intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu quả đổi mới phương pháp giảng dạy đối với môn GDCD. Qua đó, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên và khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, nhằm đạt được mục tiêu của ngành là chuyển từ lấy “Dạy” làm trung tâm sang lấy “Học” là trung tâm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HƯNG NGUYÊN LĨNH VỰC: GIÁO DỤC CÔNG DÂN
  2. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HƯNG NGUYÊN -------------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HƯNG NGUYÊN LĨNH VỰC: GIÁO DỤC CÔNG DÂN Tác giả: LÊ THỊ HUỆ Tổ bộ môn: Xã hội Năm thực hiện: 2020 - 2021 Số điện thoại: 096776069 Hưng Nguyên, tháng 3 năm 2021
  3. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2 3. Tính mới và kết quả đạt được của đề tài ........................................................... 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 2 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 2 5.1. Phương pháp phân tích tài liệu................................................................... 2 5.2. Phương pháp quan sát ................................................................................ 2 5.3. Phương pháp thực nghiệm ......................................................................... 3 5.4 Phương pháp xử lí thông tin ........................................................................ 3 PHẦN II. NỘI DUNG ............................................................................................. 4 1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 4 1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ............................................... 4 1.2. Tầm quan trọng của việc vận dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn Trường Tộ ................... 7 2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 8 2.1. Thực trạng của đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên hiện nay ............................................................................................................. 8 2.2. Khảo sát về thái độ học tập của học sinh ................................................. 10 3. Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên ........................................................... 10 3.1.Đa dạng hóa các hình thức động khởi động.............................................. 10 3.2 Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động hình thành kiến thức ............................................................................... 15 3.3. Đổi mới tính sáng tạo hoạt động củng cố, luyện tập nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh ............................................................... 33 4. Một số giáo án thực nghiệm sử dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ......................................................................... 39 5. Kết quả thực nghiệm về giờ dạy ..................................................................... 39 5.1. Mục tiêu thực nghiệm .............................................................................. 39 5.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 39 5.3. Nội dung, phương pháp thực nghiệm ...................................................... 39 5.4. Phân tích định lượng kết quả thực nghiệm .............................................. 40 5.5. Nhận xét của giáo viên và học sinh ......................................................... 41 5.5.1. Nhận xét của giáo viên ...................................................................... 41 5.5.2. Nhận xét của học sinh ....................................................................... 42
  4. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 43 1. Kết luận ........................................................................................................... 43 2. Kiến nghị ......................................................................................................... 44 2.1. Đối với các cấp quản lí giáo dục .............................................................. 44 2.2. Đối với giáo viên ...................................................................................... 