intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS tại trường THPT Cửa Lò hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS tại trường THPT Cửa Lò hiện nay" được hoàn thành với mục tiêu nhằm góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng truyền thông và xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hiệu quả các hoạt động truyền thông tại trường THPT Cửa Lò.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS tại trường THPT Cửa Lò hiện nay

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CỬA LÒ ---------------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO KỸ NĂNG TRUYỀN THÔNG CHO HỌC SINH TẠI TRƯỜNG THPT CỬA LÒ HIỆN NAY Lĩnh vực : Quản lý Nhóm tác giả : Hà Thị Vinh Tâm Lê Văn Hoàng Võ Văn Hoàn Đơn vị : Trường THPT Cửa Lò Số điện thoại : 0963347526 Năm học 2023 – 2024
  2. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Hiện nay, đổi mới giáo dục đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền giáo dục Việt Nam cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới hiện nay. Từ sự thay đổi mục tiêu giáo dục thì phương pháp giáo dục cũng phải thay đổi theo. Đó là dạy học phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học, chuyển trọng tâm hoạt động từ giáo viên sang HS. 1.2.Xu thế phát triển của giáo dục Việt Nam cũng như trên thế giới là đang chú trọng hình thành và phát triển kỹ năng của HS thế kỉ XXI. Còn ở Việt Nam, những năm gần đây, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể về đổi mới chương trình sách giáo khoa đang chú trọng tới hình thành và phát triển “5 phẩm chất và 10 năng lực” . 1.3. Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được chú trọng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bản thân. Một trong những nhu cầu đó là trao đổi thông tin với sự phát triển mạnh mẽ của ngành truyền thông. Từ thực tế của đời sống xã hội, ngành giáo dục đặt ra yêu cầu phải đào tạo được thế hệ người toàn diện, năng động, sáng tạo trước những vấn đề nảy sinh của đời sống, biết nắm bắt, xử lý và kết nối thông tin. 1.4. Trong thực tiễn giáo dục hiện nay, hoạt động truyền thông tại các trường học đang được các nhà giáo dục rất quan tâm. Ở bậc THPT còn chưa được đầu tư thỏa đáng, việc nghiên cứu, vận dụng còn mang tính rời rạc, chưa hệ thống, thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, kỹ năng truyền thông ở HS còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Tuy đây không phải là hoạt động chủ đạo nhưng là bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục trong nhà trường phổ thông, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ. Xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống và xã hội về chất lượng nguồn nhân lực, mục tiêu giáo dục và thực tiễn dạy học ở trường THPT Cửa Lò, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS tại trường THPT Cửa Lò hiện nay”.
  3. 2. Tính mới của đề tài - Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng truyền thông và xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hiệu quả các hoạt động truyền thông tại trường THPT Cửa Lò. - Đánh giá khách quan những ưu điểm và tồn tại của công tác giáo dục kỹ năng truyền thông cho HS thông tại trường THPT Cửa Lò hiện nay. Đó là cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp rèn luyện kỹ năng này cho HS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục tại trường THPT Cửa Lò theo chương trình GDPT tổng thể 2018. - Đề xuất những giải pháp cụ thể nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS tại trường THPT Cửa Lò nói riêng và có khả năng áp dụng đối với các trường THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung một cách toàn diện, cụ thể. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu; Phương pháp thực nghiệm sư phạm; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp phân tích - tổng hợp; Phương pháp so sánh,… 4. Phạm vi nghiên cứu HS ở trường THPT Cửa Lò ở 3 khối lớp từ tháng 9 năm 2022 đến nay, chúng tôi đã chú ý đến việc phát triển kỹ năng truyền thông cho HS để rút kinh nghiệm và góp phần làm tốt hơn công tác giáo dục HS hiện nay. 5. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm: - Cơ sở khoa học - Thực trạng giáo dục kỹ năng truyền thông cho HS ở trường THPT Cửa Lò - Một số giải pháp nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS trường THPT Cửa Lò - Kết quả thực hiện. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
  4. 1. Cơ sở khoa học 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.Kỹ năng truyền thông - Khái niệm kỹ năng Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh vực nào đó vào thực tế.”( Tr.517). Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép. - Khái lược về truyền thông “Truyền thông” có gốc từ tiếng La tinh là “communicare”, nghĩa là biến nó thành thông thường (hay thực tế), chia sẻ, truyền tải thành cái chung. Có thể dẫn hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về “truyền thông”. Tuy nhiên, các định nghĩa, quan niệm khác nhau này vẫn có những điểm chung. Truyền thông thường được mô tả như việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một người/ một nhóm người sang một người/ một nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc các loại ký hiệu khác. Về thực chất, đó là quá trình trao đổi, tương tác thông tin, tư tưởng, tình cảm, kiến thức và kinh nghiệm với nhau về các vấn đề của đời sống cá nhân/ nhóm/ xã hội, từ đó tăng vốn hiểu biết chung, hình thành hoặc thay đổi nhận thức, thái độ, chuyển đổi hành vi cá nhân/ nhóm/ xã hội theo hướng có lợi cho cộng đồng, cho sự phát triển bền vững. Mục đích cuối cùng của truyền thông là thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của cộng đồng xã hội. Trong cuốn sách “Nghệ thuật thiết lập truyền thông” của Thích Nhất Hạnh đã đánh giá: “ Mỗi cá nhân, mỗi sinh vật luôn luôn sử dụng truyền thông. Chúng ta thường cho rằng truyền thông là những gì chúng ta viết hay chúng ta nói”. Từ quan niệm trên đây và từ thực tiễn vận động của truyền thông, có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về “truyền thông” như sau: “Truyền thông” là quá trình liên tục trao đổi và tương tác thông tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người với nhau nhằm tăng cường sự hiểu biết, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm hoặc của cộng đồng xã hội nói chung, đảm bảo sự phát triển bền vững. Ở đây cần phân biệt tương đối hai khái niệm “truyền thông” và “tuyên truyền”.