intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:60

10
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2" nhằm phân tích, hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn trong việc dạy, học ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử của giáo viên và học sinh hiện nay nói chung và của trường THPT Hoàng Mai 2 nói riêng. Đề tài đã đề xuất các giải pháp ôn thi tốt nghiệp THPT phù hợp với đối tượng học sinh của nhà trường, giúp cho các em ôn thi có hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2

  1. MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN MỘT – ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Điểm mới của sáng kiến 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN HAI – NỘI DUNG 3 Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn 3 1. Cơ sở lí luận 3 1.1. Ý nghĩa, vai trò của lịch sử và môn học Lịch sử 3 1.2. Vai trò của ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử 5 1.3. Những yêu cầu trong công tác dạy và ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử 6 2. Cơ sở thực tiễn 7 2.1. Thực trạng chung 7 2.2. Thực trạng tại đơn vị 11 2.3. Nguyên nhân của thực trạng 13 2.4. Những khó khăn khi ôn thi 15 Chương 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi TN môn Lịch 17 sử tại trường THPT Hoàng Mai 2 1. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch 17 sử tại trường THPT Hoàng Mai 2 1.1. Xây dựng kế hoạch ôn tập tốt nghiệp phù hợp với đối tượng học sinh 17 1.2. Phân loại đối tượng học sinh để ôn thi tốt nghiệp 19 1.3. Phân tích ma trận đề thi chính thức của năm học trước và đề thi tham 20 khảo của Bộ trong năm học 1.4. Xây dựng bảng đặc tả, ngân hàng đề và tăng cường cho HS làm bài tập 25 trắc nghiệm 1.5. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực và kĩ thuật dạy học 26 mới
  2. 1.6. Hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh ôn tập ở nhà 30 1.7. Tận dụng tối đa những ưu điểm của công nghệ 4.0 và mạng xã hội trong 32 ôn thi 1.8. Xây dựng báo bảng Lịch sử, phòng học Lịch sử ngay tại lớp học 34 1.9. Rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh 35 2. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 40 2.1. Mục đích khảo sát 40 2.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 40 2.3. Đối tượng khảo sát 40 2.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề 40 xuất 3. Thực nghiệm sư phạm 42 3.1. Mục đích thực nghiệm 43 3.2. Đối tượng thực nghiệm 43 3.3. Phương pháp thực nghiệm 43 3.4. Kết quả xử lí thực nghiệm 43 4. Bài học kinh nghiệm rút ra khi tiến hành thực nghiệm 44 4.1. Về phía giáo viên 44 4.2. Về phía học sinh 45 PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT 48 1. Kết luận 48 2. Kiến nghị - Đề xuất 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50 PHỤ LỤC 51
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN Nội dung Viết tắt Giáo viên GV Giáo dục và Đào tạo GD &ĐT Học sinh HS Sơ đồ tư duy SĐTD Sách giáo khoa SGK Thực nghiệm TN Trung học phổ thông THPT Tốt nghiệp TN
  4. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Giáo dục nói chung và giáo dục bộ môn Lịch sử nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước. Lịch sử là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội có vai trò to lớn trong việc phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học. Giáo dục lịch sử ở trường phổ thông giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, giúp học sinh nhận thức sâu sắc và vận dụng được các bài học lịch sử để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống đặt ra, phát triển tầm nhìn, củng cố các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, lòng khoan dung nhân ái; góp phần hình thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Môn Lịch sử hình thành, phát triển cho học sinh tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu, nhận thức và trình bày lịch sử trong logic lịch đại và đồng đại, kết nối quá khứ với hiện tại. Môn Lịch sử cũng giúp học sinh nhận thức được giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại, hiểu biết và có tình yêu đối với lịch sử, văn hoá dân tộc và nhân loại; góp phần định hướng cho học sinh lựa chọn những nghề nghiệp như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại giao, quản lí, hoạt động du lịch, công nghiệp văn hoá, thông tin truyền thông,... Môn lịch sử có tầm quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ như vậy nhưng trong nhiều năm qua việc dạy học và thi môn Lịch sử còn nhiều vấn đề bất cập: Học sinh không quan tâm học, tâm lý nhàm chán, đối phó trong học Lịch sử. Hậu quả là phần lớn học sinh không nắm được kiến thức cơ bản, mơ hồ về sự kiện, nhầm lẫn kiến thức, điều này thể hiện rõ trong kì thi tốt nghiệp THPT. Mỗi khi kì thi kết thúc, xã hội lại dậy sóng với kết quả của bộ môn, nhiều người đặt câu hỏi vì sao học sinh chán học Lịch sử, sợ môn Lịch sử, tại sao điểm môn Lịch sử lại thấp như thế? Trước thực trạng trên, nhiều thầy cô giáo đã vào cuộc tiến hành nhiều biện pháp để đổi mới dạy học, tạo hứng thú cho học sinh học tập, hoàn thành mục tiêu môn học và mục tiêu giáo dục song kết quả vẫn chưa được như ý muốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên nhưng chủ yếu xuất phát từ giáo viên, học sinh và nội dung, chương trình môn học, trong đó phải kể tới các biện pháp ôn thi TN THPT cho học sinh chưa thật sự hiệu quả. Trước thực trạng đó, chúng tôi - những giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy môn Lịch sử luôn trăn trở phải dạy làm sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, những giải pháp nào giúp học sinh biết cách tự học, tự ôn thi hiệu quả nhất để giúp các em đạt kết quả cao trong kỳ thi tốt nghiệp THPT, từ đó góp phần nâng cao chất lượng môn Lịch sử tại trường tôi nói riêng và môn Lịch sử trong tỉnh nhà 1
