
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng nâng cao hiệu quả dạy học phần nói - nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT2018
lượt xem 3
download

Sáng kiến "Một số định hướng nâng cao hiệu quả dạy học phần nói - nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT2018" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu và yêu cầu cần đạt chính là kim chỉ nam cho giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn THPT thiết kế bài giảng và tổ chức tiết dạy đúng tinh thần đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng nâng cao hiệu quả dạy học phần nói - nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT2018
- PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, tri thức nhân loại có sự tiến bộ vượt bậc với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin. Điều đó thúc đẩy sự đổi mới để phát triển trong tất cả các lĩnh vực. Hơn hết thảy, ngành giáo dục phải có sự tiên phong trong đổi mới để bắt nhịp với tri thức nhân loại. Đó là lí do chương trình giáo dục 2018 được đưa vào giảng dạy sau một thời gian dài chuẩn bị kĩ lưỡng. Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được biên soạn trong hơn hai năm và công bố vào tháng 12 năm 2018 nên gọi là Chương trình 2018 (CT 2018). Riêng về chương trình Ngữ văn 2018 sau khi biên soạn xong đã xin ý kiến của các chuyên gia văn học và ngôn ngữ, lấy ý kiến của tất cả các sở, các trường, nhất là của các nhà khoa học thuộc các Đại học Sư phạm trong cả nước. Chương trình đã công khai trên mạng và đăng tải trên báo chí trong khoảng thời gian từ bốn lăm đến sáu mươi ngày để xin ý kiến công luận. Sau khi sửa chữa, bổ sung chương trình phải thông qua thẩm định. Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình trải qua ba lần. Sau khi Hội đồng Quốc gia lần thứ ba thông qua, chương trình được mới kết luận để lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định ban hành. Giao tiếp ngôn ngữ là một hoạt động đặc thù và quan trọng nhất của con người. Sản phẩm của các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chính là ngôn bản hoặc văn bản. Có thể nói, đây là những khái niệm cơ bản mà lí luận dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp quan tâm nghiên cứu. dạy kĩ năng nghe - nói cho học sinh chính là quá trình nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ nhằm cung cấp cho các em công cụ giao tiếp và tư duy, giúp các em có năng lực giao tiếp với các kĩ năng nghe - nói cơ bản. Dạy kĩ năng nghe - nói theo quan điểm giao tiếp, tức là hướng học sinh tới những hoạt động giao tiếp - hoạt động tiếp nhận, cảm thụ và hoạt động tạo lập, sản sinh lời nói. Một trong những mục tiêu cơ bản của dạy kĩ năng nghe - nói là hình thành, rèn luyện và phát triển năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, năng lực hoạt động lời nói cho học sinh, bao gồm năng lực lĩnh hội về lời nói (nghe) và năng lực sinh sản lời nói (nói). Phát triển kĩ năng nghe - nói cho học sinh chính là việc dạy cho các em biết sử dụng linh hoạt các nghi thức lời nói vào cuộc hội thoại cụ thể một cách phù hợp; giúp học sinh luyện tập cách đối thoại có văn hóa. Phát triển kĩ năng nghe - nói cho học sinh là phát triển kĩ năng hội thoại, giao tiếp cho các em trong các cuộc thoại gắn với đời sống học tập, sinh hoạt hằng ngày. Nhận thấy rõ điều đó chương trình giáo dục 2018 đã có sự điều chỉnh rất mới trong môn Ngữ văn với ý tưởng dạy cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết trong một bài học. Đặc biệt phần dạy kĩ năng nghe - nói là phần rất mới nên đặt ra nhiều thử thách cho người dạy và người học. Có thể thấy rằng với môn Ngữ văn, dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông đang đứng trước ngưỡng cửa của những đổi mới quan trọng, toàn diện nhằm mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực người học, từng bước hòa nhập vào bối 1
- cảnh giáo dục khu vực và quốc tế. Trong công cuộc đổi mới đó việc định hướng để đạt hiệu quả cao trong chương trình dạy học mới là nhu cầu tất yếu. Một trong những điểm quan trọng của chương trình Ngữ văn nói riêng, chương trình GDPT 2018 nói chung là chương trình mở. Nhằm phục vụ cho chủ trương chương trình nhiều SGK, vì thế chương trình chỉ nêu lên mục tiêu; những yêu cầu cần đạt về bốn năng lực đọc, viết, nói và nghe; phần nội dung, chương trình chỉ nêu một số nội dung cốt lõi của mỗi lớp, mỗi cấp bao gồm những nội dung cơ bản về kiến thức tiếng Việt, kiến thức văn học và gợi ý ngữ liệu. Như vậy, việc dạy thế nào, bắt đầu từ đâu, sắp xếp kiến thức ra sao, kết cấu bài dạy và việc lựa chọn ngữ liệu thế nào?… hoàn toàn do tác giả các bộ sách giáo khoa quyết định. Tuy nhiên, dù các bộ SGK có cách triển khai rất khác nhau, nhưng tất cả đều phải hướng đến mục tiêu và đáp ứng được các yêu cầu cần đạt mà chương trình đã nêu. Thông qua hoạt động đọc, viết, nói và nghe các kiểu loại văn bản, nhất là văn bản văn học, môn Ngữ văn góp phần giúp học sinh phát triển những phẩm chất cao đẹp như: tình yêu đối với thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước; ý thức đối với cội nguồn, tự hào về lịch sử dân tộc; lòng nhân ái, vị tha; yêu thích cái đẹp, cái thiện và có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham thích lao động, tinh thần tự học, phát triển ý thức nghề nghiệp; trung thực và có ý thức sẵn sàng thực hiện trách nhiệm công dân, góp phần giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam; có tinh thần hội nhập và ý thức công dân toàn cầu. Chương trình Ngữ văn trung học phổ thông tiếp tục phát triển năng lực giao tiếp đã hình thành ở trung học cơ sở. Thông qua những kiến thức phổ thông nền tảng, có tính hệ thống và sâu rộng hơn về văn học, tiếng Việt, chương trình giúp học sinh có năng lực vững vàng để tiếp tục học lên cao đẳng, đại học, các trường nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động. Kết thúc cấp trung học phổ thông, học sinh biết đọc hiểu các kiểu loại văn bản dựa trên những kiến thức sâu rộng hơn và hệ thống hơn, kết hợp với những trải nghiệm và khả năng suy luận, tư duy độc lập của bản thân; biết viết các kiểu loại văn bản tương đối phức tạp (nhất là văn bản nghị luận, văn bản thông tin) đúng quy cách, quy trình; biết trình bày dễ hiểu, mạch lạc, sinh động các ý tưởng và cảm xúc; nói có nội dung, rõ ràng, đúng trọng tâm, có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người, biết nghe hiểu với thái độ phù hợp và phản hồi hiệu quả. Năng lực thẩm mĩ được phát triển thông qua thưởng thức vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, sự việc và ngôn từ trong tác phẩm văn học. Qua những ngữ liệu chọn lọc đặc sắc, học sinh có được những trải nghiệm thú vị trong đọc, viết, nói, nghe và rút ra được những bài học cụ thể, sâu sắc; có khả năng phản hồi một cách tích cực và hiệu quả những nội dung đã đọc, khả năng làm chủ tình cảm, hành vi cũng như khả năng ứng xử phù hợp trước các tình huống phức tạp trong đời sống. Cũng qua đọc hiểu các kiểu loại văn bản, học sinh có được hiểu biết cơ bản về sự đa dạng văn hóa, có khả năng tìm tòi khám phá, để củng cố, mở rộng vốn sống và tri thức văn hóa; biết tôn trọng sự khác biệt giữa các nền văn hóa, giữa mọi người. Qua yêu cầu viết các kiểu loại văn bản, chương trình giúp học sinh 2
- có khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo; khả năng tìm kiếm, lựa chọn cách giải quyết vấn đề, đề xuất giải pháp. Nội dung luyện nói và nghe giúp học sinh biết sử dụng ngôn ngữ kết hợp với các loại phương tiện phi ngôn ngữ đa dạng để trình bày thông tin, ý tưởng và để thảo luận, lập luận, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống một cách phù hợp, hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của chương trình giáo dục 2018 nói chung và môn Ngữ văn nói riêng tôi đã tiến hành đề tài “Một số định hướng nâng cao hiệu quả dạy học phần nói - nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT- 2018” 2. Mục đích nghiên cứu Nhằm đáp ứng mục tiêu và yêu cầu cần đạt chính là kim chỉ nam cho giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn THPT thiết kế bài giảng và tổ chức tiết dạy đúng tinh thần đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018. Trong thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng bấy lâu nay việc dạy học văn ở nhà trường phổ thông đang bị bất cân xứng về bốn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Học sinh chủ yếu được rèn luyện nhiều ở mặt đọc và viết, còn kỹ năng nói rất hạn chế, đặc biệt là kỹ năng nghe thì dường như bị bỏ quên. Các kỹ năng về “nghe” và “nói” của học sinh còn nhiều khiếm khuyết. Học sinh chưa có năng lực biết lắng nghe để nhận thức, thấu hiểu mà ứng xử cho phù hợp. Học sinh chưa quen với lắng nghe để cảm nhận theo cách nghệ thuật, ví dụ như âm điệu của một bài thơ, tiết tấu của một bản nhạc. Bên cạnh đó, học sinh yếu về kỹ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Cho nên, nhiều em trong lớp học ở trường thì thụ động, rụt rè; ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Việc học văn bị cho thiếu thực tiễn là vì thế. Có thể nhận thấy dạy kỹ năng nói và nghe là phần mới mang tính đột phá đưa môn Ngữ văn gắn với nhu cầu thực tiễn hơn của chương trình 2018. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Sáng kiến này nghiên cứu các nội dung sau đây: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả dạy học phần nói nghe trong môn Ngữ văn lớp 10. - Khảo sát, đánh giá về thực trạng dạy học phần nói nghe trong môn Ngữ văn trên địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất quy trình dạy học dựa trên nâng cao hiệu quả dạy học phần nói nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT-2018 - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài trong việc nâng cao hiệu quả dạy học phần nói nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT-2018 4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: 3
- Sáng kiến tập trung nghiên cứu việc vận dụng phương pháp dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT 2018 (trên cơ sở một số thiết kế và triển khai một số hoạt động cụ thể để nâng cao hiệu quả dạy học phần nói nghe trong môn Ngữ văn lớp 10 chương trình GDPT-2018). 4.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Định hướng và hỗ trợ cho giáo viên, học sinh trong môn học Ngữ văn THPT. - Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về PP dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT. Đề xuất quy trình dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn - Không gian nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu cho HS khối 10 tại trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Đề tài thực hiện trong năm học 2023 - 2024 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: + Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, khái quát hóa,...các thông tin, các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các tài liệu có liên quan đến đề tài nhằm thiết lập cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu. + Nghiên cứu lý luận về phương pháp dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra theo bảng hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng vận dụng phương pháp dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương. + Phương pháp quan sát các hoạt động của giáo viên, học sinh trong các giờ học, điều kiện dạy và học của giáo viên và học sinh. + Nghiên cứu các sản phẩm của giáo viên và học sinh (giáo án, phiếu học tập,...). + Phương pháp thống kê toán học sử dụng để tính toán các tham số đặc trưng, so sánh kết quả thực nghiệm. 6. Đóng góp mới của đề tài: - Về lý luận: Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận về dạy học dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT. Trong đó bao gồm hệ thống các khái niệm liên quan đến dạy học dạy học dựa trên dạy học phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT, bản chất, quy trình dạy học và lý thuyết trong dạy học. 4
- - Về thực tiễn: + Đề tài được triển khai áp dụng lần đầu tiên cho chương trình bộ môn Ngữ văn - Chương trình GDPT 2018. + Thiết kế bài học dạy học dựa trên phần nói - nghe trong chương trình Ngữ văn THPT + Ứng dụng một số phần mềm và thiết bị vào dạy học Ngữ văn. + Đề tài giúp học sinh có cơ hội tìm hiểu, và có phương pháp nói - nghe phù hợp. + Qua sáng kiến, giúp các đồng nghiệp về đổi mới PPDH để phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. 5
- PHẦN 2: NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.Tổng quan về đề tài Tìm hiểu chương trình môn Ngữ văn THPT chúng tôi thấy chương trình nhấn mạnh một số điểm sau: Thứ nhất chương trình được xây dựng trên nền tảng lý luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu nghiên cứu về giáo dục học, tâm lý học và phương pháp dạy học Ngữ văn; thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam qua các thời kì; kinh nghiệm xây dựng môn Ngữ văn của Việt Nam, đặc biệt từ đầu thế kỷ XXI đến nay chương trình môn Ngữ văn đã thực sự đi vào thực tiễn xã hội, giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam cùng với sự đa dạng của đối tượng học sinh xét về phương diện vùng miền, điều kiện và khả năng học tập. Thứ hai chương trình lấy việc rèn luyện các kỹ năng giao tiếp (đọc,viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe. Thứ ba chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định về chi tiết nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc. Thứ tư chương trình vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của các chương trình môn Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 định hướng rất rõ về mục tiêu và yêu cầu cần đạt đối với bộ môn Ngữ văn THPT. Về mục tiêu của môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông: Giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất đã được hình thành ở trung học cơ sở; mở rộng và nâng cao yêu cầu phát triển phẩm chất với các biểu hiện cụ thể: có bản lĩnh, cá tính, có lí tưởng và hoài bão, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần hội nhập và ý thức công dân toàn cầu.Tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn bản với mức độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc; đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến thức về đặc điểm ngôn từ văn học, các xu hướng - trào lưu văn học, phong cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và 6
- bên ngoài văn bản để hình thành năng lực đọc độc lập. Viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh tổng hợp (kết hợp các phương thức biểu đạt và các thao tác nghị luận), đúng quy trình, có chủ kiến, đảm bảo logic và có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; biết tham gia và có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp trong tranh luận. Phát triển năng lực văn học với yêu cầu: phân biệt được tác phẩm văn học và các tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác; phân tích và nhận xét được đặc điểm của ngôn Ngữ văn học; phân biệt được cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong văn học; nhận biết và phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học dựa vào đặc điểm phong cách văn học; có trí tưởng tượng phong phú, biết thưởng thức, tiếp nhận và đánh giá văn học; tạo ra được một số sản phẩm có tính văn học. Về yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn ở cấp trung học phổ thông: Năng lực ngôn ngữ biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ của các thời kì để hiểu các văn bản khó hơn (thể hiện qua dung lượng, độ phức tạp và yêu cầu đọc hiểu). Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản. Học sinh có cách nhìn, cách nghĩ về con người và cuộc sống theo cảm quan riêng; thấy được vai trò và tác dụng của việc đọc đối với bản thân. Từ lớp 10 đến lớp 12: viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; viết đúng quy trình, có kết hợp các phương thức biểu đạt, kiểu lập luận và yếu tố nghệ thuật; có chủ kiến về một vấn đề xã hội. Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về những vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo nghiên cứu đúng quy ước; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn. Bài viết thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính. Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận. Năng lực văn học: Phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học. Nhận biết được đặc trưng của hình tượng văn học và một số điểm khác biệt giữa hình tượng văn học với các loại hình tượng nghệ thuật khác (hội hoạ, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc); phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng 7
- và cách thể hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học; nhận biết và phân tích được đặc điểm của ngôn Ngữ văn học, câu chuyện, cốt truyện và cách kể chuyện; nhận biết và phân tích được một số đặc điểm phong cách nghệ thuật trong văn học dân gian, trung đại và hiện đại; phong cách nghệ thuật của một số tác giả, tác phẩm lớn. Nêu được những nét tổng quát về lịch sử văn học dân tộc (quá trình phát triển, các đề tài và chủ đề lớn, các tác giả, tác phẩm lớn; một số giá trị nội dung và hình thức của văn học dân tộc) và vận dụng vào việc đọc tác phẩm văn học.Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ. Đề tài này của chúng tôi căn cứ vào thực tiễn để định hướng dạy học môn Ngữ văn đạt được mục tiêu và yêu cầu cần đạt theo định hướng chương trình giáo dục 2018. 2. Cơ sở lí luận 2.1. Đổi mới dạy học nói và nghe trong trƣờng trung học - Nhìn từ yêu cầu của Chƣơng trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 So với Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2006, Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 chú trọng hơn tới việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe cho học sinh, giúp học sinh thực hiện hoạt động học tập hiệu quả ở tất cả các môn học, vì ngôn ngữ chính là công cụ của tư duy và bản chất của hoạt động dạy học chính là hoạt động giao tiếp. Hoạt động này thiết lập nên mối quan hệ tương hỗ giữa người dạy và người học, đóng vai trò quyết định, nổi trội nhất trong việc tổ chức, triển khai hoạt động của một lớp học. Các tác giả Jean-Marc Denommé và Madeleine Roy đã phân tích: “Người học với tư cách là người nhận, đặc biệt cố gắng thích nghi với lời truyền đạt của người dạy: anh ta giải mã, đánh giá và khoanh những phần khó hiểu lại. Anh ta sẵn sàng tham dự như một người phát bằng cách đặt câu hỏi hoặc mang đến một vài bình luận cá nhân. Người học với chức năng kép của mình là người nhận và người phát phải đảm đương trách nhiệm là người thợ chính trong quá trình đào tạo mình”. Kết quả của hoạt động dạy học dựa trên sự giao tiếp đảm bảo quá trình truyền thông tin, hiểu thông tin và xử lí thông tin hiệu quả. Người học phải biết nghe và tư duy để tránh bất cứ một sự thu nhận sai lệch nào, phải học được cách tận dụng tốt nhất những thông điệp truyền đến. Người học không chỉ học cách “Nghe tích cực với tư duy phản biện” mà còn phải biết tương tác, trao đổi với giáo viên, biết đặt câu hỏi, biết trình bày quan điểm của mình rõ ràng tự tin, biết thuyết phục người nghe với những lí lẽ và bằng chứng… Để thực hiện tốt những yêu cầu này, thì việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe cho học sinh một cách bài bản trong nhà trường là điều hết sức cần thiết. Không chỉ có tác dụng hỗ trợ học sinh học tập tốt các môn học khác, việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe còn giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp của bản thân để chuẩn bị hành trang bước vào cuộc sống. Năng lực giao tiếp được các tổ chức tuyển dụng nhân sự trên thế giới rất coi trọng, xem đó là một năng lực cốt lõi, cần 8
