![](images/graphics/blank.gif)
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT
lượt xem 4
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giáo dục học sinh hình thành các kĩ năng sống cần thiết, linh hoạt xử lí các tình huống trong cuộc sống; Giúp học sinh có kiến thức cơ bản trong mọi hoạt động của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT
- SỞ GD & ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề Tài: “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO, HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT” Lĩnh vực: Kỹ năng sống Nhóm tác giả: Lê Tiến Hào - 0984.706.555 Phạm Thị Nga – 0978.247.326 Lê Thị Thao - 0969803535 Năm học: 2022 - 2023 1
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Trong những năm trở lại đây, khi phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được triển khai và hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp học, ngoài việc nâng cao chất lượng giáo dục, các đơn vị trường học ngày càng chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh phổ thông. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng, không thể thiếu của ngành giáo dục. Nghị quyết số 29- NQ/TW Ngày 4.11.2013 . Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, hướng nghiệp và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Mục tiêu giáo dục hiện nay là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN. Yêu cầu về nội dung giáo dục Trung học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Kỹ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến tri thức thành hành động, thái độ thành hành vi, kỹ năng để sống an toàn, khỏe mạnh, thành công và hiệu quả. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp. Đối với học sinh THPT - lứa tuổi tuy có sự chuyển biến rõ rệt về tâm lý, các em thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết về thế giới, có tính hiếu động, thiếu kỹ năng sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT là rất cần thiết, giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục kỹ năng sống được thực hiện qua nhiều con đường, trong đó hoạt động trải nghiệm sáng tạo có nhiều ưu thế để giáo dục kỹ năng sống. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT” với mong muốn, sẽ trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng sống cơ bản, chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống tự lập. 2. Mục đích nghiên cứu 2
- - Phát triển năng lực sáng tạo và tư duy tích cực cho các em học sinh. - Giáo dục học sinh hình thành các kĩ năng sống cần thiết, linh hoạt xử lí các tình huống trong cuộc sống. - Giúp học sinh có kiến thức cơ bản trong mọi hoạt động của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh THPT Quỳnh Lưu 2, từ đó đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. 4. Giả thuyết khoa học Nếu thực hiện được một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT thì sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lí luận về giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc tổ chức các biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT trên đia bàn Nghệ An. - Đề xuất các biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. 6. Phương pháp nghiên cứu - Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: đọc tài liệu nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài. - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp khảo sát điều tra... - Phương pháp thống kê toán học. 7. Đóng góp của Đề tài - Về mặt lí luận: Làm rõ hơn các nội dung liên quan đến các hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. - Về mặt thực tiễn: Đề tài đã đánh giá thực trạng, nguyên nhân, hiệu quả trong các hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh. Từ đó đưa ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hướng nghiệp cho học sinh THPT. 3
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống 1.1.1.1. Kĩ năng sống Thuật ngữ kĩ năng sống (KNS) bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những năm 1995-1996, thông qua Dự án "Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường" do Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục KNS gắn với các vấn đề giáo dục xã hội như: phòng chống ma túy, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, phòng chống tai nạn bom mìn, bảo vệ môi trường...Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học (PPDH) gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận KNS. Đặc biệt, rèn luyện KNS cho học sinh (HS) đã được bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong các trường Phổ thông giai đoạn 2008-2013. Vậy KNS là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về KNS: Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Theo UNICEF, KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ, kĩ năng. Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...; Học làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm (Learning to do) gồm kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đạt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,... Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội nếu cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, 4