“Truyền thông” và “tuyên truyền” là những khái niệm có nét tương đồng và khác biệt cơ bản. Chúng đều hướng tới đạt được mục đích thu phục công chúng - nhóm đối tượng nhất định. Nhưng “truyền thông” là một khái niệm rộng, được thực hiện thông qua phương thức tương tác bình đẳng, đề cao
  5. vai trò và vị trí tích cực, chủ động tham gia của công chúng.“Tuyên truyền” cũng là một dạng thức truyền thông, cũng nhằm mục đích thu phục công chúng với mục tiêu đã định trước, nhưng chủ yếu là truyền thông một chiều, áp đặt, thậm chí nhấn mạnh đến mức tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể mà ít coi trọng vai trò tích cực của khách thể hay công chúng tham gia. Các phương tiện truyền thông Hiện nay các phương tiện truyền thông rất đa dạng như: báo chí, website, truyền hình, phát thanh,… Đứng đầu phương tiện truyền thông hiện nay thông qua mạng Internet đặc biệt là truyền thông xã hội (Social Media), cụ thể như: Tiktok, Twitter, Facebook, zalo,…Theo như thống kê thì mạng xã hội chiếm tới hơn 62% số lượng người tham gia sử dụng phương tiện này. Các hình thức truyền thông: Truyền thông trực tiếp (là kênh truyền thông có hiệu quả nhất, có tính quyết định đến sự thay đổi hành vi của đối tượng) và truyền thông gián tiếp (tạo ra được dư luận và môi trường xã hội thuận lợi cho việc thay đổi thái độ và hành vi của đối tượng). Vai trò của truyền thông Dưới góc độ tiếp cận của xã hội học, truyền thông là một trong những dạng căn bản nhất của hành vi con người. Theo Cooley: “Đó là cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển”. Thông qua truyền thông, các thành tố xã hội được cải biến và phân hoá. Cũng thông qua truyền thông, các giá trị và chuẩn mực được chuyển giao và xã hội hoá. Với ý nghĩa đó, truyền thông được xem là một thao tác xã hội. Với khả năng siêu kết nối trong không gian và thời gian, truyền thông không chỉ có vai trò điều hòa và kiểm soát xã hội, mà quan trọng hơn là kết nối sức mạnh trí tuệ, cảm xúc của công chúng trong quá trình khơi thức tài nguyên mềm, phát triển sức mạnh mềm. Trong xã hội hiện đại, truyền thông kết nối con người với nhau, kết nối các sự kiện, hiện tượng, hoạt động đang diễn một cách nhanh chóng và liên tục. Truyền thông tác động vào ý thức, tư tưởng và hành động của con người một cách rõ ràng và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, có thể khẳng định truyền thông là một kỹ năng thiết yếu của con người, nhất là trong thời đại ngày nay. Truyền thông là cần thiết đối với con người. Mọi người đều cần truyền thông để sống và quan hệ với cộng đồng. Nếu người nào đó không có khả năng hoặc bị hạn chế về truyền thông, họ sẽ được xem là người khiếm khuyết. Tuy nhiên, truyền thông lại là một quá trình học hỏi. Một đứa trẻ không chỉ học ngôn ngữ từ bố mẹ và những người đi trước mà còn từ những hành vi giao tiếp không bằng ngôn ngữ của họ. Như vậy, kỹ năng truyền thông trước tiên được phát triển trong môi trường gia đình và xã hội. Kỹ năng truyền thông còn được bồi dưỡng, rèn luyện qua môi trường học tập tại nhà trường, nơi các em được phát triển toàn diện. Như vậy, có thể khái quát: Kỹ năng truyền thông (Communication skills) là một quá trình truyền thông liên tục trong đó hai hoặc nhiều người trao đổi, chia sẽ thông tin, tình cảm, suy nghĩ, kỹ năng để tạo ra sự liên kết với nhau từ đó có được một nhận thức chung.
  6. 1.1.3. Truyền thông trong giáo dục Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực luôn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Trong nhiều năm qua, thế giới đã chứng kiến một sự tăng trưởng phi thường của truyền thông, mạng máy tính và công nghệ thông tin. Phát triển các dịch vụ truyền thông mở rộng đã tạo ra nhiều khả năng sử dụng các công cụ công nghệ mới cho hệ thống dạy và học. Sự hội tụ của máy tính và truyền thông cung cấp cơ hội chưa từng có cho các hệ thống giáo dục với khả năng tích hợp, tăng cường và tương tác với nhau qua một khoảng cách địa lý rộng lớn để đạt được các mục tiêu học tập. Nó có khả năng biến đổi bản chất và quá trình của môi trường học tập và hình thành một nền văn hóa học tập mới. Tương tác, linh hoạt và tiện lợi đã trở thành các thuộc tính trong môi trường học tập được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin và truyền thông. Công nghệ thông tin và truyền thông mở ra cơ hội học tập mới vì nó cho phép người học tiếp cận, mở rộng, chia sẻ những ý tưởng, thông tin theo các phong cách truyền thông đa dạng. Nó giúp HS chia sẻ tài nguyên học tập, thúc đẩy các nguyên tắc học tập cộng tác, lấy người học làm trung tâm và tăng cường tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, sử dụng truyền thông trong dạy học là giải pháp quan trọng của các GV trong việc tạo ra mô hình học tập năng động, hiệu quả. Có thể thấy rõ điều đó qua các bảng so sánh sau đây: Vai trò Trước đây Sau này 1.GV - Người truyền thụ kiến - Người hướng dẫn kiến thức, người điều khiển thức; người tạo ra môi việc học của HS; là trường học tập, bối cảnh cho chuyên gia; sử dụng HS; người chỉ dẫn cách truyền thông để dạy HS. truyền thông cho HS học tập hiệu quả. 2.HS Vai trò của người học; người học cách học, cách giao tâm thế thụ động; chép lại tiếp; tương tác chủ đông, tích kiến thức cực; người rút ra