- thiết của con người, giúp con người thành công trong công việc chuyên môn và các hoạt động khác của mọi tổ chức xã hội. Cốt lõi của giao tiếp là nói và nghe. Do đó, việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe về bản chất chính là hướng tới phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh - một năng lực chung cốt yếu của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. 2.2. Đổi mới phương pháp dạy học nói và nghe 2.2.1. Dạy học nói và nghe theo quan điểm giao tiếp Các nhân tố trong hoạt động giao tiếp đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc học sinh tổ chức, thực hiện bài nói và có những ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả trình bày. Khi dạy học nói và nghe, giáo viên cần lưu ý học sinh quan tâm tới các nhân tố giao tiếp sau: a) Mục đích giao tiếp Mục đích giao tiếp là kết quả mà người nói muốn đạt được sau khi thực hiện cuộc giao tiếp thường hướng tới những mục đích tác động về: nhận thức, tình cảm, hành động. Song trong thực tế, nhiều cuộc giao tiếp không chỉ hướng tới một mục đích duy nhất mà có những mục đích kép. Chẳng hạn, khi học sinh trình bày bài nói kể về một trải nghiệm thì mục đích giao tiếp ở đây vừa là truyền đạt thông tin tới người nghe (Tác động nhận thức) vừa muốn truyền đạt tới người nghe những tình cảm, cảm xúc của mình về trải nghiệm đó (Tác động tình cảm). Mục đích giao tiếp sẽ chi phối cách lựa chọn thể hiện các thông điệp và khi nó được đề ra một cách tường minh thì việc đánh giá kết quả đạt được càng khách quan, chính xác. Trong dạy học nói và nghe, giáo viên lưu ý học sinh khi xác định mục đích giao tiếp cần bám sát vào yêu cầu thể loại bài nói (Kể lại, trình bày, thảo luận, thuyết phục,… ) để có căn cứ lựa chọn các nhân tố giao tiếp khác cho phù hợp (nội dung, cách thức, phương tiện,…). b) Nhân vật giao tiếp Người viết, người nói (người phát) và người đọc, người nghe (người nhận) được gọi chung là những nhân vật giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, nếu người phát luôn luôn là một thì người nhận không phải lúc nào cũng như vậy. Có khi người nhận là một nhưng cũng có khi người nhận là số đông. Hiệu quả giao tiếp không chỉ phụ thuộc vào người phát mà còn phụ thuộc vào người nhận. Vì vậy, khi dạy học nói và nghe, giáo viên lưu ý học sinh phải tìm hiểu về người cùng tham gia giao tiếp với mình. Thông thường, người nghe sẽ là thầy/cô, các bạn trong lớp nhưng cũng có thể là những đối tượng khác. Cần xác định được người nghe là ai (tuổi tác, giới tính, địa vị,…), những hiểu biết cơ bản về người nghe giúp người nói có cơ sở để lựa chọn nội dung, cách thức thể hiện thái độ hiệu quả. c) Nội dung giao tiếp Nội dung giao tiếp chính là các vấn đề được nói đến trong phần trình bày. Chẳng hạn như kể lại truyện ngụ ngôn hay trình bày về giá trị nội dung hoặc nghệ 9
- thuật của một tác phẩm văn học,… Khi dạy học nói và nghe, giáo viên cần lưu ý để học sinh biết cách xác định nội dung trình bày (phù hợp với yêu cầu bài học, rõ trọng tâm, thể hiện đúng mục đích). Người nói không những cần lựa chọn nội dung (nói những gì) mà còn phải giới hạn nội dung (nói đến đâu), có những ràng buộc gì về thời gian (nếu có). Nên dự kiến những điểm cần lược bỏ trong khi trình bày nếu thời gian bị rút ngắn. Ở một số nhiệm vụ thực hành nói nội dung trình bày không phải hoàn toàn do phía người nói quyết định (Ví dụ: Thảo luận trong nhóm về một vấn đề, tiến hành một cuộc phỏng vấn) mà còn phụ thuộc vào sự tương tác của người nghe. Điều này đặt ra yêu cầu người nói cần điều chỉnh, bổ sung nội dung giao tiếp cho phù hợp với thực tiễn. d) Hoàn cảnh giao tiếp Hoạt động giao tiếp cũng như mọi hoạt động khác của con người bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn cảnh nhất định. Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm các yếu tố không gian, thời gian, xã hội, tâm lí, văn hóa mà ở đó hoạt động giao tiếp diễn ra. Có hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp tiếp hẹp. Xét ở phạm vi hẹp, hoàn cảnh giao tiếp bao gồm những hiểu biết và cách ứng xử về thời gian, địa điểm, hình thức giao tiếp, tâm lí của người tham gia giao tiếp, những sự việc xảy ra xung quanh quá trình giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp chi phối đến việc tiếp nhận thông tin của người nghe. Trong bối cảnh lớp học, hoàn cảnh giao tiếp có tính chất nghi thức, trang trọng. Vì vậy, người nói cần xác định những yêu cầu phù hợp với bối cảnh giao tiếp để tạo được tâm lí tốt nhất cho người nghe. e) Phương tiện giao tiếp Ngôn ngữ với tư cách là phương tiện đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Căn cứ vào mục đích giao tiếp và đặc điểm của người nghe, người nói cần lựa chọn ngôn ngữ phù hợp (bao gồm cách diễn đạt, lựa chọn từ ngữ, sử dụng các biện pháp tu từ...) để đạt được hiệu quả giao tiếp. Đối với dạy học nói và nghe, người trình bày còn cần phải chú ý tới đặc điểm lời nói của từng kiểu văn bản để lựa chọn phương tiện giao tiếp cho phù hợp. Ví dụ, đối với kiểu văn bản nghị luận sẽ chú ý diễn đạt chặt chẽ, thuyết phục; đối với kiểu văn bản biểu cảm cần chú ý thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân; đối với kiểu văn bản thông tin cần chú ý diễn đạt rõ ràng, tường minh thông qua các số liệu, bảng biểu,… Dạy học nói và nghe theo quan điểm giao tiếp là yêu cầu quan trọng mà giáo viên và học sinh cần thực hiện nghiêm túc để sau mỗi giờ học nói và nghe, học sinh từng bước phát triển năng lực giao tiếp của bản thân. 2.2.2. Dạy học nói và nghe gắn với các nhiệm vụ đọc và viết Các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ đọc, viết, nói và nghe có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đọc, nghe thuộc về hoạt động tiếp nhận văn bản, chỉ khác nhau phương tiện truyền tải và tiếp nhận. Nếu hoạt động đọc phương tiện truyền tải là chữ viết, phương tiện tiếp nhận là thị giác thì hoạt động nghe phương tiện truyền tải là lời nói, phương tiện tiếp nhận là thính giác. Viết, nói thuộc về hoạt động tạo 10