- học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. KNS không phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục. KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì KNS phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa gia đình, cộng đồng, dân tộc. Như vậy, có thể hiểu KNS là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì trạng thái khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh; là khả năng phân tích tình huống và ứng xử các tình huống một cách hợp lí. Trong đó, KNS giúp chuyển dịch kiến thức “đã biết” với quá trình tư duy thành hành động thực tế để biết “làm gì và làm cách nào” là tích cực và hiệu quả nhất; là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của bản thân phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. 1.1.1.2. Phân loại kĩ năng sống Có nhiều cách phân loại KNS, tùy theo quan niệm về KNS. Ví dụ: Theo UNESCO, WHO và UNICEF, có thể xem KNS gồm các kĩ năng cốt lõi sau: Kĩ năng giải quyết vấn đề (proplem solving); Kĩ năng suy nghĩ/ tư duy phê phán (critical thinking); Kĩ năng giao tiếp hiệu quả (effective communication skills); Kĩ năng ra quyết định (decision - making); Kĩ năng tư duy sáng tạo (creative thinking); Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân (interpersonal relationship skills); Kĩ năng tự nhận thức/ tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị (selfawarenss building skills, incl self-awareness, self-esteem and self-confidence, ang values analysis); Kĩ năng thể hiện sự cảm thông (empathy); Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc (coping with stress and emotions). Trong giáo dục ở vương quốc Anh, KNS được chia thành 6 nhóm chính là: Hợp tác nhóm; 5
- Tự quản; Tham gia hiệu quả; Suy nghĩ/ tư duy bình luận, phê phán; Suy nghĩ sáng tạo; Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Trong giáo dục ở nước ta những năm vừa qua, KNS thường được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau: Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin... Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các KNS cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,... Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả, bao gồm các KNS cụ thể như: tìm kiếm và xử lý thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề... Cách phân loại KNS chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào một tình huống cụ thể, con người cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng khác nhau. Dù phân loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt lõi như kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giáo tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn tích cực, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đạt được mục tiêu... 1.1.1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông a. Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội Thực tế cho thấy có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng. Ví dụ: Nhiều người biết hút thuốc lá là có hại cho sức khỏe, có thể dẫn đến ung thư vòm họng, ung thư phổi...nhưng họ vẫn hút thuốc; Có những người là luật sư, công an, thẩm phán,...có hiểu biết rất rõ về pháp luật nhưng vẫn vi phạm pháp luật...Đó chính là vì họ thiếu KNS. Có thể nói KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại, người thiếu KNS thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Ví dụ người không có kĩ năng ra quyết định sẽ dễ mắc sai lầm hoặc chậm trễ trong việc đưa ra quyết định và phải trả giá cho quyết định sai lầm của mình; người không có kĩ năng ứng phó với căng thẳng sẽ hay bị căng thẳng hơn những người khác và thường 6
