intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Nghi Lộc 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:53

14
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Nghi Lộc 5" nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, đưa ra một số kĩ thuật dạy học đã ứng dụng để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh thông qua việc học tập nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. Đồng thời, cung cấp một số kinh nghiệm của bản thân trong việc sử dụng một số kĩ thuật dạy học cho các bài dạy môn Lịch sử nhằm phát huy năng lực của học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Nghi Lộc 5

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ KỸ THUẬT ĐỂ THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA MÔN LỊCH SỬ TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGHI LỘC 5 MÔN: LỊCH SỬ
  2. SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 _________________________________________________ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ KỸ THUẬT ĐỂ THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA MÔN LỊCH SỬ TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGHI LỘC 5 MÔN: LỊCH SỬ Họ và tên: Trần Thị Hồng Tổ: Khoa học xã hội Năm thực hiện: 2021 - 2022 Số điện thoại: 0981673313 Nghi Lộc, tháng 4 năm 2022
  3. MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................. 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................. 2 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ........................................... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................... 2 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.................................................. 2 4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.................................................. 2 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................................ 2 6. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI ......................................................................................... 2 PHẦN II: NỘI DUNG ..................................................................................... 4 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ ................................. 4 1.1 Cơ sở lí luận ................................................................................................ 4 1.1.1 Khái niệm kĩ thuật dạy học .................................................................. 4 1.1.2 Trạng thái học tập của học sinh ........................................................... 4 1.2 Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 5 1.2.1 Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng ....................................... 5 1.2.2 Thực trạng từ phía giáo viên ................................................................ 5 1.2.3 Thực trạng từ phía học sinh ................................................................. 6 II. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA KĨ THUẬT DẠY HỌC ĐỐI VỚI VIỆC THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH ................................... 7 III. MỘT SỐ KĨ THUẬT ĐỂ THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA MÔN LỊCH SỬ ....................................................................... 8 3.1 Một số kĩ thuật để thay đổi trạng thái hoạt động học tập chung cho học sinh ..................................................................................................... 9 3.1.1 Xây dựng một số quy ước mới mẻ với học sinh .................................. 9 3.1.2 Tạo cơ hội cho học sinh được vận động ngay trong tiết học ............. 10 3.1.3 Tạo không gian học tập mới mẻ cho học sinh ................................... 12 3.2 Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập của học sinh qua môn Lịch sử ..................................................................................................... 13 3.2.1. Nắm quy luật của não bộ để tìm phương pháp kĩ thuật dạy học phù hợp ........................................................................................................ 13 3.2.2 Tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu của bản thân ........... 15 3.2.3 Xây dựng kĩ thuật dựa vào mô hình “lớp học đảo ngược” ứng dụng mạng xã hội học tập Edmodo.com .............................................................. 18