44 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 001: MỘT SỐ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG DẠY HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN GIÁO ÁN SỐ 1 BÀI 13: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐÕNG (tiết 1) - GDCD LỚP 10 GIÁO ÁN SỐ 2 BÀI 9: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG (TIẾT 1) - GDCD lớp 11 GIÁO ÁN SỐ 3 BÀI 6: CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG (TIẾT 4)- GDCD lớp 12 PHỤ LỤC 002 PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH ĐỂ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHỤ LỤC 003: MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH THAM GIA DỰ ÁN PHỤ LỤC 004: KẾT QUẢ HỌC SINH THAM GIA THI KHOA HỌC - KỸ THUẬT TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Đọc là 1 GDCD Giáo dục công dân 2 GV Giáo viên 3 SGK Sách giáo khoa 4 SGV Sách giáo viên 5 THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học môn Giáo dục công dân là một trong những yêu cầu căn bản, có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược đổi mới phương pháp giáo dục ở nước ta. Đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định rõ trong Luật Giáo dục, các Nghị quyết của Trung ương (Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII; Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII); được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo với tinh thần chung là Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Bồi dưỡng phương pháp tự học, làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc trong những năm vừa qua đã và đang được cả xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của đội ngũ nhà giáo là không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm giáo dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì thế, mà người giáo viên trực tiếp giảng dạy phải biết vận dụng các phương pháp hoạt động lên lớp một cách hợp lý, cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm khơi dậy niềm say mê, sáng tạo và khả năng khám phá thế giới xung quanh Môn Giáo dục công dân (GDCD) cùng các môn học khác đều nhằm vào mục tiêu đó.Với vị trí và chức năng của môn GDCD cần phải có những chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh” nhằm làm thay đổi quan niệm của học sinh coi đây là môn học phụ và là một môn học mà các bậc phụ huynh ít quan tâm. Từ đó giúp cho học sinh và các bậc phụ huynh hiểu đúng đắn môn Giáo dục công dân, tác dụng của môn học đối với việc hình thành phẩm chất, chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân cách của con người mới trong giai đoạn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho học sinh Trong những năm đi dạy, tôi luôn trăn trở và thấy rằng: Việc phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh trong học tập môn GDCD thực sự là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Vì vậy, cần phải có một số biện pháp để phát huy vai trò, vị trí của môn GDCD trong việc nâng cao năng lực của học sinh góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng. Từ những trải nghiệm của bản thân, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nhằm Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ 1
  7. thông Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên”. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu quả đổi mới phương pháp giảng dạy đối với môn GDCD. Qua đó, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên và khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, nhằm đạt được mục tiêu của ngành là chuyển từ lấy “Dạy” làm trung tâm sang lấy “Học” là trung tâm. 3. Tính mới và kết quả đạt được của đề tài Đây là đề tài lần đầu tiên được áp dụng thực hiện tại trường THPT Nguyễn Trường Tộ- Hưng Nguyên nói riêng và một số trường THPT trên địa bàn Huyện Hưng Nguyên và thành phố Vinh nói chung. Đề tài đã khai thác, trang bị cho học sinh những phương pháp, kỹ năng có tính hệ thống trong việc tổ chức hướng dẫn học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo ở các tiết học môn GDCD. Tên đề tài có thể là không mới hoặc đã có những tác giả khai thác nhưng tôi xin khẳng định những vấn đề tôi nêu ra ở đây hoàn toàn là những kinh nghiệm, những tâm huyết mà bản thân tôi đã đúc kết lại trong quá trình giảng dạy của mình và đã được kiểm định qua thực tế. Đề tài đã góp phần nâng cao tính hứng thú, hấp dẫn và hiệu quả cho các giờ học. Đồng thời, phát huy tối đa khả năng tính tích cực, chủ động độc lập sáng tạo, tự giác trong quá trình học tập của học sinh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu ở bộ môn Giáo dục công dân cấp trung học phổ thông - Thực nghiệm tại trường THPT tại trường THPT Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên; một số trường THPT trên địa bàn Huyện Hưng Nguyên và thành phố Vinh. - Thời gian thực hiện: Từ năm học 2019 - 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp phân tích tài liệu - Tham khảo một số tài liệu: Xem xét, lựa chọn thông tin cần thiết, có độ tin cậy cao nhất trong tài liệu nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu. - Tham khảo nguồn tài liệu sách, báo công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài để có thể so sánh các nghiên cứu trước đây với kết quả của đề tài. - Tham khảo các nguồn thông tin mang tính thời sự. 5.2. Phương pháp quan sát - Mục đích: Đánh giá thực trạng và kiểm nghiệm kết quả của các phương pháp được đề xuất nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo… trong hoạt động dạy học 2