- có cách ứng phó tiêu cực khi bị căng thẳng, làm ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, học tập, công việc...của bản thân. Hoặc người không có kĩ năng giao tiếp sẽ khó khăn hơn trong việc xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, sẽ khó khăn hơn trong hợp tác cùng làm việc, giải quyết những nhiệm vụ chung,... Không những thúc đẩy sự phát triển cá nhân, KNS còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc thiếu KNS của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: nghiện rượu, nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc...Việc giáo dục KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục KNS còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong luật pháp Việt Nam và quốc tế. b. Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ Giáo dục KNS càng trở lên cấp thiết đối với thế hệ trẻ bởi vì: Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có KNS, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu mơ ước, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động...Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục KNS, thiếu KNS, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua như: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa, ngáo đá...chính là do các em thiếu những KNS cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng gải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp,... Vì vậy, việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm cho bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè, mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn và lành mạnh. c. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển của đất nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng. Nhiệm vụ đổi mới giáo dục đã 7
- được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, trong Luật Giáo dục năm 2005. Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo kho a phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) đã đề ra nhiệm vụ: Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Luật giáo dục năm 2005, Điều 2 đã xác định: Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, mục tiêu giáo dục phổ thông đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã được đổi mới theo hướng "phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên" (Luật giáo dục năm 2005, Điều 5). Giáo dục KNS cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông. Phương pháp giáo dục KNS, với các phương pháp và kĩ thuật tích cực như: hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, đóng vai, trò chơi, dự án, tranh luận, động não, hỏi chuyên gia, viết tích cực...cũng là phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. Như vậy, việc giáo dục KNS cho học sinh trong các nhà trường phổ thông là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. d. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới Hiện nay, có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở Tiểu học và Trung học. Việc giáo dục KNS cho học sinh ở các nước được thực hiện theo ba hình thức: KNS là một môn học riêng biệt. KNS được tích hợp vào một vài môn học chính. 8
- KNS được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong chương trình. Tuy nhiên, chỉ có một số không đáng kể các nước đưa KNS thành một môn học riêng biệt, ví dụ: Ma-la-wi, Căm-pu-chia,...Còn đa số các nước, để tránh sự quá tải trong nhà trường, thường tích hợp KNS vào một phần nội dung môn học, chủ yếu là khoa học xã hội như: giáo dục sức khỏe, giáo dục giới tính, quyền con người, giáo dục môi trường...Một số nước đã sử dụng tiếp cận "Whole School Approach" trong đó có hình thức xây dựng "Trường học thân thiện" nhằm thúc đẩy việc giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường. Từ những lí do đã trình bày ở trên có thể khẳng định, việc giáo dục KNS cho học sinh trong các trường phổ thông là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. 1.1.2. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo 1.1.2.1. Khái niệm Hoạt động TN sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu là hoạt động có động cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh, được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà trường. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua trải nghiệm thực tiễn, người học có được kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có được khi phải giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết vấn đề, ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có, hoặc nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự, độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng, tìm kiếm và phân tích được các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó, hay độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế và kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề. "Trải nghiệm" là phương thức giáo dục và "sáng tạo" là mục tiêu giáo dục, phải được làm rõ. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau: Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; 9
- Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; Năng lực định hướng nghề nghiệp; Năng lực khám phá và sáng tạo; Chính vì vậy đầu ra của hoạt động TNST khá đa dạng và khó xác định mức độ chung, nhất là khi nó lại luôn gắn với cảm xúc - lĩnh vực mang tính chủ quan cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa. 1.1.2.2. Mục đích ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm sáng tạo Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi trường… điều này giúp cho các nội dung giáo dục thiết thực hơn, gần gũi hơn với thực tế cuộc sống, giúp các em vận dụng vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. Mục đích chính: Hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nội dung: - Kiến thức thực tiễn gắn bó với đời sống, địa phương, cộng đồng, đất nước, mang tính tổng hợp nhiều lĩnh vực giáo dục, nhiều môn học; dễ vận dụng vào thực tế. - Được thiết kế thành các chủ điểm mang tính mở, không yêu cầu mối liên hệ chặt chẽ giữa các chủ điểm. Hình thức tổ chức: - Đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng... - Học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm - Có nhiều lực lượng tham gia chỉ đạo, tổ chức các hoạt động trải nghiệm với các mức độ khác nhau (giáo viên, phụ huynh, nhà hoạt động xã hội, chính quyền, doanh nghiệp,...). Tương tác, phương pháp: - Đa chiều - Học sinh tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Kiểm tra, đánh giá: - Nhấn mạnh đến kinh nghiệm, năng lực thực hiện, tính trải nghiệm. - Theo những yêu cầu riêng, mang tính cá biệt hóa, phân hóa 10
- - Thường đánh giá kết quả đạt được bằng nhận xét. Nếu mục tiêu chủ yếu của dạy học trên lớp là phát triển trí tuệ thì mục tiêu chủ yếu của hoạt động TNST là phát triển phẩm chất. Cụ thể là: hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại thông qua những trải nghiệm thực tiễn. Các chuyên gia giáo dục cũng khẳng định, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng trước khi áp dụng HĐTN là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong nhà trường. HĐTN được thực hiện bắt buộc từ lớp 6 đến lớp 12; ở trung học cơ sở và THPT được gọi là Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. Những hoạt động này mới chỉ diễn ra trong lớp học, trường học chưa diễn ra ở ngoài trường học. Hoạt động trải nghiệm thực tế đã có từ rất lâu trong các môn học, các hoạt động ngoại khoá sinh hoạt tập thể. Nhưng trên thực tế giáo viên và học sinh đã tiến hành các hoạt động đó mà chưa ý thức được sâu sắc về vai trò của nó với sự hình thành và phát triển phẩm chất năng lực cho học sinh, Trong các tiết học trải nghiệm ở chương trình mới một số giáo viên mới dừng lại ở kiến thức ứng dụng bài học vào cuộc sống, ứng dụng nội dung học tập vào thực tiễn qua Góc học cộng đồng của từng lớp. Học sinh ít được cùng giáo viên trải nghiệm thực tế ở ngoài trường học, chưa được chiêm ngưỡng các cơ sở sản xuất, chưa được tự mình tham gia vào các hoạt động cộng đồng như tiếp sức mùa thi, hoạt động nhân đạo, hành động vì môi trường… 1.2.2. Thuận lợi - Luôn được sự quan tâm, chỉ đạo, phối hợp của lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể các cấp trong môi trường giáo dục. - Tập thể sư phạm nhà trường đều có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao đối với công tác giáo dục KNS cho học sinh. Rất nhiều thầy cô giáo luôn trăn trở tìm các biện pháp để giáo dục KNS cho học sinh tốt hơn. - Phần lớn hội cha mẹ rất nhiệt tình và thường xuyên phối hợp, ủng hộ đến hoạt động giáo dục KNS cho học sinh của nhà trường. 11
- 1.2.3. Khó khăn * Về phía giáo viên - Trong khi tổ chức hoạt động giáo dục giáo viên chỉ tập trung khuyến khích cho học sinh hoạt động nhanh nhẹn hơn, có năng lực hơn, GV chưa biết cách kết nối các em lại với nhau, chưa hướng dẫn, chưa tạo cơ hội cho các em giao lưu học hỏi với nhau - Trong quá trình thực hiện hoạt động giáo dục KNS một số ít bộ phận hoặc cá nhân có liên quan chưa nhận thức đầy đủ về vị trí tầm quan trọng của công tác này * Về phía học sinh - Số lượng học sinh tham gia vào các sân chơi còn rất hạn chế vì các em còn rụt rè, chưa có được sự tự tin với bản thân mình. * Về phía phụ huynh - Một số ít phụ huynh chưa phối hợp chặt chẽ với giáo viên, đôi khi còn sợ con tham gia vào các hoạt động trải nghiệm sẽ mệt ảnh hưởng đễn học tập, chỉ muốn con tập trung vào việc học văn hoá mà quên việc rèn luyện KNS cho con. * Về phía nhà trường - Nguồn kinh phí của nhà trường còn hạn chế nên chưa đủ để tổ chức các hoạt động trải nghiệm lớn. 12
- CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM, HƯỚNG NGHIỆP CHO HS THPT 2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức, bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp cho đội ngũ giáo viên. Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong nhà trường. Hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh: tổng hợp được các kiến thức, kĩ năng của các môn học để vận dụng những kinh nghiệm đó vào thực tiễn đời sống gia đình, nhà trường và xã hội; giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực thích ứng với cuộc sống; giúp học sinh có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, phát triển đời sống tâm hồn phong phú, biết rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên và tình người, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với quê hương, đất nước, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc để góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam. Để giáo dục được KNS thông qua HĐTN thì trước hết, nhà trường phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ tổ trưởng chuyên môn, cập nhật kiến thức mới, phát triển một số năng lực tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp và qua đó yêu cầu đội ngũ này chỉ đạo giáo viên trong tổ của mình thực hiện nhiệm vụ. Chỉ đạo các tổ chuyên môn đưa nội dung hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp vào sinh hoạt chuyên đề hàng tháng. Thông qua các HĐTN, tổ trưởng tổ chuyên môn chỉ đạo cho giáo viên trong tổ đánh giá ưu điểm của từng hoạt động và những nội dung cần rút kinh nghiệm để có thể làm tốt các hoạt động trải nghiệm trong các giờ học tiếp theo. Bên cạnh hội đồng chuyên môn là các giáo viên cốt cán, nhà trường quan tâm cử giáo viên tham gia tập huấn về phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp để làm nòng cốt. Các hoạt động bồi dưỡng giáo viên về phương pháp dạy học theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp được tổ chức dưới hình thức các khóa bồi dưỡng theo chuyên đề, báo cáo viên là giáo viên của trường hoặc mời chuyên gia. Tổ chức hội thảo chuyên đề về hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp, có sự tham gia của đội ngũ Cán bộ quản lý, giáo viên và phụ huynh học sinh, đại diện các lực lượng giáo dục, chính quyền địa phương,… để giúp giáo viên và các lực lượng giáo dục có cơ hội trao đổi, chia sẻ, nâng cao nhận thức và kinh nghiệm tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải Kết hợp với chính quyền địa phương, cơ quan truyền thông trên địa bàn tuyên truyền về đổi mới giáo dục ở Trung học, về Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng để các lực lượng thấy rõ việc tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp ở trường Trung học sẽ giúp học sinh phát triển năng lực và phẩm chất theo mục tiêu giáo dục. 13
- 2.2. Biện pháp 2: Thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp cho học sinh. 2.2.1. Những yêu cầu cơ bản khi thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Để có một chương trình hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN tốt, giáo viên cần phải thiết kế nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp và mới lạ qua mỗi lần tổ chức thì mới lôi cuốn được học sinh tham gia. Như vậy yếu tố làm nên thành công của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN nằm ở yếu tố con người. Học sinh không thể tự tham gia các hoạt động mà hình thành các kĩ năng sống, rèn luyện nhân cách, kĩ năng được mà phải có sự định hướng của Giáo viên. Chính vì việc thiết kế bài bản các hoạt động là khau then chốt quyết định sự thành công của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Có thể chia hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN gồm 4 nhóm hoạt động chính, đó là: Hoạt động tự chủ (Thích ứng, tự chủ, tổ chức sự kiện, HN độc lập…); Hoạt động câu lạc bộ (Đoàn hội đội, văn hóa, văn nghệ, thể thao…); Hoạt động tình nguyện (Chia sẻ, quan tâm, nhân đạo, bảo vệ môi trường…); Hoạt động định hướng ( Tìm hiểu thông tin về hướng phát triển tương lai, tìm hiểu bản thân…). Tùy vào điều kiện thực tế có thể linh hoạt lựa chọn và tổ chức một cách linh động sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh, tuy nhiên khi thiết kế các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN, phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: - Học mà chơi: Các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cần chú trọng nhiều hơn đến việc tạo ra môi trường để học sinh tự trải nghiệm và lĩnh hội với sự hướng dẫn của Thầy cô giáo, thông qua những hoạt động tập thể sôi nổi, các em tích lũy được nhiều kỹ năng như làm việc nhóm, thuyết trình, lắng nghe, đến khả năng ứng xử trước các tình huống phát sinh… Các em phải được thảo luận và thống nhất với nhau từ việc phân công nhiệm vụ, xây dựng ý tưởng, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chung