intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn ở THPT

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

70
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đưa ra một số phương pháp hướng dẫn học sinh THPT tự học môn Ngữ Văn phù hợp với tinh thần đổi mới. Hướng dẫn HS tự học các VBVH không chỉ giúp HS phát huy được tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo mà còn hình thành và phát triển được NL tự học, một trong những NL chung cần được hình thành cho HS theo chương trình giáo dục phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn ở THPT

  1. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở THPT PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài - Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, sinh viên; Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, sinh viên, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Công văn Số: 4612/BGDĐT-GDTrH về việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018 có viết: Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học “Chú trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu sách giáo khoa để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm vụ học tập đặt ra trong bài học; dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá, kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng”. Công văn số 3280/BGDĐT- GDTrH, ngày 27/8/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học cấp THCS, THPT có viết: Đối với nội dung được hướng dẫn “Khuyến khích học sinh tự học”, “Khuyến khích học sinh tự đọc” “Khuyến khích học sinh tự làm”, “Khuyến khích học sinh tự thực hiện”, “Đọc thêm” thì căn cứ vào tình hình thực tế, năng lực của học sinh, sự liên quan của kiến thức, kỹ năng trong phần được hướng dẫn “Khuyến khích…” với các nội dung tiếp theo để lựa chọn nội dung phù hợp, cách thức hướng dẫn, khuyến khích học sinh thực hiện. Đối với các nội dung được hướng dẫn “Tự học có hướng dẫn”, “Tự đọc có hướng dẫn”, “Hướng dẫn học sinh tự làm” thì yêu cầu giáo viên phải có hướng dẫn phù hợp với đặc thù bộ môn để học sinh thực hiện, từ đó có được những kiến thức, kỹ năng cơ bản, cốt lõi phục vụ việc học tập tiếp theo; chú ý vấn đề an toàn cho học sinh trong quá trình thực hiện. - Tự học đóng một vai trò rất quan trọng trên con đường học vấn của mỗi người. Người biết tự học luôn tư mày mò, tìm kiếm, nghiên cứu một cách tích cực và không cấn ai nhắc nhở ở bất cứ hoàn cảnh nào. Nhờ đó những con người ấy luôn biết nhìn xa trông rộng, không bị tụt hậu, luôn nhạy bén trong thực tế do biết áp dụng kiến thức đã học. Kiến thức là vô cùng trong khi trí nhớ của con người là hữu hạn, nếu chỉ biết học tủ học vẹt thì ta sẽ không thể biền những kiến thức ấy thành của mình để vận dụng vào thực tế mà sẽ mau chóng quên đi. Tự học sẽ giúp ta khắc phục phục được nhược điểm này đồng thời giúp ta rèn luyện thói quen tích cực, chủ động hơn trong hoàn cảnh khó khăn. Hơn hết, khi tự học ta mới thấy được cái hay, cái đẹp của tri thức từ đó trở nên say mê khám phá, học hỏi nhiều điều mới lạ hơn nữa. Tự học giúp ta nắm vững căn bản, đào sâu và mở rộng kiến thức chứ không phải nhận thức một cách máy móc. Có tự học ta mới hệ thống lại được những kiến thức đã học và kịp thời nhận ra thiếu sót của bản
  2. thân để kịp thời bồi đắp, từ đó ta có bước đầu tự tin trên con đường học vấn. Tự học giúp HS tiếp thu và giải quyết vần đề từ nhiều nguồn khác nhau: Sách báo, công nghệ thông tin, bài giảng, từ những kinh nghiệm trong cuộc sống…Lúc đó vấn đề sẽ được nhìn nhận sâu sắc và toàn diện hơn. Tự học giúp HS có thái độ chủ động tìm ra phương pháp học tập phù hợp, đạt hiệu quả cao. Khi tự học, mỗi học sinh hoàn toàn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập theo một cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân học sinh nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân học sinh tự rèn luyện kiên trì mới có được. 2. Tính cấp thiết của vấn đề - Phần lớn GV chỉ giao bài tập về nhà cho HS tự học còn việc hướng dẫn cụ thể như thế nào và làm sao để việc tự học có hiệu quả thì chưa. Ở lớp việc hướng dẫn HS chưa đồng đều, còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả. GV chưa có phương pháp hướng dẫn HS tự học phù hợp với tinh thần đổi mới, còn áp dụng các hình thức truyền thống. - Đề tài của tôi đưa ra một số phương pháp hướng dẫn HS THPT tự học môn Ngữ Văn phù hợp với tinh thần đổi mới. Tôi cùng đồng nghiệp đã áp dụng có hiệu quả và thu lại được những kết quả nhất định. Hướng dẫn HS tự học các VBVH không chỉ giúp HS phát huy được tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo mà còn hình thành và phát triển được NL tự học, một trong những NL chung cần được hình thành cho HS theo chương trình giáo dục PT (Ban hành kèm theo thông tư số 32/ 2018/ TT- BGDDT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo). 