Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 cho học sinh trường THPTP Tương Dương 1
lượt xem 4
download
Đề tài được lựa chọn thực hiện nhằm xác định phương pháp dạy học để phát triển khả vận dụng kiến thức bài học vào cuộc sống thực tiễn cho học sinh ở huyện Tương Dương thông qua hoạt động vận dụng, theo xu hướng giáo dục mới ở trường THPT hiện hành. Qua đó tìm ra hướng đi hiệu quả hơn cho việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THPT hiện nay. Từ đó áp dụng trong thực tiễn giảng dạy để hướng dẫn học sinh, hình thành cho các em kĩ năng và phương pháp học bộ môn hiệu quả hơn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 cho học sinh trường THPTP Tương Dương 1
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây đổi mới dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh không còn là khái niệm xa lạ đối giáo viên, nhà trường và toàn xã hội. Nó không chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích mà đã trở thành một yêu cầu bắt buộc thường xuyên trong công tác giảng dạy. Đổi mới dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh được thể hiện rõ trong các hoạt động học của bài dạy trên lớp. Đó là tiêu chí để đánh giá trình độ chuyên môn và cái tâm của một giáo viên. Bởi mục tiêu cuối cùng của một bài dạy không phải là việc học sinh nắm được gì mà ở chỗ các em vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống như thế nào và sẽ gặt hái được những thành quả gì trong tương lai. Chính vì lẽ đó mà vận dụng đã trở thành một hoạt động bắt buộc đối với tất cả các bài học, môn học. Môn ngữ văn ở trong nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạch nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn ngữ văn còn giúp học sinh có nhiều hiểu biết về xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. Với tính chất một môn học công cụ, môn ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội, con người. Với tính chất giáo dục thẩm mĩ, môn ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. Những chức năng này được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động vận dụng. Trong chương trình ngữ văn 12, văn học sau năm 1975 chiếm một phần quan trọng với số lượng tác phẩm tương đối nhiều với các thể loại: tiểu thuyết, kịch, bút kí, thơ. Những văn bản được đưa vào tìm hiểu trong sách giáo khoa đều có giá trị giáo dục kĩ năng sống cho học sinh rất sâu sắc. Văn học sau 1975 ở THPT là những tác phẩm có sự gắn kết, liên hệ thực tế cao. Mặt khác, một điểm hội tụ ở những tác phẩm này đó là ẩn chứa nhiều tình huống có vấn đề, những tình huống mà học sinh khi vận dụng vào đời sống sẽ có điều kiện phát triển được các năng lực, kĩ năng sống. Để tác phẩm văn xuôi sau 1975 phát huy được hết được giá trị to lớn của mình thì giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động vận dụng. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng hiểu được hết mục đích của hoạt động vận dụng cho nên họ đã không coi trọng hoạt động này mà chỉ chú trọng nhiều đến việc hình thành kiến thức cho học sinh. Và để bao biện cho điều này nhiều người đã đưa ra lí do không đủ thời gian hoặc lực học của học sinh quá yếu không thực hiện được yêu cầu của giáo viên. Bên cạnh đó cũng có một số giáo viên tâm huyết nhưng chưa phân biệt được luyện tập với vận dụng và các dạng bài tập của bài học nên còn lúng túng. Việc tìm kiếm những giải pháp tối ưu để tổ 1
- chức tốt hoạt động vận dụng cũng khá khó khăn vì chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Địa bàn huyện Tương Dương chủ yếu là người dân tộc thiểu số như người Thái, Khơ mú, Hmông, Tày Pọong. Vì thế tỉ lệ học sinh trường THPT Tương Dương 1 chủ yếu là con em các dân tộc nói trên. Đa phần gia đình các em thường cư trú tập trung tại vùng cao, thuộc các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Do thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, các em học sinh dân tộc thiểu số trước giờ chủ yếu nói tiếng mẹ đẻ, ít giao tiếp bằng tiếng Việt, nên khả năng nắm bắt và vận dụng linh hoạt kiến thức sau nội dung tiết học còn rất hạn chế. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy năng lực người học cũng như nâng cao chất lượng dạy học. Xuất phát từ những lí do trên, trong bài viết này tôi xin mạnh dạn đề xuất: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 cho học sinh trường THPTP Tương Dương 1. II. Mục đích nghiên cứu - Ở đề tài này, người viết muốn trình bày một số một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 ở trường THPT Tương Dương 1. - Đề tài được lựa chọn thực hiện nhằm xác định phương pháp dạy học để phát triển khả vận dụng kiến thức bài học vào cuộc sống thực tiễn cho học sinh ở huyện Tương Dương thông qua hoạt động vận dụng, theo xu hướng giáo dục mới ở trường THPT hiện hành. Qua đó tìm ra hướng đi hiệu quả hơn cho việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THPT hiện nay. Từ đó áp dụng trong thực tiễn giảng dạy để hướng dẫn học sinh, hình thành cho các em kĩ năng và phương pháp học bộ môn hiệu quả hơn. - Giúp học sinh có nhiều cơ hội sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề mang tính thực tiễn. Tăng liên kết tư duy nhóm; khả năng nhìn nhận, đánh giá nhanh nhạy, chính xác, khách quan để các em có thể chủ động tìm lời giải cho các vấn đề của môn học nói riêng và các vấn đề trong cuộc sống nói chung. Từ đó giúp học sinh tự tin và cảm thấy hứng thú với môn học, đem lại hiệu quả học tập cao hơn. III. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu bản chất của “Hoạt động dạy học” trong đổi mới giáo dục hiện nay. - Nghiên cứu cơ sở lý luận của “Hoạt động vận dụng” trong bài học Ngữ văn theo công văn 5512. - Nghiên cứu đặc điểm cơ bản của văn học sau năm 1975 trong nhà trường trung học phổ thông. 2
- - Đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động vận dụng trong giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Tương Dương 1. - Phân tích cơ sở của việc việc áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 ở trường THPT Tương Dương 1. - Đề xuất một số giải pháp cụ thể để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 ở trường THPT Tương Dương 1. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả học tập của học sinh thông qua hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975. IV. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung thực hiện nghiên cứu của đề tài là tổ chức hoạt động vận dụng trong các tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 để giúp cho các em hình thành được năng lực và những kĩ năng sống cần thiết. - Nội dung kiến thức gồm 3 văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). V. Đối tượng nghiên cứu Thuộc lĩnh vực phương pháp dạy học môn Văn ở cấp THPT, đối với học sinh lớp 12. VI. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, tôi đã tiến hành áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp nghiên cứu luận - Phân tích cơ sở lý luận về “Hoạt động dạy học” trong đổi mới giáo dục hiện nay. - Phân tích đặc trưng của “Hoạt động vận dụng” trong bài học Ngữ văn theo công văn 5512 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phân tích thực trạng thực trạng tổ chức hoạt động vận dụng trong giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Tương Dương 1. 3
- - Cơ sở của việc việc áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 ở trường THPT Tương Dương 1. 3. Phương pháp tham vấn chuyên gia - Tham vấn ý kiến của giáo viên bộ môn Ngữ văn, của đồng nghiệp và một số giáo viên khác. 4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Tiến hành thực nghiệm sư phạm trên một số lớp khối 12, trường THPT Tương Dương 1. 5. Phương pháp phân tích tổng hợp - Phân tích kết quả thu được trong quá trình thực nghiệm sư phạm, đối chiếu với mục đích nghiên cứu và rút ra kết luận của đề tài. 4
- B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái quát “Hoạt động dạy học” trong đổi mới giáo dục hiện nay 1.1.1. Khái niệm “Hoạt động” - Theo quan điểm lý thuyết về hoạt động, A.N.Leontiev cho rằng hoạt động “là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể”. - Lý thuyết về hoạt động chú trọng vai trò của chủ thể hoạt động. Chủ thể chủ động tổ chức, điều khiển các hoạt động, tác động vào đối tượng. Hoạt động của con người được phân biệt với hoạt động của loài vật ở tính mục đích của hoạt động. Nghĩa là chủ thể thực hiện ý đồ của mình, biến cái “vật chất được chuyển vào trong đầu mỗi người được cải biến trong đó” (K.Marx) thành hiện thực. Như vậy, nhờ có hoạt động, con người làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu cụ thể của mình. Hiểu như trên, hoạt động có những đặc điểm sau đây: + Chủ thể của hoạt động làm việc theo kế họach. Trong quá trình hoạt động, con người biết cách tổ chức các hành động tạo thành hệ thống, lựa chọn, điều khiển linh hoạt các hoạt động phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh, tình huống. + Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng của nó. Đối tượng của hoạt động là sự vật, tri thức,....Con người thông qua hoạt động để tạo tác, chiếm lĩnh, sử dụng nó nhằm thỏa mãn nhu cầu. + Hoạt động có tính mục đích. Con người sử dụng vốn hiểu biết, kinh nghiệm, phương tiện để phát hiện, khám phá đối tượng chuyển thành ý thức, năng lực của chính mình. Tính mục đích định hướng cho chủ thể họat động, hướng tới chiếm lĩnh đối tượng. Như vậy, nói đến hoạt động bao giờ cũng có sự gắn kết giữa chủ thể, đối tượng và mục đích hoạt động. Cách hiểu khái niệm hoạt động như trên khi được vận dụng vào giáo dục sẽ giúp ta cắt nghĩa rõ hơn bản chất của hoạt động dạy học. 1.1.2. Hoạt động dạy học của giáo viên là một mặt của hoạt động sư phạm - Trước đây, người ta hiểu hoạt động sư phạm chỉ là hoạt động của người thầy. Người thầy đóng vai trò trung tâm trong quá trình dạy và học. Trong hoạt động sư phạm, người thầy chủ động từ việc chuẩn bị nội dung giảng dạy, phương pháp truyền thụ, đến những lời chỉ dẫn, những câu hỏi,... Còn học sinh tiếp nhận thụ động, học thuộc để “trả bài”. Người thầy giữ “chìa khoá tri thức”. Quan niệm này hiện nay đã lỗi thời, bị vượt qua. Vì rằng, từ góc độ khoa học sư phạm, quan 5
- niệm trên chỉ chú trọng hoạt động một mặt, hoạt động của người thầy mà không thấy được mặt kia của hoạt động sư phạm là hoạt động của trò. - Theo quan điểm lý thuyết về dạy học hiện đại, hoạt động dạy học bao gồm hoạt động của thầy và trò. Nhà tâm lý học A.Mentriskaia viết: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của một hoạt động” 1.1.3. Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác có tính đặc thù - Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Giáo viên xây dựng, thiết kế hoạt động dạy học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì công việc dạy học càng hiệu quả bấy nhiêu. - Ý kiến của Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” đã chỉ ra sự tương tác trong hoạt động dạy học mang tính đặc thù. Nói là đặc thù vì: + Thứ nhất, hoạt động dạy học nằm trong chuỗi hoạt động của con người nhưng là hoạt động nghề nghiệp. + Thứ hai, hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. Giáo viên tác động vào học sinh, học sinh phát triển, giáo viên căn cứ vào sự thay đổi ở học sinh để điều chỉnh hoạt động dạy. Hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy và trò cùng hướng về một mục tiêu. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm. + Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ phía hoạt động của người thầy trong tương tác với họat động học của trò là hướng dẫn, tổ chức hoạt động học của học sinh. Hoạt động dạy là hoạt động của người thầy tổ chức điều khiển hoạt động của trò nhằm giúp trò lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng. - Lí luận giáo dục hiện đại đã chỉ ra tính đặc thù của hoạt động dạy học. Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. Xem xét hoạt động của thầy đều có liên quan đến hoạt động của trò và ngược lại. Trong hoạt động dạy học, chủ thể hoạt động là người dạy và người học. Người học là chủ thể của hoạt động học, người dạy là chủ thể của hoạt động dạy. Thầy và trò là những chủ thể cùng nhau hoạt động, duy trì, tiếp nối hoạt động. Đối tượng của hoạt động học tập là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Mục tiêu của hoạt động dạy học là hình thành và phát triển nhân cách, năng lực của người học. Hoạt động dạy học của giáo viên mang ý nghĩa là phương tiện, là công cụ hỗ trợ thúc đẩy hoạt động học của học sinh đúng hướng và hiệu quả. “Năng lực người giáo viên là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học với chất lượng cao” (Trần Bá Hoành). 6
- - Ở Việt Nam, nhận thức về hoạt động của người dạy học như một hoạt động nghề nghiệp xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quy định chuẩn nghề nghiệp dạy học. Đây là yêu cầu chung về hoạt động dạy học cho tất cả giáo viên trong dạy các môn học ở trường phổ thông. Về phía người học, căn cứ vào mục tiêu của chương trình giáo dục, có những yêu cầu, chuẩn đánh giá để người học đáp ứng theo các thang, bậc của nền giáo dục. - Trong xu thế phát triển của khoa học, kỹ thuật trên thế giới ngày nay, nền giáo dục của mỗi quốc gia đều phải được đổi mới, cải cách để đào tạo nguồn nhân lực phù hợp trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của quốc gia và quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu này, cần thiết phải nghiên cứu hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh xuất phát từ thực tiễn của mỗi quốc gia, dân tộc và xu thế phát triển của thế giới ngày nay. 1.2. Các hoạt động cần có trong bài dạy theo công văn 5512 - Hoạt động 1: Xác định vấn đề/nhiệm vụ học tập/Mở đầu - Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới/giải quyết vấn đề/thực thi nhiệm vụ đặt ra từ Hoạt động 1 - Hoạt động 3: Luyện tập - Hoạt động 4: Vận dụng 1.3. Hoạt động vận dụng trong bài học Ngữ văn 1.3.1. Khái niệm hoạt động vận dụng Hoạt động vận dụng là hoạt động được tiến hành sau khi kiến thức bài học được triển khai và kiểm tra qua hoạt động luyện tập thực hành nhằm tạo cơ hội cho học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng, thể nghiệm giá trị đã được học vào trong cuộc sống thực tiễn ở gia đình, nhà trường và cộng đồng. 1.3.2. Đặc điểm của hoạt động vận dụng - Hoạt động vận dụng nhằm giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề mang tính thực tiễn. Đối với câu hỏi/bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh, yêu cầu câu hỏi/bài tập đưa ra phải đánh giá được 4 mức độ (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) trong đó ưu tiên những câu hỏi/bài tập gắn liền với thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm…của bản thân để giải quyết các tình huống thực tiễn đó. Triển khai ở lớp, ở nhà, cộng đồng. - Hoạt động vận dụng học sinh có thể thực hiện cá nhân hoặc theo nhóm, có thể thực hiện với cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo hoặc xã hội. 7
- - Hoạt động vận dụng sẽ kích thích sự sáng tạo, giúp học sinh hình thành năng lực hợp tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thưc hiện nhiệm vụ. - Hoạt động vận dụng nhằm tạo cho học sinh thói quen không bao giờ dừng lại với những gì đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học, ham mê học tập suốt đời. - Hoạt động vận dụng, không bắt buộc tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả học sinh phải thực hiện như nhau. Giáo viên cần quan tâm, động viên để có thể thu hút nhiều học sinh tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những học sinh có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp. - Giáo viên cần giúp học sinh tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. - Thông qua vận dụng, học sinh tự nhận thức kết quả học tập, mức độ thành công hay thiếu sót của mình, từ đó tự điều chỉnh, rèn luyện để hoàn thiện hơn. Giáo viên cần giúp học sinh kết nối những gì đã khái quát được với thực tiễn học tập. 1.3.3. Những vấn đề cần xác định trong hoạt động vận dụng - Mục tiêu: Nêu rõ mục tiêu phát triển năng lực của học sinh thông qua nhiệm vụ/yêu cầu vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn (theo từng bài hoặc nhóm bài có nội dung phù hợp). - Nội dung: Mô tả rõ yêu cầu học sinh phát hiện/đề xuất các vấn đề/tình huống trong thực tiễn gắn với nội dung bài học và vận dụng kiến thức mới học để giải quyết. - Sản phẩm: Nêu rõ yêu cầu về nội dung và hình thức báo cáo phát hiện và giải quyết tình huống/vấn đề trong thực tiễn. - Tổ chức thực hiện: Giao cho học sinh thực hiện ngoài giờ học trên lớp và nộp báo cáo để trao đổi, chia sẻ và đánh giá vào các thời điểm phù hợp trong kế hoạch giáo dục môn học/hoạt động giáo dục của giáo viên. 1.4. Một số đặc điểm của văn học sau năm 1975 trong nhà trường trung học phổ thông Trong chương trình Ngữ văn 12, một phần kiến thức mà học sinh tiếp nhận thuộc phần văn học Việt Nam sau 1975. Giai đoạn văn học này là bước tiếp nối quan trọng và liền mạch của nền văn học mới từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuy chặng đường phát triển chưa dài, song văn học Việt Nam sau 1975 đã phát triển với nhiều hướng đa dạng, tạo nên bước chuyển mạnh mẽ, để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả. Khi học văn học giai đoạn này, học sinh phải nắm được những đặc điểm cơ bản. Khi đi vào đọc - hiểu những văn 8