đạt yêu cầu của hoạt động giáo dục. - Tính mục đích trong giáo dục: Các biện pháp trong mỗi hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải phù hợp, thống nhất với mục tiêu của nội dung, chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường, của địa phương. Đồng thời các biện pháp đó phải phù hợp với mục đích của bậc học. Các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải phát huy được tính tích cực tham gia của học sinh, tạo môi trường cho học sinh rèn luyện các kỹ năng. Điều này giúp cho các biện pháp đề xuất có đủ cơ sỏ pháp lý để thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra. - Tính thực tiễn: Để hình thành các kĩ năng cho học sinh thông các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải đưa các em vào đời sống thực tế, tiếp xúc trực tiếp với thực tế hoạt động học tập, lao động sản xuất, sinh hoạt địa phương. Đảm bảo tính thực tiễn trong hình thành kĩ năng sống cho học sinh là chuẩn bị cho học sinh đi vào tiếp thu kiến thức, kĩ năng cần thiết cho mình một cách dễ dành nhất, thông qua các 14
- hoạt động cụ thể. Sự chuẩn bị này là đa dạng, dưới nhiều hình thức, bao gồm các nội dung cụ thể được thể hiện trong thực tế. Các biện pháp trong hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải phù hợp với các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể của học sinh, phù hợp với nét văn hóa truyền thống của từng địa phương, phù hợp với tâm lí học sinh, với năng lực và điều kiện thực hiện của nhà trường. - Tính hệ thống, tính toàn diện: Thiết kế các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN có tác động đến nhận thức, thái độ của cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh, tạo nên một sự thay đổi toàn diện về mọi mặt nhằm xây dựng môi trường học tập thân thiện ở trường và là điều kiện,là phương tiện để học sinh được rèn luyện và trải nghiệm kĩ năng sống của bản thân. Đồng thời các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN cho học sinh phải mang tính đồng bộ bao gồm từ nâng cao nguồn lực để thực hiện các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN đến triển khai đồng bộ các hoạt động thông qua con đường tích hợp trên lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội… các hoạt động đó phải được kiểm nghiệm thực tế, điều chỉnh để nâng cao chất lượng giáo dục. Các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN có mối quan hệ biện chứng, gắn kết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một chỉnh thế thống nhất. Các hoạt động vừa đảm bảo thời gian, vừa đảm bảo nội dung, hình thức cần thực hiện, giúp học sinh phát triển các tình cảm xã hội, khả năng của học sinh từng bước được nâng dần. - Tính hiệu quả: Các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN có tác dụng làm tăng tính hiệu quả của quá trình giáo dục cho học sinh, các hoạt động phải mang tính đồng bộ và hiệu quả nhằm giúp cho cáchoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN được tiến hành dễ dàng. Tính hiệu quả của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải có tác dụng làm tăng hiệu quả của hoạt động dạy học và hiệu quả của hoạt động giáo dục trong nhà trường. Hiệu quả của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN gắn liền với hiệu quả hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục đạo đức, nhân cách học sinh trong môi trường xã hội, được cha mẹ học sinh ghi nhận. 2.2.2. Các bước thiết kế, xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Căn cứ vào kế hoạch năm học của nhà trường; Kế hoạch công tác Đoàn thanh niên ; Căn cứ vào điều kiện thực tế của trường, của địa phương và khả năng của học sinh. Ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã lên kế hoạch hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN cho các em học sinh với các bước cụ thể như sau: 15
- Bước 1: Xác định nhu cầu tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Công việc này bao gồm một số việc như: căn cứ nhiệm vụ, mục tiêu và chương trình giáo dục, giáo viên cần tiến hành khảo sát nhu cầu, điều kiện tiến hành; xác định rõ đối tượng thực hiện; việc hiểu rõ đặc điểm học sinh tham gia giúp giáo viên thiết kế hoạt động phù hợp đặc điểm lứa tuổi THPT. Nhu cầu làm việc nhóm, kỹ năng làm việc nhóm là cần thiết với học sinh THPT. Bước 2: Đặt tên cho hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Đặt tên cho hoạt động là một việc làm cần thiết vì tên của hoạt động tự nó đã nói lên được chủ đề, mục tiêu, nội dung, hình thức của hoạt động. Tên hoạt động cũng tạo ra được sự hấp dẫn, lôi cuốn, tạo ra được trạng thái tâm lý đầy hứng khởi và tích cực của học sinh. Việc đặt tên cho hoạt