3. Đóng góp mới của đề tài - Với đề tài này, GV đã bổ sung thêm một số phương pháp hướng dẫn HS tự học môn Ngữ văn một cách hiệu quả. GV vận dụng các phương pháp hướng dẫn HS tự học ở các bài học, tình huống và hoàn cảnh khác nhau một cách linh hoạt, tránh được sự nhàm chán, đơn điệu. HS phát huy được các phẩm chất và NL cần hướng tới nhất là NL tự học. HS biết cách tự học ở lớp, tự học ở nhà, tự học ngoài xã hội khi không có sự hướng dẫn của GV và tự học cá nhân, học theo nhóm. Đề tài đáp ứng được xu hướng đổi mới của giáo dục, phát triển con người một cách toàn diện. - Đề tài này không những đáp ứng đúng tinh thần đổi mới trong dạy học mà còn đáp ứng với điều kiện thực tế của XH đó là tình trạng đầy biến động của XH như đại dịch covid-19 kéo dài, lũ lụt miền Trung...Trong điều kiện như thế này việc hướng dẫn HS tự học rất quan trọng nhất là đối với những HS THPT đang tiếp cận gần kề với các kì thi quan trọng . Những vấn đề trên là nguyên nhân thôi thúc tôi thực hiện đề tài: “ Một số phương pháp hướng dẫn HS tự học môn Ngữ văn ở THPT”. Đây là một vấn đề
  3. bổ ích, thiết thực đối với chuyên môn của chúng ta. Qua công trình nghiên cứu này, tôi mong muốn tất cả GV đều được trang bị cho mình các phương pháp hướng dẫn HS tự học một cách hiệu quả và tất cả HS đều có khả năng tự học, ý thức học tập suốt đời để tự hoàn thiện bản thân, đáp ứng xu thế của XH. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận 1.1. Phương pháp dạy và học tích cực Thuật ngữ “Phương pháp dạy và học tích cực”được dùng để chỉ những phương pháp giáo dục/ dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, định hướng bởi GV. Người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó, lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy và học tích cực không phải là một phương pháp dạy học, mà là một khái niệm bao gồm nhiều phương pháp, hình thức, kỉ thuật dạy học khác nhau nhằm tích cực hóa, tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập, năng lực sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy và học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm vui trong học tập. Nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của lứa tuổi học sinh. Khi đã trở thành niềm vui với HS, việc học sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Như vậy, dạy và học tích cực nhấn mạnh đến tính tích cực hoạt động của người học và tính nhân văn của giáo dục. Bản chất của dạy và học tích cực là: - Khai thác động lực học tập ở người học để phát triển chính họ. - Coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho HS thích ứng với đời sống xã hội. Trong bối cảnh của thời kì đổi mới, giáo dục cần phải phát triển để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí quan trọng để đổi mới phương pháp dạy và học như sau: - Tiêu chí hàng đầu của việc dạy và học là dạy cách học. - Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học.
  4. - Công cụ cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin và đa phương tiện. 1.2. Những dấu hiệu đặc trưng của dạy và học tích cực Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho HS có thể thực hiện các hoạt động học tập một cách có hiệu quả. Các dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy và học tích cực có thể là: 1.2.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của HS và chú trọng rèn luyện phương pháp tự học Một trong những yêu cầu của dạy và học tích cực là khuyến khích người học tự lực khám phá những điều chưa biết trên cơ sở những điều đã biết. Tham gia vào các hoạt động học tập, người học được đặt vào những tình huống; được trực tiếp quan sát, thảo luận, trao đổi; được khuyến khích đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề theo cách của mình; được động viên trình bày quan điểm riêng của mỗi cá nhân. Qua đó người học không những chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ năng mới mà còn làm chủ cách thức xây dựng kiến thứ, đồng thời tính tự chủ và sáng tạo có cơ hội được bộc lộ, rèn luyện Tổ chức các hoạt động học tập của HS phải trở thành trung tâm của quá trinhg giáo dục. GV cần biết lập kế hoạch dạy học, hướng dẫn HS phát triển các năng lực cần thiết trong cuộc sống, trong và ngoài nhà trường ở hiện tại cũng như trong tương lai. Trong dạy học, cần rèn luyện cho người học phương pháp tự học. Phương pháp, kĩ năng, thói quen và ý chí tự học sẽ tạo cho người học lòng say mê học tập, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người học và kết quả học tập sẽ được nâng cao. Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, hình thành thói quen tự học ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông. Tự học không chỉ trong giờ lên lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà còn tự học cả ở nhà và ở cả trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp không có sự hướng dẫn của GV. Theo phương pháp truyền thống, các bài tập ở nhà thường chỉ đơn thuần khuyến khích HS ghi nhớ kiến thức, còn dạy và học tích cực khuyến khích HS vận dụng kiến thức đã học vào điều kiện thực tế tại gia đình; tạo điều kiện để HS rèn luyện các kĩ năng đã học là một hình thức có ý nghĩa, giúp các em liên hệ các kiến thức đã học ở nhà trường vào thực tế gia đình và cộng đồng. Khi hướng dẫn HS tự học, GV cần quan tâm đến các vấn đề sau: . HS có được tạo điều kiện để sáng tạo không ? . HS có thể hoạt động độc lập không ?
