứa sẽ trả bài, hứa sẽ …., chúng ta càng phải thận trọng và giữ lời khi hứa với những trò, nếu không muốn làm mất đi lòng tin và sự tôn trọng của chúng. Trong giảng dạy, giáo dục chữ tín vô cùng quan trọng, đã nói là phải làm, đã hứa là phải thực hiện không được nói suông….. 3.1.3. Năng lực chuyên môn Đứng trước yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới ở môn ngữ văn, người giáo viên (GV) cần tự trang bị cho mình rất nhiều hiểu biết, tri thức, năng lực, kỹ năng. Bên cạnh nhận thức một cách thấu đáo về bản chất của dạy học phát triển năng lực người học, người GV phải tự trang bị những năng lực thiết yếu để đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giảng dạy ngữ văn mới. “Người GV có năng lực sư phạm là người biết vận dụng một cách thành thạo những kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm và những hiểu biết tổng hợp có được không chỉ trong nhà trường mà cả kinh nghiệm từ cuộc sống để giúp người học đạt kết quả một cách tốt nhất”. Đó là một GV phải thực sự là người đọc, người nói, người viết, người nghe tích cực, chủ động, có khả năng tự nghiên cứu chuyên môn, có hiểu biết, đặc biệt là sự độc lập, sáng tạo, tinh tế, nhạy cảm, có chất văn. Trong bối cảnh hiện nay, theo tôi, bên cạnh những năng lực chung, GV môn ngữ văn cần bồi đắp 3 năng lực chuyên môn sau đây: 3.1.3.1. Năng lực cảm thụ th m mỹ Thứ nhất, năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Có lẽ không ai nghi ngờ về sự đòi h i năng lực này ở GV môn ngữ văn. Từ trước đến nay, mọi người đều dễ thống nhất ở quan niệm, dạy văn học là dạy một bộ môn có tính nghệ thuật nhằm đánh thức những rung cảm thẩm mỹ tinh tế, bồi đắp khả năng cảm thụ cái đẹp trong văn học cho HS. Chương trình môn học này đã có những thay đổi theo từng thời kỳ, song loại văn bản nghệ thuật (thơ, truyện, ký, kịch) bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Thực tế ở bậc THPT, dù HS có thiên hướng nghề nghiệp khác nhau nhưng những rung cảm thẩm mỹ vẫn là yếu tố không bao giờ vắng bóng trong đời sống thường nhật của mỗi con người. Có những GV đã ghi được dấu ấn rất sâu trong tâm hồn HS qua những giờ dạy văn chính nhờ điều này. Muốn bồi đắp say mê cái đẹp cho HS, dĩ nhiên người GV cần có năng lực cảm thụ thẩm mỹ dồi dào. Năng lực ấy 14
  15. biểu hiện ở trực giác bén nhạy, ở những rung cảm sâu sắc, ở khả năng phân tích cái đẹp của hình tượng nghệ thuật và các hình thức biểu hiện của nó. Trước một áng thơ hay, một cuốn truyện hấp dẫn, một vở kịch đặc sắc, nếu người GV hoàn toàn thờ ơ lãnh đạm thì làm sao có khả năng đánh thức ở HS niềm say mê hứng thú về cái đẹp của văn chương. Không thể đòi h i GV phải là người nghệ sĩ nhưng tâm hồn của một GV môn ngữ văn thì nhất thiết phải có chất nghệ sĩ. 3.1.3.2. Năng lực ngôn ngữ Thứ hai, năng lực ngôn ngữ. Theo đó, ngôn ngữ chung là công cụ của người GV. Tuy nhiên đối với họ, tiếng Việt không chỉ là phương tiện dạy học mà còn là tri thức cần nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo. Năng lực ngôn ngữ phải là năng lực đặc thù của GV môn ngữ văn. Năng lực này thể hiện ở khả năng đọc hiểu văn bản vì đây là một năng lực chuyện biệt của môn ngữ văn. Năng lực đọc hiểu nói cho cùng chứa đựng trong nó hàng loạt “năng lực bộ phận” như năng lực nắm bắt cái mã riêng của văn bản, năng lực phát hiện thông tin