  4. 3.2.4. Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh ........................................................................................ 25 3.2.5 Áp dụng kĩ thuật khăn trải bàn nhằm thay đổi trạng thái học tập cho học sinh ........................................................................................................ 35 IV. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG ............................................................................... 37 1. Kết quả thực hiện ........................................................................................ 37 2. Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả của đề tài ....................................... 39 PHẦN III: KẾT LUẬN ................................................................................. 40 I. KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 40 II. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................ 40 1. Tính mới ...................................................................................................... 40 2. Tính khoa học .............................................................................................. 40 3. Tính hiệu quả............................................................................................... 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 42 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 43
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Viết tắt Giải nghĩa 1 DH Dạy học 2 GDPT Giáo dục phổ thông 3 GV Giáo viên 4 HS Học sinh 5 KTDHTC Kĩ thuật dạy học tích cực 6 THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1 Luật Giáo dục năm 2019 về Những quy định chung có nêu những yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đó là “giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại, có hệ thống và được cập nhật thường xuyên; coi trọng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lý lứa tuổi và khả năng của người học”. “Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Điều đó yêu cầu người dạy phải không ngừng học hỏi, sáng tạo để đem lại hiệu quả dạy học tốt đáp ứng yêu cầu về của xã hội về con người. 1.2 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, hoà nhập và phát triển cộng đồng thì việc đánh giá không chỉ dừng lại ở việc tái hiện kiến thức, lặp lại những kiến thức đã học mà phải khuyến khích trí thông minh sáng tạo, khả năng tư duy, vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh. Trên tinh thần đó, người giáo viên phải luôn tự làm mới, làm phong phú chính bản thân mình. Không chỉ trau dồi kiến thức chuyên môn mà người giáo viên còn phải là người đưa đến cho học sinh những “luồng gió mới”. Hiểu rõ mục tiêu đó, hơn ai hết người giáo viên sẽ chính là người khơi nguồn sáng tạo, phát huy để làm sống dậy “sinh khí”, năng lượng hứng thú cho học sinh. Nghĩa là, giáo viên không chỉ là người kiến tạo để cho học sinh chiếm lĩnh tri thức mà còn là người kích thích trạng thái, tinh thần để học sinh sẵn sàng cho hoạt động học tập của mình. 1.3 Trong thời đại bùng nổ thông tin, học sinh phải nắm bắt quá nhiều lượng thông tin, nhưng khả năng lưu nhớ có hạn. Vì vậy, người giáo viên dù chuẩn bị giáo án tốt nhưng không phải bao giờ cũng thành công và đem lại hứng thú học tập cho học sinh. Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải làm sao để giúp học sinh ghi nhớ bài học tốt nhất. Ngoài việc chuẩn bị tốt nội dung dạy học, người giáo viên còn cần có sự linh hoạt để nắm bắt, xử lí tình trạng học tập của học sinh, phải luôn tạo ra những kĩ thuật mới mẻ, sáng tạo để “giữ lửa” cho học sinh. Là một giáo viên, người thực thi những chủ trương, định hướng của giáo dục, tôi mong muốn được đóng góp công sức bé nhỏ của mình trong công cuộc đổi mới lớn lao của ngành bằng hoạt động thiết thực gần gũi với công việc dạy học đó là đưa ra một số kĩ thuật dạy học đã ứng dụng để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh thông qua việc học tập nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. 1
  7. Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh qua môn Lịch sử tại trường trung học phổ thông Nghi Lộc 5” với mong muốn chia sẻ những kinh nghiệm, hiểu biết của mình tới đồng nghiệp, áp dụng vào thực tiễn dạy học để nâng cao chất lượng bộ môn. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, đưa ra một số kĩ thuật dạy học đã ứng dụng để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh thông qua việc học tập nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. Đồng thời, cung cấp một số kinh nghiệm của bản thân trong việc sử dụng một số kĩ thuật dạy học cho các bài dạy môn Lịch sử nhằm phát huy năng lực của học sinh. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu là một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh trong một số bài dạy học Lịch sử 10 và 11 Ban cơ bản ở Trường THPT nhằm phát triển năng lực sáng tạo, tự học của học sinh. Khách thể nghiên cứu là học sinh lớp 10 và 11 ở trường THPT Nghi Lộc 5. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Tiến hành thu thập tài liệu qua sách, báo, các văn bản liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp và rút ra những vấn đề cần thiết của đề tài. 4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Trong đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp lịch sử, logic, phương pháp liên ngành… Bên cạnh đó, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù như: - Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu, thông tin - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu, tranh ảnh… 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại trường THPT Nghi Lộc 5. 6. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Phần mở đầu nêu lí do về tính cấp thiết của việc thay đổi trạng thái học tập nói chung và môn Lịch sử nói riêng. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm: - Những cơ sở lí luận và thực tiễn vấn đề thay đổi trạng thái học tập cho học sinh. 2