  5. . HS có được khuyến khích đưa ra những giải pháp của mình không ? . HS có thể xây dựng con đường/ quá trình học tập cho riêng mình không ? . HS có thể lựa chọn các chủ đề, bài tập/ nhiệm vụ khác không ? . HS có thể tự đánh giá không ? . HS có được tự chủ trong các hoạt động học tập không ? 1.2.2. Tăng cường hoạt động học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp tác Trong dạy và học tích cực, giáo viên cần quan tâm đến sự phân hóa trình độ nhận thức, cường độ, tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mỗi học sinh. Trên cơ sở đó, xây dựng các nhiệm vụ/ bài tập, mức độ hỗ trợ phù hợp với khả năng của mỗi cá nhân nhằm phát huy khả năng tối đa của người học. Để người học có điều kiện bộc lộ, phát triển khả năng của mình, cần đặt học vào môi trường học tập hợp tác trong các mỗi quan hệ thầy -trò, trò- trò. Trong mối quan hệ tương tác đó, người học không chỉ học được qua thầy mà còn qua bạn, sự chia sẻ kinh nghiệm sẽ kích thích tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân. Đồng thời, hình thành và phát triển ở người học năng lực tổ chức, điều khiển, lãnh đạo, các kĩ năng hợp tác, giao tiếp, trình bày, giải quyết vấn đề...và tạo môi trường học tập thân thiện. Để học hợp tác có hiệu quả, giáo viên cần hình thành thói quen học tập tự giác, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cho HS. Nhiệm vụ được giao phải rõ ràng, cụ thể; mỗi thành viên trong nhóm được phân công xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mình. 1.2.3. Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của HS, nhu cầu và lợi ích của XH Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được chủ động lựa chọn vấn đề mà mình quan tâm, hứng thú, tự lực tiến hành nghiên cứu giải quyết vấn đề và trình bày kết quả là đặc trưng lấy HS làm trung tâm theo nghĩa đầy đủ của thuật ngữ” dạy và học tích cực”. Việc nghiên cứu có thể tiến hành theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ. Các chủ đề/ nội dung tìm hiểu, nghiên cứu có thể do HS tự đề xuất hoặc lựa chọn trong số các chủ đề/ nội dung do GV giới thiệu, định hướng. Các chủ đề/ nội dung cần gắn liền với nhu cầu, lợi ích của người học và của thực tiễn, xã hội. Điều này làm cho kiến thức có tính ứng dụng cao và người học hiểu được giá trị, tác dụng cũng như sự cần thiết của những kiến thức đó trong cuộc sống thực tiễn. Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của HS, nhu cầu, lợi ích của XH nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho HS cách làm
  6. việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng tổ chức công việc, trình bày kết quả. Nhấn mạnh đến sự quan tâm, hứng thú cũng như lợi ích của người học, GV cần thiết kế các tình huống học tập sao cho kích thích, lôi cuốn được sự tham gia tích cực, tự chủ của người học và đảm bảo nguyên tắc phân hóa trong dạy học. Tuy nhiên, GV có thể gặp khó khăn trong tổ chức hoạt động, khó có thể làm cho tất cả HS đều hứng thú với chủ đề/ nội dung bài học. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt và nghệ thuật sư phạm của GV. GV cần động viên, khuyến khích, hỗ trợ kịp thời để đảm bảo tất cả HS đều chủ động tham gia một cách tích cực. 1.2.4. Dạy và học coi trọng hướng dẫn, tìm tòi Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi là giúp HS phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề, phương pháp tự học và phát huy được tính sáng tạo, chủ động ở người học. Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi đòi hỏi người học thực sự tích cực tham gia vào hoạt động học, phải có niềm đam mê, hứng thú và người dạy phải khơi dậy được ngọn lửa trong người học. GV bắt đầu từ việc hướng dẫn cho HS trong quá trình phát hiện vấn đề đến HS có thể tự tìm tòi, phát hiện và giải quyết vấn đề mà không phải sự hướng dẫn của GV. Một nhiệm vụ học tập tốt là nhiệm vụ đặt ra thách thức đối với người học. Nhiệm vụ không nên quá dễ tránh tạo ra sự nhàm chán và thậm chí là chán nản. Tuy nhiên, nhiệm vụ quá khó lại gây ra sự lo lắng và tâm lí sợ thất bại đối với học sinh. Để đạt được sự cân bằng, các nhiệm vụ cần đa dạng và thiết kế cho từng đối tượng theo trình độ của HS trong điều kiện cho phép. Một nhiệm vụ thách thức sẽ tạo ra nhu cầu cần hỗ trợ đối với HS và GV cần quan sát để có sự hỗ trợ kịp thời. Sự hỗ trợ của GV phải là những can thiệp tích cực. Hỗ trợ Nhiều Ít Không có Nhu cầu Nhiều Cân bằng Tích cực Thiếu thốn(bị bỏ rơi) Ít Nhàm chán Cân bằng Tích cực Không có Tích cực Nhàm chán Cân bằng 1.2.5. Kết hợp giữa đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy và học tích cực, đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng để điều chỉnh hoạt động học tập của học sinh mà còn nhận định thực trạng để điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên. Tự đánh giá là một hình thức đánh giá mà HS tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực hiện với các mục tiêu của quá trình học tập. Học sinh sẽ học cách đánh giá