kiến thức 3.Cách dạy ghi nhớ lý thuyết; cách cách dạy để HS trải nghiệm, truyền đạt khép kín, theo thực hành;cách truyền đạt mở nguyên tắc và linh hoạt. Việc tích hợp truyền thôngtrong giáo dục giúp cải thiện việc học, khuyến khích HS sáng tạo, thúc đẩy hợp tác, tìm kiếm và thăm dò, tạo ra một nền văn hóa học tập mới lấy người học làm trung tâm. Nó cho phép chuyển đổi từ mô hình giảng dạy và học tập có tính sao chép sang một mô hình học độc lập, tự chủ nhằm thúc đẩy sự khởi nghiệp, sự sáng tạo và tư duy phê phán với các nghiên cứu độc lập. Người học sẽ thu thập, lựa chọn, phân tích, tổ chức, mở rộng, chuyển đổi và trình bày kiến thức sử dụng truyền thông trong mô hình học tập đích thực và năng động. Các GV sẽ tạo ra một môi trường học tập linh hoạt và cởi mở với hệ thống giảng dạy tương tác và đa phương tiện, tăng cường thực hành, trải nghiệm, khám phá. Truyền thông sẽ giúp GV và người học giao tiếp và cộng tác không có ranh giới, làm cho người học tự chủ, sáng tạo, cho phép GV đưa cả thế giới vào các hoạt động trong lớp học. Qua hoạt động học tập, HS sẽ được rèn luyện nhiều kỹ năng quan trọng, trong đó có kỹ năng
  7. truyền thông. Trong quá trình dạy học, đặc biệt là qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, GV có thể bằng nhiều hình thức như phát hiện, bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu, tập huấn, hướng dẫn HS về kỹ năng truyền thông, hướng dẫn học sinh thực hiện các sản phẩm truyền thông báo chí, hướng dẫn các câu lạc bộ, đội nhóm tham gia công tác truyền thông của nhà trường… Từ đó giúp HS rèn luyện kỹ năng truyền thông qua những hoạt động phong phú, sinh động và hấp dẫn. Đây là một phương pháp dạy học mới, có khả năng vận dụng hiệu quả trong trường THPT. 1.1.4. Học sinh THPT HS THPT bước vào thời kỳ đầu của tuổi thanh niên về sinh học, cấu trúc não đã phát triển tương đối hoàn thiện, các khả năng tư duy, phân tích, đánh giá, cảm giác, tri giác,... cũng dần hoàn thiện. Khả năng tự ý thức phát triển, hình thành thế giới quan, có ý thức làm việc hiệu quả và hoạt động giao tiếp phát triển. GV cần nắm được những điểm này để chỉ dẫn, khuyến khích các em thể hiện bản thân, phát huy hết khả năng trong học tập, có tư duy tích cực, đa chiều, biết tìm kiếm thông tin, chọn lọc, xử lý thông tin,... Nhất là trong điều kiện ngày nay, công nghệ thông tin phát triển, các em vận dụng thành thạo các kỹ năng tin học vào việc phát triển kỹ năng truyền thông, phát triển các dự án học tập sinh động, hấp dẫn và có tính hiệu quả cao. Kỹ năng thuyết trình, lập luận, trao đổi thông tin cũng được trau dồi, hoàn thiện qua cách thức dạy học. Ở lứa tuổi này cũng dần phát triển, bắt đầu định hình nhân cách, có những hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh, có tình cảm gắn bó và bắt đầu có ý thức trách nhiệm với nơi các sinh sống, học tập. Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu tự bộc lộ. Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của HS cũng là một cơ sở để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng truyền thông cho các em. 1.1.6. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 Thông tư 32/2018/TT-BGD&ĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới đưa ra chương trình giáo dục phổ thông tổng thể với yêu cầu cần đạt là hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi. Chú trọng giáo dục đội ngũ HS lớp chủ nhiệm sẽ góp phần hình thành và phát huy: phẩm chất yêu nước, trung thực, trách nhiệm,... năng lực ngôn ngữ, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mỹ, … Mục tiêu GD trong CT GDPT cụ thể hóa mục tiêu GDPT, giúp HS: Làm chủ kiến thức phổ thông; Biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; Có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; Biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội; Có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú; Nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại; Giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục
  8. học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1.Yêu cầu về dạy học kỹ năng sống của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khoá 8 khẳng định “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Các nghị quyết của Đảng đã khẳng định vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển con người. Đồng thời nhấn mạnh con người phát triển toàn diện không chỉ giỏi về tri thức khoa học mà còn cần có hệ thống năng lực cơ bản để đáp ứng những yêu cầu ngày một cao của xã hội. Trước yêu cầu đó, chương trình giáo dục THPT hiện nay đang được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu HS phải thể hiện được, làm được, biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục & đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu của việc giáo dục, trang bị các kỹ năng cần thiết cho HS như: kỹ năng giao
  9. tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện, kỹ năng truyền thông,… Yêu cầu này đặt ra đối với tất cả các bộ môn, trong tất cả mọi hoạt động giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. 