  8. - Vai trò, ý nghĩa của việc thay đổi trạng thái học tập cho học sinh. - Một số kĩ thuật để thay đổi trạng thái học tập cho học sinh THPT qua môn Lịch sử. - Kết quả ứng dụng. 3
  9. PHẦN II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ 1.1 Cơ sở lí luận 1.1.1 Khái niệm kĩ thuật dạy học Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ tư duy, mảnh ghép, khăn trải bàn... Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của từng học sinh. Như vậy có thể hiểu kĩ thuật dạy học là biện pháp, cách thức hành động của giáo viên trong các tình huống, hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. 1.1.2 Trạng thái học tập của học sinh - Theo từ điển thì Trạng thái là tình trạng tồn tại của sự vật, con người mà ít nhiều đã ổn định. - Theo tác phẩm Học phương pháp học tác giả Robert M Smith đã đưa ra định nghĩa tổng quan về học tập: học tập của học sinh là hoạt động con người tiếp thu kiến thức. Nó có thể có chủ ý hay chỉ là sự tình cờ ngẫu nhiên. Học tập bao gồm việc thu thập thông tin, kĩ năng thái độ, hiểu biết hay giá trị mới. Nó thường đi kèm những thay đổi về cách ứng xử và liên tục trong suốt thời gian đi học. Học tập vừa được coi như là quá trình, vừa là kết quả. Vậy, quá trình học tập thực sự như thế nào? Trạng thái của con người có tác động đến quá trình học tập hay không? Chúng ta có cần tạo nên những trạng thái tích cực để quá trình học tập, nắm bắt thông tin đạt được hiệu quả tốt nhất không? Trên thực tế, trạng thái tâm lí ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập của học sinh. Khi con người mệt mỏi, buồn chán, hay không có ấn tượng, không bị kích thích trí tò mò… thì khả năng lưu nhớ thông tin sẽ khó thực hiện. Nhận thấy vai trò quan trọng của trạng thái học sinh ảnh hưởng rất lớn đến học tập, thế nhưng các đề tài nghiên cứu chưa nhấn mạnh và tìm ra những giải pháp cụ thể để làm thay đổi học sinh trong các hoàn cảnh cụ thể. Đa phần, các đề tài nghiên cứu hướng đến việc chuẩn bị nội dung học như thế nào để đạt được yêu cầu 4
  10. của chương trình mà ít để ý xem xét trạng thái tâm lí của học sinh như thế nào và mình cần điều chỉnh tâm lí đó ra sao để học sinh có tâm thế học tập chủ động, hào hứng. 1.2 Cơ sở thực tiễn 1.2.1 Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng Chương trình GDPT hiện hành được xây dựng theo định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn. Theo mô hình này, kiến thức vừa là “chất liệu”, “đầu vào” vừa là “kết quả”, “đầu ra” của quá trình giáo dục. Vì vậy, học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế. Trong Chương trình GDPT mới được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng. Thế nhưng, để học sinh có những chuyển biến tích cực trong thái độ, hứng thú học tập với hành trình học tập lâu dài thì đó là lại một bài toán không bao giờ có lời giải cuối cùng. Giới hạn nữa là thời lượng bài học phải theo phân phối chương trình mang tính pháp quy do Bộ Giáo dục ban hành và nội dung bài học trong sách giáo khoa. Đến nay thực tế giáo dục ở Việt Nam vẫn nặng về thi cử, vì vậy để học sinh vượt qua những kì thi, giáo viên phải bám sát những yêu cầu kiến thức, kĩ năng và phẩm chất cần đạt trong mỗi bài học. Đã có những giáo viên mắc “tai nạn nghề nghiệp” vì vô tình hay hữu ý cắt xén chương trình, dồn ghép nội dung bài học... Theo chương trình giáo dục phổ thông hiện tại, số tiết học của học sinh trung bình 5 tiết/ buổi (Từ 7h đến 11h15), 6 buổi học/ tuần, chưa kể đến việc học sinh còn học thêm trong và ngoài nhà trường theo nhu cầu. Với áp lực chương trình học tập và thi cử khiến đa số học sinh không còn khoảng trống cho sự sáng tạo, thậm chí việc học mất nhiều thời gian nhưng thực sự không hiệu quả như công sức thời gian đã bỏ ra. Vậy chất lượng của những tiết học chính khóa thực sự bị ảnh hưởng, học sinh nặng nề, mệt mỏi sẽ không thể tiếp nhận và xử lí tốt thông tin. 1.2.2 Thực trạng từ phía giáo viên Là giáo viên, ai cũng hiểu năng lực để mỗi con người vào đời không chỉ bó hẹp trong yêu cầu ghi nhớ, tích lũy kiến thức mà còn để phân tích sâu, vận dụng sáng tạo trong công việc và để sống tốt hơn, vui hơn, ý nghĩa hơn. Môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc; củng cố các giá trị nhân văn, lòng khoan dung, nhân ái, tinh thần cộng đồng và hình thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại. Chính vì vậy, có lẽ chưa khi nào yêu cầu trải nghiệm trong hoạt động dạy và học Lịch sử lại cấp thiết đến thế. Với vai trò là người dẫn đường cho học trò tham gia trải nghiệm, giáo viên dạy Lịch sử cũng cần vừa năng động vừa có chiều sâu. Đó cũng chính là những trải nghiệm 5