chính yếu của văn bản, năng lực tư duy hệ thống, năng lực cắt nghĩa - lý giải các tầng bậc ý nghĩa của văn bản, năng lực đối thoại. Để có khả năng đọc hiểu văn bản, GV phải có được một năng lực ngôn ngữ ngày càng hoàn thiện, nhờ đó, thầy cô có thể hoàn thiện khả năng nói và viết của mình. Muốn vậy, GV phải tự bồi dưỡng bằng nhiều cách: hướng dẫn HS giải quyết những đề đọc hiểu trong các tài liệu khác nhau, tự kiểm tra khả năng giải mã các văn bản nghệ thuật mới mẻ ngoài chương trình. Nếu tiến hành thường xuyên những “bài tập” kiểu này chắc chắn trình độ cảm thụ thẩm mỹ và năng lực ngôn ngữ của GV sẽ được nâng lên rõ rệt. Một trong những “công cụ” của GV là lời nói. Công cụ này có sắc bén thì dạy học mới có hiệu quả, đặc biệt đối với môn ngữ văn. Dù các phương pháp khác được đề cao những phương pháp diễn giảng vẫn không bị khai tử. Dù lấy HS làm chủ thể nhưng không thể hình dung một giờ dạy học lại thiếu sự điều hành của GV thông qua phương tiện ngôn ngữ. Đối thoại và tổ chức đối thoại cũng là năng lực cơ bản của GV môn ngữ văn. Trước hết, GV cần tạo không khí dân chủ thật sự trong hoạt động dạy học. Theo đó, GV nên đóng vai trò là “người tham dự - chia sẻ” trong lớp học, tạo quan hệ bình đẳng với HS trên con đường đi tìm chân lý khoa học cũng như chân lý đời sống. Ngoài việc nắm chắc, đúng, tốt ngôn ngữ tiếng Việt, để tiếp cần với văn bản văn học nước ngoài như văn học Trung Quốc, văn học Mỹ, văn học Anh, văn học Pháp giáo viên không ngừng học tập, tìm tòi và tra từ điển để giải mã những ngôn ngữ Hán Việt, Anh ngữ … 3.1.3.3. Năng lực kích thích khả năng tư duy và khả năng phản biện của học sinh Thứ ba, năng lực kích thích khả năng tư duy và khả năng phản biện của HS. Trong hệ thống các môn khoa học xã hội, môn ngữ văn đặc biệt thuận lợi cho việc trình bày những ý kiến riêng của HS. Tinh thần phản biện của HS thể hiện rất đa dạng, nhất là khi GV chú trọng đến hoạt động đối thoại. Nếu phản biện là sự thể hiện rõ rệt năng lực tư duy của HS thì kích thích khả năng phản biện lại là một 15
  16. năng lực sư phạm quan trọng của GV môn ngữ văn. Trong chương trình mới, những vấn đề văn học và đời sống đều gợi mở nhiều cách cảm nhận, đánh giá khác nhau. HS có thể tiếp cận nhiều luồng thông tin, nhiều nguồn tri thức. Vì thế, kích thích khả năng phản biện phải đi đôi với sự định hướng tư duy và nhận thức. Những gì các em tiếp thu hôm nay trong nhà trường sẽ được kiểm chứng gắt gao và rất nhanh ở đời sống xã hội cũng như ở bậc học kế tiếp. Đây là những thử thách không nh đối với trình độ và bản lĩnh của GV môn ngữ văn. 3.2. Một số phương pháp rèn luyện tư duy học văn giúp học sinh đổi mới phương pháp học Giáo viên đổi mới phương pháp dạy, nhưng học sinh không đổi mới phương pháp học thì kết quả không thay đổi và ngược lại. Vì thế song song với nhận thức và hành động đổi mới của giáo viên thì giáo viên cần định hướng một phương pháp học tập phù hợp cho trò. Những phương pháp r n luyện tư duy học văn giúp học sinh có hứng thú, chủ động đến với môn học. 3.2.1. Phương pháp rèn luyện tư duy học văn 3.2.1.1. Thời gian học: Thói quen sinh hoạt, học tập phải được hình thành ngay từ khi còn nh và hãy cố gắng tìm ra những "khoảnh khắc vàng" của bộ não và để dành chúng cho những công việc đòi h i tư duy nhiều nhất. Hãy dành một thời gian tối thiểu trong