  5. nói chung. Với những lí do đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2” để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Các giải pháp này đã được bản thân tôi đúc rút qua các năm ôn thi tốt nghiệp, gần nhất là năm học 2021 - 2022 và đang tiến hành trong năm học 2022 - 2023. Qua gần hai năm thực hiện đề tài, điểm thi tốt nghiệp cũng như vị trí môn Lịch sử trường tôi tăng lên rõ rệt, được nhà trường và lãnh đạo Sở GD&ĐT Nghệ An đánh giá cao. Qua đề tài này tôi mong muốn đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp của bộ môn, thông qua đó cũng rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để kinh nghiệm ôn thi của bản thân ngày càng phong phú hơn, góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2 nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung. 2. Điểm mới của đề tài - Đề tài đã phân tích, hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn trong việc dạy, học ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử của giáo viên và học sinh hiện nay nói chung và của trường THPT Hoàng Mai 2 nói riêng. - Đề tài đã đề xuất các giải pháp ôn thi tốt nghiệp THPT phù hợp với đối tượng học sinh của nhà trường, giúp cho các em ôn thi có hiệu quả. - Đề tài đã trình bày được phương pháp thực nghiệm, kết quả và bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình thực nghiệm. 3. Đối tượng nghiên cứu Chủ thể: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2. Khách thể: Học sinh khối 12 ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ đề ra, đề tài đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phương pháp điều tra, khảo sát sư phạm - Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp quan sát 2
  6. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận 1.1. Ý nghĩa, vai trò của lịch sử và môn học Lịch sử Lịch sử là quá khứ, là nơi chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để tham chiếu kinh nghiệm cha ông vào sự phát triển hôm nay. Đó là hồn cốtzx, truyền tải những giá trị truyền thống, mà nếu không có lịch sử không thể hiểu được vị trí của hiện tại, với ý nghĩa đó thì nếu lịch sử còn thì văn hóa còn, và văn hóa còn thì dân tộc còn. Mặc dù chứa đựng nhiều sự kiện bi tráng nhưng bản thân lịch sử không có lỗi, bởi đó là sự vận hành khách quan, có những sự kiện oai hùng, nhưng cũng có những bi thương, vì đó là không thể khác. Lịch sử là sự trung thực của những sự thật khách quan và không ai có thể chọn lịch sử, mà nhờ lịch sử nên con người và thời đại được định hình. Lịch sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hôm nay phải là sự kế thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau. Về phương diện này, lịch sử là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng phong phú mà con người cần nhận thức để rút ra những bài học. Học lịch sử để các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay, từ nhận thức dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của lịch sử, để từ đó khám phá ra những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch sử, cung cấp những cơ sở khoa học để hoạch định con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực. Lịch sử không diễn ra theo một con đường giản đơn và thẳng tắp mà thường gập ghềnh, quanh co, phức tạp, là quá trình phát triển khách quan của xã hội loài người nói chung cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc, nó như một dòng chảy không ngừng từ khi con người xuất hiện, phát triển liên tục đến ngày nay và cả mai sau. Vấn đề là liệu chúng ta có đủ bản lĩnh và trí tuệ để học một cách thực sự và nghiêm túc tất cả các bài học lịch sử hay không thôi chứ bài học lịch sử nào cũng đều hết sức quý giá. Khoa học Lịch Sử là một trong những ngành trí thức sớm nhất của con người và luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, trong kho tàng tri thức nhân loại cũng như trong mọi hoạt động của con người, trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Sử học đáp ứng một nhu cầu tự nhiên và ngày càng nâng cao của con người vì ai cũng cần biết mình sinh ra từ đâu và quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của loài người nếu như chúng ta bị tách rời khỏi quá khứ hoặc với cả một quá khứ mù mịt. Những tri thức lịch sử trang bị cho chúng ta những kiến thức tinh hoa của văn hóa nhân loại, của dân tộc để học hỏi, giao lưu, hội nhập. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay đã làm cho các quốc gia dân tộc không phân biệt thể chế chính trị xích lại gần nhau. Vì thế, muốn hội nhập phải nói rõ lịch sử dân tộc mình cho thế giới hiểu đúng. Đồng thời, nước ta là nước đang phát triển, cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước khác. Vì vậy, việc tìm hiểu lịch sử nước ngoài, nhất là lịch sử các nước láng giềng 3