động đảm bảo các yêu cầu: rõ ràng, chính xác, ngắn gọn; phản ánh được chủ đề và nội dung của hoạt động; tạo được ấn tượng ban đầu cho học sinh. Bước 3: Xác định mục tiêu của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Mục tiêu của hoạt động là dự kiến trước kết quả của hoạt động. Các mục tiêu hoạt động cần được xác định rõ ràng, cụ thể và phù hợp; phản ánh được các mức độ cao thấp của yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ và định hướng giá trị. Khi xác định mục tiêu phải trả lời các câu hỏi sau: Hoạt động này có thể hình thành cho học sinh những kiến thức ở mức độ nào? Những kỹ năng nào có thể được hình thành ở học sinh và các mức độ đạt được sau khi tham gia hoạt động? Những thái độ, giá trị nào có thể được hình thành hoặc thay đổi ở học sinh sau hoạt động? Ví dụ như: Các em học sinh có sự tương tác với nhau trong một nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc phát triển tiềm năng của tất cả các thành viên. Bước 4: Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Căn cứ vào từng chủ đề, các mục tiêu đã xác định, các điều kiện hoàn cảnh cụ thể của lớp, của nhà trường và khả năng của học sinh để xác định các nội dung phù hợp cho hoạt động. Liệt kê đầy đủ các nội dung hoạt động phải thực hiện. Từ nội dung, xác định cụ thể phương pháp tiến hành, xác định những phương tiện cần có để tiến hành hoạt động. Từ đó lựa chọn hình thức hoạt động tương ứng. Có thể một hoạt động nhưng có nhiều hình thức khác nhau được thực hiện đan xen hoặc trong đó có một hình thức nào đó là chủ đạo, còn hình thức khác là phụ trợ. Bước 5: Lập kế hoạch. Lập kế hoạch để thực hiện hệ thống mục tiêu, tức là tìm các nguồn lực và thời gian, không gian,…cần cho việc hoàn thành các mục tiêu. Tính cân đối của kế hoạch đòi hỏi giáo viên phải tìm ra đủ các nguồn lực và điều kiện để thực hiện mỗi mục tiêu. Ví dụ như: Người tham gia là học sinh; không gian trong trường hoặc ngoài trường; thời gian 16
- là ngoài giờ lên lớp chính khóa; nguồn lực cần có là nhân lực (giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, mạnh thường quân, nhà tài trợ,…), vật lực (cơ sở vật chất, trang thiết bị, …), tài lực (kinh phí, tài chính cho hoạt động). Bước 6: Thiết kế chi tiết hoạt động hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Bước này cần xác định: Bao nhiêu việc phải thực hiện? Các việc đó là gì? Nội dung của mỗi việc đó ra sao? Tiến trình và thời gian thực hiện các việc đó như thế nào? Các công việc cụ thể cho các tổ, nhóm, cá nhân? Yêu cầu cần đạt của mỗi việc? Ví dụ như: Chủ nhiệm CLB, thành viên CLB, số lần sinh hoạt CLB trong một năm học, những nội dung chính, những chủ đề chính, thời gian tiến hành, không gian tổ chức, phương tiện hỗ trợ, mục tiêu cần đạt trong năm học, mức độ đạt được về kỹ năng làm việc nhóm qua mỗi lần hoạt động (nghe, nói, diễn đạt, vốn sống, tình cảm, thái độ, sự hiểu biết, …) Bước 7: Kiểm tra, điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hoạt động. Rà soát, kiểm tra lại nội dung và trình tự của các việc, thời gian thực hiện cho từng việc, xem xét tính hợp lý, khả năng thực hiện và kết quả cần đạt được. Khi phát hiện những sai sót, bất hợp lý ở khâu nào, bước nào, nội dung nào hoặc việc nào thì kịp thời điều chỉnh. Hoàn thiện bản thiết kế chương trình hoạt động và cụ thể hóa chương trình đó bằng văn bản. Bước 8: Lưu trữ kết quả hoạt động vào hồ sơ của học sinh. Thông qua lưu trữ hồ sơ để biết và nắm chắc năng lực hoạt động tập thể của các em học sinh. Từ đó, giáo viên có phương pháp giáo dục phù hợp với từng HS, giúp các em hình thành kỹ năng hoạt động nhóm thông qua hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Tóm lại, hoạt động hoạt độnggiáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN. Có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển KNS cũng như nhân cách cho học sinh. Điều này đòi hỏi nội dung, các hình thức và phương pháp tổ chức của hoạt động hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN phải được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực, môn học thành các chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng,… để học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm, từng bước tự hoàn thiện nhân cách. 2.3. Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm hướng nghiệp thông qua các hoạt động tập thể. 2.3.1. Tổ chức giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN thông qua hoạt động câu lạc bộ (CLB), đội nhóm cùng sở thích. Là hình thức sinh hoạt của nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu, ví dụ như: CLB khéo tay hay làm, CLB thể thao, CLB Tiếng Anh, CLB văn thơ, CLB âm 17