  7. các nỗ lực và tiến bộ, nhìn lại quá khứ và phát hiện những điểm cần thay đổi để hoàn thiện bản thân. Tự đánh giá không chỉ đơn thuần là tự mình cho điểm số mà là sự đánh giá những nỗ lực, quá trình và kết quả; mức độ cao hơn là HS có thể phản hồi lại quá trình học của mình. Dựa vào tiêu chí đánh giá, HS nhìn lại quá trình học tập của mình và biết được mức độ hoàn thành đac đạt được yêu cầu chưa. Tự đánh giá giúp HS ý thức hơn về quá trình học tập, về điểm mạnh, điểm yếu và cách học của mình để điều chỉnh, tiến bộ hơn trong giai đoạn tiếp theo. Cùng với tự đánh giá, GV cần tổ chức cho HS đánh giá lẫn nhau hay còn gọi là đánh giá “ đồng đẳng”. Đánh giá đồng đẳng là một quá trình trong đó các nhóm HS cùng độ tuổi hoặc cùng lớp sẽ đánh giá công việc/ kết quả học tập lẫn nhau. Phương pháp này không được dùng như một biện pháp đánh giá kết quả, mà chủ yếu dùng để hỗ trợ HS trong quá trình học. HS đánh giá lẫn nhau dựa trên các tiêu chí được định sẵn do GV cung cấp. Các tiêu chí này cần được diễn giải bằng những thuật ngữ cụ thể và quen thuộc với HS. Như vậy, đánh giá đồng đẳng không chỉ giúp HS đánh giá kết quả học tập của bạn mà thông qua đó, các em còn có sự so sánh nhìn nhận lại kết quả của chính mình, từ đó, điều chỉnh cách giải quyết vấn đề, cách học, chia sẻ kinh nghiệm từ kết quả của mình và của bạn, thúc đẩy kết quả học tập ngày một tốt hơn. Kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trò không những giúp HS nhìn nhận bản thân để điều chỉnh cách học mà còn giúp GV xem lại chính mình để điều chỉnh cách dạy. Đánh giá trong dạy và học tích cực còn là sự kết hợp của đánh giá về học ( đánh giá kết quả), đánh giá vì việc học ( đánh giá quá trình) với tự đánh giá. Dạy và học tích cực nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo người lao động năng động, sáng tạo, thích nghi với mọi hoàn cảnh trong đời sống xã hội. Do vậy, kiểm tra- đánh giá không chỉ dừng ở yêu cầu ghi nhớ tái hiện kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải phát triển ở người học tư duy logic, tư duy phê phán, khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. 1.3. Phương pháp hướng dẫn HS tự học 1.3.1. Khái niệm tự học Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn thì tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
  8. Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng:“ Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình thành bởi các thao tác, cử chỉ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học.Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nooxluwcj của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định” Như vậy tự học hiểu theo đúng bản chất là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (sử dụng các phương tiện) cùng các phẩm chất, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê… để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông. 1.3.2. Năng lực tự học và các biểu hiện của năng lực tự học. Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về năng lực tự học như sau: “Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Học và dạy cách học; Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như thế nào cho tốt). Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội dung học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau” [Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như thế nào cho tốt]. Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lí mà nhờ đó chúng ta giải quyết được các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất, nhằm biến kiến thức của nhân loại thành sở hữu của riêng mình. Những biểu hiện của năng lực tự học Năng lực tự học là một khái niệm trừu tượng và bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Trong nghiên cứu khoa học, để xác định được sự thay đổi các yếu tố của năng lực tự học sau một quá trình học tập, các nhà nghiên cứu đã tập trung mô phỏng, xác định những dấu hiệu của năng lực tự học được bộc lộ ra ngoài. Điều này đã được thể hiện trong một số nghiên cứu dưới đây:
  9. Candy [Philip Candy (1991), Self-direction for lifelong Learning: A comprehensive guide to theory and practice] đã liệt kê 12 biểu hiện của người có năng lực tự học. Ông chia thành 2 nhóm để xác định nhóm yếu tố nào sẽ chịu tác động mạnh từ môi trường học tập. Nhóm đặc biệt bên ngoài: chính là phương pháp học nó chứa đựng các kỹ năng học tập cần phải có của người học, chủ yếu được hình thành và phát triển trong quá trình học, do đó phương pháp dạy của giáo viên sẽ có tác động rất lớn đến phương pháp học của học trò, tạo điều kiện để hình thành, phát triển và duy trì năng lực tự học. Nhóm đặc điểm bên trong (tính cách) được hình thành và phát triển chủ yếu thông qua các hoạt động sống, trải nghiệm của bản thân và bị chi phối bới yếu tố tâm lý. Chính vì điều đó mà giáo viên nên tạo môi trường để học sinh được thử nghiệm và kiểm chứng bản thân, đôi khi chỉ cần phản ứng đúng sai trong nhận thức hoặc nhận được lời động viên, khích lệ cũng tạo ra được động lực để người học phấn đấu, cố gắng tự học. Tác giả Taylor [Tay lor, B (1995), Self- directed Learning: Revisiting an idea most appropriare for middle school students] khi nghiên cứu về vấn đề tự học của học sinh trong trường phổ thông đã xác định năng lực tự học có những biểu hiện sau:
  10. Taylor đã xác nhận người tự học là người có động cơ học tập và bền bỉ, có tính độc lập, kỉ luật, tự tin và biết định hướng mục tiêu, có kỹ năng hoạt động phù hợp. Thông qua mô hình trên tác giả đã phân tích ra có ba yếu tố cơ bản của người tự học, đó là thái độ, tính cách và kỹ năng. Có thể nhận thấy, sự phân định đó để nhằm xác định rõ ràng những biểu hiện tư duy của bản thân và khả năng hoạt động trong thực tế chứ không đơn thuần chỉ đề cập đến khía cạnh tâm lí của người học. Năng lực tự học cũng là một khả năng, một phẩm chất “vốn có” của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nó luôn luôn biến đổi tùy thuộc vào hoạt động của cá nhân trong môi trường văn hóa – xã hội. Năng lực tự học là khả năng bẩm sinh của mỗi người nhưng phải được đào tạo, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn thì nó mới bộc lộ được những ưu điểm giúp cho cá nhân phát triển, nếu không sẽ mãi là khả năng tiềm ẩn. Thời gian mỗi chúng ta ngồi trên ghế nhà trường là rất ngắn ngủi so với cuộc đời vì vậy tự học và năng lực tự học của học sinh sẽ là nền tảng cơ bản đóng vai trò quyết định đến sự thành công của các em trên con đường phía trước và đó cũng chính là nền tảng để các em tự học suốt đời. Như vậy “Năng lực tự học là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong học tập”.