- lập văn bản. Trong đó, hoạt động viết là tạo lập bằng kênh chữ, hoạt động nói là tạo lập bằng kênh lời. Đọc, viết, nói và nghe có sự tác động qua lại lẫn nhau. Stephen Krashen cho rằng, việc đọc ở trường, nơi mà học sinh có thể có những lựa chọn cho riêng mình, là một công cụ rất hữu ích để phát triển từ vựng, ngữ pháp và cải thiện kĩ năng viết. Một nghiên cứu của tác giả được tiến hành trước đó cùng cộng sự có tên “Dự đoán thành công trong viết tiếng Anh như một ngoại ngữ” cũng khẳng định những người có thói quen đọc nhiều sẽ có xu hướng viết tốt hơn và đưa ra kết luận rằng mức độ đọc của một người có thể nói lên khả năng viết của người đó. Khi con người làm chủ được vốn từ ngữ, ngữ pháp, có khả năng viết tốt thì cũng sẽ hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng nói. Theo Chương trình Ngữ văn 2018, việc học nói và nghe luôn gắn với đọc, viết cũng là một hướng tiếp cận theo xu thế mới (nhất là khi so sánh với Chương trình Ngữ văn 2006). Điều này hỗ trợ cho học sinh rất nhiều để các em có thể tự tin nói và nghe. Bởi nội dung luyện nói và nghe thường gắn với nội dung luyện viết đã học trước đó nên khi học sinh thực hành nói về những điều đã học vừa giúp củng cố tri thức đã khám phá được, vừa tạo cơ hội sử dụng những hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân. Học sinh có năng lực tốt sẽ tiếp tục học hỏi, mở rộng tầm đón nhận để rèn luyện kĩ năng nói và nghe; những học sinh năng lực hạn chế hơn sẽ không quá khó khăn bởi các em có thể huy động những điều đã có để thực hiện nhiệm vụ học tập. Vì vậy, trong bất kì hoạt động nói và nghe nào học sinh cũng cần vận dụng tối đa những tri thức đã học để thực hiện cho hiệu quả. 2.2.3. Dạy học nói và nghe bằng hoạt động và thông qua hoạt động Các tác giả nghiên cứu về những vấn đề liên quan như kĩ năng thuyết trình, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết phục,… đều có sự thống nhất cao ở cách thức rèn luyện và phát triển kĩ năng nói và nghe. Thực ra, kĩ năng nói hiệu quả là một nghệ thuật. Giống như việc phát triển bất kì một năng lực nghệ thuật nào khác, nó đòi hỏi phải được huấn luyện và kỉ luật. Thực hành sẽ cải thiện nó. Việc không ngừng nhận biết những khiếm khuyết đã hoặc có thể mắc phải cũng giúp phát triển kĩ năng nói” . Như vậy, điểm mấu chốt nhất của phương pháp dạy học phát triển kĩ năng nói chính là thực hành, luyện tập. Có nghĩa là, dạy học nói nghe nhất thiết phải chú trọng dạy bằng hoạt động và thông qua hoạt động. Học sinh phải được nhúng trong môi trường thực hành. Chỉ như thế, các em mới có cơ hội để vận dụng vốn tri thức liên quan vào các tình huống giao tiếp mới có kinh nghiệm để rút ra những bài học cần thiết để bản thân tiến bộ hơn. 2.3. Dạy học phần nói - nghe Tổ chức dạy học nói và nghe tuân thủ định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018: phát huy tính tích cực của người học; dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học…tạo cơ hội để học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tiễn; 11
- chủ động, tự tin trong giao tiếp và kết nối với văn học, với con người và thế giới xung quanh. 1.2.3.1. Kĩ năng nói. Nói là một hành động phát ra âm thanh, cũng có thể hiểu, nói là việc trò chuyện, truyền đạt thông tin hoặc biểu hiện cảm xúc, suy nghĩ, câu chuyện của một người thông qua ngôn ngữ nói. Kỹ năng nói là một dạng kỹ năng mềm giúp mọi người giao tiếp một cách hiệu quả. Những kỹ năng này sẽ giúp người nói truyền tải thông tin một cách thuận lợi, thuyết phục. Hơn nữa, việc nói là công cụ giúp người nói không bị hiểu lầm bởi những người nghe. Tổng quan lại, nói là kỹ năng sản xuất ở chế độ nói. Sức mạnh của lời nói không chỉ dừng lại ở những cuộc nói chuyện với người thân hay bạn bè mà còn là cách ứng xử trong công việc để đem tới hiệu ứng cao nhất. 2.3.2. Kĩ năng nghe Nghe là hành động tập trung và chú ý để nghe và hiểu những gì người khác đang nói một cách chân thành và tôn trọng. Khi nghe, chúng ta tập trung vào người đang nói, không phân tán tâm trí và không gián đoạn. Nghe không chỉ đơn thuần là việc nghe và hiểu ý kiến hoặc thông tin của người khác, mà còn là thể hiện sự quan tâm và đồng cảm. Khí nghe, chúng ta tạo điều kiện thuận lợi để người khác chia sẻ cảm xúc, suy nghĩ và kinh nghiệm của họ một cách tự nhiên và thoải mái hơn. Kĩ năng nghe là khả năng tập trung vào người nói và hiểu rõ ý nghĩa của những gì họ đang truyền tải. Điều này bao gồm việc chú ý đến nội dung được truyền tải và cả những cảm xúc, suy nghĩ, động cơ của người nói. Kỹ năng nghe còn là việc phản hồi lại người nói bằng cách sử dụng các câu hỏi, tóm tắt lại những gì đã được nghe để đảm bảo rằng thông điệp đã được hiểu đúng và đầy đủ. Nghe hiệu quả giúp người khác cảm thấy được tôn trọng và lời nói của mình có giá trị. Kỹ năng này được xem là nền tảng của một cuộc trò chuyện thành công trong bất kỳ bối cảnh nào, dù ở nơi làm việc hay trong các tình huống hằng ngày. 3. Cơ sở thực tiễn. 3.1. Thực trạng dạy học phần nói - nghe trong bộ môn Ngữ văn THPT hiện nay Phần nói và nghe là một nội dung dạy học mới được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học của học sinh, bên cạnh nội dung đọc và viết đã quen thuộc hơn. Tuy nhiên, theo phân phối chương trình Ngữ văn và cấu trúc bài học chủ đề, phần nói - nghe chiếm dung lượng thời gian khá ít (1 tiết/ 1 bài Nói và nghe). Đây là một thử thách đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp để có thể tổ chức dạy học hiệu quả, giúp học sinh được thực hành nói và nghe đạt được yêu cầu và mục tiêu 12