  7. trong khu vực, các nước lớn có quan hệ mật thiết với chúng ta để hiểu họ và học hỏi tinh hoa văn hóa của họ là điều không thể thiếu. Kiến thức lịch sử có tác dụng to lớn trong giáo dục các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ truyền thống, bản sắc dân tộc để không bị hòa tan khi hội nhập với thế giới, khu vực. Những bài học kinh nghiệm của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc còn có ý nghĩa sâu sắc trong công cuộc phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, muốn phát triển đất nước trong điều kiện hiện nay, phải hiểu sâu sắc các bài học kinh nghiệm của quá khứ và phải biết sử dụng những hiểu biết về lịch sử vào thực tiễn sinh động phong phú, đa dạng. Đối với giáo dục, dạy lịch sử còn là dạy làm Người, dạy cho thế hệ trẻ giữ gìn phẩm giá, nhân cách con người, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh. Học lịch sử còn để biết giá trị của ngày hôm nay và từ đó biết ý nghĩa của thành ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Lịch sử là một bộ môn nền tảng của khoa học xã hội, là cơ sở quan trọng bậc nhất để trang bị một hệ thống kiến thức về cội nguồn dân tộc, về các thành quả xây dựng và bảo vệ đất nước, về các giá trị tiêu biểu của truyền thống, văn hóa dân tộc và nhân loại, để từ đó, bồi dưỡng các giá trị của truyền thống của dân tộc, nhất là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần nhân ái..; từ đó xây dựng phẩm chất và bản lĩnh con người Việt Nam. Bộ môn Lịch sử có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước và sự hiểu biết, nhận thức về truyền thống dân tộc của con người nói chung. Lịch sử tạo niềm tin cho học sinh qua các bằng chứng chứng xác thực, cung cấp cho học sinh những kinh nghiệm quý báu về cách xử lý tình huống thông minh của người xưa trong cuộc sống, nhất là trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử giáo dục lòng yêu nước qua các tấm gương khắc phục khó khăn, không ngại gian khổ, hy sinh, xả thân vì nước, thể hiện tinh thần “mình vì mọi người”. Qua đó học sinh ý thức được trách nhiệm của mình đối với xã hội, Tổ quốc. Lịch sử là bộ môn khoa học, về mặt văn hóa nó gắn liền với hình hài đất nước, đó là dòng sông, bến nước, sân đình, cây đa, giếng nước, lũy tre làng, là gia đình, tổ tiên. Lịch sử nuôi dưỡng thế hệ con người Việt Nam, giáo dục góp phần hình thành cái tâm, tính, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, yêu thương đùm lẫn nhau, gắn tình yêu gia đình, làng xóm với quê hương đất nước. Về vị trí môn học: Ở cấp trung học phổ thông, môn Lịch sử có sứ mệnh giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học, đồng thời góp phần vào việc xây dựng những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung. Với đặc trưng của môn học, Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc; củng cố các giá trị nhân văn, lòng khoan dung, nhân ái, tinh thần cộng đồng và hình thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại. 4
  8. Về vai trò môn học: Chương trình môn Lịch sử hệ thống hoá, củng cố kiến thức thông sử ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn các kiến thức lịch sử cốt lõi thông qua các chủ đề, chuyên đề học tập về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam. Phương pháp dạy học môn Lịch sử được thực hiện trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của sử học và phương pháp giáo dục hiện đại. Về mối quan hệ giữa Lịch sử với các môn học/hoạt động giáo dục khác: Môn Lịch sử tạo nền tảng để học sinh học tốt các môn học khác, đặc biệt là các môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như: Ngữ văn, Địa lí, giáo dục kinh tế và pháp luật, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Nghệ thuật và các hoạt động trải nghiệm (hoạt động phát triển cá nhân, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng, hoạt động giáo dục hướng nghiệp…). 1.2. Vai trò của ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử Mục tiêu giáo dục nước ta là “nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.” (Điều 2, Luật giáo dục năm 2019) Một trong những nhiệm vụ quan trọng của tất cả các trường THPT là hướng tới 100% học sinh đỗ tốt nghiệp với điểm số cao và sau khi ra trường, học sinh chọn được ngành nghề thiết thực, phù hợp. Để đào tạo ra những công dân phát triển toàn diện, các môn học trong nhà trường phổ thông phải hoàn thành nhiệm vụ của mình. Lịch sử là môn học đặc thù bởi lịch sử luôn gắn liền và song hành với chính trị, là cội nguồn của mọi quốc gia, dân tộc, thể chế. Giá trị lớn nhất của giáo dục lịch sử là giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá khứ và giáo dục cho thế hệ trẻ biết rõ cội nguồn gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước, biết quý trọng những giá trị của lịch sử để kế thừa và phát huy các giá trị đó cho hiện tại và tương lai. Nói cách khác, Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng đối với thế hệ trẻ; giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống văn hóa, lịch sử; bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội; từ đó hình thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại. Tầm quan trọng của môn lịch sử như thế nhưng chất lượng dạy và học môn lịch sử được phản ánh qua kết quả thi tốt nghiệp hàng năm còn rất thấp. Là những giáo viên dạy lịch sử chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề, đánh giá đúng cả phía giáo viên và học sinh từ đó đưa ra các giải pháp dạy học cũng như ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tốt hơn, từng bước góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. 5