  11. 1.3.3. Các kỹ năng cơ bản của hoạt động tự học Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt. Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng thiết kế (lập kế hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Tác giả Vũ Trọng Rỹ thì cho rằng kỹ năng tự học của học sinh nói chung và sinh viên nói riêng gồm 4 nhóm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tổ chức, kỹ năng kiểm tra đánh giá. Tiếp thu những quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm các nhóm kỹ năng cơ bản sau. Kỹ năng định hướng Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi: - Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao… - Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa. - Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân. Kỹ năng lập kế hoạch học tập Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau: - Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình. - Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Kỹ năng thực hiện kế hoạch
  12. Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một số kỹ năng sau: - Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, đi thực tế… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. - Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… - Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch… - Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần: - Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục. - Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè. - Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm… 1.3.4. Những việc GV cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho HS Thứ nhất, phải làm để HS yêu thích môn học đó. Có nhiều cách GV tạo ra cho HS có niềm say mê với môn Ngữ Văn. Sau đây là một số giải pháp: GV cần giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Nếu chúng ta nói viết không đúng, không hay sẽ như thế nào? Chúng ta không biết soạn thảo văn bản thì sẽ ra sao?...GV có thể giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những văn bản có giá trị để HS đọc và có hứng thú khi tiếp cận môn Ngữ Văn. Khi lên lớp, GV phải là người gây được hứng thú học tập cho HS. HS thấy yêu môn mình học qua bài giảng của GV “ học mà chơi, chơi mà học” tránh được sự
  13. nhàm chán, căng thẳng trong giờ học, qua phương pháp tổ chức dạy học sinh động, sáng tạo của GV…. Kết thúc giờ dạy GV là người gần gũi, hòa đồng, sẵn sàng giúp đỡ HS trong mọi hoàn cảnh. HS tìm thấy điểm điểm tựa tinh thần từ GV bộ môn. Trong thực tế nhiều HS yêu thích GV bộ môn Ngữ Văn từ đó yêu thích môn Văn và quyết tâm học tốt môn Ngữ Văn. Với HS THPT, GV cần định hướng cho HS nếu học tốt môn Ngữ Văn các em có thể lựa chọn thi vào những nghành nghề nào? Sau này có thể làm dduwwocj những việc gì? thu nhập trong tương lai ra sao ? Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV cần giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Cụ thể GV nên cung cấp PPCT môn học cả năm cho HS ngay từ đầu và yêu cầu HS bám vào PPCT để xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập. Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến môn học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức. Các em có thể tham khảo các tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn của nhà XB giáo dục, nhà XB quốc gia Hà Nội, sách Ô-lim-pích môn Ngữ Văn… GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc các trang diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm như Học nữa, học mãi, Ôn thi THPT quốc gia. Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách nghe và ghi khi học HS cần có sự kết hợp hài hòa giữa việc nghe và việc ghi bài. Nghe rồi mới ghi và ghi theo cách hiểu của mình chứ không nhất thiết ghi nguyên theo lời GV. - Về việc nghe : + Nghe để hiểu và nhận thức vấn đề chứ không phải chỉ nghe một cách đơn thuần. + Nghe để phản biện nếu nói chưa đúng, chư trúng. Nghe để tiếp nhận lời hay ý đúng để giải quyết vấn đề trong bài học và các vấn đề ngoài xã hội.
  14. - Về việc ghi: + Ghi đầy đủ tiêu đề của bài học, các mục lớn trong bài + Nên kết hợp với SGK để ghi, những nội dung thông tin có trong SGK không nhất thiết phải ghi mà thay vào đó là dùng bút gạch chân các thông tin đó và những lưu ý ghi bên lề của SGK hoặc trong vở + Nên ghi những vấn đề đã được chốt lại của bài học, những vấn đề cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thêm + Hình thức ghi ngắn gọn, dễ hiểu, có dự phân biệt rõ ràng giữa các mục, các phần Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho HS tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom. Theo cách phân chia trong thang nhận thức của Bloom, HS có thể học cách phân tích, tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom sẽ giúp cho HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề khoa học. Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ học tập cụ thể cho HS Để phát huy tối đa năng lực tự học, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS và có kiểm tra, đánh giá nhiệm vụ học tập đó.Việc giao nhiệm vụ cụ thể sẽ định hướng cho HS trong quá trình tự học. HS biết mình làm gì? Nên làm như thế nào… Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngoài ra, sự định hướng của GV đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc chiếm lĩnh tri thức của người học. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Khảo sát thực tế việc GV hướng dẫn HS tự học các văn bản VH Để đảm bảo các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của HS theo chương trình giáo dục Phổ thông thì nhiệm vụ của GV là hướng dẫn HS tự học ở tất cả các môn học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng. Để nắm bắt được tình hình dạy và học của HS tôi đã tiến hành khảo sát thực tế: - Mục đích khảo sát: + Mức độ, khả năng hướng dẫn HS tự học của GV và thái độ và ý thức tự học môn Ngữ văn của HS THPT.