- bản cụ thể, học sinh có thể vận dụng những kiến thức đã học không những để cảm nhận được chiều sâu của từng văn bản mà còn biết vận dụng giá trị tác phẩm vào cuộc sống. 1.4.1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hoá - Nếu xu hướng đại chúng hoá và cách mạng hoá xu hướng vận động cơ bản của nền văn học 30 năm trong hoàn cảnh chiến tranh 1945 - 1975 thì từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở đi, dân chủ hoá trở hành xu hướng vận động bao trùm nền văn học. Văn học thời kì này không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần - tư tưởng của nó, nhưng nó được chú trọng trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cảm. - Văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại mà còn có thể và cần phải là phát ngôn của mỗi cá nhân. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà đó còn là hiện thực của đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng mọi mặt, cả hạnh phúc và bi kịch. Hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học thoả sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ. - Xu hướng dân chủ hoá của văn học đã thâm nhập và được biểu hiện trên nhiều bình diện của sáng tác từ hệ đề tài, các kiểu kết cấu và mô típ chủ đề, cốt truyện, nhân vật cho đến giọng điệu và ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật. Xu hướng dân chủ hoá đã đưa đến sự nở rộ của các phong cách, bút pháp, bộc lộ hết mình các cá tính sáng tạo của nhà văn cùng với việc tìm kiếm, thử nghiệm nhiều hình thức và thủ pháp thể hiện mới. 1.4.2. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm của nền văn học sau năm 1975 - Từ sau năm 1975, cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người trở về với muôn mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. - Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con người trong văn học sau 1975 được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình. Con người 9
- cũng được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát. 1.4.3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại - Xu hướng dân chủ và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đưa tới sự phát triển phong phú, sôi nổi, đa dạng của văn học từ sau năm 1975. Sự phong phú và đa dạng được thể hiện trên nhiều bình diện của văn học: đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về phong cách và khuynh hướng thẩm mĩ. Quả thực khu vườn văn học ngày nay là một cảnh tượng rất đa sắc màu, nhiều giáng vẻ, song cũng khá phức tạp và đầy biến động. - Trong xu thế hội nhập, sự giao lưu với đời sống văn hoá và văn học thế giới ngày càng mở rộng, cùng với những nhu cầu nội tại của đời sống văn hoá tinh thần trong nước, văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh và đa giọng điệu. Những nỗ lực trong thơ đã đưa đến nhiều thể nghiệm theo hướng hiện đại chủ nghĩa. - Những sự đổi mới trên phù hợp với những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của giai đoạn này. Do đó, khi dạy các tác phẩm sau 1975 chúng ta cần thấy trên đây là những vấn đề cơ bản mà người giáo viên cần nắm để vận dụng vào trong bài dạy và cần giúp học sinh thấy được điểm đổi mới của văn học sau 1975 trong sự đối chiếu với văn học trước 1975. 2. Cơ sở thực tiễn Văn học Việt Nam sau 1975 trong chương trình SGK Ngữ văn 12 THPT hiện nay có 7 tác phẩm được đưa vào chương trình và được sắp xếp theo đặc trưng thể loại. Bao gồm 5 thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, kịch. Đó đều là những tác phẩm gây được tiếng vang lớn trong nền văn học Việt Nam sau 1975. Thống kê các văn bản văn học Việt Nam sau 1975 trong SGK Ngữ văn 12 THPT (Bộ sách Cơ bản) STT Bài học Tác giả Thể Học KK Giảm loại chính HS tự tải thức đọc 1 Đò Lèn Nguyễn Duy Thơ x 2 Đàn ghita của Thanh Thảo Thơ x x Lorca 3 Ai đã đặt tên cho Hoàng Phủ Bút kí x dòng sông ? 10
- 4 Chiếc thuyền ngoài Nguyễn Truyện x xa Minh Châu ngắn 5 Một người Hà Nội Nguyễn Truyện Khải ngắn 6 Mùa lá rụng trong Ma Văn Tiểu x vườn Kháng thuyết 7 Hồn Trương Ba, da Lưu Quang Kịch x hàng thịt Vũ Tổng cộng: 03 bài học chính, 3 bài khuyến khích 03 03 01 học sinh tự đọc ở nhà, 01 bài giảm tải. Trong bài viết này, tôi chú trọng vào hoạt động vận dụng đối với 3 tác phẩm học chính: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). 2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động vận dụng trong giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Tương Dương 1 Trong những năm gần đây, bộ môn Ngữ văn ở trường THPT đã có nhiều thay đổi tích cực về nội dung, phương pháp dạy học. Phần lớn giáo viên hiện nay ở các trường đã nhận thức được việc cần phải đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Nhiều phương pháp dạy học mới được giáo viên tiến hành trong quá trình giảng dạy như: dạy học dự án, thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề…đã mang lại kết quả tốt, giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách tốt hơn và đồng thời cũng cho bản thân người giáo viên cảm thấy hứng thú, say mê với sự nghiệp. Giáo viên đã biết lồng ghép việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong mỗi bài học ngữ văn để giúp các em vận dụng tốt những kiến thức đã học vào cuộc sống. Tuy nhiên điều này chưa được thực hiện một cách thường xuyên. Bởi phần lớn giáo viên vẫn còn coi trọng việc truyền thụ kiến thức để đáp ứng nhu cầu thi cử, đặc biệt là ở khối 12. Hầu như việc vận dụng liên hệ chỉ được thực hiện tốt đối với những tiết dự giờ thao giảng hoặc thi giáo viên giỏi. Do áp lực về thời gian, giới hạn chương trình nên trong các giờ học thường ưu tiên tập trung khai thác chiều sâu tác phẩm, khai thác xem tác phẩm đó viết gì, nói gì. Theo đó, trong quá trình lên lớp vấn đề vận dụng ít được quan tâm, chưa tạo cho học sinh có thói quen xâu chuỗi, liên hệ giữa kiến thức đang học với kiến thức đã học và các kiến thức thực tiễn có liên quan. Trong quá trình dạy học, mặc dù biết là trong những tác phẩm có tình huống hoặc có thể tự xây dựng để đặt học sinh vào tình huống đó, nhưng nhiều giáo viên 11