  8. - Nội dung: Quan sát trực tiếp cách thực hiện hoạt động học tập của học sinh. - Cách tiến hành: Tiến hành quan sát việc thực hiện hoạt động học tập trong và ngoài lớp học của học sinh. Ghi lại kết quả quan sát bằng máy ảnh, bằng tốc kí, phiếu đánh giá kết quả học tập v.v… 5.3. Phương pháp thực nghiệm - Mục đích: Khảo sát kết quả học tập của học sinh các lớp thực nghiệm và đối chứng để kiểm chứng hiệu quả của các phương pháp được đề xuất. - Nội dung: Khảo sát năng lực học sinh qua bài kiểm tra ở các lớp thực nghiệm và đối chứng. - Cách tiến hành: - Chọn lớp thực nghiệm - Chọn lớp đối chứng - Cho học sinh các lớp được chọn thực nghiệm và đối chứng làm bài kiểm tra. Đối chiếu kết quả để rút ra kết luận khoa học. 5.4 Phương pháp xử lí thông tin - Mục đích: Dựa vào số liệu điều tra, rút ra các kết luận khoa học cho đề tài. - Xử lí số liệu điều tra bằng các công thức toán thống kê và phần mềm excel. 3
  9. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, tư duy và sự cộng tác trong giảng dạy”. Đó là việc làm rất cần thiết, bởi vì việc học tập không phải là việc làm hộ cho học sinh mà là việc chính học sinh phải tự làm. Tuy nhiên, dường như có nhiều học sinh nghĩ rằng để học tập họ chỉ cần làm mỗi một việc là đến lớp và thực hiện các hoạt động. Sau đó họ trông chờ việc học tập sẽ tự diễn ra. Vì vậy làm thế nào ta có thể biến học sinh của chúng ta thành những học trò tích cực? Chính điều đó tôi có sáng kiến đề ra phương pháp “Phát huy tính chủ động, sáng tạo, tư duy và sự cộng tác cho học sinh trong việc giảng dạy”. Việc đổi mới giáo dục Trung học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Trung học. Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản: - Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực…” [4]. - Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học” [3]. Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học nói riêng. - Tính tích cực là gì? Theo nghĩa từ điển: “Là một trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và 4
  10. thúc đẩy” [1]. Như vậy, tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc chân tay của người có mong muốn hoàn thành tốt một công việc nào đó. Tính tích cực học tập là một phẩm chất, nhân cách của người học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết các vấn đề mà tình huống học tập đặt ra để có tri thức mới, kĩ năng mới. - Tính chủ động là gì? Theo nghĩa từ điển: “Là tự mình quyết định hành động, không bị chi phối bởi người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài” [1]. Như vậy, chủ động nghĩa là hành động theo những dự tính của mình định ra chứ không phải do người khác áp đặt. - Tính sáng tạo sáng tạo? Theo Từ điển Triết học: “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất. Sáng tạo cũng có thể được hiểu là việc thực hiện bất kỳ hoạt động nào đem lại sự mới mẻ và sự tiện ích cho con người. 1.1.1. Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, đòi hỏi phải có những người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, kiến thức… Vấn đề này đặt ra yêu cầu cho ngành giáo dục phải thay đổi mục tiêu giáo dục để đào tạo ra những con người có đầy đủ phẩm chất, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ngoài những kiến thức và kỹ năng cơ bản mà NH cần đạt được thì mục tiêu của việc dạy học tập trung nhiều hơn tới việc hình thành những năng lực hành động cho NH, cụ thể là các kỹ năng vận dụng kiến thức, tiến hành nghiên cứu khoa học, như: quan sát, phân loại, ghi chép, đề ra giả thuyết khoa học, giải quyết vấn đề, tiến hành thí nghiệm… để NH tự phát hiện và giải quyết vấn đề một cách chủ động, sáng tạo. 1.1.2. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học a. Đối với yêu cầu chung Tư tưởng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học là tích cực hóa hoạt động học tập nhằm phát huy tính chủ động của học sinh thông qua các hoạt động học tập với các phương tiện học tập và hình thức học tập khác nhau. - Dạy học được tổ chức qua các hoạt động học tập của HS. HS cần được đặt vào các tình huống mà trong đó, HS trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra bằng các kiến thức và kỹ năng hiện tại của mình, theo cách suy nghĩ của mình, từ đó, tự mình kiến tạo được các kiến thức và kỹ năng mới và phát huy được tiềm năng sáng tạo của bản thân. Thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập cho HS, GV không chỉ đơn giản là người truyền thụ tri thức mà là người chỉ đạo, hướng dẫn hành động cho HS. 5