1.2.2. Vai trò của rèn luyện kỹ năng truyền thông trong các hoạt động giáo dục của nhà trường hiện nay Khi xây dựng chương trình, nội dung dạy học, GV đều phải xác định các mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và định hướng phát triển năng lực. Tuy nhiên, do phải chuyển tải nhiều nội dung trong dung lượng thời gian hạn hẹp, GV có xu hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho HS, nhất là các kỹ năng mềm. Chính bởi vậy, rất nhiều HS còn thiếu và yếu các kỹ năng cần thiết. Nhiều em tỏ ra thụ động trong học tập và thiếu độc lập, thiếu chính kiến khi nhìn nhận các vấn đề của đời sống. Trước các nguồn thông tin đa dạng và phức tạp trong xã hội hiện nay, một số em còn thờ ơ, chưa biết cách chọn lọc, nắm bắt, phân tích bản chất của vấn đề. Các em lúng túng khi bày tỏ quan điểm, khi đàm phán hay thuyết phục người khác, gặp nhiều khó khăn khi diễn đạt, tạo lập các văn bản thông tin. Thực tế đó đòi hỏi người GV phải đổi mới phương pháp, vận dụng linh hoạt các hình thức giáo dục để rèn luyện kỹ năng cho HS. Hoạt động giáo dục hiện nay tập trung gắn lý thuyết với thực tiễn tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, tạo điều kiện cho HS phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực chủ động trong học tập và rèn luyện toàn diện. Với những nội dung phong phú và hình thức tổ chức hấp dẫn, tất cả các hoạt động giáo dục đã trở thành nơi cung cấp kiến thức, hiểu biết về xã hội và rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho HS. Bởi vậy, khai thác hoạt động này một cách có hiệu quả là cơ sở quan trọng cho việc rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng truyền thông. 1.2.3. Sự phát triển của ngành truyền thông trong bối cảnh xã hội hiện nay Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các phương thức truyền thông của loài người phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại. Ngày nay, truyền thông đã thực sự trở thành một thành tố hết sức quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội; làm thay đổi diện mạo cuộc sống hiện đại, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người và tác động đến mọi khía cạnh, bình diện của xã hội...Các phương tiện truyền thông trở thành một nhu cầu của đời sống, một công cụ bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, một phương tiện hữu hiệu để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau của con người. Với xu thế phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự cạnh tranh trở thành một quy luật tất yếu, diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, xã hội… Truyền thông trở thành một phương tiện có tầm quan trọng rất lớn cần biết sử dụng, nắm giữ và làm chủ. Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn tới nhiều lĩnh vực của cuộc sống như:
  10. tình hình chính trị của mỗi quốc gia, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, truyền thông còn có tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực trong đời sống, nhất là đối với nhiều vấn đề nóng bỏng trong xã hội hiện nay như: vấn đề đạo đức, quyền con người, biến đổi khí hậu, an toàn thực phẩm... Truyền thông còn được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực của đời sống. Hơn nữa, sự phát triển của ngành truyền thông rất đáng được quan tâm. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, truyền thông nằm trong top 5 ngành hấp dẫn nhất đối với sinh viên về cả cơ hội việc làm và mức lương. Đây là ngành được đánh giá có nhiều tiềm năng trong tương lai. Không chỉ các công ty truyền thông, quảng cáo, tòa soạn, đài truyền hình mà rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau đều sẵn sàng đưa ra mức lương cao để tuyển chọn những chuyên gia truyền thông giỏi. Đây cũng là ngành được rất nhiều HS THPT lựa chọn trong định hướng nghề nghiệp hiện nay. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, các nhà trường cần trang bị cho HS không chỉ các tri thức khoa học và hiểu biết xã hội mà còn cần trang bị cả những kỹ năng cần thiết trong đó có kỹ năng truyền thông. Làm tốt công việc này nghĩa là chúng ta đang góp phần thực hiện tốt mục tiêu hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, tạo cho các em niềm tin và những nền tảng cần thiết để phát triển ngành nghề trong tương lai. 1.2.4. Sự quan tâm của các nhà trường đối với công tác truyền thông Trong những năm gần đây, cùng với việc quan tâm đến chất lượng giáo dục, các nhà trường đã bắt đầu quan tâm đến thương hiệu của mình. Bởi vậy, các trường đã chú trọng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dạy và học, chú trọng công tác truyền thông để bắt kịp với xu thế thời đại. Bên cạnh các hình thức truyền thông truyền thống, các cơ sở giáo dục xây dựng cổng thông tin điện tử, website, trang fanpage,… để đăng tải thông tin, viết bài về các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, của ngành và hoạt động giáo dục của nhà trường một cách thường xuyên, tích cực. Các hoạt động đó đảm bảo được tính công khai, minh bạch về thông tin, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội đồng thời góp phần quảng bá thương hiệu, tạo nên uy tín và sức lan toả của nhà trường đối với địa phương, với ngành. Trên cơ sở các phương tiện truyền thông đã xây dựng tại các trường học, GV có thể khai thác, tận dụng lợi thế sẵn từ nguồn lực HS của nhà trường. Bởi rõ ràng trong công tác này, HS là lực lượng tiềm năng nhất, đông đảo nhất và là chủ thể có khả năng lan tỏa, tạo chuyển biến, hiệu quả tích cực trong công tác truyền thông của nhà trường. Đây cũng là một chiến lược, một tầm nhìn dài hơi cần có lộ trình cụ thể và có sự đầu tư thực sự. 2. Thực trạng giáo dục kỹ năng truyền thông ở trường THPT nói
  11. chung và trường THPT Cửa Lò nói riêng 2.1. Đánh giá thực trạng thông qua các số liệu điều tra, khảo sát 2.1. Đánh giá thực trạng thông qua các số liệu điều tra, khảo sát Để có cái nhìn đầy đủ, chính xác về thực trạng giáo dục kỹ năng truyền thông, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát. Tháng 9/2022, chúng tôi đã gửi phiếu khảo sát với các câu hỏi nhanh đánh dấu lựa chọn cho đối tượng là 138 HS ở cả ba khối lớp 10,11,12 và 26 GV của trường THPT tại địa bàn thị xã Cửa Lò (THPT Cửa Lò, THPT Cửa Lò 2, TTGD Thường xuyên số 2). Nội dung chủ yếu hỏi về nhận thức của HS và GV về tầm quan trọng của kỹ năng truyền thông cũng như thực tế rèn luyện, nâng cao kỹ năng này tại nhà trường THPT hiện nay. 2.1.1. Khảo sát, đánh giá đối với HS Về phía HS, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu mức độ hiểu biết và hứng thú của các em đối với hoạt động truyền thông và thực tế dạy học kỹ năng này qua các hoạt động giáo dục ở nhà trường. Kết quả như sau: Bảng 2.1.1 Câu hỏi Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ % 1. Em có quan tâm A. Quan tâm 100 72.5 đến hoạt động truyền thông không? B. Ít quan tâm 30 21.7 C. Không quan tâm 8 5.8 2. Em thấy xu A. Có tiềm năng phát triển 98 71 hướng phát triển của ngành truyền B. Như những ngành khác 35 25.4 thông như thế nào? C. Không có tiềm năng 5 3.6 3. Theo em, có cần A. Rất cần thiết 76 55.1 thiết rèn luyện kỹ năng truyền thông cho HS B. Cần thiết 56 40.6 không? C. Không cần thiết 6 4.3