ngày cho việc học tập theo phân môn. Thời gian nào học thuộc môn sử tốt nhất, làm toán hiệu quả nhất và học văn sáng suốt nhất, viết văn lắng đọng nhất. Và bắt tay vào thực hành thường xuyên.Việc thực hành thường xuyên trên một số lĩnh vực đã khiến khả năng nhận thức và trí nhớ làm việc tốt … mặt khác khi tiếp xúc với kiến thức mới hoặc bắt đầu một công việc trí tuệ, hãy cố gắng gạt b ra kh i đầu mọi vấn đề khác không liên quan. Nên tạo ra một môi trường thuận lợi: Đóng cửa phòng, tắt điện thoại, yêu cầu người khác không làm phiền.. Tạo ra khoảng thời gian cố định cho việc làm bài tập về nhà sau giờ học. Tập thói quen làm bài tập về nhà sớm hơn sẽ giúp r n luyện kỹ năng lập kế hoạch. Đừng để bản thân đợi đến 11 giờ đêm vào tối Chủ nhật để bắt đầu một báo cáo về cuốn sách mà bắt đầu nghiên cứu từ một tuần trước đó. Khi ấy, bản thân sẽ trở thành một người trì hoãn mất kiểm soát và chẳng ai mong muốn điều này. Vì vậy, hãy bắt đầu các kỹ năng lập kế hoạch và quản lý thời gian ngay từ sớm, sẽ gặt hái được nhiều lợi ích. Đặt ra quy tắc. Các quy tắc là xương sống của một cá nhân trong mọi hoạt động học tập. Các quy tắc được đặt ra rõ ràng, bởi chưa thể là một người có kỷ luật khi không có một luật lệ nào để làm theo. Đặt ra các quy tắc rõ ràng như không sử dụng điện thoại khi đang học, không ỷ lại tài liệu trước khi suy nghĩ để làm bài, không chép văn mẫu … v.v. có thể giúp bản thân hiểu về khuôn khổ tự do của bản thân. Điều này giúp phát triển khả năng kiểm soát mong muốn, những điều gì được mong đợi. Thời gian đi liền với quy tắc sẽ lập trình cho các bước thành công. 3.2.1.2. Nói to suy nghĩ: 16
  17. Nói to suy nghĩ là một trong những phương pháp quan trọng, có tính chiến lược để giúp HS hình thành được kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Nói to suy nghĩ là cách thức nói to những suy nghĩ trong quá trình tư duy khi thực hiện một kỹ năng nào đó để người học có thể quan sát quá trình tư duy và học theo, từ đó hình thành được kỹ năng cần học. Nói to suy nghĩ cách thức tư duy để lựa chọn cách mở đầu bài nói ấn tượng, lôi cuốn được người nghe. Hoặc dùng nói to suy nghĩ để làm mẫu kỹ năng nghe và ghi chép. Nói to suy nghĩ sau khi thực hiện sản phẩm để tái hiện lại cách thức HS tư duy. Chẳng hạn: Em dựa vào căn cứ nào để có được kết luận này? Em đã có những suy luận nào để dẫn đến kết luận này? Ở kết quả đọc này, em hãy trình bày lại cách thức em suy nghĩ khi thực hiện kĩ năng đọc… Nói to, rõ ràng mạch lạc sẽ viết tốt và viết được nhanh và ngược lại. Nói to, dám nói trước tập thể lớp đông …. tư duy phản biện tốt. 3.2.2.3.Viết ra những gì chợt đến trong đầu ….. Văn chương nhiều lúc ta ép mình vào khuôn khổ, “kỷ luật” lại không có cảm xúc, phát hiện vấn đề lại khuôn mẫu cứng nhắc. Thế nhưng có những phút bất chợt rung cảm của tâm hồn khi chạm vào cuộc sống ta lại có những tư duy, tưởng tượng vô cùng sống động. Những giây phút đó nó chợt đến, như một tia chớp rồi tan đi như đám mây chiều nếu không được ghi chép lại. Vây nên luôn luôn mang theo sổ và bút, hoặc bất cứ phương tiện nào giúp ta ghi lại những gì nhìn thấy, nghe thấy mà ta cho là quan trọng hoặc những ý tưởng chợt đến. Hơn 99% những điều này có thể là vô dụng, nhưng 1% còn lại sẽ khiến bạn trở thành thiên tài. Đừng ngại thể hiện quan điểm riêng khi viết, hãy cứ viết