  9. Đối với giáo viên, cần nhìn nhận lại bản thân mình, giáo viên phải nỗ lực hết mình để đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh một cách phù hợp nhất với đối tượng học sinh nơi mình công tác. Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, dạy cho học sinh khả năng tự học, tự tìm tòi sáng tạo. Cố gắng khắc phục tình trang đọc - chép hoặc chiếu - chép. “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật giáo dục năm 2019). Dạy học Lịch sử là dạy cho học sinh cách học, hướng học sinh vào việc tích cực hóa các hoạt động học tập vào khả năng tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề để tự kiến tạo tri thức mới, từ những kiến thức đã học, học sinh sẽ hình thành và phát triển các năng lực của cá nhân, từ đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm và vận dụng vào cuộc sống. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh chủ động học tập sáng tạo. Trong dạy học lịch sử giáo viên giúp cho học sinh kết nối được quá khứ và hiện tại, hiểu được các vấn đề lịch sử để vận dụng trong thực tế cuộc sống. Giúp cho học sinh nhận thức, có động cơ học tập bên trong từ đó giúp các em có hứng thú học tập lịch sử góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. 1.3. Những yêu cầu trong công tác dạy và ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử Đảm bảo tính khoa học và vừa sức: Lịch sử cũng như các môn khoa học xã hội khác ra đời nhằm phản ánh sự tồn tại xã hội loại người. Lịch sử giúp cho thế hệ sau hiểu về quá khứ của thế hệ đi trước và mong muốn cải tạo thế giới trong thực tại, vì vậy lịch sử là một khoa học. Tính khoa học ở đây là thể hiện tính chính xác của sự kiện lịch sử cũng như quan điểm và phương pháp luận. Tính khoa học thể hiện: Giáo viên cần hình thành cho học sinh kiến thức cơ bản chính xác nhất, rõ ràng nhất, kiến thức đó nhằm giúp học sinh biết và hiểu về lịch sử của quá khứ. Tính khoa học gắn liền với tính vừa sức trong các môn học rất cần thiết đặc biệt quan trọng đối với môn lịch sử. Nguyên tắc vừa sức được thể hiện ở chỗ người giáo viên biết lựa chọn kiến thức phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Không đưa ra các thuật ngữ, khái niệm quá khó, bài tập quá khó gây chán học cho học sinh. Tính vừa sức cần thiết trong dạy học phù hợp với năng lực của từng đối tượng HS vì tư duy của HS không đồng đều, có em nhanh, em chậm, đối với các HS chậm nếu GV đưa vào một lượng kiến thức lớn thì HS khó có thể tiếp thu được. Tính vừa sức trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh hứng thú học tập, kích thích tư duy, từ đó giúp các em học tốt góp phần quan trọng nâng cao chất lượng môn học. Tính khoa học và tính vừa sức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, giúp HS đạt kết quả cao trong học tập. Đảm bảo tính cụ thể của lịch sử: Do đặc điểm môn lịch sử là những sự việc cụ thể diễn ra trong quá khứ: Đó là hoạt động của con người theo đuổi những mục đích nhất định, trong không gian và thời gian xác định, trong những điều kiện cụ 6
  10. thể. Nên trong quá trình dạy học cũng như ôn thi của giáo viên phải khôi phục lại quá khứ thông qua các sự kiện lịch sử để học sinh dễ nắm kiến thức ngay tại lớp. Đảm bảo tính thống nhất giữa dạy và học: Trong quá trình dạy và học giáo viên là người đóng vai trò định hướng, hướng dẫn. Học sinh tự giác tích cực và chủ động chiếm lĩnh kiến thức để làm bài. Đảm bảo tính giáo dục: Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, các giáo viên hướng dẫn học sinh học tập giúp cho các em nhận thức quá khứ một cách sinh động, hấp dẫn nhưng phải đúng với những gì đã diễn ra thông qua các sự kiện lịch sử. Từ đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho học sinh và hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng chung Ở các kỳ thi THPT quốc gia những năm trước, điểm môn Lịch sử luôn trong tình trạng báo động đỏ thể hiện qua phổ điểm các năm. Điểm trung bình thi THPT quốc gia môn Lịch sử năm 2017 là 4.6. Điểm trung bình thi THPT quốc gia năm 2018 là 3.79 mức thấp kỉ lục. Năm 2019, 70% bài thi THPT quốc gia môn Lịch sử dưới điểm 5.0, gần 400 thí sinh bị điểm liệt, điểm trung bình môn là 4.3 thấp nhất trong 9 môn thi. Năm 2020, khi Bộ GD&ĐT thay đổi kỳ thi THPT quốc gia thành kỳ thi tốt nghiệp với mục đích tốt nghiệp THPT chứ không phải thi THPT quốc gia với hai mục tiêu vừa để xét tốt nghiệp vừa xét tuyển đại học thì điểm trung bình môn Lịch sử đã được cải thiện đáng kể so với bản thân nó, mặc dù vẫn là một trong hai môn có điểm số thấp nhất. Năm 2020, kết quả thi tốt nghiệp THPT điểm trung bình môn Lịch sử là 5.19, tiếp tục “đội sổ” trong các môn thi, số điểm dưới 5.0 chiếm tỷ lệ 46.95%, điểm trung vị là 5.0, điểm số có nhiều thí sinh đạt nhất là 4.5. Điểm liệt chiếm 0.02%. Năm 2021, điểm thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử trung bình 4.97, số học sinh đạt điểm 4.0 nhiều nhất, nghĩa là chưa đủ điểm 5.0, số học sinh đạt dưới trung bình chiếm tỷ lệ 52.03%. Năm 2022 kết quả phân tích phổ điểm thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử của cả nước cho thấy: Có 659.667 thí sinh tham gia thi bài thi môn Lịch sử, trong đó điểm trung bình là 6.34 điểm, điểm trung vị là 6.5 điểm; điểm số có nhiều thí sinh đạt nhất là 7.0 điểm. Số thí sinh có điểm < = 1 là 83 (chiếm tỷ lệ 0.01%); số thí sinh đạt điểm dưới trung bình là 127.557 (chiếm tỷ lệ 19.34%). Như vậy kết quả kì thi môn lịch sử năm 2022 có sự cải thiện rõ rệt. Nguyên nhân dẫn đến sự cải thiện này thứ nhất, có lẽ là cách đây vài năm đã gióng lên hồi chuông cần đổi mới phương pháp dạy môn Lịch sử và trên thực tế đã triển khai tại các trường THPT. Thứ hai là đề thi năm nay có sự cải biến, việc thay đổi cách ra đề để đánh giá học sinh về môn Lịch sử đã có những chuyển biến tích cực. 7
  11. Phổ điểm môn Lịch sử năm 2017. Điểm trung bình của môn là 4.6. (Nguồn: Bộ GD-ĐT) Phổ điểm môn Lịch sử năm 2018. Điểm trung bình của môn là 3.79. (Nguồn: Bộ GD-ĐT) 8
  12. Phổ điểm môn Lịch sử kì thi THPT quốc gia 2019. Điểm trung bình:4.30 (Nguồn: Bộ GD-ĐT) Phổ điểm môn Lịch sử kì thi TN THPT năm 2020. Điểm trung bình: 5.19 (Nguồn: Bộ GD-ĐT) 9
  13. Phổ điểm môn Lịch sử kì thi TN THPT năm 2021. Điểm trung bình:4.97 (Nguồn: Bộ GD-ĐT) Phổ điểm môn Lịch sử kì thi TN THPT năm 2022. Điểm trung bình: 6.34 (Nguồn: Bộ GD-ĐT) 10
  14. Thi tốt nghiệp môn Lịch sử của tỉnh Nghệ An kết quả qua các năm rất thấp, thấp hơn điểm trung bình chung của cả nước, cụ thể: Năm 2019 điểm trung bình tốt nghiệp môn Lịch sử là 4.2 (thấp hơn toàn quốc). Năm 2020, điểm trung bình tốt nghiệp môn Lịch sử của Nghệ An là 5.04 (thấp hơn toàn quốc). Năm 2021 điểm thi trung bình của tỉnh Nghệ An là 4.74 (thấp hơn toàn quốc). Năm 2022 với sự nỗ lực của cả tỉnh, sự chỉ đạo quyết liệt của Sở GD&ĐT điểm thi trung bình môn Lịch sử của tỉnh Nghệ An là 6.41 (cao hơn toàn quốc). Mặc dù điểm trung bình năm 2022 của tỉnh có cao hơn điểm trung bình toàn quốc nhưng độ lệch chưa nhiều (0.07 điểm), điều này đòi hỏi tất cả hệ thống giáo dục của tỉnh nhà phải quyết tâm hơn nữa, vào cuộc hơn nữa trong việc chỉ đạo và tổ chức ôn thi TN THPT cho HS để tiếp tục nâng cao chất lượng bộ môn. 2.2. Thực trạng tại đơn vị Điểm trung bình thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại Trường THPT Hoàng Mai 2 qua các năm rất thấp, thấp hơn điểm trung bình chung của tỉnh và cả nước, cụ thể: năm học 2018-2019 điểm trung bình tốt nghiệp môn Lịch sử của trường là 4.68 (thấp hơn cả tỉnh và toàn quốc); năm học 2019-2020 điểm trung bình tốt nghiệp môn Lịch sử của trường là 5.05 (thấp hơn toàn quốc); năm học 2020-2021, điểm trung bình tốt nghiệp môn Lịch sử trường là 4.74 (thấp hơn cả tỉnh và toàn quốc); năm học 2021-2022 với sự nỗ lực của cả trường, sự chỉ đạo quyết liệt của Sở GD&ĐT và việc áp dụng các giải pháp của đề tài trong ôn thi, điểm thi trung bình môn Lịch sử của trường là 7.01 (cao hơn cả tỉnh và toàn quốc). Từ thực tế đó bản thân tôi quyết định tiến hành khảo sát thêm thực trạng và hoàn thiện đề tài này, mong rằng những giải pháp của cá nhân sẽ giúp các đồng nghiệp cải thiện kết quả bộ môn mình, nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử của nhà trường và tỉnh nhà. Điểm TB chung toàn Năm học Điểm TB chung toàn tỉnh Điểm TB chung cả trường/ thứ hạng xếp nước toàn tỉnh 2018-2019 4.18 4.2 4.97 2019-2020 5.05/55 5.04 5.19 2020-2021 4.57/60 4,74 4.97 7.01/11 6.41 6.34 2021-2022 (Nguồn thống kê Trường THPT Hoàng Mai 2 và Sở GD&ĐT Nghệ An) 2.2.1. Khảo sát thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử Để có được những kết luận khách quan, khoa học về việc tổ chức ôn thi TN THPT tôi đã tiến hành điều tra khảo sát 3 GV tại trường tôi và 5 giáo viên cốt cán 11
  15. tại các trường bạn, tổng hợp phiếu điều tra khảo sát (Phụ lục 1) tôi thu được kết quả như sau: có 4/5 (80%) GV trường bạn cho rằng việc xây dựng kế hoạch ôn thi ở trường bạn được tiến hành sau khi có đề tham khảo của Bộ GD&ĐT; 1/5 (20%) GV trường bạn cho rằng việc xây dựng KH được tiến hành vào cuối năm học, khi bắt đầu ôn thi; có 6/8 (75%) GV thấy không cần thiết phải phân loại HS trong quá trình ôn thi, 2/8 (25%) GV thấy cần thiết với những em có nguyện vọng thi Đại học. Đặc biệt, cả 8 GV (100%) đều cho rằng trong quá trình ôn thi TN THPT biện pháp chủ yếu GV sử dụng là kết hợp dạy lại lí thuyết cho HS và cho các em làm bài tập trắc nghiệm, với biện pháp này sẽ gây ra sự nhàm chán cho học sinh khi tiến hành học ôn vì lí thuyết các em đã được học ở giờ dạy chính khóa, giờ các em học lại với phương pháp truyền thống mà không có sự đổi mới sẽ không tạo được hứng thú cho các em khi ôn tập, việc làm đề thi TN trên giấy sẽ gây ra tốn kém về in ấn, phải chờ kết quả chấm lâu, không tạo được kích thích, hào hứng cho các em, một số HS sẽ làm bài theo kiểu đối phó, khoanh bừa mà không cần biết đúng hay sai. Về những khó khăn gặp phải trong quá