  12. 4. Tại trường, em A. Có 24 17.4 có được hướng dẫn về kỹ năng truyền B. Không thường xuyên 108 78.3 thông không? C. Không 6 4.3 5. Tại trường em, các A. Có 30 21.7 câu lạc bộ, đội nhóm có tham gia công tác B. Không 90 65.2 truyền thông không? C. Không rõ 18 10.5 7. Theo em, các giờ A. Mới mẻ, mang tính trải 115 83.3 học chính khóa và các nghiệm, sáng tạo hoạt động ngoại khóa cần được tổ chức như B. Theo phương pháp 15 10.9 thế nào? giảng giải, truyền thụ C. Đơn giản 8 5.8 Bảng số liệu trên cho thấy, đa số HS quan tâm đến các hoạt động truyền thông (72.5%), khẳng định đây là một ngành nghề có tiềm năng phát triển, mở ra nhiều cơ hội việc làm trong tương lai (71%). Các em đều nhận thấy cần thiết phải rèn luyện kỹ năng truyền thông để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội hiện đại (55.1%). Tuy nhiên trên thực tế, việc rèn luyện kỹ năng này tại các trường THPT còn hạn chế. Có tới 78.3% HS được hỏi trả lời có được hướng dẫn về kỹ năng truyền thông nhưng không thường xuyên. Các em chủ yếu được học hỏi qua các bài học Ngữ văn như bài Phong cách ngôn ngữ báo chí” (Chương trình Ngữ văn 11 trước đây) và bài Thế giới đa dạng của thông tin (Ngữ văn 10 chương trình mới), Cấu trúc của văn bản thông tin (Ngữ văn 11 chương trình mới). Ngoài Ngữ văn, môn Trải nghiệm hướng nghiệp hiện nay không có bài học riêng để dạy về kỹ năng truyền thông cho HS. Ở câu hỏi: Theo em, các giờ học chính khóa và các hoạt động ngoại khóa cần được tổ chức như thế nào? đã có tới 83.3% HS bày tỏ mong muốn cần được tổ chức đa dạng, hấp dẫn, mang tính trải nghiệm sáng tạo. Bởi vậy, nhìn vào thực tế ta nhận thấy: Nhiều em tỏ ra thiếu hứng thú với cách tổ chức hoạt động học tập chưa có sự đầu tư, lặp lại, đơn điệu và nhàm chán. Hoạt động của các câu lạc bộ đội nhóm chủ yếu còn đi vào các nội dung riêng và chuyên biệt mà chưa chú trọng công tác tuyên truyền quảng bá, tham gia công tác truyền thông lan tỏa cùng với nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục trong
  13. nhà trường. Hoạt động truyền thông ở nhiều trường học chủ yếu do các thầy cô đảm nhận, chưa có sự tham gia của HS. 2.1.2. Khảo sát, đánh giá đối với GV Về phía GV, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức và những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện rèn luyện kỹ năng truyền thông cho HS qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết quả thu được như sau: Câu hỏi Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ % 1. Theo thầy/ cô có cần A. Rất cần thiết 26 76.9 thiết rèn luyện kỹ năng truyền thông cho học B. Cần thiết 6 23.1 sinh không? C. Không cần thiết 0 0 2. Thầy/ cô đã từng A. Thường xuyên 7 26.9 hướng dẫn HS rèn luyện kỹ năng truyền B. Thỉnh thoảng 18 69.2 thông chưa? C. Chưa thực hiện 1 3.8 3. Việc rèn luyện kỹ A. Hiệu quả cao 6 23.1 năng truyền thông ở các tiết học chính B. Bắt đầu hiệu quả 13 50 khóa trên lớp đã thực sự hiệu quả chưa? C. Chưa hiệu quả 7 26.9 4. Theo thầy/ cô,có thể A. Có thể thực hiện 24 92.3 lồng ghép dạy học kỹ năng truyền thông trong B. Khó thực hiện 2 7.7 các hoạt động ngoài giờ lên lớp không? C. Không nên thực hiện 0 0 5.Ở trường thầy/ cô A. Đã chú ý 8 30.8 trong các giờ chủ nhiệm lớp, GVCN đã chú ý rèn B. Thỉnh thoảng mới chú ý 16 61.5
  14. luyện cho HS kỹ năng C. Chưa chú ý 2 7.7 truyền thông chưa? Bảng 2.1.2 Biểu đồ 1 Bảng 2.1.2. cho thấy 76.9 % GV nhận thấy rất cần thiết phải rèn luyện kỹ năng truyền thông cho HS. Tuy nhiên, chỉ có 16.9% GV thường xuyên hướng dẫn HS rèn luyện kỹ năng này, 69.2% thực hiện một cách không thường xuyên, có 3.8% chưa thực hiện. Việc rèn luyện kỹ năng truyền thông ở các tiết học chính khóa trên lớp mới chỉ có 23,1% là hiệu quả cao, bắt đầu hiệu quả chiếm tới 50% hiệu quả. Trong các giờ chủ nhiệm lớp, mới chỉ có 30.8% GVCN đã chú ý rèn luyện cho HS kỹ năng truyền thông, 61.5% thỉnh thoàng mới chú ý điều này , chưa chú ý chiếm tới 7.7%. Như vậy cũng có nghĩa là chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học toàn diện. Mặc dù thấy rõ khả năng lồng ghép giáo dục kỹ năng truyền thông vào trong hoạt động ngoài giờ lên lớp (92.3%) nhưng không phải ai cũng có đủ khả năng thực hiện. Thực tế cho thấy các trường học còn chưa mạnh dạn giao nhiệm vụ truyền thông cho HS. Như vậy cũng có nghĩa là bỏ qua một cơ hội để HS trải nghiệm, rèn luyện và sáng tạo. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thêm một số GV về những khó khăn mà họ gặp phải khi tổ chức cho HS rèn luyện kỹ năng qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các ý kiến nêu lên một số vấn đề như sau: GV trong dạy học bộ môn chỉ chú trọng nội dung và phương pháp bộ môn, GV chủ nhiệm cũng chỉ chú ý các nội dung cần triển khai trong công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên họ chưa chú ý nhiều đến công tác truyền thông nói chung và chưa quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng truyền thông cho HS, hạn chế trong năng lực tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trên thực tế, các hoạt động giáo dục trong nhà trường rất cần đến sự phối hợp của nhiều lực lượng trong nhà trường còn cá nhân GV rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, đây là hoạt động đòi hỏi có một cơ sở vật chất đầy đủ (ví dụ như: máy quay, máy chụp ảnh,…) mới đạt hiệu quả cao.