  11. - Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp dạy học tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Việc rèn luyện cho HS khả năng tự học giúp cho HS có lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi HS, giúp HS có khả năng tự tìm tòi thêm nguồn tri thức cho mình trong suốt cuộc đời.Việc tự học không chỉ là học bài ở nhà sau khi lên lớp mà còn xảy ra trong tiết học với sự hướng dẫn của GV. - Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học, trình độ kiến thức và tư duy của HS không thể đồng đều tuyệt đối. Do đó, các hoạt động dạy học cần phải được thiết kế theo hình thức phân hóa, giúp đáp ứng nhu cầu của khả năng của từng nhóm đối tượng HS. Ngoài ra, quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, lớp học trở thành môi trường giao tiếp giữa thầy - trò và trò - trò, HS cần được bộc lộ ý kiến của mình, tranh luận trong tập thể và hợp tác cùng nhau để giải quyết các vấn đề học tập, đồng thời, tự nâng cao năng lực của bản thân. - Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học theo các phương pháp tích cực, GV không những cần phải đánh giá HS để mà còn phải hướng đến việc phát triển cho HS khả năng tự đánh giá nhằm điều chỉnh cách học, đồng thời, tạo điều kiện cho HS được tham gia đánh giá lẫn nhau trong quá trình hợp tác học tập. Việc đánh giá cũng không dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng mà còn phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo của HS trong việc giải quyết các tình huống thực tế. Nhìn chung, trong việc dạy học theo các phương pháp tích cực, GV trở thành người thiết kế, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt được các mục tiêu kiến thức, kỹ năng và thái độ theo yêu cầu của chương trình. Do đó, người GV cần phải đầu tư nhiều thời gian, công sức hơn để thiết kế giáo án và cần phải có năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn cao, khả năng sư phạm lành nghề mới có thể chủ động tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của HS theo đúng dự kiến của GV. b. Yêu cầu đối với giáo viên Hoạt động dạy học của GV là quá trình GV thiết kế, tổ chức, điều khiển các hoạt động của học sinh, để học sinh đạt được các mục tiêu cụ thể của từng bài học. Hoạt động dạy học của GV bao gồm: - Thiết kế các hoạt động dạy học, trong đó có phân chia cụ thể hoạt động của GV và học sinh theo những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà học sinh cần đạt được. Lập hệ thống câu hỏi và bài tập để định hướng cho học sinh hoạt động. - Trên lớp, tổ chức cho NH hoạt động theo cá nhân hoặc nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức các hoạt động cần tìm tòi, phát hiện kiến thức… - Định hướng điều chỉnh các hoạt động của học sinh như: chính xác hoá các 6
  12. khái niệm, kết luận về các hiện tượng, bản chất của vấn đề mà NH tự tìm tòi được. GV đưa thêm một số thông tin có liên quan đến bài học. - Sử dụng các phương pháp trực quan, hiện tượng thực tế, thí nghiệm, mô hình, mẫu vật… là nguồn để học sinh khai thác, phát hiện kiến thức mới. - Tạo điều kiện cho học sinh được vận dụng tri thức nhiều hơn để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn. c. Yêu cầu đối với học sinh Đổi mới hoạt động học tập của học sinh học tập phải chủ yếu là quá trình học sinh tự học, tự nhận thức, tự khám phá, tìm tòi các tri thức một cách chủ động, tích cực; là quá trình tự phát hiện và giải quyết các vấn đề. Có thể nói định hướng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học là phải làm cho học sinh: - Được hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. - Tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức. - Có ý thức và biết cách vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn. - Đặc biệt là học sinh phải nắm được các kỹ năng, hoạt động thực tiễn để tìm tòi, phát hiện tri thức mới, giải quyết vấn đề một cách linh hoạt và sáng tạo. 1.2. Tầm quan trọng của việc vận dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn Trường Tộ Trong cuộc sống đời thường, tính tích cực, chủ động, sự sáng tạo luôn đem đến những thành công. Trong học tập cũng thế, tính tích cực, chủ động, sáng tạo sẽ làm cho bài học mới lạ, tăng tính hấp dẫn, lôi cuốn người học và tất yếu là sẽ đạt kết quả như mong muốn. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập có vai trò quan trọng trọng việc nâng cao hiệu quả học tập của người học. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của người học được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng với nghị lực cao trong quá trình nắm vững tri thức cho bản thân. Bản chất của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ và điều kiện của bản thân người học. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khiêu gợi được hoạt động học tập đã được hướng đích, gợi động cơ trong quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề. Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh là biểu hiện sự thống nhất giữa giáo dưỡng và giáo dục. Tác dụng của giáo dục kiểu dạy học này là ở chỗ nó dạy cho học sinh khám phá, tức là rèn luyện cho học sinh cách phát hiện, tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách khoa học. Đồng thời nó góp phần bồi dưỡng cho học sinh những đức tính cần thiết của người lao động sáng tạo như tính chủ động, tự giác, tích cực, tính kiên trì vượt khó, thói quen tự kiểm tra... Tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập thể hiện ở cả hai mặt: tính chuyên 7
  13. cần trong hành động và tính sâu sắc trong hoạt động các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng phương pháp mới, không phải là sao chép, mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh, có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học. Trong dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Học như vậy, khiến sự hiểu biết của các em vững chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được tăng cường hơn. Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo giúp hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy và phát triển, giúp hình thành và phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng của đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên hiện nay * Về thuận lợi - Trường THPT Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên có 800 học sinh, 45 cán bộ, giáo viên và nhân viên. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn GDCD của trường trẻ, năng động, có ý thức học hỏi và trau dồi chuyên môn. Bên cạnh đó nhóm GDCD luôn nhận được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường… - Nhà trường ủng hộ, khích lệ giáo viên vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học, tổ chức tiết dạy mẫu, dạy học theo chủ đề vận dụng KTDH tích cực để giáo viên học tập, hỗ trợ máy móc phục cho việc ứng dụng kĩ thuật dạy học tích cực. - Có nhiều giáo viên có ý thức đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các hình thức dạy học khác nhau như thảo luận nhóm, ra đề và hướng dẫn hoạt động luyện tập trên lớp, ở nhà. - Học sinh nhiệt tình tham gia vào hoạt động để đổi mới phương pháp dạy học. Những thuận lợi cơ bản trên là điều kiện quan trọng giúp bản thân tôi cũng như nhóm bộ môn trong việc sử dụng một số biện nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tư duy và sự cộng tác cho học sinh trong giảng dạy môn GDCD từ đó, mạnh dạn đổi mới cách dạy và học cho phù hợp với đối tượng học sinh và vị thế của nhà trường. * Về khó khăn Từ thực tế giảng dạy tại trường THPT Nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên, tôi thấy rằng: việc học tập của học sinh còn rất nhiều hạn chế và nhìn chung học sinh học tập còn rất bị động. Bởi vì do đặc điểm THPT Nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên một xã nghèo của huyện Hưng Nguyên. 8
  14. Nhà trường còn non trẻ mới thành lập 14 năm, học sinh Trường THPT Nguyễn Trường Tộ có tới 70% học sinh công giáo, cho nên tình hình kinh tế - xã hội nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn. Trong học tập, học sinh chủ yếu chỉ có sách giáo khoa, còn tài liệu, sách tham khảo, báo chí, phương tiện học tập nhìn chung còn thiếu. Vì vậy, việc cập nhật thông tin mới còn hạn chế, kiến thức về mặt kinh tế - xã hội học sinh hiểu biết rất ít, ngoài ra các tin tức, thông tin trên truyền thanh, truyền hình học sinh cũng rất ít khi theo dõi. Vì thế mà việc học tập tại lớp của học sinh học rất bị động, học một cách máy móc, chỉ nắm được những kiến thức trên lớp mà thầy đã truyền đạt, việc đặt câu hỏi, phát vấn học sinh chỉ mang tính nhắc lại kiến thức đã có trong sách. Chính vì vậy mà học sinh không phát huy được những ý tưởng mới, không phản hồi để biết xem là học sinh có hiểu bài hay không. Do đó sự lưu giữ kiến thức rất chậm. Hơn nữa học sinh không vận dụng được nhiều kiến thức, kĩ năng, đặc biệt là kiến thức liên môn vào việc học. Kĩ năng xử lí tình huống, giao tiếp, hợp tác, thu thập và xử lí thông tin, kĩ năng công nghệ thông tin, khảo sát điều tra thực tế… chưa được chú