nếu các em nghĩ là sáng tạo, là điểm riêng của cá nhân trong phong cách hành văn. Điều đó giúp các em có được một bài viết nổi bật, không trùng lặp với người khác. Khả năng sử dụng ngôn ngữ thêm phong phú hơn. 3.2.2.4. Tổ chức các trò chơi trí nhớ. Những trò chơi r n luyện tư duy và trí nhớ có thể giúp phát triển các kỹ năng điều hành. Trí nhớ là một trong mười kỹ năng điều hành hàng đầu. Học sinh cũng có thể chơi các trò chơi sắp xếp, trốn tìm và các trò chơi cần đồng đội. Những loại hoạt động này cũng có thể giúp ghi nhớ và phát triển các kỹ năng quản lý khác (như lập kế hoạch, tổ chức, tạo động lực). Nghe nhạc, hát những bài hát trong trí nhớ, xem nhanh các thông tin thời sự, … cũng rất hữu ích trong việc phát triển trí nhớ hình thành phẩm chất năng lực học tập tốt, nhất là nguồn cảm hứng để đến với văn chương nghệ thuật.. 3.2.2. Phương pháp học tập hiệu quả 3.2.2.1. Tự tạo đam mê, cảm xúc, tâm thế tiếp nhận tích cực về môn học. Tâm lý là một yếu tố quan trọng giúp các bạn có thể học tốt các môn. Nếu học sinh có hứng thú với môn học nào đó thì đương nhiên sẽ dành nhiều thời gian hơn, vậy thì môn học đó sẽ có kết quả học tập tốt. Ngược lại nếu không hứng thú hay chán nản sẽ không học được. Vì không giống các môn Tự nhiên như: Toán Lý Hóa 17
  18. Sinh, một khi đã mất căn bản thì rất khó để tiếp thu và học tiếp chương trình. Nhưng với môn Văn thì chỉ cần trong các em có một tình yêu văn chương công một chút siêng năng là có thể giải quyết môn học này một cách dễ dàng. Khi có cảm xúc, các bạn sẽ hòa mình vào tác phẩm, vào nhân vật để cảm nhận và triển khai các ý mà các bạn nắm được. Học với tâm trạng thoải mái, không gượng ép bản thân,kết quả học tập vô cùng lớn. Học với niềm đam mê, hứng thú sẽ giúp các bạn thoải mái, tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và mau thuộc nhất. Cảm xúc tốt,tâm thế tiếp nhận tích cực tăng khả năng viết văn bản của chúng ta rất nhiều. Ban đầu viết bản thân tập thói quen, về sau viết như là nhu cầu không viết không được. 3.2.2.2. Đọc – hiểu, tái hiện nội dung từ dễ đến khó, từ đơn giản đến nâng cao theo logic tư duy (có thể bằng sơ đồ tư duy, …) Hoạt động đọc - hiểu. Điều quan trọng ở đây các bạn phải tìm được nội dung chính trong tác phẩm, sau đó hãy tự mình triển khai các ý để phân tích sâu hơn khi viết bài. Các bạn đừng học theo cách đọc thuộc từng câu chữ và trả bài. Đó là cách học vô cùng thụ động và tốn thời gian, không hiệu quả, khiến chúng ta không sáng tạo được nội dung để triển khai các ý trong bài viết. Điều mấu chốt là các bạn phải học và nắm được nội dung chính của tác phẩm, nên dành một khoảng thời gian nhất định mỗi ngày để đọc tác phẩm. Ví dụ dành 30 phút đến 1 tiếng để đọc. Khi đọc hãy có cảm xúc chứ đừng đọc theo kiểu học vẹt hoặc thuộc lòng. Đây là một cách rất hiệu quả để có thể ghi nhớ các nội dung của các tác phẩm văn học. Khi cần tới thì câu chữ, ý nghĩa, nội dung luôn trôi chảy trong đầu và có thể sử dụng vốn tri thức, hiểu biết bất cứ lúc nào. Đọc - hiểu bằng sơ đồ tư duy là một biện pháp lưu nhớ hiệu quả và ghi nhớ tri thức lâu dài. 3.2.2.3. Đọc, học sách mẫu, sách tham khảo một cách thông minh. Khi được phong là người khổng lồ trong giới khoa học nhà bác học Niu tơn nói: “ Tôi không phải là người khổng lồ, tôi nhìn xa hơn người khác vì tôi biết đứng trên vai người