  15. Hơn nữa, nhiều GV cho rằng việc rèn luyện kỹ năng truyền thông đòi hỏi một hình thức tổ chức phù hợp. Những hình thức lâu nay các trường THPT thực hiện như giao lưu, toạ đàm, hỏi đáp, trò chơi… khó có hiệu quả. Nhiều GV bày tỏ mong muốn có các hình thức tổ chức vừa mới mẻ, sáng tạo, giàu tính trải nghiệm vừa sát với mục tiêu rèn luyện kỹ năng truyền thông cho HS. Từ đó, chúng tôi rút ra một số kết luận: *Về phía GV Qua kết quả khảo sát trên bản thân GV đã thấy được tầm quan trọng của kỹ năng truyền thông trong công tác giáo dục nói chung. Đa số GV đều thấy được sự cần thiết của kỹ năng truyền thông trong công tác giáo dục HS (76,9%), bên cạnh việc nhận thức được vai trò đó thì một số GV còn thỉnh thoảng hoặc rất ít khi chú ý đến việc giáo dục kỹ năng truyền thông cho HS. Tuy nhiên, một số GV còn ngại vì hiểu biết về kỹ năng truyền thông hạn chế, ngại tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, còn ngại đổi mới, ít để ý đến kỹ năng truyền thông trong giảng dạy, trong công tác chủ nhiệm, hoạt động ngoại khóa, nghiên cứu khoa học,…Các hoạt động truyền thông đang cơ bản còn mang tính tự phát, chưa có kế hoạch cụ thể và chưa mang lại hiệu quả cao. * Về phía HS Có tới 72.5% quan tâm đến hoạt động truyền thông. Bên cạnh đó, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội như facebook, zalo, youtube, Tiktok,… trở thành đời sống thứ hai của lớp trẻ. Điều này, đòi hỏi GV cần phải dạy cho HS kỹ năng truyền thông một cách nhanh nhạy, thông minh, có văn hóa, có chính kiến. Đồng thời cần hướng dẫn cho HS biết tận dụng ưu thế và sử dụng linh hoạt các ứng dụng CNTT để tham gia vào công tác truyền thông trong giáo dục một cách thành thạo và hiệu quả. Tuy nhiên, theo khảo sát từ HS cho thấy mức độ thường xuyên và thành thạo của HS chiếm tỷ lệ chưa cao. Với câu hỏi: Hiện tại, em đã hiểu rõ về các kỹ năng truyền thông cần phải có của người HS ở tại trường em học chưa? thì có tới 66.8% mới hiểu sơ sơ và còn chưa rõ, mơ hồ. 2.2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng Số liệu khảo sát, điều tra cho thấy HS rất hứng thú với hoạt động truyền thông và mong muốn được rèn luyện kỹ năng truyền thông. Tuy nhiên những hiểu biết và khả năng vận dụng kỹ năng truyền thông vào thực tiễn của các em còn nhiều hạn chế. Một số em có năng khiếu truyền thông nhưng tất cả mới chỉ đang ở dạng tiềm năng, chưa được phát hiện, bồi dưỡng phát huy tối đa. Trên thực tế, đa số GV rất mong muốn được tham gia giáo dục kỹ năng truyền thông cho HS nhưng còn vướng mắc trong phương pháp, đặc biệt là cách tổ chức dạy học trong giờ chính khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp và công tác chủ nhiệm. Điều này dẫn đến chất lượng của hoạt động truyền thông còn chưa đạt hiệu quả cao, năng lực giao tiếp, năng lực ngôn ngữ và khả năng tư duy độc lập của HS còn hạn chế.