trọng. Dạy học theo phương pháp truyền thống không tạo được cơ hội để học sinh được làm việc nhóm, được bộc lộ sở trường của bản thân. Sản phẩm mà học sinh tạo ra chỉ là các bài tập được gợi ý từ SGK, chưa đa dạng. Hậu quả là phương pháp dạy học vẫn chậm đổi mới, không kích thích được hứng thú và chưa phát huy được năng lực, phẩm chất người học, hạn chế khả năng sáng tạo, tinh thần, nhiệt huyết trong hoạt động học của học sinh. Công tác kiểm tra đôn đốc của nhà trường đối với việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn GDCD mới chỉ chú ý đến thời gian, tiến độ chương trình, chưa có thực sự đầu tư cơ sở vật chất hay giải pháp khuyến khích để cho giáo viên tích cực trong việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực... Đặc biệt, môn GDCD vẫn bị coi là môn phụ và bị xem nhẹ từ chính giáo viên, học sinh, phụ huynh. Từ nhận thức đó dẫn đến một kết cục là học sinh học đối phó, cầm chừng, hoặc học môn này lấy điểm cao nhằm bù cho điểm môn học khác khi tính trung bình vì thành tích… Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, năng lực của đội ngũ giáo viên môn GDCD còn nhiều bất cập, hạn chế, đặc biệt là giáo viên tuổi nghề còn ít, vốn sống chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm giảng dạy, chưa đủ thời gian tích lũy kiến thức chuyên môn và xã hội. Vì vậy, việc truyền thụ tri thức đến cho học sinh còn thiếu sót, nhất là phần liên hệ với cuộc sống, với thực tiễn… Hơn nữa, nhiều giáo viên chưa nhận thức đúng về vai trò và tầm quan trọng việc vận dụng KTDH tích cực trong giảng dạy. Mặt khác, một bộ phận giáo viên thiếu nhiệt tình, tâm huyết với nghề, chưa nổ lực cố gắng cao độ trong việc sử dụng biện pháp, phương pháp dạy học tích cực để đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo trong tình hình mới. Với mong muốn tìm ra một giải pháp, một hướng đi để thay đổi nhận thức của người dạy và người học đối với bộ môn GDCD, đồng thời khắc phục những hạn chế của thực trạng nêu trên, bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện 9
  15. nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tư duy cho học sinh trong giảng dạy môn Giáo dục công dân trong Trường trung học phổ thông” nhằm góp phần thay đổi cách dạy và học môn GDCD tại trường THPT Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên. 2.2. Khảo sát về thái độ học tập của học sinh Khảo sát 332 học sinh ở trường trường THPT Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên mà tôi trực tiếp giảng dạy, có tới 296 (89%) em khẳng định, trong các giờ học môn GDCD, các em chưa bao giờ tham gia tham gia đóng vai, viết kịch bản, tạo vi deo, đóng vai chuyên gia; Và 206 em (chiếm 62%) cho biết, các em rất ít được tham gia các trò chơi học tập; 329 em (chiếm 99%) khẳng định, các em chưa bao giờ tham gia thực hiện một Dự án khoa học kĩ thuật thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và hành vi. (Phiếu khảo sát: Xem phụ lục 002) Có rất nhiều học sinh được hỏi khẳng định mình có các khả năng như: đóng vai, hát, vẽ sơ đồ tư duy, thuyết trình… Về mong muốn được tham gia các hoạt động học tập, hầu hết các em đều muốn được tham gia các trò chơi học tập và thiết kế sơ đồ tư duy, sử dụng phiếu tự đánh giá để phát triển năng lực cho bản thân (326 em, chiếm 98%). Nhiều em mong muốn được trải nghiệm bằng hoạt động đóng vai, tạo vi deo, xây dựng bài thuyết trình bằng powerpoint. Một số em mong muốn được thầy cô hướng dẫn thực hiện dự án khoa học kĩ thuật. Đặc biệt, tất cả các em được hỏi đều muốn mình được phát triển các năng lực giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề, tìm kiếm xử lí thông tin, công nghệ thông tin, tự chủ tự học. Tất cả những vấn đề trên đây là cơ sở để tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông Nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên” để nghiên cứu. 3. Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân tại trường trung học phổ thông nguyễn trường Tộ - Hưng Nguyên 3.1.Đa dạng hóa các hình thức động khởi động Một tiết dạy thu hút được sự chú ý, kích thích được sự tò mò tìm hiểu của học sinh phải xuất phát ngay hoạt động khởi động để tạo nên hứng thú học tập cho học sinh trong suốt quá trình diễn ra tiết học. Hoạt động khởi động (tạo tình huống xuất phát) rất cần thiết trong dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh, phát triển năng lực tư duy nêu để giải quyết vấn đề. Hoạt động này cần tạo ra những tình huống, những vấn đề ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải quyết, thực hiện nhiệm vụ một cách tích cực ở các hoạt động tiếp theo của bài học. Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực 10
  16. hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Việc tổ chức hoạt động khởi động trong mỗi tiết học nói chung và tiết học GDCD nói riêng ở trường THPT làm cơ sở cho các giải pháp đổi mới trong việc thực hiện hoạt động Khởi động của tiết học để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong lĩnh hội kiến thức của học sinh. - Thứ nhất là khởi động tiết học dưới dạng trò chơi Hiện nay hầu hết các tiết dạy tại trường tôi thường chọn cho mình hình thức khởi động bằng cách tổ chức các trò chơi nhanh như: Đuổi hình bắt chữ, Giải ô chữ, Trò chơi nhanh như chớp, Trò chơi phá băng, trò chơi mảnh ghép… Với việc sử dụng trò chơi giúp cho hoạt động dạy học trở nên sôi nổi, cuốn hút, giúp học sinh rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin, khả năng phản xạ nhanh, sự sáng tạo, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên… Trong tiết học môn giáo dục công dân các trò chơi thường được giáo viên tổ chức liên quan đến kiến thức của các tiết học trước như học sinh sẽ được tái hiện kiến thức hay kiểm tra nhận thức của học sinh về những vấn đề liên quan đến bài học mới, làm tiền đề để giáo viên dẫn vào bài một cách hấp dẫn. Ví dụ 1: Tôi đã sử dụng trò chơi “đuổi đuổi hình bắt chữ để khởi động khi dạy bài 6: “Công dân với các quyền tự do cơ bản” (tiết 4) - GDCD lớp 12 - Đây là trò chơi rất hấp dẫn tạo ra không khí học tập sôi nổi cho học sinh đầu tiết học. Học sinh nhìn vào hình để đoán chữ. GV: hướng dẫn luật chơi - Trò chơi này có 6 hình ảnh, nhìn vào hình ảnh em hãy đoán cụm từ có liên quan đến nội dung hình ảnh 11
  17. - HS: tham gia chơi Sau khi HS tham gia chơi xong, GV đặt câu hỏi: - Em hãy nhắc lại đáp án mà các bạn vừa trả lời? - Những đáp án này gợi cho em đến nội dung nào về quyền tự do cơ bản của công dân? - HS: Quyền tự do ngôn luận GV: (dẫn dắt vào bài) Ví dụ 2: Tôi đã sử dụng trò chơi “Hiểu ý bạn” để khởi động khi dạy khi dạy Bài 13: Chính sách giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và văn hóa (tiết 3) GDCD lớp 11 Đây là trò chơi giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập, phát triển khả năng suy đoán lập luận. Khả năng thuyết trình, diễn giải củng được nâng cao hơn. Trò chơi còn giúp các em nhanh nhạy, mạnh dạn, tự tin, hòa đồng, gần gũi mọi người hơn. Các em nói chuyện lưu loát hơn. Tạo không khí vui vẻ trong lớp và tạo tình huống có vấn đề giúp học sinh tiếp cận được kiến thức sẽ tìm hiểu trong bài học. - GV chia lớp thành các đội, mỗi đội cử 1 HS đại diện làm người chơi. Hoặc chia lớp thành 2 đội (2 dãy bàn), mỗi đội cử 1 người chơi Mỗi đội chơi một lượt. Nên cử nhiều người chơi một lúc cho mỗi đội để trò chơi vui và hấp dẫn hơn. - Người chơi đứng quay lưng lại bảng. Giáo viên đưa ra gợi ý: có thể là từ khóa, có thể là hình ảnh. Những bạn còn lại dưới lớp cử một vài thành viên đưa ra gợi ý (không vi phạm từ khóa) để bạn chơi đoán. Nếu bạn thứ nhất đưa ra gợi ý mà bạn chơi không đoán được thì cử bạn thứ 2, 3,… đến khi nào bạn chơi đoán được từ khóa. Ví dụ 3: Khi dạy bài 3: Sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng GDCD 10 tôi đã tổ chức hoạt động khởi động bằng trò chơi “Hỏi nhanh đáp gọn”. - Đây là trò chơi rất hấp dẫn tạo ra không khí học tập sôi nổi cho học sinh 12
  18. đầu tiết học. Giáo viên sẽ đưa ra bộ câu hỏi gồm 10 câu và trong thời gian 1 phút học sinh sẽ trả lời „đúng‟ hoặc „sai”. GV tổ chức cho học sinh trò chơi “Hỏi nhanh đáp gọn” GV chia lớp thành 2 đội. Mỗi đội cử 1 người tham gia chơi GV cử 1 thư kí ghi kết quả. Thời gian cho mỗi đội chơi là 1 phút 2 bạn chơi sẽ phải trả lời 10 câu hỏi trong vòng 1 phút. GV mời lần lượt từng HS trả lời Thư kí ghi kết quả nhưng giáo viên chưa vội công bố đáp án mà phần đáp án sẽ được công bố sau khi tìm hiểu xong bài Có thể nói rằng khi sử dụng phương pháp trò chơi trong thiết kế hoạt động khởi động đã làm cho bài học thêm sôi nổi, hấp dẫn, đem lại hiệu quả cao trong giờ học. Tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm. Trò chơi giúp cho hoạt động dạy học trở nên nhẹ nhàng, hứng thú với học sinh, giúp các em rèn luyện sự mạnh dạn tự tin, tinh thần đoàn kết và dễ dàng tiếp cận với kiến mới của bài học. - Thứ hai là sử dụng tranh ảnh, video-clip có liên quan đến bài học Hình ảnh và video - clip có chức năng cơ bản là tích hợp và cơ động. Hình ảnh trước hết là để thông báo thông tin, sau đó là để minh họa, giải thích, mô tả trực quan. HS sẽ quan sát hình ảnh, xử lý tài liệu và trao đổi với nhau về thông tin hình ảnh đó. Việc sử dụng hình ảnh, video vào hoạt động khởi động làm cho giờ dạy bớt khô khan, cứng nhắc. Đồng thời làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở HS, làm cho việc học trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Các hình ảnh, video - clip là nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách tích cực, tự giác hơn. Ví dụ 1: Tôi đã sử dụng một số hình ảnh sau khi tổ chức hoạt động khởi động ở Bài 13: Công dân với cộng đồng” (tiết 1) - GDCD lớp 10 13