  15. + Mức độ hiệu quả của việc hướng dẫn tự học Từ đó tôi muốn đề xuất phương pháp hướng dẫn HS tự học môn Ngữ văn ở THPT để giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời đáp ứng mục tiêu chương trình giáo dục PT. - Địa điểm và thời gian khảo sát: + Địa điểm: Trường THPT Tân Kỳ; Trường THPT Tân Kỳ 3 và trường THPT Lê Lợi. + Thời gian : Từ tháng 03 năm 2019 đến tháng 9 năm 2019. Hình thức khảo sát: + Trò chuyện trao đổi với GV và HS + Tham gia dự giờ một số tiết dạy của GV + Phiếu điều tra - Kết quả khảo sát: 2.1.1 Khảo sát về việc GV hướng dẫn HS tự học các VBVH ( GV môn Ngữ văn của 3 trường: Trường THPT Tân Kỳ, THPT Tân kỳ 3, THPT Lê Lợi) Hình thức: Tôi đưa ra câu hỏi : Thầy, cô có thường xuyên/ không thường xuyên hướng dẫn HS tự học các VBVH ở THPT hay không? Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ. Thường xuyên Không thường xuyên 9/11 2/11 Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ 3. Thường xuyên Không thường xuyên 6/9 3/9 Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ Lê Lợi . Thường xuyên Không thường xuyên 8/11 3/11 Thầy, cô gặp những khó khăn và thuận lợi nào khi hướng dẫn HS tự học các VBVH trong chương trình THPT ?( 31 GV) Thuận lợi Khó khăn Trình độ GV Cơ sở cật chất Thái độ HS GV được tập Các VB trong huấn các PP chương trình
  16. dạy học tích SGK. cực Không Có Chưa Đạt Không đạt Đảm Không Quan Hợp Chưa quan chất có chất chuẩn chuẩn bảo đảm bảo tâm lý hợp lý tâm lượng lượng 31/31 0/31 22/31 9/31 11/31 20/31 5/31 26/31 20/31 11/31 Hiện nay thầy/ cô đã áp dụng những phương pháp nào khi hướng dẫn học sinh tự học các VBVH trong chương trình THPT? Kết quả khảo sát: GV của 3 Trường THPT lân cận huyện Tân Kỳ Tổng Tỷ lệ Các phương pháp hướng dẫn HS tự học Tỷ số số GV Tự học trong giờ lên lớp: GV nêu các câu hỏi/ tình huống, 100 % HS tự học sau đó GV tổ chức cho HS trình bày kết quả 31/31 học tập. Tự học ở nhà: GV ra bài tập/ các vấn đề về nhà HS tự 100 % học. HS tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu các VB trước khi 31/31 đến trường. 31 Hướng dẫn HS tự học thông qua tham khảo thêm các tài 67,74 % 21/31 liệu khác nhau. Tự học trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp không có sự 58 % 3/31 hướng dẫn của GV. 9,68 % Tất cả các phương án trên 18/31 2.1.2. Khảo sát về tình hình tự học của HS khi có sự hướng dẫn của giáo viên Học ở nhà Học ở lớp Tăng Thực Thực cường hiện Có Thực hiện tự học nghiêm Tên Tổng số thực Chưa hiện Không theo với Không túc, có trường HS hiện thường một có hướng nhiều thực hứng thú, nhưng xuyên cách hứng dẫn hình hiện phát huy không tự học đối thú học của thức được tính đầu tư phó GV khác tích cực, nhau sáng tạo. THPT 250 45 30 28 20 7 40 60 20 Tân Kỳ
  17. THPT Tân Kỳ 230 45 20 25 10 10 30 55 35 3 THPT 252 60 20 24 7 15 25 61 40 Lê Lợi 2.2. Nhận xét kết quả khảo sát Với xu hướng dạy học theo định hướng phát triển năng lực, giáo viên dạy học cần quan tâm nhiều đến đầu ra của học sinh nên đòi hỏi công việc dạy học của GV lại khó khăn hơn. Vấn đề là học sinh học xong phải biết áp dụng các kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Hơn nữa theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn ( Kèm theo Công văn số 3280/ BGDĐT- GDTrH ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ GDĐT), nhiều văn bản trong chương trình đã được giảm tải và nhiều bài khuyến khích HS tự đọc, tự học, tự làm. Chính vì lẽ đó nên việc hướng dẫn HS tự học là rất quan trọng. Hiện nay nhiều GV đã có ý thức trong việc hướng dẫn HS tự học nhưng chưa có các phương pháp hiệu quả, một số GV vẫn xem nhẹ việc hướng dẫn HS tự học cho nên chưa đầu tư nhiều về các phương pháp và hình thức hướng dẫn HS tự học. Việc hướng dẫn HS tự học còn có nhiều vấn đề vướng mắc như sau: 2.2.1. Với giáo viên - Theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn, hầu như các văn bản được học đều tích hợp thành các chủ đề và thời gian để thực hiện các văn bản trong một chủ đề không bị ràng buộc chặt chẽ như trước đây. Chính vì vậy GV có thời gian nhiều hơn để hướng dẫn HS tự học và HS cũng tự thực hiện được các nhiệm vụ học tập ở trên lớp một cách chủ động và sáng tạo hơn. Thế nhưng có một số GV vẫn chưa bắt nhịp kịp nên khoảng trống thời gian trên lớp còn chưa khai thác triệt để. - Hình thức kiểm tra và đánh gia đã có sự thay đổi thế nhưng GV vẫn chưa mạnh dạn và có sự bứt phá trong việc áp dụng phương pháp hướng dẫn HS tự học. Một số GV ngại thử sức với phương pháp mới, theo lỗi cũ khi hướng dẫn HS học Văn nên tính hiệu quả chưa cao, chưa có sức hút đối với học sinh. - GV được tập huấn về phương pháp hướng dẫn HS tự học chưa được đồng bộ, các tài liệu liên quan đến các phương pháp hướng dẫn tự học không có nhiều. GV vừa dạy, vừa học vừa rút kinh nghiệm. - Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của trường chưa đảm bảo và tạo nhiều thuận lợi trong việc hướng dẫn HS tự học. * Nguyện vọng của GV: - Trên cơ sở hướng điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn, nhà trường cần trao đổi tổ nhóm chuyên môn xây dựng PPCT hợp lý. Các bài được tích hợp thành một chủ đề dạy học cần phân bố thời gian hợp lý, chú trọng thời gian cho HS tự học, tự làm, tự đọc ngay trên lớp.