  11. làm thầy, với tinh thần mới: Như chưa hề có một lối mòn! Thế nhưng, trên thực tế giáo viên chú trọng đến việc hoàn thành chương trình theo phân phối mà quên đi mục đích thiết thực của bộ môn Lịch sử. Hơn nữa, số giáo viên chịu khó học hỏi và khao khát đổi mới chưa thực sự nhiều, tâm lí an phận đang làm ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo trong dạy học của giáo viên. Mục tiêu của đa số giáo viên là mong muốn một giờ học tròn trĩnh, chuẩn mực nhưng trên thực tế “khuôn thước” ấy lại tạo nên sự nhàm chán đơn điệu trong dạy học. Với học sinh hay bất kì ai, sự đơn điệu, nhàm chán sẽ giết chết sự hứng thú. Hơn nữa, theo nghiên cứu khoa học thì khả năng tập trung bộ não của con người đa số chỉ tồn tại trong khoảng 10 đến 15 phút, sau đó sẽ bị sao nhãng nhưng giáo viên dường như không quan tâm đến quy luật này. Trong quá trình thực hiện đề tài bản thân tôi cũng đã tiến hành khảo sát việc quan tâm đến trạng thái học tập của học sinh khi học bộ môn Lịch sử ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Nghi Lộc (bao gồm: Trường THPT Nguyễn Duy Trinh, Trường THPT Nghi Lộc 2, Trường THPT Nghi Lộc 3, Trường THPT Nghi Lộc 4, Trường THPT Nghi Lộc 5, Trường THPT Nguyễn Thức Tự. Tổng 5 trường gồm 20 giáo viên) kết quả như sau: Đúng Sai Ý kiến khác Nội dung thăm dò Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % 1. Chỉ quan tâm đến nội 15 75 5 15 0 0 dung bài học 2. Quan tâm đến trạng thái 7 32 13 68 0 0 học tập của học sinh 3. Thường xuyên tìm kiếm kĩ thuật để làm thay đổi 7 32 13 68 0 0 không khí học tập cho học sinh 1.2.3 Thực trạng từ phía học sinh Xã hội ngày một thay đổi theo cơ chế kinh tế thị trường, vậy môn học Lịch sử sẽ được khẳng định ở vị trí nào? Người học ngày nay chỉ ưu tiên cho những môn học định hướng nghề nghiệp tương lai, Lịch sử sẽ mãi chỉ mãi được xem là mô phụ? Thái độ trì trệ, chán nản của học sinh, phải làm sao để thay đổi? Thực tế hiện nay, giữa bão thông tin, nếu chỉ yêu cầu ghi nhớ thì học sinh ít “chịu” học thuộc các con chữ, những số liệu khô khan. Thế nên, việc phải tạo ấn tượng, điểm nhấn, kích thích ham muốn học, khám phá của học sinh đã trở thành đòi hỏi bức thiết trong các giờ Lịch sử. Có thể nói, chưa bao giờ người dạy Lịch sử được trang bị nhiều kiến thức, 6
  12. phương pháp, được sự hỗ trợ bởi công nghệ, đặc biệt là những phương tiện gắn liền với công nghệ thông tin hiện đại như bây giờ. Đáng ra với điều kiện đó, chất lượng học Lịch sử phải cao hơn, học trò yêu Lịch sử, say mê và hứng thú học Lịch sử hơn. Nhưng trên thực tế lại không như chúng ta mong muốn. Bởi vậy, với các phương pháp, cách thức, con đường để đạt được mục tiêu đề ra thì giáo viên còn phải sáng tạo các kĩ thuật trong mọi hoạt động đứng lớp của mình để luôn luôn mới trong mắt học sinh, khơi gợi niềm say mê, hứng khởi cho học sinh. Có thể dẫn ra đây một thói quen tai hại khác vẫn chiếm chỗ trong trường học của chúng ta là các bài giảng dài. Bạn có thể gặp ở bất kỳ trường học nào đó là các bài học kéo dài từ 45 phút tới vài tiếng. Bạn cũng dễ dàng bắt gặp cảnh tượng hàng tá học sinh lơ đãng, ngủ gật, hoặc ngồi làm việc riêng trong lớp vì không thể chú tâm vào bài giảng. Trong khi hầu hết giáo viên đổ lỗi cho các cô cậu học trò, thì các chuyên gia não bộ có một lời giải thích đơn giản cho hiện tượng này: Não chúng ta chỉ có khả năng chú tâm suy nghĩ trong một thời gian rất ngắn, chừng 10 phút, sau đó là sẽ đến giai đoạn mất tập trung. Đây là cơ chế phòng vệ hết sức tự nhiên của não người, vì vậy hãy phân chia các bài giảng thành từng phân đoạn ngắn hơn. Sau mỗi mười phút tập trung, hãy thiết kế một hoạt động để thư giãn và chuyển đổi sang phân đoạn tiếp theo. Thực ra đã từ lâu người ta đã biết dùng kỹ thuật phân giờ Pomodoro với các quy tắc đơn giản kể trên để gia tăng đáng kể năng suất làm việc và học tập. Một thực tế nữa thường thấy là trạng thái học tập của học sinh thường mệt mỏi, uể oải, các em rất lười vận động, các em không có thời gian để tập thể dục… Giờ ra chơi, còn rất nhiều học sinh lựa chọn việc ngồi trong lớp ngủ, đọc truyện…, vì vậy tạo sức ì làm ảnh hưởng đến việc học sáng tạo của học sinh. Sau đây là bảng khảo sát tình trạng học tập của 166 học sinh môn Lịch sử tại trường THPT Nghi Lộc 5 ở các lớp 11A2, 11A3, 10A5, 10A7 Luôn Không Bình thường hứng thú hứng thú Nội dung thăm dò Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % Trạng thái thường xuyên 19 11,4 105 63,3 24 24,3 của em trong giờ học II. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA KĨ THUẬT DẠY HỌC ĐỐI VỚI VIỆC THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH Về vai trò, các KTDHTC là kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động dạy và học vì chúng giúp phát huy sự tham gia hoạt động tích cực, chủ động của học sinh vào quá trình dạy học. Các KTDHTC còn kích thích tư duy, đánh thức sự sáng tạo của học sinh một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, các KTDHTC 7