  19. - GV hỏi HS: Em có nhận xét gì sau khi xem những hình ảnh đó? - HS trả lời xong GV dẫn dắt vào nội dung sẽ tìm hiểu trong tiết học: Vậy cộng đồng là gì? Công dân có trách nhiệm như thế nào với cộng đồng? hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu. Ví dụ 2: Tôi đã sử dụng video - clip “Bác hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập” để khởi động khi dạy bài 3 “Công dân bình đẳng trước pháp luật” - GDCD lớp 12 Sau đó, giáo viên hỏi: Nội dung lời phát biểu của Bác? HS trả lời, GV dẫn dắt vào bài mới. Ví dụ 3: Tôi đã sử dụng video bài hát “Việt Nam quê hương tôi” để khởi động khi dạy bài 14; “Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” - GDCD lớp 10 - Học sinh lắng nghe và cảm nhận - Sau đó, giáo viên hỏi: Em cảm nhận như thế nào khi nghe bài hát trên? Bài hát trên cho em nghĩ đến nội dung nào? - Học sinh trả lời sau đó giáo viên dẫn vào bài 14: “ Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Thứ ba là khởi động bằng cách sử dụng phương pháp đóng vai. Đóng vai là một trong những cách thức đem lại hiệu quả cao trong phần khởi động bài học, là phương pháp giáo dục giúp học sinh thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em. Với việc sử dụng phương pháp đóng vai trong thiết kế hoạt động khởi động sẽ đem lại hiệu quả trong quá trình dạy học, đặc biệt là khi dạy các bài về pháp luật… Ví dụ 1: Tôi đã tổ chức hoạt động khởi động bằng phương pháp đóng vai khi dạy bài 11: “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học” GDCD lớp 10 + HS đóng vai về cách xử sự của các nhân vật về một vụ tai nạn. Trong đó có đôi nam nữ không cứu giúp người bị nạn và 2 em HS cứu giúp người bị nạn. 14
  20. Kết quả sau khi đọc được tin trên báo, đôi nam nữ rất xấu hổ, hối hận. Còn 2 em hs rất vui vẻ + Sau đó, GV đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về hành động của đôi nam nữ và 2 em học sinh? + HS trả lời được hành động của đôi nam nữ là không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, còn hành động của 2 em HS là phù hợp với chuẩn mực đạo đức, đã thực hiện được nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội. Từ cách trả lời của HS, GV dẫn dắt vào bài. Ví dụ 2: Tôi đã tổ chức hoạt động khởi động bằng phương pháp đóng vai khi dạy bài 2: “Hàng hóa - tiền tệ - thị trường” GDCD lớp 11 HS thực hiện một phiên chợ quê - Cách thức tiến hành hoạt động: + HS chuẩn bị: 4 nhân vật đóng vai người bán các mặt hàng: rau, thịt, quán bánh kẹo nước chè, bánh mỳ; 5 nhân vật đóng vai người mua; một số tiền tệ, trang phục người bán, bàn ghế... + HS tiến hành thực hiện một phiên chợ quê trong đó người mua người bán thực hiện quá trình mua bán trao đổi hàng hóa. Mặt hàng thịt, rau, tấp nập người mua, mặt hàng bánh mỳ ế ẩm. Trong phiên chợ xuất hiện thêm một số nhân vật như kẻ cắp, người hành khất. + Sau khi phiên chợ kết thúc, GV đặt câu hỏi: Qua phiên chợ quê em thấy hoạt động chủ yếu nào xuất hiện trong phiên chợ? HS trả lời được hoạt động chủ yếu trong phiên chợ quê là: hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa, từ đó GV dẫn dắc vào bài * Đánh giá hiệu quả áp dụng Có thể nói rằng khi sử đa dạng hóa các hình thức động khởi động đã làm bầu không khí trong lớp học luôn sôi nổi, hấp dẫn và thu hút người học, hiệu quả mang lại rất rõ rệt. Các em đã được giải tỏa áp lực tâm lý kiểm tra bài cũ, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ của mình, giờ học sôi nổi, sinh động, thực sự gây hứng thú. Việc lĩnh hội tri thức của các em có tính hiệu quả cao, tạo sự hào hứng, thoải mái, khắc phục được sự tẻ nhạt của bộ môn, kích thích tính ham hiểu biết, cô và trò bình đẳng trong quá trình khám phá, sáng tạo, hình thành và phát huy năng lực học sinh. Tạo mối quan hệ gắn kết giữa giáo viên và học sinh, tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính chủ động,tích cực, sáng tạo trong học tập. Đây là điều kiện để nâng cao chất lượng dạy học cũng như tạo được hứng thú và niềm đam mê môn GDCD của học sinh. 3.2 Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động hình thành kiến thức 3.2.1. Sử dụng phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề * Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề (dạy học đặt và giải quyết 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2