- của bài học. Một thực tế có thể thấy là hiện nay, một bộ phận học sinh trung học còn yếu về kỹ năng nói và nghe. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Dễ thấy nhất là học sinh ngại nói trong giờ học, có tâm lí ngượng ngùng, dè dặt vì sợ nói sai, không có đủ thông tin để diễn đạt... Sự hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp, ít giao lưu trong gia đình, tập thể dẫn đến việc học sinh không chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện các chủ đề, hình thức nói. Các hoạt động tập thể cần đến việc trao đổi, thảo luận, hùng biện,... ít và khó được tổ chức nên học sinh không có nhiều điều kiện để rèn luyện kỹ năng nói và nghe. Số lượng học sinh ở mỗi lớp học tương đối đông nên việc rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho từng học sinh có phần khó khăn. Một bộ phận giáo viên chú trọng rèn luyện kỹ năng viết, chứ chưa khuyến khích, tạo điều kiện phát triển năng lực nói nghe cho học sinh. Bởi vậy, cần thiết có một sự nhìn nhận thỏa đáng và có những nghiên cứu thiết thực để tìm ra những cách thức dạy học kỹ năng nói và nghe hiệu quả cho học sinh. 3.2. Thực trạng của việc dạy học phần nói và nghe tại Trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An Trường THPT Đô Lương 2 chúng tôi có 12 lớp 10, gồm 510 học sinh, trong đó có 6 lớp theo học ban KHTN và 6 lớp theo ban KHXH chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 5 lớp 10 thuộc cả hai ban KHTN và KHXH nhưng nhìn chung chúng tôi nhận thấy thực tế kỹ năng nói và nghe ở một số em chưa thực sự lưu loát. Một số học sinh vốn năng động với các hoạt động ngoại khóa, nhưng kỹ năng trình bày, thể hiện quan điểm bản thân trước tập thể vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chính là do sự thiếu tự tin, ngại sai, ngại bộc lộ ...của học sinh, nhưng cũng cần nhìn nhận từ việc cần đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Tổ chức các hoạt động dạy học để rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho học sinh đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói chung và cấp Trung học nói riêng. Mặc dù chương trình giáo dục quốc gia và nhà trường đã có sự nhìn nhận đúng mức về vai trò của việc dạy học kỹ năng nói và nghe, giáo viên đã có sự quan tâm nhất định đối với kỹ năng nói và nghe trong mỗi giờ học Ngữ văn nhưng công việc này còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, trong đó có việc chưa tìm ra những phương pháp rèn luyện hiệu quả. Chúng tôi cho rằng chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn Trung học sắp tới cần phải tăng cường thời lượng, giới thiệu cụ thể và mở rộng hơn nội dung và hình thức luyện nói cho học sinh. Việc áp dụng rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho học sinh Trung học cũng đòi hỏi sự kiên trì và sức sáng tạo của giáo viên nói chung và giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng, góp phần giải quyết được một số khó khăn trước mắt trong việc luyện nói nghe cho học sinh Trung học. 13
- CHƢƠNG 2 MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHI TỔ CHỨC DẠY HỌC TIẾT NÓI – NGHE CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10. 1. Hình thành các kĩ năng cho học sinh 1.1. Kỹ năng lựa chọn hình thức trình bày Nội dung các bài nói nghe xoay quanh các hình thức, kĩ năng như: Giới thiệu, đánh giá; thảo luận; trình bày báo cáo; lắng nghe và phản hồi; thuyết trình. Giới thiệu, đánh giá là trình bày, giới thiệu về một vấn đề hoặc một cuốn sách để mọi người có thể hình dung và nhận biết về đối tượng, qua đó có những đánh giá, nhận xét chung nhất đối với vấn đề hoặc đối tượng. Ví dụ, trong bài 1, Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện. Những nội dung cần nêu được chính là tên truyện, tên tác giả, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và trình bày được các nhận định, đánh giá về tác phẩm truyện một cách thuyết phục.Tương tự, với yêu cầu về thuyết trình, trình bày, học sinh phải tự trình bày, truyền tải một chủ đề, vấn đề đến người nghe nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể nào đó. Thuyết trình là việc sử dụng ngôn ngữ giọng nói kết hợp ngôn ngữ hình thể để thể hiện rõ nội dung bài nói. Xác định được vấn đề cần thuyết trình, nêu được lí do để lựa chọn đề tài đó đồng thời làm sáng tỏ các vấn đề trọng tâm của vấn đề, có các dẫn chứng, lí lẽ thể hiện quan điểm riêng và thu hút được sự chú ý và phản hồi từ phía người nghe. Đối với nhóm bài yêu cầu thảo luận, chủ thể học tập cần xác định được rõ vấn đề cần thảo luận, bao quát được nội dung diễn biến của cuộc thảo luận. Đồng tình hoặc không đồng tình trước ý kiến được đưa ra. Có những nhận định chung và đưa ra được quan điểm của bản thân về vấn đề được thảo luận đồng thời tôn trọng ý kiến của nhóm đưa ra vấn đề thảo luận để có thể đi đến kết luận chung nhất về vấn đề. Với tất cả các dạng yêu cầu về hình thức nói như trên, việc lắng nghe cũng có những yêu cầu tương ứng. Tuy nhiên, về cơ bản, học sinh phải lắng nghe và phản hồi là việc mà nghe hiểu rõ mục đích trình bày của bài nói, nắm bắt đúng và đánh giá được được nội dung chính của bài. Phản hồi là sau khi lắng nghe có thể đưa ra các ý kiến, vấn đề hoặc các câu hỏi để có thể làm rõ hơn cho bài nói. Việc phản hồi nó còn thể hiện được thái độ chú trọng, lắng nghe, quan sát và tóm tắt được nội dung bài nói đồng thời việc này còn kết hợp với các phản hồi bằng ngôn ngữ để cùng nhóm trình bày rút ra được các quan điểm và các nội dung chung của vấn đề được nói đến. Tùy vào hình thức của bài nói nghe mà xác định và sử dụng các kĩ năng cho phù hợp và đáp ứng được như cầu và đạt kết quả cao nhất trong thực hiện hoạt động. 1.2. Kỹ năng trình bày bài nói nghe Khi xác định nội dung nói giáo viên cần hướng dẫn học sinh định hướng trình bày vấn đề, nội dung nói nghe trong mỗi bài, mỗi bộ sách yêu cầu. Việc thực hiện nội dung này là đặt ra các câu hỏi hướng dẫn cho HS trả lời, đồng thời, GV 14