  13. còn là động lực thúc đẩy sự cộng tác làm việc của học sinh, rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho người học một cách đầy đủ hơn. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, KTDHTC ngày càng đa dạng và phong phú với muôn màu sắc sinh động và được tạo nên từ thực tiễn của hoạt động dạy học. Hiện nay các KTDHTC được vận dụng trong thực tế chủ yếu là: kỹ thuật động não, kỹ thuật thông tin phản hồi, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia chớp, kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật ổ bi, kỹ thuật XYZ, kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật kipling... Tuy nhiên, kĩ thuật dạy học như thủ thuật nảy sinh từ những kinh nghiệm của giáo viên, nó phụ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Những KTDHTC mà chúng ta thường thấy trong các tài liệu tập huấn, với người người giáo viên đó chỉ là những gợi ý. Giáo viên phải linh hoạt vận dụng thường xuyên và không ngừng sáng tạo những kĩ thuật mới để luôn đem đến cho học sinh không khí mới mẻ, ấn tượng, thú vị trong tất cả hoạt động của buổi học. Học sinh sẽ luôn có cảm giác chờ đợi hồi hộp ngay từ khi giáo viên vào lớp. Giáo viên không chỉ vận dụng phương pháp dạy học lớn lao mà ngay trong những kĩ thuật, những mẹo nhỏ… để đem đến cho học sinh một chút niềm vui, nhen nhóm chút sinh khí, tạo một chút hứng thú từ khâu chào hỏi, cách hỏi bài cũ, cách học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức mới, cách cho học sinh thư giãn… Nghĩa là, giáo viên không chỉ chú trọng trọng việc xây dựng phương pháp học tập để học sinh lĩnh hội kiến thức mà giáo viên còn là đạo diễn linh hoạt, sẵn sàng làm mới mọi hình thức hoạt động trong mỗi tiết dạy để kích thích trạng thái tích cực, chủ động của học sinh. Những kĩ thuật này tuy nhỏ nhưng giá trị hiệu quả lại rất cao. Nhờ những kĩ thuật ấy mà người giáo viên sẽ giúp học sinh của mình luôn luôn được kích thích, tạo hưng phấn, tránh cảm giác mệt mỏi trong quá trình lĩnh hội và xử lí kiến thức. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc,… Thiên tài Albert Einstein từng nhận xét đại ý “bạn không thể giải bài toán theo 1.000 cách giống nhau rồi hy vọng có lời giải khác”. Trong những lúc bí bách như thế này, cách tốt nhất là tạm rời xa bài toán đấy, đi chơi, thư giãn rồi hẵng quay lại với bài toán. Việc bạn tạm rời bài toán đó để đi bộ, hóng gió, hoặc ngồi thiền ít phút sẽ giúp não bộ chuyển sang chế độ thư giãn, lúc này các vùng khác của não bộ được kích hoạt. Nếu quay trở lại giải toán, bạn sẽ có khả năng tìm ra một con đường khác, không bế tắc như lúc đầu. Vì vậy, có thể khẳng định rằng sáng tạo Kĩ thuật dạy học đối với việc thay đổi trạng thái học tập cho học sinh là vô cùng quan trọng. III. MỘT SỐ KĨ THUẬT ĐỂ THAY ĐỔI TRẠNG THÁI HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA MÔN LỊCH SỬ Nắm bắt cơ chế hoạt động của não bộ con người, căn cứ vào thực tế học tập của học sinh, tôi nhận thấy rằng người giáo viên không phải chỉ chú trọng trau dồi 8
  14. nội dung bài giảng của môn học mà còn cần phải tìm cách thiết kế hoạt động thư giãn để góp phần tăng năng suất học tập cho học sinh. Sau đây một số hình thức mà tôi đã, đang áp dụng và nhận thấy hiệu quả để đem lại hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học. 3.1 Một số kĩ thuật để thay đổi trạng thái hoạt động học tập chung cho học sinh 3.1.1 Xây dựng một số quy ước mới mẻ với học sinh Trong các giờ học, việc lặp đi lặp lại những việc làm, thói quen mà chúng ta thường làm với học sinh như vào lớp, hỏi bài cũ, vào bài mới, chuẩn mực trong nội dung dạy học, chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử… thực sự đã làm cho người giáo viên đơn điệu hơn trong mắt học sinh. Tránh sự đơn điệu ấy, người giáo viên cần tạo ra sự mới mẻ mọi lúc, mọi nơi khi có điều kiện thực hiện - Tạo ra những ám hiệu riêng với học sinh mà chỉ có giáo viên và học sinh lớp mình phụ trách hiểu. Để thành công trong một tiết dạy, như đã nói ở trên là người giáo viên không chỉ có chuẩn bị nội dung kiến thức mà còn cần kĩ thuật quản lí lớp học. Thay vì giáo viên nhắc nhở và ổn định lớp theo cách thông thường “cả lớp trật tự”, “các em chú ý”… thì GV có thể tạo ra những ám hiệu riêng như: Hi (xin chào)/hi (xin chào); Start (bắt đầu)/ok (được); Yêu/ Lịch sử; Lớp / A3… Nghĩa là, giáo viên sẽ nói vế đầu, học sinh sẽ nói vế sau. Những ám hiệu này sẽ có thể thay đổi theo từng tiết học, buổi học để phù hợp với đặc điểm, tâm lí của giáo viên và học sinh của lớp mình dạy. Đây là cách để ổn định lớp và thu hút học sinh tập trung chú ý vào hoạt động học tập mà giáo viên đang tiến hành. - Cho học sinh bốc thăm để lấy số thứ tự riêng của mình Lấy số thứ tự khi hỏi bài cũ: Trong sổ điểm của giáo viên đã có số thứ tự của họ tên học sinh, nhưng để thay đổi không khí, giáo viên có thể cho học sinh bốc thăm để lấy số thứ tự. Các em sẽ nhớ số thứ tự của mình và trong quá trình dạy học, giáo viên có thể hỏi bài cũ bằng các con số thứ tự. Hình thức lấy số để gọi học sinh cũng phải thường xuyên thay đổi liên tục. Các hình thức đó có thể thay đổi như gọi theo ngày, theo tháng, theo sự kiện đặc biệt, có khi thì cộng các số của ngày tháng lại để tạo thành số mới. Lấy số thứ tự khi hoạt động nhóm: Khi hoạt động nhóm, để tất cả các thành viên trong nhóm đều ở tư thế sẵn sàng trình bày, giáo viên không cử cố định trưởng nhóm mà tất cả các thành viên trong nhóm đều có vai trò như nhau. Ví dụ khi chia nhóm 8 người, mỗi học sinh sẽ tự chọn cho mình một số thứ tự từ 1 đến 8. Khi giao bài tập nhóm, tất cả các thành viên cùng nhau thực hiện. Thông thường, nhóm sẽ cử 1 đại diện có khả năng trình bày tốt nhất nhưng mục tiêu của giáo viên là ai cũng phải được trình bày. Vì vậy, giáo viên sẽ chuẩn bị 8 phiếu đánh số thứ tự từ 1 đến 8 và bốc thăm, bốc thăm trúng số nào thì thành viên số đó của tất cả các nhóm bắt buộc phải lên trình bày. 9