trình ôn thi thì 8 GV (100%) đều cho rằng học sinh chưa chú trọng vào việc ôn thi, quỹ thời gian nhà trường bố trí để ôn thi chưa nhiều và bản thân còn lúng túng trong việc vận dụng kĩ thuật mới vào các giờ ôn tập. Cũng theo tất cả các GV được khảo sát để ôn tập đạt hiệu quả cao thì cần có sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, sự phối hợp giữa nhà trường-gia đình-xã hội và GV cần được tập huấn về một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới để vận dụng vào việc ôn thi TN THPT nói riêng và dạy học nói chung. Từ thực trạng đó cho thấy đề tài mà tôi tiến hành nghiên cứu và vận dụng đảm bảo tính sáng tạo và thực sự cần thiết cho việc ôn thi TN THPT môn Lịch sử. 2.2.2. Khảo sát về hứng thú của học sinh về bộ môn và các hình thức dạy ôn thi của giáo viên Tổng hợp phiếu điều tra (Phụ lục 2) 102 HS trường THPT Hoàng Mai 2 và 116 HS trường Hoàng Mai đang ôn thi TN THPT, tôi thu được kết quả như sau: Khi được hỏi về quá trình học tập và ôn thi TN THPT môn Lịch sử thì có đến 48 (22%) HS của hai trường thấy hứng thú với bộ môn, 120 (55%) HS thấy bình thường, 58 (27%) HS không quan tâm. Trong việc GV tổ chức ôn tập theo Sơ đồ tư duy và làm bài tập trắc nghiệm bằng phần mềm Quizizz có 198 (91%) HS đều chọn rất hứng thú và hứng thú, có 20 (9%) HS là thấy bình thường và không quan tâm. Tất cả các em đều cho rằng trong dạy học môn Lịch sử, khi GV tổ chức ôn tập theo Sơ đồ tư duy và làm bài tập trắc nghiệm bằng phần mềm Quizizz thì kiến thức sẽ đơn giản, dễ hiểu hơn, giờ học nhẹ nhàng, bớt căng thẳng hơn, các em hứng thú, tích cực học hơn, nhớ bài lâu hơn, nắm kiến thức có hệ thống hơn, giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng sống hơn. Đối với phương pháp dạy ôn tập truyền thống (đọc - chép; hỏi - đáp) có 180 (83%) HS đều cảm thấy nhàm chán, 38 (17%) HS cảm thấy bình thường và không quan tâm. Về biện pháp để hỗ trợ việc học tập của HS ở nhà và kiểm tra trực tuyến ở nhà thì đa số 12
  16. HS được khảo sát đều trả lời chưa có sự hỗ trợ của GV lúc tự học tập ở nhà và ngoài bài kiểm tra trên lớp, bài kiểm tra trực tuyến của Sở thì không có thêm hình thức kiểm tra nào nữa. 2.2.3. Kết luận từ kết quả điều tra Qua khảo sát có thể thấy không phải tất cả HS đều thờ ơ với môn Lịch sử, không có hứng thú với bộ môn Lịch sử và quay lưng lại với lịch sử mà là người giáo viên dạy sử chưa truyền được lửa đến các em để thổi bùng niềm đam mê, hứng thú với bộ môn. Cũng qua khảo sát chúng ta có thể thấy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết quả ôn thi TN THPT nhưng nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất tới chất lượng bộ môn Lịch sử là do năng lực của giáo viên. Giáo viên cần phải nhìn nhận ra được vấn đề do đâu và không ngừng nỗ lực hết mình để trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Chúng ta không mãi đổ lỗi cho hoàn cảnh mà cái quyết đinh nhất đến chất lượng môn Lịch sử là bản thân chúng ta, vì vậy mỗi giáo viên dạy bộ môn Lịch sử cần nhìn nhận vấn đề và điều chỉnh phương pháp dạy học, ôn thi tốt nghiệp phù hợp với đối tượng HS, nhất là với học sinh ở vùng ven biển, vùng giáo, HS có hoàn cảnh khó khăn ..., ngoài năng lực chuyên môn đòi hỏi người giáo viên phải thật sự kiên trì, chịu khó, đầu tư thời gian, gần gũi, giúp đỡ, động viên các em, từ đó giúp các em ôn thi một cách tốt nhất. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng Nguyên nhân chung của thực trạng Lịch sử vốn được coi là một môn học có học sinh thi tốt nghiệp và tuyển sinh vào đại học nhưng kết quả chưa bao giờ tương xứng với tầm quan trọng của nó. Qua quá trình giảng dạy môn Lịch sử THPT và nghiên cứu thực trạng dạy học lịch sử trong nhiều năm, bản thân tôi rất buồn và tự hỏi có phải “học sinh quay lưng với môn Lịch sử”. Nhưng bình tĩnh suy xét cho cùng thì thấy điều đó diễn ra theo quy luật và có nhiều nguyên nhân dẫn tới điểm thi thi tốt nghiệp môn sử còn thấp. Về thực tế, bối cảnh xã hội: Đa số phụ huynh xem nhẹ môn học này vì cho rằng học lịch sử để biết vậy thôi chứ không ứng dụng gì trong nghề nghiệp tương lai (chỉ cần học để dạy hoặc nghiên cứu lịch sử). Do vậy, phụ huynh không quan tâm, chủ yếu đầu tư cho con học Toán, Lý, Hóa, Tiếng Anh để dễ chọn ngành nghề, chọn trường đại học, có tương lai, có cơ hội việc làm tốt hơn. Điều này thực tế không trách được phụ huynh, vì số tổ hợp, các ngành nghề có môn sử còn ít. Những học sinh chọn thi tổ hợp KHXH là những em có học lực yếu, trung bình không học được các môn KHTN nên chọn vào học các môn KHXH. Học lịch sử nói riêng ra trường không xin được việc, thất nghiệp nên học sinh học chỉ để đối phó, học để đủ điểm đậu TN THPT. Vì thế, nhiều em không chịu học, nắm kiến thức mơ hồ, nhầm lẫn, không xâu chuỗi được kiến thức. Học sinh chủ yếu đoán mò, nhờ vào yếu tố may rủi. Về chương trình sách giáo khoa: Không ít thầy cô cho rằng chương trình sách giáo khoa quá nặng nề, chi tiết, bắt học sinh phải nhớ quá nhiều. Nội dung 13