  18. - Cần cung cấp các tài liệu liên quan đến phương pháp hướng dẫn HS tự học. GV được tập huấn về phương pháp hướng dẫn HS tự học một cách bài bản, có chất lượng. - Nhà trường kết hợp tổ chuyên môn mời các chuyên viên trao đổi trực tiếp về tinh thần đổi mới của bộ môn Ngữ văn và cung cấp một số phương pháp cụ thể trong việc hướng dẫn tự học. - Các nhóm chuyên môn thường xuyên trao đổi các bài dạy trước khi lên lớp để đưa ra phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất. Mỗi nhóm chuyên môn của mỗi khối nên lập riêng một trang ( Zalo, Facebook..) để cùng trao đổi chuyên môn, cùng thảo luận các phương án thực hiện. - Tổ, nhóm chuyên môn cần thường xuyên nhắc nhở các GV phải có ý thức cao trong việc trau dồi chuyên môn nhất là các phương pháp dạy học phát huy được NL tự học, tự làm, tự đọc, tự sáng tạo của HS. Cần tuyên dương, khen thưởng những GV có nhiều đổi mới trong việc hướng dẫn HS tự học có hiệu quả cao. Đề xuất những GV có kinh nghiệm trong việc hướng dẫn HS tự học dạy thể nghiệm để cả tổ cùng trao đổi, học tập. 2.2.2. Với học sinh - Hiện nay HS có quá nhiều vấn đề bên ngoài tác động tới nên việc học của các em đều bị chi phối. Nhiều HS chưa có tinh thần tự học, ở lớp cũng như ở nhà. HS chỉ học những gì GV hướng dẫn ở trường còn về nhà hầu như không tự học, tự nghiên cứu tìm hiểu ngay cả việc không đọc văn bản VH, không soạn bài trước khi đến trường hoặc nếu có soạn bài thì cũng chỉ soạn một cách đối phó bằng việc giở SGK tham khảo hoặc lên mạng để chép. Ngay cả khi học ở trường, một số học sinh cũng rất lười tự học mà chỉ ghi chép và nhớ một cách thụ động những kiến thức mà các bạn của mình đã tìm hiểu. Chính vì lệ thuộc vào thầy cô, bạn bè như vậy mà một học sinh luôn rơi vào tình trạng bị động, không biết cách ứng phó với những đề bài có hướng mở và không tự giải quyết được các vấn đề trong học tập và ngay cả ngoài đời sống. - Một số HS xác định: học để thi đậu tốt nghiệp THPT là đạt yêu cầu nên những gì học ở lớp là đủ không cần phải giành nhiều thời gian cho việc tự nghiên cứu, tự học, tự làm. Có những HS lại tự mãn, quá tin vào bản thân, cho rằng những gì mình biết đã đủ để phục vụ cho cuộc sống nên cũng không cần phải cố gắng nữa - Nhiều HS chưa hiểu rõ được vai trò quan trọng của việc tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu. Tự học giúp HS có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân. - Nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng và phương pháp tự học. Đặc biệt do đặc thù của bộ môn, nhiều HS khi học Văn, vẫn thích GV dạy theo phương pháp cũ, phương pháp truyền thụ một chiều, GV cảm thụ hộ HS. * Nguyện vọng của HS.