  16. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó? Qua khảo sát và tìm hiểu thực trạng, chúng nhận thấy có một số nguyên nhân cơ bản như sau: Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 hiện nay còn khá mới mẻ, nhiều GV chưa bắt nhịp được kịp thời, chưa có sự đầu tư đúng mức cho dạy kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm. Các hoạt động giáo dục nhiều lúc còn tổ chức lặp đi lặp lại làm giảm hứng thú tham gia của HS, không tạo được nhiều sân chơi cho các em rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng truyền thông. Kế hoạch hoạt động còn bị động, lúng túng, thiếu chiều sâu và sự sáng tạo. Lãnh đạo một số trường chưa có biện pháp cụ thể, linh hoạt. Nội dung, hình thức hoạt động truyền thông còn nghèo nàn, bó hẹp trong một số chủ điểm, bên cạnh đó hình thức hoạt động còn đơn điệu, chưa thiết thực, chưa gắn với nhu cầu thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của HS. Sự phối hợp giữa các tổ nhóm, đoàn thể trong nhà trường trong tổ chức hoạt động giáo dục nhất là các hoạt động ngoài giờ lên lớp còn chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả, ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động. Thứ hai, kỹ năng truyền thông là một kỹ năng mang tính chuyên biệt, hầu hết GV chưa được đào tạo bài bản ở các trường đại học. Đa số đều tự học hỏi, tìm tòi và đúc rút kinh nghiệm qua thực tế. Ngay cả đối với GV môn Ngữ văn, GV kỹ năng sống cũng cảm thấy lúng túng khi được giao nhiệm vụ làm truyền thông. Bên cạnh đó, kỹ năng truyền thông còn đòi hỏi sự am hiểu, thành thạo về công nghệ thông tin, cách thức chụp hình, xử lý hình ảnh, video, làm việc với máy móc, tương tác với nhân vật, sự kiện,… Muốn hướng dẫn HS thực hiện, trước hết bản thân người GV phải phải tự trang bị đầy đủ cho mình tất cả những kiến thức và kỹ năng đó. Thứ ba, GV chủ yếu đang tập trung thời gian, công sức cho công tác chuyên môn, ít có thời gian quan tâm đến các hoạt động khác để rèn luyện các kỹ năng mềm cho HS. Nhiều thầy cô còn xem nhẹ hoạt động này, chỉ tập trung vào các hoạt động dạy học trên lớp. Một số GV còn ngại đổi mới phương pháp dạy học. Riêng việc tiếp cận, chú ý kỹ năng truyền thông và sử dụng phương pháp truyền thông đối với nhiều GV ở các trường THPT còn chưa được chú ý, coi trọng. Trong khi đó, đời sống xã hội ngày nay liên tục phát triển, đòi hỏi nhà trường phải trang bị cho HS biết cập nhật thường xuyên các kiến thức và những kỹ năng mới. Thứ tư, các hoạt động giáo dục theo chương trình GDPT 2018, hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp, giáo dục địa phương và hoạt động ngoài giờ lên lớp là những môn học, hình thức giáo dục mới được thực hiện trong thời gian gần đây. Đa số GV chưa được đào tạo nội dung này ở các trường đại học. Bởi vậy, nhiều GV ngoài hạn chế, thiếu sáng tạo trong tìm kiếm những hình thức tổ chức hoạt động đáp ứng yêu cầu dạy học kỹ năng cho HS. Thứ năm, nhiều HS còn có tâm lý áp lực thi cử nên chú trọng nhiều đến bài vở, điểm số hơn là rèn luyện kỹ năng. Điều này là nguyên nhân khiến nhiều em bỏ lỡ cơ hội để hoàn thiện bản thân mình tốt hơn. Nhiều bậc phụ huynh còn có những quan niệm chưa đúng về các hoạt động giáo dục khác ngoài học chính khóa nên chưa có sự đầu tư, khuyến khích, tạo điều kiện cho con em mình tham gia vào các hoạt động giáo dục đó.
  17. Thứ năm, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho các hoạt động giáo dục nói chung và hoạt động truyền thông còn hạn chế. Có những hoạt động giáo dục như hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm hướng nghiệp cần có sự tham gia đông đảo của GV và HS. Vì thế, đòi hỏi một cơ sở vật chất, trang thiết bị lớn như địa điểm, bàn ghế, loa máy, màn hình… và kinh phí nhất định. Trong khi đó, nguồn thu tài chính của nhà trường phổ thông không nhiều, cơ sở vật chất được trang bị qua thời gian sử dụng không tránh khỏi lạc hậu hoặc hư hỏng. Điều này cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động truyền thông nói riêng và các hoạt động giáo dục của nhà trường nói chung. Vậy làm thế nào để khắc phục được những thực trạng nêu trên? Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cụ thể để nâng cao kỹ năng truyền thông cho các em đã được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị - trường THPT Cửa Lò. 3. Một số giải pháp tăng cường kỹ năng truyền thông cho HS trường THPT Cửa Lò 3.1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp 1.1. Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của HS Nhân cách được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực (đức và tài). Do vậy, trong quá trình dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học là mục đích hướng người học tiếp cận gần hơn tới sự phát triển nhân cách của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu rõ: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng. Đồng thời, chúng tôi quan tâm đến lý thuyết về phong cách học tập và khí chất. Từ đó, trong quá trình lựa chọn các giải pháp giáo dục, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của HS, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân, tôn trọng thế mạnh, đặc điểm riêng biệt của từng HS. 1.2. Đảm bảo quan điểm GD theo phương pháp sư phạm tương tác Trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi HS không chỉ phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng mà còn cần hội tụ đủ khả năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. HS có khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp phấn đấu, rèn luyện phù hợp để hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục HS cũng chỉ ra: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ra quyết định, suy xét và giải quyết vấn đề, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo nhóm cho HS; Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông, cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, thông qua việc