  15. Bốc thăm để chọn nhóm trưởng: Thông thường, chúng ta thường chọn nhóm trưởng là những người học tốt hoặc mạnh dạn, nhanh nhẹn để đại diện nhóm phát biểu. Điều đó, vô hình chung chúng ta đã tạo sự ỉ lại cho đa số học sinh khác và hoạt động nhóm chủ yếu thu hút những bạn tích cực, năng động. Để tránh tình trạng trên, giáo viên sẽ cho các nhóm bốc thăm nhóm trưởng. Giả sử, nhóm 8 người, mỗi người vẫn tiếp tục lấy 1 số như ở hình thức trên và sau đó bốc thăm lấy một số bất kì. Trúng số nào thì người có số thăm đó sẽ làm nhóm trưởng. Như vậy, việc đưa tất cả học sinh vào cuộc sẽ dễ dàng thực hiện và tạo cho tất cả học sinh luôn chủ động học tập và nhận nhiệm vụ. Đặc biệt, học sinh luôn ở trong tâm thế chờ đợi, hồi hộp và hào hứng hơn cũng như trách nhiệm hơn, tích cực hơn, tự giác hơn. - Kĩ thuật chia nhóm. Hoạt động nhóm là một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Đây là một phương pháp sử dụng khá phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, các hình thức chia nhóm nên sử dụng nhiều cách khác nhau. Theo cách thức thông thường, giáo viên sẽ chia nhóm dựa vào chỗ ngồi hoặc theo tổ. Nhóm đó sẽ giữ ổn định trong suốt thời gian một tháng hoặc một kì thậm chí cả năm. Việc giữ ổn định này sẽ không tạo được cảm giác mới mẻ, hứng thú cho học sinh. Khi thay đổi các thành viên trong nhóm sẽ góp phần tạo nên trạng thái học tập mới mẻ cho học sinh, các em có cơ hội học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Ví dụ: Chia theo nhóm điểm danh, theo vần, theo tháng sinh, bốc thăm…, hoặc hình thức hóa theo trò chơi như cho học sinh di chuyển vòng quanh lớp. Khi giáo viên có hiệu lệnh ngồi xuống thì bắt buộc học sinh phải ngồi xuống một vị trí của mỗi nhóm đã chia sẵn mà không được ngồi quá số lượng người đã chia… Những hình thức này giáo viên hoàn toàn có thể sáng tạo theo ý của mình miễn làm sao luôn luôn có được sự mới mẻ, tạo không khí thú vị cho học sinh khi học tập. - Đưa ra một số quy định mới mẻ khi học sinh không hoàn thành công việc của mình (chưa nghiêm túc, chưa hoàn thành bài tập…) thì có thể phạt học sinh bằng quy định nộp phạt bằng việc hát một bài hát, kể một câu chuyện cười, nộp lon chai, trồng cây, chăm hoa, làm vườn… Như vậy, trong biện pháp này giáo viên có thể tạo ra nhiều quy ước bằng chính sự sáng tạo của mình, tránh sự nhàm chán, đơn điệu để góp phần kích thích hưng phấn học tập cho học sinh. 3.1.2 Tạo cơ hội cho học sinh được vận động ngay trong tiết học Như đã trình bày trong phần thực trạng, các tiết học kéo dài 45 phút. Chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp cảnh tượng một số học sinh lơ đãng, mơ màng, hoặc ngồi làm việc riêng trong lớp vì không thể chú tâm vào bài giảng. Các chuyên gia đã giải thích do quy luật của não bộ. Thay vì đổ lỗi cho học trò thì giáo viên thiết kế các hoạt động để thư giãn giúp học sinh có trạng thái học tập tốt hơn. - Cho học sinh di chuyển bàn học theo mục đích học tập của buổi học Việc di chuyển, sắp xếp theo mục đích học tập của buổi học thường được thực 10
  16. hiện vào những tiết học có dự giờ. Công việc sắp xếp này thường được chuẩn bị trước tiết học. Ở đây, thay vì chuẩn bị trước thì giáo viên sẽ cho học sinh tiến hành xếp bàn ngay trong tiết học. Khi hoạt động học tập cần có sự thay đổi vị trí thì giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh sắp xếp bàn theo một hình thức nào đó phù hợp với hoạt động dạy học. Ví dụ sắp xếp bàn thành hình chữ U, bàn hàng ngang, ghép bàn hình vuông, xếp bàn theo kiểu đại biểu… Thời gian cho việc sắp xếp, giáo viên phải yêu cầu học sinh thực hiện nhanh trong 2 phút. Hoạt động này nhằm mục đích để cho học sinh được vận động, thay đổi tâm thế, tránh được sự mệt mỏi, tạo hứng phấn. Đây cũng là cách tách ra các phân đoạn trong tiết dạy, giờ dạy để phù hợp với quy luật hoạt động của bộ não. - Cho học sinh giải lao 1 phút trong tiết học bằng một số hoạt động nhỏ như: nhảy theo một số động tác đơn giản, vỗ vai nhau, vỗ tay, trao cho nhau một câu khích lệ… Những hoạt động này cũng cần có sự chuẩn bị và báo trước cho học sinh. Hình thức này có thể chuẩn bị và thực hiện như sau: Trong buổi đầu gặp lớp mình dạy, giáo viên có thể đưa ra yêu cầu học sinh phải tự chuẩn bị sẵn cho mình một số động tác nhảy đơn giản. Còn giáo viên thì chuẩn bị các đoạn nhạc nhảy ngắn sôi động, những câu nói dí dỏm mang tính khích lệ như: Cố lên nhé, buồn ngủ là mẹ của thất bại, động viên tôi với nhé, hãy cho tôi một điểm tựa… Hoạt động này được sử dụng khi học sinh bắt đầu có dấu hiệu lơ đãng, thiếu tập trung với bài học. Những lúc như vậy, giáo