  19. - Mong muốn GV có các phương pháp hướng dẫn HS tự học phong phú, đa dạng và có hiệu quả hơn. GV cần khuyến khích, động viên học sinh bằng các hình thức khác nhau để tạo hứng thú cho HS trong quá trình tự học. - Cơ sở vật chất và thiết bị học tập đầy đủ hơn, hiện đại hơn, học sinh được học ở trong lớp và ngoài lớp một cách thuận tiện, đảm bảo. - Nên có nhiều cơ hội việc làm sau khi HS đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng để HS có niềm say mê và hứng thú trong việc tự học, tự sáng tạo. Thông qua khảo sát GV và HS ở các trường THPT huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An cũng như tiến hành dự giờ thăm lớp ở các lớp 10C6, 11C8, 12C12 trường THPT Tân Kỳ, tôi thu nhận được một số kết quả như trên. Với kết quả này tôi thấy một số vấn đề cấp bách được đặt ra, đó là: - GV cần có những phương pháp hướng dẫn HS tự học như thế nào để có hiệu quả ? Cần làm gì để HS luôn có ý thức tự học, tự đọc, tự làm ở mọi nơi ? - Tại sao nhiều HS ở trường cũng như khi về nhà không tự giác trong việc tự học ? GV cần hướng dẫn cụ thể việc tự học của HS ra sao? - Ngoài XH, không có sự hướng dẫn của GV thì HS tự học như thế nào? Tất cả những vấn đề này tôi sẽ giải quyết ở phần tiếp sau đây: 3 . Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn ngữ văn THPT 3.1. Hướng dẫn HS tự học ở nhà Sau khi kết thúc bài học ở lớp, GV giành khoảng thời gian từ 1 đến 2 phút hướng dẫn HS tự học ở nhà. Nội dung hướng dẫn có liên quan đến bài vừa học và bài sẽ được học ở tiết tiếp theo. 3.1.1. Hướng dẫn HS tự học những nội dung kiến thức để chuẩn bị học bài mới. Trước khi học bài mới HS cần có thao tác chuẩn bị bài mới, việc chuẩn bị bài mới sẽ giúp HS đến lớp tiếp cận bài mới một cách có hiệu quả hơn. Với môn Ngữ văn, HS có thể tiến hành theo các bước sau: - Hướng dẫn cách tiếp cận bài học: Nếu tự học phần Tiếng việt hoặc Tập làm văn thì cần bám theo thứ tự các vấn đề trong SGK, nếu là văn bản VH thì GV nên định hướng cách tiếp cận VB cho HS, đó là xuất phát từ đặc trưng thể loại để tiếp cận VB. - Hướng dẫn HS soạn bài: + Hướng dẫn cụ thể, không chung chung: Khi soạn bài cần phải bám vào SGK, tìm hiểu kết quả cần đạt của bài học là gì? (phần này được SGK khái quát ở đầu bài học) đọc các nội dung và trả lời câu hỏi theo SGK, nếu là VB văn học thì trả lời câu hỏi theo hướng dẫn học bài. Những vấn đề chưa hiểu, không rõ cần ghi vào cuốn sổ tay để trao đổi thêm trong giờ học ở trên lớp. Các
  20. em nên tự trả lời câu hỏi theo khả năng tiếp cận riêng của mình. Việc tìm hiểu và khắc sâu vấn đề của bài học nên thực hiện sau khi đã học ở trường. + GV có thể thiết kế lại câu hỏi hướng dẫn học bài từ dễ đến khó, cho thêm câu hỏi, bài tập để kích thích, khơi gợi + Cộng điểm cho HS soạn bài tốt, nếu không chuẩn bị bài thì cần có những hình thức kỉ luật phù hợp với các lớp khác nhau, các đối tượng khác nhau. - Hướng dẫn cách tham khảo và sử dụng các tài liệu có liên quan đến bài học: + Hướng dẫn HS những địa chỉ cụ thể để tham khảo các tài liệu (Sách tham khảo, địa chỉ trên internet, …) Ngoài các bước trên, GV cần hướng dẫn HS chuẩn bị thêm một số nội dung học tập, những nội dung này phần lớn mất nhiều thời gian hoặc những nội dung cần phải khảo sát thực tế, những nội dung có khả năng phát huy được các năng lực cá nhân... Chuẩn bị các sản phẩm học tập, các đồ dùng học tập tự làm (nếu có) . Ví dụ: Dạy truyện cổ tích Tấm Cám: HS tóm tắt truyện bằng các hình thức như sân khấu hóa tác phẩm. Ví dụ: Dạy truyện Vợ nhặt của Kim Lân. GV yêu cầu HS tóm tắt tác phẩm bằng các hình thức khác nhau (có thể vẽ tranh, vẽ sơ đồ tư duy, sân khấu hóa…) Hay khi dạy trích đoạn: Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác. Phần tìm hiểu về quang cảnh phủ chúa, GV cần hướng dẫn để HS về nhà tự học, đến lớp chỉ mời một số em lên thuyết minh lại. HS có thể lựa chọn các hình thức tái hiện bức tranh quang cảnh phủ chúa khác nhau để phát huy được năng lực sáng tạo của từng HS trong lớp 3.1.2. Hướng dẫn HS tự học những nội dung đã hoàn thành xong ở lớp (học bài cũ về nhà) - Học bài cũ, đây là nội dung trọng tâm trong việc tự học. HS cần tự tạo cho mình thói quen biết tự học bài cũ sau khi đã học ở trường. Học bài cũ không có nghĩa là học thuộc lòng, mà học bài cũ với nhiều hình thức phong phú, sinh động. Thực tế, ngày nay nhiều HS, nhất là những HS học lực còn Yếu, TB thường bỏ qua bước này. Một số HS chỉ làm các bài tập thầy/ cô ra về nhà mang tính chất đối phó còn chưa thật đầu tư cho việc tự học ở nhà. Vậy làm thế nào để tất cả HS từ những HS có học lực từ Giỏi, Khá, TB, Yếu đều có ý thức tự học bài cũ về nhà. Sau đây tôi đưa ra các bước lần lượt thực hiện như sau: + GV thay cho việc hướng dẫn chung chung là về nhà các em xem lại bài đã học bằng việc sẽ cụ thể hóa nội dung HS cần thực hiện là gì: HS sẽ học gì? học ở đâu? hình thức làm như thế nào? thời gian phải hoàn thành? tùy vào nội dung mà GV có thể yêu cầu kết quả HS cần đạt được là gì? GV cần đa dạng hình thức chuẩn bị bài ở nhà, câu đố, đọc phối hợp kể lại bằng chữ, bằng sơ đồ, nhập vai;
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
333=>0