  17. sách giáo khoa đậm chất báo cáo, nghiêng về sự kiện, chiến dịch, trận đánh, thời gian… mà thiếu đi những hình ảnh về nhân vật, lược đồ, biểu đồ, bảng biểu, thiếu những nhận định, đánh giá. Sách và kênh hình in đen trắng thiếu sự hấp dẫn, sinh động đối với người học. Hiện nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã cho biên soạn sách giáo khoa mới lớp 10 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 nhằm khắc phục những hạn chế về sách giáo khoa nêu trên. Về phương pháp giáo dục cũng có những vấn đề cần bàn. Một số GV vẫn dạy học lịch sử theo hướng tiếp cận nội dung mà chưa phải tiếp cận năng lực, nhồi nhét một mớ kiến thức có sẵn vừa nặng về học thuộc, ghi nhớ máy móc. Hiện nay, đã có nhiều GV sử dụng kênh hình hoặc áp dụng phương pháp tích cực và các kĩ thuật mới trong dạy học lịch sử, tuy nhiên số lượng áp dụng này chưa nhiều, nhất là trong việc ôn thi tốt nghiệp THPT. Về trách nhiệm: nhiều giáo viên chưa đủ tâm huyết và trách nhiệm, chưa tự học và nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử. Khi dự giờ thao giảng, sinh hoạt chuyên môn có sự thay đổi nhưng chưa nhiều. Khi đánh giá giờ dạy chỉ tập trung đánh giá giáo viên có truyền thụ hết kiến thức trong sách giáo khoa không, dạy còn thiếu ý này, ý kia mà quên đi đánh giá giáo viên có liên hệ, lồng ghép, tích hợp, rèn kĩ năng, giáo dục thái độ tình cảm, có sử dụng các phương pháp mới trong dạy học, đánh giá học sinh có hiểu bài không. Dạy và học lịch sử đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập về nội dung lẫn phương pháp giảng dạy. Tất cả những nguyên nhân đó khiến học sinh ngày càng cảm thấy môn sử nhàm chán và ít đam mê môn Lịch sử, dẫn đến điểm thi môn Lịch sử tại kỳ thi tốt nghiệp thấp hơn so với các môn khác. Bên cạnh những nguyên nhân chung thì tại Trường THPT Hoàng Mai 2, nơi bản thân đang công tác còn có những yếu tố riêng ảnh hưởng tới chất lượng TN THPT của nhà trường nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. Là một ngôi trường trẻ mới ra đời, đến nay trường THPT Hoàng Mai 2 bước sang năm học thứ 7. “Sinh sau đẻ muộn”, lại không nằm ở vị trí trung tâm, cơ sở vật chất nhà trường không có phải mượn tạm địa bàn của một ngôi trường tư thục đã giải thể trên địa bàn thị xã, phòng học không đủ, nhà trường phải tổ chức học hai ca, HS không có đủ phòng để học thêm, GV không có phòng để sinh hoạt chuyên môn, tất cả các cuộc họp của nhà trường đều diễn ra bằng hình thức onlai vào ban đêm, những khó khăn đó ảnh hưởng rất lớn đến công tác tuyển sinh và chất lượng dạy học của nhà trường. Các HS khá, giỏi có khả năng thi đậu vào trường THPT Hoàng Mai đều không đăng kí thi vào trường, còn lại những HS tốp sau là nguồn tuyển sinh của nhà trường. Trong những năm đầu mới thành lập chất lượng đầu vào của trường rất thấp so với mặt bằng chung của thị xã Hoàng Mai nói chung và toàn tỉnh nói riêng. Năm học đầu tiên (2016-2017) nhà trường không đủ số hồ sơ để tổ chức thi tuyển, những em HS đậu tốt nghiệp, có nguyện vọng 2 vào trường trong kì thi vào 10 đều được tuyển vào học. Trong năm học thứ hai (2017-2018) điểm trung bình chung vào khối 10 của trường có em tổng điểm tất 14
  18. cả bài thi chỉ có 8.0 điểm, mức điểm chung đa số là tổng dưới 15.0 điểm cho tất cả các bài thi... đến nay chất lượng đầu vào của trường được cải tiến hơn nhưng so với mặt bằng chung của thị xã Hoàng Mai nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung đang còn rất thấp. Học sinh của trường chủ yếu chỉ có nguyện vọng thi TN THPT và các em chỉ cần đủ điểm đậu, không cần điểm cao. Về phía phụ huynh mặc dù là HS thị xã nhưng chủ yếu các em là con em vùng biển, vùng giáo hoặc có bố mẹ đi làm ăn xa không có thời gian quản lí con cái, việc đầu tư cho con học không cao, sự kết hợp giữa phụ huynh với nhà trường chưa được chặt chẽ. Về đội ngũ giáo viên của trường thường dao động liên tục giữa GV chuyển đến và GV chuyển đi, điều đó làm cho tình hình đội ngũ không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp tới việc phân công nhiệm vụ và các kế hoạch của nhà trường. Sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, đội ngũ GV không ổn định, chất lượng đầu vào thấp, HS không có nhu cầu học Đại học chỉ có nhu cầu đủ điểm đậu TN THPT, sự thiếu quan tâm của nhiều phụ huynh tới học sinh ... Tất cả những yếu tố đó dẫn đến chất lượng bộ môn lịch sử nói riêng và chất lượng thi TN THPT nói chung của nhà trường còn rất thấp so với mặt bằng chung toàn tỉnh. 2.4. Những khó khăn khi ôn thi Ôn thi môn Lịch sử là một trong những nhiệm vụ vất vả, khó khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học. Thực tế, trong những năm qua công tác ôn thi TN THPT của tỉnh nhà được Sở GD&ĐT rất quan tâm, nhà trường rất chú trọng song chất lượng đạt hiệu quả chưa cao, chưa ngoạn mục, khi tăng, khi giảm, chưa có tính bền vững. Khi ôn tập TN THPT môn Lịch sử giáo viên đã gặp rất nhiều khó khăn vì chất lượng học sinh không đồng đều, đa số các em học lực trung bình, số học sinh đam mê môn Lịch sử chưa nhiều. Bài học lịch sử so với các môn khác dài, nhiều sự kiện, học sinh khó nắm vững khiến các em không thích thú học môn Lịch sử. Ngoài ra, một số bậc phụ huynh không muốn cho con mình theo môn Lịch sử. Nội dung kiến thức sách giáo khoa quá nặng, kênh chữ nhiều hơn kênh hình, trong các giờ học gần như giáo viên phải tìm cách truyền tải hết kiến thức, học sinh ghi chép bài đầy đủ, đảm bảo đúng phân phối chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành, vì vậy việc rèn luyện các kĩ năng thực hành, hiểu bản chất của lịch sử cho học sinh còn hạn chế. Nội dung ôn luyện rất nhiều, yêu cầu học sinh phải nhớ một lượng kiến thức lớn làm cho học sinh nản và nhàm chán. Số học sinh thực sự đam mê môn Lịch sử rất ít. Vấn đề này đã được Bộ GD&ĐT khắc phục tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ, nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu hết chủ trương của Bộ và vẫn còn theo lối cũ, ngại đổi mới. Tài liệu ôn thi có nhiều nhưng chỉ đơn thuần chứa nội dung kiến thức, ít có những tài liệu đổi mới trong biên soạn nội dung và đề thi. Đề thi TN THPT môn môn Lịch sử năm 2021-2022 đã có sự thay đổi, chú ý tập trung rèn kĩ năng thực hành, phát triển phẩm chất năng lực của học sinh, tránh hỏi những câu hỏi yêu cầu học sinh ghi nhớ máy móc. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được hết yêu cầu của bộ môn, vẫn còn áp lực cho học 15
  19. sinh phải học thuộc nhiều. Ngoài ra, học sinh ít lựa chọn môn Lịch sử, phụ huynh không đầu tư vì cho rằng học Lịch sử khó xác định nghề nghiệp trong tương lai. Đa số học sinh lựa chọn tổ hợp môn khác. Khi không có môn nào lựa chọn nữa các em mới chọn môn Lịch sử. Các giáo viên đánh giá đề thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử qua các năm dàn trải có cả phạm vi kiến thức Lịch sử 11. Đề thi thiên về khả năng đánh giá, phân tích hay khái quát vấn đề khiến học sinh bối rối. Đề thi cũng xuất hiện các câu hỏi có sự liên kết giữa Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới. Phần Lịch sử Việt Nam có 28 đến 30 câu trong đó có 2 câu thuộc chương trình lớp 11. Ở hầu hết các năm các câu hỏi vận dụng cao chủ yếu thuộc phần Lịch sử Việt Nam. Để xử lý các câu hỏi này, thí sinh cần nắm vững kiến thức sách giáo khoa đồng thồi cần có cái nhìn tổng quát, xuyên suốt các giai đoạn lịch sử theo thời gian, mối quan hệ không gian mới có thể giải quyết được dạng câu hỏi này. Đặc biệt, xuất hiện nhiều dạng câu hỏi so sánh cũng như các câu hỏi mang tính phân hóa cao, đòi hỏi lập luận, phân tích, đánh giá thực sự gây khó cho học sinh 12. Chất lượng thi tốt nghiệp môn sử thấp có nhiều nguyên nhân, yêu cầu phải thay đổi, cả xã hội phải vào cuộc, nhất là những giáo viên trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu môn sử. Cần phải đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong đó, giáo viên với tư cách là người tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh. 16
  20. CHƯƠNG 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN LỊCH SỬ TẠI TRƯỜNG THPT HOÀNG MAI 2 1. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử tại trường THPT Hoàng Mai 2 1.1. Xây dựng kế hoạch ôn tập tốt nghiệp phù hợp với đối tượng học sinh Xây dựng kế hoạch ôn tập cho HS là một trong những khâu quan trọng hàng đầu của Nhóm chuyên môn trong việc ôn thi TN THPT. Ở nhiều trường việc xây dựng KH được bắt đầu sau khi có đề tham khảo của Bộ hoặc vào thời gian sắp kết thúc năm học nhưng đối với nhóm Lịch sử trường tôi, để chủ động trong việc ôn TN THPT cho HS, chúng tôi đã xây dựng kế hoạch từ đầu năm học và trong quá trình thực hiện, tùy tình hình thực tiễn chúng tôi sẽ điều chỉnh cho phù hợp, nhất là sau khi có đề thi tham khảo của Bộ. Để xây dựng được một kế hoạch chất lượng sát với tình hình thực tiễn của đơn vị chúng tôi đã căn cứ vào chất lượng đầu vào của khóa học đó; kết quả điểm trung bình chung môn Lịch sử của năm học 11, điểm trung bình tốt nghiệp mà khóa trước đạt được, phân tích cấu trúc đề thi TN THPT của năm học trước để chọn những chủ đề phù hợp với các đối tượng HS. Dưới đây là các bước để xây dựng lộ trình ôn thi TN THPT mà nhóm chuyên môn trường tôi đã xây dựng: Bước 1: Xác định mục đích, yêu cầu. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất để xây dựng kế hoạch ôn tập phù hợp với khả năng và mục tiêu của nhóm chuyên môn. Cần phải vạch ra mục đích và năng lực của HS thì mới có thể lựa chọn lộ trình học hợp lý nhất. Bước 2: Xác định chỉ tiêu. Trên cơ sở phân tích chất lượng đầu vào của HS, phân tích kết quả tổng kết năm học lớp 11 và kết quả điểm thi tốt nghiệp bộ môn của năm học trước chúng tôi đưa ra chỉ tiêu cụ thể cho từng HS, từng lớp và cho toàn trường trên cơ sở chỉ tiêu năm sau phải cao hơn năm trước. Sau khi xác định chỉ tiêu chúng tôi tiến hành cho HS kí cam kết đăng kí chất lượng với GV và lưu lại một bản treo ở bản tin của lớp để nhắc nhở các em hàng ngày cố gắng phấn đấu đạt chỉ tiêu đã đăng kí. Việc xác định chỉ tiêu phù hợp với năng lực thực sự của HS sẽ tạo động lực phấn đấu cho cả HS và GV, làm cho KH có tính khả thi cao. Bước 3: Xác định chủ đề/nội dung ôn tập, mức độ đánh giá và sắp xếp các nội dung ôn tập theo thứ tự ưu tiên. Việc xác định chủ đề/nội dung ôn tập được chúng tôi đưa ra sau khi phân tích, trao đổi về cấu trúc đề thi chính thức TN THPT của năm học trước đó. Kiến thức chúng ta truyền đạt trong quá trình dạy học THPT là rất nhiều, tuy nhiên, chúng đều có liên kết với nhau và được tóm lược, tổng hợp theo các chủ đề. Vậy nên, GV cần dành thời gian tìm hiểu và bao quát kiến thức để việc ôn tập được dễ dàng hơn. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0