viên có thể cho học sinh đứng dậy và làm theo những động tác của mình hoặc một học sinh bất kì được lựa chọn, đồng thời mở đoạn nhạc nhảy ngắn trong thời gian 30 giây. Ngoài ra, giáo viên còn có thể điều hành học sinh đứng lên và vỗ vào vai người bên cạnh kèm câu nói hài hước, dí dỏm mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn… Giáo viên có thể vận dụng các trò chơi nhẹ nhàng trong tài liệu của công tác Đoàn để hỗ trợ thêm cho hình thức tổ chức của mình được phong phú hơn. - Khi thảo luận nhóm, giáo viên tạo cho HS cơ hội thay đổi nhóm liên tục, HS sẽ được di chuyển vị trí của mình theo sơ đồ hướng dẫn của GV... Thay đổi nhóm có thể thực hiện hơn 1 lượt trong một tiết học khi bài học có nhiều phân đoạn nội dung học. Hình thức này có thể thực hiện các bước như sau: Bước 1: Quy định số lượng thành viên của mỗi nhóm, phân chia nhóm theo một số hình thức đã nêu ở phần kĩ thuật chia nhóm. Sau đó đặt số thứ tự cho mỗi nhóm Bước 2: Cho học sinh bốc thăm số của mình và tiến hành thảo luận nhóm Bước 3: Phân đoạn nội dung mới, giáo viên cho di chuyển các thành viên đến nhóm mới theo một số quy luật như: những người số nào thì sẽ di chuyển về tên nhóm đó (Ví dụ: có 6 nhóm, mỗi nhóm có 6 thành viên, các thành viên sẽ có số của mình là 1, 2, 3, 4, 5, 6. Như vây, mỗi số như vậy sẽ có 6 thành viên. Khi giáo viên xướng lên số 1 thì tất cả những người số 1 ở sáu nhóm sẽ chạy về nhóm số 1, riêng 11
  17. thành viên số 1 của nhóm 1 sẽ ở lại. Các số 2, 3, 4, 5, 6 cũng tiến hành thực hiện tương tự). Quy luật di chuyển đó có thể theo cách khác như người số 1 sẽ chuyển sang nhóm 2, người số 2 sẽ sang nhóm 3, người số 3 sang nhóm 4… Hình thức này đã xáo trộn các thành viên trong lớp một cách nhanh chóng để tạo một nhóm hoạt động mới. Ngoài ra, để thuận lợi hơn giáo viên có thể chuẩn bị sẵn sơ đồ di chuyển bằng tranh vẽ hoặc trình chiếu, học sinh nhìn vào sơ đồ sẽ thực hiện việc di chuyển nhanh hơn. Trên đây là một số cách vừa để tổ chức các hoạt động học tập đồng thời cũng là cách thể dục nhẹ nhàng, tạo nên tâm thế, trạng thái thay đổi tích cực của học sinh góp phần giúp các em có được hiệu quả học tập tốt hơn. 3.1.3 Tạo không gian học tập mới mẻ cho học sinh Cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Xây dựng trong mỗi trường học môi trường sư phạm lành mạnh, an toàn, tạo cơ sở vững chắc cho việc nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy, xây dựng một không gian học tập trong lớp học có vai trò quan trọng đối với việc tạo hứng thú, kích thích niềm vui cho học sinh. Nếu như trước đây, không gian học tập của học sinh chỉ cần đảm bảo về diện tích, ánh sáng, vệ sinh là tốt nhưng bây giờ không gian ấy cần có sự sáng tạo. Sự sáng tạo về cảnh quan hòa hợp với thiên nhiên, sự bài trí các các hình ảnh sáng tạo phù hợp với tâm lí học sinh, kết hợp với âm thanh có thể kích thích sự hứng thú cho học sinh… - Cho học sinh trang trí lớp học: Điều này là một cách thức để tạo thói quen cho các em có ý thức xây dựng không gian học tập, đồng thời tạo hứng thú, tinh thần cho các em trong các buổi học. (Hình thức này chỉ thực hiện được ở lớp mà giáo viên kiêm nhiệm công tác chủ nhiệm). Học sinh trang trí phòng học đẹp - Cho học sinh nghe nhạc trong khi học, giúp HS tập trung tốt hơn Âm nhạc là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Chúng ta nghe nhạc để giải tỏa căng thẳng, cải thiện sức khỏe cũng như bồi dưỡng 12
  18. đời sống tâm hồn thêm phong phú. Ngoài ra, theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì âm nhạc còn kích thích não của trẻ để giải phóng hormone dopamine mang lại cảm giác hạnh phúc và là một phương tiện tuyệt vời để xây dựng những kí ức dài hạn, tạo ra những con đường thần kinh quan trọng trong não bộ của trẻ. Dựa trên những lợi ích đó, tôi đã sưu tầm và lựa chọn những bản nhạc không lời để mở cho học sinh nghe trong khi dạy và học (chỉ dùng nhạc không lời vì nếu dùng nhạc có lời sẽ khiến học sinh hướng sự chú ý đến nội dung của lời bài hát). Một số nguyên tắc khi sử dụng âm nhạc trong tiết học: Thứ nhất, sử dụng nhạc không lời và mở nhạc với âm lượng nhỏ Thứ hai, hướng dẫn học sinh nghe nhạc nhưng không được cố ý nghe để cảm thụ âm nhạc hay cố gắng ghi nhớ giai điệu hoặc các nốt nhạc Thứ ba, lựa chọn những bản nhạc có khả năng kích thích trí não như nhạc Baroque. Để tránh việc dễ dàng ghi nhớ giai điệu, giáo viên phải tổng hợp thật nhiều bản nhạc baroque khác nhau, không nghe lặp đi lặp lại chỉ một bản nhạc mà hãy mở cả một danh sách và để chế độ trộn bài, như vậy não sẽ không thể nhận biết được bất cứ quy luật nào, sự tập trung sẽ hướng đến bài học. Trên đây là một số kĩ thuật để thay đổi trạng thái hoạt động học tập chung cho học sinh. Những hình thức này được sử dụng một cách linh hoạt và giáo viên có thể liên tục sáng tạo để mục đích cuối cùng là tạo cho học sinh sự tác động nhỏ để có được tư thế phấn chấn đón nhận bài học một cách có hiệu quả nhất. 3.2 Một số kĩ thuật dạy học để thay đổi trạng thái học tập của học sinh qua môn Lịch sử 3.2.1. Nắm quy luật của não bộ để tìm phương pháp