- cũng có thể giao trước cho HS về nhà chuẩn bị hình ảnh, tài liệu, những yếu tố bổ trợ cho nội dung nói để các em có thể lồng ghép vào phần trình bày của bản thân. Từ việc xác định vấn đề cần nói, GV hướng dẫn HS xác lập những khía cạnh sẽ trình bày trong khi nói. Việc tìm ý chính là giúp HS xác định các ý nói cho phù hợp, sắp xếp các ý nói hợp lí, đúng - trúng - đủ và sử dụng các từ ngữ quan trọng, chú trọng tới các ý trọng tâm và kết hợp sử dụng các phương pháp, phương tiện hỗ trợ phù hợp với nội dung, hoàn cảnh nói. Đồng thời nói thích hợp chặt chẽ và sâu rộng với viết. trong quá trình tìm hiểu đó là quy trình vừa khám phá kiến thức, kĩ năng, vừa hình dung ra bài trình bày. 1.3. Kỹ năng kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ Phương tiện là những gì để tiến hành và hỗ trợ công việc được cảm nhận trực tiếp bằng giác quan, qua đó làm cụ thể hơn, sinh động và hấp dẫn hơn nội dung vấn đề cần nói. Các phương tiện có thể là: tranh ảnh, phiếu học tập, bảng kiểm, máy tính, máy chiếu, loa, giấy A4, A0, powerpoint ... Chẳng hạn, khi dạy học nói và nghe “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bài 3- Sách Kết nối tri thức với cuộc sống) chúng tôi sử dụng các phương tiện như: powerpoint, máy chiếu, máy tính, loa, bảng kiểm, phiếu đánh giá,... Powerpoint sử dụng trong hoạt động khởi động (xem video, chơi trò chơi) và định hướng các nội dung liên quan tới bài học, bảng kiểm dùng để đánh giá kết quả sau quá trình HS nói và nghe về nội dung của bài học. 1.4. Kỹ năng điều chỉnh ngữ điệu nói Giọng nói yếu tố quan trọng tạo nên thành công trong cách trình bày bài nói. Khi nói, HS cần chú ý đến ngữ điệu nói như: Điểm nhấn, cách ngắt, nghỉ, biểu cảm trong quá trình nói và nghe. Đối với người nói, nói to rõ ràng, âm lượng phù hợp để đảm bảo âm lượng cần lấy hơi tốt và hít thở sâu bằng bụng cách kín đáo tránh gây nên sự “vô duyên” trong quá trình lấy hơi. Với câu nói tùy vào việc nhấn giọng ở từng chỗ mà nó tạo nên điểm nhấn và giá trị khác nhau của câu nói. Khi trình bày bài nói nếu nhưng không có điểm nhấn trong lời nói thì người nghe sẽ không nhận ra được vấn đề quan trọng trong bài, nhưng khi có sự nhấn trong quá trình nói thì sự chú ý của các bạn khác có thể sẽ tăng sự chú ý gấp nhiều lần. Nhịp điệu và tốc độ tạo nên sự thuyết phục của người nói đối với người nghe trong vấn đề trình bày. Cũng cần lưu ý tới sự xuất hiện của các từ đệm trong quá trình nói bởi nó dễ gây ra sự khó chịu đối với người nghe. Ngắt giọng là việc mà được sử dụng nhiều nhằm thu hút người nghe trong quá trình nói. Ngắt giọng là việc được nghỉ trong thời gian ngắn và giúp người nghe chuẩn bị nghe tập trung các vấn đề tiếp theo. Việc ngắt nghỉ giọng cần theo mạch trình bày và cần sự kết hợp đồng bộ giữa phần nội dung với các yếu tố phi ngôn ngữ được chọn lựa khi bổ trợ cho nội dung trình bày. 15
- 1.5. Kỹ năng phản biện, nhận xét, đánh giá Phản biện là một trong các khái niệm cần thiết không thể thiếu trong việc dạy hoc nói và nghe. Phản biện là quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chuẩn xác của vấn đề cần nói đến. Đồng thời có thể sử dụng phản biện để chỉ ra những thiếu sót, sai lầm trong lập luận. Thứ nhất, chuẩn bị trước khi đọc: Ghi nhớ lại kiến thức,trải nghiệm, góc nhìn sẵn có; lưu ý về tác giả, tác phẩm, tên gọi, đề mục, các vấn đề, ý kiến khác nhau … Thứ 2, nghe ý kiến, câu hỏi và xem lại nội dung, ghi lại các luận điểm và quan điểm, cảm nhận của bản thân. Thứ 3, chia sẻ cảm nhận dưới nhiều hình thức khác nhau. 2. Áp dụng một số hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy học phần nói – nghe. 2.1. Hình thức talk show. Dạy nói nghe qua hình thức talk show (Kiểu nói tự do theo chủ đề). Talk Show được hiểu là một chương trình phát thanh hoặc truyền hình gồm một nhóm người ngồi lại với nhau để cùng thảo luận về một vấn đề hay nội dung mà người dẫn chương trình đưa ra. Talk có một panel khách mời hiểu biết rất rõ, sâu sắc và có nhiều kinh nghiệm về vấn đề mà chương trình đưa ra thảo luận. Khi vận dụng hình thức này vào dạy học nói - nghe chúng tôi nhận thấy hình thức này vừa kích thích học sinh nói - nghe trong một hoạt động khá tự do thoải mái. Tuy nhiên người dạy chỉ lấy hình thức talk show còn các bước tổ chức và nội dung phải điều chỉnh cho phù hợp với bài học. *Các bƣớc tiến hành hình thức talk show cho phần nói-nghe Bước 1: Chuẩn bị. - Lên ý tưởng - Giáo viên lên kịch bản - Chọn học sinh dẫn chương trình (Chuẩn bị phần dẫn chương trình, GV kiểm tra và hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý) - Chọn học sinh nhập vai. - Học sinh cả lớp chuẩn kiến thức theo chủ đề Bước 2. Tiến hành thực hiện. - MC giới thiệu lý do 16
- - Mời các HS tham gia lên ngồi phía trên (Nên có một góc nhỏ được dàn dựng như sân khấu ngay bục giảng lớp để tạo không khí) - MC tương tác đặt câu hỏi giao lưu giới thiệu (Chú ý nội dung các câu hỏi xoay quanh thông của buổi nói chuyện) - Khán giả đặt câu hỏi với các khách mời. MC chủ động linh hoạt mời luân phiên các khách mời (Giáo viên chủ động đồng hành cùng MC) - Có thể xen vào một tiết mục văn nghệ hoặc một trò chơi nhỏ (có liên quan đến nội dung buổi trò chuyện) Bước 3: Kết thúc và đánh giá. - MC đặt câu hỏi và kết thúc buổi trao đổi - GV nhận xét, đánh giá và cho điểm những học sinh xuất sắc. 2.2. Hình thức cuộc thi. Dạy nói - nghe qua hình thức cuộc thi. Đây là hình thức tổ chức giờ học thành một cuộc thi có sự tham gia của các đội chơi (cá nhân hoặc tập thể). Những thành viên tham gia cuộc thi sẽ trình bày bài nói, số còn lại đóng vai khán giả sẽ là người nghe có quyền đặt câu hỏi tương tác, nhận xét, đánh giá và cho điểm các thí sinh, các đội thi. Giáo viên kết hợp cho điểm cả người nói và người nghe để tạo thêm động lực cho học sinh trong vai trò thí sinh thi hay khán giả đều cố gắng hết mình. * Các bƣớc tiến hành hình thức cuộc thi cho tiết nói-nghe Bước 1. Giới thiệu chung - Hình thức: Tổ chức hình thức cuộc thi theo mô hình cuộc thi “Miss grand internatinal”. Cuộc thi diễn ra 3 vòng: + Vòng 1: Thi catwalk trên bục giảng + Vòng 2 :Thi tài năng . + Vòng 3 : Trả lời câu hỏi – chung kết - Mục tiêu: giúp học sinh hứng thú và phát huy được nhiều kỹ năng trong đó trọng tâm kỹ năng Nói – Nghe trước mọi người. Bước 2: Chuẩn bị. - Lên ý tưởng - Chọn học sinh dẫn chương trình - Giáo viên lên kịch bản - Chọn học sinh chuẩn bị tham dự cuộc thi - Chọn BGK, MC 17