- vẫn chưa biết cách thức tổ chức sao cho hợp lí vào bài học, vì thế đã không khai thác hết hiệu quả những tình huống thực tiễn của bài học. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến quá trình tương tác giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh diễn ra còn hạn chế. Làm cho văn học còn mạng tính hàn lâm sách vở mà chưa thực sự đi vào đời sống của các em. Ngày 18 tháng 12 năm 2020, Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành công văn 5512 hướng dẫn về việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường cấp THCS, THPT. Trong đó, Phụ lục IV hướng dẫn cụ thể “Khung kế hoạch bài dạy”, bắt buộc tất cả các bài học trên lớp, ngoài hoạt động khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập thì còn phải có hoạt động vận dụng. Chính vì vậy từ năm học này tất cả giáo viên trong tổ đều thực hiện theo khung giáo án mới của Bộ, và Sở giáo dục và đào tạo đối với môn Ngữ văn. Giáo viên đã cố gắng nỗ lực để hoàn thiện các hoạt động dạy học một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, khi tổ chức hoạt động vận dụng, nhiều giáo viên vẫn còn lúng túng. Do đó hiệu quả của hoạt động này ở một số bài chưa cao. Từ thực trạng trên đã đặt ra một yêu cầu bức thiết là cần phải tìm ra những giải pháp tối ưu để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động vận dụng trong các tiết đọc hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 nói riêng và môn Ngữ văn nói chung ở trường THPT Tương Dương 1. 2.2. Cơ sở áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 ở trường THPT Tương Dương 1 - Bản thân là một giáo viên ham tìm tòi các phương pháp dạy học mới. Được nhà trường tạo điều kiện cho tham gia đầy đủ các cuộc tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học. - Kiến thức của các tác phẩm văn học sau năm 1975 trong chương trình ngữ văn 12 tương đối dễ hiểu, gần gũi với thực tế đời sống, giúp học sinh liên hệ, rút ra được nhiều điều bổ ích. - Học sinh rất thích thú khi thực hiện các hoạt động vận dụng, đặc biệt là những câu hỏi gắn liền với thực tế đời sống. Đây là điều kiện lí tưởng để khơi nguồn cảm hứng trong hoạt động học tập của học sinh. - Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh có thể tìm hiểu các thông tin hỗ trợ cho bài học khi cần thiết. - Một số giáo viên trong trường, đặc biệt trong tổ/nhóm rất hào hứng với các phương pháp dạy học này nên rất nhiệt tình hỗ trợ. - Đặc thù là một trường miền núi, khả năng nắm bắt và vận dụng linh hoạt kiến thức sau tiết học của học sinh vẫn còn hạn chế, hầu hết học sinh chỉ học để phục vụ các kì thi, chưa coi trọng tính thực tiễn của môn văn. 12
- 2.3. Điều tra thống kê Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã tiến thăm dò ý kiến của các giáo viên trong nhóm Văn và học sinh lớp 12A, 12C, 12G ở trường THPT Tương Dương 1. * Đối với giáo viên: giáo viên trong nhóm Văn. Tôi đã tiến hành điều tra bằng 2 câu hỏi: Câu 1: Thầy/cô hãy cho biết mức độ về sự cần thiết của hoạt động vận dụng trong bài học của môn Ngữ văn? Câu 2: Hoạt động vận dụng ở môn ngữ văn trong thời gian qua đã được tổ chức như thế nào? Sau khi tổng hợp, tôi thấy kết quả như sau: Tổng số Kết quả điều tra GV điều Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 tra Rất cần Cần thiết Không Rất tốt Tốt Bình thiết cần thiết thường 8 6 2 0 2 4 2 Tỉ lệ 75% 25% 0% 25% 50% 25% * Đối với học sinh: học sinh khối 12, trường THPT Tương Dương 1, năm học 2021 - 2022. Khảo sát về mức độ hứng thú của học sinh khi tham gia hoạt động vận dụng trong các tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975. Câu hỏi: Hãy cho biết mức độ hứng thú của em khi tham gia hoạt động vận dụng trong các tiết đọc - hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 Tổng Kết quả khảo sát các mức độ hứng thú của học sinh số Rất thích Thích Thích vừa Không thích HS SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ % % % % 75 42 56% 20 26,7% 11 14,7% 2 2,6% * Nhận định đánh giá - Từ thực tiễn của chương trình, qua thực tế giảng dạy ở đơn vị và đặc biệt là qua hai phiếu khảo sát tôi nhận thấy việc tổ chức tốt hoạt động vận dụng trong các tiết đọc hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 rất được giáo viên quan tâm nhưng vấn đề thực hiện thì chưa thực sự được chú trọng dẫn đến hiệu quả vẫn còn thấp. 13
- - Hầu hết học sinh đều rất thích thú khi được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động vận dụng. Tuy nhiên, các em cũng gặp phải một số khó khăn vì vốn hiểu biết, vốn sống còn tương đối hạn chế. CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG TRONG TIẾT ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC SAU NĂM 1975 Ở TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 1. Cần phân biệt được dạng bài tập luyện tập và vận dụng - Thực tế giảng dạy cho thấy rất nhiều giáo viên còn nhầm lẫn giữa vận dụng và luyện tập. Thậm chí nhiều người còn đánh đồng vận dụng cũng giống như luyện tập. Vì vậy trong nhiều bài dạy, hai hoạt động này không được phân biệt một cách rạch ròi, đôi khi còn lẫn lộn giữa dạng câu hỏi của hoạt động này với hoạt động kia. Sở dĩ có sự nhầm lẫn như trên là do giáo viên chưa nắm vững được mục đích, yêu cầu của hai hoạt động trên. Chính vì vậy để tổ chức tốt hoạt động luyện tập và vận dụng thì giáo viên cần nắm vững mục đích, yêu cầu của từng hoạt động. Cụ thể: - Hoạt động luyện tập yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu được ở hoạt động 2 (hình thành kiến thức) để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, qua đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào. Đây là những hoạt động như trình bày, luyện tập, bài thực hành,…giúp cho các em thực hiện tất cả những hiểu biết ở trên lớp và biến những kiến thức thành kĩ năng. Hoạt động luyện tập có thể thực hiện qua hoạt động cá nhân rồi đến hoạt động nhóm để các em học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn. Ví dụ: Sau khi học xong văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Qua câu chuyện về cuộc đời người đàn bà, nhà văn muốn gửi gắm điều gì? Câu hỏi này nhằm mục đích kiểm tra việc tiếp thu bài của học sinh từ đó giáo viên có thể đánh giá được mức độ tập trung chú ý của học sinh trong tiết học. Học sinh sẽ dựa vào hoạt động hình hành kiến thức ở phần 2 để trả lời câu hỏi. Các em có thể đưa ra các ý cơ bản như: + Đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh gia sự vật hiện tượng trong mối quan hệ đa diện, nhiều chiều; + Cái xấu, cái ác tồn tại trong cuộc đời con người như một lẽ bất khả kháng cần tìm ra cội nguồn phát sinh để loại bỏ nó đem lại bình yên cho cuộc sống con người; + Để giải phóng con người khỏi đói nghèo tăm tối, khổ đau cần phải có giải pháp thiết thực mang tính toàn xã hội chứ không phải bằng thiện chí, lí thuyết sách vở xa rời thực tế,.... 14
- - Hoạt động vận dụng nhằm tạo cơ hội cho học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng, thể nghiệm giá trị đã được học vào trong cuộc sống thực tiễn ở gia đình, nhà trường và cộng đồng. Với hoạt động này, học sinh có thể thực hiện cá nhân hoặc theo nhóm, có thể thực hiện với cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo hoặc xã hội. Có những trường hợp hoạt động vận dụng được thực hiện ngay ở lớp học hay trong nhà trường. Ví dụ: Cũng với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện câu hỏi vận dụng: Qua câu chuyện của gia đình người đàn bà làng chài, em rút ra được bài học gì trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình? Với câu hỏi trên, buộc học sinh phải suy nghĩ, liên hệ tới cuộc sống của gia đình mình hoặc những người xung quanh để đưa ra giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc về đời sống vật chất, tinh thần. Mỗi học sinh có một hoàn cảnh khác nhau nên chắc chắn các câu trả lời các em đưa ra sẽ không giống nhau. Qua đó, học sinh có thể vận dụng những hiểu biết của bản thân, của bạn học vào cuộc sống sau này. Với những câu hỏi này giáo viên hãy để học sinh trình bày tự do và tôn trọng ý kiến của các em. Giáo viên không nên quy ép theo suy nghĩ chủ quan của bản thân. Như vậy, có thể thấy mục đích của hoạt động luyện tập và vận dụng là hoàn toàn khác nhau. Do đó giáo viên cần nắm vững để tổ chức các hoạt động một cách có hiệu quả. 2. Xác định được các dạng câu hỏi vận dụng của từng bài học cụ thể Tác phẩm văn học sau năm 1975 trong chương trình ngữ văn 12 khá đa dạng về thể loại (truyện ngắn, kịch, kí, thơ). Dù số lượng không nhiều nhưng các văn bản trong sách giáo khoa đã tái hiện cuộc sống một cách phong phú, từ hiện thực xã hội cho đến đời sống tư tưởng, tình cảm của con người. Chính vì vậy, khi dạy bộ phận văn học này giáo viên rất dễ dàng đặt ra câu hỏi vận dụng cho học sinh. Cụ thể: * Thứ nhất, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra được bài học Ví dụ 1: Sau khi học xong văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện câu hỏi vận dụng: Qua đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, em hãy đề xuất một số bài học bổ ích trong việc bảo vệ, phát triển giá trị tự nhiên của cảnh quan đất nước? Ví dụ 2: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, giáo viên đặt câu hỏi: Qua đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chưa”, em rút ra được bài học gì trong cách sống của bản thân? * Thứ hai, giáo viên yêu cầu học sinh bày tỏ suy nghĩ và quan niệm của bản thân, liên hệ với đời sống thực tại 15
- Ví dụ 1: Đối với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, giáo viên đặt câu hỏi: Cho biết nguyên nhân bạo lực trong gia đình người đàn bà hàng chài. Em có đồng tình với cách xử sự của người đàn bà như trong tác phẩm không? Nếu ở địa vị người đàn bà ấy thì em sẽ xử sự như thế nào? Ví dụ 2: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, giáo viên đặt câu hỏi: Em đã bao giờ từng rơi vào hoàn cảnh “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chưa”? Em đã làm gì để vượt qua tình cảnh đó? Hoặc Từ cách làm việc của Đế Thích, Lý trưởng trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, em có suy nghĩ gì về tình trạng quan liêu, ích kỉ, hèn nhát của một số quan chức trong xã hội hiện nay? Ví dụ 3: Đối với văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên đặt câu hỏi: Để phát triển du lịch sinh thái, có nhà đầu tư đề xuất xây dựng các khu nghỉ dưỡng trên một số ngọn đồi vùng ngoại ô thành phố Huế. Nếu em là người dân của Huế thì em sẽ có ý kiến như thế nào?Vì sao? * Thứ ba, giáo viên yêu cầu học sinh sân khấu hóa tác phẩm Ví dụ 1: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chưa” của Lưu Quang Vũ: Yêu cầu HS dựng lại một cảnh ấn tượng trong vở kịch. Ví dụ 2: Đối với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Yêu cầu HS dựng lại cảnh người đàn bà hàng chài ở toà án huyện. * Thứ tư, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm và so sánh với những tác phẩm có nội dung tương tự Ví dụ 1: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chưa” của Lưu Quang Vũ, giáo viên yêu cầu: Tìm đọc truyện dân gian Hồn Trương Ba, da hàng thịt. So sánh những yếu tố kế thừa và sáng tạo của Lưu Quang Vũ? Ví dụ 2: Đối với văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên yêu cầu: So sánh vẻ đẹp sông Hương với sông Đà? Chỉ ra nét riêng trong văn phong của hai tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân? * Thứ năm, giáo viên yêu cầu học sinh viết sáng tạo hoặc sáng tác một tác phẩm cùng thể loại Ví dụ 1: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, giáo viên đưa ra tình huống: Giả định Đế Thích cho Trương Ba được quyền sống (không phải mượn) trong xác hàng thịt hoặc hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị và Trương Ba đồng ý. Theo em, cuộc sống của Trương Ba sau đó sẽ như thế nào. Trình bày ý tưởng về những rắc rối xảy ra và viết một lớp bi kịch ngắn về điều đó? 16