kĩ thuật dạy học phù hợp Một thực tế cho thấy, giáo viên rất hiếm khi dựa vào một số quy luật hoạt động của não bộ để tìm ra phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp với quy luật đó nên dẫn đến việc lãng phí thời gian cho việc giảng dạy rất nhiều nhưng hiệu quả không cao. Như đã nói ở trên, trạng thái là tình trạng ổn định nhưng trong khi đó để học tập hiệu quả thì sự ổn định đó lại không giúp học sinh ghi nhớ tốt thông tin. Vì vậy, giáo viên sẽ là người phải thay đổi trạng thái cho học sinh bằng các cách thức sau: Tạo sự độc đáo và khác biệt Sự độc đáo và khác biệt rất có ưu thế với để tồn tại lâu bền trong trí nhớ con người, vì vậy trong mỗi bài giảng, giáo viên cần sáng tạo ra sự độc đáo, khác biệt để mỗi bài học luôn luôn hấp dẫn với học sinh. Sự độc đáo có thể đó là một cách vào bài đặc biệt, ấn tượng, một câu hỏi “bất thường”, một ngôn ngữ cơ thể hài hước, hoặc có thể đóng vai về nhân vật lịch sử... Giáo viên tổ chức đóng vai nhân vật lịch sử cho phần hình thành kiến thức mới. Theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông của giáo sư Phan Ngọc Liên chủ 13
  19. biên định nghĩa “Nhân vật Lịch sử là người có vai trò nhất định trong một sự kiện, một thời kì Lịch sử”. Nếu không có nhân vật Lịch sử thì các sự kiện trở nên nhàm chán, thiếu sinh động. Do đó, khắc họa biểu tượng nhân vật bằng phương pháp đóng vai trong dạy học có vai trò quan trọng trong tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đây là hình thức học sinh thể hiện tính cách, con người, hành động của nhân vật lịch sử cụ thể. Phương pháp này được áp dụng trong bài nghiên cứu kiến thức mới với mục tiêu là cụ thể hóa kiến thức bài học, tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử. Thông qua vai diễn của mình, học sinh phải khắc họa được hình tượng nhân vật (thần thái, tính cách)… Vì vậy việc “diễn” là phần khá quan trọng. Đóng vai thường do một học sinh độc diễn hoặc vài học sinh đảm nhận (đóng vai người dẫn chuyện, đóng vai nhân vật cụ thể…). Ví dụ: Sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật lịch sử cho phần hình thành kiến thức mới Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918) (Lịch sử 11 ban cơ bản) Hoạt động tìm hiểu: Buổi đầu hoạt động của Nguyễn Tất Thành. Mục tiêu: Nắm được nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước và buổi đầu hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911 -1917. Phương pháp: Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai Nguyễn Tất Thành, anh Tư Lê, người dẫn truyện (thời gian: 5 phút). (Sản phẩm kịch bản chuẩn bị của học sinh ở phần PHỤ LỤC 3) Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh A. Chuẩn bị: - Giáo viên giao nhiệm vụ đóng vai cho - Học sinh nhận nhiệm vụ được phân học sinh từ tiết học trước công, thảo luận và lên kịch bản chuẩn - Nhiệm vụ bị Các nhóm cử đại diện chọn nhân vật và tiến hành đóng theo nhiệm vụ phân công - Các nhóm thảo luận và lên kịch bản dựa trên tư liệu giáo viên cung cấp, giới thiệu, học sinh tìm hiểu về hình dáng, phong thái của Bác qua phim tài liệu, sách báo... (HS tham khảo Sách kể chuyện Bác Hồ - NXB Giáo dục 2018) - Giáo viên kiểm tra nội dung và phần trình bày của học sinh trước khi học sinh 14
  20. diễn trước lớp - Thời gian trình bày 3 phút B. Tiến hành dạy học trên lớp - GV: Các em hãy theo dõi cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Tất Thành, Anh Tư Lê và trả lời câu hỏi - Học sinh thể hiện vai diễn kết hợp với - Nguyên nhân Nguyễn Tất Thành ra đi trình chiếu Powpoint về tình hình đất tìm đường cứu nước? nước đầu thế kỉ XX - Hướng đi của Nguyễn Tất Thành có gì khác với các vị tiền bối trước đó? - Sau khi học sinh thể hiện xong vai diễn, học sinh khác nhận xét, sau đó GV nhận xét về phần trình bày của HS: kịch bản, - Học sinh trả lời câu hỏi diễn xuất, kiến thức đúng/ sai…, và bình chọn người diễn tốt nhất. - Giáo viên đưa thông tin phản hồi sau khi học sinh trả lời: Nguyên nhân Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước: Hoàn cảnh dân tộc, gia đình quê hương, cá nhân Nguyễn Tất Thành. Hướng đi là sang các nước Phương Tây (khác với Phan Bội Châu và - Học sinh lắng nghe và ghi nhớ kiến Phan Châu Trinh) thức - Nội dung tiếp theo giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về hành trình của - Học sinh lên chỉ lược đồ về hành trình Nguyễn Tất Thành từ 1911 -1917 bằng của Người. lược đồ… - GV phát vấn: Những hoạt động đầu tiên của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911 - 1917 có ý nghĩa gì? Như vậy, là giáo viên chúng ta cần quan tâm đến xúc cảm của học sinh, đặc biệt là giáo viên Lịch sử. Chúng ta hãy đặt mình vào vị thế của học sinh để nhớ rằng khi “nhồi nhét” kiến thức thì kiến thức ấy sẽ không ở lại trong tâm trí của học sinh mà để học sinh tự lĩnh hội tri thức. 3.2.2 Tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu của bản thân Trong mục tiêu và chương trình mới của dạy học môn Lịch sử đang hướng đến là theo mô hình phát triển năng lực, nghĩa là hướng đến những phẩm chất và 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0