  18. thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau; Giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý lứa tuổi HS. Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của HS trên tinh thần tôn trọng quan điểm, cá tính của HS. Giáo dục HS phải linh hoạt, tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều, máy móc, rập khuôn. 1.3. Đảm bảo mục tiêu cụ thể của cấp học THPT Thực hiện chương trình hợp lý nhằm đảm bảo cho HS có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy phẩm chất, năng lực của mỗi HS, giúp HS có đầy đủ phẩm chất của một công dân có ích, những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông để HS chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. 1.4. Đảm bảo tính hoạt động thực tiễn giáo dục tại trường THPT Cửa Lò Các giải pháp được đề xuất cho việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS được thực thi trong thực tiễn hoạt động trải nghiệm tiến hành ở trường THPT Cửa Lò. Bởi thế, các giải pháp này phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp HS hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của giáo dục ở trường THPT đặt ra. Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của HS, đảm bảo tính hiện đại, thiết thực, hài hòa, phù hợp về nội dung, phương pháp chủ nhiệm, tạo điều kiện để HS hình thành và phát huy nhiều phẩm chất, năng lực quan trọng. 1.5. Dựa vào lý thuyết Đa trí tuệ Thuyết đa trí thông minh là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner. Thuyết này đã mang đến cho thế giới cái nhìn bao quát và toàn diện về tiềm năng não bộ của con người, nó đề cập đến sự đa dạng về trí tuệ của mỗi cá nhân. Theo đó, mỗi cá nhân sinh ra đều có 8 loại hình thông minh khác nhau:
  19. Gần đây, ông đã đề nghị bổ sung khả thi của trí thông minh thứ chín được gọi là "trí thông minh theo chủ nghĩa hiện sinh" hay “trí thông minh triết học.” Như vậy, giáo dục chú ý đến lý thuyết này sẽ góp phần phát huy năng khiếu, sở trường từng HS để nâng cao hiệu quả giáo dục một cách tích cực và nâng cao giá trị, hứng thú tham gia các hoạt động giáo dục của HS. 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng truyền thông cho HS THPT Cửa Lò 3.2.1. Giải pháp 1: Phát hiện, bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu truyền thông 3.2.1.1. Mục đích Nhằm đáp ứng xu hướng dạy học hiện nay là chú trọng phát huy tiềm năng, sở trường, phù hợp với sở thích, hứng thú của HS. Bởi thế, ở tại trường học cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, khuyến khích HS tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, sở trường, mong muốn của bản thân. Qua các hoạt động giáo dục, GV phát hiện các nhân tố nổi bật, có năng khiếu để bồi dưỡng, phát huy tối đa thế mạnh của HS nhất là ở lĩnh vực truyền thông. Sau khi phát hiện, GV cần có kế hoạch bồi dưỡng các nhân tố có năng khiếu truyền thông và xây dựng lộ trình phát triển kỹ năng truyền thông cụ thể. 3.2.1.2. Nội dung Đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu truyền thông, tạo lực lượng nòng cốt cho các câu lạc bộ nhất là câu lạc bộ truyền thông. 3.2.1.3. Cách thức tiến hành Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, năm 1997), năng khiếu là “tổng thể nói chung những phẩm chất sẵn có giúp con người có thể hoàn thành tốt một loạt hoạt động ngay khi chưa học tập và rèn luyện trong hoạt động đó”. Như vậy, năng khiếu là những tố chất sẵn có, bẩm sinh bên trong con người giúp họ hoàn thành tốt hoạt động với chất lượng và hiệu quả cao. Năng khiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành năng lực và phát triển tài năng của một con người. Trong thực tế giáo dục, GV có thể phát hiện các em có năng khiếu truyền thông qua các tiết học chính khóa, ngoại khóa và qua các sinh hoạt tập thể của trường, của lớp. Qua các tiết học, GV cần tạo tình huống có vấn đề gần gũi, quen thuộc để HS phát hiện, phân tích và kiến giải về các vấn đề đó. Từ thực tế bài học, có thể phát hiện những em có những tố chất như các em có cách quan sát, phát hiện vấn đề nhanh, lập luận chặt chẽ, lo gic, ứng biến nhanh nhẹn trong những hoàn cảnh phức tạp, có thể giải đáp vấn đề được nhiều người quan tâm một cách thuyết phục, có óc thẩm mĩ tinh tế, biểu đạt vấn đề rõ nét, hấp dẫn và có chiều sâu, kỹ năng công nghệ tốt,…
  20. Qua hoạt động sinh hoạt tập thể (như: sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ, các hội thi văn nghệ, thể thao, diễn đàn,..) GV có thể tìm kiếm và bồi dưỡng những HS có năng khiếu truyền thông: những HS tự tin, có chính kiến trước tập thể, có khả năng thu hút, lan tỏa tích cực tới tập thể, có khả năng giao lưu với bạn bè, thầy cô, có khả năng diễn đạt, thuyết trình trước đám đông một cách hấp dẫn và sức thuyết phục, có khả năng dẫn dắt, định hướng cho tập thể,… Sau khi phát hiện được các nhân tố có năng khiếu, GV cần có kế hoạch và lộ trình bồi dưỡng để các em phát huy sở trường. Trong các giờ dạy và sinh hoạt tập thể sẽ chú ý giao nhiệm vụ cho các em này, kiểm tra, hỗ trợ, chỉ dẫn, góp ý cho các em hoàn thiện hơn trong từng nhiệm vụ truyền thông để các em tiến bộ hơn từng ngày. Hướng dẫn, bồi dưỡng các em những nội dung sau: Cách quan sát, phát hiện vấn đề; Cách sử dụng trang thiết bị phục vụ truyền thông; Cách đưa tin, bài cho hiệu quả; Cách lan tỏa thông tin mình cần truyền thông cho lớp, cho trường; Cách phân chia nhiệm vụ và lên chương trình truyền thông;… 3.2.1.4. Kết quả đạt được Sau quá trình phát hiện, bồi dưỡng, nhà trường sẽ có một lực lượng truyền thông mạnh và có kỹ năng truyền thông tốt. Từ những nhân tố này, các em vào các câu lạc bộ và phân bố ở các khối lớp học thuận lợi cho các nhiệm vụ truyền thông của từng lớp học, môn học, cho các hoạt động ngoại khóa và các nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Các em có thể đứng ra viết bài truyền thông, đăng tin trên trang Đoàn trường, nhà trường hoặc các câu lạc bộ. Các em biết chụp ảnh, quay video, chọn hình ảnh khi đăng tin để các tin tức truyền thông trở nên hấp dẫn, sinh động. Link truyền thông về “Cửa Lò- vùng biển xanh sạch và tuổi trẻ của chúng ta”, https://www.canva.com/design/DAGC9HiuFBw/wm_xt1dnvtfFOXUCBlopXg/edit?cont inue_in_browser=true; Link truyền thông về “Xin chào, xin lỗi, cảm ơn – lối sống đẹp cho trường THPT Cửa Lò; Link bài “Recap gian hàng ẩm thực năm 2024”, https://s.net.vn/kL5n,...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2