- Ví dụ 2: Sau khi học xong bài “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên khuyến khích HS tập viết truyện ngắn, bút kí. * Thứ sáu, giáo viên yêu cầu học sinh vẽ tranh tái hiện một nội dung, một khía cạnh nào đó liên quan đến bài học Ví dụ 1: Đối với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Sau khi học xong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, em hãy tái hiện bằng nghệ thuật hội họa với chủ đề: Gia đình của em. Ví dụ 2: Đối với văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên yêu cầu: Em hãy tưởng tượng và vẽ lại cảnh mà em ấn tượng về dòng sông Hương hoặc một dòng sông mà em yêu quý. * Thứ bảy, giáo viên yêu cầu học sinh cảm nhận và viết bài thu hoạch về vấn đề tâm đắc sau khi học xong tác phẩm Ví dụ 1: Đối với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, giáo viên gợi ý chủ đề: Từ văn bản Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, em hãy viết bài bàn về một trong các chủ đề sau: Em yêu gia đình; Bạo lực gia đình tại địa phương em trong thời gian dịch Côvit 19 kéo dài? Ví dụ 2: Đối với văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên gợi ý chủ đề: Sau khi học xong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, em hãy viết bài giới thiệu về dòng sông quê hương em. Ví dụ 3: Đối với văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chưa” của Lưu Quang Vũ, giáo viên gợi ý chủ đề: Sau khi học xong đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, em hãy viết bài bàn về chủ đề: Em muốn được là chính mình. Trên đây là một số dạng câu hỏi mang tính chất định hướng cho hoạt động vận dụng trong bài dạy tác phẩm văn học sau 1975. Khi xác định được cụ thể, chính xác nội dung và phương pháp thì việc tổ chức hoạt đông vận dụng sẽ trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. 3. Lựa chọn bài tập vận dụng phù hợp với mục tiêu cần đạt về kiến thức, năng lực, phẩm chất và trình độ tiếp nhận của học sinh Như đã trình bày ở mục 2, câu hỏi vận dụng trong tiết đọc hiểu tác phẩm văn học sau năm 1975 rất đa dạng. Không những thế trong một bài học giáo viên có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi vận dụng khác nhau. Ví dụ đối với bài dạy Chiếc thuyền ngoài xa, giáo viên có thể nêu ra rất nhiều yêu cầu vận dụng cho học sinh thực hiện như: tái hiện cảnh bằng nghệ thuật hội họa; dựng lại cảnh bằng nghệ thuật sân khấu; yêu cầu học sinh rút ra được bài học, bày tỏ suy nghĩ và quan niệm của bản thân, liên hệ với đời sống thực tại; sưu tầm và so sánh với những tác phẩm có nội dung tương tự; viết sáng tạo về vấn đề tâm đắc trong tác phẩm. Nhưng với lượng 17
- thời gian có hạn, năng lực học sinh ở các lớp không giống nhau, giáo viên không thể một lúc ở các lớp dạy đưa tất cả những câu hỏi trên vào hoạt động vận dụng và yêu cầu học sinh thực hiện nhiệm vụ như nhau. Do đó chúng ta phải lựa chọn dạng câu hỏi phù hợp với mục tiêu cần đạt về kiến thức, năng lực, phẩm chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hệ thống câu hỏi, yêu cầu phong phú sẽ tạo cho học sinh có cơ hội lựa chọn vấn đề thực hiện, từ đó phát huy được năng lực, sở trường thực sự của các em. Thực tế cho thấy nhiều giáo viên chỉ coi vận dụng là hoạt động phụ, có thực hiện được hay không cũng không vấn đề gì. Chính vì vậy, trong kế hoạch, họ chỉ soạn với tính chất đối phó là chính nên hầu hết đều không chú ý đến mực độ phù hợp của câu hỏi với mục tiêu cần đạt về kiến thức, năng lực, phẩm chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Đôi khi những câu hỏi đặt ra vượt quá khá năng nhận thức của học sinh thì vô hình chung đó chỉ là yêu cầu cho vui mà thôi. Ví dụ, một lớp chủ yếu là học sinh yếu và trung bình mà bắt các em viết sáng tạo hay sáng tác một tác phẩm cùng thể loại thì rất khó thu được kết quả như mong đợi. Trong dạy học vận dụng, căn cứ vào mục đích bài học, khả năng của học sinh mỗi lớp, ở mỗi bài, tôi thường linh hoạt đưa ra một số vấn đề, tình huống liên hệ để học sinh có cơ hội lựa chọn đơn vị kiến thức phù hợp với năng lực, sở trường của chính mình. Lớp có nhiều học sinh khá giỏi có thể tăng độ khó, những tình huống phức tạp hơn lớp trung bình, yếu. Phổ biến nhất vẫn là hình thức chia nhiệm vụ theo nhóm để các em hỗ trợ cho nhau, cùng nhau tiến bộ. Hội đồng tự quản của lớp sẽ đảm nhiệm trách nhiệm chính trong công tác tư vấn, thực hiện, nghiệm thu sản phẩm. Thiết nghĩ nếu ai thực sự nhận thấy được tầm quan trọng của hoạt động vận dụng và mong muốn hướng giá trị của văn học vào lợi ích của cuộc sống, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết thì cần thực hiện nghiêm túc hoạt động này bắt đầu từ việc xác định dạng câu hỏi và lựa chọn yêu cầu phù hợp. 4. Làm tốt khâu chuẩn bị cho hoạt động vận dụng của học sinh Như chúng ta đã biết, câu hỏi vận dụng luôn hướng tới thực tiễn nằm ngoài văn bản sách giáo khoa do đó học sinh không dễ dàng trong một thời gian ngắn trên lớp mà có thể tìm ra được đáp án đầy đủ và chính xác. Đó là chưa kể đến một số yêu cầu như sân khấu hóa, sáng tác một tác phẩm cùng chủ đề, thực hiện trải nghiệm, viết báo cáo thu hoạch cho một chủ đề học tập đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Chính vì vậy để hoạt động vận dụng của bài học đạt được hiệu quả thì giáo viên cần làm tốt bước chuyển giao nhiệm vụ. Trong giờ dạy, người giáo viên cần chủ động kết thúc và giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh. Thông thường ít nhất 3 đến 5 phút trước khi kết thúc tiết dạy (nếu không tiếp tục dạy ở tiết sau), giáo viên cần cho các em dừng việc học tập ở trên lớp lại, có thể lúc đó công việc trên lớp vẫn còn dang dở. Vấn đề là ở chỗ cần 18