- nhạc…dưới sự định hướng của giáo viên, nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa các học sinh với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo cơ hội học học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển kĩ năng như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… CLB là nơi để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm hiểu, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông qua hoạt động của các CLB, đội nhóm giúp giáo viên hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ chức với các hoạt động khác nhau. Câu lạc bộ Tiếng Anh Câu lạc bộ bóng đá 2.3.2. Tổ chức giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN thông qua tổ chức trò chơi. - Trò chơi dân gian có vai trò luyện kỹ năng. Nó góp phần phát triển toàn diện cho học sinh. Trong đó, phát triển ngôn ngữ có mối quan hệ qua lại biện chứng với sự phát 18
- triển toàn diện về các mặt: Đức- trí- lao- thể- mỹ - Hướng đến mục tiêu “Xây dựng trường học thân thiện- Học sinh tích cực”. Đưa trò chơi dân gian vào nhà trường là điều hết sức cần thiết, không những góp phần rèn luyện sức khỏe, kĩ năng ứng xử hợp lí các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc mà còn kích thích học sinh học tập tốt “chơi vui học càng vui”. Sau những giờ học căng thẳng, trò chơi dân gian là món ăn tinh thần bổ ích sảng khoái cho học sinh, tạo không khí vui tươi cởi mở, học sinh gần gũi thân thiện nhau hơn bởi những trò chơi có tính hài hước dí dỏm thể hiện sự tương tác khi chơi. - Thông qua hoạt động vui chơi, học sinh được trải nghiệm, từ đó hình thành các kỹ năng, những kinh nghiệm sống phục vụ cho việc học tập và sinh hoạt của các em. Đồng thời giúp các em phát huy trí tưởng tưởng, sáng tạo, nhanh nhẹn và tháo vát. Giúp các em biết yêu thương, chia sẻ, đùm bọc nhau. Các em không chỉ rèn luyện sức khỏe và trí thông minh mà còn hình thành những phẩm chất tốt đẹp trong các em như: tinh thần đoàn kết, tính trung thực, thật thà, thái độ lễ phép… Ví dụ trò chơi: Kéo co, nhay bao bố, nhảy dây….. 19
- 2.3.3. Tổ chức giáo dục kĩ năng sống theo hướng trải nghiệm HN thông qua tổ chức diễn đàn. Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bầy tỏ ý kiến của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu quả giáo dục trải nghiệm thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt đọng cụ thể, phù hợp với học sinh. Có thể mời chuyên gia tâm lí, các nhà chuyên môn, người nổi tiếng nói chuyện, giao lưu với học sinh. Hoặc tổ chức mời các lực lượng như cơ quan Công an, Quân đội, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, các nhân chứng lịch sử… tham gia nói chuyện theo chủ đề, chủ điểm. Ví dụ: Tổ chức tọa đàm về “Truyền thống quân đội nhân dân Việt Nam 22/12”, tổ chức chuyên đề “Phòng tránh tai nạn thương tích”,“Phòng chống xâm hại trẻ em”… (Phụ lục ảnh 6,7). Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và những người lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong đợi của các em về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình,… tăng cường cơ hội giao lưu giữa người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ em trong trường học, giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền được lắng nghe và quyền được tham gia, đồng thời giúp các nhà quản lý giáo dục và hoạch định chính sách nắm bắt, nhận biết được những vấn đề mà học sinh quan tâm từ đó có những biện pháp giáo dục và xây dựng chính sách phù hợp hơn. Diễn đàn nghe kể về ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 20
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
289 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
197 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
184 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p |
46 |
14
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
144 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
36 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
26 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
35 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
20 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
42 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
24 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p |
36 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p |
35 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
42 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
19 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
74 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
15 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
34 |
3
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)