khổng lồ” …..Sách tham khảo, những bài văn “mẫu” - những bài văn đạt giải quốc gia … là nguồn tài liệu vô cùng có ý nghĩa giúp cho quá trình học tập tốt. Phát huy được vai trò của sách tham khảo hay không nó hoàn toàn phụ thuộc vào cách tiếp nhận và sử dụng thông minh của học sinh. Ví dụ: Sách học tốt văn, là sách gợi ý cho học sinh học bài, thế nhưng học sinh dùng nó để soạn bài đối phó với giáo viên, nên học sinh lãng phí thời gian cũng như vật chất khi ngồi chép như một người đánh văn bản, nhìn mặt chữ để viết theo thói quen, chép xong rồi bản thân không biết mình chép gì. Thậm chí học sinh không đọc yêu cầu từ sách giáo khoa. Hay khi giáo viên yêu cầu viết bài văn thì học sinh chép theo văn mẫu, dù đó là đề gì hay yêu cầu gì thì cũng cứ chép theo một mẫu. Giáo viên yêu cầu cảm nhận đoạn văn sau( Đoạn văn Ông đò …. ) thì chép nguyên bài văn mẫu phân tích nhân vật ông đò qua tác phẩm Người lái đò sông Đà. Đây là một vấn nạn, theo 18
  19. kiểu “học con rận”. Vậy việc thiếu đi thói quen đọc hiểu nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc. Sử dụng sách tham khảo thông minh chính là quá trình đọc - hiểu sách tài liệu. Nhưng văn mẫu không phải chỉ để chép đối phó với bài tập về nhà hay những bài kiểm tra trên lớp. Chúng cũng là một trong những phương pháp học tập hiệu quả môn Ngữ văn. Trước hết, các bài văn mẫu cũng giúp em học tập cách triển khai luận điểm rõ ràng. Đây đều là những bài văn có dàn ý chuẩn chỉnh, đúng như barem điểm, đảm bảo đủ luận cứ, luận chứng. Do đó, em sẽ nắm được trình tự trình bày ý chính, cách viết các ý phụ sao cho mạch lạc Tiếp theo, không chỉ đảm bảo viết đúng và đủ ý mà những bài văn mẫu có cách viết trôi chảy. Thế nên em hãy thường xuyên đọc để có được cách viết văn “mượt mà” nhé. Đọc nhiều các bài văn được điểm cao là phương pháp học tập hiệu quả giúp em hình thành được lối tư duy văn học, tăng vốn từ, hiểu được cách viết câu văn sao cho hấp dẫn, thu hút người đọc Cuối cùng là những bài văn mẫu thường có rất nhiều liên hệ văn học phong phú. Bao gồm các trích đoạn thơ, lời phê bình văn học, châm ngôn,… Thường xuyên đọc văn mẫu sẽ giúp em nhớ được các liên hệ văn học một cách rất tự nhiên mà không cần học thuộc vất vả. Từ đó dễ dàng áp dụng vào các bài văn một cách trôi chảy. Một bài văn có nhiều liên hệ văn học chất lượng, thú vị chắc chắn sẽ được người chấm bài đánh giá rất cao. Đọc hiểu thông minh không chỉ là hiểu thông tin, mà phải đào sâu, mở rộng và ghi nhớ nội dung tài liệu lâu dài để đạt được cần tuân thủ theo quy tắc: Quy tắc 1: Chọn nguồn tài liệu( tác giả sách, nhà xuất bản …) Quy tắc 2: Đọc - hiểu nội dung tài liệu, tóm tắt nội dung bài văn mẫu Quy tắc 3: Xác định cấu trúc, bố cục cách triển khai các bước của bài văn mẫu Quy tắc 4: Nhận diện cách dẫn dắt, cách chuyển luận điểm, trích dẫn nguồn tư liệu … bản thân có thể học tập được Quy tắc 5: Xác định nội dung đề bài yêu cầu thực hiện với nội dung đề bài trong văn mẫu giống và khác nhau như thế nào, những gì cần học từ văn mẫu những gì không. Quy tắc 6: Văn mẫu chỉ là nguồn tài liệu để tham khảo trước khi làm bài không phải khi làm bài vừa xem vừa nhìn vừa viết. Quy tắc 7: Khi thực hiện bài viết gấp hết sách tài liệu, văn mẫu … làm bài bằng tư duy logic và cảm xúc văn thực thụ. 3.2.2.4. Đọc thêm nhiều tác phẩm văn học bên ngoài chương trình Trong giới hạn dung lượng của chương trình Ngữ văn phổ thông, giáo viên Ngữ văn chỉ có thể giảng kỹ càng về một đoạn trích của tác phẩm. Còn lại, với toàn văn của tác phẩm hoặc những tác phẩm văn học khác có liên quan, học sinh phải tự tìm đọc 19
  20. Nếu muốn nâng cao trình độ Ngữ văn của mình, phương pháp học tập hiệu quả là hãy tìm đọc toàn bộ tác phẩm được trích trong sách (với các đoạn trích). Hoặc đọc thêm cả những tác phẩm khác của chính nhà văn nhà thơ ấy. Ví dụ, khi học về truyện ngắn Chí Phèo của tác giả Nam Cao, các em có thể tìm đọc thêm cả tuyển truyện ngắn Nam Cao: Lang rận, Một bữa no, Lão hạc, Đời thừa, … Khi học về đoạn trích Đất nước trong chương trình Ngữ văn lớp 12, em hãy đọc cả trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Học Vợ chồng A Phủ cần đọc phần hai của tác phẩm và tìm đọc truyện Mường Giơn, C u đất c u mường. Khi học Chiếc thuyền ngoài xa không thể không đến với truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 qua truyện Bến quê, Dấu chân người lính, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành …Đây là một yêu cầu rất chính đáng để học tốt môn văn và cũng là yêu cầu để đổi mới theo chương trình giáo dục phổ thông mới. Trong đề kiểm tra giáo viên có thể sử dụng ngữ liệu ngoài sách giáo khoa cho bài tập đọc hiểu. Giáo viên lên lớp tiết học tự chọn rất nên đưa những văn bản này vào giới thiệu và hướng dẫn đọc hiểu. Đọc thêm nhiều tác phẩm văn học bên ngoài chương trình trước hết duy trì thói quen đọc các tác phẩm văn học lớn sẽ giúp em nâng cao vốn từ và biết cách cảm thụ văn học một cách tự nhiên. Bên cạnh đó, khi đọc toàn bộ tác phẩm, em sẽ có được cái nhìn sâu sắc hơn về nội dung và ngấm tác phẩm hơn rất nhiều. 3.2.2.5. Viết văn vừa cảm xúc vừa lý trí, có cá tính. Môn Ngữ văn là môn học giao thoa giữa nghệ thuật và khoa học, vừa đòi h i tính chính xác vừa đòi h i tính nghệ thuật - thẩm mỹ, Văn học là sáng tạo, các bạn hãy học, viết bằng cảm xúc, tâm hồn của mình thay vì đi ăn cắp chất xám của người khác. Các bạn hãy cứ thể hiện suy nghĩ, cảm nhận, hiểu biết của mình qua bài viết một cách chân thực. Viết văn là một quá trình khổ nhục như con tằm rút ruột nhả tơ, là quá trình đồng sáng tạo cùng tác giả vậy nên không thể coi nhẹ cảm xúc cũng không thể chỉ đề cao lỹ trí mà cần có một tư duy mạch lạc theo một hình thức kết cấu của văn bản. Viết văn ban đầu là tạo thói quen sau thói quen nó sẽ trở thành nhu cầu không viết không được và lúc đó bạn đã hoàn toàn làm chủ được hoạt động viết. Nói to suy nghĩ, viết những gì chợt đến trong đâu, sau đó hãy dùng lý trí tư duy định hình, sắp xếp lại hợp lý bắt đầu viết. Để có kỹ năng này cần có thói quen đọc sách, phát triển ngôn ngữ từ nh , nắm vững từ vựng, hiểu nghĩa của từ,..... 3.3. Vận dụng linh hoạt một số phương pháp và chiến thuật dạy học tích cực phù hợp cho từng phân môn (Tiếng Việt, làm văn, đọc văn) Để khắc phục tình trạng dạy học nặng về thuyết giảng, đọc chép, và yêu cầu thuộc lòng văn mẫu, giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Không có phương pháp dạy học nào là vạn năng, giữ vị trí độc tôn trong dạy học, cần phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học, chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy học thì đó 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1