- - Học sinh cả lớp chuẩn bị kiến thức để đặt câu hỏi, nhận xét. - Chuẩn bị phiếu chấm điểm, bảng bình chọn. Bước 3: Tiến hành thực hiện - MC giới thiệu lý do - Mời các thí sinh tham dự cuộc thi trình bày nội dung - Công bố kết quả từng vòng - BGK, Khán giả đặt câu hỏi tương tác - Có thể xen vào một vài tiết mục văn nghệ thay đổi không khí. Bước 4: Kết thúc và đánh giá. - GV nhận xét đánh giá phần thi qua bài nói, cho điểm khen ngợi những học sinh nghe và tương tác tốt. Trao phần thưởng cho thí sinh đạt danh hiệu miss grand do lớp bình chọn. - GV dẫn dắt bàn luận để học sinh khắc sâu kiến thức. 2.3. Hình thức tranh biện cho phần nói-nghe Dạy nói nghe qua hình thức tranh biện (Hình thức tranh biện nhanh DEBATE) Tranh biện nhanh (DEBATE) là một hoạt động mang tính đối kháng nhưng nó lại đem đến nhiều lợi ích tích cực cho học sinh, đặc biệt là độ tuổi đang có diễn biến hình thành tư duy nhằm chuẩn bị hành trang cho sự “trưởng thành”. Tranh biện làm tăng cơ hội được lắng nghe và phát biểu trong lớp học. Trong một cuộc tranh biện, học sinh sẽ lần lượt phát biểu để phản biện lại những lập luận của đối phương. Đồng thời, các học sinh khác tham gia tranh biện, hoặc người nghe cuộc tranh biện, phải lắng nghe thật kỹ càng các luận điểm được đưa ra hoặc dẫn chứng được sử dụng để hỗ trợ một quan điểm. Nền tảng của tranh biện trong lớp học là khả năng trình bày quan điểm của mình để thuyết phục người khác. Các chủ đề tranh biện mà học sinh trung học phổ thông quan tâm sẽ có xu hướng mang tính xã hội cao bao gồm các chủ đề phức tạp liên quan tới xã hội. Những đặc điểm này rất phù hợp với tiết nghe - nói mang tính thảo luận như bài 3. *Các bƣớc tiến hành hình thức cuộc tranh biện Bước 1: Chuẩn bị. - Lên ý tưởng, chọn vấn đề cần tranh luận. - Chọn MC - Thành lập nhóm, đặt tên nhóm, mỗi nhóm chọn chọn đội chơi gồm 3 HS - Chọn HS làm BGK, MC 18
- - Phiếu chấm điểm - Giáo viên lên kịch bản - Học sinh cả lớp chuẩn kiến thức theo chủ đề Bước 2. Tiến hành thực hiện. - MC giới thiệu lý do - Mời các đội chơi lên ngồi phía trên - MC nêu lên vấn đề tranh biện - BGK theo dõi cho điểm và tổng hợp điểm - GV đặt thêm câu hỏi phụ. Bước 3: Kết thúc và đánh giá. - MC đặt câu hỏi và kết thúc buổi trao đổi - GV nhận xét, đánh giá và cho điểm những học sinh xuất sắc. 3. Thiết kế và tổ chức dạy học tiết Nói - Nghe trong chƣơng trình Ngữ văn 10 3.1. Thiết kế bài dạy sử dụng hình thức talk show. KỊCH BẢN CHƢƠNG TRÌNH TALK SHOW CHO PHẦN NÓI – NGHE BÀI 1: VÌ SAO KHÔNG PHẢI LÀ “DÒNG CHỮ CUỐI CÙNG” MÀ LÀ “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” ? 1. ĐỊNH HƢỚNG CHUNG - Hình thức: là talk show (buổi trò chuyện). - Mục tiếu: giúp học sinh liên kết với phần đọc - viết và rèn luyện kỹ năng nói - nghe từ đó hiểu hơn về “Sức hấp dẫn của truyện kể”. - Khách mời: học sinh nhập vai nhà văn Nguyễn Tuân để trở thành khách mời (sẽ có nhiều học sinh cùng tham gia nhập vai Nguyễn Tuân, học sinh nào nhập vai Nguyễn Tuân thành công nhất sẽ được cho điểm cao). GV sẽ là người thẩm định đánh giá các câu trả lời của học sinh nhập vai Nguyễn Tuân để đánh giá học sinh nào nhập vai tốt nhất. Đồng thời quá trình diễn ra talk show giáo viên theo giỏi khen ngợi và cho điểm những câu hỏi hay, tương tác xuất sắc của các học sinh là khán giả tham gia sự kiện. - Tham dự: giáo viên bộ môn và tất cả học sinh của lớp - Thời gian : 1 tiết / địa điểm: lớp học - Những điểm đặc biệt mà chương trình hướng đến: giải mã những thông tin về Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ Người tử tù” để lý giải vì sao tác giả quyết định đổi tên tác phẩm từ “Dòng chữ cuối cùng” thành “Chữ người tử tù” từ đó để thấy truyện kể có những hấp dẫn rất đặc biệt. 19
- II. CHUẨN BỊ 1. Lên ý tưởng 2. Chọn học sinh dẫn chương trình (Chuẩn bị phần dẫn chương trình, GV kiểm tra và hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý) 3. Giáo viên lên kịch bản 4. Chọn 5 học sinh nhập vai nhà văn Nguyễn Tuân (có 5 nhà văn Nguyễn Tuân tham gia khách mời): tìm hiểu trước các thông tin tri thức liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ người tử tù” 5. Học sinh cả lớp chuẩn kiến thức theo chủ đề: Vì sao không phải là “Dòng chữ cuối cùng” mà là Chữ người tử tù” III. TIẾN HÀNH THỰC HIỆN * MC giới thiệu lý do * Mời các nhà văn Nguyễn Tuân lên ngồi phía trên (Nên có một góc nhỏ được dàn dựng như sân khấu ngay bục giảng lớp để tạo không khí) * MC tương tác đặt câu hỏi giao lưu giới thiệu Nguyễn Tuân (Chú ý nội dung các câu hỏi xoay quanh thông tin tên, tuổi quê/ những giai thoại, câu chuyện hay về Nguyễn Tuân/ những điểm đặc biệt về Nguyễn Tuân) * Khán giả đặt câu hỏi với các nhà văn Nguyễn Tuân. MC chủ động linh hoạt mời luân phiên các Nguyễn Tuân trả lời, chủ động đổi nhà văn Nguyễn Tuân khác nếu nhà văn Nguyễn Tuân đang trả lời bí ý (Giáo viên chủ động đồng hành cùng MC) * Các câu hỏi liên quan đến chủ đề và những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “Chữ người tử tù”) * Có thể xen vào một tiết mục văn nghệ hoặc một trò chơi nhỏ (có liên quan đến nội dung buổi trò chuyện). III. KẾT THÚC CHƢƠNG TRÌNH * MC đặt câu hỏi: qua buổi trò chuyện hôm nay bạn nào trả lời được câu hỏi “Vì sao không phải là “Dòng chữ cuối cùng” mà là Chữ người tử tù”?”(Mời ít nhất 2 bạn trả lời. Câu trả lời trình bày dưới dạng bài nói để có sự so sánh nhận xét - các học sinh khác có thể tham gia nhận xét đánh giá chọn ra lý giải hay nhất ) * GV dẫn dắt trả lời thấu đáo vấn đề đặt ra và cho điểm những học sinh xuất sắc. BÀI 1: SỨC HẤP DẪN CỦA TRUYỆN KỂ TIẾT 9. NÓI VÀ NGHE GIỚI THIỆU, ĐÁNH GIÁ VỀ NỘI DUNG – NGHỆ THUẬT CỦA MỘT TÁC PHẨM I. Yêu cầu bài học: - Sau bài học, HS có thể: + Nêu được tên truyện, tên tác giả; khái quát được giá trị nội dung và nghệ 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
330 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
214 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
200 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p |
61 |
15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
170 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
47 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
68 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
67 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
49 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
47 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
56 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
56 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p |
29 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
52 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p |
27 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
90 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
57 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
31 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