- xử lý tình huống sư phạm như thế nào cho từng nhóm, từng em ở trong lớp. Giáo viên cần căn cứ kết quả và tiến độ hoạt động của từng nhóm học sinh để giao việc về nhà cho học sinh. Việc học tập ở nhà (ngoài lớp) có thể hướng dẫn cụ thể: + Đối với các nhóm hoạt động còn dang dở: Tiếp tục về nhà nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề chưa xong trên lớp, gợi ý các em các thực hiện ở nhà và vận dụng vào thực tiễn. Yêu cầu các em báo cáo kết quả thực hiện ở nhà thông qua các sản phẩm học tập. + Đối với các nhóm đã thực hiện xong: Cần giao nhiệm vụ cho các em tiếp tục vận dụng thực tiễn, đề xuất các phương án khác đã có trong bài học. Yêu cầu các em báo cáo kết quả thực hiện ở nhà thông qua các sản phẩm học tập. Không nên giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh bằng những câu hỏi, bài tập có tính chất học thuộc lòng máy móc, mà nên lựa chọn những tình huống, nhiệm vụ học tập bổ ích liên quan đến thực tiễn đòi hỏi các em phải hợp tác với cộng đồng để tìm tòi, khám phá. Trong phần hướng dẫn học sinh soạn bài mới, giáo viên phải đặt ra nhiệm vụ cụ thể của hoạt động vận dụng cho từng nhóm hoặc cá nhân và yêu cầu các em phải chuẩn bị tốt ở nhà về mọi mặt. Ngoài hệ thống kiến thức cơ bản học sinh cần có, giáo viên sẽ lựa chọn một số vấn đề ngoài văn bản có thể cho các em chuẩn bị trước ở nhà. Ví dụ: Đối với văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ ở nhà theo nhóm: + Nhóm 1: Sân khấu hoá một cảnh ấn tượng trong đoạn trích. + Nhóm 2: Vẽ tranh về chủ đề gia đình. + Nhóm 3, 4: Tìm hiểu về nạn bạo hành gia đình tại địa phương em trong thời gian dịch Covid 19 kéo dài. Khi học sinh làm tốt khâu này, bài học trên lớp diễn ra rất sôi nổi, hiệu quả cao. Để khích lệ tinh thần và ghi nhận những nỗ lực của các nhóm thì giáo viên cần cộng điểm cho những sản phẩm vượt trội. 5. Tích cực sử dụng các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh 5.1. Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống Trong nhịp sống hiện đại, với đặc điểm thích tìm tòi, khám phá những điều mới lạ thực tế của giới trẻ thì một tác phẩm văn học chỉ có thể đọng lại trong tâm trí các em khi nó thực sự có ý nghĩa thực tiễn. Bản thân học sinh rất khó phát hiện được điều này từ tác phẩm. Chính vì vậy trong các tiết đọc văn, giáo viên phải tạo ra được những tình huống có vấn đề, mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời 19
- sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân, sau đó được thảo luận nhóm để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất. Điều này vừa giúp các em cảm thấy thích thú đối với việc tìm hiểu các tác phẩm văn học, vừa góp phần giáo dục những kĩ năng sống cần thiết. Đó là những kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng kiểm soát cảm xúc, kĩ năng ứng phó với căng thẳng, kĩ năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng tư duy phê phán,... Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tôi nhận thấy trong hoạt động dạy học ngữ văn sau 1975, GV có thể vận dụng một số tình huống có vấn đề sau: * Tình huống nghịch lí Tình huống nghịch lí được tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện, hiện tượng trái với quan điểm thông thường và quan điểm của cá nhân người học. Trước sự việc nhìn tưởng là thuận với lẽ thông thường của cuộc sống, nhưng lại ẩn chứa bên trong sự trái chiều, mâu thuẫn, điều này tạo ra sự hoài nghi cho người đọc. Phải có một cách thức giải quyết để làm sáng tỏ mâu thuẫn đó. Nó đòi hỏi người học phải suy luận, phản biện để tìm ra được căn nguyên của vấn đề. Ví dụ minh họa: Trong văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, một tình huống truyện mang tính chất nghịch lí được xây dựng, đó là: Cho biết nguyên nhân bạo lực trong gia đình người đàn bà hàng chài. Em có đồng tình với cách xử sự của người đàn bà như trong tác phẩm không? Nếu ở địa vị người đàn bà ấy (hoặc Phác) thì em sẽ xử sự như thế nào?(học sinh nữ trong vai người mẹ; học sinh nam trong vai Phác để trả lời). Học sinh đã đưa ra rất nhiều ý kiến hay, ấn tượng, có cả những ý kiến trái chiều tạo bất ngờ cho người dạy. Đã có học sinh lớp 12A bộc lộ quan điểm không chấp nhận thái độ nhẫn nhục cam chịu và sự lựa chọn không bỏ chồng của người đàn bà hàng chài. Học sinh thể hiện quan điểm của mình rằng nếu là con của một người mẹ như thế chắc chắn em sẽ không chấp nhận cuộc sống mà người mẹ ấy chịu đựng đề gìn giữ cho mình. Em còn cho rằng, phản ứng đáng sợ của thằng Phác một phần lớn là lỗi của người đàn bà hàng chài. Nó không muốn mẹ phải chịu đựng thêm và hơn nữa nó chẳng hạnh phúc gì khi sống trong cảnh bi kịch gia đình như thế. Người đàn bà hàng chài còn chịu đựng nghịch cảnh bi kịch gia đình kéo dài nữa thì tương lai của chúng cũng sẽ tăm tối, đáng buồn. Theo học sinh này, li hôn là điều nghười phụ nữ này cần làm để bảo vệ mình, bảo vệ các con khỏi cuộc sống đoạ đày ấy. Em còn đưa ra các dẫn chứng thực tế về những người mẹ đã dũng cảm lựa chọn con đường ấy và họ đã không chỉ giải thoát cho chính khỏi sự bạo hành, bất hạnh mà còn mang lại cho con cái họ một tương lai tốt đẹp hơn. Trong tình huống ẩn chứa sự việc có vấn đề. Đứng trước sự hoài nghi về nhận thức đó, sẽ thúc đẩy các em tư duy, tìm ra bản chất của vấn đề, qua đó sẽ thúc đẩy khả năng tư duy phản biện, xử lý và ứng phó với tình huống của các em. Thông qua việc giải quyết tình huống dạng này, học sinh sẽ khắc sâu tri thức bài học nhờ có sự tranh luận, phản biện lại lẫn nhau từ vấn đề được đặt ra; qua đó giúp 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 274 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 175 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 22 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn